Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: khoanhkhac_cb88
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Thép Đã Tôi Thế Đấy | Nhicalai Axtơrốpxki

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2012 20:37:16 | Chỉ xem của tác giả
Mưa thu quất vào mặt người. Những đám mây xám nghịt mọng nước kéo lê thê trên nền trời thấp. Cảnh thu muộn, những cánh rừng đã trút hết lá. Hàng cây cổ thụ đứng chau mày, giấu lớp vỏ nhăn nheo dưới màng rêu màu nâu. Mùa thu tàn nhẫn đã lột trần bộ áo sặc sỡ tươi màu của rừng để thân cây đứng trơ trụi và hốc hác.

Ga xép hiu quạnh này náu mình chính giữa rừng vắng. Từ ke bốc hàng lát đá, mới đắp thêm một dải đất lầy nhầy chạy về phía rừng. Chung quanh, người hì hục làm, đông như kiến.

Bùn nhầy nhụa, dính lấy mỗi bước đi. Ủng da lội bì bà bì bõm nghe lớp nhớp khó chịu. Người ta hùng hục xúc đất, đổ nền. Xà beng chạm loảng xoảng, cuốc bổ vào đá chan chát.

Mưa tuôn như rây bột. Hạt mưa lạnh thấm qua quần áo. Mưa đang cuốn đi công trình lao động của con người. Đất thó vữa ra như cháo đặc sệt cứ từ những chỗ mới đắp tùn xuống.

Quần áo bị ướt sũng, vừa nặng, vừa lạnh buốt. Nhưng ngày này qua ngày khác, người ta vẫn cố làm rốn đến tận tối mịt mới nghỉ tay.

Dải đất mới đắp mỗi ngày một chui thêm mãi vào rừng sâu.

Cách nhà ga không xa, ngôi nhà đá sừng sững đứng trơ xương, trông dữ tợn. Những thứ gì có thể dỡ được, tháo được hoặc phá được thì đã bị lấy trộm đi từ bao giờ rồi. Các cửa sổ, cửa ra vào giờ chỉ còn là những lỗ hổng. Các cửa lò dưới bếp chỉ còn là những khoảng đen ngòm. Mái nhà trơ những khe, lỗ, để lộ ra kèo cột bên trong.

Chỉ có nền nhà bằng bê-tông của bốn phòng rộng là còn nguyên thôi. Tối đến, bốn trăm con người quần áo ướt sũng, bê bết bùn lầy, chen chúc nhau nằm lên đấy rét run cầm cập. Người ta đứng lại ngoài cửa vắt quần áo, từng dòng nước bùn đục rỏ tong tong xuống đất. Họ nguyền rủa trời mưa gió, cảnh lầy lội. Trên ổ rơm rải mỏng dính lên nền bê-tông, họ nằm thành hàng san sát quắp lấy nhau mà ngủ cho ấm. Quần áo bốc hơi ngùn ngụt mà không tài nào khô được. Cửa sổ mất kính, che tạm bằng mấy chiếc bao tải, nước mưa hắt vào rỉ xuống nền nhà. Từng cơn mưa đổ hồi như trống giục, trút nước lên những mảnh tôn còn lại trên mái; gió gào luồn qua khe liếp chặn cửa, thổi ùa vào trong.

Sáng dậy, đoàn người kéo đến túp lều xiêu vẹo xưa kia là bếp; họ làm một bát nước chè rồi ra công trường. Trưa nào cũng chỉ độc một món đậu nấu không chán ngấy với sáu lạng bánh mì đen thui như than đá.

Thành phố chỉ có thể cung cấp cho họ được đến thế thôi.

Phụ trách công trình là ông già Va-lê-ri-an Pa-tô- sơ-kin, người cao lớn khô đét, hai má hóp nhăn nheo. Cán bộ kỹ thuật là Va-cu-lên-cô, người lùn tịt, mũi sư tử ngồi chòm chõm trên khuôn mặt xương xẩu như lấy rìu mà đẽo vậy. Họ đều ở nhờ nhà người trưởng ga.

Tô-ca-rếp ngủ ở trong phòng đồng chí công an đặc biệt công tác ở ga này. Đồng chí ấy tên là Khô-li-a- va, có hai cẳng ngắn ngủn, tính người cựa quậy luôn chân luôn tay, y như giọt thủy ngân.

Đoàn người xây dựng đường sắt kiên cường chịu  đựng mọi sự thiếu thốn.

Nền đường mới đắp mỗi ngày một thọc sâu vào rừng.

Trong đoàn đã có chín người đào ngũ. Mấy ngày sau lại có năm người nữa bỏ trốn.

Sang tuần thứ hai, công trường bị nó chơi một vố đầu tiên: chuyến tàu chiều từ tỉnh lên không chở bánh mì cho công trường.

Đu-ba-va đánh thức cụ Tô-ca-rếp dậy và báo tin ấy cho đồng chí.

Người bí thư già của Đảng bộ công trường buông thõng hai chân đầy lông xuống đất, tay gãi sồn sột vào nách một cách giận dữ. Đồng chí vừa mặc quần áo vừa lẩm bẩm:

- Chúng đã giở trò rồi!

Vừa lúc ấy, anh chàng Khô-li-a-va béo tròn như một quả bóng lăn vào. Tô-ca-rếp liền ra lệnh cho anh ta:

- Đi nhanh ra dây nói, gọi đến Ban đặc biệt. - Rồi quay lại dặn Đu-ba-va: - Còn cậu thì đừng có hở cái việc bánh mì này cho một ai nhé !

Mất nửa tiếng quặc nhau với các nhân viên tổng đài điện thoại, nhờ thái độ cương quyết, Khô-li-a-va đã liên lạc được với đồng chí phó chủ nhiệm Ban đặc biệt là Giu-khơ-rai. Nghe thấy Khô-li-a-va cãi nhau hoài với các nhân viên tổng đài, Tô-ca-rếp sốt ruột quá giậm chân thình thịch.

Tiếng Giu-khơ-rai thét lên trong ống nói:

- Sao? Không chở bánh mì tới à? Được, để tôi hỏi ngay lập tức xem ai làm ra cái chuyện này?

Tô-ca-rếp bực tức la to vào máy:

- Đồng chí cho tôi biết ngay điều này thì hơn: mai chúng tôi lấy gì cho anh em ăn đây.

Giu-khơ-rai suy nghĩ. Một lát khá lâu sau, ông già bí thư Đảng ủy công trường nghe đáp lại:

- Bánh mì, chúng tôi sẽ chở đến ngay đêm nay. Tôi sẽ phái Guy-gô đánh xe tới, cậu ấy biết đường. Sáng mai, các đồng chí sẽ có bánh ăn.

Tờ mờ sáng hôm sau, một chuyến xe bùn bắn bê bết chở bánh mì tới ga. Lít-kê con, mệt nhoài, bước ra khỏi xe, mặt mày phờ phạc vì suốt đêm không ngủ.

Cuộc đấu tranh để làm xong con đường ngày càng gay go quyết liệt. Phân cục đường sắt báo cho biết là không có tà vẹt. Ở thành phố thì không đào đâu ra phương tiện để chuyển đường ray và đầu máy đến công trường. Ngay đến cả các đầu máy nhỏ cũng cần phải sửa chữa lại khá nhiều mới chạy được. Toán công nhân thứ nhất sắp hết hạn, thế mà toán đến thay phiên vẫn chưa thấy mặt đâu cả. Không thể nào cứ giữ những người đã kiệt sức này ở lại làm tiếp được nữa.

Trong nếp nhà cũ kỹ, dưới ánh đèn dầu le lói, hội nghị cán bộ kéo dài cho đến tận khuya.

Sáng sớm hôm sau, Tô-ca-rếp, Đu-ba-va, Cơ-la-vi- sếch mang sáu người về thành phố để chữa đầu máy và lấy đường ray. Cơ-la-vi-sếch nguyên là công nhân nướng bánh mì nên được phái đến ban tiếp phẩm để kiểm tra, còn những anh em khác thì đi cả về Pu- sa Vô-đi-sa.

Mà mưa thì vẫn trút xuống.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2012 21:15:39 | Chỉ xem của tác giả
Pa-ven vất vả mới rút được chân ra khỏi vũng vùn nhầy nhụa. Cảm thấy bần chân bỗng nhiên tê buốt, anh biết là chiếc đế giày mục đã tụt mất hẳn rồi. Ngay từ ngày đầu tới đây cho đến giờ, anh đã khổ sở vì đôi giày ống hỏng, đôi giày lúc nào cũng ướt sũng, cũng bết bùn. Bây giờ thì một chiếc đã mất hẳn đế, bàn chân giẫm thẳng trong bùn lạnh thấu xương. Chân tê giá quá chừng, anh không còn sức để làm việc nữa. Anh móc chiếc đế giày mới tụt ra khỏi bùn, nhìn nó mà thất vọng. Anh quên cả lời anh tự hứa với mình hôm trước, buột mồm văng tục chửi rủa, rồi bỏ đi vào túp lều nay dùng làm bếp. Ngồi cạnh bếp, anh tháo chiếc tất ướt đầm đìa ra và hơ bàn chân đã tê cứng vào lửa.

Chị Ô-đác-ca, vợ bác gác đường sắt, được người cấp dưỡng đưa vào làm phụ, đang thái củ cải trên chiếc bàn nhà bếp. Trời phú cho chị vợ còn trẻ ấy của bác gác đường sức vóc hơn người, đôi vai lực điền, bộ ngực dữ như vâm, đôi hông dư sức, thẳng đứng. Chị ta đưa dao thoăn thoắt, đống rau thái rồi chẳng mấy chốc đã chất cao trên bàn.

Thấy mặt Pa-ven, chị ta nhìn có vẻ khinh bỉ và hằn học hỏi:

- Định đến chực ăn đấy à? Còn hơi sớm một chút. Chắc lại trốn việc chứ gì? Mà sao lại thò chân vào đấy? Đây là nhà bếp chứ có phải nhà tắm đâu.

Chị ta đang chửi Pa-ven thì đồng chí cấp dưỡng đứng tuổi bước vào.

Pa-ven giải thích tại sao mình lại vào bếp: - Chiếc giày ống của tôi tan nát mất rồi.

Đồng chí cấp dưỡng nhìn chiếc giày ống rách nát và hất đầu về phía chị Ô-đác-ca:

- Chồng chị ấy cũng võ vẽ nghề thợ giày đấy, nói bác ta khâu hộ cho, kẻo ở đây không có giày thì tong đời.

Nghe nói, chị Ô-đác-ca nhìn Pa-ven và cảm thấy hơi ngượng. Chị thú thật:

- Thế mà tôi đã tưởng lầm là anh trốn việc vào đây.

Pa-ven cười. Đến lượt chị Ô-đác-ca ngắm nghía chiếc giày có vẻ là tay lành nghề lắm:

- Giày này chồng tôi chẳng buồn chữa đâu, giầy thế này chữa chỉ toi công. Thôi để tôi mang đến cho anh một chiếc giày cao-su cũ, tôi thấy bỏ vương ở nhà tôi ấy. Anh xỏ vào cũng đỡ lạnh chân. Chứ ai đời lại để giầy không có đế mà đi được, thật tội nợ. Nay mai lại sắp đại hàn, giày với dép như thế thì anh đến quỵ mất.

Lần này thì chị Ô-đác-ca nói có chiều thương hại Pa-ven lắm. Và chị đặt dao xuống, đi ra.

Một lát, chị mang về chiếc giày cao su đi tuyết và một miếng vải băng. Chân hơ nóng, lấy vải bọc lại, thọc vào giày rồi, Pa-ven lặng nhìn chị Ô-đác-ca thầm tỏ ý cảm ơn.

Tô-ca-rếp ở tỉnh về, nét mặt hầm hầm, giận dữ. Đồng chí triệu tập các cán bộ lại nhà Khô-li-a-va và báo cho mọi người biết những tin chẳng có gì là phấn khởi cả. Đồng chí báo cáo với anh em:

- Chỗ nào cũng ỳ ra. Đi đến đâu cũng thấy bánh xe quay nhưng quay chổng lên trời cả. Phải thấy rằng chúng ta chưa trừ tiệt được bọn chó trắng. Khi chúng không còn thò ra mống nào nữa thì nghĩa là chúng vẫn còn. Tôi nói toạc ra cho anh em biết là công việc không được chạy lắm. Toán thứ hai đến thay phiên giờ vẫn chưa tập hợp xong. Sẽ gửi đến đây được bao nhiêu người cũng chưa rõ. Đại hàn sắp tới nơi rồi. Trước khi trời bắt đầu vào rét, dù chết chúng ta cũng phải vượt qua được đoạn lầy. Nếu không, rét đến, có lấy răng mà gặm đất cũng không nổi đoạn đường. Ở trên tỉnh, bọn nào làm láo rồi sẽ bị trùy cẩn thận. Còn chúng ta ở đây phải ra sức làm nhanh gấp đôi mới được. Dù có chết đi chết lại năm lần cũng phải làm cho xong nhánh đường sắt này. Không xong thì còn mặt mũi nào làm người bôn-sê-vích nữa. Không xong thì chỉ là một bọn ươn hèn mà thôi. - Tô-ca- rếp nói, giọng hôm nay không khàn khàn như mọi khi, tiếng cụ rung lên lanh lảnh như tiếng thép. Đôi mắt sáng quắc dưới hàng lông mày cau cau đủ tỏ quyết tâm ngoan cường của đồng chí già.

- Ngay hôm nay chúng ta sẽ họp kín, đánh thông trong nội bộ. Ngày mai sẽ đi làm cả. Sáng mai thì cho những người ngoài Đảng họ về. Còn chúng ta thì ở lại. Quyết nghị của tỉnh ủy đây. - Tô-ca-rếp đưa tờ giấy gấp tư cho Pan-cơ-ra-tốp.

Nhìn qua vai Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven thấy trong giấy có những hàng chữ: "Cần thiết giữ lại ở công trường tất cả các đoàn viên. Cho đến khi nào chở được chuyến gỗ thứ nhất về mới được thay phiên. Thừa lệnh bí thư Ban chấp hành Tỉnh. Ri-ta Uốt-chi-nô-vích".

Căn nhà chật chội, không còn chỗ mà len vào nữa. Một trăm hai mươi con người chen chúc nhau, người đứng dựa tường, người leo lên bàn, có người leo lên cả lò bếp.

Cuộc họp do Pan-cơ-ra-tốp khai mạc. Lão đồng chí Tô-ca-rếp nói ngắn thôi, nhưng đoạn cuối làm choáng váng mọi người:

- Ngày mai, các đảng viên và đoàn viên đều ở lại.

Ông già giơ tay đập vào khoảng không như để nhấn mạnh là quyết nghị ấy như đanh đóng cột rồi. Cử chỉ ấy làm tan vỡ mọi hy vọng muốn về tỉnh, về với những người thân, tan hết hy vọng rút chân ra khỏi chốn bùn lầy này. Lúc đầu tiếng nhao nhao nổi lên đến nỗi không còn nghe thấy gì nữa. Ngọn đèn dầu nhỏ tí lay lắt như cũng phấp phỏng. Tối quá, không còn trông rõ mặt người. Tiếng nói ồn  ào mỗi lúc một to. Nhóm này kháo nhau, mơ mộng gợi lại cảnh gia đình đầm ấm, nhóm kia tức giận kêu mệt nhọc. Có nhiều người không nói gì cả. Và chỉ có một người nói ra miệng muốn đào ngũ. Giọng căm phẫn của hắn từ trong góc nhà ném ra những câu nói chêm lời văng tục.

- Mẹ kiếp! Tôi đếch vào ở đây lấy một ngày nào nữa. Đày ai đi khổ sai thì cũng phải có tội tình gì mới đày người ta được chứ. Chúng tôi đây thì có tội gì? Đã giam chúng tôi ở đây nửa tháng, xin đủ lắm rồi. Người ta là người chứ không phải là sung rụng. Ai quyết định làm chỗ này thì kẻ ấy tự dẫn xác đến đây mà làm lấy. Ai muốn thì cứ đến mà lăn mình vào đống bùn này, còn tôi, đời tôi chỉ sống có một lần, tôi phải giữ lấy thân tôi. Ngay ngày mai là tôi chuồn.

Ô-cu-nhếp đứng ngay trước mặt tên vừa la đó, anh quẹt diêm soi xem mặt tên đào ngũ đó là đứa nào. Ánh lửa diêm khoảnh khắc lóe lên trong bóng tối, làm lòi cả cái mặt méo xệch, nhăn nhó, tức tối, mồm há hốc kia. Ô-cu-nhếp nhận ra nó là con lão thư ký kế toán ở ban tiếp tế của tỉnh.

- Mày soi cái gì? Tao có phải ăn trộm ăn cắp đâu mà phải giấu mặt.

Diêm tắt, Pan-cơ-ra-tốp vùng đứng phắt dậy. Anh đưa mắt nặng nề, nhìn những người đứng gần, giọng ồ ồ:

- Kẻ nào dám há mồm sủa láo đấy? Đứa nào bảo nhiệm vụ Đảng trao cho là khổ sai? Các anh em, chúng ta không thể nào trở về tỉnh được. Chỗ của chúng ta là ở đây. Nếu chúng ta bỏ đi tức là nhân dân sẽ bị chết rét. Ta càng làm xong sớm thì càng về sớm. Còn đánh bài chuồn như cái thằng khốn nạn vừa rồi thì lý tưởng của chúng ta, kỷ luật của chúng ta không cho phép.

Pan-cơ-ra-tốp - anh công nhân bốc vác - vốn không ưa nói dài, nhưng ngay mấy câu vắn tắt của anh cũng đã lại bị cái giọng ban nãy cắt lời:

- Người ngoài Đảng, ngoài Đoàn thì được về phải không?

Pan-cơ-ra-tốp trả lời đốp: - Được.

Tức thì một tên mặc chiếc bành-tô ngắn diện phố lách tới chỗ bàn. Hắn quăng ra một cái thẻ. Cái thẻ như cánh dơi liệng, chạm vào ngực Pan-cơ-ra-tốp, rồi bắn ra, rơi tõm xuống mặt bàn.

- Thẻ đây, xin các anh cầm lấy hộ. Xin phép các anh, chết vì mảnh bìa này mà tội vào thân thì tôi xin đủ.

Hắn chưa dứt lời, tiếng phẫn nộ nhao nhao lên khắp gian nhà:

- Mày quẳng cái gì đi đấy! Không biết nhục à!

- Đồ chó chết, cút đi!

- Cái thứ mặt ấy chui vào Đoàn cốt chỉ để kiếm một chỗ nào ấm cái thần xác!

- Tống cổ nó đi! - Được rồi chúng tao cho mày chỗ ấm, rõ cái đồ rận tha bệnh thương hàn!

Tên vừa vứt thẻ Đoàn đó cúi gằm mặt lùi lũi bước ra. Hắn đi qua, ai nấy đều giãn ra như tránh một con bệnh truyền nhiễm. Hắn ra khỏi, cửa đóng kẹt lại.

Pan-cơ-ra-tốp vò cái chứng minh thư hắn bỏ, gí vào ngọn đèn dầu.

Mảnh bìa bốc cháy, tàn quặn lại.


Có tiếng súng nổ. Từ phía túp nhà tồi tàn một bóng người cưỡi ngựa phóng trốn vào rừng, biến trong đêm tối. Người từ trong trường học và căn nhà đổ ùa ra. Có người đụng phải tấm biển bằng gỗ dán đút vào kẽ cửa lớn. Người ta quẹt diêm và lấy vạt áo che gió; ánh diêm lập lòe, soi lên thì đọc thấy mấy chữ: "Chúng bay cút ngay khỏi nhà ga này, ở đâu đến thì lại về đấy ngay lập tức. Kẻ nào ở lại chúng ông sẽ cho ăn đạn vào sọ. Quân ta sẽ giết sạch, không tha một mống. Gia hạn cho đến tối mai là cùng, phải tuân lệnh này" Dưới có chữ ký: "Đầu lĩnh Sê-nốc".

Sê-nốc là bè đảng O-rơ-lích.

Trong phòng Ri-ta, cuốn nhật ký của chị để mở trên bàn.

"Mồng hai tháng Chạp

Sáng nay có tuyết đầu mùa rồi. Trời lạnh ghê người. Gặp Vê-rê-sláp Ôn-sin-ski ở cầu thang. Mình và anh ta cùng đi ra ngoài. Ôn-sin-ski nói:

- Tôi bao giờ cũng thích tuyết đầu mùa. Chà lạnh! Cảnh tuyết đẹp ghê, phải không chị?

Mình nghĩ đến công trường Bai-a-rơ-ca nên trả lời anh ta là mình rét và tuyết chẳng làm mình vui tí nào, trái lại chỉ làm mình khổ tâm. Mình nói cho anh ta hiểu vì sao lại thế.

- Đấy là cách nhìn chủ quan của chị thôi. Nếu phát triển quan điểm của chị thì, chẳng hạn như trong lúc chiến tranh, không thể nào cho phép có tiếng cười và nói chung tất cả những gì biểu hiện vui sống được ư? Nhưng thực tế có như thế đâu chị? Thảm kịch là chỉ ở nơi hỏa tuyến. Ở đấy mối cảm về cuộc sống luôn luôn bị cái chết kề bên cạnh bóp nghẹt. Nhưng ngay ở đấy, vẫn có tiếng cười. Còn ở hậu phương cuộc sống thế nào thì nó vẫn như thế : tiếng cười và tiếng khóc, đau khổ và mừng vui, khao khát kịch hát hoan lạc tình cảm, rạo rực tình yêu.

Trong những lời của Ôn-sin-ski, khó mà phân biệt là châm biếm hay nói thật. Ôn-sin-ski là phái viên của Bộ dân ủy ngoại giao. Vào Đảng từ năm 1917. Mặc theo lối phương Tây, râu bao giờ cũng cạo nhẵn, người lúc nào cũng bôi tí nước hoa. Anh ta ở phòng đồng chí Xê-pan, cùng nhà với bọn mình. Chiều nào cũng đến thăm mình. Nói chuyện với anh chàng cũng thấy hay hay. Anh ta đã từng ở Pa-ri lâu, hiểu nhiều về phương Tây. Nhưng mình không hề nghĩ rằng anh ta với mình có thể thành bạn thân được. Lý do: đối với mình, anh ta trước hết coi mình là một phụ nữ, rồi sau nữa mới là một đồng chí Đảng. Thật ra, anh ta không che đậy gì những ý nghĩ, những thèm muốn của anh ta cả. Kể cũng là một tay bạo nói thật. Và cái thú của anh ta cũng không thô bạo đâu. Anh ta khéo nói tô vẽ cho nó đẹp. Nhưng mình không ưa anh ta.

Tác phong chất phác tuy hơi cục cằn của Giu-khơ- rai làm cho mình dễ gần hơn là cái nước sơn hào nhoáng Âu hóa của Ôn-sin-ski.

Nhận được báo cáo ngắn từ Bai-a-rơ-ca gửi về. Mỗi ngày đặt được hơn hai trăm thước đường. Tà-vẹt đặt ngay trên đất đóng băng, lấy rìu và xà beng khoét đất ấy ra, rồi đặt tà-vẹt vào đấy. Tất cả chỉ còn hai trăm bốn mươi người. Toán thứ hai đến thay phiên đã bỏ trốn mất một nửa. Điều kiện làm việc thật là gay. Giá tuyết như vậy không biết rồi làm ăn ra sao?. .. Đu ba-va ở đấy đã được một tuần. Trong số tám đầu máy ở Pu-sa Vô-đi-xa chỉ chọn được năm. Những cái còn lại đều thiếu mất nhiều bộ phận.

Cục quản lý xe điện kiện Đu-ba-va vì anh ta cùng toàn đội đã dùng vũ lực giữ tất cả các xe điện đi từ Pu-sa Vô-đi-xa về tỉnh. Đu-ba-va bắt hành khách xuống, lấy toa tàu chở đường ray đến công trường. Mười chín toa xe điện theo đường quanh tỉnh chạy về ga. Công nhân xe điện hết sức giúp họ.

Ở nhà ga, số đoàn viên thanh niên cộng sản Xô- lô-men-ca còn lại suốt đêm hì hục xếp ray đi, và Đu- ba-va cùng anh em trong đội chở những thanh ray về công trường Bai-a-rơ-ca.

A-kim gạt đi không xét vụ khiếu nại về Đu-ba-va này ở hội nghị thường vụ. Đu-ba-va đã trình bày với chúng tôi tình trạng quan liêu lề mề quá quắt ở Cục xe điện. Họ khăng khăng chỉ cho anh hai chiếc tàu điện và nhất định không cho hơn. Túp-ta lên lớp Đu-ba-va:

- Thời buổi này phải bỏ tác phong du kích ấy đi, bây giờ mà còn thế nữa thì có phen ngồi tù sớm. Làm như không thể nào dàn xếp thương lượng được, nên cứ phải dùng tay súng nói chuyện với nhau hay sao?

Mình chưa bao giờ thấy Đu-ba-va giận dữ đến thế.

Anh ta thét ầm khiến phòng họp Tỉnh đoàn rung lên. - Đồ cạo giấy sao không vác mặt đứng ra mà thương lượng? Chỉ ngồi ở đây như con đỉa hút mực lại còn cứ xoen xoét cái lưỡi. Tớ mà về Bai-a-rơ-ca không có ray thì người ta hớt mõm tớ đi ! Được rồi, phải gửi cậu lên công trường mới chừa cái thói ngồi một chỗ làm vướng chân người khác. Để cho cụ Tô-ca-rếp cụ ấy dạy cho cậu biết thân?

Túp-ta đã viết đơn kiện Đu-ba-va, nhưng A-kim đề nghị mình đi ra trước, còn anh ngồi lại nói chuyện với Túp-ta độ mươi phút. Sau đó, Túp-ta hầm hầm đi ra, đỏ mặt tía tai vì giận dữ.

3 tháng Chạp.

Tỉnh ủy lại nhận được đơn khiếu nại của Ban đặc biệt ngành giao thông về một vụ mới xảy ra. Số là Pan-cơ-ra-tốp, Ô-cu-nhếp cùng mấy đồng chí nữa đến ga Mô-lô-vi-lốp-ca dỡ cửa lớn và cửa sổ của các tòa nhà bỏ không. Lúc họ khiêng những thứ này lên tàu thì có một anh công an đặc biệt của nhà ga định bắt họ. Họ tước vũ khí của anh kia. Mãi đến khi tàu chạy, họ mới trả súng ngắn cho anh, nhưng lại moi hết đạn đi. Họ cuỗm tất cả cửa giả đi. Phòng vật liệu sở công chính lại còn tố cáo Tô-ca-rếp không được phép đã tự động lấy hai mươi put đinh ở kho Bai-a-rơ-ca. Thật ra thì số đinh này Tô-ca-rếp đã chia cho nông dân, thế vào tiền công họ đã chuyển gỗ từ nơi đẵn đến công trường để làm tà-vẹt. ( Một pút bằng 16,3 ki-lô)

Mình đã đem những chuyện này nói với đồng chí Giu-khơ-rai. Anh cười bảo: "Tất cả những chuyện ấy, rồi chúng ta sẽ dàn xếp đâu vào đấy cả".

Trên công trường, tình hình hết sức căng thẳng, quý từng ngày một. Việc vặt gì cũng phải dùng đến hết mọi áp lực. Luôn luôn phải kéo cổ những tên kìm hãm công việc lên Tỉnh ủy. Đám thanh niên trên công trường ngày càng hay phá nội quy.

Ôn-sin-ski mang đến cho mình một cái lò sưởi điện nhỏ. Ôn-ga I-u-rê-nhê-va và mình dùng để sưởi tay. Nhưng trong phòng có lò cũng chẳng ấm thêm. Không hiểu các anh em làm trên công trường, nằm trong rừng, đêm nay ngủ làm sao được? Ôn-ga kể chuyện: trong nhà thương lạnh quá, bệnh nhân không dám thò đầu ra khỏi chăn. Cách ba ngày mới được đốt củi sưởi một lần.

Không, đồng chí Ôn-sin-ski ạ, thảm kịch ở tiền tuyến cũng, là thảm kịch của hậu phương.

4 tháng Chạp,


Tuyết suốt đêm. Tuyết xuống rất dày. Anh em ở Bai-a-rơ-ca viết thư cho mình biết: mọi vật đều bị tuyết phủ hết. Công việc bị đình lại. Người ta đổ ra quét tuyết lấy đường đi. Hôm nay tỉnh ủy quyết nghị: công tác đợt thứ nhất trên công trường trước ngày mồng một tháng Giêng năm 1922 phải làm xong đến giáp giới khu vực đốn gỗ. Người ta kể lại rằng khi nghị quyết truyền đạt tới Bai-a-rơ-ca, thì Tô-ca-rếp trả lời: "Nếu anh em chúng tôi không đổ hết, thì nhất định làm được".

Chẳng nghe thấy nói gì về Pa-ven. Cũng lạ là chẳng có "vụ" , nào về Pa-ven tương tự như kiểu Pan-cơ-ra- tốp đã làm cả. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao Pa-ven cứ tránh mặt tôi.

5 tháng Chạp.


Hôm qua thổ phỉ lại bắn vào công trường".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 14:00:38 | Chỉ xem của tác giả
Ngựa rón rén đặt chân lên lớp tuyết mềm, xốp. Đôi lúc móng ngựa giẫm gẫy cành cây nằm dập dưới tuyết kêu răng rắc, con ngựa phì hơi, né sang một bên, nhưng bị nòng súng trường không cắm lưỡi lê thúc vào đôi tai, liền phi lên, đuổi theo những con đi trước.

Gần chục tên cưỡi ngựa vượt ngọn đồi ở đầu dải đất nâu còn chưa bị tuyết phủ.

Chúng kìm ngựa lại đấy. Bàn đạp ngựa chạm vào nhau xoang xoảng. Con ngựa đi đầu rùng mình quẫy mạnh, toàn thân nó đã đẫm mồ hôi sau một đoạn đường dài. Thằng đi đầu nói:

- Quân khốn kiếp chúng nó đang rúc trong cái nhà kia kìa. Làm thế nào đuổi chúng đi như gạt sạch tuyết mới được! Đầu lĩnh đã bảo chậm lắm ngày mai phải xua sạch cái lũ châu chấu ấy ra khỏi đây. Vì nếu không thì cái lũ "công nhân" chó chết ấy có thể mò được đến tận những đống gỗ đã đốn kia.

Bọn đi ngựa xếp hàng dọc men theo nhánh đường sắt tiến gần vào nhà ga. Chúng mon men từng bước đến khoảng rừng trống mé trước cái trường học cũ rồi đứng nấp sau những lùm cây.

Loạt súng nổ phá tan cái im lặng của đêm tối. Chùm tuyết từ trên cành cây bạch dương có ánh trăng bạc dãi lên rơi xuống như sóc chuyền cành. Giữa những hàng cây, lóe lên những tia lửa đạn bắn lỗ chỗ những mảnh tường đắp thạch cao; những mảnh kính Pan- cơ-ra-tốp lấy về lắp trên cửa sổ bị vỡ tan tành.

Loạt súng đã lôi những người ngủ trên sàn bê- tông choàng dậy, nhưng khi có những viên đạn chì như những con dế độc bay vù vù trong phòng thì họ sợ hãi nằm rạp cả xuống, mất hết trật tự, người này ngã vào người kia.

Đu-ba-va túm lấy áo ca-pốt Pa-ven.

- Cậu đi đâu?

- Ra ngoài.

Đu-ba-va rỉ tai nói hổn hển:

- Nằm xuống, thằng ngu ! Mày ló mặt ra, nó bắn chết tươi ngay tại chỗ.

Họ nằm bò sát vào nhau, gần ngưỡng cửa ra vào. Đu-ba-va nằm rạp xuống sàn nhà, tay chĩa súng ngắn ra phía ngoài cửa. Pa-ven ngồi xổm, hồi hộp sờ ổ đạn súng ngắn. Có năm viên tất cả. Sờ đến lỗ không đạn, anh quay ổ đạn lại.

Súng ngừng nổ. Yên lặng đột ngột làm mọi người ngạc nhiên. Đu-ba-va khẽ ra lệnh cho những người đang nằm:

- Anh em ai có vũ khí hãy tập hợp lại đây !

Pa-ven rón rén mở cửa. Ngoài khoảng rừng quang vắng, không một bóng người. Bông tuyết rơi xuống quay chầm chậm. Trong rừng sâu, lúc đó có mười tên kỵ mã đang quất ngựa chạy.

Gần trưa, một chiếc xe goòng từ thành phố lao như bay tới. Giu-khơ-rai và A-kim ở trong xe bước ra. Tô-ca-rếp và Khô-li-a-va ra đón. Người ta tháo từ trên xe xuống khẩu súng Mác-xim với mấy băng đạn và hai chục khẩu súng trường. Khẩu súng máy bố trí ngay ở sân ga.

Mọi người vội vã đi đến chỗ làm việc. Tà áo ca- pốt của Giu-khơ-rai quét trên mặt đất phủ tuyết, vẽ thành đường ngoằn ngoèo. Anh đi như gấu chạy, người vặn bên này vặn bên kia, chân hơi khoèo. Anh vẫn còn quen cái lối đi ấy như bước trên boong rập rình của chiếc phóng ngư lôi hạm hồi xưa. A-kim người cao, chân dài, nên vẫn theo kịp Giu-khơ-rai. Chỉ có cụ Tô-ca-rếp chốc chốc lại phải cắm cổ chạy theo. Cụ nói:

- Việc thổ phỉ tập kích hãy còn là chuyện mệt vừa. Mệt nhất là có gò đất chắn ngáng ngay lấy đường chúng tôi đang làm. Ma xui quỷ khiến nó nằm lù lù ra đấy. Phải đào đi cả một đống đất tướng.

Ông già dừng lại, quay lưng chắn gió, châm thuốc lá một lòng bàn tay úp như cái phễu để che gió; cụ rít một hơi, rồi lại đuổi theo các đồng chí. A-kim đứng lại chờ. Giu-khơ-rai vẫn rảo bước đi trước.

A-kim hỏi Tô-ca-rếp:

- Sao, bác xem liệu ở đây ta có đủ sức làm xong con đường đúng thời hạn không?

Tô-ca-rếp đắn đo một lát, rồi mới trả lời:

- Chắc chú cũng biết, thật ra, nói chung thì không thể nào làm xong được, nhưng không làm xong cũng không được. Cho nên phải xong.

Hai người đuổi kịp Giu-khơ-rai và cả ba cùng đi ngang hàng với nhau. Ông già nói bằng một giọng phấn khởi:

- Then chốt vấn đề là trông vào chỗ "nhưng” ấy. Ở đây chỉ có hai người, Pa-tô-sơ-kin và tồi biết được trong những điều kiện chó má này, với mớ dụng cụ thô sơ và nhân lực thiếu thốn như thế này thì không thể nào làm xong được con đường. Nhưng được cái tất cả anh em ở đây đều thấy là không xong con đường này cũng không được. Cho nên tôi đã dám nói rằng: "Nếu anh em chúng tôi không đổ hết thì nhất định làm được". Các đồng chí thử nhìn mà xem. Chúng tôi làm hùng hục đã sang tháng thứ hai rồi. Ba đợt dân công đã kế tiếp nhau làm ở đây và toán đang làm là toán thứ tư, nhưng đám đoàn viên thanh niên cộng sản là lực lượng cốt cán thì vẫn làm quần quật không nghỉ. Chính vì họ trai trẻ nên họ mới đứng vững được như thế. Cũng đã có đến một nửa anh em bị cảm mạo. Hễ cứ nhìn đám trẻ ấy là không sao cầm lòng được, thật tội và thương. Thanh niên như họ thật quý vô giá… Cái xó chết tiệt này rồi sẽ làm nhiều anh em gục mất...

Nhánh đường sắt đã làm xong đoạn đầu tiên đến cách nhà ga một cây số.

Xa hơn nữa độ một cây rưỡi trên nền đường mới san bằng, những thanh gỗ dài nằm bám xuống đất trông như những cột hàng rào bị gió thổi bạt đi, đổ lăn ra. Đấy là tà-vẹt. Xa nữa, đến chân gò đất là con đường mới đắp chưa đặt ray.

Đây là nhóm làm đường số một của Pan-cơ-ra-tốp. Bốn mươi người đặt tà-vẹt. Bác nông dân râu hoe, đi giày rơm mới, đang từ từ kéo từng cây gỗ trên xe trượt tuyết đẩy ra mặt đường. Xa xa, cũng có mấy chiếc xe nữa đang dỡ gỗ xuống. Hai thanh sắt dài nằm trên đất, đó là kích thước đường ray để đo tà- vẹt cho đều. Búa, xà beng, cuốc xẻng thi nhau bổ xuống để san phẳng nền đất.


Đặt tà-vẹt là một công việc tỉ mỉ và phải làm từ từ. Tà-vẹt đặt trên mặt đường phải bám rõ chặt và phải để thế nào cho đường ray đặt lên dựa đều vào mỗi thanh tà-vẹt, thanh nào cũng như thanh nào.

Ở đây chỉ độc cụ già trưởng toán La-gu-chin là thạo kỹ thuật đặt đường ray. Cụ là bố đẻ Ta-li-a. Tuy đã năm mươi tư tuổi rồi mà đầu cụ không một sợi tóc bạc, râu vểnh ra hai bên, đen như hắc ín. Cụ đã tự nguyện ở lại làm, đến lượt thay phiên thứ tư vẫn không về. Cụ lăn lộn với đám thanh niên, đồng cam cộng khổ; được toàn đội yêu kính. Tuy là một người ngoài Đảng, bao giờ cụ cũng được mời vào ngồi ghế danh dự trong tất cả các cuộc họp Đảng. Tự hào với điều đó, cụ đã hứa là việc chưa xong thì quyết không bỏ công trường về.

- Đời nào tôi có thể bỏ anh em mà về được, anh em thử nghĩ mà xem. Rời tôi ra, anh em đặt tà-vẹt sẽ lúng túng mất: công việc này cần phải có con mắt tinh, có tay quen mới làm được. Còn tôi thì trong đời đã đặt không biết bao nhiêu là tà-vẹt trên khắp đất nước Nga ta rồi... - Cứ mỗi lần có chuyến thay phiên thì cụ lại nói bằng một giọng hồn nhiên như thế và tự nguyện ở lại làm.

Pa-tô-sơ-kin tin ông cụ nên ít khi đến kiểm tra đoạn đường cụ làm. Lúc Giu-khơ-rai, A-kim và Tô- ca-rếp đến chỗ anh em làm việc thì Pan-cơ-ra-tốp đang bổ búa xuống moi đất chôn tà-vẹt, người anh mồ hôi nhễ nhại, mặt đỏ gay.

A-kim mãi mới nhận ra được anh chàng công nhân khuân vác đó. Pan-cơ-ra-tốp gầy xọp đi. Hai gò má cao bây giờ càng gồ lên, mặt rửa quấy quá, trông càng xám xịt và hốc hác thêm.

- Kìa, các đồng chí phụ trách trên tỉnh đã xuống. Anh nói và chìa bàn tay nóng bỏng, ướt đẫm mồ hôi ra bắt tay A-kim.

Tiếng cuốc xẻng ngừng lại. A-kim thấy chung quanh đều là những khuôn mặt xanh vàng. Áo ca-pốt và áo ngắn mặc ngoài của họ cởi ra, ném lăn lóc ngay trên mặt đất phủ tuyết.

Nói chuyện với cụ La-gu-chin xong, Tô-ca-rếp kéo Pan-cơ-ra-tốp đi và dẫn hai đồng chí tỉnh ủy đến đám đất đã san bằng. Chàng công nhân khuân vác ít nói đi cạnh Giu-khơ-rai.

Giu-khơ-rai nghiêm giọng hỏi Pan-cơ-ra-tốp:

- Pan-cơ-ra-tốp, chú cho tôi biết việc xảy ra ở Mô- tô-vi-lốp-ca giữa chú và nhân viên công an đặc biệt! Chú nghĩ sao, có thấy là tước vũ khí của người ta như thế thì quá lắm không?

Pan-cơ-ra-tốp mỉm cười, luống cuống:

- Chúng tôi tước vũ khí của hắn ta là do có sự thoả thuận cả; chính tự hắn ta yêu cầu như thế. Hắn là một thằng quen chúng tôi. Chúng tôi nói hết với hắn hoàn cảnh khó khăn của chúng ta. Nghe xong, hắn ta nói: "Các cậu ạ, mình không đủ quyền cho các cậu chở cửa đi được đâu. Có lệnh của đồng chí Gie-din- ski( Đồng chí Gie-din-ski phụ trách công an tình báo ở trung ương lúc bấy giờ ) bảo phải ngăn ngừa tình trạng trộm cướp tài sản của nhà ga cơ mà. Cái thằng cha trưởng ga khốn nạn ở đây vốn thù với mình. Nó hay ăn cắp mà mình thì không để cho nó ăn cắp. Nếu để các cậu lấy cửa đi nó nhất định sẽ tố cáo mình với cấp trên và đưa mình ra tòa án cách mạng. Đấy, thà các cậu cứ tước vũ khí của mình rồi hãy khuân đồ chở đi. Nếu thằng trưởng ga không báo cáo lên trên thì coi như là ổn". Chúng tôi đã làm y như thế. Những cánh cửa cái, cửa sổ ấy, chúng tôi có phải lấy dùng cho chúng tôi đâu.

Nhận thấy tia sáng nụ cười long lanh trên đôi mắt Giu-khơ-rai, Pan-cơ-ra-tốp nói thêm:

- Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu có phạt thì cứ để mình chúng tôi chịu phạt, đừng làm tội thằng bé ấy.

- Việc đó đã giải quyết xong đâu vào đấy rồi, không nói nữa. Nhưng từ nay về sau đừng có làm những chuyện ấy nữa. Làm như thế là phá kỷ luật đấy. Chúng ta có đủ sức mạnh để đấu tranh có tổ chức mà tiêu diệt bệnh quan liêu. Thôi được. Giờ ta nói đến chuyện quan trọng hơn. - Và Giu-khơ-rai bắt đầu hỏi tỉ mỉ đầu đuôi chuyện thổ phỉ tập kích hôm vừa rồi.


Chỗ ấy cách ga bốn cây số rưỡi, những chiếc xẻng thi nhau khoét đất kịch hệt. Anh em đang xẻ cái gò đứng chắn giữa đường.

Chung quanh có bảy người đứng gác, vũ khí trong tay có khẩu ca-ra-bin của Khô-li-a-va và mấy khẩu súng ngắn của Pa-ven, Pan-cơ-ra-tốp, Đu-ba-va và Khô-mu-tốp. Vũ khí của toàn đội chỉ có thế.

Kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ngồi trên dốc đang ghi mấy con số vào sổ tay. Chỉ còn một mình kỹ sư Pa-tô-sơ-kin ở lại vì tên kỹ sư Va-cu-lên-cô sáng nay đã chuồn mất về tỉnh. Hắn cho là thà chịu xử tội đào ngũ còn hơn phải ăn đạn của bọn phỉ, chết uổng mạng.

Pa-tô-sơ-kin quay lại khẽ nói với Khô-mu-tốp đứng trước mặt mình:

- Bốc cái gò này đi phải mất nửa tháng. Đất có tuyết đóng thành băng cứng quá.

Khô-mu-tốp vốn người ít nói, mặt lúc nào cũng cau cau, nghe thế thì cắn môi vào ria mép, tỏ vẻ tức giận đáp lại:

- Hạn trên cho chúng ta tất cả chỉ có hăm nhăm ngày, thế mà cụ định lấy nghiến nửa tháng cho đoạn đường này à?

- Hạn trên cho như thế là không sát. Thật ra suốt đời tôi chưa bao giờ làm đường trong điều kiện như thế này và với số lượng thành phần người như thế này. Tôi cũng có thể tính sai, mà thật tôi đã tính sai hai lần rồi.

Giữa lúc đó, Giu-khơ-rai, A-kim và Pan-cơ-ra-tốp tới gần chỗ san nền đất. Từ trên gò đất, anh em trông thấy ngay ba người đang đi đến.

Một cậu mắt lác, mặc áo len thủng, hở cả khuỷu tay, thích vào người Pa-ven. Đấy là Pết-ca Tơ-rô-phi- mốp, vốn là một thợ bắt bù loong ở xưởng đường sắt. Anh ta giơ tay chỉ về phía dưới chân gò đất:

- Cậu trông kìa! Ai thế nhỉ?

Tức thì, Pa-ven, tay vẫn cầm xẻng, chạy xuống dốc băng băng. Dưới vành mũ, đôi mắt anh mỉm cười thắm thiết. Giu-khơ-rai nắm chặt tay anh lâu hơn những người khác.

- Chào chú Pa-ven. Chú ăn mặc quần nọ áo kia như thế, có trời nhận ra được!

Pan-cơ-ra-tốp cười gượng, nói đùa với A-kim:

- Được cái năm ngón chân cậu ta cũng khéo bảo nhau, lúc nào cũng tòi ra ngoài cả. Lại được mấy cái thằng đào ngũ còn thông đồng nhau xoáy của cậu ấy cái áo ca-pốt. May mà Ô-cu-nhếp, cùng tổ với cậu ta, cho cậu ta cái áo vét-tông. Hai tay ấy thật là con chấy cắn đôi, - Pan-cơ-ra-tốp giọng buồn buồn quay về phía A-kim nói thêm. - Không hề gì đâu, Pa-vơ- lu-sa là một anh chàng máu nóng. Cậu ấy đến sẽ sưởi ấm trên sàn bê-tông một tuần vì ổ rơm thì mỏng dính gần như là nằm không. Rồi đến cái nước mặc "thứ áo ván gỗ bốn dài hai ngắn" mất thôi.

Ô-cu-nhếp lông mày da đen, mũi hơi cong, nheo cặp mắt láu lỉnh cãi lại:

- Chúng tôi chẳng để Pa-vơ-lu-sa đổ đâu. Nếu cho biểu quyết thì chúng tôi tán thành ngay để cậu ấy vào bếp làm chân cấp dưỡng, giữ chức lính trù bị cho Ô-đác-ca. Ở đấy nếu cậu ta không phải tay ngốc thì vừa được no bụng, lại vừa được ấm thân, hoặc là vì ở gần bếp, hoặc là vì có hơi bà Ô-đác-ca.

Chuỗi cười vui vẻ của mọi người vang lên làm át cả tiếng nói của Ô-cu-nhếp.

Lần đầu tiên người ta cười trong ngày hôm ấy.

Giu-khơ-rai xem xét gò đất, rồi cùng Tô-ca-rếp và Pa-tô-sơ-kin ngồi xe trượt tuyết đến khu vực đốn gỗ, xong lại quay về. Mọi người vẫn kiên tâm đào đất trên gò. Nhìn những nhát cuốc sáng loáng, nhìn những cái lưng khom đem hết sức ra làm, Giu-khơ-rai nói khẽ với A-kim:

- Chẳng mít-tinh làm quái gì nữa. Bác Tô-ca-rếp ạ bác nói đúng đấy, đám trẻ thật là những người quý vô giá. Thép tôi là ở chỗ này đây.

Giu-khơ-rai nhìn những anh em đào đất làm việc, cặp mắt vốn nghiêm của anh đầy mến thương âu yếm lẫn tự hào cương nghị. Cách đây không lâu, một số trong đám chàng trai trẻ này đã từng nhô lưỡi lê thép xông lên trong đêm đi dẹp phiến loạn. Và bây giờ đây chính họ lại đang ôm ấp một ý nguyện duy nhất: khơi mạch máu thép đường ray nối đến tận những đống củi quý như vàng, nguồn sức nóng và sự sống.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 14:17:06 | Chỉ xem của tác giả
Ôn tồn nhưng giọng rất tự tin, kỹ sư Pa-tô-sơ-kin trình bày cho Giu-khơ-rai biết là không thể nào mở thông đường qua gò đất trong vòng hai tuần lễ được. Giu-khơ-rai tai vẫn lắng nghe con tính của kỹ sư, trong óc nghĩ thầm cách giải quyết.

- Các đồng chí hãy rút hết người sang bên kia gò để mở đường tiếp, còn quả đồi này thì chúng ta sẽ có cách khắc phục.

Giu-khơ-rai ngồi nói chuyện hồi lâu ở dây nói nhà ga. Khô-li-a-va đứng gác ngoài cửa. Anh ta nghe rõ đằng sau lưng mình tiếng nói trầm trầm của Giu-khơ-rai.

- Gọi điện ngay cho đồng chí tham mưu trưởng quân khu, bảo tôi đề nghị với đồng chí ấy cho trung đoàn của Pu-dư-rếp-ski đến khu vực công trường. Phải quét sạch bọn phỉ ở khu này. Gửi cả chiếc tàu bọc sắt và công binh từ căn cứ đến đây. Còn những việc khác, tôi sẽ tự giải quyết lấy. Đêm tôi sẽ về. Bảo Guy- gô mười hai giờ đêm nay đánh xe ra ga.

Trong căn nhà, sau mấy lời ngắn của A kim, Giu- khơ-rai bắt đầu nói chuyện. Một tiếng đồng hồ qua mà không ai để ý đến thời gian. Chuyện trò thân mật giữa đồng chí và đồng chí. Giu-khơ-rai nói cho anh em biết không thể nào kéo dài được thời hạn đã ấn định, đến mồng một tháng Giêng phải làm xong công trình đường sắt này.

- Chúng ta chuyển công tác của công trường sang chế độ quân sự. Các đảng viên cộng sản phải tổ chức thành đại đội công tác đặc biệt. Chỉ định đồng chí Đu-ba-va làm đại đội trưởng. Sáu phân đội thì mỗi phân đội một nhiệm vụ nhất định. Công việc còn lại chia đều làm sáu phần. Mỗi phân đội có phần việc của mình. Trước ngày mồng một tháng Giêng, tất cả mọi việc phải xong. Phân đội nào xong trước thì nghỉ trước và được về tỉnh. Ngoài ra, chủ tịch đoàn Ban chấp hành tỉnh sẽ đề nghị Ban chấp hành Trung ương U-cơ-ren( Hội đồng bộ trưởng U-crai-na) tặng thưởng huân chương Cờ Đỏ cho người lao động khá nhất trong mỗi phân đội.

Đã chỉ định xong đội trưởng của các đội. Đội một: đồng chí Pan-cơ-ra-tốp, đội hai: đồng chí Đu-ba-va, đội ba: đồng chí Khô-mu-tốp, đội bốn: đồng chí La- gu-chin, đội năm: đồng chí Pa-ven, đội sáu: đồng chí Ô-cu-nhếp.

Giu-khơ-rai kết thúc bài nói chuyện:

- Còn người phụ trách chung toàn bộ công trường, nghĩa là nhà lãnh đạo tư tưởng và tổ chức của công trường thì vẫn là đồng chí An-tôn Nhi-ki-phô-rô-vích Tô-ca-rếp.

Từng nhịp vỗ tay rào rào dường như có cả một đàn chim cất cánh bay lên. Những khuôn mặt khắc khổ hôm nay cười tươi nở. Câu nói đùa thân mật, trong đoạn cuối câu chuyện, từ miệng một người xưa nay vốn nghiêm nghị, đã làm nổ ra một chuỗi cười tiêu tan hết căng thẳng trong óc từ nãy đến giờ của người nghe chăm chú.

Hai mươi con người tiễn chân A-kim và Giu-khơ- rai đến tận chiếc xe goòng.

Lúc bắt tay chào Pa-ven, nhìn chiếc giày bám đầy tuyết của Pa-ven, Giu-khơ-rai nói khẽ:

- Anh sẽ gửi giày xuống cho chú. Chân chú bị tê cóng rồi còn gì nữa?

- Xem chừng tê cứng rồi, anh ạ. Đã buốt buốt và bắt đầu sưng. - Pa-ven đáp lại và sực nhớ đến lời ngỏ xin từ lâu, anh nắm tay áo Giu-khơ-rai: - Anh có thể cho em mấy viên đạn súng ngắn được không anh? Em chỉ còn ba viên đạn tốt thôi.

Giu-khơ-rai ngậm ngùi lắc đầu, nhưng trông thấy vẻ thất vọng trong cặp mắt Pa-ven, anh không do dự, cởi ngay khẩu Mô-de của mình đưa cho Pa-ven.

- Đây anh tặng chú.

Pa-ven vẫn chưa tin ngay là mình được một vật tặng từ lâu hằng mơ ước, nhưng Giu-khơ-rai đã khoác cây súng lên vai Pa-ven:

- Cầm lấy, cầm lấy. Anh biết mắt chú đã mê nó từ lâu. Nhưng chú phải cẩn thận, chớ bắn phải người nhà đấy nhớ. Còn ba hộp đạn đầy đấy, anh cho chú cả.

Những cặp mắt thèm muốn đều nhìn chòng chọc vào Pa-ven. Có người kêu lên:

- Páp-ca ơi, đưa tớ đổi cho cậu lấy đôi giày ống lót dạ và thêm cả một chiếc áo da ngắn nào!

Pan-cơ-ra-tốp lấy tay phát vào lưng Pa-ven nói trêu:

- Thằng khập khiễng, đổi lấy đôi giày đi cho được việc. Cứ kéo lê mãi chiếc giày cao su thì chẳng sống đến ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh đâu !

Đặt chân lên bậc xe goòng, Giu-khơ-rai tỳ vào gối viết giấy phép cho khẩu súng vừa tặng.

Mới sáng tinh sương ngày hôm sau đã thấy ầm ầm ở ngã ba đường, đoàn tàu bọc sắt đi vào ga. Hơi tỏa ra trắng xóa như lông ngỗng trời, bốc lên thành những lùm khói dày đặc rồi tan vào bầu trời trong và lạnh giá. Những người mặc áo da từ những toa xe bọc sắt bước ra. Mấy giờ sau, ba anh công binh đến chôn sâu hai quả mìn to tướng màu thép nâu nâu; họ buộc hai dây dài vào mìn và bắn mấy phát súng hiệu. Nghe súng hiệu, người ta vội vàng chạy tản, tránh xa cái gò trở nên ghê sợ. Diêm châm vào đầu ngòi mìn, làm phụt lửa lân tinh.

Trong một lúc, hàng trăm con người có mặt hồi hộp như thắt lòng lại. Một phút, hai phút chờ đợi sợ hãi... Bỗng nhiên mặt đất chuyển mình, một sức mạnh ghê gớm đã cuốn bay những đỉnh dốc của ngọn đồi, tung lên cao những mảnh đất lớn. Tiếng nổ thứ hai mạnh hơn tiếng thứ nhất. Tiếng nổ ghê người vang khắp khu rừng, ầm ầm, hỗn loạn, kèm theo tiếng rào rào của những tảng đất bị bắn tung lên rơi xuống.

Chỗ ấy vừa rồi còn là ngọn đồi, giờ đã biến thành hố sâu toác ra, chung quanh trong vòng hai chục thước, đất vụn bắn tung tóe khắp mặt tuyết trắng như đường.

Mọi người cầm xà beng và xẻng cuốc chạy túa lại chỗ hố sâu do mìn nổ vừa đào lên.


Sau khi Giu-khơ-rai đi khỏi, ở công trường, không khí thi đua mở ra sôi nổi: ai sẽ là người lao động khá nhất?

Trời còn rất lâu mới sáng, Pa-ven đã khẽ trở dậy để không làm thức giấc anh em. Anh cố lê đôi chân tê cứng trên sàn nhà lạnh buốt, vào bếp, đun nước sôi pha chè, rồi trở ra đánh thức toàn đội dậy.

Khi toàn công trường sẵn sàng thì bên ngoài trời đã sáng rõ.

Buổi uống nước chè sáng ở nhà bếp, Pan-cơ-ra-tốp chen đến bàn Đu-ba-va và đội của anh ta là đám thanh niên xưởng sửa chữa vũ khí. Pan-cơ-ra-tốp nói với Đu-ba-va, giọng có vẻ bực tức:

- Cậu thấy chưa, thằng cha Páp-ca đã đánh thức đội của nó dậy từ lúc trời chưa sáng. Tớ đoán chắc chúng nó đã đặt được hai mươi thước đường rồi. Anh em trong đội tớ nói là Páp-ca khéo động viên các anh em thợ các phân xưởng chính nhà máy xe lửa của nó, bọn họ định ngày hăm nhăm tháng Chạp là đã làm xong đoạn đường của đội. Ra nó muốn xách mũi tất cả chúng ta đấy chắc. Nhưng xin lỗi các tướng ấy để rồi xem ai hơn !

Đu-ba-va cười nhạt. Anh thừa hiểu tại sao cách làm của phân đội công nhân các phân xưởng chính nhà máy xe lửa lại chạm đến lòng người bí thư thanh niên khu bến tàu như vậy. Việc làm của Pa-ven là một roi quất mạnh vào cả bản thân Đu-ba-va nữa: lặng lẽ không nói, Pa-ven đã lên tiếng thách thức công trường.

Pan-cơ-ra-tốp nói: - Tình bạn là một chuyện, còn đây là chuyện khác: đây là vấn đề ai hơn ai.

Gần giữa trưa, công việc đang hăng hái của đội Pa-ven bỗng nhiên bị ngừng lại. Người gác đứng bên giá súng trông thấy một toán kỵ binh xuất hiện trong rừng, liền bắn báo động.

- Cầm lấy súng anh em ơi! Có phỉ ! - Pa-ven la to và quẳng xẻng xuống, rồi nhảy bổ lại gốc cây có treo khẩu súng mô-de của anh.

Lấy súng xong, cả đội nằm dàn ngay ra mặt tuyết cạnh đường. Những người kỵ binh đi đầu vẫy mũ. Một người trong bọn họ kêu to:

- Dừng lại, các đồng chí! Người nhà đây mà!

Chừng năm mươi chiến sĩ kỵ binh, đội mũ Bu-đi- on-ny có sao đỏ, đang men theo đường cái, tiến lại gần.

Thì ra đó là một trung đội của trung đoàn Pu-dư- rếp-ski đến thăm công trường. Pa-ven để ý đến cái tai cụt của con ngựa người chỉ huy cưỡi. Con ngựa cái lông xám đẹp có đốm trắng trên trán không chịu đứng yên một chỗ, cứ đi xoay vòng tròn dưới tay cương của người cưỡi nó. Thốt nhiên, Pa-ven nhảy bổ đến chỗ con ngựa, và lúc Pa-ven chạy đến tóm lấy bờm thì nó sợ hãi lùi lại.

- Lư-sca, con nỡm này, không ngờ ta lại gặp mi ở đây! Con yêu mĩ miều cụt tai của ta xông pha lửa đạn mà vẫn còn sống yên lành đấy ư?...

Pa-ven âu yếm ôm lấy cái cổ mềm mại của con ngựa và lấy tay vuốt ve cái mũi phập phồng của nó.

Người chỉ huy chăm chú nhìn Pa-ven. Sau khi đã nhận ra người quen, đồng chí sửng sốt kêu lên:

- Ơ kìa ! Pa-ven đấy à? Cậu nhận ra ngựa của cậu mà sao không nhận ra Xê-rê-đa. Chào người anh em.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 14:47:08 | Chỉ xem của tác giả
Trên tỉnh đều dồn sức "chạy" cho công trường. Cố gắng đó đã ảnh hưởng tốt đến công việc ở đây ngay. Giác-ki đã dốc hết lực lượng ở quận ủy, gửi toàn bộ đoàn viên còn lại đến Bai-a-rơ-ca. Ở khu Xô-lô-men- ca chỉ còn lại có số nữ đồng chí. Ở Trường kỹ thuật cầu đường, Giác-ki đã tìm cách lập được một đội sinh viên nữa gửi ra công trường.

Lúc báo tin đó cho A-kim, Giác-ki nói nửa đùa, nửa thật:

- Chỉ còn độc mình tôi với phái vô sản giống cái ở lại nhà. Tôi sẽ để Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, thay tôi sẽ viết lên cánh cửa: "Ban phụ nữ". Còn tôi thì cũng chạy đến Bai-a-rơ-ca nốt thôi. Bởi vì đồng chí có thấy không, giống đàn ông ở lại có độc mình tôi. Thật là không tiện. Các cô ấy cứ nhìn tôi bằng cặp mắt nghi ngờ. Chắc thế nào các cô ấy cũng nói với nhau: "Cái anh chàng ngỗng đực đầu đàn này phái tụi con trai đi hết, còn mình thì ở lại". Hay có khi còn nói những câu tệ hơn nữa kia. Đề nghị đồng chí đồng ý cho tôi đi.

A-kim cười nhưng không đồng ý.

Người kéo đến Bai-a-rơ-ca rất đông, trong số đó có cả sáu mươi sinh viên trường kỹ thuật cầu đường.

Giu-khơ-rai đã lấy được ở Cục đường sắt bốn toa xe gửi đến chỗ công trường làm chỗ tạm trú cho những công nhân mới đến.

Phân đội Đu-ba-va được lệnh rút ra khỏi công trường đi Pu-sa Vô-đi-xa để lấy một số đầu máy nhỏ và sáu mươi lăm toa trần cho nhánh đường sắt này. Công việc này được tính vào nhiệm vụ trên công trường của họ.

Trước khi đi, Đu-ba-va góp ý kiến với cụ Tô-ca-rếp là nên gọi Cơ-la-vi-sếch lên công trường và giao cho anh ta một phân đội mới tổ chức. Tô-ca-rếp đồng ý và ra lệnh ngay, không ngờ đến duyên cớ chính đã làm Đu-ba-va nghĩ đến chàng trai người Tiệp kia ở trên đời. Duyên cớ ấy là bức thư của An-na vừa gửi cho anh, do các anh em ở Xô-lô-men-ca mới đến mang tới. An-na viết:

"Anh Đu-ba-va! Em và anh Cơ-la-vi-sếch đã chọn cho các anh một đống sách. Gửi anh và toàn thể những chiến sĩ xung kích ở Bai-a-rơ-ca lời chào nồng nhiệt. Các anh là những tay rất cừ. Chúc các anh can đảm và nghị lực. Hôm qua đã phát hết nhẵn số củi cuối cùng còn lại trong kho. Cơ-la-vi-sếch nhờ chuyển lời thăm anh. Anh ấy là một thanh niên rất trội. Chính tự tay anh ấy nướng bánh mì cho các anh đấy. Anh ấy không giao cho ai làm cả. Tự tay anh ấy rây lấy bột mì, nhào lấy bột bánh. Không biết anh ấy khéo kiếm đâu ra được thứ bột mì tốt nên bánh mì làm ra rất ngon, khác hẳn với thứ bánh em vẫn lĩnh hàng ngày. Tối đến, anh chị em đều họp mặt ở nhà em: Có Ta-li-a, con cụ La-gu-chin, A-rơ-chu-kin, Cơ-la- vi-sếch và đôi khi cả Giác-ki cũng đến. Có đẩy mạnh được việc học, nhưng phần lớn là nói đến tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người, nhất là thường nói đến các anh trên công trường. Chị em đều bực mình vì chuyện đồng chí Tô-ca-rếp từ chối không nhận họ lên công trường làm việc. Chị em quả quyết gian khổ thế nào đi nữa cũng sẽ chịu được như mọi người. Ta- li-a nói: "Mình sẽ mặc áo của thầy mình và sẽ lên gặp ông cụ, xem ông cụ có đuổi ra khỏi đấy được không nào".

Chắc nó sẽ làm thế thật đấy. Anh chuyển hộ lời em thăm anh chàng mắt đen. An-na".


Bão tuyết bỗng nổi lên dữ dội. Trời bị mây xám nghịt kéo đến phủ kín vòm trời tụt xuống thấp hẳn. Tuyết rơi dày đặc. Đến chiều tối, gió rít vào các ống khói, gào thét giữa rừng cây, chạy đuổi theo những cơn lốc tuyết xoáy tròn, làm cho khu rừng ngập những tiếng hú ghê rợn.

Bão gầm thét, phá phách suốt đêm. Tuy lò đốt cả đêm, người vẫn thấy rét buốt thấu xương. Gian nhà ga đổ nát này không còn giữ được hơi nóng cho người.

Sáng hôm sau, các đội lao động ra làm việc, thụt chân sâu vào tầng tuyết dày cồm cộm. Nhưng trên rừng cây, mặt trời đỏ rực và nền trời trong xanh không chút vẩn mây.

Phân đội Pa-ven quét tuyết trên phần đường của mình bị ngập tuyết. Cho đến lúc này, Pa-ven mới cảm thấy hết khổ cực của giá rét. Chiếc áo cũ Ô-cu- nhếp cho chẳng làm anh ấm được, còn chiếc giày cao- su thì nhét đầy tuyết đóng băng. Đã mấy lần giày thụt vào đống tuyết. Vì anh ngủ trên sàn nhà rắn như đá nên ở cổ mọc lên hai cái nhọt tướng. Cụ Tô-ca-rếp cho anh cái khăn mặt dùng làm khăn quàng cổ.

Pa-ven cầm cái xẻng to bằng gỗ hùng hục gạt tuyết, người anh gầy rạc đi, hai mắt sưng đỏ húp lên.

Giữa lúc đó, một chuyến tàu chở hành khách đang ì ạch bò đến tận ga. Chiếc đầu máy hết hơi cố sức lắm mới lôi được con tàu về đây. Trong toa than, không còn lấy một thanh củi, những thanh củi cuối cùng sắp cháy rụi hết trong lò.

Người thợ máy kêu với trưởng ga:

- Cho củi thì chúng tôi đi, bằng không thì bây giờ trong máy cũng hãy còn có cái để chạy được một tí, xin cho lái dẹp vào khu tàu trú.

Thế là người ta lái tàu dẹp sang bên và giải thích cho đám hành khách thất đảm kia biết lý do dừng lại. Người trong các toa chật ních, kẻ thở vắn than dài, đứa chửi rủa ầm ĩ.

Trưởng ga mách nước cho những người lái chuyến tàu:

- Các anh lại nói chuyện với cụ già kia kìa, ông cụ đang đi ở ke ấy. Cụ ấy là phụ trách công trường ở đây. Cụ ta có thể hạ lệnh xe trượt tuyết chở củi đến cho đầu tàu. Ở đây họ vẫn dùng củi gỗ làm tà vẹt đấy mà.

Mấy người lái tàu đến gặp Tô-ca-rếp. Ông cụ bảo họ:

- Chúng tôi sẽ cho gỗ, nhưng không cho không đâu. Vì đây là vật liệu xây dựng của chúng tôi. Hiện công trường chúng tôi đang bị tuyết phủ làm ngăn trở công việc mà trong tàu các anh có sáu bảy trăm hành khách. Đàn bà, trẻ con thì có thể ở lại trong toa, còn những người khác thì xuống vác xẻng đi xúc tuyết độ đến chiều tối là được. Có làm thế thì mới được cấp củi cho tàu chạy. Bằng không thì xin mời họ cứ ngồi với con tàu chết tiệt đến sang năm mới vậy.


Có tiếng người sửng sốt la lên nhao nhao phía sau lưng Pa-ven:

- Anh em ơi, trông kìa! Trông tất cả đám người kia xuống đông quá! Lại có cả phụ nữ nữa kia!

Pa-ven quay lại.

Tô-ca-rếp đi đến gần nói:

- Đấy giao cho chú một trăm người. Chú giao việc cho họ và trông họ làm, đừng để họ khoanh tay đứng không.

Pa-ven phân công cho những người mới đến. Một anh chàng cao lêu nghêu mặc đồng phục ngành đường sắt có cổ bằng lông cừu, đầu đội mũ da dê ấm. Hắn ta đang quay cái xẻng trên tay, tỏ vẻ bực tức và quay sang phía người đàn bà trẻ tuổi đứng cạnh đội mũ da rái cá, trên mỏm có chiếc núm bằng lông nõn, hắn càu nhàu:

- Không đời nào anh lại xúc tuyết, chẳng ai có quyền bắt anh được cả. Anh là kỹ sư cầu đường, nếu họ cầu xin anh giúp thì anh có thể giúp đỡ chỉ huy công việc cho họ. Còn như xúc tuyết thì không phải việc của anh, không phải việc của em. Không ai bắt ta làm được. Không có chỉ thị cấp nào quy định làm như thế cả. Cái lão già ấy đã làm trái nguyên tắc. Anh sẽ kiện cho lão ta biết tay. - Rồi hắn hỏi một công nhân đứng gần hắn ta nhất: - Ai là đội trưởng ở đây?

Pa-ven đi tới: - Sao anh không làm việc?

Thằng kia đưa mắt khinh bỉ nhìn Pa-ven từ đầu đến chân: - Còn anh là ai?

- Tôi là công nhân.

- Thế thì tôi chẳng thèm nói với anh. Cứ bảo đội trưởng hay là giám thị lại đây.

Pa-ven quắc mắt nhìn hắn: - Không muốn làm à? Tùy đấy. Nhưng nếu vé không có dấu của chúng tôi thì đừng hòng lên tàu. Đây là mệnh lệnh của đồng chí phụ trách công trường.

Nói xong, Pa-ven quay sang phía người phụ nữ:

- Còn chị nữa, chị cũng không chịu làm phải không?

Nhưng bỗng Pa-ven ngẩn người ra trong giây lát: trước mặt anh là Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va.

Tô-nhi-a khó khăn lắm mới nhận ra cái người mặc rách rưới này là Pa-ven. Pa-ven đứng ngay đó, trước mặt Tô-nhi-a, mình khoác manh áo rách bươm, chân xỏ đôi ủng kỳ quái, cổ buộc cái khăn mặt cáu bẩn, mặt đã lâu không rửa. Chỉ độc có đôi mắt là vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên một ngọn lửa không gì dập tắt được. Đôi mắt Pa-ven. Thế mà cái người rách rưới y như ma cà bông này cách đây không lâu đã là người mà Tô-nhi-a yêu dấu ! Không ngờ được. Mới chẳng bao lâu mà sự đời đã thay đổi cả!

Tô-nhi-a mới lấy chồng, lần này theo chồng về một thành phố lớn, nơi chồng đảm nhiệm một chức vụ trọng yếu ở Cục đường sắt. Và trên đường đi, tại chốn này đây, Tô-nhi-a lại phải tình cờ gặp lại người tình thuở ấy ! Tô-nhi-a thấy ngại ngùng không dám đưa tay ra bắt. Va-xi-li, chồng chị, sẽ nghĩ thế nào, nếu chị bắt tay Pa-ven? Đời Pa-ven đã xuống dốc đến thế thì mình cũng ngượng với mình thật. Rõ ràng là anh chàng đốt lò này đã chẳng ngóc đầu lên được: anh ta chẳng làm được nghề ngỗng gì hơn cái nghề đi xúc đất!

Tô-nhi-a đứng ngây, mặt đỏ bừng, thẹn thùng, luống cuống. Tên kỹ sư, thấy gã rách rưới cứ nhìn vợ mình chằm chằm không rời mắt, thì cho là gã ta xấc xược, tức điên người. Hắn quẳng xẻng xuống đất, lại gần Tô-nhi-a.

- Lại đằng này Tô-nhi-a. Anh không thể nhìn cái thằng khố rách áo ôm la-da-rôn này mà yên được. (  La-da-rôn, dân bị coi là hạ lưu xừ Náp-lơ trong truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi)

Pa-ven đã đọc truyện Giu-dép-pê Ga-ri-ban-đi, nên thừa hiểu thế nào là la-da-rôn rồi.

- Nếu tao là la-da-rôn thì mày chỉ là một thằng tư sản mà người ta chưa cắt cổ nốt. - Pa-ven thét lên cự lại tên kỹ sư, rồi quay nhìn Tô-nhi-a, nói gọn lỏn mấy tiếng: - Còn đồng chí Tu-ma-nô-va, đồng chí hãy nhặt xẻng đứng vào hàng mà làm đi. Đừng có bắt chước cái loài bò đực ăn no béo xác ấy. Xin lỗi, nhưng tôi không biết hắn với đồng chí là thế nào.

Pa-ven nhìn đôi giày đi tuyết của Tô-nhi-a, mỉm cười không thiện cảm và nói thêm:

- Tôi chẳng khuyên ai lần chần ở lại đây làm gì. Hôm mới rồi, bọn phỉ vừa đến quấy chúng tôi đấy.

Nói xong, Pa-ven quay đi, lê gót giày cao su, bon về chỗ anh em mình.

Lời nói vừa rồi của Pa-ven tác động ngay cả đến anh chàng kỹ sư.

Tô-nhi-a đã bảo được hắn ở lại và đi xúc tuyết vậy.

Chiều đến, xong việc, hành khách lại trở về ga. Chồng Tô-nhi-a nhảy tót đi trước, vội chiếm chỗ tốt trong toa. Tô-nhi-a dừng lại để anh em công nhân đi hết. Pa-ven mệt nhoài chống xẻng đi sau cùng. Khi hai người đi ngang nhau, Tô-nhi-a lên tiếng:

- Chào Pa-vơ-lu-sa. Nói thật với anh, tôi không ngờ lại thấy anh như thế này. Hóa ra chính quyền Xô-viết không có việc gì khác tốt hơn đáng giao cho anh hay sao mà lại để anh đi xúc đất như vậy? Tôi cứ tưởng đã từ lâu anh làm chính ủy hay là giữ một chức vụ gì đại khái như vậy rồi kia đấy. Đời anh thật cũng chẳng lấy gì được may mắn lắm nhỉ...

Pa-ven dừng lại, ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a từ đầu đến chân.

- Còn tôi, tôi cũng không ngờ gặp cô lại đến nỗi... bọc đường thế này - Nghĩ mãi anh mới tìm được tiếng nói bóng bẩy thích hợp và nhẹ hơn.

Tai Tô-nhi-a đỏ tía lên.

- Anh vẫn cái tật cục cằn như trước.

Pa-ven vác xẻng lên vai và rảo bước đi. Được vài bước, anh mới đáp lại:

- Tính cục cằn của tôi, nói cô đừng giận, nó còn hơn cái điệu lịch sự của cô, đồng chí Tu-ma-nô-va ạ! Về đời tôi, không mượn lo cô phải lo hộ. Đâu vẫn vào đấy. Chỉ có đời cô thì tôi không ngờ là nó đốn đến thế. Cách đây hai năm, cô khá hơn nhiều, lúc đó cô còn dám bắt tay một người thợ và cô không lấy đó làm xấu hổ. Nhưng bây giờ thì người cô sặc mùi băng phiến. Nói thật tình ra, tôi chẳng có gì để nói với cô nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 15:07:58 | Chỉ xem của tác giả
Pa-ven nhận được thư của A-rơ-chom. Anh cho biết sắp cưới vợ và khẩn khoản giục Pa-ven thế nào cũng phải về dự.

Gió dứt lá thư khỏi tay Pa-ven, lá thư bay lên không như con chim bồ câu. Không, anh chẳng đi dự đám cưới được đâu. Có thể nào lại nghĩ đến đi được! Từ hôm qua, thằng gấu Pan-cơ-ra-tốp đã đuổi kịp phân đội của anh và đang tiến với một đà nhanh ai cũng phải sợ. Anh công nhân bến tàu này dốc toàn lực lao lên phía trước, quyết chí vươn lên hàng đầu, vẻ trầm tĩnh ngày thường của anh đã biến đi, anh luôn luôn động viên toàn anh em "bến tàu” của mình làm việc với một nhịp điệu như điên cuồng.

Pa-tô-sơ-kin theo dõi cuộc thi đua giữa những người làm đường, một cuộc thi im lặng mà ác liệt này. Ông già gãi đầu ngạc nhiên tự hỏi mình: "Không hiểu họ là những con người thế nào mà làm được như vậy nhỉ? Cái sức mạnh thật khó hiểu kia là thế nào? Thật nếu trời cứ thế này cho được tám ngày nữa thì chúng mình sẽ làm được tới khu rừng đã đốn gỗ. Tục ngữ nói rất đúng: có sống hết đời, học hành trọn kiếp, cho đến già vẫn còn thấy là mình dốt. Việc làm của những con người này đã làm đảo lộn hết mọi con tính và tất cả các chỉ tiêu".

Cơ-la-vi-sếch ở dưới tỉnh lên mang đến số bánh mì cuối cùng do chính tay anh làm ra. Thăm Tô-ca-rếp xong, anh đến chỗ làm việc tìm Pa-ven. Đôi bạn gặp nhau thân thiết. Cơ-la-vi-sếch mỉm cười rút trong bao túi ra một cái áo bông Thụy Điển màu vàng rất choáng. Anh lấy tay vỗ mặt da mềm của chiếc áo và nói với Pa-ven:

- Áo gửi cho cậu đây. Có đoán được ai gửi không?... Hừ, cậu ngốc quá đi thôi! Đồng chí Ri-ta gửi cho cậu đấy vì chị ấy không muốn cậu chết rét, ngốc ạ!Chẳng  là anh A-kim nói với chị ấy là cậu mặc trần có cái vét-tông, chịu rét mà làm việc. Áo này do đồng chí Ô-sin-ski tặng chị ấy, mới cầm lấy ở tay anh ta tặng, chị ấy đưa ngay cho mình và bảo: "Mang ra cho Pa- ven". Ôn-sin-ski nhăn nhó nói: "Tôi có thể gửi cho đồng chí ấy chiếc áo ca-pốt". Nhưng Ri-ta cười hơ hớ:  "Thôi, anh ấy mặc áo khoác ngắn làm việc tiện hơn. Cơ-la-vi-sếch mang hộ nhớ!".

Pa-ven cầm tấm áo sang trọng đó trong tay, lòng xiết nỗi ngạc nhiên. Anh ngập ngừng một hồi mới khoác nó lên người đang rét run cầm cập. Lớp lông mềm làm cho vai và ngực anh thấy ấm lại ngay.


Ri-ta ghi trong nhật ký:

20 tháng Chạp.

Đang mùa bão. Tuyết xuống nhiều, gió rít mạnh. Các anh em ở Bai-a-rơ-ca đã gần đến đích thì những cơn rét dữ và bão tuyết làm cho họ phải dừng lại. Họ bị ngập trong tuyết. Đất có tuyết phủ đông cứng lại, đào đất gay thật. Chỉ còn lại tất cả bảy trăm năm mươi thước nữa thôi, nhưng là những thước đường ác liệt nhất.

Tô-ca-rếp báo tin: trên công trường chớm có dịch thương hàn, có ba người đã mắc bệnh.

22 tháng Chạp.

Không ai ở Bai-a-rơ-ca về dự cuộc họp toàn thể chấp hành tỉnh đoàn thanh niên. Bọn phỉ vừa làm trúc chuyến tàu chở bánh mì ở đoạn đường cách Bai- a-rơ-ca mười bảy cây số. Theo mệnh lệnh của đại diện Ban dân ủy cung cấp, toàn thể công nhân xây dựng đường sắt phải điều đến chỗ xảy ra tai nạn.

23 tháng Chạp.

Lại thêm bảy người mắc thương hàn từ Bai-a-rơ- ca đưa về tỉnh. Trong số đó có Ô-cu-nhếp. Mình có ra ga. Người ta đưa xuống những xác đã chết cứng vì lạnh từ các thành toa của chuyến tàu mới ở Khác- cốp tới. Ở nhà thương rét lắm. Trận bão tuyết tai ác! Bao giờ mới hết bão cho?

24 tháng chạp.

Vừa ở đằng Giu-khơ-rai về. Té ra là đúng: đêm qua O-rơ-lích đã dẫn cả lũ phỉ tập kích vào Bai-a- rơ-ca. Ta với chúng đánh nhau trong hai tiếng đồng hồ. Quân phỉ cắt mất đường dây, nên mãi sáng nay Giu-khơ-rai mới nhận được báo cáo đích xác. Thổ phỉ bị đánh lui. Cụ Tô-ca-rếp bị thương, đạn xuyên vào ngực. Hôm nay người ta sẽ đưa cụ về đây. Cơ-la-vi- sếch bị chém chết. Đêm ấy, anh đến phiên đi gác. Chính anh trông thấy bọn phỉ, anh liền vừa báo động, vừa bắn chặn bọn giặc nhảy xổ vào, nhưng vì không chạy kịp đến trường học, nên đã bị bọn phỉ chém chết. Trong đội công nhân làm đường có mười một người bị thương. Hiện giờ có chiếc tàu bọc sắt và hai đội kỵ binh đang tuần tiễu ở đấy.

Pan-cơ-ra-tốp lên thay cụ Tô-ca-rếp phụ trách công trường. Ban ngày, Pu-dư-rếp-ski đã vây một bộ phận phỉ ở đồi Gơ-lu-bô-ki và đã giết sạch không còn một mống. Nhiều công nhân làm đường ngoài Đảng không đợi tàu đến nữa, đã bỏ công trường lần theo đường tà-vẹt trốn về.

25 tháng Chạp.

Người ta dã đưa cụ Tô-ca-rếp và những anh em bị thương khác về đây và đem ngay vào bệnh viện cứu chữa. Các bác sĩ đều hứa cứu sống ông già. Cụ ta nằm mê man không biết gì. Tính mệnh của những người khác không nguy lắm, có thể qua được.

Tỉnh ủy và chấp hành tỉnh đoàn chúng mình nhận được bức điện từ Bai-a-rơ-ca gửi về: "Để trả lời vụ quấy rối của bọn thổ phỉ, chúng tôi, những người xung phong xây dựng đường sắt, đã họp mít-tinh cùng với đơn vị tàu bọc sắt mang tên "Vì chính quyền Xô-viết" và các chiến sĩ Hồng quân trung đoàn kỵ binh, xin hứa với các đồng chí, dù trở lực thế nào, đúng ngày mồng một tháng Giêng, chúng tôi sẽ cung cấp được củi cho thành phố. Chúng tôi nguyện tiếp tục làm việc với dũng khí càng tăng lên gấp bội. Đảng cộng sản, người đã tin cậy gửi chúng tôi tới đây, muôn năm! Chủ tịch buổi mít-tinh: Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Bí thư: Béc-din".

Thi hài Cơ-la-vi-sếch đã được an táng tại Xô-lô- men-ca, theo tang lễ quân đội.


Đống củi ta hằng mong gần tới rồi, chẳng còn bao xa nữa, nhưng công việc tiến hành chậm chạp không thể chịu được, vì bệnh thương hàn mỗi ngày cướp mất hàng chục bàn tay có ích, lúc này cần vô cùng, quý vô cùng.

Pa-ven đi về phía ga, bước lảo đảo như người say rượu hai chân chỉ chực khuỵu xuống. Anh bị sốt từ lâu nhưng hôm nay cảm thấy người khó chịu hơn hẳn mọi khi.

Bệnh thương hàn lâu nay phá tỉa đội làm đường, bây giờ đã bắt đầu tấn công đến Pa-ven. Nhưng sức vóc rắn chắc của anh đã chống cự lại, và năm hôm nay, anh vẫn còn đủ sức nhấc mình khỏi sàn bê tông loáng thoáng phủ rơm, để cùng anh em đi làm. Ngay cả cái áo lông ấm của Ri-ta biếu và đôi giày ống lót dạ của Giu-khơ-rai gửi cho đang bọc lấy đôi chân tê buốt, cũng không thể cứu anh khỏi nguy được.

Mỗi bước đi, anh thấy ngực đau nhói như dao đâm, răng đánh vào nhau lập cập, mắt hoa lên và cây cối chung quanh đối với anh hình như đang quay cuồng một cách lạ lùng.

Khó nhọc lắm anh mới lê bước được đến ga. Tiếng ồn ào khác thường làm anh ngạc nhiên. Cố nhìn xem: thì ra có một chuyến tàu dài dằng dặc đỗ dọc suốt nhà ga. Trên những toa trần, toàn là các đầu máy nhỏ, đường ray, tà-vẹt. Những người đi theo đoàn tàu mới đến đang bốc những hàng ấy xuống. Pa-ven đi mấy bước nữa, người đã thấy loạng choạng mất thăng bằng. Rồi đầu anh từ từ chạm đất. Má đang nóng bừng áp vào tuyết thấy lành lạnh, dễ chịu.

Mấy giờ sau, có người đi qua vấp phải người anh, người ta mới đưa anh về căn nhà. Pa-ven thở dốc, tâm thần mê man, không nhận ra được ai nữa. Y sĩ ở chiếc tàu bọc sắt được mời đến khám, chẩn đoán: "Bị sưng phổi nặng và bị thương hàn. Nhiệt độ 41,5. Còn nhức đầu xương và sưng cổ, nhưng không đáng kể vì so với hai chứng trên chỉ là bệnh vặt. Chỉ hai bệnh trên cũng đủ qua đời”.

Pan-cơ-ra-tốp và Đu-ba-va vừa đi chuyến tàu dài tới đã hết sức tìm mọi cách cứu sống Pa-ven.

A-li-ô-sa Cô-khan-ski là người cùng quê với Pa- ven được giao trách nhiệm đưa người bệnh về Sê-pê- tốp-ca.

Nhờ toàn đội của Pa-ven giúp tay vào, chủ yếu là nhờ áp lực của Khô-li-a-va, nên Pan-cơ-ra-tốp và Đu- ba-va mới đưa được Pa-ven mê man bất tỉnh và A- li-ô-sa vào một toa tàu đã chật ních người. Vì sợ bệnh thương hàn truyền nhiễm, hành khách không cho đưa vào toa. Họ phản đối ầm ĩ và dọa khi tàu chạy, họ sẽ quẳng người bệnh xuống đường.

Khô-li-a-va vung súng lục trước mũi những ai cản trở việc đưa người bệnh lên tàu. Anh thét lên:

- Người ốm này không có bệnh truyền nhiễm! Thế nào cũng phải để cho người bệnh đi, dù cho có phải đuổi tất cả mọi người xuống thì cũng cứ phải đưa đi ! Nói cho bọn các anh nhớ rằng, nếu định chạm tay vào người anh ta, tôi sẽ báo cho các nhân viên công an đặc biệt ở các ga dọc đường: đuổi tất cả xuống tàu và tống giam ngay. A-li-ô-sa này, đây là khẩu Mô- de của Pa-ven, cầm lấy, nếu đứa nào dám đầu têu cho Pa-ven xuống thì cứ bắn ngay.

Khô-li-a-va nói dọa thêm câu ấy.

Tàu chuyển bánh. Trên sân ga vắng, Pan-cơ-ra- tốp đi lại gần Đu-ba-va.

- Cậu thấy thế nào, liệu có sống được không?

Không có tiếng trả lời.

- Về thôi. Đu-ba-va, nó sẽ thế nào thì cũng đành thôi. Tất cả công việc giờ do chúng mình phải gánh vác cả. Đêm nay, phải chuyển các đầu máy xuống để sáng mai còn đốt lò thử xem.

Khô-li-a-va gọi điện thoại suốt dọc đường tàu, nói chuyện với các bạn công an đặc biệt của mình và tha thiết đề nghị họ không để cho hành khách khiêng bệnh nhân Pa-ven xuống tàu. Mãi đến lúc nhận được lời các bạn hứa chắc chắn sẽ làm theo lời anh yêu cầu anh mới đi ngủ.

Đến một nhà ga lớn, người ta khiêng từ chuyến tàu chở khách xuống ngay sân ga một xác chết, xác một người thanh niên lạ mặt tóc hoe. Anh ta là ai, vì sao chết, chẳng ai biết cả. Các nhân viên công an đặc biệt của nhà ga nhớ tới lời yêu cầu của Khô-li- a-va, bèn chạy lại toa xe để ngăn cản không cho khiêng xuống, nhưng đến lúc chính mắt trông thấy người thanh niên kia đã chết thật, họ đành phải cho phép khiêng xác đến nhà xác của trạm tiêu chuyển.

Họ gọi ngay dây nói về Bai-a-rơ-ca báo cho Khô- li a-va biết tin bạn anh đã chết, số phận của người bạn đó bấy lâu đã làm cho anh rất lo ngại.

Một bức điện ngắn từ Bai-a-rơ-ca báo về Tỉnh ủy tin Pa-ven từ trần.

Còn A-li-ô-sa Cô-khan-ski thì sau khi đã đưa được Pa-ven về tới gia đình, chính A-li-ô-sa lại bị bệnh thương hàn quật ngã.


"9 tháng Giêng.


Sao lòng tôi thấy đau đớn nặng nề như vậy? Trước khi ngồi vào bàn, tôi đã khóc nhiều. Ai tưởng được rằng Ri-ta này lại có thể khóc được, có thể khóc đau xót như thế được ! Có phải bao giở nước mắt cũng là dấu hiệu của sự yếu lòng không? Hôm nay ta khóc vì đau đớn sâu xa trong lòng. Tại sao đau đớn này lại đến với ta giữa một ngày thắng lợi lớn, khi giặc rét rùng rợn đã bị đánh bại rồi, khi các ga xe lửa đã có củi gỗ quý giá chất đầy ăm ắp trong kho? Tại sao nó lại đến vào giữa ngày mà tôi vừa được dự lễ chiến thắng trong cuộc hội nghị mở rộng của Xô-viết thành phố, lễ mừng những người anh hùng xây dựng đường sắt? Phải, chúng ta đã thắng lợi, nhưng để góp vào thắng lợi đó, hai người đã hy sinh: Cơ-la-vi-sếch và Pa-ven.

Cái chết của Pa-ven đã làm cho tôi thấy một sự thật: đối với tôi, Pa-ven thân quý hơn là tôi vẫn tưởng.

Thôi từ nay tôi bỏ không viết cuốn nhật ký này nữa. Rồi có khi nào tôi bắt đầu một cuốn nhật ký mới nữa không? Không biết thế nào. Ngay mai viết thư đến Khác-cốp báo tin tôi đồng ý nhận công tác ở Trung ương đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 19:11:40 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG III

Tuổi thanh xuân đã thắng. Pa-ven qua khỏi trận sốt thương hàn. Lần này là lần thứ tư, anh đã thập tử nhất sinh mà sống trở lại. Nằm mất một tháng rồi Pa-ven mới gượng dậy được, người gầy và xanh, chân đứng còn run; tay vịn vào tường, anh lần tập đi vài bước trong phòng. Mẹ phải đỡ anh mới ra được đến cửa sổ, và đứng đấy nhìn con đường cái rất lâu. Từng vũng tuyết tan óng ánh trên mặt đường. Tuyết bắt đầu tan, báo hiệu mùa xuân.

Ngay trước cửa sổ, trên cành anh đào, có con chim sẻ đậu đang tỉa lông, giơ bụng xám, mắt ranh mãnh liếc nhìn Pa-ven. Pa-ven lấy ngón tay gõ vào kính cửa sổ, khẽ mở miệng nói:

- Thế là ta với mi đã qua mùa đông rồi đấy, chim nhỉ.

Mẹ hốt hoảng nhìn anh: - Con nói với ai thế ?

- Con nói với con chim sẻ... Thôi nó bay đi mất rồi, con chim nỡm!

Và Pa-ven mỉm một nụ cười yếu ớt.

Mùa xuân rồi. Pa-ven nghĩ đến trở về thành phố. Anh thấy sức thì đã khá, có thể đi được, nhưng trong cơ thể có một cái gì khác thường. Một hôm anh đang dạo chơi ngoài vườn, bỗng thấy đau nhói trong xương sống, khiến anh ngã vật ra đất. Khó nhọc lắm anh mới dậy và bò về phòng được. Ngày hôm sau, bác sĩ khám bệnh anh rất kỹ. Bác sĩ gõ những đốt xương sống, thấy có lỗ thủng sâu hoắm trong xương, lấy làm lạ, hỏi anh:

- Sao lưng đồng chí lại bị thủng sâu thế này?

- Thưa bác sĩ, đấy là vết một viên đá lát đường bắn vào lưng tôi. Trước thành Rốp-nô, có một quả đại bác 81 ly nổ tung mặt đất...

- Thế đồng chí làm thế nào mà đi được nữa? Viên đá bắn thủng lưng như thế không đau sao?

- Không. Tôi bị đá bắn vào lưng, nằm lăn ra đất đến ngót hai hai tiếng đồng hồ, rồi lại lên ngựa đi. Mãi đến bây giờ mới thấy đau là lần đầu.

Bác sĩ cau mày suy nghĩ, tay nắn mãi vết lõm trên lưng.

- Hừ !... Bị một cú như thế, gay đấy, chú ạ! Xương sống con người ta không ưa bị đá giáng vào như thế đâu. Hy vọng là đồng chí sẽ không thấy đau nữa. Thôi, mặc áo vào, đồng chí Pa-ven ạ.

Bác sĩ ái ngại nhìn người bệnh, không giấu nổi vẻ lo âu.

A-rơ-chom về ở nhà Schi-ô-sa, vợ anh, một người đàn bà chẳng có gì là đáng ưa cả. Nhà vợ là nông dân nghèo. Một hôm, Pa-ven đến thăm anh. Một đứa bé con nhếch nhác, mắt lác, đang chạy nhông ở sân nhỏ bẩn thỉu. Thấy Pa-ven vào, thằng bé giương mắt ti hí nhìn chòng chọc, rồi hí hoáy thọc ngón tay một cách nghiêm túc vào lỗ mũi, cất tiếng hỏi: - Hỏi gì? Định vào nhà người ta ăn cắp chắc? Cút đi ngay, không mẹ người ta chửi cho đấy!

Túp lều cũ kỹ, thấp lè tè, cánh cửa sổ bé tí xíu mở ra. A-rơ-chom gọi Pa-ven: - Vào đây Pa-vơ-lu-sa!

Một mụ già mặt vàng như nghệ đang loay hoay trước cửa lò. Mụ gườm gườm đưa mắt lườm Pa-ven và né người tránh cho khách đi. Xong mụ lại về với mấy cái nồi của mụ, mụ xê đi dịch lại làm nồi va chạm vào nhau loảng xoảng.

Hai đứa bé gái, bím tóc lơ thơ vài sợi, trèo phắt lên trên lò bếp ngồi và trố mắt nhìn người khách lạ một cách tọc mạch.

A-rơ-chom ngồi ở bàn, có vẻ ngượng ngùng. Cả mẹ lẫn em đều không tán thành anh lấy Schi-ô-sa. Anh đã ba năm đi lại với nhà cô Ga-li-a xinh đẹp làm nghề khâu, con gái bác thợ đá. Chẳng hiểu làm sao, vốn con nhà vô sản gốc, anh lại bỏ Ga-li-a để lấy nhà chị Schi-ô-sa chẳng ra gì, đâm đầu vào cái gia đình năm miệng ăn mà chẳng có ai là tay thợ cả. A-rơ-chom xong việc ở sở đầu máy về nhà, lại nai lưng ra với cái cày, đem hết sức gây dựng lại cơ đồ cho nhà chị Schi-ô-sa đang lụn bại này.

A-rơ-chom hiểu rằng Pa-ven không tán thành bước đường tụt lại đằng sau của anh, bước đường "tiểu tư sản hóa", như Pa-ven thường nói. Giờ đây, anh để ý xem em sẽ xử sự như thế nào trong cái cảnh nhà mình thế này.

Hai anh em hỏi han nhau qua loa mấy câu sáo chẳng ra đâu vào đâu rồi Pa-ven tỏ ý muốn ra về. A-rơ-chom giữ lại.

- Ở chơi đã, ăn với chúng tao tí chút. Chị sắp mang sữa đến. Mai mày định đi thật đấy à? Trông mày còn yếu lắm, Páp-ca ạ.

Schi-ô-sa bước vào, chào Pa-ven và gọi A-rơ-chom xuống nhà dưới khiêng vật gì giúp một tay. Mình Pa-ven ở lại với mụ già ít nói. Tiếng chuông nhà thờ vọng vào cửa sổ. Mụ già buông gậy chọc lò, càu nhàu:

- Giê-su-ma, lạy Chúa tôi, đầu tắt mặt tối thế này chẳng có lúc nào mà ngắm nguyện nữa.

Mụ tụt khăn quàng ra khỏi cổ, rồi vừa nhìn gườm gườm người khách lạ, vừa đi đến góc buồng, chỗ bày những ảnh tượng lạnh lẽo, lâu ngày trông đã sỉn. Mụ đưa ba ngón tay phải gầy giơ xương chụm vào nhau, rồi bắt đầu làm dấu. Mấp máy đôi môi khô héo, mụ lâm râm cầu nguyện.

- Lạy Cha chúng tôi ở trên đời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng...

Ngoài sân thằng bé cưỡi lên lưng con lợn sề đen trùi trũi có đôi tai chảy lòng thòng. Nó lấy chân không thúc vào sườn lợn, tay bíu chặt mớ lông; con vật đang xoay tròn, vừa quẫy vừa gầm gừ. Thằng bé thét lên:

- Hư, đi ! Đi! Hê, gượm tí đã nào !

Con lợn sề lồng lên trong sân, cố vật thằng bé trên lưng ngã xuống đất. Song thằng bé ngồi chắc lắm.

Mụ già bỏ kinh, bỏ nguyện, thò đầu ra cửa sổ:

- Đồ quỷ sứ! Rồi tao dạy cho mày cưỡi ngựa. Có xuống ngay không, thằng chết tiệt. Ngã chết bây giờ! Nghịch thế thì thôi !

Con lợn sề đã tìm cách thoát được tay kỵ mã. Mụ già yên trí lại quay về với ảnh tượng. Nét mặt sùng kính, mụ tiếp tục cầu kinh.

- Nước Cha trị đến… Thằng bé con nước mắt chảy quanh, bước vào cửa. Nó lấy cánh tay áo quệt lên cái mũi bị ngã dập xuống đất và khóc mếu vì mũi đau. Nó vòi:

- Mẹ ơi, cho con cái kẹo.

Mụ già phát khùng quay lại:

- Đồ quỷ mắt lác, mày không để cho bà xong buổi nguyện. Đồ chó đẻ, đợi đấy, rồi bà lấy kẹo cho mày. - Nói rồi, mụ nhặt cái roi trên ghế dài. Thằng bé biến ngay lập tức. Hai đứa bé gái nằm sau lò bếp phì cười. Mụ lại quay vào cầu nguyện, lần này nữa là lần thứ ba.

Pa-ven đứng dậy và đi ra ngay, chẳng đợi A-rơ- chom nữa. Khi anh ra khỏi, quay lại khép cổng, thì thấy mụ già còn ngó qua cửa sổ ở ngách nhà nhìn theo anh.

"Không hiểu thế quái nào mà ông A-rơ-chom lại chúi đầu vào đây. Rồi đến chết cũng không rút cũng ra được. Bà Schi-ô-sa rồi sẽ đẻ sòn sòn năm một. Ông A-rơ-chom rồi sẽ sa lầy vào đấy như con bọ hung trong đống phân. - Pa-ven chán ngán bước theo con đường vắng ngắt của thị trấn nhỏ, vừa đi vừa nghĩ ngợi. - Lo cho ông ấy có thể còn đổ đốn hơn nữa đến bỏ cả công việc ở sở đầu máy về nhà ở lỳ với vợ. Thế mà mình cứ định bụng lôi ông ấy đi công tác, đi hoạt động !"

Pa-ven sung sướng ngày mai được đi rồi, ngày mai trở về thành phố lớn, gặp lại bạn bè và những người mà anh yêu quý. Thành phố đồ sộ, sức sống tràn trề, vẻ náo nhiệt của dòng người không lúc nào ngớt, tiếng xe điện ầm ầm, tiếng còi xe hơi inh ỏi, tất cả hấp dẫn anh. Song, cái chính là anh cảm thấy tâm hồn anh bị thu hút bởi những lớp nhà rộng mênh mông, xây bằng gạch; những công xưởng ám khói, các thứ máy móc và tiếng dây chuyền da lướt ngọt trên bánh xe. Anh bị hút về nơi có những bánh lái khổng lồ quay tít theo đà máy chạy hối hả về nơi có mùi đầu máy, về những thứ đối với anh đã trở thành thân thuộc. Ở đây trong cái thị trấn nhỏ lầm lì này, đi dạo chơi quanh ngoài phố, Pa-ven cảm thấy rất là khó thở. Thị trấn nhỏ này đối với anh trở nên xa lạ và chán ngấy, điều đó anh chẳng lấy làm ngạc nhiên. Anh chán ngấy đến nỗi ban ngày ra phố đi quanh cũng đủ thấy khó chịu. Mỗi khi đi ngang qua nhà những mụ lắm điều đang ngồi lê trên thềm nhà, Pa-ven nghe thấy các mụ nói liến thoắng huyên thiên.

- Các bà ơi, xem kìa. Cái thằng kia nó chui ở đâu ra mà trông rõ khiếp !

- Chắc nó là thằng ho lao, cái ngực sắp đi đời rồi.

- Nhưng cái áo ngoài của nó trông có vẻ đắt tiền đấy.

- Chắc nó xoáy ở đâu chứ gì...

Và chuyện các mụ cứ rặt như thế. Pa-ven nghe lắm, rác cả tai.

Từ lâu, anh thấy mình đã đứt rễ hẳn với nơi này. Thành phố lớn ngoài kia đối với anh gần gũi hơn, thân thiết hơn. Các đồng chí với anh là một gia đình bền chặt, vui tươi. Với lại, ngoài ấy, anh còn có công tác.

Pa-ven bước chân đến rừng thông từ lúc nào cũng không để ý đến nữa. Anh dừng lại ở chỗ đường rẽ đôi. Bên phía tay phải, sau hàng rào cao với những cọc nhọn hoắt, ngăn cách với rừng, là nhà pha cổ lỗ, âm u hình thù đáng ghét, và sau nhà pha là những nếp nhà quét vôi trắng của nhà thương.

Chính ở bãi rộng này đây, Va-li-a và các đồng chí đã bị treo cổ. Pa-ven đứng im lặng một lúc lâu trước nơi ngày trước đặt giá treo cổ. Rồi anh lần bước xuống lối hào sâu, lững thững đi ra huyệt chung của anh chị em ở trên gò.

Những bàn tay trìu mến đã đặt lên các ngôi mộ những vòng hoa kết bằng cành thông và rào quanh nghĩa địa nhỏ này một hàng rào cây lá tươi. Đỉnh gò có những cây thông cao vút trấn ngự. Cỏ non như tơ xanh phủ lên sườn gò thoai thoải.

Thị trấn nhỏ đến đây là hết phố. Cảnh vật nơi này tịch mịch, rầu rầu. Rừng thông hiu hắt. Không gian phảng phất mùi lá khô rữa và mùi đất mùa xuân nhuần lại.

Nơi đây, anh chị em ta đã anh dung hy sinh để cho cuộc đời cười được với những kẻ sinh ra trong cùng khổ, những kẻ từ thuở lọt lòng mẹ là đã bắt đầu kiếp làm trâu ngựa.

Pa-ven từ từ ngả mũ, lòng tràn ngập một mối buồn vô hạn.

Cái quý nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người. Và ta phải sống gấp lên mới được. Vì tật bệnh vô lý hay một sự tình cờ bi đát nào đó có thể bỗng nhiên cắt đứt cuộc đời.

Mang nặng trong lòng những ý nghĩ ấy, Pa-ven rời khỏi nghĩa địa.

Mẹ buồn rầu sửa soạn hành lý cho con lên đường. Pa-ven nhìn mẹ: mẹ khóc nhưng quay mặt đi không để anh trông thấy.

- Con ở lại có được không, con? Con xem, mẹ già rồi. Cứ lủi thủi ở một mình thì khổ mẹ lắm, con ạ. Đấy, đẻ ra ngần ấy đứa con, nhưng chúng nó vừa lớn lên thì mỗi đứa đi một ngả. Cái gì nó kéo mày ra tỉnh thế, hở Pa-ven? Ở đây sống cũng được chứ sao? Hay mày cũng đã có món nào? Chắc mày đã phải lòng một con mái tóc ngắn nào rồi? Cấm đứa nào nói với mụ già này một câu. Thằng A-rơ-chom lấy vợ chẳng bảo qua tao một tiếng. Mày lại càng tệ nữa. Chỉ khi nào chúng mày ốm đau què quặt, mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi.

Mẹ dịu dàng bảo Pa-ven như thế, vừa nói vừa xếp mớ quần áo của con vào túi đã giặt sạch.

Pa-ven ôm lấy vai mẹ, kéo mẹ lại gần:

- Không đâu. Con chẳng có con mái nào đâu, mẹ ạ. Gà thì lấy gà có phải không mẹ. Mẹ gọi thế chẳng hóa ra con là gà sống à?

Anh làm mẹ phải bật cười. - Mẹ ơi, con đã thề không nghĩ gì đến gái, nếu ta chưa diệt hết bọn tư sản trên khắp thế gian này. Chắc mẹ lại bảo như thế thì phải chờ lâu lắm phải không? Không đâu, mẹ ạ, bọn tư sản chẳng đứng được lâu nữa...Rồi tất cả loài người sẽ là một nước cộng hòa. Và các cụ ông, cụ bà già như mẹ đã suốt đời làm lụng thì sẽ được sang nghỉ bên Ý, ở đấy ấm áp, chung quanh toàn là biển cả. Ở bên nước Ý, không bao giờ có mùa đông, mẹ ạ. Chúng con sẽ đưa mẹ, những người già như mẹ, đến ở trong những dinh cơ của bọn tư sản, và mẹ sẽ ngồi sưởi nắng ấm. Còn chúng con, chúng con sẽ đi sửa nốt bọn tư sản bên Mỹ.

- Con ạ, mẹ chẳng còn sống được đến ngày có câu chuyện tiên phật của con đâu… Ông con xưa kia cũng ngỗ ngược như con, ông làm thủy thủ, đi khắp năm châu bốn biển. Nói trộm vía ông, cụ thật là tay ghê gớm. Trận Xê-va-xtô-pôn, cụ đánh hăng thế nào mà khi về nhà thì thấy cụ thiếu một chân một tay. Người ta gắn cho cụ hai huân chương thập tự và hai mề đay có cuống của Nga hoàng. Nhưng rồi ông cụ cũng chỉ chết cực chết khổ. Cụ bướng lắm. Một lần cụ vác nạng nện vào đầu người Nhà nước. Thế là bị tù một năm. Người ta tống vào nhà pha, huân chương thập tự cũng chả cứu thoát được. Mẹ thấy tính con dễ thường theo về tính ông ngày trước.

- Mẹ ơi, con sắp xa mẹ, mẹ nói chuyện không vui ấy làm gì? Thôi, mẹ đưa cho con cái đàn gió, đã lâu lắm con chẳng mó đến nó.

Pa-ven cúi xuống hàng phím bọc xà cừ. Mẹ sửng sốt vì tiếng đàn của anh lạ đi, nghe không như ngày trước nữa. Hết vẻ ngỗ nghịch vô tư lự, chất hăng say xốc nổi, những ngón láy và ngón đệm mà cả thị trấn đều biết tài tay chơi đàn gió trẻ tuổi Pa-ven. Nhạc anh chơi bây giờ thánh thót, trầm bổng, nghe không kém phần mạnh mà càng thêm có chiều sâu nữa.


Pa-ven ra ga một mình.

Anh đã nói được cho mẹ ở lại nhà: anh không để mẹ đi tiễn vì không muốn thấy mẹ khóc khi chia tay.

Xe lửa phải xông xáo mà lên, toa nào toa ấy đứng ngồi chen chúc. Pa-ven chiếm giường trên tầng cao nhất và nhìn xuống đám người hầm hầm la lối đứng chật cả chỗ đi.

Cảnh chuyến tàu nào cũng vậy, người ta kéo những bao, những túi lê sền sệt, nhét vào dưới gầm ghế.

Đến khi tàu chuyển bánh, hành khách mới bớt nóng nảy, và bao giờ cũng thế, cứ đến lúc này thì người ta bắt đầu giở bánh ra ăn nghiến ngấu.

Pa-ven chẳng mấy chốc đã ngủ lăn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 19:52:28 | Chỉ xem của tác giả
Nhà đầu tiên anh muốn đến thăm ở trung tâm thành phố, trên đường lớn Ca-rét-sa-tích. Anh từ từ leo lên thang cầu. Cảnh chung quanh quen mắt, chẳng có gì khác cả. Anh bước qua cầu nhà ga, để tay lướt trên thành cầu nhẵn trơn. Đến chỗ xuống thang, anh dừng lại: trên cầu vắng ngắt. Ngửa trông lên cao thăm thẳm, bóng tối mượt như nhung phủ lấy nền trời. Trên vòm trời cao, hằng hà sa số vì sao lấp lánh ánh sáng màu lân tinh. Ở phía dưới, chỗ mặt đất lẫn với chân trời, không biết đâu là ranh giới, thành phố rắc trong đêm hàng triệu ánh đèn điện.

Có đông người đi lên qua mặt Pa-ven. Tiếng nói gay gắt của đám người tranh cãi nhau một câu chuyện gì phá sự yên tĩnh của đêm tối. Và Pa-ven, mắt rời những ánh đèn của thành phố, bước xuống thang.

Trong phòng phát giấy của Ủy ban đặc biệt quận ở đường Cơ-rét-sa-tích, người phụ trách cho Pa-ven biết là Giu-khơ-rai đã đổi đi tỉnh khác từ lâu.

Đồng chí đó hỏi đi hỏi lại Pa-ven; mãi đến khi đã tin là Pa-ven có quen riêng Giu-khơ-rai, mới cho biết qua loa thêm. Cách đây hai tháng, Giu-khơ-rai được lệnh điều đi Ta-sơ-ken, đến công tác ở mặt trận Tuốc- kết-stan. Pa-ven nghe tin chán đến nỗi không buồn hỏi thêm nữa. Chẳng nói chẳng rằng, anh quay gót đi ra. Mệt quá, anh ngồi xuống bậc cửa nghỉ một lát.

Tàu điện chạy qua, bánh xe sắt lăn rầm rầm vang cả phố. Trên các vỉa hè dòng thác người lũ lượt tràn đi. Náo nhiệt quá ! Lúc thì có tiếng cười rúc rích của đàn bà, lúc thì giọng trầm trầm của đàn ông, lúc thì giọng lanh lảnh của một chàng trai trẻ măng, lúc thì giọng ồ ồ của ông già. Làn sóng người trôi đi không lúc nào ngớt, ai nấy dáng dấp vội vàng. Xe điện sáng trưng, đèn pha xe hơi rọi lên đột ngột, hàng điện bật lên chói rực quanh biển quảng cáo của rạp chiếu bóng bên cạnh. Và chỗ nào cũng là đám đông ngồn ngộn, làm cho phố xá không lúc nào vắng tiếng huyên náo. Đấy là buổi tối ở một thành phố lớn.

Cảnh tấp nập ồn ào của đại lộ này làm Pa-ven khuây khỏa nỗi buồn vì tin Giu-khơ-rai đã được điều động đi nơi khác. Biết đi đâu bây giờ? Hay về phố Xô-lô- men-ca với lũ bạn? Xa quá! Và anh nhớ ra một nhà quen ở gần đây, ngay phố Trường đại học Cơ-rúc-lô. Phải đến ngay đấy mới được.. Bởi vì sau Giu-khơ-rai thì Ri-ta chính là đồng chí mà anh muốn gặp trước tiên. Vả chăng, đến đây, có thể ngủ buồng A-kim được.

Từ xa, anh đã nhìn thấy ánh đèn sáng ở cửa sổ trên tầng gác. Để trấn tĩnh lòng mình, anh áp người vào cánh cửa gỗ sên. Lên đến cầu thang, lại đứng dừng mấy giây nữa. Trong buồng Ri-ta, có tiếng người nói chuyện, có tiếng đàn ghi-ta.

"Tiếng đàn ghi-ta? Thế ra được chơi cả ghi-ta nữa kia à? Chế độ bây giờ có vẻ nới ra tợn”. Pa-ven nghĩ bụng như vậy và khẽ gõ cửa buồng. Cảm thấy mình hồi hộp, anh cắn chặt môi.

Một người đàn bà trẻ lạ mặt, có để tóc mai quăn, ra mở cửa. Người ấy nhìn Pa-ven: - Anh hỏi ai?

Người đàn bà không khép cửa, và trông cách Pa- ven đưa mắt nhìn vào đồ đạc trong buồng, chị ta cũng đủ đoán hiểu ý.

- Tôi muốn hỏi chị Ri-ta Uốt-chi-nô-vích.

- Chị ấy không ở đây nữa. Hồi tháng Giêng chị ấy đổi đi Khác-cốp và giờ nghe đâu lại đổi đi Mát-xcơ-va.

- Thế đồng chí A-kim còn ở đây hay cũng đi rồi?

- Đồng chí A-kim cũng không có đây, hiện nay đồng chí ấy làm bí thư thanh niên cộng sản ở Ô-đét-xa.

Pa-ven chỉ có cách là quay đi. Niềm vui trở về thành phố thế là mờ mất rồi...

Giờ thì phải liệu lo đi tìm chỗ ngủ đêm thôi.

"Cứ chạy quanh tìm các bạn thân như thế, mình có mỏi nhừ chân cũng chẳng thấy ai".

Pa-ven càu nhàu, cau có, cố nén thất vọng. Tuy nhiên, anh cũng còn cầu may chuyến nữa, đến tìm Pan-cơ-ra-tốp. Pan-cơ-ra-tốp ở gần bến tàu, đến cậu ấy không xa bằng đi đến phố Xô-lô-men-ca.

Tìm đến được nhà Pan-cơ-ra-tốp thì người anh đã mệt nhoài. Anh gõ cánh cửa trước kia có hồi sơn đỏ, định bụng: "Nếu cậu ta cũng đi nơi khác nốt rồi thì mình chẳng đi đâu lang thang mãi nữa. Tìm béng cái thuyền nào chui xuống ngủ qua đêm nay thôi".

Một bà cụ nhỏ nhắn, đội vuông khăn giản dị chít dưới cằm, ra mở cửa. Bà cụ là mẹ Pan-cơ-ra-tốp.

- Thưa mẹ, anh Pan-cơ-ra-tốp có nhà không ạ?

- Em nó vừa mới về.

Bà cụ không nhận ra Pa-ven và quay vào gọi con: - Pan-cơ-ra-tốp ơi, có anh nào hỏi con đấy.

Pa-ven bước theo bà cụ vào nhà, đặt túi xuống đất. Pan-cơ-ra-tốp đã ngồi vào ăn ở bàn, quay ra nhìn Pa-ven:

- Có phải anh hỏi tôi thì mời anh ngồi chơi và cho biết có việc gì. Anh cho tôi làm nốt bát xúp này vì từ sáng, tôi chỉ độc nốc nước lã trừ bữa.

Và Pan-cơ-ra-tốp cầm lấy cái thìa gỗ to tướng.

Pa-ven ngồi xuống ghế dựa, mặt ghế đã thủng. Anh bỏ mũ cát-két ra rồi theo thói quen lấy mũ lau mồ hôi trán.

"Chẳng lẽ mặt mũi mình thay đổi đến nỗi cậu ta không nhận ra được mình nữa ư?"

Pan-cơ-ra-tốp húp luôn hai thìa xúp, rồi thấy khách chưa nói gì, liền quay ra hỏi khách lần nữa.

- Anh nói cho nghe đi. Có chuyện gì thế anh?

Bàn tay cầm mẩu bánh chưa đưa tới mồm đã dừng lại nửa chừng, Pan-cơ-ra-tốp bàng hoàng chớp chớp mắt.

- Ô kìa . . . Hãy khoan . . . Thế này là thế nào, hở trời?

Thấy mặt bạn đỏ bừng, rúm lại vì nghĩ lung, Pa- ven không nhịn được nữa, phì cười.

- Páp-ca ơi! Chúng tao ngỡ mày chết rồi!... Hãy khoan! Tên anh là gì?

Nghe Pan-cơ-ra-tốp kêu rú lên, mẹ và chị gái anh ở buồng bên chạy ra. Rồi cuối cùng cả ba người nắm chắc là chính Pa-ven đang ngồi trước mặt họ.

Cả nhà đã ngủ lâu rồi, Pan-cơ-ra-tốp còn ngồi kể mãi những việc xảy ra trong bốn tháng qua.

- Mùa rét vừa rồi, Giác-ki và Đu-ba-va được đi Khác-cốp. Chẳng phải công tác vớ vẩn đâu. Tụi nó được vào Đại học cộng sản, học lớp dự bị. Tất cả mười lăm đứa được triệu tập đến. Lúc bấy giờ, có phong trào sôi nổi đòi đi học, tao cũng làm đơn. Tao nghĩ bụng: mình phải ních thêm vào cái túi khôn của mình, vì trong đầu mình hiểu biết ít ỏi quá. Nhưng tiểu ban lấy học sinh cho tao rơi, mày ạ.

Pan-cơ-ra-tốp thở ra bực dọc, rồi nói tiếp:

- Mới đầu, việc tao có vẻ trôi chảy lắm. Tao đủ hết tiêu chuẩn: tao có thẻ đảng viên, tao đã đủ thời hạn công tác dự bị ở Đoàn; về thành phần xuất thân và bản thân, không có gì lôi thôi, tao không vấp vì những cái đó. Nhưng khi sát hạch tao về chính trị thì tao bị bương.

Tao vào vấn đáp trước một đồng chí trong tiểu ban. Đồng chí ấy ra cho tao câu hỏi hóc này: "Đồng chí Pan-cơ-ra-tốp, đồng chí hiểu gì về triết học thì nói đi”. Mày biết tao thì hiểu quái gì về triết học. Nhưng tao nhớ ra, có một thằng cha khuân vác trước kia cùng làm với chúng tao, một thằng giang hồ có đi học lít-xê lít xiếc. Nó đi làm cho ra vẻ ta đây lao động ấy mà. Nó có lần kể cho chúng tao nghe, xưa kia ở bên nước Hy Lạp, có những nhà thông thái nghĩ ra nhiều cái lắm. Người ta gọi họ là những nhà triết học. Trong những tay triết học loại đó, có một tay tao quên khuấy mất tên, hình như là I-đê-ô-ghen thì phải, tay này suốt đời chui trong cái thùng tô-nô ở và đại khái những chuyện như thế. . Giỏi nhất đám triết học ấy là một tay có thể chứng minh bốn mươi lần liền: cái gì đen là trắng, và ngược lại, trắng là đen. Nói tóm lại là một bọn nghĩ cách úm người ta. Vì vậy cho nên lúc bấy giờ tao mới nghĩ đến câu chuyện thằng học trò lít-xê kể và tao tự bảo: "Tay ủy viên tiểu ban này định quay mình đây”. Mà lão ta ngồi đấy nhìn tao ranh mãnh thật. Cho nên tao mới sa chân vào đĩa. Tao nói: "Triết học là trò bịp đời và nhồi sọ. Tôi không ưa học gì những của ngớ ngẩn ấy, các đồng chí ạ! Còn lịch sử Đảng thì khác, tôi để hết tâm trí nghiên cứu lịch sử Đảng”. Tao nói thế xong thì các tay trong tiểu ban mới truy tao thêm, hỏi vặn tao học ở đâu mà hiểu triết học như thế. Tao mới nói thêm mấy điều nữa mà thằng học trò lít-xê đã nói với tao. Thế là cả tiểu ban lăn ra cười. Tao phát cáu. Tao bảo rằng: "Có cái gì mà các đồng chí nhạo báng tôi như chế thằng ngu thế?" Tao nhặt lấy mũ và đi ngay về nhà.

Sau đó, đồng chí đã hỏi tao lại gặp tao ở tỉnh ủy. Nói chuyện ba tiếng đồng hồ liền. Tao mới hiểu ra thằng học trò lít-xê nói lòe chúng tao. Bởi vì tao nghe nói thì ra triết học một sự vĩ đại và rất là tinh anh sáng suốt. Thằng Đu-ba-va và thằng Giác-ki thì trúng.

Thằng Đu ba-va thì tao chịu nó, nó học ra trò. Song còn Giác- ki thì chẳng hơn tao mấy. Nó nhờ cái huân chương mà thoát, nhất định là như thế. Nói tóm lại tao lại quay về làm ăn với sông nước. Tao được chỉ định về ban quản lý bến tàu. Tao thay đồng chí phụ trách ke bốc hàng. Trước kia cả ngày tao to tiếng với chính quyền về một đống vấn đề dính dáng đến Đoàn. Nay chính tao phải lãnh đạo cái khoản ấy. Thỉnh thoảng xảy đến như thế này: có tên nào giả ốm, hay tên nào nhác rơi vào tay tao, tao vừa lấy cương vị phụ trách chính quyền, vừa lấy cương vị bí thư chi đoàn đì cho cẩn thận. Song, cuộc đời không phải chỉ có tao, xin lỗi mày nhé. Tao sẽ kể về tao sau. Còn cái gì tao chưa kể cho mày nghe nữa nhỉ? Về tin tức A-kim, mày đã hỏi thăm được rồi. Các chấp ủy cũ, còn lại có Túp- ta, vẫn làm công tác cũ. Tô-ca-rếp thì bí thư Đảng ủy Xô-lô-men-ca, Ô-cu-nhếp trước cũng ở tổ công xã với mày thì ở quận đoàn thanh niên. Ta-li-a thì làm giảng viên chính trị. Svê-tai-ép thay chân mày ở xí nghiệp. Tao không biết nó lắm. Thỉnh thoảng gặp ở tỉnh đoàn, trông không đụt đâu, nhưng tự ái ra dáng. Mày nhớ An-na Bô-khác chứ? Cô ấy cũng ở Xô-lô- men-ca, phụ trách công tác phụ vận ở quận ủy. Tao đã kể hết cho mày nghe về tin tức các cậu quen. Đấy mày xem, Đảng cho nhiều cậu đi học. Hiện nay ở đây tất cả cán bộ cũ đang cày khỏe ở Trường Đảng. Trên hứa sang năm cũng cho tao theo học ở đấy.

Hai người mải chuyện, quá nửa đêm lâu rồi mới ngủ. Sáng hôm sau, Pa-ven dậy thì Pan-cơ-ra-tốp đã ra bến tàu. Em gái Pan-cơ-ra-tốp là Đu-xi-a, một cô gái to khỏe giống anh như đúc, bưng nước chè mời Pa-ven uống và nói đến mọi chuyện vặt. Cha Pan- cơ-ra-tốp không có nhà. Ông cụ làm thợ máy trên tàu thủy, còn đang ngược tàu.

Pa-ven sửa soạn ra phố. Sắp đi, Đu-xi-a dặn lại:

- Nhớ về ăn cơm, anh nhé. Nhà em chờ cơm anh đấy.


Trụ sở tỉnh đoàn thanh niên thường vẫn tấp nập. Cửa mở ra rồi lại đóng sập vào luôn tay. Trong hành lang và các buồng, người chờ đông; phòng hành chính, tiếng máy chữ gõ inh tai.

Pa-ven dừng lại ngoài hiên một lát, ngó vào hy vọng gặp mặt nào quen. Chẳng thấy ai, anh mới đi vào phòng đồng chí bí thư. Đồng chí bí thư mặc sơ- mi xanh, ngồi trước một bàn giấy đồ sộ. Pa-ven vào, đồng chí ấy chỉ nhìn qua, rồi lại cúi xuống viết.

Pa-ven ngồi đối diện và chăm chú nhìn người bí thư thay chân A-kim ấy.

Đồng chí bí thư đánh dấu chấm hết lên trang giấy anh đang viết và hỏi Pa-ven:

- Đồng chí muốn gì?

Pa-ven trình bày trường hợp của mình: - Phải cải tử hoàn sinh cho tôi trên danh sách tổ chức của Đoàn và cho tôi trở lại phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Đề nghị đồng chí chỉ thị cho bên tổ chức như vậy.

Đồng chí bí thư ngả người dựa vào ghế và trả lời, giọng lưỡng lự.

- Tất nhiên chúng tôi sẽ khôi phục đoàn tịch cho đồng chí, điều đó không còn phải nói gì nữa. Nhưng điều đồng chí về phân xưởng chính nhà máy xe lửa thì không tiện. Svê-tai-ép đang phụ trách ở đấy, cậu ấy là chấp ủy viên tỉnh đoàn mới bầu lại khóa vừa rồi. Chúng tôi sẽ điều đồng chí đi nơi khác vậy.

Mắt Pa-ven hơi nhíu lại:

- Tôi về đấy không phải để làm khó cho công tác của đồng chí Svê-tai-ép đâu. Tôi muốn về làm chuyên môn của tôi, chứ không phải làm bí thư chi đoàn. Với lại trong người tôi chưa được khỏe, đề nghị đừng điều tôi đi nơi khác.

Đồng chí bí thư gật đầu, ghi mấy chữ vào mảnh giấy.

- Đồng chí đưa mảnh giấy này cho Túp-ta, cậu ta sẽ bố trí cho đâu vào đấy.

Bên phòng cán bộ, Túp-ta đang mắng như tát nước người giúp việc thống kê của mình. Pa-ven nghe hai bên cãi nhau nửa phút, nhưng thấy câu chuyện có vẻ kéo dài, liền ngắt lời anh chàng Túp-ta đang nóng như lửa:

- Thôi, cậu sẽ chỉnh đồng chí ấy sau. Đây là giấy giới thiệu, cậu làm hộ giấy chính thức cho mình đi.

Túp-ta hết nhìn giấy lại nhìn Pa-ven. Sau cùng mới nói ra lời:

- Sao, cậu chưa chết à? Vậy làm thế nào bây giờ? Tên cậu đã gạch khỏi danh sách rồi. Chính mình gửi trả Trung ương thẻ đoàn viên của cậu. Với lại vừa rồi Trung ương mới lấy lại danh sách đoàn viên cả nước. Theo thông tri của Trung ương Đoàn, ai không ghi tên lại thì coi như bị khai trừ. Cậu chỉ còn có cách nộp đơn xin gia nhập đoàn lại, theo đúng những quy định thường lệ.

Túp-ta tuyên bố thẳng cánh như vậy. Pa-ven cau mặt lại:

- Vậy ra cậu ta vẫn chứng nào tật ấy. Cậu còn trẻ mà tệ hại hơn một con chuột già rúc trong đống công văn. Bao giờ cậu mới ra hồn người được?

Túp-ta chồm lên, như bị rệp đốt:

- Cậu đừng lên lớp đây. Đây phụ trách công việc đây làm. Thông tri thảo ra không phải để cho người ta vi phạm nó. Còn cậu gọi đây là chuột già thì cậu sẽ phải trả lời về câu phỉ báng đó.

Túp-ta nói câu sau này có vẻ hăm dọa. Hắn đưa rộng tay vơ lấy chồng phong bì chưa mở: thái độ tỏ vẻ không muốn nói chuyện thêm nữa.

Pa-ven thong thả đứng dậy ra cửa. Chợt nghĩ lại điều gì anh quay trở vào nhặt mảnh giấy đồng chí bí thư giới thiệu còn để trên bàn trước mặt Túp-ta. Túp-ta nhìn Pa-ven. ông cụ non cáu kỉnh và tỉ mẩn ấy có đôi tai to vểnh ra, trông vừa đáng ghét, vừa buồn cười.

- Thôi được, kết tội đây là "làm đảo lộn thống kê" thì cứ kết tội, nhưng đây hỏi lại: tại sao cậu lại dám thi hành kỷ luật một người đã chết mà cứ tự tiện, không có giấy tờ văn bản nào quyết định trước hẳn hoi? Trường hợp này có thể xảy ra với tất cả mọi người: người ta ốm rồi chết. Nhất định không có thông tri nào cho phép cậu làm như thế.

- Hì, hì, hì - Người giúp việc Túp-ta không thể giữ trung lập được mãi nữa, bật lên cười thích chí.

Túp-ta ấn gãy đầu bút chì. Hắn cầm mầu chì gãy ném xuống sàn, chưa kịp trả lời đối phương, thì người đông đã kéo ùa vào phòng, cười nói bô bô. Trong bọn mới vào có Ô-cu-nhếp. Thế là chỉ còn nghe thấy những tiếng reo vui và sửng sốt, những câu hỏi không bao giờ hết. Vài phút sau, lại một đám thanh niên nữa vào trong bọn đó có Ôn-ga. Chị nắm lấy tay Pa-ven rất lâu, ngạc nhiên, nhưng tươi sáng hẳn lên.

Người ta lại bắt Pa-ven kể chuyện lại. Nguồn vui thật thà của những đồng chí, tình bạn chân thành, lòng mến thương thông cảm, những nắm tay chặt, những bàn tay vỗ lên vai, chắc nịch và thân ái, tất cả làm Pa-ven quên hẳn chuyện Túp-ta.

Gần cuối, Pa-ven kể thêm cho các đồng chí nghe câu chuyện giữa mình và Túp-ta vừa rồi. Ai cũng tức giận. Ôn-ga quắc mắt lườm Túp-ta, rồi đi đến phòng đồng chí bí thư.

- Cánh ta đi tìm đồng chí Nhê-giơ-đa-nốp để đồng chí ấy cạo cho hắn một mẻ.

Ô-cu-nhếp nói thế và choàng lấy vai Pa-ven kéo đi theo Ôn-ga cùng với đám đông các đồng chí.

Ôn-ga nóng giận bừng bừng:

- Túp-ta này quan liêu hạng nặng! Phải truất cổ hắn khỏi ban tổ chức và điều đến chỗ Pan-cơ-ra-tốp cho làm nghề khuân vác lấy một năm mới được.

Ô-cu-nhếp, Ôn-ga và các đồng chí khác đòi đuổi cổ Túp-ta khỏi phòng cán bộ. Đồng chí bí thư nghe họ nói, cười độ lượng. Nhê-giơ-đa-nốp cố làm cho Ôn- ga nguôi giận:

- Về việc khôi phục quyền lợi sinh hoạt Đoàn cho Pa-ven thì chẳng cần phải nói lại nữa. Sẽ phát ngay thẻ đoàn viên cho cậu ta. Còn như Túp-ta là một anh chàng máy móc thì rất đồng ý với các đồng chí như thế. Đấy là khuyết điểm chính của cậu ấy. Nhưng cũng phải thú thật với các đồng chí rằng cậu ấy tổ chức công việc rất khá. Trong tất cả những cơ quan lãnh đạo của Đoàn mà tôi đã làm từ trước đến nay, công tác tổ chức và thống kê này thật rắc rối như chui vào rừng rậm vậy. Chẳng còn biết tin vào con số nào. Nhưng ở đây thì làm thống kê rất tốt. Các đồng chí cũng biết Túp-ta thức suốt đêm hì hục làm ở bàn giấy. Cho nên ý kiến tôi là các đồng chí muốn cất chức cậu ấy thì cất chức lúc nào cũng được. Song lấy một cậu khác tốt mà làm thống kê tồi thay hắn ta thì không còn tình trạng quan liêu, điều đó đã hẳn đi rồi, nhưng đồng thời thống kê cũng sẽ không ra đâu vào đâu. Vậy cứ nên để cho cậu ấy làm. Tôi sẽ phê bình thật lực cậu ấy. Sẽ có tác dụng tốt đối với cậu ấy trong một thời gian. Rồi có thế nào, sau này sẽ hay.

- Thôi, thế cũng được. - Ô-cu-nhếp gật đầu rồi nói với Pa-ven: - Pa-ven, ta về Xô-lô-men-ca đi. Hôm nay có họp đoàn ở câu lạc bộ chúng mình. Chưa ai biết cậu về. Rồi bất thình lình, ta giới thiệu: "Xin nhường lời cho Pa-ven!". Hoan hô Pa-ven. Mày không chết là phải lắm. Giai cấp vô sản mạnh thêm vì cái cẳng mày. - Ô-cu-nhếp kết luận một cách khôi hài như vậy và lấy hai tay ôm lấy Pa-ven đẩy ra hành lang.

- Ôn-ga cũng đến đấy chứ?

- Nhất định đến chứ!


Nhà Pan-cơ-ra-tốp đợi mãi không thấy Pa-ven về ăn cơm. Đêm cũng không thấy về ngủ. Ô-cu-nhếp đã đưa Pa-ven về ở nhà mình. Anh có một phòng riêng ở trụ sở Xô-viết. Về đến nhà, có gì là cho bạn ăn nấy, rồi mang đến cho Pa-ven hai bó báo và hai quyển sổ cái - sổ ghi biên bản các buổi họp của thường vụ quận đoàn thanh niên. Anh bảo bạn:

- Cậu nghiên cứu tất cả những tài liệu này đi. Trong khi cậu mất thời giờ với bệnh thương hàn của cậu thì thời gian như nước chảy đi đã nhiều rồi đấy! Đọc đi để hiểu việc đã qua và việc trước mắt. Tối mình về đón cậu rồi cùng đến câu lạc bộ. Nếu mệt thì cứ ngả lưng làm một giấc.

Người bí thư quận đoàn thanh niên nhét vội một đống thư với tài liệu và giấy chứng nhận vào túi, (Ô- cu-nhếp ghét những cặp da, cặp của anh quẳng ở gậm giường), rồi đi quanh phòng xem lại một lượt trước khi ra cửa.

Tối đến, anh về thì thấy khắp phòng báo chí tung bừa bãi, đống sách để dưới gầm giường cũng bị lôi ra. Nhiều quyển khác chất trên bàn làm việc. Pa-ven ngồi trên giường đọc tập thư của Trung ương mới gửi đến mà anh tìm thấy dưới gối của bạn.

- Thằng tướng cướp, mày lục gì cái ổ của tao thế?- Ô-cu-nhếp làm bộ quát lên, giả vờ tức giận. - Xem nào, xem nào, đồng chí! Tôi bắt được đồng chí đọc tài liệu mật. Cứ để cho quân này chui vào buồng mình thì có ngày hỏng!

Pa-ven mỉm cười, để lá thư xuống.

- Cậu nhỡ tàu rồi. Thư này có gì mà mật. Trái lại, chính cậu lấy tài liệu riêng tối mật làm chao đèn kia kìa. Trông xem! Bị sém cả rìa nữa là khác.

Ô-cu-nhếp cầm lấy tờ giấy đã bị làm chao đèn đó, anh vừa đọc qua tiêu đề đã lấy tay vỗ lên trán:

- Thế mà mình tìm mãi ba hôm nay cái mảnh giấy tai ác này. Nó biến mất, tưởng rơi xuống sông, xuống biển, giờ mình nhớ ra rồi. Hôm kia, thằng Vô-lưn- xếp đến đây, chính là nó máy tay lấy làm chao đèn. Rồi nó lại quần quật đi tìm .- Ô-cu-nhếp gấp mảnh giấy lại cẩn thận rồi đút xuống dưới đệm, nói giọng không lo nữa - Thôi chốc nữa hãy xếp dọn lại. Giờ chén một miếng đã rồi còn đi ra câu lạc bộ. Nào Pa- vơ-lu sa, ngồi xuống đây.

Ô cu-nhếp móc túi lấy con cá khô gói trong một tờ báo, lại móc túi kia lấy hai đầu mẩu bánh mì. Rồi trải luôn tờ báo ra góc bàn, cầm đầu con cá nện vào gỗ để cá róc hết thịt.

Ô-cu-nhếp ngồi vào bàn, hàm nhai nghiến ngấu. Rất vui, anh kể tin mới cho Pa-ven nghe, vừa nói chuyện đứng đắn, vừa chêm câu bông đùa.

Đến câu lạc bộ, Ô-cu-nhếp đưa Pa-ven vào cửa sau, giấu ở hậu trường. Trong góc phòng rộng thênh thang, Ta-li-a con cụ La-gu-chin và An-na Bô-khác đang ngồi mé bên phải sân khấu, cạnh chỗ đặt cây đàn dương cầm, chung quanh hai chị là nhóm thanh niên cộng sản đường sắt. Trước mặt An-na, ngồi vắt vẻo trên ghế dựa là Vô-lưn-xép, bí thư chi đoàn sở đầu máy, mặt đỏ chót như một quả táo đang mùa tháng Tám, mặc áo da cũ, trước kia màu đen, nay đã bạc phếch. Vô lưn-xép có tóc và lông mày vàng như lúa chín.

Ngồi cạnh Vô-lưn-xép là Svê-tai-ép, đẹp trai, tóc màu hạt dẻ, môi cong rõ nét, ngồi thơ thẩn dựa tay vào nắp dương cầm. Cổ áo khoác của Svê-tai-ép để hở.

Ô-cu-nhếp đến gần họ, còn nghe thấy An-na đang nói hết câu:

- Có những người cứ muốn làm rắc rối quá lắm việc kết nạp những đồng chí mới. Svê-tai-ép là một.

Svê-tai-ép không chịu, cãi lại, giọng khinh bạc ra mặt:

- Đoàn không phải là quán trọ.

Ta-li-a nhìn thấy Ô-cu-nhếp reo lên: - Kìa, trông Ô-cu-nhếp mà xem. Anh ấy hôm nay có vẻ phởn thế, mặt mày rạng rỡ như cái ấm đồng mới đánh bóng ấy.

Mấy người kéo Ô-cu-nhếp lại hỏi chuyện tới tấp:

- Cậu ở đâu đến thế ?

- Ta bắt đầu đi thôi chứ.

Ô-cu-nhếp giơ tay can họ.

- Đợi một tí các cậu ạ. Đồng chí Tô-ca-rếp sắp đến và sẽ khai mạc hội nghị.

- Vừa vặn bố già đến kia rồi! - An-na trông thấy Tô-ca-rếp, vội nói.

Đồng chí bí thư Đảng ủy quận đang đi về phía họ. Ô-cu-nhếp chạy ra đón:

- Bố ơi, bố vào đằng sau sân khấu, tôi đưa bố gặp một cậu quen bố. Chắc là bố sẽ ngạc nhiên!

- Cái gì nữa thế? - ông già lẩm bẩm, kéo nốt hơi thuốc lá nữa. Nhưng Ô-cu-nhếp đã nắm lấy tay ông cụ kéo đi rồi.

Ô-cu-nhếp lắc chuông dữ dội đến nỗi những người hay chuyện xấu thói nhất cũng phải tin.

Đằng sau Tô-ca-rếp là pho tượng Mác, người sáng tạo thiên tài ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, đầu Người như đầu con sư tử nổi lên trong đám cành thông trang trí. Trong khi Ô-cu-nhếp nói lý do buổi họp, đồng chí Tô-ca-rếp không rời mắt nhìn Pa-ven còn đứng ở hậu trường.

- Thưa các đồng chí, trước khi vào chương trình nghị sự, tôi xin giới thiệu một đồng chí muốn xin nói mấy lời với chi bộ. Đồng chí Tô-ca-rếp và tôi đã đồng ý để đồng chí ấy nói.

Tiếng vỗ tay đồng ý nổi lên. Ô-cu-nhếp giới thiệu:

- Xin mời đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nói chuyện!

Trong một trăm người có mặt, có đến tám mươi người biết Pa-ven. Và khi bóng dáng quen thuộc hiện ra trước diễn đàn và người thanh niên xanh xao, dong dỏng cao, bắt đầu nói thì những tiếng reo vui mừng và một tràng dài vỗ tay hoan hô như bão dậy chào anh.

- Các đồng chí thân mến!

Giọng Pa-ven từ tốn song không sao giấu nổi cảm động:

- Không ngờ hôm nay tôi được trở lại với các đồng chí, trở về vị trí của tôi trong đội ngũ của chúng ta. Tôi sung sướng lắm. Tôi được gặp lại ở đây rất nhiều bạn thân của tôi. Tôi ở nhà Ô-cu-nhếp được đọc báo cáo biết rằng: khu Xô-lô-men-ca ta có thêm một phần ba đoàn viên mới, những anh chị em mới của chúng ta; ở các xưởng và ở sở đầu máy thì bọn "chế tạo bật lửa” đã không còn nữa và ta đã lôi những đầu tàu vứt đi ngoài "nghĩa địa sắt” về chữa lại dùng. Tất cả điều đó chứng tỏ đất nước chúng ta đang sống lại và đang lấy lại sức. Như thế thì đời đáng sống lắm chứ! Giữa lúc thế này, hỏi tôi nhắm mắt mà chết làm sao được?

Đôi mắt Pa-ven long lanh nét cười sung sướng.

Khi Pa-ven đi xuống, lại ngồi gần An-na và Ta- li-a thì tiếng hoan hô nồng nhiệt cứ kéo dài tiễn theo anh mãi. Anh đưa tay ra bắt vội vàng hết người này đến người khác. Các bạn ngồi xít lại nhường chỗ cho anh. Bàn tay của Ta-li-a đặt lên bàn tay anh, nắm rất chặt, rất chặt.

An-na tròn mắt nhìn anh, hàng mi dài khẽ mấp máy, cái nhìn niềm nở có một cái gì đó sửng sốt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 20:17:07 | Chỉ xem của tác giả
Ngày qua ngày trôi đi. Không thể nào gọi là những ngày bình thường được. Mỗi ngày mang lại một cái gì mới. Sáng dậy, định chương trình làm việc hằng ngày, Pa-ven buồn rầu nhận thấy ngày có phần ngắn quá và công việc anh định làm, nhiều việc đến không xong mất.

Pa-ven trọ ở nhà Ô-cu-nhếp và làm chân phụ lắp máy điện ở xưởng.

Anh phải bàn cãi rất lâu với Ô-cu-nhếp: Ô-cu-nhếp nhất định không đồng ý để Pa-ven, dù tạm thời đi nữa, không tham gia công tác lãnh đạo.

- Chúng ta đang thiếu người mà cậu lại muốn thảnh thơi dưới xưởng. Cậu đừng viện bệnh cậu ra nữa. Mình đây mình cũng bị sốt thương hàn, vừa ốm dậy, mệt suốt một tháng trời, nhưng mình chống gậy đến quận đoàn làm việc. Mình biết tính cậu, chắc còn có lý do gì chính nữa, chứ chẳng phải tại bệnh đâu. - Và Ô- cu-nhếp hỏi dồn Pa-ven: - Thật thế nào, nói cho mình nghe đi.

- Cậu đoán không lầm: sự thật là mình muốn có thời giờ học thêm.

Ô-cu-nhếp đắc chí, nói oang oang:

- A, a!... Ra thế đấy! Cậu muốn học. Thế cậu cho mình là không muốn học hay sao? Như thế là ích kỷ, ông bạn già của tôi ạ! Nếu thế thì hóa ra chúng mình công tác như đẩy xe bò, còn cậu thì học. Không được, chú mình ạ. Ngay sáng mai, cậu phải đến ban tổ chức.

Song, bàn cãi hồi lâu. Ô-cu-nhếp cuối cùng đã phải nhân nhượng:

- Thôi được, mình để cậu yên trong hai tháng, không đụng đến. Cậu biết thế là mình tốt bụng đấy! Nhưng theo mình nghĩ, cậu có lẽ không ăn ý với Svê-tai-ép đâu: thằng cha ấy hợm mình quá lắm.

Pa-ven lại về xưởng. Svê-tai-ép lấy làm nghi ngại. Hắn đinh ninh cho là Pa-ven về xưởng thế nào cũng xảy ra tranh chấp về lãnh đạo với hắn. Vốn tự ái thành bệnh, hắn liền chuẩn bị đối phó. Nhưng, ngay những ngày đầu, hắn đã thấy ra ngay là hắn nghi ngại không đâu. Khi Pa-ven được tin anh em định cử mình vào thường vụ Đoàn thì anh thân đến ban bí thư ngay và viện cớ đã được Ô-cu-nhếp đồng ý, anh trình bày thì được anh em rút không đem vấn đề đó ra bàn nữa. Trong chi đoàn thành niên xưởng máy, Pa-ven phụ trách nhóm nghiên cứu chính trị, nhưng anh không muốn vào thường vụ. Tuy về tổ chức, anh đứng ngoài lãnh đạo, ảnh hưởng của anh vẫn thấy rõ trong mọi công tác. Với một thái độ thân ái và không để ai nhận thấy, anh đã giúp Svê-tai- ép nhiều phen thoát khỏi tình thế khó xử.

Một hôm, Svê-tai-ép vào đến xưởng, lấy làm lạ: toàn thể chi đoàn thanh niên cộng sản và chừng ba mươi anh chị em ngoài tổ chức đang lau cửa sổ, chùi máy móc, cọ ghét bụi đã cáu lại từ bao năm nay, dọn sắt vụn và các thứ rác bẩn linh tinh đổ ra sân. Pa- ven thì cầm một chiếc chổi gộc, hì hục kỳ cọ nền xi- măng bê bết dầu mỡ.

Svê-tai-ép sửng sốt hỏi Pa-ven:

- Lau chùi dọn dẹp để làm gì thế này?

Pa-ven trả lời vắn tắt:

- Bọn tôi không muốn làm việc trong ghét bụi cáu bẩn nữa. Ở đây đã hai mươi năm nay, chẳng lau chùi, dọn dẹp gì cả. Trong tám ngày, chúng tôi sẽ quét dọn sạch, làm cho xưởng ta mới lại.

Svê-tai-ép nhún vai bỏ đi.

Đám anh em thợ điện không những chỉ dọn xưởng mình làm mà còn động đến cả sân lớn nhà máy từ lâu đã trở thành chỗ đổ rác. Ở đây chẳng còn thiếu một thứ gì. Hằng trăm bộ trục các toa xe lửa, hàng núi sắt gỉ, nào đệm nối toa, nào đường ray, nào ổ bánh... hàng ngàn tấn sắt bỏ hủy, bỏ hoại ngoài trời. Nhưng đang tấn công vào đống rác lớn thì hành chính ngăn lại:

- Còn nhiều việc quan trọng hơn. Cái sân không dọn cũng chẳng chết ai, không vội gì.

Thấy hành chính nói vậy, anh em thợ điện đành chỉ lấy gạch lát bậc thang đi lên xưởng mình, rồi đặt lưới sắt để cọ giày thôi, không dọn ngoài sân nữa. Nhưng bên trong xưởng, mỗi tối, sau giờ làm, vẫn tiếp tục lau chùi. Được một tuần lễ, kỹ sư chính Stơ- ri có việc bước chân vào xưởng thấy xưởng tràn ngập ánh sáng. Những cửa sổ lớn có khung sắt, trước kia bị bụi lẫn với dầu ma-dút bám từ đời kiếp nào, giờ đã sạch trơn, làm thông được ánh mặt trời rọi vào buồng để máy, nắng ánh lên những bộ phận đồng bóng loáng của những máy nổ Đi-ê-den. Nhũng bộ máy thì sơn lại màu xanh; trên nan hoa các bánh xe, một bàn tay nắn nót lại còn vẽ cả những mũi tên màu vàng.

Kỹ sư Stơ-ri sửng sốt: - Hừ...

Ở góc cuối buồng máy, có mấy người đã xong việc. Stơ-ri lại đấy. Gặp Pa-ven đang cầm trong tay một hộp sắt tây đầy sơn, kỹ sư Stơ-ri gọi lại:

- Đồng chí dừng lại tôi hỏi. Tôi tán thành sáng kiến của các đồng chí. Song các đồng chí lấy đâu ra sơn này mà dùng thế ? Nhà máy đang thiếu sơn. Tôi đã cấm không ai được lấy sơn ra dùng nếu không có lệnh tôi. Để sơn những bộ phận đầu máy xe lửa cần hơn dùng vào việc các đồng chí làm.

- Đồng chí hỏi sơn này ở đâu? Chúng tôi bòn lấy ở những hộp sơn vứt đi ngoài đống rác. Cạo vét hai hôm được mười ki-lô. Thưa đồng chí, tất cả những việc chúng tôi làm đều đúng nguyên tắc.

Người kỹ sư lại "hừ" một cái nữa, lần này có vẻ bối rối thật.

- Nếu thế thì lẽ tất nhiên các đồng chí cứ sơn... Hừ... Quái thật. Tại sao bỗng dưng lại có cái lối tự mình làm tội mình để cho xưởng sạch thế này? Các đồng chí lau chùi quét dọn thế này ngoài giờ làm cả thì phải?

Pa-ven thấy trong giọng nói người kỹ sư có vẻ ngạc nhiên một cách thật thà.

- Phải. Đồng chí nghĩ thế nào?

- Được Nhưng...

- Không có tiếng "nhưng" nào đứng vững được, đồng chí Stơ-ri ạ. Ai bảo đồng chí là người bôn-sê- vích thấy ghét bẩn chất đống mà để yên được? Rồi đồng chí xem, chúng tôi sẽ mở rộng phong trào. Đồng chí chưa hết ngạc nhiên đâu.

Nói rồi, Pa-ven đi thẳng ra cửa, né tránh người kỹ sư để sơn khỏi quệt vào ông ta.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2012 20:52:28 | Chỉ xem của tác giả
Tối nào cũng vậy, Pa-ven ra ngồi đọc sách ngoài thư viện công cộng đến tận khuya. Anh chơi thân với ba người giữ sách và giở hết khoa tán ra, anh gạ được họ cho cái quyền mơ mãi mới được là tha hồ lục chọn sách. Pa-ven mang chiếc ghế cao đến bắc áp vào những ngăn tủ lớn đựng sách, rồi ngồi vắt vẻo trên đó hàng giờ, giở hết quyển này đến quyển khác, tìm những sách anh cần hay anh thích. Phần lớn là sách cũ. Chỉ có vẻn vẹn một số sách mới chứa trong chiếc tủ không lấy gì làm to lắm. Trong tủ ấy xếp lẫn lộn những sách của thời nội chiến, bộ Tư bản luận của Mác, cuốn Gót-sắt(Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn tiến bộ Mỹ Giắc Lơn đơn) và một số sách khác. Trong đám sách cũ, Pa-ven lục ra một cuốn tiểu thuyết nhan đề là Spác-ta-quýt-xơ(Một lãnh tụ nô lệ chống lại chủ nô thời đế quốc La Mã trước công lịch). Anh đọc ngốn cuốn sách đó trong hai đêm và đọc xong xếp nó vào tủ, bên cạnh những sách của Mác-xim Gooc-ki. Những sách anh thích, anh thường xếp lại với nhau như vậy.

Những người giữ sách thấy anh xếp lại như thế cũng mặc. Đối với họ, sách xếp thế nào chẳng được.


Tình hình của chi đoàn thanh niên cộng sản đang yên ắng đột nhiên náo động lên bởi một việc rắc rối, mới đầu cũng thường thôi. Cốt-sca Phi-đin là ủy viên thường vụ chi đoàn các xưởng trung tu, một anh chàng mũi tẹt, mặt sần sùi, dáng dấp chậm chạp; trong khi khoan một tấm sắt, anh ta đánh gãy một mũi khoan Mỹ, đắt tiền lắm. Nguyên nhân vì anh ta làm ẩu một cách quá quẩn. Tệ hơn thế nữa: anh ta gần như là cố ý làm ra như thế. Chuyện xảy ra vào buổi sáng. Đốc công Khô-đô-rốp bảo anh ta khoan tấm sắt. Lúc đầu anh ta từ chối. Nhưng vì Khô-đô-rốp nhất định bắt làm, nên anh ta phải cầm lấy tấm sắt đưa vào bàn máy và bắt đầu khoan. Khô-đô-rốp vốn khó tính, lại hay chấp nhặt, cả xưởng chẳng ai ưa. Ông ta trước kia là men-sê-vích, nay chẳng tham gia sinh hoạt tập thể gì cả, nhìn thanh niên cộng sản thì nhìn lệch lạc nhưng được cái thạo nghề ra trò và đối với công việc thì tận tuỵ. Thấy Cốt-sca khoan "khô", nghĩa là không cho dầu vào mũi khoan, Khô-đô-rốp đùng đùng chạy lại chỗ máy khoan, giữ tay Cốt-sca lại.

- Anh mù à? Hay anh mới trên trời rơi xuống? - Khô-đô-tốp hét váng lên, biết rõ là dùng như thế thì chỉ nháy mắt là mũi khoan đi đời mất thôi.

Nhưng Cốt-sca cự lại tay đốc công và cứ cho máy chạy. Khô-đô-rốp đi mách xưởng trưởng. Cốt-sca hãm máy, chạy đi lấy vịt dầu lại, để khi xưởng trưởng đến thì đã cho dầu đâu vào đấy rồi. Khi hắn trở về đến máy thì mũi khoan gãy tan tành. Xưởng trưởng viết giấy đề nghị đuổi Cốt-sca. Thường vụ chi đoàn bênh anh ta, lấy cớ là Khô-đô-rốp hay trù thanh niên. Chính quyền không chịu và việc ấy lại đem ra bàn trong ban thường vụ thanh niên toàn xưởng. Câu chuyện bắt đầu như vậy.

Năm ủy viên thường vụ thì ba chủ trương cảnh cáo Cốt-sca và đuổi anh đi công tác khác. Svê-tai-ép cũng trong số ấy. Hai người nữa giữ ý kiến là Cốt- sca không có lỗi gì hết.

Thường vụ họp trong buồng giấy Svê-tai-ép. Ở đây có một chiếc bàn lớn phủ vải đỏ, nhiều chiếc ghế dài và ghế đẩu do anh em thanh niên ban mộc đóng; trên tường có ảnh các vị lãnh tụ; sau bàn họp, lá cờ Đoàn thanh niên cộng sản phủ khắp chiều ngang bức tường.

Svê tai-ép, vốn nghề thợ rèn, thoát ly sản xuất làm cán bộ Đoàn. Nhờ có năng lực nên chỉ trong vòng bốn tháng vừa qua đã được đề bạt vào công tác lãnh đạo thanh niên. Hắn có chân trong thường vụ thanh niên quận và cả cấp ủy thanh niên tỉnh. Hắn trước làm thợ rèn ở nhà máy cơ khí, mới về đường sắt ít lâu nay. Ngay từ buổi đầu, hắn đã nắm chặt mọi quyền hành trong tay mình. Tự phụ và đã định là làm bằng được hắn đi ngay tới chỗ bóp chết sáng kiến của thanh niên, muốn thò tay vào mọi việc và vì hắn không thể làm lấy tất cả một mình, hắn đâm cáu với những người giúp việc, cho họ là ỳ ra không biết làm gì hết.

Cả đến trong phòng làm việc của hắn, hắn cũng tự đứng trông coi, bắt anh em sắp đặt theo ý kiến riêng của mình.

Svê-tai-ép chủ tọa buổi họp, ngả người trong chiếc ghế bành bọc da độc nhất mượn của góc đỏ (câu lạc bộ nhà máy) đem kê ở đây. Buổi họp này là một buổi họp kín. Khi đồng chí Khô-mu-tốp, bí thư chi bộ Đảng, đề nghị nói thì có tiếng người gõ vào cánh cửa đã cài then. Svê-tai- ép lấy làm phật ý, nhăn mặt lại. Vẫn tiếng gõ cửa. Nữ đồng chí Ca-chi-u-sa Dê-lê-nô-va đứng dậy mở cửa. Người gõ cửa là Pa-ven. Ca-chi-u-sa để anh vào.

Pa-ven đã đến một chiếc ghế đầu không có người ngồi. Svê-tai-ép gọi giật anh lại:

- Đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin, đây là một buổi họp riêng của thường vụ chúng tôi.

Má đỏ bừng, Pa-ven từ từ quay lại phía bàn:

- Tôi biết thường vụ họp kín. Song, quan tâm đến việc các đồng chí giải quyết vụ Cốt-sca như thế nào, tôi muốn nhân vụ này đề ra một vấn đề mới. Có phải đồng chí phản đối không muốn cho tôi dự họp không?

- Tôi không phản đối, nhưng chắc đồng chí hiểu rằng những buổi họp kín thế này, chỉ có các ủy viên thường vụ được họp thôi. Nhiều người quá, khó thảo luận. Thôi, đồng chí đã đến thì đồng chí cứ ngồi.

Lần đầu tiên Pa-ven bị nói như tát đốp vào mặt như thế. Mày anh nhíu lại, trán nhăn sâu.

Đồng chí Khô-mu-tốp càu nhàu, giọng nói có vẻ không bằng lòng Svê-tai-ép:

- Giở nguyên tắc ra với nhau làm quái gì mới được?

Nhưng Pa-ven giơ tay ra hiệu cho đồng chí Khô-mu-tốp đừng nói nữa và ngồi xuống ghế.

Đồng chí Khô-mu-tốp bắt đầu vào vấn đề:

- Đây là ý kiến tôi. Về phần Khô-đô-rốp, anh ta không hòa với anh em, có thế. Song, trong đoàn viên của ta, kỷ luật rất tồi. Nếu tất cả thanh niên cộng sản nhà ta đánh gãy hết mũi khoan thì ta lấy gì mà làm. Với lại làm như thế thì chẳng phải là gương tốt cho người ngoài Đảng! Tôi nghĩ rằng phải cảnh cáo Cốt-sca lần thứ nhất.

Svê tai-ép không để đồng chí bí thư chi bộ Đảng nói hết lời, phản đối ngay. Nghe Svê-tai-ép nói suốt mười phút đồng hồ, Pa-ven hiểu thái độ của thường vụ. Đến khi sắp sửa biểu quyết thì anh xin phát biểu. Svê-tai-ép cố kìm mình lại, để cho anh nói.

- Thưa các đồng chí, tôi xin trình bày ý kiến của tôi về Cốt-sca. - Giọng nói Pa-ven tuy anh không muốn gay gắt mà vẫn cứ gay gắt. - Vụ Cốt-sca này là một dấu hiệu đáng lo ngại. Nhưng vấn đề chủ yếu không phải chỉ có việc Cốt-sca. Hôm qua tôi lấy được mấy con số. - Pa-ven móc túi lấy sổ tay ra. - Những con số này, bộ phận điểm giờ cho tôi biết. Xin các đồng chí chú ý nghe cho: ngày nào cũng thế, hai mươi ba phần trăm thanh niên cộng sản vào làm việc chậm từ năm đến mười lăm phút. Đi làm chậm đã thành một cái lệ. Mười bảy phần trăm đoàn viên thanh niên nghỉ việc dứt khoát một hay hai ngày mỗi tháng, trong khi đó thanh niên ngoài Đoàn chuồn việc như thế có mười bốn phần trăm. Những con số quất vào đầu óc ta mạnh hơn cả rồi. Nhân tiện đây, tôi ghi được mấy số liệu nữa: trong các đảng viên, mỗi tháng có bốn phần trăm trốn việc một ngày và bốn phần trăm đi chậm. Thợ lớn tuổi ngoài Đảng mỗi tháng mười một phần trăm trốn việc một ngày và mười ba phần trăm đi chậm. Về làm hỏng máy móc dụng cụ thì chín mươi phần trăm do thợ trẻ, trong số đó chỉ có bảy phần trăm do thợ mới. Do đó, có thể kết luận là thanh niên chúng ta làm ăn rất là tồi so với đảng viên và thợ lớn tuổi. Nhưng tình hình không phải ban nào cũng như vậy. Tổ rèn rất tốt, đáng làm gương cho toàn nhà máy noi theo. Tổ điện cũng tạm được. Còn các tổ khác thì tình hình đại khái như trên tôi đã nói. Theo ý tôi, đồng chí Khô-mu-tốp nói rằng thanh niên kỷ luật rất tồi mới chỉ nói có một phần tư sự thật. Nhiệm vụ của chúng ta là phải uốn nắn những sự chuệch choạc ấy. Tôi nói ở đây không phải là tuyên truyền hay diễn thuyết mít-tinh, song thật là chúng ta phải đem hết nghị lực đấu tranh với cái tính làm ẩu và mặc sao hay vậy. Các bác thợ già thường bảo thẳng vào mặt chúng ta: xưa kia làm cho chủ còn tốt hơn thế, làm cho thằng tư bản có lương tâm nhà nghề hơn thế. Bây giờ ta làm chủ, ta không có lý do gì để tha thứ cho ta cả. Và kẻ có lỗi, không phải chỉ là Cốt- sca hay ai, mà trước hết là các đồng chí và tôi, bởi vì chúng ta đã chẳng đấu tranh cho ra trò để chống cái tệ đó mà đôi khi lại còn viện cớ này cớ khác bênh những tên như Cốt-sca nữa.

Vừa rồi, các đồng chí Xa-mô-khin và Bu-ti-li-ắc có nói rằng Cốt-sca Phi-đin là một người của ta. Nào anh ta là "trung kiên" như ta vẫn nói, nào là anh ta tích cực, tổ chức trao cho việc gì cũng làm tròn. Còn việc anh ta đánh gãy mũi khoan thì chẳng qua là chuyện không may. Ai mà chẳng có lúc đánh gãy thế! Hơn nữa anh ta lại là người mình, còn lão đốc công kia thì là người ngoài… Cái lối nói như vậy đấy. Thử hỏi, cho đến nay, nào có ai là người đi sát Khô-đô- rốp?... Ông già tủn mủn ấy có ba mươi năm làm nghề ! Hãy để tạm ra một bên, khoan nói đến thái độ chính trị của ông ta. Trong trường hợp này, ông ta phải, ông ta là người ngoài, nhưng ông ta đã gìn giữ của công. Còn chúng ta thì phá hoại dụng cụ mua của nước ngoài. Cái tội ấy là tội gì? Tôi thấy rằng phải trị ngay cú đầu tiên mới được, phải mở cuộc tấn công vào mặt ấy.

Tôi đề nghị như sau: Cốt-sca Phi-đin là kẻ lười nhác, làm ẩu, phá hoại sản xuất, phải khai trừ khỏi Đoàn. Đưa toàn bộ việc này lên báo tường và không sợ người ta bàn tán xôn xao, cứ công bố những con số tôi nói ở trên lên xã luận của báo tường. Chúng ta đủ mạnh để làm như thế, chúng ta có chỗ dựa để làm như thể. Đại đa số đoàn viên thanh niên là những người lao động tốt. Trong số đó, sáu người đoàn viên đã từng trải qua công tác ở Bai-a-rơ-ca, và đấy là trường đào luyện đáng tin cậy nhất. Có họ ủng hộ, có họ tham gia, chúng ta sẽ uốn thẳng được những cái chuệch choạc. Nhưng chúng ta phải bỏ hẳn cái lối nhìn, lối giải quyết việc hiện giờ của chúng ta đi.

Pa-ven thường trầm tĩnh và ít lời, lần này nói rất hăng và gay gắt. Lần đầu tiên, Svê-tai-ép nhìn ra đúng cái chất của người thợ điện ấy. Hắn hiểu là Pa- ven nói có lý, song chính lòng đố kỵ đã khiến hắn không đồng ý với Pa-ven. Hắn hiểu trệch lời tham luận của Pa-ven là phê bình đả kích toàn bộ tình hình tổ chức, là một sự xúc phạm đến uy tín cá nhân của bản thân hắn. Và hắn rắp tâm đánh gãy gục Pa- ven. Hắn bắt đầu chỉ trích lại bằng cách buộc Pa-ven là biện bạch cho tên men-sê-vích Khô-đô-rốp.

Tranh luận sôi nổi ròng rã ba tiếng đồng hồ. Đến khuya, hội nghị tổng kết các ý kiến. Svê-tai-ép bị cái lý cứng của những sự việc đánh bại và đa số không ủng hộ hắn nữa mà ngả về Pa-ven. Hắn đi tới một bước sai - vi phạm dân chủ nội bộ: trước khi biểu quyết lần cuối, hắn yêu cầu Pa-ven ra khỏi phòng họp.

- Được, tôi xin ra, tuy rằng đồng chí đuổi tôi ra thì đồng chí chẳng vẻ vang gì. Nhưng tôi xin nói trước cho đồng chí biết: nếu ở đây đồng chí bức được người ta theo ý kiến đồng chí thì mai họp toàn thể nhà máy, tôi sẽ xin phát biểu trong cuộc họp toàn thể đó, đồng chí sẽ không có đa số đâu, tôi tin như thế. Đồng chí sai rồi, đồng chí Svê-tai-ép ạ. Còn đồng chí Khô-mu- tốp tôi nghĩ đồng chí cần phải nêu vấn đề này lên trong tổ chức Đảng, trước phiên họp toàn thể nhà máy ngày mai.

Svê-tai-ép thét lên, giọng như thách thức:

- Anh tưởng dọa được tôi à? Không cần đến thứ anh dạy tôi con đường đấu tranh trong tổ chức đó. Trước tổ chức, tôi sẽ đem chính vấn đề anh ra để tổ chức xét. Anh đã không muốn mó tay vào làm gì thì đừng cản trở người khác làm.

Cửa phòng đóng lại, Pa-ven đưa tay lên trán nóng bỏng và đi qua một buồng giấy bỏ không ra phía cửa. Ra đến ngoài, anh thở căng lồng ngực. Rồi châm một điếu thuốc hút, đi về phía túp nhà nhỏ trên đồi Ba- ti-ép chỗ ở của cụ Tô-ca-rếp.

Pa-ven bước vào nhà Tô-ca-rếp thì người thợ lắp máy ấy đang ăn tối.

- Có chuyện gì thế ? Kể đi, chú. - Lão đồng chí Tô- ca-rếp kéo Pa-ven ngồi vào bàn, nói với vợ - Bà Đa- ri-a nó ơi, bà mày dọn cả cho chú ấy ăn với.

Vợ đồng chí, bà Đa-ri-a Phô-mi-nít-sơ-na, to lớn và béo khỏe trái hẳn chồng, bưng đến cho Pa-ven một đĩa xúp kê, và lấy khăn ăn trắng chùi môi ướt, bà ân cần mời Pa-ven:

- Ăn đi, chú.

Trước kia, khi đồng chí Tô-ca-rếp còn làm ở xưởng, Pa-ven hay đến chơi khuya với đồng chí, song từ ngày ốm khỏi ra tỉnh đến nay, lần này là lần đầu tiên anh đến tìm đồng chí già.

Người thợ lắp máy chăm chú nghe anh. Không nói gì thêm, ông cụ đưa thìa xúc mạnh vào đĩa, miệng "hèm, hèm" ra vẻ nghe thủng câu chuyện.

Ăn xong đĩa xúp, ông cụ lấy khăn tay lau bộ ria, rồi húng hắng ho rặn ra cho giọng nói đỡ khàn.

- Lẽ tất nhiên chú nói có lý. Đáng lẽ chúng ta phải thật sự đề thẳng vấn đề ấy ra từ sớm. Các xưởng của nhà máy xe lửa là cơ sở chủ chốt trong quận này. Phải bắt đầu từ đấy. Nhưng do việc này, chú va chạm mạnh với Svê-tai-ép phải không? Như thế thì không tốt. Tính cậu ta khó bảo lắm. Song công tác thanh vận thì chú biết làm cơ mà? Nhân tiện hỏi chú, giờ chú công tác gì trong tổ chức bên xưởng máy.

- Cháu công tác ở bộ phận chuyên môn của cháu. Nói chung thì hoạt động mỗi chỗ một tí. Trong chi đoàn, cháu lãnh đạo một nhóm nghiên cứu chính trị.

- Thế chú làm gì ở thường vụ Đoàn.

Pa-ven bối rối.

- Cháu mới về, người còn yếu, lại muốn để thời giờ học tập một chút, cháu không chính thức tham gia lãnh đạo.

- Ấy, ấy thế đấy! - Cụ Tô-ca-rếp cao giọng nói, không tán thành ý kiến Pa-ven. - Chú hiểu rằng chú chỉ viện được cái cớ sức yếu nên tôi không chỉnh chú mà thôi. Nhưng bây giờ sức khỏe khá hơn rồi chứ?

- Vâng.

- Nếu thế thì phải nhận lấy công tác đi, mà nhận thật sự. Không nên giữ kẽ làm gì. Chú xem có ở đâu đứng ở ngoài rìa mà làm được việc nên hồn? Ai cũng có thể bảo chú là trốn tránh trách nhiệm và chú không nói lại thế nào được. Ngay từ mai phải sửa chỗ sai đó đi. Còn cậu Ô-cu-nhếp, tôi phải khép cậu ta vào khuôn phép mới được.

Cụ Tô-ca-rếp kết luận như thế, giọng lộ ra vẻ phật ý.

- Xin bố đừng phê bình Ô-cu-nhếp. Chính cháu nằn nì cậu ấy đừng giao công tác gì cho cháu bây giờ.

Cụ Tô-ca-rếp xì một tiếng chế nhạo:

- Chú nằn nì và nó chịu chú? Các chú thanh niên cộng sản mà như thế? Thôi, lần này bỏ qua cho các chú. Chú cầm báo đọc cho lão nghe như trước kia đi . Mắt lão kém lắm rồi.

Thường vụ Đảng ủy đồng ý với ý kiến của đa số trong thường vụ Đoàn. Một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn đề ra với tổ chức của Đảng và của Đoàn, đảng viên và đoàn viên phải lấy việc làm của mình nêu gương chấp hành kỷ luật lao động. Trong buổi họp của thường vụ. Svê-tai-ép bị phê bình kịch liệt. Mới đầu hắn nổi tự ái cãi lại, song bị lời phát biểu của đồng chí bí thư Lô-pa-khin, một người đứng tuổi, mặt tái vì lao, dồn vào chỗ bí, hắn đành phải nhượng bộ và nhận một phần sai lầm của mình.

Ngày hôm sau, báo tường các nhà máy đăng những bài làm cho công nhân hết sức chú ý. Người ta đọc to các bài báo đó lên và thảo luận sôi nổi. Buổi tối, họp Đoàn, đông khác hẳn mọi khi, người ta chỉ nói toàn về những bài báo đó thôi.

Cốt-sca bị khai trừ, và Pa-ven được cử vào thường vụ Đoàn, phụ trách công tác chính trị.

Mọi người nghe Nhê-giơ-đa-nốp nói, yên lặng và chăm chú một cách khác thường. Diễn giả nói về những nhiệm vụ mới, về giai đoạn phấn đấu mới mà các xưởng nhà máy xe lửa phải vượt qua.

Họp xong, Pa-ven ra ngoài đứng đợi Svê-tai-ép. Anh đón gặp người bí thư Đoàn:

- Chúng ta cùng đi về đi, hai chúng mình có chuyện phải nói với nhau.

Svê-tai-ép hỏi lại, giọng khản đi.

- Chuyện gì mới được?

Pa-ven khoác tay Svê-tai-ép, đi vài bước, rồi dừng lại trước một tấm ghế dài.

- Chúng mình ngồi đây một chốc.

Và anh ngồi xuống trước.

Lửa ở đầu điếu thuốc trong tay Svê-tai-ép khi sáng đỏ khi tắt dụi.

- Svê-tai-ép này, tại sao cậu cứ mâu thuẫn với mình?

Mấy phút im lặng.

- Chuyện có thế thôi ư? Thế mà mình cứ tưởng cậu có chuyện công tác muốn nói với mình.

Giọng Svê-tai-ép không bình thường. Hắn làm bộ ngạc nhiên.

Pa-ven quả quyết đặt tay lên đầu gối Svê-tai-ép, gọi hắn bằng tên thân:

- Đim-ca, cậu đừng đánh trống lảng. Cái lối ấy chỉ tốt với những nhà ngoại giao thôi. Cậu bảo thẳng cho tớ biết: vì sao cậu không ưa tớ?

Svê tai-ép cử động có vẻ bực tức:

- Cậu có gì mà lôi thôi với tớ thế? Mâu thuẫn gì? Chính tớ đã đề nghị cậu tham gia lãnh đạo. Cậu từ chối và bây giờ lại làm như là tớ cho cậu ra rìa.

Giọng nói của hắn không thật. Pa-ven, tay không rời đầu gối bạn, run run nói:

- Cậu không muốn nói thật thì tớ nói toạc ra vậy. Cậu tưởng mình muốn ngáng đường cậu. Cậu tưởng mình mơ ước cái chức bí thư của cậu. Nếu không phải thế thì chẳng đến nỗi nào có chuyện to tiếng vì cái vụ Cốt-sca. Cách đối xử với nhau như vậy hại đến mọi công việc. Nếu chỉ là hai thằng khó chịu với nhau thì chẳng quan hệ gì lắm. Cậu muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Nhưng từ mai, hai chúng mình sẽ làm việc với nhau rồi. Nếu cứ hục hặc như thế thì công việc sẽ ra sao? Cậu hãy nghe tớ nói, không có gì chia rẽ chúng ta hết. Cậu cũng như tớ là con nhà công nhân. Nếu cậu cho sự nghiệp chung là quý báu hơn cả thì cậu bắt tay tớ và ngày mai chúng mình sẽ bắt đầu thân thiết làm việc với nhau. Song nếu cậu không bỏ những tính khí ấy đi, nếu cậu cứ luẩn quẩn với những chuyện đôi co bần tiện, thì mỗi va chạm xảy ra trong công tác chỉ tổ làm cho hai chúng mình chống nhau kịch liệt. Tay tớ đây, nếu cậu cho tay tớ còn là tay đồng chí thì cậu bắt tay tớ.

Lòng vui sướng, Pa-ven cảm thấy những ngón tay gân guốc của Svê-tai-ép nằm trong lòng bàn tay của mình.

Một tuần qua. Ở trụ sở Đảng ủy quận, đã hết giờ làm việc. Trong phòng của các ban đã im lặng, không một tiếng động. Nhưng đồng chí Tô-ca-rếp vẫn chưa rời cơ quan. Ngồi trong ghế bành đồng chí mải miết đọc tài liệu mới gửi đến. Có tiếng gõ cửa.

- Cứ vào.

Pa-ven vào đặt trước mặt đồng chí bí thư hai bản khai đã ghi đầy đủ.

- Cái gì thế chú?

- Bố ơi, cháu nộp giấy tờ này để xin nhận trách nhiệm với Đảng. Cháu nghĩ là đã đến lúc. Nếu bố đồng ý, đề nghị bố đảm bảo cho đơn xin gia nhập Đảng của cháu.

Cụ Tô-ca-rếp đọc qua, rồi nhìn người thanh niên trong mấy giây và không nói gì, cầm lấy bút. Trên cột ghi tuổi đảng của những đảng viên giới thiệu đồng chí Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê-ê-vích được làm đảng viên dự bị Đảng cộng sản (bôn-sê-vích) Nga, đồng chí Tô-ca-rếp đưa tay vũng chắc viết lên: "Vào Đảng từ 1903” và bên cạnh hạ một chữ ký chân phương.

- Ký rồi đây, chú mày. Tôi biết chú không bao giờ làm nhơ mái tóc bạc của lão.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách