Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

Lịch sử Việt Nam

 Đóng [Lấy địa chỉ]
81#
Đăng lúc 20-4-2013 13:38:55 | Chỉ xem của tác giả
QUY MÔ VÀ LÃNH THỔ CỦA TRIỀU ĐẠI HỌ TRƯNG RỘNG LỚN ĐẾN ĐÂU?


Những đánh giá của các nhà sử học các thời Trần, Lê cho phép đoán định địa bàn của cuộc kháng chiến, cũng là lãnh thổ của triều đại họ Trưng, rất rộng lớn, đến tận phía ngoài Ngũ Lĩnh.

Về việc kết thúc cuộc chiến giữa Hai Bà với Mã Viện, cách ghi của các tài liệu cũng không nhất trí. An Nam chí lược ghi Hai Bà bị Mã Viện chém, còn Đại Nam quốc sử diễn ca thì viết: Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo/Chị em thất thế phải liều với sông. Dù sao thì cái chết của Hai Bà là sự hy sinh tràn đầy khí phách anh hùng. Hai Bà là người mở đầu công cuộc chống ngoại xâm cứu nước trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc khiến cho con cháu muôn đời khâm phục và biết ơn.



Minh họa cảnh Hai Bà Trưng ra trận.


Chính Lê Tắc (gia thần của Trần Ích Tắc đầu hàng và lưu vong ở đất Nguyên) dù phải viết theo quan điểm của nhà Hán cũng không thể không bộc lộ thái độ thán phục Hai Bà, trong bài Đồ chí ca, Lê Tắc viết: “Mê linh hai gái sánh anh hùng/Chị là Trưng Trắc, em Trưng Nhị/Phất cờ độc lập xứ Giao Châu/Oai phục trăm Man, ai dám ví/Lĩnh Nam sáu mươi lẻ năm thành/Bà chị làm vương, em làm súy/Đường đường tướng Hán Mã Phục Ba/Cắn răng khổ chiến ba năm lẻ”.

Vấn đề thứ hai còn chưa được tìm hiểu kỹ là quy mô về thời gian và không gian triều đại họ Trưng. Có phải lãnh thổ của vua Trưng chỉ là quận Giao Chỉ, Nhật Nam, Cửu Chân và sự nghiệp của triều đại Hai Bà chỉ vẻn vẹn có 3 năm?

Có người đặt vấn đề là, nếu chỉ đến khi chồng bị Tô Định thảm sát, bà Trưng Trắc mới nổi dậy thì khó có thể tập hợp ngay được một lực lượng hùng hậu để nhanh chóng giành lại cả phần lãnh thổ ngoài Ngũ Lĩnh và lập nên một triều đại bề thế mà nhà Hán phải vất vả huy động binh hùng tướng mạnh hao người tốn của mới tiêu diệt được. Phải chăng dân chúng của vua Hùng với lãnh thổ rộng lớn “Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn… chia làm 15 bộ” (Đại Việt sử ký toàn thư) dù bị nhà Hán chiếm cứ vẫn không chịu bị chế ngự.

Thế lực của các Lạc tướng vẫn tồn tại, cho nên khi Hai Bà vừa phất cờ nổi dậy thì “chỉ hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành đã hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay”. Đó chính là cái ý mà các nhà sử học Lê Văn Hưu, Nguyễn Nghiễm, Ngô Thì Sĩ đều cho là “hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương”. Và đó cũng là cái lý để các ông trách cứ “bọn đàn ông” “tự vứt bỏ mình”, trong khoảng hơn nghìn năm “chỉ bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc”, không biết xấu hổ với hai người con gái họ Trưng!

Những ý kiến rất cô đúc đó của các nhà sử học các thời Trần, Lê cũng cho phép chúng ta đoán định địa bàn của cuộc kháng chiến, cũng là lãnh thổ của triều đại họ Trưng, rất rộng lớn, đến tận phía ngoài Ngũ Lĩnh.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... g-lon-den-dau-2894/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
Đăng lúc 20-4-2013 13:49:08 | Chỉ xem của tác giả
18 ĐỜI VUA HÙNG VƯƠNG: MỘT Ý NIỆM VỀ LIÊN TỤC


Đề tài chính của bài này: Chuyện 18 đời vua Hùng Vương có thật hay không? Con số 18 có chính xác chỉ 18 đời vua hay không? Hoặc giả được ghi sai chép trật? Từ 80 đời hoặc 180 đời, chép lộn ra thành 18 đời? Hoặc không có gì hết.

Sau đây xin quan sát chuyện 18 đời dưới một góc độ tương đối mới, và sẽ cố gắng tránh đề cập đến những vấn đề liên hệ, như: trăm con, gốc gác Âu Cơ và Lạc Long Quân, Hùng Vương, Văn Lang, v.v... Xin để dành cho những dịp khác.

Viết về Họ Hồng Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:
Cứ theo tục truyền thì Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.  Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.

Sau đó vẫn theo truyền thuyết Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, thì bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc, đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công Nguyên (TCN).

Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm. Nếu chia ra 18 đời thì mỗi một đời vua kéo dài trung bình 146 năm. Một chuyện hết sức hoang đường, nếu nhớ: (i) Các triều đại vua chúa bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài trung bình khoảng 10-20 năm, như Châu Trang Vương (696-682 TCN), 14 năm chẳng hạn; và (ii) Đời sống con người thời đó trung bình chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Hơn thời sống trong hang động chừng 20 năm.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [2], xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh Tôn, chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, rồi Hùng Vương vào sử sách nước Việt. Trước thời Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có 2 bộ sử nữa, nhưng hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết Lạc Long Quân. Đó là Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, xuất hiện năm 1272, và Đại Việt Sử Lược với tác giả khuyết danh, ra đời trong khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên xử dụng khi soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Đại Việt Sử Lược thất lạc nhiều năm, nhưng về sau được một vị quan nhà Thanh tìm được ở một thư khố bên Tàu.

Chuyện tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như: Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh,... thật ra được Ngô Sĩ Liên  nhập vào bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, từ những sách thuật chuyện u linh hoang đường như: Việt Điện U Linh Tập, và Lĩnh Nam Chích Quái, xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14. Đặc biệt Lĩnh Nam Chích Quái, do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (722-221 TCN).

Trở lại với năm đầu và năm cuối của thời Hồng Bàng. Trần Trọng Kim dùng thẳng tài liệu của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (2879-258 TCN) - nhưng đặt thêm một dấu hỏi (?) sau năm khởi đầu: 2879 TCN. Bởi thật ra, chính Ngô Sĩ Liên cũng chỉ đề cập đến 18 đời ở bên ngoài phần Ngoại Kỷ (từ thời Hồng Bàng đến Ngô sứ quân). Đặc biệt Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối chương về thời Hồng Bàng [2], bày tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ: Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế. Còn Sơn Tinh Thủy Tinh thì ông cho: rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi.

Ngô Sĩ Liên đã đoán rất đúng: Khi nhét các truyền tích vào cổ sử, ông đã tiếp tục gieo nghi ngờ và thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho mãi đến ngày nay. Mặc dù đã căn dặn kỹ: tin sách chẳng bằng không có sách (tận tín thư bất như vô thư) [7].
Mãi cho đến cuối thế kỷ 20, nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa đến một số điều chỉnh về năm tháng. Trong đó niên đại kết thúc đời Hồng Bàng (và bắt đầu thời Thục Phán) được dời về năm 208 TCN (xem ghi chú trong [3]). Đặc biệt, gần đây, họ phối hợp những luận cứ dựa trên các khám phá khảo cổ học về thời đại văn minh Đông Sơn với một đoạn ngắn của quyển Đại Việt Sử Lược [2], thất truyền lâu năm nhưng về sau tìm lại được ở thời Mãn Thanh (bên Tàu)

Đền đời Trang Vương nhà Châu [4] (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang,  phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương .

Xin chú ý đến một vài điểm:
(i) Đại Việt Sử Lược vẫn cho thời đại Hùng Vương kéo dài 18 đời.
(ii) Không có ghi chi tiết Cha Mẹ của Hùng Vương. Tức giấy khai sinh của Hùng Vương không có tên Lạc Long Quân và Âu Cơ.
(iii) Vua Hùng thứ nhất khởi đầu sự nghiệp vào khoảng năm 688 TCN, và kết thúc vào năm 208 TCN. Bình quân 26 năm cho mỗi một đời vua.
(iv) Chính sự dùng dây kết nút để... truyền thông với nhau. Tức không có chữ viết. Không có sử sách gì hết. Tức không giống như văn minh Hoa Hạ ở khu vực bình nguyên sông Hoàng Hà.

Tóm tắt:
- Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN
- Theo nhiều tài liệu sử hiện nay, dựa trên tài liệu khai quật và Đại Việt Sử Lược, 18 đời Hùng Vương: khoảng 688-208 TCN
Thế nhưng vẫn có nhiều người hãy còn ... ấm ức không đồng ý, bởi làm như vậy số năm văn hiến của nước Việt sẽ bị rút xuống còn dưới 3000 năm, thay vì 4000 năm văn hiến như xưa. (Xem [8]). Tức trong khi văn minh Hoa Hạ đã nở rộ, đời sống con người ở nước Nam hãy còn khá ...man di.

Sau đây chúng ta thử nhìn vấn đề dưới một góc độ khác. Một góc nhìn chịu ảnh hưởng của toán học. Trong đó có số âm, số dương, số thực và ... số ảo. Có hệ thống đếm số 10, hệ thống đếm số 5 (như dân Khmer ở cổ thời [11]), hệ thống đếm số 2 (như trong máy điện toán). Cũng như ý niệm về tập hợp.

Những con số 18

Để ý con số 18 hầu hết trên toàn thế giới ngày nay thường được dùng để định mức tuổi trưởng thành của người công dân. Tuổi công dân. Bất cứ mọi dân tộc nào trên thế giới cũng biết đến số 18 này.

Đối với văn hoá miền Hoa Nam, nhất là đối với người Quảng Đông và Hongkong, số 18 là một con số hên. Phát âm số 18 theo kiểu Quảng Đông: /xập bát/ (mười tám, thập bát). Âm điệu rất giống với /xật phát/ (tất phát), mang nghĩa ‘thế nào cũng phát tài’.

Số 18 cho tuổi công dân, và số hên của người Quảng Đông không có liên hệ gì hết đối với 18 đời vua Hùng. Tuy nhiên, nếu nhìn trở lại cội nguồn của lịch sử nước Tàu chúng ta sẽ thấy ngay con số 18 đã xuất hiện khi người Hoa bắt đầu viết sử sách. Trước hết họ thêu dệt câu chuyện ông Bàn Cổ, thủy tổ loài người, tức dân Trung Quốc.

‘Theo tục truyền’, thuở ban đầu trời đất lẫn lộn với nhau thành một khối, rất hỗn độn. Vũ trụ là một cái trứng khổng lồ chứa Bàn Cổ trong đó [13]. Bàn Cổ ngủ trong trứng đến ‘18 ngàn’ năm, rồi mới thức dậy. Thấy ngột ngạt, Bàn Cổ mới lấy cây rìu rộng đập vỡ vỏ trứng. Ánh sáng và khí thoát lên trên tạo thành Trời, và phần lạnh và đục như chất bùn lắng xuống phía dưới tạo thành Đất. Bàn Cổ đứng chính giữa, đầu đội trời chân đạp đất. Cả ba thực thể đó đều tăng trưởng với mức độ mỗi ngày dài thêm một trượng, tức chừng 3.3 thước (mét) tây. Rồi 18 ngàn năm nữa trôi qua, Bàn Cổ vẫn đứng chính giữa, ngăn cách Trời và Đất. Đến lúc Bàn Cổ mất, chiều cao của Bàn Cổ đã đạt đến 9 triệu lí (xin để ý 18 chia cho 2 ra 9). Hơi thở Bàn Cổ trở thành gió và mây, tiếng thành sấm. Một con mắt trở thành mặt trời, con mắt kia thành mặt trăng. Thân và tay chân biến thành 5 ngọn núi lớn. Máu thành sông biển. Râu tóc trở nên bao nhiêu ngôi sao và tinh tú ở trên trời. Vân vân và vân vân.
Xin để ý, con số 18 trong chuyện Bàn Cổ có vẻ thuần nhất chỉ một chuỗi trình liên tục, một thứ chu kỳ [4]. Những sự kiện hay sự vật trong đó mang cùng chung một số đặc tính. Trong 18 ngàn năm đầu: Bàn Cổ chìm trong giấc ngủ. Một liên tục: Ngủ. Liên tục kế tiếp: Thức, trong thế đứng, thế chổng, đầu đội trời chân đạp đất. ‘Liên tục’ này cũng kéo dài 18 ngàn năm. Cuối cùng, khi kết thúc liên tục ‘thức’, hay chu kỳ ‘thức’,  Bàn Cổ cao được 9 triệu lí (1 lí = 600 thước). Con số 9 thật ra chỉ là 18 chia cho 2.

Sau Bàn Cổ một ít lâu, xã hội của chủng Hoa nguyên thuỷ bên sông Hoàng Hà có 3 vị vua trứ danh (Tam Hoàng), và 5 đế nổi tiếng (Ngũ Đế). Tuy nhiên có chừng 5-8 giả thiết khác nhau về tên họ của những vị này. Danh sách Tam Hoàng đáng kể và thường thấy nhất chính là: Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế [14] [18]. Bà Nữ Oa cũng có tên trong một số danh sách Tam Hoàng. Trong số các danh sách Ngũ Đế, một số có tên vua Nghiêu và vua Thuấn. Theo thiển ý, những vị Tam Hoàng – Ngũ Đế kiểu này chỉ mang tính chất biểu tượng cho khối chủng tộc. Thí dụ: Vua Thần Nông chỉ mang nghĩa: dân Hoa thời đó bắt đầu sinh sống bằng nghề Nông. Bà Nữ Oa đội đá vá Trời: Hoa chủng thuở xa xưa mang Mẫu Hệ.

Chỉ có vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun) là có vẻ ‘bán-huyền-thoại’ [12]. Thuấn sau cùng truyền ngôi lại cho ông Yũ (Vũ), khởi đầu triều đại đầu tiên của nước Tàu: nhà HẠ. Nhà Hạ kéo dài được 18 đời với vua cuối là Kiệt. Vua Kiệt là một bạo chúa, ham mê trụy lạc, nên bị Thành Thang hội chư hầu lật đổ và thiết lập nên nhà Thang hay Thương (còn gọi Ân (Yin), 1070-1027 trước Công Nguyên). Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu khai quật để minh chứng hiện diện của nhà Hạ. Nhưng có rất nhiều chứng tích về nhà Thương [9] [12] [17].

Một lần nữa, con số 18 xuất hiện chỉ 18 đời vua nhà Hạ. Có thể để ý:
- Sử gia Trung quốc biết rất ít về nhà Hạ, ngoài những truyền tích trong dân gian. Đặc biệt vua Kiệt vì mê nàng Muội Hỷ nên mất nước.
- 18 đời vua Hạ một lần nữa lại chỉ một liên tục có cùng chung một số đặc tính. Đó là chu kỳ đời nhà Hạ. Chi tiết không được rõ!
- Số 18 do đó có thể hàm ý một ẩn số. Một ẩn số khá hoa mỹ trong ngôn ngữ và văn minh Hoa Hạ, thay vì ‘x’ như trong toán học ngày nay.

Xin quan sát tiếp.

Vào một dịp tình cờ, trong những ngày nghỉ nhân dịp Giáng Sinh và đầu năm 2005, tại hạ tìm ra được một tiệm chuyên cho mướn đĩa DVD chuyên về phim Hongkong, phim Hàn quốc, nhất là loại kiếm hiệp trữ tình. Loạt phim kiếm hiệp thuộc thời vàng son điện ảnh Hongkong, của Shaw Brothers (Run Run Shaw và Runme Shaw), vào thập niên 1960-70 được cho in lại vào dạng DVD. Thế là liên tiếp nhiều hôm, tại hạ cho đĩa DVD vào máy rồi ngồi xem lại những phim kungfu cũ do các tài tử gạo cội thời đó thủ diễn. Như: Trần Quan Đại, La Liệt, Trần Tinh, Vương Yũ, Khương Đại Vệ (David Chiang), Phó Thanh, … Phải nhìn nhận phim kiếm hiệp Hongkong thời đó thật hay. Hay đến nỗi nhà đạo diễn lừng danh Mỹ Quentin Tarantino gần đây đã làm 2 phim Kill Bill với Uma Thurman, để vinh danh thời vàng son của điện ảnh Hương cảng.

Liên tiếp hai phim Hongkong đã xử dụng ý niệm ‘18’ để chỉ một liên tục, một chu kỳ. Thứ nhất, bộ phim 3 điã DVD về ‘Xạ Điêu Anh Hùng Truyện’ phóng tác theo tiểu thuyết của Kim Dung, với tài tử đoản mệnh Phó Thanh trong vai Quách Tĩnh. Và thứ hai, phim ‘Thế võ Bọ Ngựa’ (Shaolin Mantis) do David Chiang (Khương Đại Vệ, Kang Da Wei) đóng vai chính.

Ở phim ‘Xạ Điêu Anh Hùng’, đoạn Bắc Cái bị rắn của Tây Độc cắn, tàn phế võ công. Bắc Cái Hồng Thất Công mới truyền ngôi Bang chủ Cái Bang cho Hoàng Dung. Lúc truyền chức vụ Bang chủ, Hồng Thất Công có nói với Hoàng Dung, đại khái:’Bây giờ thầy xin truyền lại cho con chức vụ Bang Chủ của Cái Bang. Từ khi Bang ta được thành lập, đến đời của Thầy là đời thứ 18,…’
Cũng lại con số 18, trong một câu chuyện hoàn toàn hư cấu. Một con số ảo, trong một bối cảnh với nhân vật ảo. Nhưng trên một nền tảng văn minh… có thật và thứ thiệt. Con số 18 ở đây lại đánh dấu kết thúc 1 chu kỳ, một liên tục trong chiều thời gian. Chu kỳ đó là một chu kỳ của các Bang Chủ thuộc nam phái. Nó kết thúc bởi Hoàng Dung là một người nữ, con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư, trở thành một Bang chủ mới.

Phim thứ hai kế tiếp, cũng dùng con số 18, đã cuối cùng thuyết phục được tại hạ và đem lại hứng khởi viết nên bài này. Đó là phim ‘Thế võ Bọ Ngựa Thiếu Lâm’ (Shaolin Mantis) do Khương Đại Vệ thủ vai chính. Chuyện phim nói về vụ người Hán lúc nào cũng lén lút tụ tập lo bài Mãn phục Minh. Vua Mãn Thanh ngày nọ mới phái đại hiệp Wai Fong (David Chiang) văn võ toàn tài đi truy tầm một đám phục quốc lợi hại ở miền Giang Nam. Wai Fong phải trá hình làm một ông đồ ngốc nghếch, để len vào một gia đình vọng tộc, có tinh thần phục quốc cao, với võ nghệ rất siêu quần. Gia đình ấy có một người con gái rất khoái võ nhưng không chịu học chữ. Thầy đồ nào đến nhà dạy dỗ cho cô ta thường chỉ chịu được năm bảy ngày, rồi cũng phải cuốn gói chuồn êm. Lúc Wai Fong đến thị trấn, y gặp thị đang đánh đập và đuổi  ông Thầy đồ già bởi không được vừa ý với lối dạy của ông. Thấy Wai Fong đẹp trai, nho nhã, cô ta mới mời dọn về nhà để làm lão sư mới cho cô. Trước khi cho việc thầy Wai Fong, cô này báo động trước, đại khái: ‘Anh có chắc đủ sức làm thầy tôi không. Anh coi chừng rồi cũng như ông thầy già, ban nãy bị tôi đuổi việc. Anh biết hôn, ông Thầy đó là ông Thầy thứ 18 rồi đó.’

Thật quá rõ: số 18 được dùng để chỉ một tập hợp, một liên tục, hay chu kỳ. Trong trường hợp phim ‘Quyền Bọ ngựa’ nói trên, nó chỉ một chu kỳ hay tập hợp những ông thầy đồ già, có mạng ngũ hành không khắc được cô học trò ngỗ nghịch hư hỏng kia. ‘Liên tục’ đó sẽ được khép kín lại sau khi thầy Wai Fong nhận việc. Bởi thầy Wai Fong sẽ mở màn cho một ‘liên tục’ mới. Một liên tục, tràn đầy những ca khúc tình yêu, dẫn đến tình vợ chồng giữa cô học trò tinh ý và ông thầy Wai Fong.
Ta để ý, trong tất cả các trường  hợp dùng 18 - từ 18 đời vua nhà Hạ cho đến 18 ông thầy không trị được học trò – danh tánh và chi tiết về 18 vị đó hoàn toàn mang tính cách… không quan trọng. Không thành vấn đề. Người phát ngôn ra con số 18 đó có vẻ chỉ muốn chúng ta biết ‘đó là một con số nào đó’, có thể lớn hơn 2, hoặc nhiều hơn 3. Và cũng có thể là một con số Không (0). Số chính xác không quan trọng. Bởi thực chất của nó chẳng có quan trọng. Nhưng quan trọng hơn chỉ ở chỗ những phần tử trong ‘tập hợp’ đó mang cùng một số đặc tính chung. Xin được lập lại, số 18 trong văn minh Hoa Hạ có vẻ mang chung một ý nghĩa như ‘ẩn số X’ trong toán học. X= 0,1, 2, 3,…. Nhưng ký hiệu ‘18’ đó có vẻ hoa mỹ hơn, chải chuốt hơn X. Và cũng có ý của một số bán xác định hay bất chợt, tương đương với N trong toán học. Với ngụ ý: không cần tìm hiểu rõ chi tiết về đặc tính của những nhân vật mang số từ 1 đến 18 làm gì. Chỉ cần hiểu đó là một tập hợp, một liên tục, chu kỳ, hay chuỗi trình kín, nay đã hoàn toàn kết thúc.

Bội số của 18 và 9

Bất cứ ai cũng đều biết rõ 18 chính là: 9 nhân cho 2. Khoảng cách từ mặt đất đến trời xanh, theo ý niệm người Hoa thời cổ đại, bằng chiều cao của Bàn Cổ, tức 9 triệu lý (= 4600000 km). Cũng dùng con số 9.

Rất nhiều số đếm của văn minh Trung quốc vẫn dùng đến 9 hoặc 18, và bội số của chúng.

Về võ nghệ, ta có ‘thập bát ban võ nghệ’ tức 18 kiểu đánh võ khác nhau. Gồm: đánh côn, đi quyền, v.v... Nhưng thật sự ít khi thấy sách vở Tàu ghi lại đầy đủ 18 lối đánh võ khác nhau đó. Nếu đọc truyện Tàu xưa, ta cũng thường thấy: ‘tam thập lục kế yĩ đào vi thượng’: trong 36 kế, kế chạy trốn là hay nhất. 36 chính là = 18 nhân 2. Cũng ít thấy ai cho biết chi tiết của từng mưu kế trong con số 36 kế đó. Chùa Thiếu Lâm cũng vậy. Nhiều phim kungfu hư cấu cho thấy phái Thiếu Lâm có đến 36 phòng luyện võ. Mỗi phòng một kiểu luyện khác nhau. Nhưng cũng ít khi quay cho thấy đầy đủ 36 phòng đó.

Đọc Tây Du Ký, ta để ý hai nhân vật có bùa phép thần thông quảng đại nhất. Người thứ nhất là Tôn Ngộ Không, tức Tề Thiên Đại Thánh. Người thứ hai, Dương Tiễn tức Nhị Lang. Cả hai đều có đến 72 thứ phép tắc thần tiên. Thường gọi: thất thập nhị huyền công. Xin kể vài thứ phép. Tôn Ngộ Không có thể bứt một cọng tóc thổi phù một cái. Presto! Cọng tóc biến ngay ra thành một Clone Tôn Ngộ Không khác, với khả năng bùa phép, võ nghệ y hệt như Tôn Ngộ Không thiệt. Tôn Ngộ Không cũng có thể uốn người nhảy lên không trung một cái, lập tức biến thành con chim. Nhị Lang Dương Tiễn cũng vậy. Cũng đầy đủ 72 thứ bùa phép y như Tôn Ngộ Không. Nhưng có lẽ vì y thuộc loại quan ở trên Trời, đi đâu cũng có chó theo, nên tác giả cho y thuộc phe chánh đạo, phải trên rơ phe tà đạo đại diện bằng Tề Thiên. Cũng có thể y mang mạng Kim, phía Tây, nên có vẻ trên cơ hơn một chút và khắc được Tôn Ngộ Không, mạng Thổ, phía Đông. Tuy cả hai cùng có ‘thất thập nhị huyền công’ như nhau.

Nhưng đặc biệt để ý, tác giả Ngô Thừa Ân không bao giờ liệt kê đầy đủ 72 thứ phép thần thông đó gồm những thứ phép nào. Ta chỉ biết 72 là một bội số của 18, và tất nhiên của 9:  72= 18 x 4;  72= 9 x 8.

Như vậy có thể tóm tắt: Trong văn minh người Hoa, họ rất thích dùng những con số như 9, 18,  36, 72, 108 (108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong ‘Thủy Hử’),… Tất cả đều là bội số của 18, đặc biệt cũng là bội số con số 9.
Thế tại sao họ lại thích con số 9? Có nhiều lý do, và xin để lý do chính qua phần sau. Lý do thông thường: số 9 là số dùng để chỉ vua chúa.

Người Trung quốc từ thời xa xưa đã dành số lẻ để chỉ đàn ông, và số chẵn chỉ đàn bà. Con số 9 tượng trưng cho người đàn ông có uy quyền nhất. Số 9 do đó dùng để chỉ các bậc đế vương.

Theo chuyện kể của Ngọc Phương [10], ‘những toà điện trong Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh gồm 9900 gian nhà. Các tháp canh ở bốn góc cung điện đều có 9 xà và 18 cột. Còn trên các bức từơng bình phong có trạm khắc 9 con rồng…

Một ví dụ điển hình nhất về con số 9 huyền thoại là bệ thờ ở Thiên Đàn Bắc Kinh – nơi các hoàng đế thời Minh và Thanh hàng năm thường tế Trời để cầu cho quốc thái dân an. Bệ thờ có hình tròn, xây thành 3 cấp. Mặt trên của bệ thờ ghép bằng 9 vòng đá đồng tâm. Vòng đá trong cùng gồm 9 phiến đá hình quạt, vòng thứ hai gồm 18 phiến (9x2), vòng thứ ba 27 phiến (9x3), … cho đến vòng ngoài cùng, vòng thứ 9 gồm 81 phiến (9x9) ghép lại.’

Hệ số đếm dùng con số 9

Giải đáp số 9 là số của vua chúa, tuy tiến thêm 1 bước nhưng vẫn chưa giải thích được toàn diện tại sao người Hoa từ xưa vẫn ưa dùng các bội số của 9, như 36, 72, 108, và nhất là 18. Mặc dù rằng chúng ta đã khá đủ tư liệu, kể trên, để chứng minh rằng: số 18 trong ‘18 đời vua Hùng’ chỉ là một con số quy về ý niệm của một liên tục, một châu kì, một tập hợp kín.

Đóng góp quan trọng thứ hai của bài này chính là giả thuyết: Người Hoa nguyên thủy, kể luôn  cả chủng Yueh (Việt) ở phía Nam sông Dương Tử, vào thuở khai thiên lập địa, tạo dựng nên xã hội, đã dùng hệ thống đếm dựa trên con số 9, chứ không phải con số 10 theo hệ thống thập phân hiện nay. Phát hiện này, mặc dù còn trong dạng giả thuyết, có lẽ từ xưa đến nay chưa thấy bàn đến trong sách vở. Và có lẽ chính người Hoa cũng không ngờ tới chuyện này.

Thế nào là hệ thống đếm số 9? Muốn hiểu hệ thống đếm số 9 ta thử nhờ một em bé đếm thử từ 1 đến 20. Em đếm, bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới:
1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9  rồi 10. Tức con số lớn nhất trong hệ thống thập phân. Sau đó, em đếm tiếp: 10+1, em gọi tắt ‘mười một’,  rồi 10+2, gọi tắt 12, 10+3, gọi tắt 13,… tuốt đến 19 (tức 10+9). Sau đó, em đếm 10+10. Nhưng 10+10, em nghĩ có vẻ bất tiện, nên thế bằng: 2 lần 10, gọi tắt thành ‘hai mười’, tức ‘hai mươi=20’. Tiếp theo đó: 20+1, tức 21; 20+2, tức 22, v.v.

Như đã phân tích kỹ trong bài viết về hệ thống đếm số của người Mường (hệ 9) [11], ở thời cổ đại có nhiều hệ thống đếm số khác nhau. Thí dụ, người Khờ-Me tức Cam Bốt ngày nay, dùng hệ thống đếm số 5. Tức khi đếm tới số 5 là hết. Họ phải đếm lại dùng số 1 ban đầu. Nghĩa là họ xem số 6 như là 5+1. Tiếp tục: 7=5+2,…

Phát âm về số đếm trong tiếng Cam Bốt, từ 1-12, xin liệt kê như sau:
0 = son  {đọc như: /sohn/}  => không
1 = múay  /mooeh/ => một
2 = bpii /bpee/ => hai
3 = bey  /bay/  => ba
4 = buan  /booan/ => bốn
5 = bram /blam/ => năm => Số lớn nhất trong hệ
5. Muốn đếm tiếp, phải dùng đến số 5, rồi cộng thêm:
6 = bram-múay /blam-mooeh/ => sáu => sáu (6)= bram (5)+muay (1): bram-muay
7 = bram-bpil  /bram-bpee/ => bảy=> bảy (7)= bram (5)+bpil (2): bram-bpil
8 = bram-bey  /bram-bay/  => tám => 8= bram (5)+bey (3)
9 = bram-búan /bram-booan/ => chín => 9= bram (5)+buan (4)
10 = dop /dup/  => mười => một tên gọi mới có nghĩa 2x5
11 = dop-muay /dup-mooeh/ => 11= dop (10)+muay (1), mười một
12 = dop-bpii  /dup-bpie/  => 12= dop (10)+bpie (2), mười hai ……………………
16 = dop-brammuay /dup-blammơoeh/ => 16= dop (10)+bram(5)+muay(1)

Như vậy, đối với hệ đếm số 5, số 5 là số lớn nhất. Hệ đếm này dựa vào lối đếm dùng bàn tay 5 ngón.
Đối với hệ thống đếm số 10 như toàn cầu xử dụng hiện nay, số 10 là số lớn nhất. Hệ đếm số 10 xử dụng cả 10 ngón tay.
Đối với hệ thống đếm số 9, số 9 là số lớn nhất. Trong hệ đếm đó, số 9 lớn nhất đã được dùng để chỉ vua chúa. Hệ thống đếm số 9, theo thiển ý, đã dành 1 ngón tay để chỉ số không (0). Còn lại 9 ngón kia dành cho số đếm từ 1 đến 9.
Hệ thống đếm số 9 vận hành ra sao? Như thường, đếm từ 1 đến 9. Số 10 đã được đếm như 9+1. Mười một: 9+2, v.v... cho đến 17= 9+8.
Rồi 18 sẽ được gọi như = 2 lần 9. Tức 29. Số 19 sẽ trở thành ‘2 lần 9 + 1’. Đếm tuốt đến 27 ta sẽ đếm theo hệ thống 9 thành 39, tức 3 lần 9. Ba lần chin = 39 = 3x9 = 27. Đúng là những con số Bình Nguyên Lộc [5] đã nêu lên thắc mắc không hiểu tại sao người Mường lại đếm số khác với Việt. Việt gọi số đếm 27, trong khi Mường gọi đó 39. Số 39 của Mường mang nghĩa 3 lần 9, thuộc hệ thống đếm số 9. Việt 27 = Mường 39. Hai mươi bảy bằng vơí ba nhân cho chin lần, 27= 3x9. Mường đọc ‘ba chỉn’, tức 39. Muốn biết rõ về người Mường, và nếp sống cùng văn hoá của họ xin xem tác phẩm của Jeanne Cuisinier về xã hội Mường xuất bản vào năm 1946 [15].

Rất có thể người Hoa ở thời mới tạo dựng xã hội đã dùng hệ thống đếm 9, bởi những lý do sau:
(i) Họ đã dùng số 9 để chỉ người đàn ông có quyền lực nhất. Số 9 là số lớn nhất trong hệ thống đếm số 9. Chứ không phải trong hệ thống đếm số 10 như Ngọc Phương đã trình bày [10].
(ii) Vào thời cổ đại, thật cổ, văn minh Trung Đông chưa truyền đến Trung Quốc. Người Hoa chắc chắn phải có một hệ thống đếm hơi khác với hệ đếm số 10, của Trung Đông. Mặc dù rằng có thể đến đời nhà Thương, hoặc đầu đời nhà Châu (khoảng năm 1000 trước Công Nguyên), hệ thống đếm số 10 đã du nhập đến Khu vực sông Hoàng Hà.
(iii) Người Hoa vẫn thích dùng bội số của 9, như 18, 36, 72,… Y như những người quen hệ thống 10, sẽ thích dùng: 10, 20, 30, 40…
(iv) Người Mường cho đến giữa thế kỷ 20 vẫn còn dùng hệ thống đếm số 9, họ đã mang theo khi di cư về phía Nam. Người Mường là ai? Đại khái họ cũng cùng chung chủng Yueh (Việt), nhưng thuộc chi Thái. Khi xưa họ tập trung ở vùng phía Nam sông Dương Tử, đặc biệt tại nước Ba và Thục, giáp giới với nhà Tây Châu (770-476 TCN). Sau khi nước Thục bị nhà Tần dứt điểm, họ thiên cư về Nam, và gia nhập cộng đồng Tây Âu ở khu vực Quảng Tây, Quí Châu, ngày nay. Bởi những gì họ còn giữ, rất có khả năng đã được chia xẻ qua lại với Hoa chủng bên nước Châu ngày trước. Nên nếu họ còn giữ hệ thống đếm số 9, người Hoa thứ thiệt tại nước Châu ngày xưa thật xưa chắc cũng đã dùng hệ đếm số 9 đó.
(v) Nếu ở cổ thời, lúc văn minh phương Tây chưa mang sang hệ đếm số 10, rất có khả năng cả hai vùng Hoa Nam và Hoa Bắc đều xử dụng và quen thuộc với hệ đếm theo số 9. Từ đó họ sẽ quen dùng những bội số như 18, 24, 36, 72, v.v...
(vi) 18 đời vua nhà Hạ, triều đại khởi thủy của nước Tàu, đã xử dụng con số 18 theo thói quen của hệ thống đếm số 9 đó. Và từ đó việc vay mượn ý niệm triều đại Hồng Bàng của Tàu đưa vào truyền thuyết dựng nước ở phía Nam, chắc cũng không có gì lạ cả.

Tóm tắt

Bài này thử nhìn vấn đề ’18 đời vua Hùng’ dưới góc độ toán học và văn minh Hoa Hạ. Kết quả cho thấy con số 18 thật ra chỉ là một con số bất chợt, không liên hệ đến chi tiết lịch sử.

Số 18, trong văn hoá Trung quốc, thông thường được dùng để chỉ một chu kỳ. Hoặc một liên tục, một tập hợp, mà những phần tử trong tập hợp đó có cùng chung một số đặc tính. Ở một mặt khác, nó là một con số che lấp những thiếu thốn về hiểu biết và chi tiết về tính chất của từng phần tử trong tập hợp đó. Nói một cách khác, số 18 chỉ là một lối nói cho văn vẻ, dùng toán số (2x9= 18) của giới sĩ phu Trung quốc. Có lẽ với mục đích… để hù những người không biết chữ, và cũng để cho bài viết, bài văn cho được trôi chảy, không có những điều ‘không biết’. Số 18 là một con số dùng để…che mắt, lấp loát những cái không biết.

Số 18 hoặc 36, 72, hay về sau ‘Bách’ tức 100, như dùng để chỉ khối chủng Yueh (Bách Việt), đã được xử dụng hết sức tiện nghi. ‘Bách’ dùng để chỉ số nhiều, đếm không hết, chứ không phải 100. Bởi vào thời Xuân Thu, ở phía Bắc sông Dương Tử có đến trên dưới 1000 nước [12]. Khối Yueh ở phía Nam chắc cũng tương tự, vượt trên 100 rất xa. Do đó nếu ‘Bách’ (100) là một con số bất chợt, thì ‘thập bát’ (18) cũng chỉ như vậy mà thôi.

Nhìn lại công trình của Ngô Sĩ Liên dười góc độ của thế kỷ 21 hiện nay, bắt buộc ta phải có một cái nhìn khác. Trong góc nhìn đó, chúng ta phải nhớ, Ngô Sĩ Liên và cộng sự đã có tư duy rất khó vượt khỏi lối suy nghĩ, lối viết lách của những sư phụ ở Bắc phương. Họ phải theo một khuôn khổ định trước để chứng tỏ tri thức đã đạt tới mức chuẩn của giới khoa bảng ở phương Bắc. Từ đó ta có thể thấy:
(i) Truyền thuyết viết ra sao, họ chép y lại như vậy. Chỉ được phép than thở hoài nghi trong phần luận bàn mà thôi. Đặc biệt nhất, Ngô Sĩ Liên đã căn dặn hậu bối: ‘Hoàn toàn tin vào sách chẳng bằng không có sách’.
(ii) Lối viết sử kiểu Tàu ra sao, họ sẽ theo y như vậy. Tàu không biết nhiều về nhà Hạ, nên phải gom góp các chuyện cổ tích, các truyền thuyết, rồi đưa vào con số 18 rất phổ thông, để gói ghém một trang sử cổ cho được đẹp mắt. Không có cách gì khác, phía bên An-nam cũng làm theo y như vậy. Họ làm việc qua nhiều tác phẩm và nhiều năm tháng, để rồi sau cùng, Ngô Sĩ Liên và các cộng sự thu thập tất cả, đặc biệt 18 đời vua Hồng Bàng, rồi đưa vào bộ Sử Ký có tầm vóc đầu tiên của nước Nam.
(iii) Đặc biệt 18 đời vua Hồng Bàng Việt Nam, rập y khuôn 18 đời vua nhà Hạ, triều đại hồng bàng ở bên Tàu. Để ý rất nhiều bài viết trong vài thập kỷ qua ưa liệt kê danh sách các đời vua Hùng. Khổ nỗi tất cả đều viết tên hiệu bằng…chữ Hán ròng. Thí dụ, Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương, v.v. Y như là cái nước của mấy ông vua Hùng giống như mấy cái nước chư hầu ở đời nhà Châu phía bắc sông Dương Tử, thời Xuân Thu Chiến quốc. Và những vua Hùng này có lẽ nói với thần dân của các ông bằng tiếng Tàu, trước khi người Tàu đến nước đó cả ngàn năm.
(iv) Truyền thuyết dựng nước đó, ở mặt cội nguồn, cũng không quên lôi thêm một trong những biểu tượng xã hội nguyên thủy của Tàu là ‘vua’ Thần Nông. Theo thiển ý, Thần Nông chỉ là một biểu tượng, chỉ một xã hội đã tiến lên ngành canh nông để kiếm ăn, sinh sống. Nó cũng giống như thời bây giờ, người ta dùng ‘Thế Kỷ 18’ để chỉ thời đại con người đạt đến cách mạng công nghệ. Hoặc, trong một tương lai nào đó, có thể người ta dùng ‘thời đại Bill Gates’ để chỉ thời đại điện toán, và internet. Chứ không phải Bill Gates là ông tổng thống toàn cầu ở vào thế kỷ 21, đối với hậu thế  4 ngàn năm sau, có thể đoán nhầm, v.v...

(v) Con số 18, thường dùng trong văn hoá Trung quốc để chỉ một chuỗi trình nào đó theo với chiều thời gian, mà chi tiết thường không biết rõ. Như một tập hợp, như một liên tục nay đã khép kín. Bản chất chi tiết của từng phần tử trong tập hợp hay liên tục đó vẫn là ẩn số cho đến ngày nay. Tháng 3, 2005 N.N.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... em-ve-lien-tuc-340/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
Đăng lúc 20-4-2013 13:51:52 | Chỉ xem của tác giả
VŨ KHÍ CỦA CHA ÔNG TA: THUYỀN CHIẾN


Tới thời nhà Lý, quân thủy vẫn được coi là đội quân nòng cốt. Biểu hiện rõ rệt của thiên hướng phát triển quân thuỷ trong thời Lý còn ở chỗ nhà Lý rất chú trọng việc đóng thuyền.

Chính những chiếc thuyền chiến cùng đội quân thủy tinh nhuệ đã giúp nhà Lý trong những cuộc hành quân đánh Chiêm, phá Ung, Khâm, Liêm (năm 1075) và chống Tống (năm 1077).

Chiến thuyền nhà Lý

Theo sử liệu, loại thuyền chiến phổ biến nhất thời đó là Mông đồng. Đây là loại thuyền có khả năng tải trọng và hành trình rất tốt. Những cuộc hành quân đánh Chiêm Thành, vượt biển đánh Khâm, Liêm.... đã chứng tỏ điều đó.

Thuyền chiến còn có khả năng chở voi vượt biển làm quà trong những lễ nghi ngoại giao hoặc tăng sức đánh bộ trong những trận tập kích vượt biển.



Tranh tái hiện chiến thắng Bạch Đằng chống quân Nguyên Mông năm 1288.


Năm 1155 - 1156, nhà Lý cử sứ giả mang 5 con voi, theo đương biển vào cảng Khâm Châu làm quà cho vua Tống. Trong trận tập kích vào cảng Khâm năm 1075, từ Vĩnh An (khu vực Trà Cổ hỉện nay ) thuyền chiến của quân Lý đã đảm bảo chuyển hàng vạn quân bí mật vượt biển, tập kích rất bất ngờ vào cảng, khiến cho quan quân Tống chưa kịp đề phòng đã bị quân ta bắt sống gần như toàn bộ.

Đáng lưu ý, quân Lý có thể đã vượt biển trong đêm,qua một đoạn đương hàng trăm cây số trong mùa gió ngược. Lúc này vào khoảng cuối năm, theo thống kê của các nhà khí tượng học, thì vào tháng 12, khi cuộc tập kích đó diễn ra (29/12/1075), các đợt gió mùa đông bắc tập trung dày nhất.

Vượt qua những trở ngại về thời tiết, những đòi hỏi rất khắt khe về thời gian để tạo yếu tố bất ngờ, quân Lý đã thắng lợi giòn giã ở cảng Khâm. Thành công ấy có được là nhờ khả năng phục vụ chiến dịch rất cao của đội chiến thuyền.

Theo nhà sử học Nguyễn Lương Bích, năm 1228, khi nhà Trần thay nhà Lý, một tướng thuỷ cấp cao trong triều đình cũ của nhà Lý là Lý Long Tường đã dùng thuyền chiến đem gia đình và quân bản bộ vượt biển lên phía bắc.

Cuộc hành trình đã kết thúc tại một bến cảng thuộc một vùng đất thời đó còn vô cùng xa xăm với đất nước ta, đó là bờ biển Triều Tiên.

Thuyền hai lòng

Có hai loại thuyền đặc chủng được sử sách nhắc đến là thuyền lầu (lâu thuyền) và thuyền hai lòng (lưỡng phúc thuyền)

Trong Việt Sử lược đã nhắc đến hiện tượng này vào năm 1106: “Tháng 11, vua sắp có việc lôi thôi với nhà Tống, sai đóng thuyền Vĩnh Long hai đáy và đóng chiến hạm”.

Còn sách Toàn thư, nhắc đến một hiện tượng khác vào năm 1124: “Tháng giêng nhuận, đóng thuyền Tường Quan, kiểu hai lòng” nguyên văn là Lưỡng phúc thuyền, tức thuyền hai bụng, cũng có thể hiểu tương tự như hai đáy. Cho tới nay, cấu tạo loại thuyền này như thế nào vẫn chưa được giải mã.

Trong Võ bị chế thắng chi có nói đến loại thuyền Mẫu tử mà có lẽ Binh thư yếu lược vào thời Nguyễn đã chép lại. đây là loại thuyền chuyên dùng để đánh hoả công, gồm một khung thuyền giả to (thuyền mẹ) bọc ngoài, ở phía trước một chiếc thuyền thật nhỏ hơn (thuyền con).

Trên khung thuyền to, người ta chất củi lửa và thuốc cháy, mũi thuyền có những đinh nhọn. Khi đánh địch, người ngồi núp trong thuyền nhỏ chèo thật nhanh, lao thật mạnh vào thuyền đối phương, khiến cho những đinh sắt nhọn ở mũi khung thuyền giả cắm vào mạn thuyền đối phương.

Sau đó người ta đốt chất cháy trên thuyền giả đó rồi rút thuyền con khỏi khung thuyền to chạy về. Thuyền giả cháy sẽ đốt luôn thuyền đối phương.

Một loại thuyền khác vào thời nhà Hồ, cũng có thể hiểu là thuyền hai lòng hay hai đáy, đó là thuyền đinh sắt có hiệu là Trung tàu tải lương.

Theo mô tả, nếu thuyền bình thường có một đáy, thì thuyền loại này làm thêm một “đáy” nữa, tức một tầng sàn ở trên, chia bụng thuyền làm hai phần: phần dưới để lính chèo thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu. Loại thuyền này khá lớn, phải hai người đẩy một mái chéo*.

Việt Nam là một trong những nước có thuyền lầu sớm trong quân thuỷ, đó là những thuyền lầu đơn giản khắc trên trống đồng Đông Sơn kèm theo hình ảnh người lính luôn sẵn sàng chiến đấu với cung nỏ trên tay.

Tới thế kỷ 19, theo ý nghĩa hình khắc trên chín đỉnh linh thiêng của triều Nguyễn, thì thuyền lầu được chọn như một loại thuyền chiến tiêu biểu cho quân thủy.
(Bài có dùng tư liệu sưu tầm và nghiên cứu của TS Nguyễn Văn Việt)

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... a-thuyen-chien-337/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
Đăng lúc 20-4-2013 13:55:17 | Chỉ xem của tác giả
Nhà Nguyễn - lịch sử thăng trầm của một dòng họ

- Kỳ 1: Hùng cứ một phương


Họ Nguyễn Phúc đi vào lịch sử VN cách nay tròn 450 năm với sự kiện Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558). Nhưng câu chuyện lại bắt đầu từ hơn 30 năm trước đó, khi Mạc Đăng Dung chấm dứt nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc (1527).

Hữu vệ điện tiền tướng quân Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng) trung thành với triều đại cũ, bỏ sang Lào, tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua, tức Trang Tông (1533). Chẳng bao lâu, đất nước Đại Việt bị chia làm đôi: nhà Mạc (sử gọi là Bắc triều) chỉ còn làm chủ phần đất nay là Bắc bộ; nhà Lê trung hưng (tức Nam triều) quản lý lãnh thổ từ Thanh Hóa trở vào Bình Định ngày nay.

Vào vùng đất mới

Công cuộc trung hưng đang dở dang thì Nguyễn Kim chết (1545). Mọi binh quyền rơi vào tay con rể là hữu tướng Trịnh Kiểm. Kiểm sợ tả tướng Nguyễn Uông (anh của Nguyễn Hoàng) chia quyền nên cho người hãm hại em vợ. Nguyễn Hoàng lo lắng, nhờ chị là Ngọc Bảo (vợ của Kiểm) xin chồng cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Kiểm đang muốn đẩy Nguyễn Hoàng đi xa cho khuất mắt nên đồng ý (1558).

Năm 1570, trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Bá Quýnh được gọi ra giữ đất Nghệ An, Nguyễn Hoàng được giao thêm xứ Quảng Nam. Từ đó, lãnh thổ dưới quyền tổng trấn Thuận - Quảng trải dài từ bờ nam sông Gianh đến đèo Cù Mông (tương ứng với các tỉnh, TP Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay). Đây là vùng đất mới, dân cư thưa thớt, tài nguyên chưa khai thác nên trong buổi đầu Nguyễn Hoàng gặp biết bao khó khăn, thiếu thốn.
Ban đầu Nguyễn Hoàng vào Nam chỉ với ý định bảo toàn mạng sống. Nhưng khi thấy Trịnh Kiểm ngày càng lấn át quyền vua khiến vua Lê chỉ còn là hư vị, Nguyễn Hoàng quyết chí tách khỏi Đàng Ngoài, hùng cứ một phương. Trước mắt, Đàng Trong còn yếu, còn nghèo nên bề ngoài Nguyễn Hoàng phải giả vờ thần phục họ Trịnh. Hằng năm, ông phải nộp đủ các loại thuế (từ năm 1573, thuế thân được quy thành 400 cân bạc và 500 tấm lụa).

Việc đầu tiên của Nguyễn Hoàng là củng cố phòng thủ. Ông cho xây các đồn ở cửa biển để bảo vệ miền duyên hải. Năm 1571, quân Mạc theo đường biển đánh vào Thuận Hóa nhưng bị đẩy lui. Từ đó Mạc không dám tấn công Đàng Trong nữa. Nguyễn Hoàng rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Đại Nam thực lục tiền biên chép: “Mấy năm được mùa luôn, trăm họ giàu thịnh”. Giá gạo ở Đàng Trong năm 1608 chỉ 3 đồng tiền một đấu, rất rẻ so với giá gạo ở Đàng Ngoài”.

Nhưng nông nghiệp chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho dân chúng, chính thương nghiệp mới làm đất nước giàu lên một cách nhanh chóng. Trong lúc triều đình nhiều quốc gia châu Á theo đuổi chính sách ức thương (kìm hãm thương nghiệp) thì Nguyễn Hoàng lại khuyến khích việc mua bán, nhất là mua bán với nước ngoài.

           
  

         Chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng năm 1601, khi vào làm trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam


“Dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”

Tương truyền Nguyễn Hoàng cho sứ giả đến hỏi ý kiến của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhà lý học không trả lời thẳng, nhìn đàn kiến trên hòn non bộ, nói bâng quơ: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dãy núi ngang trên hòn non bộ có thể làm nơi dung thân muôn đời cho đàn kiến). Nghe sứ giả thuật lại, Nguyễn Hoàng hiểu là Trạng Trình khuyên ông nên đi vào vùng đất bên kia đèo Ngang (Hoành Sơn).

Mặc dù chuyện trên có chép trong Đại Nam thực lục tiền biên, nhiều nhà nghiên cứu không tin là có thật mà do người đời sau bịa đặt, mượn “lời sấm” của Trạng Trình để khẳng định cơ đồ dòng họ Nguyễn sẽ tồn tại dài lâu.

Năm 1592, quân Lê - Trịnh chiếm lại Thăng Long. Vua Lê rời Thanh Hóa (Tây Đô) ra Thăng Long (Đông Đô). Nguyễn Hoàng ra chúc mừng vua. Trịnh Tùng (con của Trịnh Kiểm, lúc này đã chết) muốn “điệu hổ ly sơn”, tâu với vua Lê phong Nguyễn Hoàng làm thái úy hữu tướng, trên danh nghĩa vẫn giữ chức tổng trấn Thuận - Quảng, nhưng phải lưu lại kinh đô vô thời hạn để giúp triều đình đánh dẹp dư đảng nhà Mạc.

Nguyễn Hoàng phải ẩn nhẫn sống cảnh cá chậu chim lồng trong tám năm trời. Năm 1600, nhân có vụ khởi binh chống Trịnh Tùng nổ ra ở Nam Định, Nguyễn Hoàng xin đem quân bản bộ theo đường biển đi đánh, giả vờ thua rồi về thẳng Thuận Hóa. Từ đó, Nguyễn Hoàng không đặt chân lên Thăng Long nữa.

Sau hơn nửa thế kỷ vào Nam, Nguyễn Hoàng đã biến Thuận - Quảng thành một vùng đất phồn thịnh. Chính vua Lê Thế Tông cũng phải khen Nguyễn Hoàng “trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”, phong cho ông làm thái úy, tước Đoan quận công.

Lê Quý Đôn làm bồi tụng (chỉ sau tể tướng một bậc) trong phủ chúa Trịnh, đương nhiên không có cảm tình với Đàng Trong, nhưng đã viết về Nguyễn Hoàng trong Phủ biên tạp lục với lời lẽ ca ngợi: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối... Chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.

Năm 1613 Nguyễn Hoàng 88 tuổi, dặn dò con là Nguyễn Phúc Nguyên trước khi mất: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng, sắt; biển có cá, muối. Thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ dựng xây cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.

Vâng lời di huấn của cha, Nguyễn Phúc Nguyên “sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục” (Đại Nam thực lục tiền biên). Khi thấy đủ mạnh, Nguyễn Phúc Nguyên công khai không thần phục họ Trịnh nữa: không nộp thuế, không nhận sắc, không ra Thăng Long mà cũng không gửi con thay mình ra Thăng Long như họ Trịnh đòi. Trịnh đem quân vào đánh nhưng cả sáu lần đều không thành công nên phải rút về, chấp nhận sông Gianh là ranh giới của hai miền. Đến đây, giấc mộng xây dựng “cơ nghiệp muôn đời” của Nguyễn Hoàng được thực hiện.
------------------------------------------
Cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và quốc vương Chiêm Thành đã đưa hai châu Ô và Rí vào bản đồ Đại Việt. Hơn ba thế kỷ sau, một công nữ họ Nguyễn cũng chấp nhận “nước non ngàn dặm ra đi” làm dâu xứ người.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -cu-mot-phuong-326/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
Đăng lúc 20-4-2013 14:05:48 | Chỉ xem của tác giả
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 2: CHUYỆN VỀ MỘT CÔNG NỮ HỌ NGUYỄN


Hơn ba thế kỷ sau, một công nữ họ Nguyễn cũng chấp nhận “nước non ngàn dặm ra đi” làm dâu xứ người, tạo điều kiện cho người Việt vào sinh sống trên lưu vực sông Đồng Nai, dẫn đến sự thành lập phủ Gia Định năm 1698 - cách nay tròn 310 năm. Bất công thay tên của bà không được biết đến, nói chi việc xây dựng một tượng đài để ghi công.



Các đại biểu dự hội thảo “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử VN”  (tổ chức tại  Thanh Hóa tháng 10-2008) và đông đảo bà con xã Hà Long, huyện Hà Trung, Thanh Hóa thắp hương tại lăng Trường Nguyên, tương truyền là nơi an táng Nguyễn Kim, thân phụ chúa Nguyễn Hoàng - Ảnh: Việt Dũng


Cuộc hôn nhân của công nữ

Năm 1619, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả một con gái của mình cho Araki Sutaru - một thương nhân Nhật Bản. Năm sau, ông lại gả con gái khác cho quốc vương Chân Lạp Chey Chêtthâ II. Lúc đó, Chân Lạp đang là nạn nhân của nước láng giềng phía tây. Cứ vài chục năm một lần, quân Xiêm lại tràn sang đánh chiếm Chân Lạp, đốt phá, bắt người, cướp của. Vì vậy, năm 1620 vua Chey Chêtthâ II quyết định cầu hôn con gái vị chúa Đàng Trong, với ý định tìm một chỗ dựa về chính trị và quân sự nhằm đối phó với các cuộc xâm lược của quân Xiêm.

Theo Biên niên sử hoàng gia Chân Lạp, cô công nữ Đàng Trong có sắc đẹp tuyệt trần. Mặt khác, nhờ được giáo dục từ nhỏ theo truyền thống đạo đức Phật giáo (Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên đều sùng mộ đạo Phật) nên cô hội nhập nhanh chóng vào môi trường văn hóa xứ chùa tháp, nơi tuyệt đại đa số dân chúng là phật tử. Do đó, tuy Chey Chêtthâ II có nhiều vợ, cô gái Thuận Hóa thùy mị nết na vẫn được vua yêu quý nhất và được phong làm đệ nhất hoàng hậu.

Để đỡ nhớ quê hương, cô xin vua cho phép người Việt được tự do đến sinh sống trên lãnh thổ Chân Lạp. Họ buôn bán hay làm thợ thủ công ở vùng kinh đô, đông đảo hơn là những người đến khai phá vùng đông nam Chân Lạp.

Lãnh thổ Chân Lạp tương đối rộng nhưng dân số ít, nên người nước này sống tập trung ở vùng đất màu mỡ xung quanh biển Hồ và dọc theo sông Mekong. Theo nhà sử học Pháp Philippe Devillers, cho đến lúc đó “đồng bằng sông Cửu Long chỉ là đầm lầy hôi thối, những bãi bùn rộng mênh mông với những cây đước”. Từ cuối thế kỷ 16, một số người Việt rời quê hương đến đây làm ruộng, đánh cá...

Cuối năm 1621, đầu 1622, vua Xiêm xua quân sang đánh Chân Lạp. Nhờ thuyền chiến, vũ khí và nhất là nhờ quân tình nguyện do Đàng Trong viện trợ, Chey Chêtthâ II đã đẩy lui hai đạo quân Xiêm. Năm sau, vua Xiêm cho quân tấn công Chân Lạp một lần nữa nhưng lại bị tổn thất nặng nề, phải rút về nước. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gửi sang kinh đô Udong một sứ bộ mang theo nhiều tặng phẩm để chúc mừng chiến thắng của Chân Lạp, đồng thời đảm bảo với Chey Chêtthâ II về sự ủng hộ và giúp đỡ của Đàng Trong cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước chùa tháp.

Sứ thần Đàng Trong cũng chuyển cho quốc vương Chân Lạp một quốc thư ngỏ ý muốn mượn Kas Krobei (Sài Gòn) và Prei Nokor (Chợ Lớn) để lập hai trạm thuế thương chính trong năm năm. Chey Chêtthâ II hỏi ý kiến các quan đại thần. Tất cả đều đồng ý. Nhà sử học người Pháp Henri Russier cho biết bà hoàng hậu Đàng Trong đã năn nỉ chồng chấp thuận đề nghị của cha mình.

Hướng về đất phương Nam

Năm 1624, bà sinh hạ công chúa Ang Na Ksatri. Công chúa rất được vua yêu quý. Nhưng khi hạnh phúc đang tràn trề thì tiếc thay Chey Chêtthâ II băng hà. Cái chết của nhà vua đẩy Chân Lạp vào một giai đoạn mất ổn định chính trị nội bộ. Tuy nhiên, với đức độ và trí thông minh, bà thái hậu Đàng Trong đã vượt lên mọi tranh chấp phe phái, được các ông hoàng trẻ Chân Lạp kính trọng và nghe theo.

Bà giữ một vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị của vương quốc. Hoàng tử Cau Bana Cand (sử Việt gọi là Nặc Ông Chân) - một người con của Chey Chêtthâ II với bà vợ người Lào - cưới vợ người Mã Lai theo đạo Hồi nên bỏ đạo Phật để theo đạo của vợ. Năm 1642, Cand dựa vào một nhóm người Mã Lai và Chiêm Thành theo đạo Hồi nổi loạn, giết vua Ang Nan (rể của bà thái hậu Đàng Trong) để cướp ngôi. Cand còn giết nhiều người khác (trong đó có chú ruột là nhiếp chính vương Utey) một cách dã man.

Hai người con của Utey là Ang Sur và Ang Tan (sử Việt gọi là Nặc Ông Xô và Nặc Ông Tân) cầm đầu một cuộc nổi dậy để lật đổ Cand và báo thù cho cha. Cuộc nổi dậy không thành công, Sur và Tan bí mật đến gặp bà thái hậu Đàng Trong, nhờ bà xin chúa Nguyễn giúp đỡ. Bà đồng ý, viết thư cho chúa Nguyễn Phúc Tần (cháu gọi bà bằng cô).

Đáp ứng yêu cầu của hai hoàng thân Chân Lạp, chúa Nguyễn gửi 3.000 quân sang bắt Cand đưa về Quảng Bình. Cand xin thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn trả tự do cho Cand. Trên đường về Udong, Cand nhuốm bệnh và qua đời ở Bat Anhchien ven sông Vàm Cỏ Tây. Ang Sur và Ang Tan trở thành chính vương và phó vương của Chân Lạp. Nhớ ơn bà thái hậu và chúa Nguyễn, hai ông luôn tạo điều kiện thuận lợi để di dân người Việt làm ăn trên đất nước mình, số lượng người Việt vào đây mới bắt đầu tăng lên đáng kể.

Theo GS Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí văn hóa TP.HCM (do GS Trần Văn Giàu chủ biên), cho đến cuối thế kỷ 17, đã có hơn 4 vạn hộ dân Việt sống trên một địa bàn rộng nghìn dặm ở lưu vực sông Đồng Nai. Người Việt trở thành thành phần dân cư đa số tại đó.

Tên người chưa được sử ghi

Tất cả những gì chúng ta biết được về bà - mà người Chân Lạp gọi là Ang Cuv - là nhờ Biên niên sử hoàng gia Chân Lạp và các công trình nghiên cứu của các nhà sử học nước ngoài. Vì một lý do nào đó, các sử gia triều Nguyễn hoàn toàn không nhắc đến cuộc hôn nhân Việt - Chân Lạp này (cũng như các cuộc hôn nhân Việt - Nhật Bản và Việt - Chiêm Thành diễn ra trong thời kỳ đó). Vì lẽ đó cho đến nay chúng ta không biết bà tên gì.

Trước đây, có người cho rằng tên bà là Ngọc Vạn. Nhiều người cũng đã chấp nhận như vậy. Thật ra cái tên đó chẳng qua là do phỏng đoán, chứ không căn cứ vào một tài liệu gốc nào.

Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, chúa Sãi có bốn con gái. Hai công nữ thứ nhất và thứ tư là Ngọc Liên (vợ của phó tướng Nguyễn Phúc Vĩnh, tức Nguyễn Hữu Vĩnh, trấn thủ dinh Trấn Biên) và Ngọc Đĩnh (vợ của phó tướng Nguyễn Phúc Kiều, tức Nguyễn Cửu Kiều, trấn thủ dinh Quảng Bình). Đối với hai công nữ thứ hai và thứ ba là Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Đại Nam liệt truyện tiền biên ghi “khuyết truyện” (không có tiểu sử). Như vậy, trong hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, ai là hoàng hậu xứ chùa tháp, ai là phu nhân của thương gia Nhật Bản?
Tên bà vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời đáp.
__________________
Người ta gọi chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa mở cõi. Ông cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính trên toàn khu vực tương đương Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... g-nu-ho-nguyen-327/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
Đăng lúc 20-4-2013 14:14:29 | Chỉ xem của tác giả
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 3: TRUNG TÂM GIAO THƯƠNG


Chỉ hơn 10 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Hoàng sau đó, vùng đất Thuận Hóa đã thay da đổi thịt. Bảng nhãn Lê Quý Đôn ghi nhận trong Phủ biên tạp lục (bản dịch của Viện Sử học): “Chợ không bán hai giá, người không ai trộm cắp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, đổi chác phải giá (…), trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.
“Ngọn đũa thần” nào đã mang lại sự đổi thay đó?

Kiếm được rất nhiều mối lợi

So với Đàng Ngoài, Đàng Trong là vùng đất mới, tiềm năng thiên nhiên chưa được khai thác, nhân lực tại chỗ vô cùng thiếu thốn. Để đối phó với họ Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đời sau phải tìm phương cách làm cho Đàng Trong nhanh chóng giàu mạnh, đó là phát triển thương mại, mở rộng ngoại thương.



Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên người ta còn gọi là cầu Nhật Bản. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn với ý nghĩa là “bạn phương xa đến”. Trong ảnh: Chùa Cầu lung linh trong đêm hội Phố Hoài - Ảnh: Hoàng Duy


Xác lập và bảo vệ chủ quyền trên biển

Các chúa Nguyễn đã lập hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải để khai thác quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là quần đảo Vạn Lý Trường Sa vì lúc đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được xem là một dãy đảo dài vạn dặm), cù lao Côn Lôn và các đảo phía Hà Tiên. Việc làm này đã xác lập chủ quyền của nước ta đối với các hải đảo nói trên.

Năm 1702, quân Anh chiếm quần đảo Côn Lôn. Năm sau, trấn thủ Trương Phúc Phan nửa đêm đưa lính đánh đuổi quân chiếm đóng ra khỏi quần đảo

Trong luận án tiến sĩ “Xứ Đàng Trong - lịch sử xã hội và kinh tế Việt Nam thời Nguyễn ở các thế kỷ 17-18”, Li Tana nhận định (bản dịch của Nguyễn Nghị): “Đối với các nước khác ở Đông Nam châu Á, vấn đề ngoại thương có thể chỉ là vấn đề làm giàu, nhưng đối với Đàng Trong vào buổi đầu, đây là vấn đề sống còn”.

Đây là một chính sách mới so với các triều đại trước và kể cả với vương triều Nguyễn sau này, vì bao triều đại trước vẫn chủ trương “lấy nông nghiệp làm gốc” (dĩ nông vi bản), không mặn mà lắm với việc buôn bán với nước ngoài, chỉ cho phép thuyền buôn ngoại quốc cập bến tại một số cảng chứ không cho vào sâu trong nội địa.

Cristophoro Borri, một nhà truyền giáo người Ý sống ở Đàng Trong từ 1618-1622, nhận xét (bản dịch của Hồng Nhuệ và Nguyễn Nghị): “Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc (…) cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ”. Các chúa Nguyễn chủ động mời gọi các nước đến mua bán với Đàng Trong.

Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy trong sách Ngoại phiên thông thư của Kôndôh Juuzôu nhiều công hàm của các chúa Nguyễn gửi cho chính quyền Nhật Bản từ năm 1601-1694. Công hàm đầu tiên là của chúa Nguyễn Hoàng gửi tướng quân Tokugawa Ieyasu bày tỏ lòng mong muốn thông thương Đàng Trong - Nhật Bản.

Năm 1617-1618, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng gửi thư mời Công ty Đông Ấn của Hà Lan sang buôn bán… Borri viết: “Chúa Nguyễn thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán (với nước ngoài) này bằng thuế hàng hóa và thuế hải khẩu đặt ra và cả nước đều kiếm được rất nhiều mối lợi không thể tả hết”.

Đàng Trong đã sớm trở thành một trung tâm giao thương quốc tế. Ngoài những khách hàng quen thuộc đến từ Trung Hoa, Chân Lạp, Xiêm, Batavia (Indonesia), Đàng Trong còn đón nhận thương nhân các nước Nhật Bản, Bồ Đào Nha (từ thuộc địa Macao), Tây Ban Nha (từ thuộc địa Philippines), Hà Lan, Anh, Pháp…

Ngoại thương kích thích sự phát triển sản xuất của nhiều địa phương. Các làng nghề xuất hiện ngày càng nhiều để cung ứng cho hàng xuất khẩu. Tính chất của nền kinh tế từ đó thay đổi: từ sản xuất tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hóa. Một số đô thị ra đời: Đà Nẵng, Tam Kỳ (Quảng Nam), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Nước Mặn (Bình Định)…, nhưng thịnh vượng nhất là Hội An.



Phần mộ ông bà Araki Sutaru ở Nagasaki - Ảnh: Ma Cẩm Long Hà


Hải cảng đẹp nhất Đàng Trong

Borri mô tả Hội An là “hải cảng đẹp nhất Đàng Trong, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới”, là “một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một của người Tàu, một của người Nhật”. Một thương nhân Quảng Đông nói với Lê Quý Đôn: “Thương nhân Trung Hoa từ Quảng Nam về thì các hàng hóa không món gì không có. Hàng hóa sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy đường bộ, đi thuyền đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An, vì thế khách phương Bắc (tức Trung Hoa) đều đến tụ tập ở đây để mua về nước... Hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được”.

Các chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương nhân nước ngoài, nhất là thương nhân Nhật Bản. Đàng Trong trở thành bạn hàng số một của xứ Phù Tang. Năm 1619, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con gái cho thương nhân Nhật Bản Araki Sutaru, ban cho Araki tên Hiển Hùng và cho mang họ chúa (Nguyễn Phúc). Sau đó, Araki đưa vợ về thăm quê ở Nagasaki. Tại đây, bà có tên Oukakutome (Vương Gia Cửu Hộ Mại) và còn được gọi một cách thân mật là Anio. Không may, từ năm 1636, vì nhiều lý do, nhà cầm quyền Nhật ra lệnh tỏa quốc cấm thương nhân Nhật ra nước ngoài buôn bán. Vì vậy, hai vợ chồng Nhật - Việt không còn dịp trở lại Đàng Trong nữa.

Bà Anio qua đời ngày 7-11-1645, còn ông mất trước đó chín năm. Mộ hai ông bà Araki Sutaru hiện vẫn còn ở Nagasaki. Hiện nay Bảo tàng nghệ thuật Nagasaki vẫn còn lưu giữ một gương soi của bà Anio mang từ Đàng Trong qua. Vì Quốc sử quán của nhà Nguyễn hoàn toàn không nói tới cuộc hôn nhân Đàng Trong - Nhật này nên đến nay chúng ta vẫn chưa tìm ra tên chính xác của bà.

Công cuộc mở cửa của các chúa Nguyễn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn làm phong phú đời sống văn hóa ở Đàng Trong. Hội An với những di tích văn hóa nổi bật tồn tại qua năm tháng đã được Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1999.
----------------------------------------
Cho đến hôm nay, trải qua bao thăng trầm lịch sử, trên miền đất Nguyễn Hoàng chọn làm “kinh đô” khởi nghiệp, 450 năm qua, còn lại gì lưu dấu tiền nhân?

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... am-giao-thuong-328/

Bình luận

ôi chùa cầu của em  Đăng lúc 20-4-2013 11:26 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
Đăng lúc 20-4-2013 14:26:45 | Chỉ xem của tác giả
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- (KỲ 4): TRÊN MIỀN ĐẤT DỰNG NGHIỆP


Trên miền đất dựng nghiệp

Tháng 6-1904, linh mục Leopold M. Cadière về làm quản hạt Dinh Cát (xứ Quảng Trị). Những năm tháng ở đây ông đã nghiên cứu về các chúa Nguyễn trong buổi đầu và sau đó trên tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l’École Francaise d’Extrême Orient), trong bài “Le mur de Đồng Hới” in năm 1906, Cadière cho biết thời gian chúa Nguyễn Hoàng đến Ái Tử trong khoảng từ ngày 10-11 đến 10-12 (dương lịch) năm 1558. 450 năm đã qua, trải qua bao nhiêu dâu bể phân tranh, bao thăng trầm lịch sử, trên miền đất Nguyễn Hoàng chọn làm “kinh đô” khởi nghiệp ấy còn lại gì lưu dấu tiền nhân? Còn những gì tưởng niệm tiền nhân?

Buổi đầu đất lạ

Bây giờ khách ngược xuôi trên đường thiên lý Bắc - Nam, qua khỏi thị xã Đông Hà (nếu đi từ Bắc vào) hay vượt qua thành cổ Quảng Trị (đi từ Nam ra) sẽ gặp một thị trấn nhỏ nằm bên sông Thạch Hãn với tấm biển đề: “Thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong”. Chúng tôi tìm về Ái Tử, dấu tích của chúa Nguyễn Hoàng không còn nhiều ở đây nhưng vẫn còn đó những thao thức về miền đất “dung thân” của chúa Nguyễn.

Cách Ái Tử khoảng 60km về phía nam theo quốc lộ 1A là kinh thành Huế lộng lẫy vàng son, lưu dấu vang bóng vương triều nhà Nguyễn. Kinh đô Huế với đền đài cung điện giờ đã là Di sản văn hóa thế giới, còn với sử sách, Ái Tử là kinh đô đầu tiên của cơ nghiệp nhà Nguyễn, là thủ phủ khai nguyên của xứ Đàng Trong. Thời gian gần 70 năm làm thủ phủ chưa phải là dài, nhưng ý nghĩa của miền đất này không đo đếm bằng thời gian mà chính là những gì nó đã mang lại cho nhà Nguyễn trong buổi “vạn sự khởi đầu nan”. Bởi vậy khi Huế được là “chính dinh”, các chúa Nguyễn vẫn không quên tôn phong cho đất Ái Tử này là “cựu dinh”.

Mang theo câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng lên thuyền về phương Nam với nhiều tráng đinh, nghĩa dũng quê nhà huyện Tống Sơn (Thanh Hóa) cùng nhiều cư dân miền Thanh Nghệ. Câu sấm của Trạng Trình đã được sử sách nhắc đến nhiều. Nhưng sao ngày cất bước ra đi của 450 năm trước ấy, khi đã vượt qua “Hoành Sơn nhất đái”, Đoan quận công Nguyễn Hoàng đã không hạ trại ở phía nam đèo Ngang? Không dừng lại bên sông Gianh? Bên bờ Nhật Lệ? Hay xứ cửa Tùng phì nhiêu màu mỡ mà lại đi sâu vào miền Ái Tử bốn bề cát trắng chơ vơ?

Đại Việt sử ký toàn thư bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) viết về cuộc ra đi này chỉ mấy dòng ngắn ngủi: “Mậu Ngọ - tháng mười, thái sư Trịnh Kiểm vào chầu dâng biểu tâu xin sai con thứ của Chiêu Huân tĩnh công (tức Nguyễn Kim) là Đoan quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hóa để phòng giặc phía đông”.

Học giả Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong viết chi tiết hơn: “Đoan quận công và đoàn tùy tùng từ cửa Việt lên sông Quảng Trị, đóng dinh tại làng Ái Tử. Năm ấy ông 34 tuổi. Khi Đoan quận công mới đến Ái Tử, dân sở tại đem dâng bảy vò nước trong. Nguyễn Ư Dĩ (quan thái phó, cậu ruột của Nguyễn Hoàng) nói với Đoan quận công rằng: Ấy là điềm trời cho ông nước đó!”.



Miếu Trảo Trảo - Ảnh tư liệu từ B.A.V.H.


Tìm dấu miếu xưa

Dấu vết dinh xưa nay đã tuyệt mù tăm tích. Nhưng cạnh bờ sông, gần sân bay Ái Tử vẫn còn địa điểm một ngôi miếu thờ lưu dấu chiến công của Nguyễn Hoàng trong trận đánh tướng nhà Mạc là Lập Bạo vào năm 1572.

Huyền tích kể rằng Lập Bạo vốn là một tướng tài của nhà Mạc, giỏi về thủy chiến, đưa 60 binh thuyền từ Hải Dương vượt biển lên sông Ái Tử đánh cướp. Thế giặc mạnh, Nguyễn Hoàng đem quân ra bờ sông chống giữ, đêm ấy nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo xanh hiện ra bảo rằng muốn diệt tướng giặc hãy dùng mỹ kế. Vừa tỉnh giấc thấy một tì nữ là Ngô Thị nhan sắc xinh đẹp bước vào. Sực nhớ giấc mộng, Nguyễn Hoàng sai Ngô Thị mang lễ vật đến dâng cho Lập Bạo cầu hòa. Thấy Ngô Thị xinh đẹp, Lập Bạo mê thích nhưng giả bộ cả giận nói rằng: “Ngươi đến đây làm mồi nhử ta chăng?”. Ngô Thị uyển chuyển ứng đáp, rồi dụ Lập Bạo theo mình đi vào nơi quân của Nguyễn Hoàng mai phục. Lập Bạo biết bị lừa nên lao xuống sông.

Vốn là tướng giỏi bơi lặn khó bề bắt được, nhưng Lập Bạo lặn đến đâu thì trên mặt nước có con chim bay tới đó cất tiếng kêu “trảo trảo” như chỉ đường cho quân Nguyễn. Lập Bạo bị bắt, quân nhà Mạc tan tác. Nhớ ơn thần sông giúp rập, Nguyễn Hoàng cho lập đền thờ tại bờ sông Ái Tử, phong là “Trảo Trảo Linh Thu phổ trạch tướng hựu phu nhân”, dân trong vùng gọi là miếu Trảo Trảo. Dấu tích miếu này còn trong một tấm hình ở tạp chí B.A.V.H (Đô thành hiếu cổ).

Những huyền tích trong buổi đầu khởi nghiệp có thể là một cách để gầy dựng thêm lòng tin trong dân gian, giúp cho việc mưu cầu đại nghiệp. Còn vai trò của Nguyễn Hoàng với đất này sử sách còn chép rõ. Nhiều tư liệu lưu đến bây giờ cho thấy dưới thời Nguyễn Hoàng đóng thủ phủ ở miền Quảng Trị, cảng Cửa Việt đã từng sầm uất đô hội. Ngay từ thời đó đã thiết lập thư từ bang giao buôn bán với Nhật Bản. Vết tích trên bến dưới thuyền một thời vang bóng vẫn còn lưu dấu, những gạch đá xây thành vẫn im lặng nhắc nhở, cả pho tượng đồng nguyên vẹn chân dung Thái phó Nguyễn Ư Dĩ.

Hóa ra vẫn còn rất nhiều dấu vết của Nguyễn Hoàng nơi làng Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong - xưa kia đây chính là dinh trấn Trà Bát. Năm 1600 Nguyễn Hoàng đã dời thủ phủ từ Ái Tử về đây. Trà Bát là cái gạch nối giữa Nguyễn Hoàng (với 13 năm đóng đô ở đây đến lúc mất - năm 1613) và người con trai thứ sáu của ông - chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đóng đô thêm 13 năm nữa, trước khi dời thủ phủ vào Phước Yên (Quảng Điền) năm 1626.
__________________
Trước khi chúa Nguyễn mở mang giao thương với nước ngoài để có một cảng thị Hội An sầm uất thì ở xứ Trà Liên đã được sử sách nhắc đến như một thương cảng đô hội nhất Đàng Trong bấy giờ.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... at-dung-nghiep-329/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
Đăng lúc 20-4-2013 23:20:47 | Chỉ xem của tác giả
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 5: DINH XƯA, CẢNG CŨ BÂY GIỜ






Từ Ái Tử, nơi Nguyễn Hoàng dựng dinh trấn đầu tiên về Trà Liên chỉ cách chừng 3km về phía đông bắc. Trong những năm chiến tranh, người Mỹ xây dựng Ái Tử thành một căn cứ quân sự lớn nên vết tích dinh trấn đầu tiên của chúa Nguyễn hầu như bị cày xới để xây dựng đồn bót, kho đạn, sân bay… nay không còn lưu dấu gì. Riêng dinh Trà Bát có phần may mắn hơn.

“Bảo vật quốc gia”

Chúng tôi về gặp ông Bùi Thịnh, trưởng ban điều hành làng văn hóa Trà Liên, với hi vọng được ông dẫn lối đi tìm những dấu tích. Trước khi rẽ xe vào trụ sở Hợp tác xã Trà Liên, chúng tôi ngỡ ngàng khi thấy pho tượng đồng Nguyễn Ư Dĩ được thờ trong cái am nhỏ vừa đơn sơ vừa chắc chắn. Pho tượng đồng này có một số phận nổi chìm kỳ lạ và giờ đây được xem là “bảo vật quốc gia” tại Quảng Trị.



Tượng đồng Nguyễn Ư Dĩ đang lưu giữ tại làng Trà Liên -Ảnh: L.Đ.Dục



Thái phó Nguyễn Ư Dĩ - tước Uy Quốc công, là cậu ruột của Nguyễn Hoàng, người đã nuôi dạy Nguyễn Hoàng từ khi mới 2 tuổi lúc Nguyễn Kim (thân phụ Nguyễn Hoàng) lánh nạn sang Lào. Chăm lo cho người cháu, thấy Nguyễn Hoàng “tướng mạo khôi ngô, vai lân lưng hổ, mắt phượng trán rồng, thông minh tài trí, kẻ thức giả đều biết đấy là bậc phi thường” nên Nguyễn Ư Dĩ đã đem việc kiến công lập nghiệp khuyến khích cháu. Chính Nguyễn Ư Dĩ là người đã thay mặt Nguyễn Hoàng đi lĩnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, rồi sau đó theo phò tá Nguyễn Hoàng trong buổi đầu đến Ái Tử.

Ngôi chùa thờ Nguyễn Ư Dĩ có tên là Liễu Ba (hay còn gọi là Liễu Bông - Miếu Bông). Hiếm có một công thần nào lại được dân cúng giỗ quanh năm như thái phó Nguyễn Ư Dĩ. Ông Bùi Thịnh cho biết phong tục dân làng mỗi năm đều giỗ quan thái phó vào các ngày rằm tháng hai, tháng sáu, tháng tám và ngày tết. Pho tượng Nguyễn Ư Dĩ được đúc bằng đồng vào khoảng thế kỷ 17, được đặt tại chùa. Năm 1972 chiến tranh bom đạn ác liệt nhưng pho tượng vẫn nguyên vẹn. Ngày hòa bình trên nền chùa cũ, dân làng dựng lại một nếp chùa đơn sơ để đặt tượng thờ.



Vùng Trà Bát bây giờ thật quạnh hiu-Ảnh: L.Đ.Dục


Tuy nhiên năm 1989 kẻ gian đã đánh cắp pho tượng đồng quý giá này.

Theo lời một bô lão trong làng, khi pho tượng bị mất cả làng đã đổ ra tìm kiếm. Do tượng quá nặng, kẻ cắp đã mang pho tượng xuống vùi trên bãi cát ven sông Thạch Hãn gần làng. Khi cả làng dùng thuốn sắt đi dò dọc triền sông thì phát hiện tượng đang còn bị chôn vùi dưới cát. Dân đã không để tượng ở chùa Liễu Bông cũ mà mang về cạnh đình làng, rồi xây một cái am nhỏ nhưng kiên cố có bọc bêtông cốt thép để bảo vệ tượng.

Chúng tôi ra chùa Liễu Bông, ngôi chùa được dựng nên thờ phụng các công thần theo phò tá Nguyễn Hoàng buổi đầu dựng nghiệp đã mất dấu. Trên nền chùa xưa một dòng họ khác trong làng đã xây một khu lăng mộ nguy nga đồ sộ trên chính nền chùa cũ. Đau xót hơn khi chúng tôi tìm thấy quanh khu lăng mộ những phiến đá ôm lót chân cột chùa để nằm lăn lóc dãi dầu mưa nắng. Những phiến đá chứng nhân của hơn bốn thế kỷ còn bị đối xử như vậy, thảo nào bao nhiêu dấu tích buổi tiền nhân khởi nghiệp cũng dần biến mất.

Trà Bát chính là nơi Nguyễn Hoàng trút hơi thở cuối cùng vào năm 1613. Trước lúc lâm chung, cũng tại Trà Bát, ông đã triệu người con trai thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên đang làm trấn thủ Quảng Nam về cầm tay dặn dò: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang (sông Gianh) hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân, núi Thạch Bi vững bền, núi sinh vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của kẻ anh hùng. Nếu biết dạy dân, luyện binh thì chống chỏi với họ Trịnh đủ xây dựng sự nghiệp muôn đời, nếu thế lực không địch được thì cố giữ đất đai để đợi thời cơ chứ đừng bỏ hỏng lời dạy của ta”. Vâng mệnh cha, từ dinh Trà Bát này Nguyễn Phúc Nguyên đã nối ngôi chúa chăm lo việc phòng thủ, sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài mến phục gọi ông là Chúa Sãi hay Sãi Vương.

Mãi đến năm 1626 Nguyễn Phúc Nguyên mới dời dinh trấn từ Trà Bát vào Phước Yên - Quảng Điền, nay thuộc Thừa Thiên - Huế.

Thương cảng một thời

Không xa nền cũ ngôi chùa Liễu Bông là khu vực được xem là các vòng thành của dinh Trà Bát xưa. Một gò đất cao ráo, còn vương lại những phiến đá sa thạch to rộng và vô số gạch vụn đỏ au lẫn trên nền đất cũ. Từ vị trí các vòng thành dấu tích của dinh Trà Bát, chỉ đi thêm một quãng không xa là ra đến Bến Gành. Sông Thạch Hãn chảy về quãng này chợt uốn một vòng cung rộng mênh mông. Anh Phan Văn Khuynh, trưởng ban văn hóa xã hội của xã Triệu Giang, đưa chúng tôi ra bờ sông.
Hơn bốn thế kỷ sông không biết có đổi dòng đổi bến, nhưng bên triền đất lở ven sông chúng tôi tận mắt chứng kiến rất nhiều mảnh chum gốm với họa tiết độc đáo lộ ra như chính đất đai đã gìn giữ trong lòng sâu của mình những phồn hoa đô hội một thời.

Trước khi chúa Nguyễn mở mang giao thương với nước ngoài để có một cảng Hội An sầm uất thì ở xứ Trà Liên này với quãng đường từ Cửa Việt lên đây chưa đầy chục cây số đã được sử sách nhắc đến như một thương cảng đô hội nhất Đàng Trong bấy giờ. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc, trong bài nghiên cứu “Cửa Việt dưới thời Nguyễn Hoàng và Chúa Sãi (1558-1626)” đăng trên tạp chí Cửa Việt (bộ cũ) số xuân Tân Mùi 1991 (trang 100-104) đã công bố nhiều tư liệu về tầm vóc của vùng cảng Cửa Việt và dinh Trà Bát này.

Những tư liệu của linh mục Ngọc dựa trên những ghi chép của các nhà truyền giáo thế kỷ 16-17 và những nghiên cứu của L.M. Cadière sau này cho thấy các thương thuyền của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Áo Môn (tức Macau - bấy giờ bị Bồ Đào Nha xâm lược năm 1557 và sau này thành thuộc địa của người Bồ Đào Nha) đã đến đây chào quan tổng trấn (tức Nguyễn Hoàng, sau này là Nguyễn Phúc Nguyên). Chính sự sầm uất của cảng Cửa Việt đã khiến tàu nước ngoài vào cướp bóc cư dân ven biển vùng này và Nguyễn Phúc Nguyên đã vâng lệnh cha dẫn mười thuyền chiến đi đánh tan hai thuyền của tướng giặc là Hiển Quý vào năm 1585.

Bây giờ nhìn dòng sông Thạch Hãn cuồn cuộn nước xuôi về Cửa Việt đổ ra biển Đông, nhìn những dấu gạch gốm lẫn vào lòng đất đá bên bờ nước, rồi lăng mộ tư nhân dựng trên nền ngôi chùa xưa là Quốc miếu thờ những công thần, nhìn những dấu vết thành quách đang tan vào cát bụi, dẫu biết không có gì vĩnh cữu trước thời gian, dẫu biết 30 năm bom đạn chiến tranh muôn phần tàn phá nhưng vẫn không thể thầm trách hậu thế đã hững hờ.
_________________________
Hơn 300 năm sau, khi Ái Tử hay Trà Bát không còn là thủ phủ như buổi đầu khởi nghiệp, nhưng hậu thế của Nguyễn Hoàng - vua Hàm Nghi - đã về Quảng Trị xây dựng một kinh đô dự phòng để di đô khi Huế lâm nguy.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... ang-cu-bay-gio-330/

Bình luận

wow, chệ nhím chăm quá,chắc hồi xưa chuyên Sử goy  Đăng lúc 20-4-2013 11:26 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
Đăng lúc 20-4-2013 23:30:36 | Chỉ xem của tác giả
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

(KỲ 6): “KINH ĐÔ KHÁNG CHIẾN”




“Kinh đô kháng chiến”

Hơn 300 năm sau, khi Ái Tử hay Trà Bát không còn  là thủ phủ như buổi đầu khởi nghiệp, nhưng hậu duệ của Nguyễn Hoàng -  vua Hàm Nghi, một vị vua yêu nước của vương triều Nguyễn, đã về Quảng  Trị lập “kinh đô kháng chiến” chống Pháp. Đó chính là thành Tân Sở ở Cam  Lộ.



Dài theo đường thiên di của lịch sử, của dân tộc, nhiều chứng tích đã bị phôi pha, quên lãng rồi tan vào cát bụi. Và Tân Sở cũng không ngoài số phận đó.

“Kinh thành dự bị, kinh đô kháng chiến”

Từ huyện lỵ Cam Lộ nằm ở km 12 trên quốc lộ 9 từ Đông Hà đi Lao Bảo, rẽ về phía hướng nam theo đường vào Cùa chừng 7km sẽ gặp một bình nguyên đất badan màu mỡ được vây bọc những đồi núi bát úp khá kín đáo và hiểm yếu. Đó là thành Tân Sở.

Sau khi Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn từng bước nhượng bộ chủ hòa, tuy nhiên trong triều đình vẫn nổi lên phái chủ chiến do thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết và phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường đứng đầu. Kinh thành ngày càng bị uy hiếp, từ năm 1883 Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã chủ trương xây dựng một “kinh đô dự phòng” để di đô khi Huế lâm nguy. Và vùng Cùa với Tân Sở là trung tâm được chọn.

Khi người Pháp đánh chiếm cửa Thuận An (tháng 8-1883) thì Tân Sở được đẩy nhanh tốc độ xây dựng. Một “kinh đô kháng chiến” được xây bằng tre, gạch, gỗ, đá… của nhân dân Quảng Trị đóng góp. Đến đầu năm 1885 thì Tân Sở hoàn thành. Một trong những tư liệu đầu tiên tìm hiểu về căn cứ Tân Sở này là của giáo sĩ A.Delvaux, từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền (Cam Lộ), đăng trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ (B.A.V.H - “Le camp de Tan So”) với những miêu tả chi tiết kèm theo bản đồ thành Tân Sở.

Tân Sở được xây với mục đích làm căn cứ kháng chiến nên thành có diện tích rộng gần bằng kinh thành Huế. Với chiều dài 548m, rộng 418m, ngoài thành có hàng rào cọc nhọn và hào sâu bao bọc, tiếp là thành đắp bằng đất nện, mở bốn cửa tiền - hậu - tả - hữu theo hướng tương ứng nam - bắc - đông - tây, tiếp theo là tre gai được trồng thành bốn lớp lũy dày, giữa các lũy tre là thành đất, tiếp giáp với thành nội là trại lính, kho hậu cần, bãi tập voi, ngựa. Chính giữa trung tâm là khu vực thành nội được xây bằng gạch vồ với chiều dài 165m, rộng 100m, ngoài bốn cửa tiền - hậu - tả - hữu còn có thêm Ngọ Môn. Bên trong thành nội là hành cung với các ngôi nhà kiên cố được tháo dỡ từ Huế rồi mang ra dựng lại để vua và các quan làm việc như dinh lãnh binh, chánh sứ, phó sứ, bang tá...

Lần giở những trang tài liệu cũ về căn cứ Tân Sở lúc bấy giờ có thể hình dung cả một “công trường kháng chiến” khi hàng vạn dân đinh trong vùng tụ hội về đây xây dựng thành lũy, binh lính tập trung luyện tập. Lương thực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến được vận chuyển từ đồng bằng sông Hồng vào đây qua cảng Cửa Việt. Súng thần công, đạn dược được chuyển từ kinh thành Huế ra, lò rèn nổi lửa đúc súng ống. Tiền bạc ngân lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến cũng được Tôn Thất Thuyết cho chuyển ra đây với ba trăm ngàn lượng, bằng một phần ba kho nội phủ.

Những trù liệu của triều đình khi xây dựng căn cứ Tân Sở đã thành sự thật khi sự biến đêm 23-5 năm Ất Dậu (1885) xảy ra. Cuộc tập kích đồn Mang Cá và Tòa khâm sứ Pháp không thành, kinh đô chìm ngập trong biển máu. Tôn Thất Thuyết và triều thần phò giá vua Hàm Nghi ra Tân Sở để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến đánh Pháp. Tại đây vua Hàm Nghi đã xuống chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cả nước phò vua đánh giặc.
Cuộc kháng chiến của phong trào Cần Vương với sự tham gia của nhân dân và nhiều sĩ phu yêu nước kéo dài đến những năm đầu thế kỷ 20. Tân Sở thành xưa sau này bị quân Pháp đốt phá, nhưng theo A.Delvaux, khi ông lên đây lần đầu vào năm 1906 cho biết những thành lũy trong và ngoài Tân Sở vẫn còn khá nguyên vẹn.

Hoang tàn dấu tích



Hơn 120 năm đã qua khi chúng tôi về lại thành xưa Tân Sở chỉ thấy một bình nguyên mênh mông phủ kín bạt ngàn cao su. Những lũy tre ken dày mấy lớp xưa kia nay chỉ còn vài khóm lưa thưa nhưng vẫn mọc thẳng hàng, đủ cho chúng tôi nhận ra dấu vết của vòng thành ngoại. Trên lô cao su chưa khép tán, mấy người dân vùng Cùa tranh thủ gặt lúa. Chị Trần Thị Cúc ở thôn Mai Lộc 2, xã Cam Chính kể hồi xưa chị còn nhỏ lên đây vẫn thấy bờ tre ken dày. Hồi những năm 1970-1980, người ta mưu sinh bằng việc tìm phế liệu, trong khu vực thành Tân Sở xưa này đã tìm thấy khá nhiều đạn của súng thần công, những viên đạn hình cầu đúc bằng gang hay sắt, đồng, kích cỡ đường kính lớn nhỏ khác nhau.

Còn theo A.Delvaux, sau khi Tân Sở bị Pháp chiếm và đốt phá, công sứ Quảng Trị là Hamelin đã sai chuyển bốn khẩu thần công có khắc chữ Hán từ Tân Sở về đặt trước hành cung ở thành cổ Quảng Trị, trong đó hai cỗ súng dài đến 2,57m. Hỏi thăm những người dân quanh vùng để tìm đến chủ một vựa thu mua phế liệu thời đó, chúng tôi gặp anh Trần Xuân Hòa, năm nay 54 tuổi, người thôn Đốc Kỉnh, Cam Chính. Theo anh Hòa, số đạn thần công hồi đó anh mua nhiều vô kể nhưng đều cân sắt phế liệu, anh có giữ lại một vài viên bằng đồng nhưng rồi thất lạc mất.

Lũy tre không còn, những chứng tích súng đạn của kinh thành kháng chiến cũng không. May sao trong vườn nhà anh Hòa vẫn còn một số viên gạch vồ, vốn xưa kia là gạch xây thành nội Tân Sở. Hồi đó, dân trong vùng vào Tân Sở kiếm hết phế liệu thì nhặt những viên gạch còn lành lặn về lát sân, lát nền giếng. Những viên gạch vồ với kích thước không lẫn vào đâu được, đã xanh sắc rêu im lặng trong góc vườn nhà anh Hòa.

Một “kinh đô kháng chiến” được nhắc nhiều trong sử sách mà nay chỉ còn lại vài viên gạch lẻ loi như thế này thôi ư? Một chương bi tráng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc lẽ nào không còn ai biết? Nhìn ra mênh mông bình nguyên, chập chùng đồi núi vây bọc bốn bề, chốn hiểm địa chở che cho Tổ quốc buổi sơn hà nguy biến nay không một tấm bia biển để nhắc nhở hậu thế.

Quảng Trị ba lần làm kinh đô và thủ phủ

Lần thứ nhất: Khi chọn đất đứng chân cho hành trình mở cõi, từ năm 1558 Nguyễn Hoàng đã chọn Ái Tử của Quảng Trị.

Lần thứ hai: Khi Pháp nổ súng xâm lược (1858), lo ngại trước thế quân Pháp, năm 1883 để phòng khi Huế thất thủ, nhà Nguyễn chọn Quảng Trị để lập “kinh đô kháng chiến”, xây dựng căn cứ Tân Sở (nay thuộc vùng Cùa, huyện Cam Lộ, Quảng Trị).

Lần thứ ba: Năm 1973, khi đặt “thủ đô” cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam giữa lúc cuộc đấu tranh đòi thống nhất đất nước diễn ra ác liệt nhất, Cam Lộ được chọn đặt trụ sở của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nơi đây đã diễn ra những lễ trình quốc thư, tiếp kiến ngoại giao với sự có mặt của các chính khách trong chính phủ kháng chiến Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình...

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... chien%E2%80%9D-683/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
Đăng lúc 20-4-2013 23:43:08 | Chỉ xem của tác giả
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 7: SỰ TƯỞNG NIỆM LẶNG LẼ




Danh thơm của người mở cõi dành cho ngôi trường được vinh dự mang tên, tên trường nay cũng không còn.

Trường Nguyễn Hoàng



Trường trung học Nguyễn Hoàng xưa -Ảnh tư liệu chụp năm 1958


Hiếm có ngôi trường nào đặc biệt như Trường Nguyễn Hoàng. Được một nhóm thân hào, nhân sĩ ở thị xã Quảng Trị lập ra vào năm 1951 là trường trung học tư thục, năm học tiếp theo được công nhận là trường công lập và đến niên khóa 1953-1954 mang tên Trường trung học Nguyễn Hoàng. Quảng Trị vốn là đất địa đầu giới tuyến, sau những tao loạn thời cuộc Trường Nguyễn Hoàng đã có lúc dời vào tận Hòa Khánh (Đà Nẵng) nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi.

Sau 24 năm tồn tại, sau ngày giải phóng (1975) ngôi trường trung học đầu tiên của tỉnh Quảng Trị không còn mang tên Nguyễn Hoàng. Trên vị trí trường xưa mọc lên một ngôi trường trung học mới mang tên Trường cấp III Triệu Hải, và sau những lần tách nhập địa giới hành chính, bây giờ ngôi trường ấy mang tên Trường THPT thị xã Quảng Trị.

Trường Nguyễn Hoàng không còn mang tên xưa nhưng những thế hệ cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã mang theo hình ảnh ngôi trường cùng tên vị chúa mở cõi đi khắp năm châu bốn bể. Hiếm có ngôi trường nào với nhiều thế hệ trò giỏi như Trường Nguyễn Hoàng, không chỉ trước 1975 mà hơn 30 năm nay vẫn gìn giữ và phát huy truyền thống đất học.

Đi đến đâu, những cựu học sinh miền đất này vẫn mang niềm tự hào “học trò Nguyễn Hoàng”, dù họ đang là anh nông dân hay chữ lam lũ ruộng vườn hoặc những nhà khoa học, doanh nhân đang sống ở chân trời góc biển. Đó cũng là sự tưởng niệm lặng lẽ rằng cho dẫu thế nào thì không ai, không điều gì bị lãng quên, như sau này nhà thơ Nguyễn Duy cảm khái về lễ cải táng vua Duy Tân: “Bao triều vua phế đi rồi/Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”.

Năm 2006, những cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã góp tay để cho ra đời tập sách Chân dung và kỷ niệm. Chỉ chưa đầy hai năm, tiếng gọi của những cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã nối vòng tay lan xa khắp các châu lục, đã có bốn tập sách, mỗi tập dày ngót ngàn trang in những hồi ức, kỷ niệm về ngôi trường. Tâm nguyện của những học trò ra đi từ mái trường này vẫn là không làm điều gì thẹn với uy danh tiền nhân mà ngôi trường được mang tên.



Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo. Năm 1622, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã cho lập dinh trấn tại nơi này để giữ yên biên thùy phía tây - Ảnh: L.Đ.Dục


Mơ một nơi lưu bóng tiền nhân?

Dấu ấn của các chúa Nguyễn trên đất Quảng Trị không chỉ ở Ái Tử, Trà Bát, Cửa Việt… Bây giờ đi ngược lên miền tây huyện Gio Linh, nơi những rừng cao su xanh tốt bạt ngàn, đặc biệt với hệ thống giếng cổ độc đáo được xếp hạng di tích quốc gia, ít ai biết miền đất ấy đã được Nguyễn Hoàng mở mang bằng việc đưa các tù binh nhà Mạc lên đấy khai khẩn, lập nên làng xóm (sau này cũng với chính sách ấy ông đã đưa tù binh nhà Trịnh vào khai phá các vùng đất mới từ Quảng Ngãi vào đến Phú Yên ngày nay).

Hay giờ đây cái tên Lao Bảo trở nên nổi tiếng là đầu cầu của hành lang kinh tế Đông - Tây nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là cửa ngõ đường xuyên Á, một khu kinh tế đặc biệt trên biên giới Việt - Lào. Tuy nhiên ít ai biết vào năm Nhâm Tuất (1622), chính Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên là người đã lập nên dinh trấn Ai Lao này để canh phòng nạn cướp bóc nơi biên thùy, tạo sự thông thương buôn bán với các bộ lạc Lạc Hoàn, Vạn Tượng (Lào), khi ấy thủ phủ vẫn ở làng Trà Bát.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nói rằng tìm hiểu về triều Nguyễn mà thiếu chặng đường khởi nghiệp ở Quảng Trị là một thiếu hụt đáng tiếc. Nhưng Quảng Trị, trải qua mấy chục năm binh lửa đạn bom, dấu vết di tích đã không còn được bao nhiêu. Bom đạn phá một phần, những nhìn nhận thiếu khách quan về nhà Nguyễn suốt mấy chục năm qua, sự vô tâm của con người cũng góp phần xóa đi phần ít ỏi dấu tích còn lại.

Trong một lần làm việc với lãnh đạo huyện Triệu Phong (với huyện lỵ đang đóng tại vùng đất Ái Tử), chúng tôi được biết huyện Triệu Phong cũng mong muốn tôn tạo, trưng bày những dấu vết của thủ phủ Ái Tử, dinh trấn Trà Bát. Nhưng cũng chỉ là ước mong vậy thôi, chưa có gì khởi động. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân gợi ý khó có thể phục dựng tất cả, bởi đó là công việc đòi hỏi nhiều kinh phí và tốn kém, nhưng có một cách làm khác là thu nhỏ những di tích ấy bằng những mô hình với tỉ lệ nhỏ hơn, và tập trung tất cả mô hình ấy vào một khu vực.

Ở Ái Tử có một khu đất rộng chạy sát sông Thạch Hãn lâu nay vẫn được giữ để làm sân bay trong tương lai (thời chiến tranh là sân bay quân sự của Mỹ). Tuy nhiên, mới đây quy hoạch sân bay cho Quảng Trị đã được dời ra vùng Quán Ngang, huyện Gio Linh. Nhiều người mơ ước trên  khu đất định làm sân bay ấy, những dấu tích buổi đầu mở cõi của chúa Nguyễn Hoàng được phục dựng, mô hình thành Tân Sở được tái hiện trở thành một bảo tàng thu nhỏ nhưng sinh động, để rồi khi đến đó người ta hình dung được lịch sử khai mở Đàng Trong đã bắt đầu từ miền đất Ái Tử như thế nào, công cuộc kháng chiến của vua Hàm Nghi và thành Tân Sở đã diễn ra ra sao… Âu cũng là hậu thế tri ân tiền nhân vậy!

Nhưng ước mơ chuyện ngôi trường xưa được mang lại tên Nguyễn Hoàng, một con phố trung tâm nơi đô thị cửa ngõ Lao Bảo mang tên Chúa Sãi… có là điều quá khó khăn khi lịch sử trước hết là sự công tâm và quá khứ lịch sử cũng cần sòng phẳng?
___________________________
Năm 1987, giáo sư Trần Quốc Vượng đã nhận định: “Có thời Nguyễn, chúng ta mới có được một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay”. Hai thập niên qua, dần dần đã có một cái nhìn rộng mở hơn đối với vương triều Nguyễn.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... g-niem-lang-le-331/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách