Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

Lịch sử Việt Nam

 Đóng [Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2012 18:27:46 | Chỉ xem của tác giả
Nhà Trần (1226 - 1400)



Bài vị của 14 vị Tiên Đế nhà Trần

Vương triều Trần tồn tại được 174 năm, gồm 12 đời vua (không kể Dương Nhật Lễ ở ngôi năm 1369).

Họ Trần quê gốc ở hương Tức Mặc (ngoại thành Nam Định), từ nhiều đời sang làm nghề chài lưới ở huyện Long Hưng (Thái Bình), trở thành những hào trưởng có thế lực về kinh tế, quân sự và chính trị. Xuất thân từ tầng lớp bình dân quen nghề sông nước, họ Trần có truyền thống ưa thực dụng phóng khoáng, ít bị những lễ nghĩa Nho giáo khắt khe ràng buộc. Dưới thời Trần, văn hóa Đại Việt đã tạo được thế cân bằng Nam Á - Đông Á, trong đó vẫn nghiêng về gam màu Nam Á bản địa, đậm tố chất dân tộc.

* Nền quân chủ quý tộc dòng họ:

Trong việc gây dựng vương triều Trần, người kiến trúc sự nổi bật của dòng họ này là Trần Thủ Độ. Ông là con người của hành động, thực dụng, có tính quyết đoán, ưa chuộng võ nghệ, ít bị ảnh hưởng của Nho giáo. Một mặt, Trần Thủ Độ là người có nhiều khả năng, thủ đoạn, thậm chí không ngần ngại thực hiện những âm mưu tàn bạo (trong việc bức tử Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo, dùng mưu tiêu diệt dòng họ Lý, buộc những người họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn...). Mặt khác, ông là người công minh tận tuỵ, phò vua giúp nước, không vì tình riêng (đối với những người thân như vợ, anh ruột) mà quên mất phép công. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, Trần Thủ Độ cũng là vị tướng có tinh thần quyết chiến cao với câu nói khảng khái và dũng cảm: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo".

Để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng lớp quý tộc tông thất nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Để đề phòng nạn ngoại thích, nhà Trần đã thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc. Nhiều nhà vua và vương hầu tôn thất nhà Trần đã lấy người trong họ hàng, đôi khi khá gần gũi (như Trần Thái Tông lấy chị dâu, Trần Thủ Độ lấy chị họ, Trần Quốc Tuấn lấy em họ). Mặt khác, các vua Trần cũng hết lòng thương yêu đùm bọc các vương hầu tôn thất, "xong buổi chầu cùng nhau ăn uống, có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau". Trần Thánh Tông thường căn dặn: "Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tông, người nối giữ cơ nghiệp tổ tông nên cùng anh em trong tông thất chung hưởng phú quý... Anh em là xương thịt rất thân, gặp lúc lo thì cùng lo, gặp lúc vui thì cũng vui...".

Để bảo đảm tính thận trọng và sự an toàn trong việc kế thừa ngôi vua, cũng như để cho các nhà vua trẻ có thời gian tập dượt điều hành việc nước, nhà Trần đã thực hiện chế độ Thái Thượng hoàng. Thường là khi trên dưới 40 tuổi, các vua Trần đã nhường ngôi cho con, lên làm Thái Thượng hoàng, tiếp tục nắm quyền chính trị cùng với vua con trong một thời gian nữa, trước khi lui về nghỉ ngơi.

* Tổ chức chính quyền và quan chế:

Về các đơn vị hành chính, năm 1242, nhà Trần đã đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Đó là các lộ Thiên Trường (Nam Định), Long Hưng (Thái Bình), Quốc Oai (Hà Tây), Bắc Giang (Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Đông (Quảng Ninh), Trường Yên (Ninh Bình), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng (Hải Dương), Khoái (Hưng Yên), Thanh Hóa (Thanh Hoá), Hoàng Giang (Hà Nam), Lạng Giang (Lạng Sơn). Sau đó, còn có các phủ như phủ Thiên Trường (do hương Tức Mặc chuyển thành năm 1262), Tân Bình, Nghệ An. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã, miền núi còn có sách, động. Năm 1307, nhà Trần đổi 2 châu Ô, Lý thu nạp của Champa thành châu Thuận và châu Hoá.

Về quan chế, ở triều đình trung ương có các chức Tam thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không), Tướng quốc phần nhiều là hư hàm, mô phỏng nhà Tống. Các chức quan có trách nhiệm cụ thể trong triều là hành khiển, giúp việc sau có các thượng thư, thị lang. Về ngạch võ, có các chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu.

Bên cạnh các chức quan quản lý, đời Trần ngày càng phát triển các chức quan chuyên môn như Bí thư sảnh (phụ trách văn thư, thực lực), Quốc Tử Giám (giáo dục), các chức quan kinh tế như Chuyển vận sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ, các chức quan văn hóa như Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Thái y viện, Thái chúc ty (phụ trách việc cầu đảo, lễ nhạc).

Ở cấp địa phương, có các chức an phủ chánh phó sứ, tri huyện, chuyển vận sứ, tuần sát, lệnh úy, chủ bạ, trông coi các việc hộ và hình ở địa phương. Chức quan cai trị kinh thành Thăng Long được tuyển chọn kỹ lưỡng với tiêu chuẩn cao, chức danh lần lượt được gọi là Bình bạc ty, Đại an phủ sứ rồi Kinh sư đại doãn. Nguyễn Trung Ngạn là Kinh sư đại doãn nổi tiếng thời Trần Anh Tông.

Ở cấp cơ sở, nhà Trần đặt các chức đại, tiểu tư xã... hoặc có người kiêm 2, 3, 4 xã cùng xã chính. Xã sử, xã giám, tất cả gọi là xã quan. Có khả năng đây là một hệ thống chính quyền cơ sở do nhân dân tự đề cử lên, được chính quyền nhà nước duyệt. Tầng lớp bô lão trong các làng xã giữ một vai trò quan trọng, thể hiện trong tinh thần hội nghị Diên Hồng.

Quan lại đời Trần được tuyển dụng qua các phương thức: nhiệm tử (tập ấm), tuyển cử (giới thiệu và bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo khóa) các quan theo định kỳ. Vai trò của tầng lớp nho sĩ quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần lúc đầu là khiêm tốn, càng ngày càng gia tăng trong những thời kỳ sau. Tuy nhiên, nhà Trần chưa câu nệ về tiêu chuẩn khoa bảng, mà căn cứ chủ yếu vào thực tài, tinh thần đó đã được người đời sau khen ngợi.

* Tổ chức quân đội:

Quân đội nhà Trần là một quân đội mạnh, thiện chiến, được huấn luyện tốt và được thử thách qua các cuộc kháng chiến.

Có các loại quân: cấm quân bảo vệ kinh thành, quân địa phương các lộ và quân của các quý tộc gọi là vương hầu gia đồng, gia binh. Quân Tứ Sương coi giữ 4 cửa thành, quân Thiên tử bảo vệ nhà vua được coi là tin cậy nhất, tuyển từ các lộ Thiên Trường và Long Hưng là nơi quê hương của nhà Trần. Trong kháng chiến chống Nguyên, Trần Quốc Toản đã đứng ra chỉ huy một đạo gia binh đông hàng nghìn người.

Quân nhà Trần được phiên chế thành quân và đô (mỗi quân 2400 người), đông tới hàng chục vạn. Trong cuộc hội quân của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (1284), số quân lên tới 20 vạn người. Nhưng trong thời bình, số quân thường trực giảm nhiều qua chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng.

Nhà Trần tuyển quân từ các làng xã, kén chọn các người có sức khỏe. Quân lính được trang bị các loại chiến bào, áo da, sử dụng các loại pháo (tức máy bắn đá) và súng phun lửa gọi là "hỏa khí". Có nhiều loại thuyền chiến các cỡ, loại thuyền phổ biến có 30 mái chèo, có thuyền tới 100 tay chèo (gọi là các trao nhi). Quân nhà Trần rất thiện chiến trên sông nước, nhiều người giỏi tài bơi lặn (điển hình là Yết Kiêu).

Nhà Trần đã cho lập Giảng Võ đường ở phía tây thành Thăng Long để huấn luyện quân sĩ. Bến Đông Bộ Đầu bên sông Hồng là nơi hội quân trong những buổi diễn tập lớn. Các binh thư dùng làm tài liệu huấn luyện tướng sĩ có các cuốn Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Quốc Tuấn. Ông đã từng chủ trương: "Quân lính cần tinh nhuệ, không cần nhiều". Tinh thần quyết tâm diệt giặc đã được thể hiện trong dòng chữ "Sát Thát" xăm lên cánh tay của các tướng sĩ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.

* Luật pháp:

Cũng giống như nhà Lý, dưới thời Trần, đã tồn tại song song hai hình thức pháp luật: luật thành văn do Nhà nước ban hành và luật tục trong các làng xã. Theo tinh thần "vương độ khoan mãnh" (đức độ nhà vua vừa khoan dung vừa nghiêm khắc), luật pháp nhà Trần vừa hàm chứa những quan điểm thân dân vừa tỏ ra hà khắc đối với một số trọng tội.

Năm 1230, Thái Tông đã cho xét các luật lệ đời nước, sửa đổi san định thể lệ cho làm ra sách Quốc triều Thông chế gồm 20 quyển. Năm 1341, triều đình đã cử Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo đính bộ Hình thư để ban hành.

Cơ quan chuyên trách việc kiện tụng lúc đầu là Đô Vệ phủ, sau đổi thành Tam Ty viện. Thẩm hình viện phối hợp tham gia các vụ xét xử, nắm giữ chức năng kiểm sát. Các ngạch quan xử án gọi là kiểm pháp quan, được lựa chọn trong số những quan chức có uy tín về đức độ, công minh và thanh liêm. Trên danh nghĩa, nhà vua là người có quyền quyết định tối hậu trong việc xét duyệt các vụ trọng án.

Pháp luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Tội mưu phản triều đình bị xếp vào hàng đại nghịch và bị trừng trị rất nặng "phải giết hết thân tộc". Đẳng cấp quý tộc quan liêu được pháp luật ưu đãi, có quyền dùng tiền chuộc tội. Gia nô và nô tì không được quyền tố cáo chủ. Luật pháp cũng quy định tỉ mỉ sự phân biệt về quy chế mũ áo và đồ dùng giữa quan liêu quý tộc và bình dân, cũng như giữa các phẩm vật trong đẳng cáp quan liêu. Trong gia đình, cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được kiện cáo nhau.

Pháp luật đời Trần cũng đã bảo vệ quyền tư hữu tài sản của người dân. Có những điều lệnh quy định về cách thức cầm cố, mua bán ruộng đất, làm văn tự, viết chúc thư, người làm chứng. Tội trộm cắp bị trừng trị rất nặng, thích chữ vào mặt, chặt ngón chân, lần thứ ba sẽ bị giết. Những đồ vật lấy trộm một phần sẽ phải đền 9 phần, nếu không đền được bắt vợ con sung làm nô tì.

Trong các làng xã, dân chúng vẫn tuân theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò đàn xếp và xét xử. Sứ giả Trung Quốc Trần Phu (Trần Cương Trung) đến Đại Việt thời Trần, có nhận xét là lúc này "tục dân vẫn còn nông nổi, chưa biết đến lễ nhạc Trung Hoa".

* Chính sách kinh tế của Nhà nước phong kiến thời Trần:

Nhà nước thời Trần đã thi hành chính sách trọng nông, khuyến khích nông nghiệp. Cùng với chính sách "ngụ binh ư nông" kết hợp kinh tế với quốc phòng, triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ. Năm 1248, cho đắp đê dọc theo Nhị Hà từ đầu nguồn đến bờ biển, đoạn chảy qua kinh thành Thăng Long gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Vạc). Hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ. Các vua Trần cũng thường xuyên đi thăm việc đắp đê, sửa đê. Hành khiển Trần Khắc Chung thì cho rằng: "Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính không gì lớn hơn việc ấy".

Để bảo đảm nguồn thu hoạch của Nhà nước, các nông dân làng xã đã phải chịu những nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Tô chủ yếu đánh vào ruộng công tính bằng thóc, theo diện tích ruộng đất, hàm ý cày ruộng của nhà vua. Thuế chủ yếu đánh vào ruộng tư, tính bằng tiền theo đầu người, hàm ý đó là nghĩa vụ của người có ruộng. Năm 1378, nhà nước bắt đầu đánh thuế thân, đồng loạt thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền.

Nhà Trần đã có những biện pháp khuyến khích thủ công nghiệp và thương nghiệp, chưa áp dụng chính sách ức thương ngặt nghèo như các triều Lê, Nguyễn sau này. Chợ có ở khắp nơi, họp đều kỳ. Kinh thành Thăng Long 61 phường buôn bán tấp nập, nhộn nhịp cả về ban đêm. Vân Đồn vẫn là địa điểm giao thương quốc tế, trao đổi hàng hóa giữa Đại Việt và các nước khác ở Đông Nam Á và Đông Á.

Là vương triều quân chủ quý tộc, nhà Trần đã phát triển bộ phận kinh tế quý tộc quan liêu, với chế độ thái ấp điền trang, sử dụng lao động của tầng lớp nông nô, nô tỳ.

Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất nhà nước, nguồn tô thuế) với các đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công).

* Thái ấp và điền trang:

Thái ấp, điền trang đều là những ruộng đất của tầng lớp quý tộc quan liêu đời Trần, nhưng tính chất đặc điểm khác nhau.

Thái ấp (ấp thang mộc, đất tắm gội) là ruộng đất do Nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Quy mô một thái ấp tương đối nhỏ, khoảng 1, 2 xã (trừ trường hợp thái ấp rất rộng lớn của Nguyễn Khoái ở lộ Khoái). Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó; như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng (còn gọi là thang mộc binh).

Thời Trần, ta thấy có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Nguyễn Khoái (Hưng Yên), Trần Quang Khải (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Trong chế độ quân chủ tập trung thời Trần, quyền chiếm dụng ruộng đất có điều kiện và hạn chế, mang tính thụ động của các quý tộc đối với các thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương như các thái ấp lãnh địa ở Tây Âu thời trung đại. Có người nói đó là những "thái ấp giả".

Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu lớn phong kiến, tư nhân.

Năm 1266, triều đình xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng hoang lập thành điền trang, sau đó lại cho phép các gia nô trong điền trang kết hôn với nhau, lập thành gia đình. Trong khoảng 1 thế kỷ, kinh tế điền trang quý tộc đã phát triển mạnh, chủ yếu ở các bãi bồi ven sông. Chế độ điền trang hàm chứa những yếu tố và xu thế cát cứ.

Các điền trang được nhắc nhiều đến là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Khắc Hãn (Từ Liêm, Hà Nội), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An). Trước thế lực đó, triều đình cũng đã tìm cách can thiệp, hạn chế như thi hành phép xắn chân bãi bồi, kiểm kê tài sản nhưng sau phải hủy bỏ. Chỉ đến cuối đời Trần, kinh tế điền trang mới lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các nông nô, nô tì trong các điền trang đã nổi lên đấu tranh để trở thành các nông dân tự do. Điền trang có xu thế công xã hóa. Trước tình hình đó, năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Điền trang bị suy sụp từ đó.

* Kinh tế làng xã:

Thời Trần, bên cạnh bộ phân kinh tế quý tộc - quan liêu, bộ phận kinh tế làng xã đã giữ một vai trò quan trọng. Đó là nền kinh tế của những người sản xuất nhỏ, kết hợp với buôn bán nhỏ trong làng xã. Ở đây, người nông dân kiêm thợ thủ công và thương nhân. Nhà nước ít can thiệp vào đời sống kinh tế tự trị của làng xã, trừ các nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Ruộng công chiếm ưu thế, cùng tồn tại với ruộng tư, loại ruộng lúc này còn chiếm một tỷ lệ thấp nhưng có xu thế phát triển.

Những người cày ruộng công trong làng xã hằng năm phải nộp thóc tô, với ý nghĩa cày ruộng của nhà vua. Hằng năm, tô ruộng mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc, mức tô mà các sách sử sau này đánh giá là "quá nặng" (Việt sử thông giám cương mục).

Trong làng xã, một bộ phận là chủ sở hữu ruộng tư, có lẽ đây là những đối tượng chủ yếu phải nộp thuế ruộng bằng tiền. Năm 1242, Nhà nước quy định "có 1 - 2 mẫu ruộng thì nộp liền 1 quan, có 3 - 4 mẫu thì nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan".

Đã có hiện tượng cầm cố, mua bán các loại ruộng của làng xã. Năm 1237, có quy định về việc viết chúc thư văn khế. Năm 1248, nhà nước quy định việc đền bù ruộng tư của dân nếu bị đê lấn chiếm. Đặc biệt năm 1254, triều đình cho phép bán ruộng công làng xã làm ruộng tư, mỗi diện (mẫu) 5 quan. Có các hình thức bán đợ (có thể chuộc lại trong một thời gian nhất định) và bán đứt (không thể chuộc lại vì đã quá thời hạn, hình thức này thường xảy ra trong những năm đói kém). Bên cạnh các nông dân tư hữu, tầng lớp địa chủ và tá điền bắt đầu xuất hiện trong làng xã.

Nền kinh tế hàng hoá làng xã cũng phát triển dưới thời Trần. Các ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống như dệt, gốm, giấy, đúc đồng đã hoạt động trong làng xã cũng như ở ven kinh thành Thăng Long. Mạng lưới chợ họp đều kỳ ở các làng xã cũng như ở đô thị. Việc buôn bán mở rộng ra thị trường vùng, xuất hiện một số thương nhân giàu có. Những nhà giàu có ở Đình Bảng được mời vào đánh bạc với vua. Ngô Dẫn là một lái buôn ở Vân Đồn, vì có ngọc rết do cha để lại đã trở thành giàu có, được vua Minh Tông gả công chúa Nguyệt Sơn cho.

* Kết cấu xã hội thời Trần:

Xã hội Đại Việt thời Trần là một xã hội đã phân tầng đẳng cấp trên quy mô quốc gia với 2 đẳng cấp chính: vua quan và thứ dân (bách tính), dưới thứ dân là tầng lớp nô tỳ. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, giữa hai đẳng cấp này vẫn có những mối quan hệ gần gũi. Các cộng đồng làng xã còn tương đối thuần nhất, lúc này sự phân loại các hạng dân ở đây chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng nam, đại hoàng nam, lão, long lão). Tục trọng lão, trọng xỉ (thiên tước) còn rất đậm trong làng xã.

Nhà vua đứng đầu Nhà nước và là biểu tượng của quốc gia, trên danh nghĩa, có uy quyền tối thượng và toàn năng. Khi vua còn trẻ, quyền hành thực tế nằm trong tay Thái Thượng Hoàng. Tuy nhiên, khoáng cách giữa danh và thực ở đây còn khá lớn. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác ái của đạo Phật. Các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng, xem đấu vật, đua thuyền hoặc đi chơi phố.

Quý tộc quan liêu là chỗ dựa của nhà vua và triều đình trong các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên cũng như trong công cuộc trị nước. Thời đầu Trần, chủ yếu tầng lớp quý tộc tông thất nắm đặc quyền trong những chức vụ cao cấp. Một số ít quan liêu không phải là tông thất đã gia nhập tầng lớp quý tộc bằng cách được ban quốc tính (lấy họ vua) hoặc được nhận làm nghĩa tử (con nuôi vua).

Dần dần, tầng lớp Nho sĩ quan liêu phi quý tộc càng có nhiều cơ hội tham chính trong bộ máy nhà nước triều Trần. Trường hợp điển hình thường được nhắc tới là Đoàn Như Hài, từ một thư sinh có công giúp vua Trần Anh Tông đã được thăng đến chức quan Hành khiển đầu triều. Nho sĩ đời Trần có nhiều người tài cao đức trọng, danh thực xứng hợp như các tấm gương sáng Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An.

Tăng ni, tăng quan, thời Trần đã giữ một vị trí quan trọng trong xã hội (như các sư Pháp Loa Huyền Quang). Nhà chùa có ruộng đất riêng và nô tì riêng. Thời cuối Trần, uy thế chính tả của các thiền tăng, đạo sĩ ngày càng giảm sút. Nho sĩ Trương Hán Siêu đã phê phán gay gắt giới tăng ni. Năm 1396, Nhà nước đã có lệnh thải bớt tăng đạo. Sư sãi đã lui về ẩn náu trong các chùa chiền làng xã.

Đẳng cấp thứ dân bao gồm chủ yếu bộ phận nông dân tự do - tự canh trong các làng xã, đa số cày ruộng công và một số ít có ruộng tư, có nghĩa vụ nộp tô thuế, lao dịch và binh dịch cho Nhà nước. Họ không giống như nông nô trong các lãnh địa Tây Âu trung đại, mà là thần dân của nhà vua, triều đình, đó là những con người nửa tự do. Trong làng xã, có thể đã có một số ít tá điền.

Nô tì (nô: nam, tì: nữ) tuy không hẳn là một đẳng cấp riêng biệt, nhưng là một tầng lớp xã hội ở thời Trần khá đông đảo. Nô tì có nhiều nguồn gốc có thể là nông dân bị bần cùng hóa (năm 1290 đói kém, một người bán làm nô giá 1 quan tiền, tương đương 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ (như Hà Ô Lôi, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc các phạm nhân mắc tội đồ, tù binh (Champa và Nguyên), người nước ngoài bị bắt cóc.

Có nhiều loại nô: quan nô (của Nhà nước) làm việc trong các đồn điền, trại lính; gia nô (của các nhà quyền quý) làm việc trong gia đình và điền trang; tam bảo nô phục vụ trong các chùa chiền. Nô tì có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, nhưng một số sau đó đã trở thành những người tự do có địa vị trong xã hội. Tam bảo nô Nguyễn Chế sau trở nên giàu có, lấy con gái Trương Hán Siêu. Các tì tướng Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão cũng đều xuất thân từ gia nô, gia thần.

* Khủng hoảng cuối Trần:

Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra, nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344 - 1360.

Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, nhà vua (Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.

Bên ngoài, Champa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (1390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2012 19:53:08 | Chỉ xem của tác giả
Triều Trần (1226 - 1400)

Thế phả nhà Trần

1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)

Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần Kính vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.

Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.

Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn - 1232, vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc huý và miếu huý.

Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn. Năm Đinh Dậu - 1237, Trần Thái Tông lấy Chiêu Thánh hoàng hậu đã 12 năm mà chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên đã có mang 3 tháng làm hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái làm loạn. Còn vua Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử, Quảng Ninh để phản đối.

Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".

Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá ở đâu là triều đình ở đó". Rồi sai người xây dựng cung điện. Bấy giờ nhà vua mới chịu về kinh đô.

Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi thuyền đến chỗ vua xin hàng, anh em nhìn nhau mà khóc.

Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà vua phải lấy thân mình che đỡ cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?"

Vua nói giải hoà, rồi bảo Trần Thủ Độ rút quân về.

Nhà vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là Đông Triều, Yên Hưng, Quảng Ninh) là đất thang mộc và phong cho anh là Yên Sinh Vương.

Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Quốc Khang, thái tử Hoảng, Quang Khải, Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Nhật Duật đều được phong vương, và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.

Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Hoảng, đây là một cách tập sự cho con quen với việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước.

Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu - 1277, Thái Thượng hoàng mất, thọ 60 tuổi, trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm.

2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)

Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.

Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký".

Về đối ngoại, lúc đó nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống, đang chuẩn bị điều kiện để thôn tính Đại Việt, chúng sai sứ sang phong Vương cho vua Trần Thánh Tông và bắt nước ta cứ 3 năm một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3 người cùng với những sản vật: sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu báu và những vật lạ khác, chúng còn đòi đặt quan Chưởng ấp giám sát các châu quận Đại Việt để chuẩn bị xâm lược nước ta.

Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo những rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của Tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Vua Trần Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần - 1290 Thái Thượng hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi.

3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279 - 1293)

Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 Mậu Ngọ - 1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo.

Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.

Sau 14 năm ở ngôi vua, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, làm Thái Thượng hoàng rồi sau đi tu, trở thành Thuỷ tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại am Ngoạ Vân núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) thọ 51 tuổi.

4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)

Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh Hoàng thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.

Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần.

Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần - 1314 nhường ngôi cho thái tử Mạnh. Mất năm Canh Thân - 1320, trị vì được 21 năm, thọ 54 tuổi.

5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)

Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông. Mẹ là Chiêu Hiền Hoàng thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý - 1300.

Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.

Năm ất Tỵ - 1329 nhường ngôi cho thái tử Vượng.

Ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu - 1357, Minh Tông mất, thọ 58 tuổi.

6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)

Tên huý là Vượng, con bà Minh Từ Hoàng thái phi Lê Thị, sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi - 1319. Năm 1329 lên ngôi vua mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.

Năm Tân Tỵ - 1341 Trần Hiến Tông mất, thọ 23 tuổi.

7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)

Tên huý là Trần Hạo, con thứ 10 của Minh Tông, do Hiến Từ hoàng hậu sinh ra. Vua rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, cho nên đời Thiệu Phong chính sự tốt đẹp.

Năm 1358 đổi niên hiệu là Đại Trị. Thượng hoàng Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng đã mất, bọn gian thần kéo bè kéo đảng, Dụ Tông thì rượu chè chơi bời quá độ khiến cho triều đình đổ nát, giặc giã nổi lên như ong, nhân dân cực khổ trăm bề. Chu Văn An dâng "Thất trảm sớ" xin chém đầu 7 tên gian thần, nhưng vua không nghe, ông liền treo ấn từ quan về dạy học.

Năm Kỷ Dậu - 1369 vua Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.

Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát đã lấy kép hát là Dương Khương có thai rồi mới bỏ chồng mà lấy Cung Túc Vương sinh ra Nhật Lễ.

Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần. Hắn giết bà Hoàng thái hậu và Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương hoảng sợ bỏ trốn lên Đà Giang.

Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông.

8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)

Tên huý là Trần Phủ, con thứ ba của Minh Tông, mẹ đẻ là thứ phi họ Lê, ở ngôi được 2 năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi.

Vua dẹp yên được nạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, song cung kính kiệm ước thì có thừa mà cương nghị, quyết đoán lại không đủ. Bên ngoài, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân vượt biển vào cửa Đại An tiến đánh kinh đô Thăng Long, quân Trần chống không nổi. Vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Quân Chiêm Thành vào đốt sạch cung đình, bắt đàn bà con gái, lấy hết tiền bạc châu báu rồi rút quân về. Ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý - 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng.

9. Trần Duệ Tông (1372 - 1377)

Tên huý là Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ hoàng thái phi. Sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu - 1337. Khi Nghệ Tông lánh nạn Trấn Kính chiêu mộ quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về, nên được nhường ngôi, làm vua được 5 năm, thọ 41 tuổi. Duệ Tông ương gàn, cố chấp, không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên mang hoạ vào thân.

Tháng 12 năm 1376, nghe lời tấu man của Đỗ Tử Bình (trấn thủ Hoá Châu), nhà vua thân chinh đem 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, tháng Giêng năm 1377 đại quân tiến đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Chế Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn (Bình Định) rồi cho Mục Bà Na đến trá hàng nói là Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn. Ngày 24 tháng Giêng, vua thúc quân tiến vào thành. Đại tướng Đỗ Lễ can mãi vua không nghe cứ tiến quân đến chân thành Đồ Bàn thì quân Chiêm Thành ở bốn phía đổ ra đánh, quân ta thua to. Vua chết trong đám loạn quân.

10. Trần Phế Đế (1377 - 1388)

Tên huý là Trần Hiệu, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị, sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu - 1361. Khi Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Nghệ Tông lập Hiệu lên ngôi vua.

Vua u mê, nhu nhược không làm được việc gì, uy quyền ngày càng về tay Hồ Quý Ly.

Năm Mậu Ngọ - 1378, quân Chiêm Thành lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng vào cướp phá kinh đô Thăng Long một lần nữa.

Ngày 6 tháng 12 năm 1388, thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuống làm Linh đức Đại vương, sau đó bắt thắt cổ chết, và lập con út của mình lên làm vua là Trần Thuận Tông.

11. Trần Thuận Tông (1388 - 1398)

Tên huý là Trần Ngung, là con út của Nghệ Tông, ở ngôi được 10 năm, xuất gia hơn 1 năm, thì bị Hồ Quý Ly giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, còn việc nước thì ở trong tay bố vợ là Hồ Quý Ly.

Năm Kỷ Tỵ - 1389, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh Đại Việt, Hồ Quý Ly đưa quân cự chiến nhưng thua trận phải rút chạy. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem quân đi chặn giặc.

Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân ở Hải Triều (Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên) nhân có tên tiểu thần của Chế Bồng Nga là Ba Lậu Kê bị Chế Bồng Nga trách phạt, chạy sang hàng quân ta cho Trần Khát Chân hay dấu hiệu đặc biệt của thuyền chở Chế Bồng Nga. Trần Khát Chân đã ra lệnh các cây súng (hoả súng) nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Chế Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền. Chế Bồng Nga trúng đạn chết tại trận. Trần Khát Chân chém đầu Chế Bồng Nga đem về triều dâng vua và Thượng hoàng.

Tướng Chiêm Thành là La Ngai đem tàn quân chạy về nước chiếm ngôi vua. Hai con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Nô sợ bị giết đã chạy sang hàng Đại Việt, được vua Trần trọng dụng.

Ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất - 1394, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly lên làm phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền bính để dễ đường cướp ngôi vua. Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hoá, xây thành Tây Đô ( ở động An Tôn, Vĩnh Lộc).

Tháng 11 năm 1397 Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô.

Tháng 3 năm 1398 ép Thuận Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Án để đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (Thanh Hoá).

12. Trần Thiếu Đế (1398 - 1400)

Tên huý là Trần Án, mười ba tuổi lên kế nghiệp tức là Thiếu Đế.

Hồ Quý Ly xưng là Khâm Đức Hưng liệt Đại Vương, rồi sai người giết con rể là Thuận Tông.

Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn - 1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi.

Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là 12 đời vua, trị vì được 175 năm.

Dân tộc ta rất đáng tự hào dưới triều Trần, có những vị vua anh hùng như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ, một đế quốc rộng mông mênh từ bờ Thái Bình Dương đến Hắc Hải.

Song cơ nghiệp nhà Trần suy vi từ Dụ Tông, Nghệ Tông.

Dụ Tông thì hoang chơi vô độ, bỏ bê chính sự, làm loạn kỷ cương phép nước, làm cho dân nghèo, nước yếu.

Nghệ Tông thì nhu nhược không biết dùng hiền thần mà chỉ nghe bọn nịnh thần, làm cho cơ nghiệp nhà Trần về tay kẻ khác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2012 21:43:07 | Chỉ xem của tác giả
Nhà Hồ (1400 - 1407)

Hồ Quý Ly và vương triều Hồ (1400 - 1407)

* Khủng hoảng cuối Trần:


Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra, nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344 - 1360.

Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, nhà vua (Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.

Bên ngoài, Cham-pa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (l390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.

* Hồ Quý Ly chuyên quyền, lật đổ nhà Trần. Vương triều Hồ hình thành:

Hồ Quý Ly quê gốc Nghệ An, tổ 4 đời dời ra Thanh Hóa, đổi theo họ người cha nuôi họ Lê (khi lên ngôi, lấy lại họ Hồ). Hồ Quý Ly có quan hệ họ ngoại khăng khít với các vua Trần, bản thân ông là con rể vua Trần Minh Tông.

Từng bước, Hồ Quý Ly đã tiến lên nắm giữ những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự như Khu mật sứ, Thống chế, Đồng bình chương sự. Mặt khác, ông còn tìm cách đưa họ hàng và tay chân thân tín vào nắm giữ các trọng trách khác.

Củng cố được thế lực, Hồ Quý Ly tiến hành các âm mưu phế lập và đàn áp ông tìm cách mưu hại các vua Trần (Đế Nghiễn, Thuận Tông), sát hại các quý tộc tông thất và quan liêu triều Trần. Trong hội thề Đôn Sơn (1399), 370 quý tộc quan liêu, đứng đầu là Trần Khát Chân, đã mưu giết Quý Ly. Việc không thành, tất cả đều bị giết hại.

Năm 1400, Quý Ly ép Thiếu Đế phải nhường ngôi cho mình, lập nên triều Hồ, lấy niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu. Sau 10 tháng, nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, lên làm Thái Thượng hoàng. Năm 1402, ông đem quân đi đánh Cham-pa, chiếm đất Chiêm Động và Cổ Lũy.

Năm 1407, lấy cớ phù Trần diệt Hồ, quân Minh do Trương Phụ chỉ huy, đã tiến hành xâm lược nước ta. Nhà Hồ cự địch ở thành Đa Bang (Hà Tây) nhưng thất bại. Cha con Hồ Quý Ly chạy đến vùng Hà Tĩnh, thì bị bắt, đưa về Trung Quốc. Triều Hồ (1400 - 1407) sụp đổ.

* Những biên pháp cải cách của Hồ Quý Ly:

Trước và sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã tiến hành một loạt các biện pháp cải cách về nhiều mặt, thay đổi chính sách cũ, đề ra chính sách mới. Những biến pháp đó nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội Đại Việt, thủ tiêu những yếu tố cát cứ của quý tộc nhà Trần, xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập trung vững mạnh.

Về quân sự - chính trị Hồ Quý Ly tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội, thải bớt người yếu, bổ sung những người khỏe mạnh, kể cả các sư tăng, tăng cường quân số và các lực lượng quân sự địa phương, cho xây dựng một kinh thành mới bằng đá kiên cố ở An Tôn (Vinh Lộc, Thanh Hóa) gọi là Tây Đô (phân biệt với Thăng Long, được đổi thành Đông Đô) thường gọi là Thành nhà Hồ. Cuối năm 1397, ép vua Trần dời về kinh đô mới. Nhà Hồ cũng chú ý cải tiến kỹ thuật quân sự. Hồ Nguyên Trừng (con cả Hồ Quý Ly) đã chế tạo ra những khí tài mới: súng lớn thần cơ, thuyền chiến Cổ Lâu đi biển. Tuy nhiên, tinh thần quân sĩ vẫn không được nâng cao. Chính Hồ Nguyên Trừng đã lo lắng về một đội quân "trăm vạn quân, trăm hạn lòng".

Về tài chính - kinh tế, biện pháp nổi bật là việc ban hành tiền giấy, gọi là "Thông bảo hội sao" năm 1396. Tiền giấy có nhiều loại, vẽ hình khác nhau: loại 10 đồng (vẽ hình rau tảo), 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan (vẽ hình rồng). Nhà nước ra lệnh cho dân chúng không được tiêu tiền đồng, phải đổi ra tiền giấy (tỷ giá 1 quan tiền đồng: 1 quan 2 tiền giấy), cấm làm tiền giả.

Năm 1397, Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền. Theo đó, trừ đại vương và trưởng công chúa (số này rất ít) còn tất cả mọi người, từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa: 10 mẫu), cho phép lấy ruộng tư chuộc tội. Nhà nước tiến hành đo đạc lại ruộng đất, diện tích thừa sung công. Năm 1402, Hồ Hán Thương cải cách thuế đinh nam, không đánh đồng loạt mà theo lũy tiến, người ít ruộng mức thuế nhẹ đi, không có ruộng và hạng cô quả không thu thuế.

Phép hạn điền đã đánh mạnh vào thế lực của tầng lớp quý tộc điền trang và địa chủ tư hữu, tăng nguồn thu nhập sưu thuế cho nhà nước. Cùng với chính sách thuế, phép hạn điền phần nào có lợi cho những người nghèo không ruộng, mặt khác, chặn đứng xu thế phát triển tự nhiên của ruộng đất tư hữu.

Năm 1401, nhà Hồ ban hành phép hạn nô, các quý tộc bị hạn chế số nô tì, số thừa ra (những nô tì không có chúc thư 3 đời) bị sung công, bồi thường cho chủ 5 quan một người. Các loại gia nô phải thích dấu hiệu vào trán. Phép hạn nô đã chuyển một số lớn gia nô thành quan nô (nô tì nhà nước, họ có thay đổi về thân phận, nhưng vẫn không được giải phóng). Cùng với phép hạn điền, phép hạn nô về cơ bản đã làm suy sụp tầng lớp quý tộc cũ nhà Trần và nền kinh tế điền trang, tăng cường thế lực kinh tế của Nhà nước trung ương.

Về văn hóa giáo dục, Hồ Quý Ly đã chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo. Nhìn chung, Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo, Đạo giáo, đề cao Nho giáo, nhưng là thứ Nho giáo thực dụng, chống giáo điều, kết hợp với tinh thần Pháp gia. Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi, bắt phải hoàn tục, tổ chức sát hạch kinh giáo. Quý Ly soạn sách Minh đạo bàn về Nho giáo, nghi ngờ một số chỗ của sách Luận ngữ của Khổng Tử, phê phán thói giáo điều của các nhà Nho Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hiệu là "trộm Nho", "cóp nhặt văn chương". Hồ Quý Ly đã đề cao chữ Nôm mang tính dân tộc, dịch thiên Vô dật trong Kinh thư ra chữ Nôm, soạn sách Thi nghĩa (giải thích Kinh thi) bằng chữ Nôm, làm thơ Nôm.

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc cải cách, nâng cao tính hiệu quả và thực tiễn của giáo dục, thi cử. Mở rộng hệ thống giáo dục ở địa phương, đặt các học quan, cấp học điền. Ông cũng là người đầu tiên trong lịch sử đặt ra cấp thi Hương (từ 1396). Ngay sau khi lên ngôi, ông mở khoa thi Hội (Thái học sinh) lấy đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi. Quy chế và nội dung khoa cử cũng được cải tổ. Ấn định phép thi 4 trường, bỏ ám tả cổ văn thay vào kinh nghĩa. Năm 1404, Hồ Quý Ly lại đặt thêm kỳ thi viết chữ và thi toán.

Hồ Quý Ly là một con người hành động, có tầm nhìn, năng lực và sự quyết đoán. Đề ra những biến pháp cải cách và lật đổ triều Trần, ông muốn giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội Đại Việt cuối Trần, tìm ra lối thoát, xây dựng một Nhà nước chuyên chế tập quyền vững mạnh có xu hướng Pháp gia. Những cải cách đó có nhiều điểm tích cực, tiến bộ, mang tính dân tộc, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục.

Tuy nhiên, Hồ Quý Ly cũng là một con người có nhiều thủ đoạn độc đoán, mất lòng dân, chủ quan duy ý chí. Mặt khác, nhiều cải cách bộc lộ những hạn chế, không triệt để. Ông đã bị chống đối từ nhiều phía, dân chúng không ủng hộ. Thừa cơ nhà Minh đe doạ và tiến hành xâm lược, nhà Hồ mau chóng sụp đổ.

* Thế phả nhà Hồ:

1. Hồ Quý Ly (Thánh Nguyên, 1400 - 1401)

Hồ Quý Ly tự là Thánh Nguyên, cháu 16 đời của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, vốn gốc thuộc tộc Việt ở Chiết Giang, phương nam Trung Quốc, đời Hậu Hán (thời Ngũ Quý) sang làm Thái thú Diễn Châu, sau định cư ở hương Bào Đột (Nghĩa Đàn, Nghệ An).

Hồ Quý Ly là nhân vật thông minh lỗi lạc, ông đã đề ra nhiều cải cách táo bạo. Ông ra sách Minh Đạo để phê phán hệ tư tưởng Tống Nho, phục vụ cho những cải cách mới như hạn điền, hạn nô, sa thải tăng lữ để hạn chế phong kiến quý tộc, đồng thời tăng thêm lực lượng lao động xã hội góp phần giải phóng sức sản xuất, sức lao động.

Nhà Hồ cho đo đạc lại ruộng đất, điều tra dân số để nắm chắc tài sản và sức lao động toàn xã hội, phát hành tiền giấy, giải quyết khó khăn về tài chính quốc gia và thuận tiện cho việc lưu thông hàng hoá.

Cải cách chế độ thi cử, mở mang việc giáo dục, để đào tạo nhân tài, lập Quảng tế thự để chữa bệnh cho nhân dân đều là những cải cách tiến bộ.

Nhà Hồ định ra hình luật để củng cố, tăng cường bộ máy và quyền lực của triều đình trung ương, quan tâm đến giao thông thuỷ lợi, đào sông, đắp đường thiên lý, đặt phố xá, đặt trạm công văn.

Về quân sự thì tăng cường quân đội thường trực, xây dựng các tuyến phòng thủ, lập xưởng đúc binh khí kỹ thuật để chống giặc phương Bắc.

Các cải cách của Hồ Quý Ly có tính chất toàn diện, có những cải cách đi trước thời đại, giá trị thực tiễn của nó đến nay vẫn còn hấp dẫn, nhiều nhà kinh tế nước ngoài đã ca ngợi Hồ Quý Ly là một nhà cải cách kinh tế lớn. Nhưng Hồ Quý Ly mắc tội giết vua Thiếu Đế cùng tôn tộc và quan lại nhà Trần, kể cả tướng Trần Khát Chân, gồm hơn 370 người để cướp ngôi nhà Trần. Do vậy bị nhân dân oán hận. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Quý Ly đã không tập hợp được lực lượng toàn dân đánh giặc, bố con Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt đem về Trung Quốc.

2. Hồ Hán Thương (1401 - 1407)

Cũng như nhà Trần, ngày 12/1/1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ hai là Hồ Hán Thương, còn mình thì tự xưng là Thái Thượng hoàng cùng coi chính sự.

Hồ Hán Thương là con công chúa Huy Ninh, cháu ngoại của vua Trần Minh Tông.

Hồ Quý Ly nhường ngôi cho Hồ Hán Thương, nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi việc.

Nhà Minh lấy cớ Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, đem quân sang đánh chiếm nước ta.

Tháng 9/1406, Nhà Minh sai Tân Thành hầu Trương Phụ đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Luỹ (tức là Hữu Nghị quan ngày nay).

Nhà Minh còn sai Tây Bình hầu Mộc Thạnh cũng đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày nay).

Tháng 12, quân Minh đã chiếm được Việt Trì. Nhà Hồ chống giữ không nổi 80 vạn quân Minh, bỏ chạy vào Thanh Hoá.

Ngày 20 tháng 1 năm 1407, quân Minh hạ thành Đa Bang (Ba Vì), bố con Hồ Quý Ly bỏ chạy vào Thanh Hoá, đến ngày 17/6/1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly. Thế là đất nước ta lại bị nhà Minh đô hộ với một chính sự vô cùng hà khắc. Chúng vơ vét của cải, hãm hiếp đàn bà, con gái, giết đàn ông và còn thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi, để mong đồng hoá dân ta.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2012 11:30:57 | Chỉ xem của tác giả
Nhà Minh đô hộ (1407 - 1427)

Cuộc xâm lược và đô hộ của nhà Minh (1407 - 1427)

1. Cuộc xâm lược của nhà Minh:


Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng lớn gồm 20 vạn bộ binh và thuỷ binh cùng với hàng chục vạn dân phu vận chuyển, dưới quyền chỉ huy của Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc kéo vào xâm lược Đại Việt. Quân Minh chia làm hai cánh: một cánh do Trương Phụ chỉ huy theo đường Bằng Tường, Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn, một cánh do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam theo đường sông Hồng kéo xuống. Nhà Minh còn sai người mang sắc vào dụ vua Chămpa phối hợp tấn công ở biên giới phía nam.

Ngày 19/11/1406, quân Minh vượt biên giới tiến vào xâm lược nước ta. Quân Trương Phụ lần lượt đánh bại quân nhà Hồ ở các ải Lưu Quan, Kê Lăng (Chi Lăng - Lạng Sơn). Cánh quân do Mộc Thạnh chỉ huy vượt qua nhiều cửa ải, rồi theo dòng sông Lô và sông Thao tiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ. Quân nhà Hồ phải lui dần về đóng ở nam sông Hồng, lấy thành Đa Bang làm trung tâm phòng ngự.

Ngày 20/1/1407, hai cánh quân Minh đều tập trung tấn công vào thành Đa Bang.

Ngày 22/1/1407, sau khi đánh bại quân Hồ ở Đa Bang, quân Minh tiến vào đánh chiếm Đông Đô (Thăng Long). Quân nhà Hồ rút về vùng Hoàng Giang (thuộc địa phận Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy kéo đến uy hiếp. Quân nhà Hồ do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đem 300 chiến thuyền đánh quân Minh, bị thất bại, phải rút về Muộn Hải (cửa sông Hồng ở Giao Thuỷ - Hà Nam). Quân đội nhà Hồ ở Lạng Giang do Hồ Đỗ, Hồ Xá chỉ huy cũng bị thua trận phải bỏ Bình Than rút về hội quân với cánh quân Hồ Nguyên Trừng ở Muộn Hải. Quân Minh tấn công Muộn Hải, quân nhà Hồ thua, bỏ Muộn Hải chạy về cửa Đại An (Hà Nam). Quân Minh bị bệnh tật, ốm đau nhiều, buộc phải bỏ Muộn Hải rút về Hàm Tử (Hưng Yên).

Cuối tháng 3/1407, Hồ Nguyên Trừng chỉ huy một lực lượng lớn gồm bộ binh và thuỷ binh tấn công quân Minh ở Hàm Tử nhưng bị đại bại. Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương và tướng sĩ nhà Hồ chạy về cố thủ ở Tây Đô (Vinh Lộc, Thanh Hoá).

Tháng 4/1407, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân đem một lực lượng mạnh gồm có kỵ binh, bộ binh, thuỷ binh tiến vào đánh bại quân nhà Hồ ở Tây Đô. Triều đình nhà Hồ chạy vào ẩn náu ở vùng Ngàn Sâu (rừng núi Nghệ An).

Tháng 6/1407, cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều tướng lĩnh, quan lại triều Hồ bị quân Minh bắt giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Vùng Thuận Hoá (Quảng Trị, Thừa Thiên) lần lượt rơi vào tay quân xâm lược Minh.

Chỉ sau sáu tháng, do đường lối chiến lược và chiến thuật sai lầm, cuộc kháng chiến của nhà Hồ đã bị thất bại thảm hại. Sự thất bại đó còn do triều đại nhà Hồ thiếu một cơ sở chính trị vững chắc, mâu thuẫn nội bộ cũng như mâu thuẫn xã hội đang gay gắt, không xây dựng được khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân tộc để cả nước cùng đánh giặc. Từ đó, nước ta rơi vào ách đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh trong 20 năm (1407 - 1427).

2. Chính sách đô hộ của phong kiến nhà Minh:

Quan lại nhà Minh thi hành chính sách triệt để cướp bóc, vơ vét chỉ trong 6 tháng xâm lược, quân Minh đã cướp của nước ta 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; 13.600.000 thạch thóc; 8.670 chiếc thuyền và nhiều vàng bạc, châu báu đem về Trung Quốc. Chính quyền đô hộ tăng thuế ruộng đất lên gấp ba lần (bằng cách bắt ghi một mẫu thành ba mẫu) so với thời nhà Hồ. Tất cả nghề thủ công, buôn bán, v...v... đều bị đánh thuế. Chính quyền đô hộ kiểm soát việc sản xuất muối, nắm độc quyền buôn bán muối. Người đi đường chỉ được phép mang nhiều nhất là ba bát muối. Nhân dân còn phải cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ sản, các hương liệu quý, đi lao dịch. Nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh. Năm 1407, Trương Phụ bắt đem về nước 7.700 thợ thủ công. Nhiều thầy thuốc, thợ thủ công, dân phu, phụ nữ, trẻ con, đào hát, phường nhạc cũng bị bắt đem về Trung Quốc.

Quân Minh còn cướp ruộng đất của nhân dân chung quanh trại của chúng, biến thành đồn điền giao cho quân lính cày cấy.

Đồng thời, các quan lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc.

Trong suốt hai mươi năm đô hộ nước ta (1407 - 1427), chính quyền đô hộ nhà Minh đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xoá bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ nước bất khuất của dân tộc ta, thủ tiêu những di sản văn hoá truyền thống tốt đẹp của nhân dân Đại Việt để chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Nhà Minh nhiều lần đốt sách vở, kể cả sách học của trẻ em, phá huỷ các bia đá. Tháng 8/1418, chính quyền đô hộ tịch thu những sách còn sót lại đem về nước. Nhiều tác phẩm có giá trị về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, quân sự về thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XIV trở về trước đều bị cướp hoặc bị thiêu huỷ, trong số đó có bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển của Lê Văn Hưu, Vạn Kiếp bí truyền, Binh thư yêu lược của Trần Quốc Tuấn, Tử thư thuyết của Chu An, các bộ luật Hình thư, Hình luật của nhà Lý, nhà Trần, Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc, v...v... Năm 1414, chính quyền đô hộ mở trường học ở phủ, châu, huyện để tuyên truyền, nhồi nhét tư tưởng mê tín với đội ngũ giáo viên là những thầy cúng, thầy chùa, thầy phù thuỷ, đạo sĩ. Chúng bắt nhân dân Đại Việt ăn mặc theo phong tục tập quán người Hán. Năm 1414, cấm con trai, con gái không được cắt tóc ngắn, phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài.

Chúng còn thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc và đàn áp tàn bạo. Sau khi đặt được nền đô hộ ở Đại Việt, nhà Minh đã xoá bỏ tên Đại Việt của nước ta, đặt làm quận Giao Chỉ và tổ chức chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Đứng đầu chính quyền đô hộ là ba ty: thừa tuyên bố chính sứ ty (ty Bố Chính), đô chỉ huy sử ty (Đô ty), đề hình án sát ty (ty Tư Sát). Ba ty đóng ở thành Đông Quan, chịu sự điều khiển, giám sát trực tiếp của triều đình nhà Minh. Dưới quận là phủ, châu, huyện (năm 1407 cả quận Giao Chỉ có 15 phủ, 36 châu, 181 huyện và 5 châu trực thuộc vào quận). Năm 1419, để nắm chắc các địa phương, nhà Minh lập ra đơn vị lý gồm 110 hộ do lý trưởng đứng đầu, giáp có 10 hộ do giám thủ cai quản. Ở Đông Quan được tổ chức thành phường, ngoại thành thành các sương. Bên cạnh các cơ quan hành chính và tư pháp, có một hệ thống tổ chức quân sự đồ sộ nhằm sẵn sàng đàn áp các cuộc nổi dậy chống chính quyền đô hộ. Một hệ thống đồn luỹ mọc lên khắp nơi. Mỗi vệ có 5.600 quân, mỗi thiên hộ sở có 1.120 quân, mỗi bách hộ sở (100 hộ) có 120 quân. Ngoài hệ thống đồn lũy, vệ sở còn có cả một hệ thống trạm dịch, cứ 10 dặm có một trạm dịch, tất cả có 374 trạm dịch. Chính quyền đô hộ còn tuyển lựa một số người làm tay sai cho chúng và xây dựng một đội nguỵ quân. Đối với nhân dân, chúng thi hành biện pháp kiểm soát chặt chẽ, dùng hình phạt tàn bạo để khủng bố, tiêu diệt tinh thần chống chính quyền đô hộ. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác tàn bạo của giặc Minh như sau:

"Thui dân đen trên lò bạo ngược,
Vùi con đỏ dưới hố tai ương,
Tát khô nước Đông Hải, khôn rửa sạch tanh hôi
Chẻ hết trúc Nam Sơn khó ghi đầy tội ác".

Hai mươi năm đô hộ của nhà Minh đã gây nhiều hậu quả tai hại cho đất nước ta, làm đình trệ nền kinh tế, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, những di sản văn hoá bị phá huỷ, cuộc khủng hoảng cuối thế kỷ XIV không được giải quyết mà còn thêm sâu sắc hơn, con đường phát triển của đất nước ta bị chững lại. Thế nhưng, nền đô hộ tàn bạo của nhà Minh không tiêu diệt được ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã sớm bùng lên liên tục cho tới khi đất nước được độc lập, tự chủ hoàn toàn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2012 18:38:42 | Chỉ xem của tác giả
Khởi nghĩa Lam Sơn

1. Những phong trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn

Mặc dù nhà Minh sau khi diệt nhà Hồ, tuyên bố là "con cháu họ Trần không còn ai nữa" nhưng trên thực tế, các tôn thất nhà Trần vẫn tìm cách tập hợp lại, nổi lên chống ách đô hộ của quân Minh. Tiêu biểu là hai cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng, sử cũ gọi là "nhà Hậu Trần".

Trần Ngỗi (còn gọi là Trần Quỹ) là con thứ vua Trần Nghệ Tông, năm 1407, nổi lên khởi nghĩa ở Yên Mô (Ninh Bình) được suy tôn là Giản Định Đế. Đông đảo dân chúng và các quý tộc Đại Việt cũ đã hưởng ứng đi theo, trong đó có những tướng giỏi như Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Sau khi giải phóng vùng đất Thanh - Nghệ rộng lơn, nghĩa quân tiến ra Bắc, đại thắng quân Minh trong trận Bô Cô (Ý Yên, Nam Định tháng 12 - 1408) diệt 10 vạn địch. Tướng giặc Mộc Thạnh phải chạy trốn về thành Cổ Lộng. Uy thế khởi nghĩa tăng lên nhanh chóng.

Tuy nhiên, khởi nghĩa không duy trì được lâu. Ngay sau đó, nội bộ các tướng lĩnh bị chia rẽ nghiêm trọng. Các tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân đã bị sát hại (1409), lực lượng nghĩa quân suy yếu. Trương Phụ và Mộc Thành tập trung tấn công, nghĩa quân phải lui về Nghệ An, sau đó Trần Ngỗi bị bắt. Lực lượng còn lại sáp nhập vào khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng.

Trần Quý Khoáng là cháu Trần Nghệ Tông tiếp tục khởi nghĩa (1409), xưng là Trùng Quang Đế, được đông đảo nhân dân ủng hộ. Các con của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị cũng theo về. Nghĩa quân kiểm soát được vùng Thanh - Nghệ và Thuận - Quảng, có lần tiến ra tới Bình Than (Hải Dương). Viện binh địch của Trương Phụ tăng cường đàn áp, Nguyễn Biểu nêu gương bất khuất, anh dũng hy sinh (1413). Sau đó, nghĩa quân đã thất bại ở Ái Tử (Quảng Trị). Khởi nghĩa tan rã. Các lãnh tụ đều bị bắt và bị giết. Những cuộc khởi nghĩa chống Minh của nhà Hậu Trần thất bại, vì nó đã diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, thiếu phối hợp và thiếu đoàn kết. Nó đánh dấu sự suy tàn và bất lực của tầng lớp quý tộc họ Trần trước những đòi hỏi mới của lịch sử.

Cũng trong thời thuộc Minh, đã có nhiều hình thức đấu tranh khác chống lại ách đô hộ. Đông đảo giới sĩ phu đã có thái độ phản kháng, bất hợp tác với địch. Lúc đó, đã có câu truyền miệng: "Muốn sống ẩn vào rừng núi, muốn chết làm quan triều Minh". Nguyễn Phi Khanh khẳng khái dặn Nguyễn Trãi báo đền nợ nước. Lê Cảnh Tuân viết "Vạn ngôn thư" gửi Thổ quan Bùi Bá Kỳ, khuyên nên tỉnh ngộ, rời bỏ hàng ngũ giặc. Quân Minh đã nhận xét về tầng lớp ngụy quan: "Đầu mục ở Giao Chỉ có kẻ hàng rồi lại phản, ăn ở hai lòng...".

Ở miền núi thuộc Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Nghệ An có phong trào "nghĩa quân áo đỏ" của các tộc người thiểu số chống lại giặc Minh, kéo dài trong nhiều năm. Ngoài ra, có phong trào nổi dậy ở các miền biển như Hải Phòng, Đồ Sơn, Quảng Ninh với Lê Ngã (nguồn gốc gia nô) hay Phạm Ngọc (xuất thân nhà sư). Giặc Minh thú nhận "Người Giao Chỉ - giặc cướp nổi lên như ong, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng nhau hưởng ứng… tan rồi lại hợp".

Phong trào đấu tranh chống Minh với nhiều hình thức là một phong trào quần chúng , đông đảo rộng kháp, đã phối hợp và dọn đường cho khởi nghĩa Lam Sơn.

2. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xây dựng và bảo vệ căn cư địa vùng rừng núi Thanh Hóa (1418 - 1423)

Lam Sơn - nơi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa có tên Nôm là làng Cham, nằm bên tả ngạn sông Chu (thuộc Thọ Xuân, Thanh Hoá). Về địa thế, đó là nơi giao tiếp giữa đồng bằng và miền núi, thuận lợi cho khi lực lượng còn non yếu, có thể thủ hiểm chống vây quét. Nhưng một khi lực lượng đã lớn mạnh, có thể từ đó tiến xuống làm chủ những vùng đất rộng, người đông. Về cư dân, ở đây đã tập hợp và đoàn kết nhiều tộc người. Nhiều tướng lĩnh Lam Sơn có nguồn gốc từ những tộc người thiểu số khác nhau như Mường (Lê Lai, Lê Hiến, Lê Hưu), Thái (Lê Cố, Xa Khả Sâm, Cầm Quý) hoặc Tày (Lý Huề).

Linh hồn của cuộc khởi nghĩa là hai lãnh tụ xuất sắc: Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Lê Lợi là một hào trưởng thuộc giai tầng xã hội mới (địa chủ bình dân) có uy tín và thế lực lên, tính hào phóng và quyết đoán, đã tập hợp được những gia nhân và nông dân trong vùng. Nguyễn Trãi là người tài đức song toàn, có nguồn gốc vừa quý tộc vừa bình dân, lại có tri thức cao (đỗ Thái học sinh thời Hồ) vừa có thực tiễn cuộc sống (đã trải qua các triều Trần, Hồ và thời thuộc Minh). Ông là người nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, thân dân và chiến thuật "tâm công" (đánh vào lòng người). Các lãnh tụ Lam Sơn đã biết sử dụng những yếu tố thuận lợi mang tính tổng hợp (thiên thời, địa lợi, nhân hòa) để tiến hành khởi nghĩa.

Năm 1416, Lê Lợi và 18 người dã tổ chức Hội thề Lũng Nhai (làng Mé, cách Lam Sơn 10 km), nêu cao quyết tâm đoàn kết diệt giặc, đặt cơ sở cho sự hình thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo khởi nghĩa. Đầu năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nước. Lúc này, lực lượng quân sĩ còn rất ít, lại thiếu thốn lương thảo:

"Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Lúc Khôi Huyện quân không một đội
"

(Bình Ngô đại cáo)

Ngay sau khi nổ ra khởi nghĩa, nghĩa quân phải liên tiếp chống lại 3 lần quân địch vây quét ở núi Chí Linh. Trong gian khổ, có nhiều gương chiến đấu hy sinh dũng cảm, điển hình là việc "Lê Lai liều mình cứu Chúa".

Lợi dụng khó khăn của nhà Minh và để bảo toàn lực lượng về quân sự và chính trị, Lê Lợi đã tìm cách tạm hòa hoãn với địch trong hơn 1 năm (1423 - 1424). Kết quả của kế sách này đã giữ vững được căn cứ địa, chặn đứng âm mưu tiêu diệt khởi nghĩa của quân địch, chuẩn bị đón chờ thời cơ mới.

3. Tiến quân vào Nghệ An, mở rộng vùng giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa (1424 - 1425)

Vượt qua thời kỳ củng cố căn cứ địa, năm 1424 nghĩa quân chuyển sang giai đoạn phát triển. Đó là kế hoạch tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An của Nguyễn Chích. Ông nói :"Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông, tôi đã từng qua lại nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long (huyện lỵ: Trà Lân), chiếm giữ cho được Nghệ An làm chỗ dừng chân, rồi dựa vào nhân lực, tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ".

Theo đúng kế hoạch, tháng 10 - 1424, nghĩa quân đã tiến công thành Trà Lân (Tương Dương, Con Cuông, Nghệ An), do nguỵ quan Cầm Bành với hơn 1000 quân đóng giữ. Sau 2 tháng bị bao vây, Cầm Bành phải đầu hàng. Chiếm thành Trà Lân, nghĩa quân đã khai thông và kiểm soát được con đường từ miền núi xuống vùng đồng bằng.

Sau khi diệt địch trong trận phục kích ở ải Khả Lưu - Bồ Ái, nghĩa quân tiến xuống giải phóng toàn bộ các châu huyện thuộc Nghệ An, đồng thời vây hãm chặt thành Nghệ An trong nhiều tháng. Thành này do tướng giặc Trần Tư và sau là Phương Chính trấn giữ. Nghĩa quân đập tan nhiều cuộc phản kích của quân Minh. Nguyễn Trãi đã nhiều lần gởi thư khiêu chiến Phương Chính, nhưng giặc vẫn đóng chặt cửa thành cố thủ. Đồng thời, Lê Lợi cũng cho xây dựng một hệ thống thành lũy trên núi Thiên Nhẫn làm căn cứ chính của nghĩa quân, đặt tên là Lục Niên thành (để kỷ niệm 6 năm khởi nghĩa).

Thừa lúc ghìm chặt quân địch ở đất Nghệ An, năm 1425, Lê Lợi cử Đinh Lễ tấn công ra phía bắc, vây hãm thành Diễn Châu, Tây Đô, tạo được vùng giải phóng rộng lớn, dồi dào sức người sức của, cắt đôi vùng chiếm đóng của địch thành hai nơi cách xa nhau, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt.

Tiếp theo, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân cũng được cử vào giải phóng miền đất Tân Bình - Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) là nơi lực lượng địch tương đối yếu và sơ hở. Trong chiến dịch này, nghĩa quân đã kết hợp cả lực lượng thủy quân (theo đường biển) và bộ binh (theo đường núi). Mặt khác, nghĩa quân vẫn tiếp tục vây hãm chặt, giam chân địch trong nhiều thành lũy mà không mất sức tấn công. Về điều này, Lê Lợi đã nói: "Các bậc khanh tướng giỏi đời xưa, bỏ chỗ vững đánh chỗ hở, lánh chỗ thực đánh chỗ trống, như thế thì dùng sức chỉ một nửa mà thành công gấp đôi".

4. Tổng tấn công ra Bắc, giải phóng hoàn toàn đất nước (1426 - 1427)

Cho tới năm 1426, sau 8 năm chiến đấu, lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đã tăng lên hàng vạn, có cả quân bộ lẫn quân thủy, tạo nên bước nhảy vọt về chất. Trong điều kiện đó, Lê Lợi quyết định tổng tấn công ra Bắc, tiến tới giải phóng hoàn toàn đất nước.

Tháng 9/1426, khoảng gần 10.000 nghĩa quân từ Thanh Hóa đã tiến ra Bắc theo 3 đạo:

- Đạo phía tây, do Phạm Văn Xảo và Lý Triện chỉ huy, tiến đánh miền Tây Bắc, chặn viện binh từ Vân Nam sang.

- Đạo phía đông, do Bùi Bị, Lưu Nhân Chú chỉ huy, tiến ra miền đồng bằng Bắc Bộ và vùng Đông Bắc, chặn viện binh từ Quảng Tây sang.

- Đạo chính giữa, do Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy, tiến thẳng ra phía nam thành Đông Quan, uy hiếp vây hãm thành.

Nhiệm vụ của các cánh quân này chưa phải là tiêu diệt ngay toàn bộ sinh lực địch, mà là giải phóng đất đai, giành thêm dân, bao vây uy hiếp thành, chặn viện binh địch.

Cùng với nghĩa quân, một phong trào nổi dậy hưởng ứng của quần chúng nhân dân đã lan rộng khắp mọi nơi, với nhiều hình thức: gia nhập nghĩa quân, ủng hộ tiếp tế lương thực thực phẩm, phối hợp đánh giặc, trong đó đã nổi lên những tấm gương dũng cảm như bà hàng nước Lương Thị Minh Nguyệt thành Cổ Lọng (Ý Yên, Nam Định), cô gái họ Đào ở Hưng Yên...

Cùng thời gian đó, nghĩa quân đã tăng cường uy hiếp, vây hãm thành Đông Quan, trong đó có chủ lực và cơ quan đầu não của địch. Bị thất bại trong những cố gắng phản kích ở Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Tây) và Nhân Mục (Thanh Trì, Hà Nội), quân Minh chủ trương cố thủ trong thành, chờ quân cứu viện.

Tháng 10/1426, địch đã cho rút đại bộ phận quân sĩ từ thành Nghệ An về tăng cường cho Đông Quan. Tiếp đó, tháng 11, 5 vạn viện binh từ Trung Quốc, do Vương Thông làm Tổng chỉ huy, cùng kẻo đến Đông Quan, đưa tổng số quân địch lên hơn 10 vạn.

Với lực lượng khá hùng hậu đó, Vương Thông quyết định mở đợt phản kích, đánh nống ra phía tây thành Đông Quan để giải vây, giành lại quyền chủ động. âm mưu của địch là qua Cầu Giấy, tiến lên Yên Sở, rồi theo sông Đáy xuống Ninh Kiều, nhằm tấn công căn cứ nghĩa quân ở Cao Bộ,thừa thế tiến đánh thăng vào Thanh Hoá.

Trước tình hình đó, hai cánh quân của Lý Triện và Đinh Lễ đã phối hợp hành quân mai phục tiêu diệt địch. Các đơn vị phục binh được bố trí ở Tốt Động (nơi cánh đồng chiêm, sâu, lầy lội) và Chúc Động (vùng ven chân núi, hiểm trở). Lợi dụng trời mưa, người ngựa địch bị sa lầy, quân ta đã đổ ra tiên đánh, tiêu diệt hơn 5 vạn quân địch, bắt sống hơn 1 vạn, chủ tướng Vương Thông bị thương. Sử cũ ghi "dòng sông Ninh Kiều đã tắc nghẽn vì xác địch". Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã đập tan âm mưu phản kích của địch, đẩy địch lún sâu vào thế bị động, xiết chặt hơn nữa vòng vây thành Đông Quan. Lúc này, Lê Lợi từ Thanh Hóa đã tiến ra vùng Đông Quan, đóng đại bản doanh ở Bồ Đề (Gia Lâm), bên kia sông Nhị. Ông cho dựng một lầu cao, ngang tầm tháp Báo Thiên, để thường xuyên theo dõi tình hình địch trong nội thành Đông Quan.

Song song với việc tiếp tục vây hãm thành, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thực hiện chiến thuật "tâm công". Kết hợp đấu tranh ngoại giao, chính trị, binh vận với đấu tranh quân sự. Để tạo điều kiện hòa đàm thương lượng, Lê Lợi đã lập Trần Cảo - một người tự xưng là con cháu vua Trần - lên làm vua trên danh nghĩa. Nguyễn Trãi cũng viết nhiều thư dụ hàng gửi Vương Thông, nói rõ sáu điều tất thua, khuyên nên giảng hòa rút quân, làm suy sụp ý chí, tinh thần của địch, trước khi quyết chiến.

Trận quyết đấu cuối cùng đi đến giải phóng hoàn toàn đất nước đã diễn ra với chiến tháng Chi Lăng - Xương Giang diệt viện binh địch.

Tháng 10/1427, Liễu Thăng (viên tướng đã chỉ huy thủy binh triệt Hồ Quý Ly) đem 10 vạn viện binh theo đường Lạng Sơn tiến vào Đại Việt. Cùng lúc, đạo quân Mộc Thạnh tiến theo đường Vân Nam. Khi qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn) - nơi đã được mệnh danh là yết hầu của Giao Chỉ với địa điểm hiểm yếu nổi tiếng Quỷ Môn quan - Liễu Thăng đã bị nghĩa quân do Lưu Nhân Chú, Trần Lựu chỉ huy dùng mưu trá hàng nhử địch sa vào trận địa phục kích, giết chết bên sườn núi Mã Yên. Hàng vạn quân địch bị tiêu diệt. Tiếp theo, ta còn tấn công trên tiếp ở các trận Cần Trạm, Phố Cát. Binh bộ thượng thư Lý Khánh phải tự tử.

Sau khi đại bại, quân Minh tháo chạy về co cụm tại Xương Giang (Bắc Giang). Thôi Tụ phải đắp thành lũy giữa đồng để phòng ngự. Lê Lợi và Trần Nguyên Hãn điều binh xiết chặt vòng vây, tổng tấn công Xương Giang, diệt 5 vạn, bắt sống 3 vạn địch, trong số đó có các tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Sử Trung Quốc ghi nhận "chỉ có một viên chủ sự là trốn thoát được về nước". Được tin Liễu Thăng chết, đạo viện binh của Mộc Thạnh cũng hết hoảng rút lui. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang đã chôn vùi những hy vọng cuối cùng của quân Minh.

Không có viện binh, quân Minh càng khốn đốn ở Đông Quan, tinh thần nao núng, suy sụp nhanh chóng. Lê Lợi nhận định: "Viện binh bị phá, thì thành tất phải hàng". Cuối năm 1427, Vương Thông buộc phải xin hòa, thỏa thuận rút quân không chờ viện binh, cam kết trong Bài văn hội thề đọc tại một địa điểm phía nam thành Đông Quan. Lê Lợi hứa cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường, tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước.

Chiến tranh kết thúc, Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi nhân danh Lê lợi soạn thảo được công bố. Đó là bài ca khải hoàn, bản tổng kết chiến tranh, bản tuyên ngôn độc lập, trong đó, đã khẳng định chủ quyền dân tộc Việt như một quốc gia lịch sử - văn hoá.

"Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã phân
Phong tục Bắc, Nam cũng khác".

Sau khi tố cáo tội ác của giặc và tổng kết quá trình cuộc khởi nghĩa - kháng chiến, bài cáo nêu lên những đường lối chiến tranh cơ bản, cũng là những nguyên nhân thắng lợi. Đó là tư tưởng nhân nghĩa được quán triệt trong toàn bộ cuộc chiến.

"Lấy đại nghĩa thắng hung tàn
Đem chí nhân thay cường bạo".

Tư tưởng toàn dân đoàn kết:

"Tụ tập khắp bốn phương dân chúng
Dư trên đều một bụng cha con".

cũng như chiến thuật của một cuộc chiến tranh có tính chất nhân dân:

"Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ".

Ngày 29 tháng 4 năm 1428 (năm Mậu Thân), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế (tức Lê Thái Tổ), lập ra triều Lê (Hậu Lê), đặt Quốc hiệu là Đại Việt.


Khởi nghĩa Lam Sơn
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2012 21:02:47 | Chỉ xem của tác giả
Nhà Hậu Lê (1428 - 1789)

Đại Việt thế kỉ XV - Thời Lê Sơ

Triều Hậu Lê kéo dài 361 năm (1428 - 1789), được chia làm 2 thời kì: Lê sơ được tình từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527), gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn thịnh trị nhất.

1. Tình hình chính trị:

* Bộ máy chính quyền:

Một công việc thiết yếu mà các vua thời Lê sơ đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính quan liêu chuyên chế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.

Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa "tôn quân". Theo đó, nhà vua là "con Trời". Người giữ mệnh Trời, thay Trời trị dân; các ấn tín của vua đều khắc chữ "Thuận thiên thừa vận", "Đại thiên hành hóa". Điện Kính Thiên được xây trong Hoàng thành Thăng Long. Hoàng đế là người chủ tế duy nhất trong các buổi tế lễ (tế Trời, tế Tôn miếu, tế Khổng Tử), là Tổng chỉ huy quân đội (Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh Champa). Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính. Thời Lê sơ, một số công thần có uy tín và quyền lực cao đã bị nghi kỵ và lần lượt bị giết hại, như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Nguyễn Trãi.

Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn cũng được kiện toàn từng bước. Năm 1471, Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn (dụ Hiệu định quan chế) nhằm tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các triều thần, tăng cường sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quan lại.

Trong triều đình, dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có 2 Thí lang. Bên cạnh đó, còn có Lục khoa với chức năng theo dõi, giám sát và Lục tự với chức năng điều hành. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh...

Về mặt hành chính, trước đó, Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo. Lê Thánh Tông đã cải tổ lại, chia thành 13 đạo (sau đổi là 13 thừa tuyên), đó là: Lạng Sơn, An Bang, Thái Nguyên, H­ưng Hoá, Tuyên Quang, Bắc Giang, Nam Sách, Quốc Oai, Thiên Trường, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam. Kinh thành Thăng Long thuộc một đơn vị hành chính đặc biệt, gọi là phủ Trung Đô, sau đổi thành phủ Phụng Thiên, bao gồm 2 huyện Vĩnh Xương (sau đổi thành Thọ Xương) và Quảng Đức, từ năm 1430 gọi là Đông Kinh (để phân biệt với Tây Kinh, tức Lam Kinh, Lam Sơn - Thanh Hoá). Dưới đạo thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, cùng các đơn vị cơ sở như hương, xã, thôn, trang, sách, động, nguồn, trường. Riêng kinh thành Thăng Long được chia thành 36 phường.

Đứng đầu các đạo thừa tuyên là các tuyên phủ sứ. Ở mỗi thừa tuyên có 3 ty: Đô ty (phụ trách quân đội) Thừa ty (phụ trách dân sự hành chính) và Hiến ty (phụ trách thanh tra giám sát). Các xã được chia thành 3 loại: xã lớn (500 hộ), xã vừa (trên 300 hộ) và xã nhỏ (trên 100 hộ). Chức xã quan do dân bầu, Nhà nước chỉ đạo và xét duyệt, tiêu chuẩn là các giám sinh, sinh đồ, từ 30 tuổi trở lên và có hạnh kiểm.

Tổng số quan lại (từ cấp huyện trở lên) thời Lê Thánh Tông là 5370 người, gồm 2755 quan trong triều và 2615 quan ở các địa phương, đại bộ phận xuất thân từ khoa cử.

* Quân đội:

Quân đội thời Lê sơ là một quân đội mạnh, được huấn luyện kỹ, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi có 35 vạn quân, sau khi cho giải ngũ, còn 10 vạn.

Quân đội được chia thành cấm binh và ngoại binh. Lê Thái Tổ chia quân thành 5 phiên, Lê Thánh Tông đổi thành 5 phủ (quân khu). Cũng như thời Lý - Trần, nhà Lê đã áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân lính thay phiên về làm ruộng.

Theo chế độ tuyển quân, cứ 3 đinh lấy một lính thường trực (tráng hạng) và một lính trù bị (quân hạng). Có các loại quân thủy, bộ, tượng, kỵ. Vũ khí ngoài giáo mác, cung tên, có hỏa pháo và hỏa đồng. Chế độ tập luyện quy củ. Hàng năm, quân sĩ từ Thanh Hóa trở ra tập duyệt ở kinh đô, từ Thanh Hóa trở vào tập duyệt tại địa phương. Ở phía tây thành Thăng Long, có khu Giảng Võ điện, Giảng Võ đường chuyên huấn luyện tướng sĩ.

* Luật pháp:

Trong việc trị nước, bên cạnh lễ giáo, các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc chế định pháp luật. Lê Thánh Tông nói: "Pháp luật là phép công của nhà nước, vua cùng quan đều phải theo". Đến thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã cho ban hành bộ luật thành văn hoàn chỉnh, gồm 722 điều, được gọi là Quốc triều hình luật hay Bộ luật Hồng Đức, sẽ được duy trì và bổ sung ở các thế kỷ sau. Về hình thức, đó là bộ luật hình sự (với khung ngũ hình: suy, trưởng, đồ, lưu, tử), nhưng thực chất là bộ luật tổng hợp, có các điều khoản về điền sản, dân sự, hôn nhân gia đình...

Nội dung cơ bản của Bộ luật là bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp, gia đình phụ hệ gia trưởng và ý thức hệ Nho giáo. Luật quy định 10 trọng tội không thể nhân nhượng được (thập ác) và 8 hạng người có thể miễn giảm tội (bát nghị).  

Bộ luật mang tính đẳng cấp, có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc.

Quyền lợi của phụ nữ đã được chú trọng trong việc thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời.

* Củng cố chính quyền dân tộc:

Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: "Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác". Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.

Để nắm chắc và khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp dụng những biện pháp kết hợp trấn áp với phủ dụ (như trường hợp đối với Đèo Cát Hãn, tù trưởng Thái ở Lai Châu). Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ tịch, khảo sát địa hình, lập bản đồ hành chính quốc gia (bản đồ Hồng Đức năm 1469), đề cao, tôn vinh truyền thống dân tộc và các danh nhân lịch sử - văn hoá. Ở thế kỷ XV, Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á.

2. Tình hình kinh tế,­ xã hội:

Nhà nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Trong sự phục hồi và phát triển kinh tế, nhà nước đó đã đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu. Thời Lê sơ, nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng xã đã được duy trì và khuyến khích, với sự can thiệp và bảo hộ của một nhà nước thu tô, trọng nông. Nhà nước đó cũng có thái độ dè dặt, không khuyến khích nền kinh tế công thương nghiệp hàng hóa phát triển, nắm độc quyền gian thương với nước ngoài.

* Nông nghiệp:

Ruộng đất thời Lê sơ bao gồm ruộng đất nhà nước, ruộng công làng xã và ruộng tư.

Ruộng nhà nước thường được gọi là quan điền. Có ruộng quốc khố là những ruộng do nhà nước trực tiếp quản lý và sản xuất, thu hoạch đưa vào kho công. Lộc điền là loại ruộng của nhà nước ban cấp cho những quan liêu cao cấp (từ tứ phẩm trở lên), gồm có ruộng ban cấp được phép thừa kế (ruộng thế nghiệp) và ruộng ban cấp tạm thời, có thể thu hồi lại sau khi chết (ruộng ân tứ). Diện tích lộc điền có thể thay đổi từ 40 mẫu (quan tứ phẩm) đến trên 2000 mẫu (các thân vương). Người được cấp chỉ được hưởng hoa lợi, tô thuế, có một số hộ người hầu nhưng không có nông nô và nô tì.

Lộc điền thời Lê thay thế thái ấp điền trang thời Lý - Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành những ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu - địa chủ.

Đồn điền là loại ruộng do nhà nước trực tiếp quản lý đứng đầu là các quan chánh, phó đồn điền sứ. Các quân sĩ, tù binh, phạm nhân tội đồ, dân lưu tán được chiêu mộ. Ruộng đất đồn điền phần lớn có nguồn gốc khai hoang hoặc ở các miền biên ải. Năm 1481, Lê Thánh Tông cho lập 43 sở đồn điền. Vùng Bắc Bộ có 30 sở, chung quanh Hà Nội có các sở đồn điền ở Dịch Vọng, Quán La, Thịnh Quang...

Ruộng làng xã gồm có các loại công điền và tư điền. Thời Lê sơ, tuy ruộng tư đã phát triển, nhưng ruộng công vẫn chiếm ưu thế, qua việc thực hiện phép quân điền.

Chính sách "quân điền" bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ. Sau khi kháng chiến thắng lợi, tình hình ruộng đất xáo trộn, nhà vua đã có ý định chia ruộng công cho nhân dân, qua lời phủ dụ: "chiến sĩ thì nghèo, du sĩ thì giàu, người chiến sĩ phải chiến đấu thì không có tấc đất để ở, kẻ du thực vô ích cho nước thì lại có ruộng đất  quá nhiều... Do đó, không có người tận tâm với nước mà chỉ lo việc phú quý". Phép quân điền được thực hiện hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông.

Theo đó, ruộng đất công làng xã cứ 6 năm một lần được phân phối lại, dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được chia 11 phần tới các loại cô nhi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho nhà nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn). Loại công điền quân phân này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ gia đình sử dụng.

Chính sách quân điền thời Lê sơ là một b­ước trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). Mặt khác, phát triển được sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn chấp chiếm ruộng đất.

Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê sơ cũng đã phát triển, một số là của địa chủ quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Ruộng tư không phải nộp tô cho nhà nước. Nhà nước thừa nhận nhưng không khuyến khích loại ruộng này. Bộ luật nhà Lê, nhất là chương Điền sản đã nói đến các thủ tục làm văn tự khế ước trong vấn đề bán nhượng, tranh chấp kiện tụng hoặc thừa kế về ruộng đất.

Sự phát triển của ruộng tư thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, xác lập quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ - tá điền trong xã hội. Tuy nhiên, đây là một quá trình tư hữu hóa không tự nhiên, không được nhà nước khuyến khích, nên đã dẫn đến những tệ nạn như chiếm công vi tư, chấp chiếm ruộng đất... dần dần đi tới tình trạng khủng hoảng ruộng đất.

Nhà nước Lê sơ là một nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp. Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng, đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Ở Nam Định, có nhiều đoạn đê ngăn nước mặn còn mang lên là đê Hồng Đức, cũng như ở Thanh Hoá, nhiều sông đào, được gọi là sông nhà Lê. Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần "tĩnh vi nông. động vi binh". Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.

Quan điểm trọng nông là một chính sách truyền thống của các vương triều phong kiến Việt Nam. Nó cũng xuất phát từ nguyên lý trọng bản, ức mạt của Nho giáo. Vì vậy, thời Lê sơ, quan điểm trọng nông bắt đầu đi kèm với quan điểm ức thương.

* Thủ công nghiệp:

Nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy mạnh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Ớ kinh thành Thăng Long, Dư địa chí ghi lại một số phường chuyên nghề nổi tiếng như Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm và Thuỵ Chương dệt vải lụa, Hà Tân nung vôi, Hàng Đào nhuộm điều, Tả Nhất làm quạt, Đường Nhân bán áo diệp y.

Các quan xưởng hay Cục bách tác là những xưởng thủ công do nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành sản xuất, phục vụ cho nhu cầu của quan liêu, quân sĩ và dân chúng như các xưởng đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, sản xuất các đồ dùng nghi lễ, phẩm phục.

Trong các quan xưởng, nhà nước áp dụng chính sách "công tượng". Các thợ khéo bị trưng lập theo nghĩa vụ lao dịch, được phiên chế thành đội ngũ như binh lính, phải cưỡng bức lao động dưới sự đôn đốc của các giám đương và chủ ty. Đó là một nền sản xuất bao cấp, không tiếp cận với thị trường trao đổi buôn bán.

* Thương nghiệp:

Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định "trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá", quy định nguyên tắc họp chợ luân phiên. Ở Thăng Long - Đông Kinh, các thương nhân từ các nơi về, đua nhau mở hàng quán phố xá buôn bán. Lúc đầu, chính quyền địa phương định đuổi họ về nguyên quán, sau theo đề nghị của Quách Đình Bảo đã đồng ý cho họ ở lại sinh nhai, để cho hàng hóa lưu thông và nhà nước cũng có được khoản thu từ thuế (1481).

Thời Lê sơ, nhà nước bỏ lệ tiêu tiền giấy của nhà Hồ, cho lưu thông tiền đồng. Lê Lợi nói :"Tiền là huyết mạch của dân, không thể không có". Nhà nước quy định 1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, tức 1 quan = 600 đồng.

Riêng việc buôn bán với nước ngoài, nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi hành chính sách "bế quan toả cảng".

* Kết cấu xã hội:

Xã hội Đại Việt thời Lê sơ là một xã hội tương đối ổn định và phát triển, đồng thời là một xã hội mang tính đẳng cấp đã chín muồi. Có hai đẳng cấp chính: quan liêu và thứ dân (chia thành 4 tầng lớp: sĩ. nông, công, thương). Thời Lê sơ các quan hệ giai cấp (địa chủ phong kiến và nông dân) đã đan chen vào các quan hệ đẳng cấp.

Quan liêu là đẳng cấp cầm quyền, cai trị, đồng thời cũng được coi là tầng lớp ưu tú của xã hội, yêu nuôi và giáo hóa dân chúng. Đội ngũ quan chức thời Lê sơ là những tri thức nho sĩ được tuyển lựa kỹ lưỡng (chủ yếu qua khoa cử), được rèn luyện và kiểm soát chặt chẽ (bởi nhà vua, các quy chế, bộ Lại và chế độ khảo khóa). Đó cũng là đẳng cấp có nhiều đặc quyền, ưu đãi trong các tiêu chuẩn sinh hoạt (nhà cửa, quần áo, võng lọng), được ban cấp đất ở, ruộng lộc điền, lương bổng.

Đầu thời Lê sơ, các công thần chủ yếu là quan võ (tham gia từ đầu cuộc khởi nghĩa), sau dần dần chuyển sang các quan văn (những người đỗ đại khoa). Với việc mở rộng khoa cử, các nho sĩ trí thức bình dân đã có điều kiện tham gia chính quyền, tạo nên sự bình đẳng tiến thân, thoáng rộng hơn so với thời Lý - Trần. Tuy nhiên, quan lại lúc này cũng bị kiểm soát ràng buộc nghiêm ngặt bởi các lễ thức, quy phạm nho giáo, do vậy, đã mang nhiều tính chuyên chế và quan liêu hơn.

Đẳng cấp thứ dân (bách tính) là giai tầng xã hội bị cai trị, bao gồm 4 tầng lớp chính: sĩ, nông, công, thương. Nho sĩ thời Lê sơ là cầu nối giữa bình dân và quan liêu. Nông dân là tầng lớp xã hội đông đảo nhất, đã phân hóa thành nhiều bộ phận: địa chủ bình dân, nông dân tự canh, tá điền. Một số cường hào có thể đã xuất hiện trong làng xã. Địa chủ bình dân cùng với địa chủ quan liêu đã hợp thành giai cấp phong kiến. Thợ thủ công gồm một số công tượng và chủ yếu là thợ thủ công trong làng xã. Do quan điểm "ức thương", thương nhân là tầng lớp xã hội bị coi rẻ hơn cả, bị gán cho những tính cách "phi nghĩa", "bất nhân".

3. Tình hình tư tưởng, văn hóa:

Nhìn chung, thời Lê sơ, văn hóa Đại Việt đã chuyển sang sự ưu thắng của văn hóa Đông Á, nho học - nho giáo.

Đây là thời kỳ diễn ra một sự phân dòng văn hóa. Dòng văn hóa dân gian làng xã không được nhà nước khuyến khích, đã tách khỏi dòng văn hóa cung đình. Sự phân dòng văn hóa này đã phản ánh sự phân tầng đẳng cấp ngoài xã hội.

Tuy nhiên, trên thực tế, các yếu tố văn hóa khác biệt nhau vẫn cùng tồn tại, chung sống hòa bình, như giữa Nho và Phật, Đạo, giữa văn hóa chính thống và văn hóa dân gian. Mô hình ý thức hệ đã phải nhân nhượng với thực trạng văn hóa.

* Tôn giáo, tư tưởng:

Các nhà vua thời Lê sơ đã từ bỏ chính sách khoan dung Tam giáo đồng nguyên của nhà nước thời Lý - Trần để chuyển sang một chính sách văn hóa đơn nguyên quan phương, độc tôn Nho giáo và Nho học. Ở đây, Tống Nho đã được đề cao như một hệ tư tưởng chính thống nhà nước, làm bệ đỡ tư tưởng cho chế độ quân chủ quan liêu. Khẩu hiệu chiến lược "Sùng Nho trọng Đạo" là việc hàng đầu (Bia Văn Miếu - 1442) đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Văn Miếu - Quốc Tử Giám được mở rộng, giáo dục khoa cử Nho học được kiện toàn. Lê Thánh Tông còn cho ban bố trong nhân dân "24 điều giáo huấn" để củng cố những nguyên tắc cơ bản về đạo đức và lễ giáo Nho giáo. Chính ông đã nói: "Tất cả đều do cái mũ của nhà Nho mà ra". Ngô Sĩ Liên khẳng định "vua tôi, cha con, vợ chồng là 3 cương lớn trong đạo luân lý của người, ngoài ra không có gì lớn hơn".

Nho giáo thời Lê sơ cũng dần dần chuyển hóa. Thời kỳ đầu, khái niệm "nhân" đã được nhấn mạnh. Nguyễn Trãi nói: "Người làm vua phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình". Giai đoạn sau, trọng tâm của nho giáo là được chuyển qua khái niệm "lễ", mang tính giáo điều bảo thủ. Lê Thánh Tông nhấn mạnh: "Người khác cầm thú là vì có Lễ để làm khuôn phép giữ gìn".

Đề cao nho giáo, các vua Lê sơ đã hạn chế, kiểm soát những tôn giáo phi chính thống như Phật và Đạo, lấy cớ là "sợ lòng người lay động, phân tán". Lê Thái Tổ quy định sư tăng phải trên 50 tuổi, phải qua kỳ thi khảo hạnh, nếu trượt phải hoàn tục. Triều đình Lê sơ đã cấm quý tộc quan lại xây chùa mới, hạn chế việc đi lại của sư tăng, đạo sĩ (Điều 301 Luật Hồng Đức), cấm quan liêu trong triều kết giao với tăng, đạo. Trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông đã phê phán giới thiền tăng.

Nói những thiên đường cùng địa ngục
Pháp sao chẳng độ được mình ta?


Ngô Sĩ Liên mạnh mẽ đả kích: "Người nào đã học Nho giáo mà lại học thêm Phật giáo và Đạo giáo... thì có ích gì cho thế đạo, cho nước nhà. Lấy những người ấy đỗ mà làm gì?

Không được nhà nước khuyến khích nhưng Phật, Đạo thời Lê sơ vẫn tồn tại trong xã hội, được mọi giới thừa nhận nhất là quần chúng nhân dân. Lê Sát cho xây chùa Thanh Đàm, Chiêu Độ rộng 90 gian. Chùa Báo Thiên ở kinh thành vẫn được mở rộng, rước tượng Phật từ chùa Pháp Vân về để cầu đảo. Nho sĩ Lương Thế Vinh đã soạn sách Phật (Thiền môn khoa giáo), soạn bia chùa Diên Hựu. Bản thân nhà vua sùng Nho Lê Thánh Tông vẫn đi thăm viếng nhiều chùa chiền, cho dựng lầu "Vọng Tiên" và thừa nhận: "Giáo lý Phật Lão hết thảy đều mê đời lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không kể xiết mà lòng người vẫn rất ham rất tin. Đạo của Thánh hiền [Nho giáo]... đều thiên dụng trong cuộc sống thường ngày, mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng Phật, Lão". Các đền thờ thần linh, các danh nhân lịch sử văn hóa và các hội lễ vẫn được xây dựng, tổ chức ở khắp nơi. Chính sách "độc tôn Nho học" của nhà nước Lê sơ, trên thực tế, đã không được thi hành một cách có hiệu quả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2012 21:37:46 | Chỉ xem của tác giả
* Giáo dục, khoa cử:

Giáo dục, khoa cử thời Lê sơ phát triển, trước hết do đường lối "sùng Nho" của các nhà vua thời kỳ này, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng về đào tạo nhân tài, quan liêu cho chế độ. Lê Thái Tông khẳng định: "Muốn có được nhân tài, trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ, mà kén chọn kẻ sĩ, phải lấy thi cử làm đầu...".

Các vua thời Lê sơ đều đã cho sửa sang tu bổ Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đợt trùng tu mở rộng lớn nhất là vào năm 1483, đời Lê Thánh Tông. Nhà vua đã cho dựng ở Văn Miếu các công trình Đại Thành môn, nhà Giải vũ Đông Tây, điện Canh Phục, kho Tế khí, nhà bia Tiến sĩ (năm 1484, cho dựng 10 bia, kể từ khoa 1442). Đối với Quốc Tử Giám, cho dựng nhà Minh Luân, giảng đường Đông Tây, kho Bí thư, nhà nghỉ cho giám sinh. Về tổ chức, nhà nước đặt các chức Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám (như Tế tửu Lý Tử Tấn và Tư nghiệp Ngô Sĩ Liên). Hệ thống giảng dạy có giáo thụ, trực giảng, trợ giáo và bác sĩ.

Quốc Tử Giám đời Lê sơ đã mở rộng đối tượng tuyển sinh và học tập, nhiều con em học giỏi xuất thân từ các gia đình bình dân cũng được tham gia học tập. Giám sinh (xá sinh) thời Lê được chia làm 3 loại (thượng, trung, hạ) được cấp học bổng và học phẩm.

Ở các địa phương, hệ thống trường học có đến cấp phủ huyện, các lớp học có đến cấp xã.

Khoa cử cũng rất phát triển dưới thời Lê sơ. Ngay từ năm 1426, khi cuộc kháng chiến chưa thành công, Lê Lợi đã cho tổ chức khoa thi ở trạm Bồ Đề, bên kia sông Hồng. Sau khi lên ngôi, ông cũng đã cho tổ chức các kỳ thi Minh Kinh và Hoành Từ. Năm 1438, định phép thi hương ở các đạo. Năm1442 (Nhâm Tuất, Đại Bảo năm thứ 3 đời Lê Thái Tông), tổ chức thi Hội, lấy 33 tiến sĩ (trong đó 3 người đỗ đầu là Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc). Ngô Sĩ Liên cũng đỗ khoa này. Đến thời Lê Thánh Tông, khoa cử đạt tới đỉnh cao. Trong 39 năm, đã tổ chức 12 khoa thi Hội lấy 501 tiến sĩ (toàn thời Lê sơ, có 29 khoa thi quốc gia, lấy 988 tiến sĩ).

Thời Lê sơ, quy chế thi cử cũng được kiện toàn. Có 2 cấp thi: thi địa phương (thi Hương) và thi quốc gia (thi Hội, thi Đình). Học vị thi Hương là Hương cống, học vị thi Hội và thi Đình là Tiến sĩ với 3 cấp: Tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), Tiến sĩ xuất thân và đồng Tiến sĩ xuất thân. Các bài thi cũng được ấn định. Mỗi khoa thi gồm có 4 trường, lần lượt là: Kinh nghĩa, chiếu chế biểu, thơ phú, văn sách.

Nhà nước Lê sơ đã thi hành chính sách trọng sĩ, trong các lễ xướng danh, ban mũ áo, thiết yến tiệc, vinh quy. Mọi tiến sĩ đều được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu.

Nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ mang tính thế tục, phổ cập và bình đẳng, nó đã trí thức hóa tầng lớp quan liêu. Phan Huy Chú nhận xét: "Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp". Tuy nhiên dần đần, nền giáo dục đó đã trở nên chật hẹp, bị hệ tư tưởng hóa quá mức, quan liêu hóa tầng lớp trí thức, như bia Văn Miếu nhận xét: "cái thực chưa xứng với cái danh".

* Văn học và sử học:

Có 2 khuynh hướng văn thơ nổi trội dưới thời Lê sơ: văn thơ yêu nước dân tộc và văn thơ cung đình.

Theo đà dòng văn học yêu nước thời Lý - Trần, được tiếp sức thêm bởi cảm hứng qua những chiến công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhiều tác phẩm văn thơ đã nói lên ý chí bất khuất và lòng tự hào về một quốc gia - dân tộc có bề dày lịch sử - văn hóa. Nguyễn Trãi với Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lý Tử Tấn với Chí Linh sơn phú, Xương Giang phú, Nguyễn Mộng Tuân với Lam Sơn phú, Hậu Bạch Đằng giang phú, Lê Thánh Tông với các bài thơ ca tụng các nhân vật lịch sử - văn hóa và các danh lam thắng cảnh đất nước. Theo phương hướng tìm về cội nguồn dân tộc Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã hiệu đính Lĩnh Nam thích quái, một tác phẩm dã sử truyền thuyết từ thời Trần. Tinh thần dân tộc còn biểu hiện ở việc phổ biến dùng chữ Nôm, với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và tác phẩm Hồng Đức Quốc âm thi tập.

Bên cạnh đó, dòng văn học cung đình với nội dung hình thức thù phụng, thanh lệ cũng phát triển. Bùi Huy Bích nhận định: "Thời Hồng Đức gọi là cực thịnh nhưng lúc đó văn chương ưa chuộng thanh lệ (khuôn sáo hình thức)". Điển hình là hội Tao Đàn (nhị thập bát tú) do Lê Thánh Tông làm chủ soái, cùng các văn thần như Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Lương Thế Vinh. Tác phẩm chính của hội này là tập Quỳnh uyển cửu ca, với những bài thơ xướng họa tán tụng, với chủ đề khuôn sáo là "Minh quân, lương thần" (vua sáng, tôi hiền). Dòng văn học cung đình đã thể hiện rõ quan điểm giáo huấn "Văn dĩ tải đạo", yếu tố trữ tình, cá nhân đã vắng mặt trong đó.

Để phục vụ cho việc xây dựng chế độ phong kiến nhà nước quan liêu và thể hiện tinh thần dân tộc, "sánh ngang Nam - Bắc", các tác phẩm lịch sử, địa lý thời Lê sơ khá phong phú. Đó là các tác phẩm Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, bộ điển chế đồ sộ Thiên Nam dư hạ tập 100 quyển (đã thất truyền, chỉ còn lại 4 - 5 quyển).

Đặc biệt, bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh), phát triển từ bộ sử gốc Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu trước đó, là một tác phẩm quý giá. Ở đây, lần đầu tiên, Ngô Sĩ Liên đã đưa truyền thuyết Hùng Vương - An Dương Vương vào chính sử dân tộc.

Về địa lý, đáng kể là cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi và tập bản đồ hành chính quốc gia soạn dưới thời Lê Thánh Tông, th­ường gọi là Hồng Đức - bản đồ vẽ chi tiết 13 thừa tuyên và các phủ huyện. Các tác phẩm địa lý này cũng đã được bổ sung ở những thời kỳ sau.

* Nghệ thuật:

Nhìn chung, khuynh hướng cung đình, quan phương trong nghệ thuật thời Lê sơ đã thắng thế, do ảnh hưởng của văn hóa Đông Á Nho giáo, mang tính giáo điều, công thức. Qua cuộc tranh luận giữa Lương Đăng và Nguyễn Trãi, nhà nước đã chấp nhận nhã nhạc (mô phỏng nhạc Trung Quốc) như thứ nhạc chính thống được diễn tấu trong cung đình. Hình tượng con rồng thời Lê trong điêu khắc cũng dữ tợn, oai nghiêm hơn, không thanh thoát như hình tượng con rồng giun uốn lượn thời Lý - Trần.

Thời kỳ này, văn hóa dân gian bị hạ thấp, thậm chí bị miệt thị. Năm 1448, điệu múa dân gian lý liên (rí ren) bị coi là dâm tục, nhảm nhí và bị cấm. Năm 1462, cấm các con nhà phường chèo không được đi thi, mà nạn nhân gần 2 thế kỷ sau đó là nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ.

* Về kiến trúc, điêu khắc:

Hoàng thành Thăng Long được tu sửa, mở rộng vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, với nhiều cung điện nguy nga. Điện Kính Thiên ở trung tâm Hoàng thành đã được xây dựng (ngày nay chỉ còn lại đôi lan can rồng đá). Ở quê hương Lê Lợi, Lam Kinh cũng đã được xây dựng quy mô đồ sộ với hệ thống lăng mộ và tấm bia Vĩnh Lăng nổi tiếng.

* Về nghệ thuật biểu diễn:

Điệu múa rất phổ biến là Bình Ngô phá trận, ca ngợi các chiến tích của nghĩa quân Lam Sơn. Lương Thế Vinh soạn Hý phường phả lục nói về nghệ thuật ca múa.

* Về khoa học kỹ thuật:

Phan Phu Tiên có cuốn Bản thảo thực vật toản yếu, Lương Thế Vinh soạn Đại thành toán pháp; Vũ Hữu (cha Vũ Quỳnh) soạn Lập thành toán pháp, tính toán rất chính xác trong việc thiết kế xây dựng, tu sửa hai cửa Hoàng thành Thăng Long: Đại Hưng (cửa Nam) và Đông Hoa (cửa Đông).

Hình thành từ những thế kỷ trước, muộn nhất là vào thời nhà Lý, chế độ phong kiến Đại Việt - thuộc loại hình phong kiến nhà nước quan liêu đã được xác lập vững chắc vào thế kỷ XV, dưới triều Lê sơ.

Thời Lý, Trần trên danh nghĩa, nhà nước Đại Việt đã chấp nhận một mô hình phong kiến thời Đường - Tống, và ở một mức độ hạn chế, hệ tư tưởng phong kiến Khổng giáo. Tuy nhiên, ngay cả ở mặt thiết chế hệ tư tưởng này, ảnh hưởng Phật giáo vẫn còn rất đậm, các yếu tố phong kiến còn khá mờ nhạt. Mặt khác, thực thể kinh tế - xã hội còn mang nhiều yếu tố cổ truyền trước phong kiến. Nhà nước chưa nắm chắc một cách trực tiếp người nông dân tự canh, tầng lớp địa chủ phong kiến tư hữu chưa phát triển, sự phân hóa đẳng cấp trong xã hội và nhất là trong làng xã chưa thực sự gay gắt. Một xã hội phong kiến đích thực chưa tồn tại, hoặc nói khác đi, chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Đại Việt còn ở giai đoạn tiền mô hình, duy trì một khoảng cách khá lớn giữa danh và thực.

Triều Lê sơ thành lập, có thể được coi như một bước ngoặt lịch sử, trong những điều kiện thuận lợi cho những yếu tố phong kiến phát triển. Thiết chế - ý thức hệ phong kiến mà nhà Minh áp đặt trong hai thập kỷ thuộc Minh đã để lại những hệ quả sâu sắc. Các nhà vua thời Lê sơ do tinh thần tự hào dân tộc, quan điểm "vô tốn Hoa Hạ", "sánh ngang Nam - Bắc" cùng đã tự nguyện chấp nhận một mô hình phong kiến nho giáo Đông Á, như một bệ đỡ tư tưởng cho thiết chế quân chủ tập quyền. Ở đây, một nhà nước chuyên chế toàn năng, can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, đã được xác lập. Đẳng cấp quan liêu được tuyển lựa qua khoa cử, đã trở thành lực lượng thống trị, ngày càng xa cách khối quần chúng bình dân làng xã. Trên danh nghĩa, nho giáo được coi như một hệ tư tưởng phong kiến chính thống độc tôn. Thiết chế - hệ tư tưởng phong kiến đến giai đoạn này đã được hoàn chỉnh.

Những chuyển biến về kinh tế - xã hội thời Lê sơ cũng ngày càng ngả sang màu sắc phong kiến. Những quan hệ sản xuất phong kiến trong kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở hai mặt. Người nông dân tự canh trong làng xã ngày càng bị lệ thuộc và ràng buộc vào một nhà nước phong kiến thu tô, qua phép quân điền, những nghĩa vụ tô thuế, lao dịch và binh dịch, làng xã ngày càng bị phong kiến hoá. Mặt khác, do sự phát triển của yếu tố tư­ hữu ruộng đất và tầng lớp địa chủ bình dân, quan hệ sản xuất phong kiến địa chủ - tá điền dần dần phổ biến trong xã hội. Sự phân hóa đẳng cấp trở nên sâu sắc, trên quy mô xã hội ở tầng vĩ mô, cũng như trong quy mô làng xã ở tầng vi mô.

Nói tóm lại, thời Lê sơ, cả ở mặt mô hình thiết chế, hệ tư tưởng lẫn mặt thực thể kinh tế - xã hội, những yếu tố phong kiến đã chiếm ưu thế. Chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Đại Việt đã được xác lập vững chắc, khoảng cách giữa danh và thực (giữa mô hình và thực thể) ở mức độ nhỏ nhất. Thế kỷ XV được coi là một thế kỷ cổ điển của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình chế độ phong kiến nhà nước quan liêu, có nhiều điểm khác biệt nếu đối sánh với một chế độ phong kiến lãnh chúa ở Tây Âu trung đại, hay với chế độ phong kiến võ sĩ hoặc chế độ phong kiến tăng lữ ở một số nước khác.

Tuy nhiên, trong thực tế, xã hội Đại Việt thời Lê sơ vẫn không phải và chưa bao giờ hoàn toàn là một xã hội phong kiến Đông Á Nho giáo thuần nhất. Nó là một sự hỗn dung, lai ghép mang tính đối trọng giữa một mô hình ngoại nhập và một mô hình thực thể bản địa. Triều Lê sơ, vì thế, đã có một vị thế quan trọng và được đánh giá cao trong lịch sử dân tộc, quan sự nghiệp giữ nước và dựng nước.

Về mặt tiến trình xã hội, so với thời Lý - Trần, sự xác lập chế độ phong kiến nhà nước quan liêu thời Lê sơ là một buớc tiến. Tuy nhiên, ở một số mặt nào đó, nhất là về quan hệ xã hội và cân bằng văn hóa, nó đồng thời cũng bị chững lại, thậm chí có chỗ thụt lùi. Trong thế kỷ XV, những mâu thuẫn xã hội chứa chất, nhưng trong điều kiện một thể chế nhà nước mạnh và ổn định, nên vẫn ở dạng tiềm năng. Những mâu thuẫn đó sẽ bộc phát nhanh chóng trong 3 thập kỷ đầu thế kỷ XVI, dẫn triều Lê sơ đến chỗ sụp đổ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2012 21:57:38 | Chỉ xem của tác giả
Thế phả triều Lê sơ

1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428 - 1433)

Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu - 10/9/1385, là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.

Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.

Mùa xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.

Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.

Sau hội thề Đông Quan, ngày 29/12/1427, bại binh của giặc bắt đầu được phép rút quân về nước an toàn, đến ngày 3/1/1428, bóng dáng quân Minh cuối cùng đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân - 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính Thiên xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương" đặt tên nước là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội) đại xá thiên hạ, ban bố "Bình Ngô đại cáo" - đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2 của tổ quốc ta. Bình Ngô đại cáo mở đầu ghi:

"... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác...
"

"Bình Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt vời, bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất của dân tộc ta.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ nghiệp..."

Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu - 1433, hưởng thọ 49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hoá, trị vì được 5 năm.

2. Lê Thái Tông (Nguyên Long, 1433 - 1442)

Lê Thái Tông tên huý là Nguyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 năm Quý Mão - 1423, là con thứ hai của Lê Lợi và bà Phạm Thị Ngọc Trần, lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Qúy Sửu - 1433, lấy niên hiệu là Thiệu Bình.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Vua thiên tư sáng suốt nối vận thái bình: bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp di địch. Trọng đạo sùng nho, mở khoa thi chọn hiền sĩ, xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở bên ngoài cũng là tự mình chuốc lấy hoạ...".

Lê Thái Tông lên ngôi vua mới 11 tuổi, còn quá trẻ lại phải đối phó với tình hình triều đình khá phức tạp. Mâu thuẫn và chia rẽ giữa hai lực lượng: một bên là các công thần khai quốc, đứng đầu là Đại tư đồ Lê Sát, Lê Ngân; một bên là những quan lại khoa bảng. Mặc dù vậy Thái Tông vẫn đủ bản lĩnh để không cho các đại thần hoàn toàn thao túng.

Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442, Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8, vua về đến Lệ Chi Viên - vườn vải huyện Gia Định - nay thuộc Gia Lương, Bắc Ninh. Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi, được vua yêu quý và luôn phải theo hầu bên cạnh vua. Đêm đó Thái Tông bị bạo bệnh chết đột ngột khi mới 20 tuổi. Bọn gian thần trong triều vu cho Nguyễn Thị Lộ tội ám hại vua, rồi khép Nguyễn Trãi vào án "tru di tam tộc". Ngày 16 tháng 8, Nguyễn Trãi và ba họ bị hành hình. Chỉ có một người thoát chết là bà Phạm Thị Mẫn, một người thiếp khác của Nguyễn Trãi đang mang thai, được học trò của ông đưa trốn sang Lào. Bà Mẫn đẻ ra Nguyễn Anh Vũ. Sau này, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Anh Vũ được vua trọng dụng. Ông Nguyễn Văn Cừ, nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương là "hậu duệ" thuộc dòng họ ở Tiên Du, Bắc Ninh của Nguyễn Trãi.

Vua Lê Thánh Tông mất mới 20 tuổi, nhưng đã có bốn con trai do bốn bà vợ sinh ra. Bà Chiêu Nghi Dương Thị Bí sinh ra Nghi Dân; bà Thần Phi Nguyễn Thị Anh sinh ra hoàng tử Bang Cơ; bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao sinh ra hoàng tử Tư Thành - sau này lên ngôi vua, hiệu là Lê Thánh Tông; và một bà vợ khác sinh ra Cung Vương Khắc Xương.

3. Lê Nhân Tông (Bang Cơ, 1442 - 1459)

Lê Nhân Tông tên huý là Bang Cơ, con thứ của Lê Thái Tông, sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu - 1441. Ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu - 1441 được lập là Hoàng thái tử, ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất - 1442 lên ngôi vua đổi niên hiệu là Thái Hoà. Lúc đó Lê Nhân Tông mới 2 tuổi, Thái hậu Tuyên Từ phải buông rèm nhiếp chính.

Tháng 11 năm Quý Dậu - 1453, vua 12 tuổi, Thái hậu trả quyền chính cho vua rồi lui về ở cung riêng. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ ca ngợi tài năng và đức độ của vua.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Vua tuổi còn thơ ấu đã có thiên tư sáng suốt, vẻ người tuấn tú, đàng hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho, nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu nuôi muôn dân, thực là bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ, không may bị cướp ngôi, giết hại. Thương thay!".

Trước kia, Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Lê Thái Tông, nên Nghi Dân không được lập làm thái tử, mới ngầm chứa mưu gian nhòm ngó ngôi báu, cùng bọn đồng đảng là Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng cầm đầu bọn vô lại côn đồ, đêm ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão - 1459 bắc thang chia làm ba đường, trèo thành cửa Đông, lẻn vào cung cấm giết chết vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu.

Lê Nhân Tông bị giết chết lúc mới 19 tuổi, làm vua được 17 năm.

Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu, rồi lập hoàng tử Tư Thành lên làm vua, đó là Lê Thánh Tông.

4. Lê Thánh Tông (Tư Thành, 1460 - 1497)

Lê Thánh Tông tự là Tư Thành có tên huý là Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao - con gái Thái Bảo Ngô Từ. Lê Tư Thành sinh ra tại chùa Huy Văn - nay ở phía trong ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng (Hàng Bột cũ), Hà Nội. Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi. Mẹ Nhân Tông khi đó đang buông rèm nghe chính sự, cho đón Tư Thành về ở trong cung rồi phong làm Bình Nguyên vương hằng ngày cùng vua Nhân Tông và các vương hầu khác học tập tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người, được vua Nhân Tông rất yêu quý.

Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442. Ngày 6 tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, các quan đại thần phế truất Nghi Dân, rước Tư Thành - lúc đó 18 tuổi - lên ngôi vua.

Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ quân điền, coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông.

Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta.

Bộ Đại việt sử ký toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi - 1479 dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông.

Lê Thánh Tông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi là "Tao Đàn nhị thập bát tú" do nhà vua làm nguyên suý.

Năm 1497, Lê Thánh Tông mất, ở ngôi 37 năm, thọ 56 tuổi, táng ở Chiêu Lăng.

5. Lê Hiến Tông (Lê Tăng, 1498 - 1504)

Lê Hiến Tông có tên huý là Huy, con trưởng của Lê Thánh Tông, mẹ là Trường Lạc Thánh Từ hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng, con gái thứ hai của Trình quốc công Đức Trung.

Hiến Tông sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ - 1461. Ông mất ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tý - 1504, ở ngôi được 6 năm, thọ 44 tuổi.

6. Lê Túc Tông (Lê Thuần, 6/6/1504-7/12/1504)

Lê Túc Tông tên huý là Thuần, là con trai thứ 3 của Lê Hiến Tông, mẹ là Trang Thuận hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hoàn, quê ở Bình Lăng, Thiên Thi, Hưng Yên.

Lê Túc Tông ham học hỏi, thân người hiền, vui điều thiện, đúng là một vị vua giỏi giữ nghiệp thái bình.

Lê Túc Tông lên ngôi vua ngày 6 tháng 6 năm 1504. Tháng 11 năm 1504 mắc bệnh nặng, biết không qua khỏi mới mời các quan triều thần đến để chỉ định người anh thứ 2 là Lê Tuấn lên ngôi vua. Ngày 7 tháng 12 năm 1504 vua Túc Tông mất, ở ngôi được 6 tháng, thọ 17 tuổi.

7. Lê Uy Mục (Lê Tuấn, 1505 - 1509)

Lê Uy Mục tên huý là Tuấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1488, mẹ là Chiêu Nhân hoàng thái hậu Nguyễn Thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, Bắc Giang, lên ngôi vua ngày 22 tháng 1 năm 1505.

Lê Uy Mục từ khi lên ngôi vua ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người, tin dùng người họ mẹ. Sự tàn bạo quá đáng của Lê Uy Mục đã gây bất bình trong dân chúng và triều thần.

Tháng 11 năm 1509, Giản Tu Công Oanh tự xưng là Cẩm Giang Vương ở Tây Đô (Thanh Hoá) đưa quân về chiếm Đông Kinh (Hà Nội) bắt được và bức Lê Uy Mục tự tử tháng 12/1509.

Lê Uy Mục ở ngôi được 4 năm, thọ 22 tuổi.

8. Lê Tương Dực (Lê Oanh, 1509 - 1516)

Lê Tương Dực tên huý là Oanh, là cháu nội của vua Lê Thánh Tông, con thứ hai của Kiến Vương Lê Tân và bà Huy từ hoàng thái hậu Trịnh Thị Tuyên, người làng Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hoá), sinh ngày 25 tháng 6 năm 1495.

Sau khi giết Lê Uy Mục, Oanh tự lập làm vua.

Bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi truỵ lạc. Tháng 5/1514 nghe sàm tấu của Hiệu uý Hữu Vĩnh giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm.

Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngăn, vua không nghe, còn đem Sản ra đánh bằng trượng.

Tháng 4/1516, Trịnh Duy Sản sai đâm chết Tương Dực. Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 22 tuổi.

9. Lê Chiêu Tông (Lê Ý, 1516 - 1522)

Lê Chiêu Tông tên huý là Lê Ý, có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, con trưởng của Cẩm Giang Vương Lê Sùng và bà hoàng thái hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An).

Lê Chiêu Tông sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính Dần - 1506.

Sau khi giết Tương Dực, Trịnh Duy Sản và Lê Nghĩa Chiêu đón Lê Ý về tôn làm vua Lê Chiêu Tông lúc đó mới 11 tuổi.

Dưới triều Lê Chiêu Tông, giặc giã nổi lên như ong, dân chúng khổ sở về cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy.

Mạc Đăng Dung là một trong những người phò lập vua, bằng tài năng quân sự nổi bật đã khôn khéo thâu tóm quyền hành. Quyền uy của Mạc Đăng Dung ngày một lớn. Mạc Đăng Dung cho con gái nuôi vào hầu vua thực ra là để dò xét coi giữ, Mạc Đăng Doanh là con lớn của Mạc Đăng Dung làm chức Dục Mỹ hầu trông coi điện Kim Quang. Bố con Mạc Đăng Dung ngày càng có mưu đồ thoán đoạt.

Trước tình hình đó, Lê Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách triệt hạ thế lực của họ Mạc. Mưu bị bại lộ, vua phải bỏ chạy khỏi kinh thành.

Mạc Đăng Dung đã cùng triều thần lập Lê Xuân, em của Lê Chiêu Tông lên làm vua vào ngày 1 tháng 8 năm Nhâm Ngọ - 1522. Lê Chiêu Tông bị giáng xuống làm Đà Dương Vương rồi bị bắt giết lúc đó mới 21 tuổi, được làm vua 6 năm.

10. Lê Cung Hoàng (Lê Xuân, 1522 - 1527)

Lê Cung Hoàng tên húy là Xuân được Mạc Đăng Dung lập lên làm vua khi 15 tuổi.

Lê Cung Hoàng sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão - 1507. Năm 1524, Mạc Đăng Dung tự mình thăng tước Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tự làm Đô tướng dẫn tất cả thuỷ, lục quân vào đánh Thanh Hoá, bắt được vua Lê Chiêu Tông đem về kinh sư giam cầm và đến tháng 12/1526 thì đem giết chết.

Sau khi giết chết Lê Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung rút quân về đóng ở Cổ Trai, nhưng vẫn chế ngự triều đình. Tháng 4/1527, Cung Hoàng sai Trung sứ Đỗ Hiếu Đế đến làng Cổ Trai tấn phong cho Đăng Dung làm An Hưng Vương.

Mặc dù được vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, nhưng Mạc Đăng Dung vẫn kiên quyết chớp thời cơ giành ngôi hoàng đế về cho họ Mạc.

Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi - 1527, Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép vua phải nhường ngôi, bắt vua và thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi.

Kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi năm 1428 đến Lê Cung Hoàng bị giết vào năm 1527, trải qua 10 đời Vua, cả thảy đúng 99 năm. Các nhà sử học gọi là triều Lê Sơ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 6-1-2012 13:11:48 | Chỉ xem của tác giả
Thế phả triều Hậu Lê

Triều Hậu Lê (Lê Trung Hưng)

1. Lê Trang Tông (1533 - 1548)

Lê Trang Tông tên huý là Duy Ninh, là con của vua Lê Chiêu Tông, mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, cháu năm đời của Lê Thánh Tông.

Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Duy Ninh mới 11 tuổi được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyến. Đến tháng giêng năm Quý Tỵ - 1533 được Chiêu huân công Nguyễn Kim đón về lập lên làm vua, lúc đó Duy Ninh 19 tuổi.

Duy Ninh lên làm vua đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn Nguyễn Kim làm Thượng phụ thái sư Hưng quốc công, lấy Sầm Hà làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Xạ Đẩu để nhờ quân lương, mưu việc lấy lại nước.

Tháng 12 năm 1540, Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về đánh Nghệ An, hào kiệt các nơi theo về giúp Lê Trung Hưng rất đông. Cuối năm 1543, Lê Trung Hưng chiếm được Tây Đô (Thanh Hoá). Nước ta từ đó hình thành "Nam - Bắc triều". Từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào do Lê Trung Hưng cai quản (Nam Triều). Cả vùng Bắc Bộ trong đó có kinh đô Đông Đô thuộc nhà Mạc cai quản (Bắc Triều). Hai bên Lê - Mạc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1543 - 1592).

Năm 1545, Nguyễn Kim tiến đánh Sơn Nam, đến Yên Mô (Ninh Bình), thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết.

Trịnh Kiểm là con rể Nguyễn Kim, nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ "vua Lê, chúa Trịnh".

Năm 1546, Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại (Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa "phù Lê, diệt Mạc", nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời tìm vào Thanh Hoá phò Lê Trung Hưng như Lương Đắc Bằng, Phùng Khắc Khoan...

Năm 1548, Lê Trang Tông mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi được 15 năm. Trịnh Kiểm lập thái tử Duy Huyên lên nối ngôi là Lê Trung Tông.

2. Lê Trung Tông (1548 - 1556)

Lê Trung Tông tên huý là Huyên, là con của Lê Trang Tông, tính tình khoan dung, thông tuệ, có tài lược đế vương.

Năm 1548 được lập làm vua khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông, phong cho Trịnh Kiểm là Lương quốc công quyết định mọi việc triều chính.

Năm 1554, nhà Lê mở khoa thi để chọn nhân tài, lấy đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp 5 người, đệ nhị giáp 8 người như Đinh Bạt Tuỵ, Chu Quang Trứ,... một số tướng tài giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiếu, Lê Khắc Thận... bỏ nhà Mạc vào Tây Đô phò giúp nhà Lê Trung Hưng.

Tháng giêng năm 1556, Lê Trung Tông mất mới 22 tuổi, không có con, ở ngôi được 8 năm.

Trịnh Kiểm bàn với các đại thần rằng: "Nước không thể một ngày không vua", liền sai người đi tìm con cháu nhà Lê, tìm được Lê Duy Bang là cháu sáu đời của Lam quốc công Lê Trừ (anh thứ hai của Lê Lợi) đang ở hương Bố Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá, đón về lập làm vua.

3. Lê Anh Tông (1556 - 1573)

Lê Anh Tông tên huý là Duy Bang, dòng dõi nhà Lê. Anh thứ hai của Lê Lợi là Lê Trừ được phong là Lam quốc công, Trừ sinh ra Khang, Khang sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Thiệu sinh ra Duy Khoáng, Duy Khoáng lấy vợ ở hướng Bố Vệ sinh ra Duy Bang. Khi Lê Trung Tông mất không có con nối, thái sư Trịnh Kiểm và các đại thần tìm được Duy Bang đón về làm vua khi đó đã 25 tuổi.

Mọi việc trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo.

Cũng trong thời gian đó, Nguyễn Hoàng, con thứ 2 của Nguyễn Kim, nhờ chị gái là Ngọc Bảo - vợ Trịnh Kiểm, xin anh rể cho vào trấn thủ xứ Thuận - Quảng, được Trịnh Kiểm đồng ý cho đi.

Mọi việc trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo.

Tháng 2/1570, Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh giành nhau quyền bính, đánh lẫn nhau. Vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành triều chính và đứng ra dàn xếp các mâu thuẫn này, sau Trịnh Cối đem cả vợ con ra hàng nhà Mạc.

Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền để đánh nhà Mạc.

Tháng 3/1572, Lê Cập Đệ, cận thần nhà Lê, mưu giết tả tướng Trịnh Tùng. Việc không thành, Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết. Một số cận thần khác như Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: "Tả tướng cầm quân quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng tồn tại với ông ta được", vua nghi hoặc, đang đêm đem theo bốn hoàng tử cùng chạy đến thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng Trịnh Tùng cùng với triều thần lập con thứ 5 của Lê Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi vua, và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua Lê Anh Tông, khi về đến Lôi Dương - Thanh Hoá, ngầm bức hại vua rồi phao tin là vua tự thắt cổ.

Như vậy Lê Anh Tông ở ngôi được16 năm, thọ 42 tuổi.

4. Lê Thế Tông (1573 - 1599)

Lê Thế Tông tên huý là Duy Đàm, sinh tháng 11/1567. Tháng 1/1573 được lập làm vua khi mới 7 tuổi, quyền hành tất cả ở trong tay tả tướng Trịnh Tùng.

Sau gần 50 năm nội chiến Nam - Bắc Triều với gần 40 trận đánh lớn nhỏ, hàng vạn dân lành bị bắt vào lính, phục vụ cho các cuộc tàn sát khủng khiếp. Có trận mỗi bên huy động hàng chục vạn quân, hai bên giằng co khá quyết liệt, mãi đến năm 1591, Trịnh Tùng huy động tổng lực đánh trận quyết định ở Đông Kinh, tháng 11/1592 bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm được kinh thành. Tháng 2/1593, Trịnh Tùng đón Lê Thế Tông về kinh đô Đông Đô.

Công cuộc Lê Trung Hưng đã hoàn thành. Trịnh Tùng tự xưng là Đô Nguyên suý Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương toàn quyền quyết định. Vua chỉ ngồi chắp tay làm, vì bắt đầu thời kỳ "vua Lê chúa Trịnh".

Ngày 24 tháng Tám năm Kỷ Hợi - 1599, Lê Thế Tông mất, ở ngôi được 26 năm, thọ 33 tuổi.

5. Lê Kính Tông (1600 - 1619)

Lê Kính Tông tên huý là Duy Tân, con thứ của Lê Thế Tông, ngày 27 tháng Tám năm Kỷ Hợi - 1599 được Trịnh Tùng lập làm vua, khi đó mới 11 tuổi.

Từ đầu thế kỷ 17, sau khi đánh tan nhà Mạc, giành lại được kinh đô Đông Đô (dư đảng nhà Mạc phải rút lên Cao Bằng) quyền lực của Trịnh Tùng ngày càng lớn, triều đình chỉ biết phục vụ nhà chúa.

Trước tình hình đó, vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân - con thứ của Trịnh Tùng - mưu giết Trịnh Tùng. Việc bại lộ, Trịnh Xuân bị bắt giam, còn Kính Tông bị bức thắt cổ chết vào ngày 12 tháng Năm năm Kỷ Mùi - 1619.

Lê Kính Tông ở ngôi được 19 năm, thọ 32 tuổi.

6. Lê Thần Tông (1619 - 1643 và 1649 - 1662)

Lê Thần Tông tên huý là Duy Kỳ, con trưởng của Lê Kính Tông và bà Trịnh Thị Ngọc Trinh (con thứ của Trịnh Tùng).

Duy Kỳ sinh ngày 19 tháng 11 năm Đinh Mùi - 1607, là cháu ngoại của Bình An Vương Trịnh Tùng, tháng 6 năm 1619 được lập làm vua khi đó mới 12 tuổi.

Vua có sống mũi cao, thông minh, học rộng, mưu lược sâu, văn chương giỏi. Song lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc (là vợ của chú họ) để tiếng xấu về sau.

Tháng 10/1643, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (tức Lê Chân Tông) để làm Thái thượng hoàng.

Tháng 8 năm 1649, Lê Chân Tông bị bạo bệnh mất, vì không có con nối ngôi, Lê Thần Tông lại trở lại ngôi vua lần thứ 2.

Ngày 22 tháng 9 năm 1662, Lê Thần Tông mất thọ 56 tuổi, ở ngôi 24 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm, lại lên ngôi 13 năm, tổng cộng làm vua 2 lần 37 năm.

7. Lê Chân Tông (1643 - 1649)

Lê Chân Tông tên huý là Duy Hựu, con trưởng của Lê Thần Tông, được truyền ngôi vào năm 13 tuổi, ở ngôi được 6 năm, năm 1649 bị bệnh mất, mới 20 tuổi, chưa có con nối ngôi. Lê Thần tông trở lại ngôi vua lần thứ 2.

8. Lê Huyền Tông (1663 - 1671)

Lê Huyền Tông tên huý là Duy Vũ, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông, được lập làm vua mới 9 tuổi, ở ngôi vua được 8 năm, ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi - 1671, Lê Huyền Tông mất mới 18 tuổi, chưa có con nối.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 6-1-2012 18:23:00 | Chỉ xem của tác giả
9. Lê Gia Tông (1672 - 1675)

Lê Gia Tông tên huý là Duy Hợi, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông và Lê Huyền Tông, được lập làm vua lúc mới 11 tuổi.

Vua tướng mạo anh tú, tính tình khoan hoà, có đức độ làm vua, tiếc rằng ở ngôi được 3 năm, chết mới 15 tuổi, chưa có con nối.

10. Lê Hy Tông (1675 - 1705)

Lê Hy Tông tên huý là Duy Hợp, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Gia Tông, được Tây vương Trịnh Tạc lập làm vua lúc mới 13 tuổi.

Nhà vua dựa vào chúa Trịnh để giữ cơ nghiệp có sẵn, kỷ cương được chấn hưng, được người đời ca ngợi là vua bậc nhất thời Lê Trung Hưng.

Tháng 4 năm Ất Dậu - 1705, nhường ngôi cho con trưởng là Lê Duy Đường. Vua Lê Hy Tông còn vui sống trong cảnh nhàn 12 năm sau mới mất, ở ngôi được 30 năm, thọ 54 tuổi.

11. Lê Dụ Tông (1705 - 1729)

Lê Dụ Tông tên huý là Duy Đường, con trưởng của Lê Hy Tông, được lên ngôi vua năm 1705.

Nhà vua rũ áo, ngồi ở trên, dựa vào chúa Trịnh Cương và quần thần giúp việc đắc lực như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn v.v... Họ đưa ra chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực về kinh tế - tài chính, thi cử, tổ chức hành chính... nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì chúa Trịnh Cương qua đời.

Ngày 20 tháng 4 năm 1729, Lê Dụ Tông nhường ngôi cho con là Duy Phường.

Tháng giêng năm 1731, Thượng hoàng Lê Dụ Tông mất, thọ 52 tuổi, ở ngôi 24 năm.

12. Lê Duy Phường (1729 - 1732)

Thái tử Lê Duy Phường là con thứ của Lê Dụ Tông, cháu ngoại của chúa Trịnh Cương, được vua cha nhường ngôi năm 1729, nhưng khi Trịnh Cương mất thì ngôi vua của Duy Phường không đứng vững.

Khi Trịnh Giang lên nối ngôi chúa, tháng 8/1732 đã giáng Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công và buộc thắt cổ chết vào tháng 9/1735.

Trịnh Giang lập con trưởng của Lê Dụ Tông là Duy Tường lên làm vua.

13. Lê Thuần Tông (1732 - 1735)

Lê Thuần Tông tên huý là Duy Tường, con trưởng của Lê Dụ Tông được chúa Trịnh Giang lập làm vua năm 1732, đổi niên hiệu là Long Đức.

Năm 1735, Thuần Tông mất, thọ 37 tuổi, làm vua được 3 năm.

Lê Thuần Tông mất, chúa Trịnh Giang lập Duy Thìn là con thứ 11 của Lê Dụ Tông lên làm vua.

14. Lê Ý Tông (1735 - 1740)

Lê Ý Tông tên huý là Duy Thìn lên làm vua mới 17 tuổi.

Chúa Trịnh Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, sát hại công thần, giết vua nọ lập vua kia. Vì thế, tháng 12 năm 1738, các tôn thất nhà Lê như Duy Mật, Duy Quý (con Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) nổi lên chiếm cứ miền thượng du tây nam Thanh Hoá chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm.

Từ ngày giết vua, Trịnh Giang ngày càng lấn át quyền vua. Trịnh Giang tha hồ ăn chơi trác táng, vì thế mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Trịnh Giang ở. Bọn hoạn quan tha hồ lũng đoạn triều đình. Các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết hại, thuế khoá nặng nề, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi.

Trước tình hình nguy ngập đó, Trịnh Thái Phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Đường) cho triệu quần thần đến đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn.

Năm 1740, Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm 1740, Trịnh Doanh ép Lê Ý Tông nhường ngôi cho con trưởng của Thuần Tông là Duy Diêu. 19 năm sau Lê Ý Tông mất, thọ 40 tuổi, trị vì được 5 năm.

15. Lê Hiển Tông (1740 - 1786)

Lê Hiển Tông tên huý là Duy Diêu, là ông vua trị vì lâu thứ 2 trong lịch sử phong kiến nước ta - 46 năm, và thọ 70 tuổi.

Nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Doanh nên mười năm sau đất nước trở lại bình yên, dân được an cư lạc nghiệp, được ca ngợi là thời thái bình.

Tháng giêng năm 1764, Hiển Tông lập Duy Vĩ làm thái tử. Năm 1767 Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên thay làm nguyên soái Tĩnh Đô Vương, tháng 3 năm 1769, Trịnh Sâm truất ngôi thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm 1769, Trịnh Sâm giả mệnh vua truất thái tử làm thứ dân rồi vẫn giam ở ngục, lập Duy Cận con thứ của Lê Hiển Tông làm thái tử.

Tháng 12/1771, Trịnh Sâm sai giết thái tử Duy Vĩ, đến tháng Giêng năm 1783 lập Duy Kỳ làm Hoàng Thái Tôn, truất Duy Cận làm Sùng nhượng công.

16. Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống, 1787 - 1788)

Lê Chiêu Thống tên huý là Duy Kỳ, cháu đích tôn của Lê Hiển Tông.

Duy Kỳ được quân tam phủ đưa từ trại giam về ép vua và chúa Trịnh Khải lập làm Hoàng Thái Tôn. Tháng 7/1786, trước khi vua Lê Hiển Tông mất đã cho gọi Thái Tôn, Duy Kỳ vào trối lời truyền ngôi. Duy Kỳ vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân.

Để khôi phục lại triều Lê, tháng 7/1788 Hoàng thái hậu nhà Lê sang cầu viện nhà Mãn Thanh.

Dựa vào thế quân Mãn Thanh, Lê Chiêu Thống trở lại kinh đô Thăng Long đã trả thù tàn bạo những người theo Tây Sơn.

Mồng 5 tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đã đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ở gò Đống Đa giành độc lập cho tổ quốc ta. Lê Chiêu Thống, vua bán nước, đã cùng 25 bầy tôi chạy theo tàn quân nhà Thanh sang Trung Quốc.

Sau năm năm sống lưu vong nhục nhã trên đất Mãn Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc) thọ 28 tuổi, ở ngôi vua chưa được 3 năm.

Như vậy nhà Lê Trung Hưng từ Lê Trang Tông đến vua Lê Chiêu Thống trải qua 16 đời vua với 255 năm trị vì.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách