|
Tôi nói chuyện với đứa em gái đã qua đời trong tai nạn hầu như mỗi ngày. Lần đầu tiên Riley xuất hiện, con bé đứng phía cuối giường của tôi trong bệnh viện vào khoảng nửa đêm, một tay cầm bó hoa, tay kia vẫy vẫy. Tôi ngỡ ngàng trong cảm giác thực và ảo. Con bé chẳng nói chẳng rằng, thậm chí chẳng tạo ra một tiếng động dù nhỏ nhất. Tôi đoán đó chỉ là ảo giác của mình, hay chẳng qua đó có thể là một thứ gì đó mờ mờ trong không khí. Tôi còn tưởng mình bị ảo giác vì phản ứng phụ của thuốc giảm đau mà tôi mới uống. Nhưng sau khi chớp mắt liên hồi, chà nhiều lần vào mắt mình, tôi nhận ra con bé vẫn ở đó, rõ mồn một. Tôi đoán, nó tin tưởng rằng tôi sẽ không sợ hãi kêu la hay gọi ngưởi đến giúp.
Quả là tôi im lặng thật. Không sợ hãi. Không kêu la hay gọi mọi người đến giúp.
Tôi nhìn con bé khi đứa em thân yêu đến bên cạnh giường tôi, chỉ vào cánh tay và cái chân đang bó bột của tôi, rồi cười. Nó cười không thành tiếng. Chỉ là một động tác trên mặt giống như nụ cười ảo vậy. Nhưng ngay khi thấy tôi có vẻ giận thì con bé liền thay đổi nét mặt, không đùa nghịch, không cười chọc quê nữa mà như muốn hỏi có đau không chị.
Tôi nhún vai, vẫn còn một chút giận giận kiểu trẻ con vì nụ cười của em mình ban nãy. Rồi mặc dù không hoàn toàn tin có bé có thật, nhưng điều đó cũng không thể ngăn tôi hỏi: “Bố mẹ và con Buttercup đâu rồi?”.
Con bé làm động tác nghiêng đầu sang một bên, như thể họ đang đứng ngay đằng sau nó. Nhưng tất cả những gì tôi có thể thấy là khoảng không trống rỗng.
“Chị không thấy!”.
Tôi thở dài hơi tuyệt vọng. Nhưng con bé chỉ mỉm cười, áp hai bàn tay lại, nghêng đầu sang một bên như kiều các em bé vẫn làm để khuyên tôi ngủ lại đi.
Tôi ngoan ngoãn nhắm mắt như thể nghe theo lời khuyên của con bé. Nhưng ngay sau đó, tôi lập tức mở mắt ra và hỏi: “Ê, ai cho em mượn cái áo lạnh của chị?”
Chỉ có thế thôi. Rồi con bé biến mất.
Tôi thừa nhận, tối hôm đó tôi đã rất giận chính mình vì câu hỏi ngu ngốc, hời hợt và ích kỷ mà tôi đã thốt ra. Đáng lẽ lúc đó tôi phải hỏi về những điều quan trọng nhất liên quan đến cuộc sống con người. Ví dụ như có thật sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại như thế không? Bố mẹ như thế nào? Em tôi như thế nào? Vậy mà tôi đã phí thời gian căn vặn em mình về những điều vớ vẫn như kiểu sao em lấy cái áo lạnh của chị mà không hỏi. Tôi đoán, có lẽ đó là một thói quen lâu đời rất khó bỏ của con người.
Lần thứ hai con bé xuất hiện, tôi rất đỗi vui mừng. Tôi không còn đề cập đến chuyện sao em mặc chiếc áo lạnh yêu thích nhất của tôi, sao em mặc chiếc quần jeans đẹp nhất của tôi (chiếc quần vẫn dài thượt qua khỏi mắt cá chân của con bé), hay sao con bé giành đeo cái vòng tay xinh đẹp mà tôi được tặng nhân dịp sinh nhật lần thứ mười ba – cái vòng tôi biết em rất thích.
Tôi chỉ mỉm cười, gật đầu, ra vẻ như không nhận ra đó là những đồ vật của mình. Tôi nghiêng người về phía em và hỏi: “Bố mẹ đâu?”, lòng thầm tin họ sẽ xuất hiện nếu tôi chịu nhìn thật kỹ.
Nhưng Riley chỉ mỉm cười và vẫy hai tay hai bên.
“Ý em... bố mẹ là thiên thần hả?”, mắt tôi mở to tỏ vẻ ngạt nhiên.
Con bé lập tức trợn tròn mắt và lắc đầu, ôm bụng cười dù không hề phát ra bất kỳ âm thanh nào.
“Thôi được rồi, sao cũng được!”. Tôi nằm trở lại trên giường. “Vậy nói cho chị biết ở bên đó ra làm sao?”, tôi hỏi một cách nhẹ nhàng. “Em... Em có thích... À, có thích cuộc sống ở thiên đường không?”
Em bé nhắm mắt, giơ hai tay lên cao như thể cố giữ thăng bằng vật gì, và ngay sau đấy một bức tranh xuất hiện. |
|