Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: khoanhkhac_cb88
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Thép Đã Tôi Thế Đấy | Nhicalai Axtơrốpxki

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 26-3-2012 10:38:08 | Chỉ xem của tác giả
Đầu tàu xe lửa giận dữ phì phì chuyển mình, bắn tung tóe như mưa những tia lửa sáng, vừa thở hồng hộc, vừa lướt trên đường ray, lao nhanh như xoáy vào khoảng đêm dày đặc. A-rơ-chom đổ đầy than vào lò, lấy chân đá cửa lò sập lại, với cái ấm ngắn vòi ở ngăn tủ, tu một ngụm nước, rồi quay ra hỏi người thợ máy già Pô-len-tốp-ski:

- Ta đành chở chúng nó đi sao, bố già?

Người thợ già tức tối chớp chớp đôi mắt dưới nếp lông mày rũ xuống:

- Bị gí lưỡi lê vào lưng, không chở chúng nó đi cũng không được.

Bơ-ru-giắc vừa liếc mắt nhìn về phía tên lính Đức ngồi gác ở toa than, vừa đề nghị:

- Bỏ cả đấy rồi chuồn khỏi xe là hơn cả.

A-rơ-chom lẩm bẩm: - Tôi cũng nghĩ thế, song kia kìa còn thằng chó Đức đằng sau lưng.

Bơ-ru-giắc ló đầu ra cửa sổ, giọng kéo dài: - Ừ..

Pô-len-tốp-ski lại gần A-rơ-chom thì thầm:

- Ta không thể nào chở chúng đi được, chú hiểu chứ? Đang đánh nhau ngoài ấy, du kích đã phá đường. Mà ta nỡ nào lại dẫn lũ chó này trong chốc lát đến thịt anh em. Chú phải biết, ngay thời còn Nga hoàng, tôi cũng không bao giờ chịu chở lính đến trong khi anh em ta bãi công. Huống chi là ngày nay, ngần này tuổi đầu, tôi lại đi làm việc ấy. Chở quân chúng nó đi đàn áp anh em mình là một cái nhục mang suốt đời, đến chết chưa hết nhục. Kíp thợ máy trước đã bỏ chạy được. Họ liều mạng thật, nhưng họ vẫn cứ chạy đấy. Chúng ta còn mặt mũi nào mà chở chuyến xe này đi được, chú mày nghĩ sao?

- Đồng ý với bố già lắm, song còn thằng chó chết kia thì bố tính thế nào? - A-rơ-chom đưa mắt chỉ tên lính Đức.

Ông lão thợ máy cau mày lấy khăn thấm mồ hôi trán, cặp mắt nẩy lửa nhìn chằm chặp vào chiếc ma- nô-mét(áp kế, một thứ máy đo sức đẩy của hơi trong đầu máy xe lửa) như hy vọng tìm ra lối thoạt trước cảnh bí đang giày vò mình. Nghĩ mãi không ra, người thợ già thất vọng phát bẳn, văng ra một câu chửi rủa.

A-rơ-chom lại vớ lấy ấm nước tu. Cả hai người cùng nghĩ như nhau, song không ai dám ngỏ ý trước. A- rơ-chom bỗng nhớ đến câu mà Giu-khơ-rai đã có lần hỏi anh: "Anh thấy Đảng bôn-sê-vích và tư tưởng cộng sản thế nào?"

Và A-rơ-chom đã trả lời câu hỏi ấy: "Tôi lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. Anh có thể tin ở tôi...".

"Và bây giờ cách ta đang giúp mới quý chứ ! Ta chở bọn Đức đi đàn áp anh em...".

Pô-len-tốp-ski cúi xuống hòm dụng cụ, ghé sát vào A-rơ-chom dằn từng tiếng:

- Thằng gác kia, phải tiêu nó, chú hiểu không?

A-rơ-chom rùng mình. Pô-len-tốp-ski nghiến răng nói thêm:

- Không có cách nào khác. Đập chết nói đi, vứt máy điều hơi và các dụng cụ vào lò, hãm xe chạy chậm và nhảy xuống chuồn.

Như cất được gánh nặng khỏi vai, A-rơ-chom nói: - Được.

A-rơ-chom ghé sát vào Bơ-ru-giắc và cho biết quyết định ấy.

Bơ-ru-giắc không trả lời ngay. Người nào cũng đang đứng trước một mối nguy lớn. Cả ba đều có gia đình ở nhà. Gia đình ông già Pô-len-tốp-ski lại đông người: vợ con cả thảy chín nhân mạng. Song cả ba đều hiểu rằng không thể nào chở chúng nó đi được.

Bơ-ru-giắc nói: - Còn gì nữa! Tôi đồng ý. Nhưng trong ba chúng ta, người nào sẽ...

Bơ-ru-giắc không dám nói hết câu, nhưng A-rơ- chom thoáng nghe đã hiểu ngay.

A-rơ-chom quay lại phía ông già đang loay hoay bên cái máy điều hơi, gật đầu ra hiệu như muốn báo .tin Bơ-ru-giắc cũng cùng ý kiến đó; nhưng, ngay lúc ấy, lòng bứt rứt vì một vấn đề chưa giải quyết, anh nhích lại gần ông già Pô-len-tốp-ski:

- Bây giờ ta làm thế nào hở cụ?

Cụ Pô-len-tốp-ski nhìn A-rơ-chom:

- Chú khởi sự đi, chú khỏe nhất trong bọn. Cầm lấy xà beng gõ vào sọ nó, cắc một cái là xong thôi.

Ông cụ không giấu nổi được hồi hộp.

A- rơ-chom cau mày: - Cháu không làm được đâu, cụ ạ. Tay cháu nó sẽ không làm sao mà nhấc lên được đâu. Nghĩ cho cùng thì thằng lính này cũng chẳng có tội tình gì. Cả nó nữa cũng chỉ vì lưỡi lê gí vào sau lưng mà phải đi thôi.

Mắt ông già long lên trong bóng tối:

- Chú bảo nó không có tội? Thế thì chúng ta lái chuyến xe này cũng có phải lỗi ở chúng ta đâu. Chúng ta cũng chỉ vì bị nó bức mà phải lái xe ở đây thôi. Chúng ta chở bọn đi đàn áp. Và nói như chú, bọn ấy cũng vô tội tất và bọn vô tội ấy sẽ đi bắn xả vào anh em du kích. Thế ra anh em du kích mình là những kẻ có tội đấy chắc? Chú to xác mà bụng dạ y như bụng dạ chim sẻ. Trông chú ai chả bảo chú khỏe như gấu, thế mà chẳng có gan làm, anh em cậy ở chú...

- "Được. - A-rơ-chom nói khàn khàn và tay cầm lấy xà beng. Nhưng Pô-len-tốp-ski đã rỉ tai: "Không, để xà beng cho tôi. Tôi dùng chắc hơn. Chú cầm cái xẻng rồi leo lên xúc than ở toa hắt xuống. Lúc cần đến thì cho tên lính Đức một nhát xẻng. Còn tôi cầm xà beng thì giả tảng như đi đập những cục than to vậy”.

Bơ-ru-giắc gật đầu: - Cụ nói phải - Rồi bác ta ra đứng trước cái máy điều hơi.

Tên lính Đức đội mũ chào mào dạ chóp đỏ, đang ngồi ở mép toa than phì phèo hút thuốc lá, súng kẹp vào đầu gối, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn những người thợ đang loay hoay trên đầu tàu.

Khi A-rơ-chom đã trèo lên xúc than, tên lính gác cũng chẳng để ý gì cả. Đến lúc ông già Pô-len-tốp- ski giả đò lấy xà beng hất những tảng than to ở thành toa vào trong, ra hiệu bảo hắn lùi lại, hắn ngoan ngoãn lùi xuống, nép mình vào cửa buồng thợ máy để cho ông già rộng chỗ làm.

Tiếng xà beng choang vào sọ tên Đức đánh cắc một cái, nghe khô và gọn, làm A-rơ-chom và Bơ-ru- giắc giật thót mình như người phải bỏng. Xác tên giặc đổ vật ra lối đi như một bao than.

Chiếc mũ chào mào màu dạ xám chẳng mấy chốc hoen đẫm máu đỏ. Đầu súng đánh vào thành toa kêu đến choang một tiếng.

- Thôi, thế là xong. - ông già Pô-len-tốp-ski ném cái xà beng xuống, miệng lẩm bẩm thế, người rung lên, ông nói thêm: - Bây giờ chúng ta không thể lái lùi lại được nữa.

Giọng ông cụ vỡ ra, nhưng để phá tan cái im lặng quá nặng nề trùm lên mọi người, ông liền kêu to lên:

- Thôi, tháo máy điều hơi đi. Tháo đi! Nhanh tay lên !

Mười phút sau, mọi việc xong xuôi, con tàu không lái chạy chậm dần.

Những bóng đen cây cối bên đường đang hiện lên sừng sững trong khoảng sáng của ánh đèn tàu bỗng nhiên chìm nghỉm trong bóng đêm mù mịt. Đèn pha ở đầu tàu cố rọi vào bóng tối song chỉ còn loe ra được vài thước chung quanh. Con tàu như đã kiệt sức, trút hơi thở tàn, mỗi lúc một chậm lại.

"Nhảy xuống đi chứ!" Tiếng ông già Pô-len-tốp-ski vang lên đằng sau A-rơ-chom. Anh buông tay vịn. Thân hình to lớn của anh văng ra phía trước. Chân chạm đất và mặt đất như chuội bắn đi. Anh theo đà còn loạng choạng chạy thêm hai bước, rồi ngã lăn kềnh ra đất.

Hai bóng người nữa từ hai bậc nhảy xuống, lướt theo sau anh.

Cảnh nhà Bơ-ru-giắc không được vui. Bác Bơ-ru- giắc gái, mẹ Xê-ri-ô-gia những lo mà rạc người đi vì bốn hôm nay, không nhận được tin gì của bác trai. Bác chỉ biết chồng mình bị Đức bắt đi làm kíp xe với anh A-rơ-chom và cụ Pô-len-tốp-ski. Hôm qua lại có ba thằng cảnh binh nguy đến sừng sộ nạt hỏi và chửi rủa. Thấy thế, bác lo lắng, mang máng đoán chắc có chuyện gì chẳng lành đây. Sốt ruột quá, bọn vệ binh vừa đi khỏi, bác lấy khăn choàng đầu sang bên nhà bà cụ đẻ ra A-rơ-chom may ra hỏi thăm được tin tức gì về chồng mình.

Va-li-a đang dọn dẹp dưới bếp, thấy mẹ sắp đi, hỏi mẹ: - U đi đâu có xa không, u?

Mắt bác đỏ hoe, giàn giụa, nhìn con gái lớn, trả lời:

- U sang nhà bà cụ Ca-rơ-sa-ghin. May ra có tin gì của thầy. Hễ thằng Xéc-gây về, bảo nó đảo qua nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski hỏi thăm xem.

Va-li-a hai tay trìu mến ôm lấy mẹ, tiễn ra cửa, lựa lời an ủi: - U đừng lo, u ạ!

Bà cụ Ca-rơ-sa-ghin bao giờ thấy bác Bơ-ru-giắc gái sang chơi cũng tiếp rất mặn mà. Cả hai bà đều tưởng người nọ hỏi thăm người kia được tin tức mới, nhưng qua mấy câu vào chuyện, cả hai cùng thất vọng như nhau.

Đêm qua, nó cũng khám nhà Ca-rơ-sa-ghin. Chúng sục tìm A-rơ-chom. Khi bỏ đi, chúng còn ra lệnh cho bà cụ Ca-rơ-sa-ghin hễ thấy con về phải lên đồn báo ngay.

Bà cụ lấy làm lo sợ việc bọn lính tuần cảnh nguy đến sục ban đêm như thế. Lúc ấy, chỉ có một mình bà ở nhà. Pa-ven làm ca đêm ở sở điện.

Sáng hôm sau, Pa-ven về nhà rất sớm. Khi nghe mẹ kể chuyện đêm qua cảnh binh đến khám và sục tìm A-rơ-chom, Pa-ven hết sức lo ngại cho số phận anh A-rơ-chom. Tuy tính tình hai người khác nhau, A-rơ-chom bề ngoài lại hay bốp chát, song hai anh em yêu quý nhau lắm. Quý nhau một cách nghiêm khắc, không mơn trớn mà cũng chẳng cắn nói ra lộ liễu và Pa-ven tự mình thấy rõ nếu anh cần đến thì có phải hy sinh thế nào cũng không quản, không do dự.

Không nghỉ một phút, Pa-ven chạy ngay ra sở đầu máy xe lửa, tìm Giu-khơ-rai, song không thấy anh đâu cả. Những anh em thợ Pa-ven quen cũng không biết tin gì về ba người. Nhà Pô-len-tốp-ski cũng tuyệt không biết tin gì về ông cụ. Pa-ven chạy sang nhà ông cụ, đến sân gặp ngay người con trai út là Bô-rít cho biết nhà anh ta cũng bị khám. Nó sục tìm cụ Pô-len-tốp-ski.

Pa-ven trở về nhà với mẹ, không được mảy may tin tức gì cả. Người mệt mỏi, anh uể oải nhoài xuống giường và chốc lát đã ngủ thiếp đi giấc ngủ chập chờn, thấp tha, thấp thỏm.

Có tiếng gõ cửa, Va-li-a quay ra hỏi: "Ai đấy?" và nâng then cài.

Cửa mở, Cơ-lim-ca Mác-chen-cô thò cái đầu bù tóc đỏ hung vào. Mặt đỏ bừng, hơi thở hổn hển, chắc là vừa chạy rất nhanh lại đây.

- Bà cụ có nhà không?

- Không, vừa đi xong.

- Đi đâu có biết không?

- Sang nhà bà cụ Ca-rơ-sa-ghin thì phải.

Cơ-lim-ca chực quay chạy đi, thì Va-li-a níu tay áo giữ lại.

Cơ-lim-ca nhìn Va-li-a, vẻ do dự: - À, tôi tìm bà cụ có tí việc.

- Việc gì thế, anh? - Va-li-a lắc tay Cơ-lim-ca hỏi gặng. - Nói đi mau lên, con gấu con lông đỏ hung nói đi, không em sốt ruột lắm rồi. - Giọng Va-li-a nói như ra lệnh.

Cơ lim-ca liền quên mất lời dặn đi dặn lại của Giu- khơ-rai đã bảo cậu nhất thiết phải đưa thư này đến tận tay bác Bơ-ru-giắc gái và tuyệt đối giữ bí mật. Cậu ta thò ngay vào túi móc ra một mảnh giấy dầu mỡ lem luốc chìa cho Va-li-a. Đối với cô bé tóc vàng em gái Xéc-gây này, Cơ-lim-ca không thể từ chối một điều gì vì có bao giờ cậu ta hoàn toàn xác định được tình cảm của mình đối với cô bé rất kháu ấy đâu. Nói thật ra thì cậu bé phụ bếp vốn tính khiêm tốn, không rỉ răng nói với ai là mình mến Va-li-a, ngay đối với bản thân, cậu cũng không dám thú thật điều đó.

Va-li-a đưa mắt đọc bức thư ngắn:

"Nhà, nhà đừng lo. Đây bình yên cả. Chúng tôi vẫn còn sống, vẫn yên ổn. Sau sẽ biết rõ đầu đuôi. Nói cho bà con yên tâm. Xem xong hủy ngay.
BƠ-RU-GIẮC"

Đọc xong thư, Va-li-a bổ đến bên Cơ-lim-ca:

- Gấu con lông đỏ của em, anh lấy thư này ở đâu ra thế anh, anh bảo cho em biết với? Anh nói đi anh, ai đưa cho anh bức thư này.

Va-li-a lắc người cậu ta rất mạnh. Và cậu bé khốn khổ, đang say như điếu đổ không sao cưỡng được, lại phạm khuyết điểm lần thứ hai:

- Anh Giu-khơ-rai đưa cho tôi ở ngoài ga.

Song lại nhớ ra không được nói, cậu ta nói vớt lại:

- Nhưng anh ấy bảo phải giữ bí mật, không được đưa mảnh giấy cho bất cứ người nào khác.

Va-li-a cười đáp:

- Được được em không nói lộ với ai đâu. Giờ thì anh chạy sang nhà Pa-ven tìm mẹ em bên ấy. - Rồi cô lấy tay khẽ đẩy vào lưng Cơ-lim-ca.

Nháy mắt đã thấy cái đầu tóc hung của Cơ-lim- ca thoáng biến sau cổng hàng rào.

Ba người thợ vẫn chưa ai về cả. Buổi tối Giu-khơ- rai đến chơi nhà Ca-rơ-sa-ghin kể cho bà cụ nghe tất cả câu chuyện xảy ra trên chuyến xe lửa. Bà cụ hoảng sợ, Giu-khơ-rai hết lời khuyên giải, nói rằng ba người giờ tạm lánh ở một vùng quê xa, ở nhờ nhà chú ruột Bơ-ru-giắc, yên ổn lắm. Bây giờ về ngay không lợi, song không lâu lắm đâu, vì quân Đức đang bị nguy khốn to rồi, tình hình sẽ biến chuyển.

Việc xảy ra làm cho ba gia đình đã thân càng thêm thân. Họa hoằn có thư gửi về, cả ba nhà cùng vui mừng đọc. Song nhà nào nhà ấy, vì vắng người lớn, ngày càng thấy tẻ lạnh và im lìm.

Một hôm, ra vẻ như bất chợt rẽ vào thăm nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski, Giu-khơ-rai đưa tiền cho bà cụ:

- Bà mẹ ạ, ông cụ gửi về đây, nhưng bà mẹ đừng nói hở với ai nhé!

Bà lão cảm kích nắm lấy tay Giu-khơ-rai:

- Cảm ơn bác lắm! Ông nhà tôi bị nạn, nhà cửa túng quá. Không còn đồng nào đong gạo cho các cháu ăn nữa.

Sự thật, tiền ấy lấy ở số tiền quỹ hoạt động do Bun-ga-cốp để lại.

Trên đường từ nhà bà cụ Pô-len-tốp-ski về sở đầu máy xe lửa, Giu-khơ-rai vừa bước vừa suy nghĩ, lòng những cảm phục:

"Được được. Ta thử xem rồi sẽ ra sao. Bãi công tuy đã thất bại, anh em công nhân bị chúng dọa bắn, tuy đành phải chịu vào làm, song ngọn lửa đấu tranh đã nhóm lên, chúng không thể nào dập tắt được nữa. Còn như cánh ba người kia thì thật là can đảm, thật cừ. Đúng con nhà vô sản".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 26-3-2012 19:29:56 | Chỉ xem của tác giả
Ba người thợ lánh nạn ở một khu cách biệt bên ngoài làng Vô-rô-bi-ô-va, trong một lò rèn cũ nhỏ bé, vách ám khói quay lưng ra đường cái. Cụ Pô-len-tốp- ski đang đứng trước cửa lò lửa bốc phần phật. Ánh lửa chói lòa làm mắt cụ nheo lại. Tay cụ cầm cái kìm dài, lật đi lật lại cục sắt đã nung đỏ.

A-rơ-chom đang thụt cái bễ thổi lửa treo vào xà ngang.

Pô-len-tốp-ski cười hiền lành, rung rung bộ râu. Người thợ máy già nói:

- Thời buổi này, tay thợ về vùng quê chẳng chết đói đâu. Lúc nào cũng có việc làm, muốn việc là có ngay. Đấy, cứ làm ở đây lấy một hai tuần nữa xem, có gạo thịt gửi về cho trẻ mỏ ở nhà chứ chẳng chơi. Chú thấy đấy, ở nông thôn, họ quý thợ rèn lắm. Cánh ta ở đây ăn thật chẳng khác gì tư sản, chẳng mấy chốc sườn nung núc mỡ cho mà xem. - Cụ cười hì hì, rồi tiếp: - Còn bác Bơ-ru-giắc thì xem chừng lại càng gắn chặt với bà con nông dân lắm. Tay ấy đã cắm chặt vào đất nhà ông chú ruột rồi. Mà thế cũng phải, chỉ có lão đây và chú mày là không có lấy tấc đất cắm dùi, chúng mình chỉ độc có lưng trần với hai bàn tay trắng, thật đúng như người ta nói là vô sản mạt đời, hì hì. Chứ bác Bơ-ru-giắc thì người bác chia làm đôi: một chân đứng trên đầu máy xe lửa, còn chân kia thì lại đứng ở nông thôn. - Lấy kìm đụng vào cục sắt cháy đỏ, giọng trở nên nghiêm nghị; ông cụ trầm ngâm nói thêm: - Nói thật chứ, cảnh chúng ta nguy lắm đấy chú ạ! Bọn Đức không cuốn gói đi sớm thì cánh mình phải lo chuồn trước sang vừng Ê-ca-chi- ri-nô-sláp hay sang Rô-stốp đi thôi, kẻo chúng nó tóm được thì sẽ bị treo cổ, đầu không tới trời, chân không tới đất mất, chắc chắn là như thế.

A-rơ-chom lẩm bẩm: - Cháu cũng nghĩ thế bố già ạ.

- Không biết nhà chúng mình ra sao? Chắc là người nhà bị bọn ngụy đến làm rầy rà lắm đấy?

- Chứ sao nữa bố già! Ta đã mó tay vào việc thì đành bỏ mặc nhà cửa thôi.

Cụ Pô-len-tốp-ski rút trong lò ra cục sắt nungđã xanh biếc và nhanh tay đặt lên đe.

- Chú mày đập đi.

A-rơ-chom vớ lấy chiếc búa tạ dựng bên đe, vung mạnh quá đầu rồi quai xuống. Tia lửa rào rào bắn tung tóe, làm những xó tối lò rèn bỗng lóe sáng lên trong chốc lát.

Cụ già lật đi lật lại cục sắt cháy đỏ chìa cho A-rơ-chom nện búa. Miếng sắt ngoan ngoãn dẹt mỏng ra như cục sáp ong mềm.

Đêm tối đưa hơi gió ấm vào cổng mở toang cửa lò rèn.


Mặt hồ bao la thăm thẳm. Rặng thông cuốn lấy quanh hồ, ngọn thông đường bệ lắc lư, gật gù trước gió.

Nhìn thông, Tô-nhi-a nghĩ thầm: "Y như những người thật". Cô ngả mình trên khoảng cỏ xanh, giữa bờ sỏi đá. Trên cao là rừng thông già trấn ngự, phía dưới, ở chân mỏm đá dốc đâm dọc thẳng xuống nước là mặt hồ. Bóng đá in thêm màu sẫm lên mặt nước ven bờ thăm thẳm.

Đây là nơi Tô-nhi-a ưa đến ngồi chơi. Cách đấy một dặm đường, trong những thung sâu bỏ hoang, giữa những mỏ đá cũ, trước kia có những dòng suối tuôn ra, và ngày nay đã thành ba cái hồ thông nước. Ở phía dưới, gần bờ có tiếng vỗ nước bì bõm đâu đây. Tô-nhi-a ngẩng nhìn, lấy tay vạch cành lá thì thấy một thân hình mềm mại nâu bóng đang bơi rất khỏe từ bờ ra giữa hồ. Cái lưng rám nắng và mớ tóc nâu hì hụp như con rái cá đang rẽ nước bơi lên, lúc ngụp vào nước, lúc nhào lên vùng vẫy, mệt rồi thì nằm ngửa phơi nắng, đôi mắt nhắm nghiền cho khỏi chói, hai tay vòng lại, người hơi khom khom không động đậy.

Tô-nhi-a buông cành lá, mỉm cười, tự nhạo mình: - Mình khỉ thật, sao lại nhìn người ta tắm.

Và Tô-nhi-a cầm sách đọc.

Mải xem cuốn sách của Vích-to Lê-sinh-ski cho mượn, Tô-nhi-a không để ý có bóng người vừa leo qua bờ sỏi giữa gò đất và rặng thông. Bỗng đâu, một hòn sỏi theo chân người vừa leo rơi vào cuốn sách. Tô- nhi-a giật mình ngẩng đầu lên, Pa-ven đứng ngay trước mặt cô, ngạc nhiên và ngượng ngùng vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này.

Nhìn thấy tóc Pa-ven ướt, Tô-nhi-a đoán: "Ra người tắm ấy là anh ta".

Pa-ven lúc ấy cũng nhận ra người con gái hôm xưa. - Cô đấy à? Tôi có làm cô hãi không? Tôi không biết cô ngồi đây.

Nói rồi, Pa-ven vịn tay vào bờ sỏi, định bỏ đi.

- Không sao đâu, anh ạ. Nếu anh không bận, mời anh ngồi chơi, ta nói chuyện.

Pa-ven ngạc nhiên nhìn Tô-nhi-a: - Ta nói chuyện? Chuyện gì mới được?

Tô-nhi-a mỉm cười: - Sao anh cứ đứng thế ? Ghế đây, mời anh ngồi, Tô-nhi-a chỉ cho Pa-ven một tảng đá và hỏi Pa-ven: - Tên anh là gì nhỉ?

- Páp-ca Ca-rơ-sa-ghin. ( Páp-ca cũng là Pa-ven, nhưng gọi tục và thân)

- Còn tôi là Tô-nhi-a. Thế là chúng ta quen nhau rồi nhớ. Pa-ven luống cuống vò mũ cát-két.

Tô-nhi-a phá sự im lặng:

- Tên anh là Páp-ca à? Sao lại gọi là Páp-ca? Gọi thế không đẹp. Gọi là Pa-ven hay hơn. Tôi sẽ gọi anh là Pa-ven đấy. Anh có hay đến đây... - Ý Tô-nhi-a muốn nói "có hay đến đây tắm không?" nhưng ngại không muốn để Pa-ven biết mình đã trông thấy anh ta tắm nên nói trệch đi: - Anh có hay đến đây chơi không?

- Không, cũng tùy, thỉnh thoảng có lúc nào rỗi mới đến.

- Thế anh đi làm à?

- Tôi là thợ đốt lò ở sở điện.

Tô-nhi-a bỗng hỏi bất ngờ: - Ai dạy anh đánh võ mà anh đánh giỏi thế, hở anh?

Pa-ven phật ý, càu nhàu: - Tôi đánh nhau thì việc gì đến cô mà cô hỏi?

Tô-nhi-a cảm thấy Pa-ven không bằng lòng câu hỏi của mình, vội nói:

- Đừng giận, anh Pa-ven ạ. Tôi muốn biết lắm chứ. Đánh như anh đánh hôm trước, thật là tay võ. Anh đánh ác lắm.

Và Tô-nhi-a phá lên cười.

Pa ven hỏi lại: - Ra cô thương hại cái thằng nhắng ấy à?

- Có đâu, trái lại thế nữa. Xu-khác-cô ăn đấm thế là đáng đời lắm. Tôi thấy anh đánh hắn, tôi thích lắm. Tôi nghe người ta nói anh hay đánh nhau lắm thì phải.

Pa-ven bị chạm nọc, hỏi lại: - Ai bảo cô thế ?

- Vích-to con nhà Lê-sinh-ski bảo là anh chuyên môn đi đánh nhau.

Pa-ven sa sầm nét mặt:

- Vích-to là một thằng đểu, một tên công tử bột chỉ được cái õng ẹo. Tôi tha không tát cho nó vỡ mặt là phúc. Hôm nọ tôi nghe rõ nó đặt điều về tôi với cô, song tôi không thèm đánh nó cho bẩn tay.

Tô-nhi-a can: - Sao anh Pa-ven ăn nói cục thế ? Thế không tết đâu !

Pa-ven phát cáu: "Mình rõ vớ vẩn, tự nhiên lại đi bắt chuyện với con nhóc con này làm gì? Con bé gớm thật, lại đi bắt bẻ lời ăn tiếng nói của mình. Nó toàn lên mặt dạy mình: lúc thì nó không thích tên là "Páp- ca", lúc thì bảo là "đừng ăn nói cục".

Tô-nhi-a hỏi: - Sao anh lại ghét Vích-to đến thế ?

- Bởi vì nó là một con tiểu thư mặc quần áo đàn ông, nó là con cưng nhà quý tộc, một công tử bột, chứ không phải là thanh niên. Trông cái mặt nó thườn thượt như đứa không hồn. Gặp những đứa như thế, tôi ngứa tay lắm. Nó con nhà giàu, nó chỉ chực trèo lên đầu lên cổ người ta. Nó tưởng nó muốn làm gì người khác cũng được. Tôi đây thì tôi nhổ toẹt vào cái giàu của nó. Nó cứ đụng đến tôi thì nó biết tay tôi. Những quân ấy phải dạy chúng bằng quả đấm này mới được. - Giọng Pa-ven đầy giận dữ.

Tô-nhi-a tiếc là đã nhắc đến tên Vích-to trong câu chuyện. Cậu này chắc có chuyện gì lôi thôi từ cũ với anh chàng Vích-to õng ẹo đây. Tô-nhi-a xoay ra cố lái vào câu chuyện từ tốn hơn, hỏi thăm gia đình, công ăn việc làm của Pa-ven.

Pa-ven không những bớt giận mà còn quên cả muốn đi ngay và cứ thế vui chuyện trả lời Tô-nhi-a rất tỉ mỉ.

Tô-nhi-a nói: - Sao anh không tiếp tục đi học nữa?

- Tôi bị đuổi học.

- Sao lại bị đuổi thế anh?

Pa-ven đỏ tai: - Tại tôi nghịch ném thuốc lá vào bột làm bánh của lão cố dạy tôi học, nên lão ấy đuổi không cho học nữa. Lão cố ấy là một tên hiểm ác. Nó làm cho đời tôi khốn khổ.

Và Pa-ven kể tất cả đầu đuôi câu chuyện.

Tô-nhi-a tò mò chăm chú nghe. Pa-ven quên cả nỗi ngượng ngừng ban đầu, kể cho Tô-nhi-a nghe như kể cho một cô bạn quen đã từ lâu. Pa-ven kể đến việc anh A-rơ-chom đi lái chuyến xe không về. Câu chuyện thân mật, sôi nổi. Đôi trẻ không nghĩ gì đến thời gian trôi đi, đã mấy tiếng đồng hồ rồi. Bỗng Pa-ven giật nảy mình, đứng phắt dậy:

- Chết thật! Đến giờ tôi phải đi làm rồi. Tôi mải chuyện quá. Đáng lẽ bây giờ là lúc tôi phải đốt lò. Ông cụ thợ cả chắc giờ đang chửi om sòm. - Rồi lo lắng, Pa-ven nói vội: - Thôi, chào cô, giờ tôi phải chạy như phi thân đến xưởng ngay lập tức mới được.

Tô-nhi-a cũng đứng dậy ngay, khoác áo vào người: - Tôi cũng đến giờ phải đi đây. Vậy ta cùng đi.

- Không, tôi vội, phải chạy, cô không theo kịp được.

- Anh tưởng thế? Chúng ta cùng chạy, thi xem ai nhanh.

Pa-ven đưa mắt nhìn Tô-nhi-a có vẻ khinh thường :

- Thi à? Cô thi thế nào được với tôi!

- Rồi xem. Giờ ta hãy ra khỏi đây đã.

Pa-ven nhảy qua hòn đá, chìa tay cho Tô-nhi-a, và cả hai cùng chạy ra con đường cái rộng phẳng tới nhà ga.

Tô-nhi-a dừng lại giữa đường: - Nào, giờ chúng ta chạy nhé! Một, hai, ba. Đố anh bắt được đấy.

Và Tô-nhi-a chạy tít lên như gió lốc. Đôi đế giày xinh nhỏ bay nhanh trông như cánh bướm, gió thổi tung tà áo xanh. Pa-ven vụt đuổi theo. "Mình sẽ đuổi kịp trong nháy mắt" - Pa-ven nghĩ thế, và cắm cổ đuổi theo tà áo dài. Thế mà chạy đến tận đầu đường, gần tới nhà ga mới đuổi kịp. Đang đà chạy, Pa-ven chạm vào người Tô-nhi-a và nắm lấy vai cô. Vừa thở gấp Pa-ven vừa kêu lên mừng rỡ!

- Thế là bắt được con chim nhỏ rồi nhé!

- Bỏ ra, đau anh!

Hai người cùng thở gấp, tim cùng đập mạnh. Cuộc chạy say sưa, Tô-nhi-a mệt quá, như vô tình, trong giây phút, nép mình vào bạn; một giây phút thôi, nhưng cũng đủ làm cho Pa-ven cảm thấy Tô-nhi-a trở nên gần gũi. Chỉ chốc lát thoáng qua nhưng Pa- ven sẽ nhớ mãi.

Tô-nhi-a gỡ tay Pa-ven.

- Xưa nay Tô-nhi-a chạy không ai đuổi kịp cơ, anh ạ.

Hai người chia tay nhau, Pa-ven tay vẫn vẫy mũ cát-két rảo bước chạy đến nhà máy.

Người thợ cả Đa-ni-lô đang loay hoay bên lò lửa thấy Pa-ven mở cửa vào liền quay lại đùng đùng gắt:

- Mày không để chậm nữa hãy đến! Định để tao phải đi đốt hầu thay mày đấy hẳn?

Nhưng Pa-ven vui vẻ vỗ vai người thợ cả và nói làm lành:

- Thưa bố, chỉ một thoáng là con làm lò cháy đâu vào đấy thôi.

Rồi Pa-ven cặm cụi khuân củi cho vào lò.

Nửa đêm hôm ấy, vào lúc người thợ cả đất lò Đa- ni-lô đã yên giấc trên chồng củi, tiếng ngáy khò khò như kéo gỗ, sau khi đã cho dầu mỡ vào máy xong, rửa tay đâu đấy, Pa-ven mở ô kẻo lấy tập thứ sáu mươi hai truyện Giu-dép-pe Ga-ri-ban-đi (Một lãnh tụ cách mạng dân chủ nổi tiếng của nhằn dân Ý hồi thế kỷ 19) ra đọc. Pa- ven mê mải đọc cuốn truyện kể những bước mạo hiểm liên miên của Ga-ri-ban-đi, người thủ lĩnh thần kỳ đảng "Áo đỏ" xứ Náp-lơ.

Tập truyện có câu: "Nàng ngước đôi mắt nhung xanh biếc nhìn chàng công tước..." Pa-ven chợt nhớ: 'Tô-nhi-a cũng có đôi mắt xanh biếc. Cô bé ngộ thật, không giống bọn con gái nhà giàu khác tí nào. Mà lại chạy nhanh như quỷ sứ nữa".

Mơ màng nhớ lại buổi gặp gỡ ban trưa, Pa-ven chẳng để ý gì đến tiếng máy lúc ấy rung lên ầm ĩ mỗi lúc một mạnh; hơi nhiều quá làm bánh xe quay tít điên loạn, rung chuyển cả sàn bê-tông bệ máy.

Pa-ven vội nhìn vào ma-nô-mét: Kim đã chỉ quá vạch đỏ bao nhiêu là độ rồi.

- Khỉ thật ! - Pa-ven rời ô kéo chạy bổ đến chỗ cái tay vặn hơi, quay hai vòng. Tiếng xìn xịt phụt ra từ trong ống khói sau thành lò. Pa-ven kéo tay vặn xuống, mắc dây cua-roa vào bánh xe đẩy ống bơm.

Pa-ven ngước nhìn Đa-ni-lô. May quá, ông cụ già ngủ say như chết, mồm há hốc, mũi ngáy rống lên như sấm.

Nửa phút sau, kim đồng hồ ma-nô-mét lại trở lại chỗ bình thường của nó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2012 20:58:38 | Chỉ xem của tác giả
Sau khi chia tay Pa-ven, Tô-nhi-a đi về nhà. Cô nghĩ mãi đến cuộc gặp gỡ vừa qua với người thiếu niên có đôi mắt đen kia. Tự cô cũng không hiểu sao, cuộc gặp gỡ đã làm cô thích thú.

"Ở con người anh ta có biết bao lửa sống và chí gan góc! Ừ mà anh ấy chẳng thô bạo như mình đã tưởng. Dù sao thì anh ấy hoàn toàn chẳng giống chút nào với bọn học sinh thò lò mũi xanh . . ."

Anh ta xuất thân từ một loại người khác, từ tầng lớp mà xưa nay Tô-nhi-a chưa có dịp sống gần.

Tô-nhi-a nghĩ thầm: "Mình có thể bảo anh ta được, và sẽ là một tình bạn hay hay".

Đến gần nhà, Tô-nhi-a đã trông thấy Li-da con nhà Xu-khác-cô, Nen-ly và Vích-to, con nhà Lê-sinh- ski, cả ba đang ngồi trong vườn. Vích-to đang đọc sách. Tô-nhi-a biết là họ đang chờ mình.

Cô đến chào mọi người, rồi ngồi xuống ghế. Đang tán gẫu những chuyện tủn mủn thì Vích-to ngồi lại gần Tô-nhi-a nhỏ nhẹ hỏi:

- Cô đã đọc cuốn tiểu thuyết ấy chưa?

- À, cuốn tiểu thuyết ấy à? - Tô-nhi-a bỗng thốt lên: À, tôi đã…

Cô suýt nói ra là đã để quên cuốn truyện ở bờ hồ.

Vích-to chăm chú nhìn cô: - Cô có thích cuốn tiểu thuyết đó không?

Tô-nhi-a khẽ lấy đầu mũi giày chậm chạp vạch đi vạch lại vẽ nhằng nhịt trên mặt đường cát, suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Vích-to:

- Không, tôi đã bắt đầu đọc một cuốn tiểu thuyết khác, hay hơn cuốn tiểu thuyết anh cho mượn.

- À ra thế. - Giọng Vích-to kéo dài, có vẻ bực mình.

Hắn hỏi: - Thế tác giả là ai?

Mắt Tô-nhi-a bừng sáng lên, nhìn Vích-to có vẻ chế giễu:

- Chẳng là ai cả…

Giữa lúc đó, mẹ Tô-nhi-a đứng ở hiên gọi:

- Tô-nhi-a ơi! Con mời khách vào trong nhà ngồi chơi. Trà đã pha rồi.

Tô-nhi-a khoác tay hai bạn gái vào nhà. Còn Vích- to đi sau, suy nghĩ lung về những lời Tô-nhi-a vừa nói, không hiểu ý ra sao.

Tình cảm đầu tiên, chưa kịp nhận ra rõ, nhưng đã từ từ len vào đời người thiếu niên làm nghề đất lò lúc nào không biết, tình cảm ấy sao mà mới mẻ, sao mà bồi hồi, khó hiểu. Tình cảm ấy đến làm xáo động hẳn tâm hồn cậu thiếu niên vốn tính tinh nghịch và bướng bỉnh.

Tô-nhi-a là con gái người chánh sở kiểm lâm, mà chánh sở kiểm lâm đối với Pa-ven cũng cùng một giuộc với lão luật sư Lê-sinh-ski.

Lớn lên trong nghèo khổ và đói rách, Pa-ven có một thái độ thù địch với những kẻ mà mình cho là bọn giàu có. Cho nên anh thận trọng và dè chừng ngẫm về tình cảm mới chớm trong lòng. Anh không xem Tô-nhi-a như Ga-li-na, con gái người thợ đá. Ga- li-na là một người bạn con nhà bình dân, giản dị và dễ thông cảm. Còn Tô-nhi-a thì Pa-ven ngại lắm, anh sẵn sàng đối phó quyết liệt với bất cứ sự chế giễu và khinh bỉ nào của người con gái đẹp và có học thức ấy.

Đến một tuần nay, Pa-ven khống gặp lại cô gái con người chánh kiểm lâm. Cho nên hôm nay anh mới định ra bờ hồ hôm nọ, trên đường đi, anh chủ tâm lượn qua trước nhà cô ta, hy vọng may ra gặp. Đang thủng thẳng bước men hàng rào khu nhà cô, Pa-ven thấy ngay cổ chiếc áo lính thủy quen thuộc thấp thoáng ở tận cuối khu vườn. Pa-ven nhặt một quả thông bên hàng rào, nhằm ném vào chiếc áo trắng.

Tô-nhi-a quay phắt lại. Trông thấy Pa-ven, cô chạy ra hàng rào. Cô tươi cười vui sướng chìa tay ra bắt và reo lên mừng rỡ:

- Anh đến đây rồi! Anh đi đâu từ bấy đến nay ? Em có trở lại chỗ hồ nơi cuốn sách để quên, cứ tưởng là anh sẽ lại đến đấy. Anh vào trong này chơi.

Pa-ven lắc đầu từ chối: - Pa-ven không vào đâu.

Tô-nhi-a ngạc nhiên cau mày: - Tại sao vậy?

- Có thể cậu cô sẽ không bằng lòng đâu. Vì tôi cô sẽ lại bị mắng mất. Thế nào cậu cô cũng mắng cô sao lại đưa thằng rách rưới, chân đi đất này vào nhà.

Tô-nhi-a nổi giận: - Anh rõ vớ vẩn, anh Pa-ven ạ. Anh vào ngay đi xem nào. Cậu em không khi nào nói gì đâu. Anh cứ vào mà xem. Vào đi anh.

Tô-nhi-a chạy ra mở cổng. Pa-ven dáng không tự nhiên ngần ngại bước theo Tô-nhi-a. Hai người ngồi chơi ở chiếc bàn tròn chôn hẳn xuống vườn. Tô-nhi-a hỏi:

- Anh có thích đọc sách không?

Pa-ven đã bạo lên: - Có. Thích ghê lắm.

- Thế trong các sách đã đọc, anh thích quyển gì nhất?

Pa-ven nghĩ một lát rồi trả lời.

- Truyện Giu-dép-pa Ga-ri-ban-đi.

- Đọc là Giu-dép-pe G-ri-ban-di chứ! - Tô-nhi-a chữa lại. - Anh thích quyển ấy lắm à?

- Thích chứ. Tôi đọc lẻ từng kỳ. Sáu mươi tám kỳ rồi, không sót kỳ nào, mỗi lần lĩnh lương, tôi mua năm số liền. Như Ga-ri-ban-đi mới thật là một con người! - Giọng Pa-ven đầy vẻ thán phục. - Anh hùng thật ! Tôi hiểu lắm, đấy là một anh hùng chân chính. Ga-ri-ban-đi đã bao lần đánh nhau với quân thù và bao giờ cũng thắng chúng. Lại đi khắp bao nhiêu nước. Chà, giá ông ta còn sống đến bây giờ, tôi sẽ tìm đến xin theo ngay. ông ta mộ toàn công nhân vào đảng và chỉ vì những người nghèo mà chiến đấu thôi.

- Anh có muốn lên xem tủ sách của em không? Lên em mở tủ ra anh xem.

Tô-nhi-a nói, rồi dắt tay Pa-ven đi. Nhưng Pa-ven cương quyết chối từ:

- Không, không, tôi chẳng vào nhà đâu.

- Sao anh khó bảo thế. Hay anh sợ, phải không?

Pa-ven nhìn xuống đôi bàn chân không giày chẳng lấy gì làm sạch lắm, và gãi tai:

- Tô-nhi-a có chắc là cậu mợ Tô-nhi-a không đuổi tôi ra cửa không?

Tô-nhi-a giận dỗi: - Anh đừng có nói thế nữa, không thì em giận thật đấy.

- Tô-nhi-a cho thế là lạ à? Như nhà Lê-sinh-ski chẳng hạn, họ có để tôi vào nhà đâu. Đối với công nhân, nhà lão chỉ tiếp dưới bếp thôi. Hôm nọ tôi có việc sang bên ấy, con Nen-ly nó cũng chẳng để cho bước vào nhà nữa. Trời biết được nó sợ cái gì, chắc là nó sợ chân tôi lấm, đi vào làm bẩn thảm nhà nó, - Pa-ven mỉm cười.

- Thôi, chúng ta vào đi - Tô-nhi-a nắm vai Pa-ven thân mật đẩy lên hiên nhà.

Tô-nhi-a dẫn Pa-ven đi qua buồng ăn đến một phòng rộng có kê một cái tủ bằng gỗ sến rất lớn. Tô-nhi- a mở toang cửa tủ ra, và Pa-ven trông thấy có đến vài trăm cuốn sách xếp thành hàng đâu ra đấy. Sách nhiều quá làm Pa-ven mê tít.

- Giờ chúng ta chọn quyển nào hay anh mang về xem, nhưng anh phải hứa đến luôn để mượn những quyển khác nữa cơ, anh nhé?

Pa-ven vui thích gật đầu:

- Sách thì tôi thú lắm.

Hai người ở chơi với nhau rất vui, suốt mấy tiếng đồng hồ.

Tô-nhi-a đưa Pa-ven ra chào mợ. Gặp mẹ Tô-nhi- a, Pa-ven cũng chẳng thấy ghê gớm như mình tưởng, anh cũng thấy mến bà ta.

Tô-nhi-a đưa Pa-ven lên buồng mình, cho Pa-ven xem sách học của cô.

Ở bàn chải đầu có một cái gương. Dẫn Pa-ven ra trước gương, Tô-nhi-a vừa cười vừa nói:

- Sao tóc anh để rối bù thế? Anh không bao giờ cắt tóc và chải đầu có phải không?

Pa-ven ngượng nghịu nói chữa: - Dài quá tôi mới cạo trọc đi thôi. Chứ còn làm thế nào nữa?

Tô-nhi-a vừa cười vừa lấy lược thưa nhanh tay chải qua mái tóc rối bời của Pa-ven. Cô nhìn Pa-ven và nói:

- Bây giờ có phải khác rồi không nào? Tóc anh phải đi húi cho nó đẹp chứ. Lúc nãy, trông đầu anh y như đầu con sói rừng ấy.

Tô-nhi-a liếc nhìn cái áo sơ-mi bạc phếch, chiếc quần cộc đã mòn dũng của Pa-ven có ý không bằng lòng nhưng không nói gì cả.

Pa-ven bắt gặp cái nhìn đó và cảm thấy ngượng về cách ăn mặc của mình.

Khi chia tay nhau, Tô-nhi-a còn mời Pa-ven lại chơi luôn, và cô đã làm cho Pa-ven phải hứa là.hai ngày nữa sẽ đến rủ Tô-nhi-a đi câu.

Pa-ven nhảy tót qua cửa sổ ra vườn: anh không muốn đi qua nhà ngoài một lần nữa, sợ lại gặp phải mẹ Tô-nhi-a.



Vắng A-rơ-chom, nhà Ca-rơ-sa-ghin túng tợn: lương Pa-ven không đủ chi dùng.

Bà mẹ đành bàn với con: có lẽ bà lại nên đi làm chăng? Cũng được dịp là nhà Lê-sinh-ski đang cần người nấu bếp. Nhưng Pa-ven gạt đi ngay:

- Không, mẹ ạ, con sẽ xoay ra việc làm thêm: Ở sở máy cưa đang mượn người xếp gỗ phiến. Con sẽ xin làm nửa buổi, kiếm thêm thì hai mẹ con tiêu cũng vừa. Còn mẹ thì cứ nghỉ ở nhà. Để mẹ đi làm, anh A-rơ-chom về sẽ mắng con. Anh sẽ bảo: "Mày không xoay xở được cho mẹ hay sao mà để mẹ phải đi hầu hạ người ta mãi thế ?"

Bà mẹ thì bảo là bà cần phải đi làm, nhưng Pa- ven khăng khăng không nghe nên bà đành chịu thôi.

Ngay ngày hôm sau. Pa-ven đã đến làm ở sở máy cưa: đem các phiến gỗ mới cưa còn ướt xếp ra phơi cho khô. Ở đây anh gặp nhiều bạn quen như Mi-sơ- ca Lép-súc là bạn học cùng trường trước đây và Va- ni-a Cu-lê-sốp, Pa-ven cùng với Mi-sa đồng ý với nhau hai người làm chung một phần việc. Tiền lương cũng kha khá. Ban ngày Pa-ven làm ở sở máy cưa, chiều đến lại chạy tới nhà máy điện.

Làm được mười hôm, Pa-ven mang về cho mẹ một món tiền. Khi đưa tiền cho mẹ, Pa-ven ngượng ngùng di chân trên đất, trù trừ mãi mới dám nói:

- Mẹ ơi, mẹ có thể may cho con một chiếc áo xa- tanh xanh không mẹ? Như chiếc áo năm ngoái của con ấy mà. May thì tốn mất độ nửa số tiền này, nhưng con còn kiếm được nữa, mẹ đừng lo. - Rồi Pa-ven nói thêm như để xin lỗi vì đã đòi hỏi mẹ nhiều quá: - Mẹ xem đây, cái áo con đang mặc tàng quá rồi.

- Được được, con ạ, mẹ sẽ mua ngay vải hôm nay rồi mai mẹ sẽ cắt áo cho con. Ừ, phải đấy, con chẳng có chiếc áo mới nào.

Mẹ già nhìn con trìu mến.



Pa-ven dừng lại bên hiệu cắt tóc, thò tay vào túi, sờ lại đồng tiền rúp trong túi, rồi mới dám bước vào.

Thợ cắt tóc là một chàng hóm hỉnh chỉ ghế bành cho khách.

- Mời cậu ngồi.

Ngồi lọt thỏm vào chiếc ghế bành, Pa-ven ngắm vào gương thấy vẻ mặt mình lúng túng ngơ ngơ ngác ngác.

- Húi trọc phải không cậu? - Người thợ cắt tóc hỏi.

- Vâng, à không phải. Bác hớt tóc cho tôi. Hớt thế này là húi kiểu gì bác nhỉ? - Tay Pa-ven luống cuống ra hiệu.

- Được được tôi hiểu rồi. - Người thợ cạo mỉm cười.

Mười lăm phút sau, Pa-ven đi ra, mồ hôi nhễ nhại, nhưng đầu tóc mới húi, chải lược trông chỉnh lắm. Người thợ cắt tóc phải khó nhọc mất nhiều thời giờ với mớ tóc bờm khó bảo đó, nhưng nước lã và răng lược cuối cùng đã thắng.

Ra đường, Pa-ven trút hơi thở dài, đội chụp mũ cát-két xuống tận mắt nghĩ bụng: "Mẹ mình trông thấy đầu mới sẽ nói thế nào nhỉ?"



Pa-ven không đến rủ đi câu cá như đã hứa, làm Tô-nhi-a bực mình lắm.

"Cái anh chàng đốt lò này chẳng lịch sự chút nào cả!" - Tô-nhi-a lấy làm bực dọc, song mãi không gặp lại Pa-ven, Tô-nhi-a cảm thấy buồn.

Cô sắp đi dạo chơi thì mẹ mở cửa vào, báo tin: "Tô- nhi-a, có khách tìm con. Mẹ mời vào nhé?"

Pa-ven đứng ở cửa. Thoạt nhìn, Tô-nhi-a cũng không nhận được ra ngay.

Pa-ven diện áo xa-tanh xanh mới tinh, quần đen, đôi giày đánh xi bóng lộn và nhất là tóc mới cắt gọn gàng, không xù lên như hôm nào, làm Tô-nhi-a chú ý ngay. Tóc không rối bù như trước nữa, cậu bé đốt lò mắt đen bây giờ trông khác hẳn.

Tô-nhi-a đã chực thốt ra nỗi sửng sốt của mình. Nhưng không muốn làm cho Pa-ven đã ngượng ra mặt lại phải bối rối thêm, nên cô làm bộ như không để ý đến sự thay đổi rõ rệt đó.

Tô-nhi-a trách ngay Pa-ven: - Sao anh không đến rủ đi câu? Anh giữ lời hứa thế đấy? Anh không biết xấu hổ à?

Mấy ngày nay Pa-ven làm thêm ở sở máy cưa, nên không đến được.

Pa-ven không dám nói cho Tô-nhi-a biết rằng để sắm áo quần này, mấy ngày nay Pa-ven đã phải cặm cụi làm đến mệt lử. Nhưng Tô-nhi-a nghe qua đã tự đoán ra ngay và mọi nỗi bực dọc với Pa-ven đã biến đi đâu hết cả:

- Ta ra hồ chơi đi.

Hai người đi ra vườn rồi bước ra đường cái. Và Pa- ven kể cho Tô-nhi-a nghe như kể cho người bạn thân nhất câu chuyện bí mật về khẩu súng lấy cắp được của lão quan hai. Rồi anh hứa hôm nào sẽ dẫn Tô- nhi-a vào tận rừng sâu tập bắn. Bất chợt, Pa-ven buột mồm gọi Tô-nhi-a bằng "em":

- Nhưng em nhớ, chuyện anh kể, em đừng nói lộ với ai, kẻo hại anh đấy.

Tô-nhi-a nghiêm trang hứa: - Em sẽ không bao giờ lộ với ai để hại anh đâu, anh ạ !
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 2-4-2012 19:14:22 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG IV

Lửa đấu tranh giai cấp gay gắt, ác liệt, bốc cháy cả vùng U-cơ-ren này. Số người cầm súng đánh nhau mỗi ngày một đông, và mỗi lần xung đột lại đẻ ra thêm những người chiến đấu mới.

Đối với người dân, cuộc đời êm đềm năm xưa đã chìm xa vào dĩ vãng.

Giờ đang đùng đùng bão táp, ình oàng tiếng đại bác làm rung chuyển những căn nhà nhỏ ọp ẹp. Và người dân ép mình vào tường hầm ẩm ướt hay rúc xuống những hào trú ẩn đào vội.

Bọn thổ phỉ dưới trướng Pết-lu-ra đủ màu sắc, đủ xu hướng như nước lũ tràn về vùng này: quan lớn, quan nhỏ, đủ các thứ đầu lĩnh kiểu Gô-lúp, Ác-khan- ghen, An-ghên, Goóc-di và hằng hà sa số môn phái thổ phỉ khác.

Bọn quan cũ của Nga hoàng, bọn xã hội cách mạng tả phái, hữu phái xứ U-cơ-ren, bất cứ tên anh chị nào có gan rủ được, một tụi lưu manh giết người nữa theo, là tự xưng ngay làm đầu lĩnh; đôi khi chúng còn kéo cờ vàng xanh da trời, hiệu cờ của quân Pết-lu-ra và cướp lấy chính quyền, tùy tài tùy sức mà chiếm lấy phạm vi tác oai tác quái.

Tên "đầu lĩnh trưởng” Pết-lu-ra mộ quân lập những trung đoàn, sư đoàn của nó chính từ đám thổ phỉ ô hợp ấy được bọn cu-lắc và các trung đoàn người Ga- li-xi thuộc quân đoàn xung kích của tên đầu lĩnh Cô- nô-van nhập bọn vào thêm. Giữa đám bùn nhơ những quân phản cách mạng và bọn cu-lắc, nổi bùng lên những đơn vị du kích đỏ, và đất chuyển dưới hàng trăm ngàn móng ngựa sắt, đất chuyển dưới những bánh xe bò chở súng liên thanh và những chuyến xe lửa chở pháo binh.

Vào tháng Tư của năm 1919 rối bời này, người thường dân ngơ ngác bị nhiều phen kinh hoàng chết khiếp, cứ sớm mai ngủ dậy, chưa kịp dụi mắt, đã hé mở cửa sổ nhà mình, ghé sang lo lắng hỏi người hàng xóm dậy trước:

- Bác Áp-tô-nom Pê-tờ-rô-vích này, chính quyền tỉnh mình hôm nay về quân nào nhỉ?

Áp-tô-nom Pê-tờ-rô-vích vừa xốc quần đùi, vừa lấm lét nhòm chung quanh xem có ai không rồi nói thì thào:

- Không biết, bác A-pha-nắt Ki-ri-lô-vích ạ. Đêm qua có quân nào kéo vào ấy. Đợi tý xem. Nếu quân này mà hành người Do-thái thì đúng cánh Pết-lu-ra rồi. Nếu phải bộ đội "các đồng chí" về thì gặp cái, nghe cách ăn nói là biết ngay thôi. Tôi cũng đang đứng đây rình xem là bọn nào để còn tính treo ảnh gì trong nhà cho tiện, tránh mọi chuyện lôi thôi vào mình. Hôm nọ, bác Ghê-ra-xim, láng giềng nhà tôi, lầm một tí mà bị một vố. Nhìn chưa rõ trắng đen đã vội treo ảnh Lê-nin lên, tưởng lầm là cách mạng đã về. Thì vớ ngay ba thằng ngụy ập vào. Bác tính, ba thằng quân Pết-lu-ra vừa nhìn thấy ảnh đó là xô vào bác ta ngay, cứ roi ngựa nện lấy nện để. Bị đến hai mươi roi. Chúng nói: "Đồ chó, cái thằng cộng sản kia. Ông sẽ róc da xẻo thịt mày chết tươi ngay”. Bác ấy cố kêu xin, cố phân trần với chúng, song vô hiệu.

Trông thấy từng toán lính có súng đi ngoài đường, hàng phố đóng sập cửa sổ, tránh mặt trốn trong nhà. Tai họa đã đến quá nhanh…

Anh em công nhân thì nghiến răng cau mày, căm tức nhìn lá cờ màu vàng xanh da trời của bọn côn đồ dưới trướng Pết-lu-ra. Anh em công nhân, lực lượng còn yếu, không sao chống nổi cơn sóng bài chủng sô- vanh(chỉ tinh thần vị chủng mù quáng, hẹp hòi ) bột phát đó, chỉ trỗi lên mỗi khi có bộ đội đỏ bị quân cờ vàng xanh da trời bao vây, ép phải đánh về chọc sâu vào thành như một mũi dùi xoáy vào thân cây. Lá cờ ruột thịt đỏ chói phấp phới trên nóc tòa thị sảnh, một ngày, hai ngày, nhưng rồi bộ đội lại rút đi, và tình hình trở lại nhá nhem, tranh tối tranh sáng.

Hiện nay, lão quan năm Gô-lúp đang làm chúa ngự trị trong thành này. Lão ta là "vinh dự và kiêu hãnh" của sư đoàn tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.

Hôm qua đám quân gồm hai ngàn tên giết người của lão thắng thế kéo vào thành phố. Lão quan năm đi đầu cưỡi con ngựa giống tốt mã. Nắng tháng Tư đã nóng mà lão vẫn khoác áo bành-tô của người vùng Cô-ca-dơ, đội mũ lông xứ Da-pô-rô có đính huy hiệu màu tía, mình mặc quân phục kiểu Séc-kết, lưng đeo đủ bộ: dao găm và kiếm nạm bạc.

Lão quan năm trông bảnh trai, lông mày đen, da mặt tái, hơi rám vàng vì lão hay uống rượu say be bét. Miệng lão ngậm cái píp. Trước cách mạng, lão làm chuyên gia nông học trong những đồn điền trồng củ cải đường của nhà máy làm đường. Cuộc đời ấy mờ tẻ lắm ! Bì sao được với danh vọng đầu lĩnh này. Và anh chàng chuyên gia nông học ngoi lên mặt những dòng nước đục ngầu đang tràn ngập ngựa xứ này. Giở đây lão ta đường đường là quan nắm đầu lĩnh Gô-lúp.

Rạp hát độc nhất của thành phố đã được trang hoàng để mở dạ hội chào mừng bọn mới đến.

Tất cả "tinh hoa" của giới thượng lưu trí thức thuộc phái Pết-lu-ra đều có mặt: đám giáo học người U-cơ- ren; hai con gái lão cố (Bên một số nước Châu Âu, các cố đạo được lập gia đình. (N.D)): con A-nhi-a xinh đẹp và em nó là Di-na, lũ bà nhỏ, bà lớn sở tại, tất cả đám đầy tớ cũ của lão bá tước Pô-tô-ski ngày trước, một dúm tiểu tư sản xưng danh là phái "Cô-dắc tự do", bọn xã hội cách mạng hậu sinh của xứ U-cơ-ren.

Rạp chật ních. Mặc quần áo địa phương U-cơ-ren sặc sỡ thêu hoa, vòng cổ, dải băng đủ màu sắc, các mụ giáo học, hai con gái lão cố, những mụ trưởng giả được cả một lũ sĩ quan bâu lại, bọn này đeo "cựa gà" lẻng xẻng trông hệt như những bức tranh cổ tả những người cô-dắc Da-pô-rô.

Nhạc binh của trung đoàn đang vang lên inh ỏi. Trên sân khấu hối hả chuẩn bị diễn tích Na da Stô-đô-li-a.

Điện không có, người ta đã báo đến bộ tham mưu cho lão quan năm biết, lão định thân chinh đến dự buổi dạ hội này cho thêm phần long trọng. Cho nên nghe báo không có điện lão đủng đỉnh hất hàm ra lệnh cho tên quan hầu là Pa-lê-nứt; tên này còn có tên là lão một Pô-li-an-xép.

- Phải có điện. Mày muốn chết thì chết, nhưng phải tìm cho kỹ được một thằng thợ điện và bắt nó chữa cho máy điện chạy.

- Thưa đại tá, xin tuân lệnh.

Pa-lê-nứt không chết và đã tìm được thợ điện. 

Hai tiếng đồng hồ sau, mấy tên lính ngụy dẫn Pa- ven đến nhà máy điện. Hai bác thợ lắp máy và thợ chữa xe máy cũng bị điệu đến cùng với Pa-ven. Tên quan hầu nói cộc lốc: "Nếu bây giờ tối không có điện, tao sẽ treo cổ tuốt ba đứa bay". Nó vừa nói vừa chỉ tay lên xà nhà bằng sắt.

Lý lẽ cộc lốc ấy đã có hiệu quả: đúng thời hạn hắn định, điện lại sáng.

Giữa lúc dạ hội đang náo nhiệt, thì lão quan năm đi vào. Lão đi với con đào của lão là con gái nhà hàng lão trọ. Đứa con gái ngực nở núng na núng nính, tóc đen nhạt như màu lúa mạch.

Bố nó là lão chủ quán giàu sụ cho nó đi học ly- xê(trung học) ở tỉnh lỵ. Khi con bé và lão quan đã lên ngồi trên ghế danh dự ngay trước sân khấu thì lão quan năm ra hiệu cho phép bắt đầu. Màn kéo lên ngay. Người xem còn nhìn thấy lưng lão đạo diễn chạy vội vào buồng trò.

Giữa lúc trên sân khấu đang diễn kịch, bọn sĩ quan cùng với đào của chúng ra căn hàng ăn uống thả cửa với nhau, nốc những thứ rượu mạnh mà tên quan hầu Pa-lê-nứt vét khắp mọi nơi về, chén những món thịt chúng tịch thu của dân; đến cuối chầu kịch thì cả lũ chúng nó đã chếnh choáng hơi men rồi.

Tên quan hầu nhảy lên sân khấu, điệu bộ như đóng kịch tuyên bố :

- Thưa các quý ông, quý bà, sắp sửa bắt đầu khiêu vũ. Mọi người vỗ tay hoan nghênh, rồi đi ra khỏi phòng cho bọn lính ngụy dẹp ghế lấy chỗ nhảy.

Nửa giờ sau là trong rạp đã nhảy loạn lên rồi. Khoái chí, bọn sĩ quan của Pết-lu-ra mặt bừng bừng như lửa, say sưa nhảy những mục khó nhất của vũ Cô- dắc với lũ sư tử cái địa phương má nóng đỏ ửng. Tiếng chân giậm ình ịch làm rung chuyển cả tường rạp hát cũ đã mọt.

Cùng lúc ấy, ở mé cối xay lúa một đội kỵ binh tiến vào thành phố. Vọng gác của quân Gô-lúp đóng ở đầu tỉnh trông thấy hốt hoảng vớ vội lấy súng máy. Tiếng quy-lát lách cách. Tiếng thét lên trong đêm tối:

- Ai? Đứng lại!

Hai bóng đen nổi lên trong đêm tối, một tên lại gần lũ lính gác, giọng ồm ồm trả lời:

- Đây là đầu lĩnh Pa-vơ-lúc và quân của Người. Các người có phải quân của Gô-lúp không?

Tên đội trưởng ngụy tiến ra trả lời: - Vâng.

Pa-vơ-lúc hỏi: - Quân của ta đóng ở đâu được?

- Dạ, để tôi xin gọi điện thoại về bộ tham mưu hỏi xem. - Tên đội trưởng đáp lại, rồi tiến vào căn nhà bên đường. Một lát, hắn chạy lại ra lệnh cho bọn lính gác.

- Quân bay dẹp súng máy bố trí trên đường cái để cho quan đầu lĩnh ngài đi.

Pa-vơ-lúc giật cương ngựa đi và dừng lại trước rạp hát sáng choang, quanh rạp người đang đi lại nhộn nhịp.

Hắn quay lại nới với tên quan ba phụ tá đứng bên cạnh:

- A, a, ở đây họ chơi vui nhỉ. Ta xuống ngựa vào chơi cái đã. Thế nào bọn mình cũng quắp được một vài con mái khau kháu đi. Trong ấy chắc không thiếu giống. Sta-lơ-cô này, ngươi thu xếp chỗ cho quân lính ở nhớ. Còn ta thì dừng lại đây cùng với bọn vệ binh của ta.

Nói rồi, hắn nhảy xuống đất đến phịch một cái, làm con ngựa cũng phải loạng choạng không đứng vững.

Đến cửa rạp hát, hai tên lính Pết-lu-ra vác súng đứng gác, chặn lại hỏi:

- Ngài cho xem giấy mời.

Pa-vơ-lúc khinh khỉnh nhìn bọn lính gác, lấy vai ẩy một thằng ra bên. Mười hai tên hộ vệ cũng ẩy bọn gác và đi theo tên đầu lĩnh bước vào. Ngựa của chúng đã buộc cả ngoài hàng rào.

Bọn mới đến bị để ý ngay, nhất là thân hình đồ sộ của Pa-vơ-lúc. Hắn mặc áo sĩ quan bằng nỉ tốt, quần xanh như quần vệ binh, đầu hắn đội mũ lông cao lêu nghêu. Khẩu Mô-de đeo vắt qua vai, lựu đạn tay thò ra khỏi túi.

- Ai thế nhỉ? - Tiếng hỏi nhau thì thào trong đám người đứng vây quanh bọn đang nhảy nhót. Tên phó của Gô-lúp đang nhẩy rất ham mê điệu Bão tuyết mê cuồng. Hắn nhảy với con gái lớn của lão cố, con này quay tít chẳng giữ ý tứ gì cả, váy tốc lên xòe ra, khiến bọn Pa-vơ-lúc nhìn thấy cả quần đùi lụa bóng. Chúng trố mắt nhìn đầy vẻ khoái trá.

Pa-vơ-lúc lấy vai rẽ đám đông bước vào chính giữa vòng nhảy.

Cặp mắt đục ngầu dán mãi vào chân con gái lão cố, hắn thè lưỡi liếm cặp môi héo, rồi đi qua vòng nhảy đến chỗ dàn nhạc, giơ roi ngựa ra lệnh:

- Chơi bài vũ khúc Cô-dắc !

Tên nhạc trưởng chẳng để ý gì đến mệnh lệnh của hắn.

Pa-vơ-lúc liền vung tay quất roi ngựa vào lưng nhạc trưởng làm hắn nảy người lên như bị chó cắn.

Nhạc im bặt, cả rạp lặng đi.

Con gái lão chủ quán căm tức lắm, cánh tay kẹp chặt khuỷu tay lão quan năm Gô-lúp:

- Thật là đểu cáng! Mình đừng để cho chúng nó láo thế được.

Gô-lúp nặng nề đứng dậy, lấy chân đẩy chiếc ghế trước mặt, tiến lên ba bước, đến gần Pa-vơ-lúc mặt sát mặt. Lão ta nhận ra Pa-vơ-lúc ngay từ đầu. Lão có mối hiềm thù cũ với Pa-vơ-lúc, tay kình địch tranh chấp với lão ngôi chúa tể vùng này.

Mới cách đây một tuần, Pa-vơ-lúc cũng đã chơi khăm lão một vố rất cay.

Giữa lúc đang kịch chiến với một trung đoàn đỏ, một trung đoàn đã nhiều lần làm cho quân Gô-lúp khốn đốn, dáng lẽ phải đưa quân đánh tập hậu vào quân bôn-sê-vích, Pa-vơ-lúc lại bỏ mặc Gô-lúp, quay ra ập vào một thị trấn. Bộ đội đỏ đóng ở đấy có mấy đồn nhỏ, Pa-vơ-lúc dồn họ ra khỏi thị trấn không khó lắm. Lấy xong thị trấn, liền bố trí lính gác ngăn bọn Gô-lúp, rồi cho quân vào tổ chức ăn cướp đàng hoàng. Lẽ tất nhiên, chúng càn dân Do-thái, làm đúng y như một tên bộ hạ "chính tông" của Pết-lu-ra thường làm vậy.

Trong khi ấy thì bộ đội đỏ thừa cơ khuýp cánh quân sườn bên phải của Gô-lúp, nện tơi bời rồi rút mất.

Vậy mà quân kiêu kỳ vị kỷ ấy hôm nay lại ngang nhiên kéo bừa vào rạp hát này và trước mặt lão, đường đường là một vị quan năm đầu lĩnh, dám giơ roi đánh người nhạc trưởng của lão. Không, không thể để cho hắn làm như thế được. Gô-lúp biết nếu không trị ngay lập tức tên đầu lĩnh ngạo mạn này, thì còn gì là uy tín của lão đối với quân lính trong trung đoàn nữa.

Trong mấy giây đồng hồ, hai đứa lặng lẽ gườm mắt nhìn nhau, không nói.

Một tay nắm chắc đốc kiếm, một tay sờ vào khẩu súng trong túi, Gô-lúp quát lên:

- Ai cho phép ngươi dám đánh người của tao, đồ khốn nạn !

Tay Pa-vơ-lúc cũng lần đến bao da khẩu Mô-de.

- Xin ngài hãy từ từ, tướng quân Gô-lúp ạ ! Nếu không thì ngài có thể lộn bật đế giày đấy thôi. Xin ngài đừng trêu vào tôi, kẻo tôi không nén giận được đâu.

Những lời ấy càng làm cho Gô-lúp tức trào lên cổ.

Hắn ra lệnh: - Quân đâu, tống cổ chúng nó khỏi đây cho ta, quật vào mặt chúng nó! Cho mỗi đứa hai mươi nhăm roi đòn cho nhừ tử chúng nó ra!

Lũ sĩ quan Cô-dắc như một đàn chó chạy xô lại, ập vào vây kín lấy bọn Pa-vơ-lúc.

Một tiếng súng nổ giòn tan, như tiếng bóng đèn giáng mạnh xuống đất. Quân hai bên quần nhau như bầy chó dữ cắn lộn. Hai bên cùng điên tiết lên cả, lấy kiếm đâm nhau, nắm lấy tóc nhau, bóp cổ nhau. Đám phụ nữ sợ xanh mắt, rú lên thất thanh như tiếng lợn bột, lủi ra xa bọn đàn ông đang cấu xé nhau.

Mấy phút sau, bọn Pa-vơ-lúc bị tước hết vũ khí, ăn đòn nhừ tử, bị đẩy ra sân, rồi bị vứt ra đường.

Pa-vơ-lúc trong lúc loạn đả bị tuột mất cả mũ lông, mặt mày bê bết máu tím, vũ khí bị tước sạch. Hắn tức lộn ruột, nhảy lên ngựa cùng bộ hạ phi đi thẳng.

Thế là hỏng mất cả buổi dạ hội rồi. Sau chuyện vừa xảy ra, chẳng ai còn bụng dạ nào mà đú đởn nữa. Phụ nữ nhất định không chịu ở lại nhảy, nằng nặc đòi dẫn về nhà. Thấy thế, Gô-lúp phát khùng lên. Hắn ra lệnh:

- Gác lấy cửa, cấm không cho ai ra ngoài.

Tên quan hầu hối hả vâng lệnh.

Mọi người kêu ca phản đối, Gô-lúp cứ một mực bắt ở lại:

- Thưa quý bà, quý ông, ta sẽ nhảy đến sáng. Tôi xin nhảy trước bài "van" đầu đây.

Nhạc lại nổi lên, song nhạc chơi chẳng được mấy chốc.

Lão quan năm ôm con gái lão cố chưa kịp đi hết một vòng thì lính gác đã đâm bổ vào rạp hát kêu lên:

- Quân Pa-vơ-lúc đã vây rạp hát.

Cửa sổ nhìn xuống đường ở gần sân khấu bị bắn vỡ toang kính rơi tung tóe. Ngay chỗ vỡ há hốc ấy, một khẩu liên thanh thò mõm vào, miệng súng dõi theo những bóng người khiếp đảm đang chạy tán loạn. Để tránh nòng súng ghê sợ, mọi người chạy dồn vào giữa rạp hát. Tên quan hầu của Gô-lúp rút súng bắn vào bóng đèn điện nghìn nến, tiếng nổ như bom, mảnh vỡ tóe ra như mưa rơi rắc lên đầu mọi người.

Tối om om. Bên ngoài có tiếng thét vào: "Đi ra ngoài sân tất cả"! Và tiếng la mắng, tiếng chửi rủa nhao nhao lên.

Tiếng rú thất kinh, mê dại của phụ nữ, tiếng ra lệnh giận dữ của lão Gô-lúp đang tất tả trong phòng, lồng lộn quát tháo ra lệnh, định tập hợp lũ sĩ quan đã mất vía, tiếng súng, tiếng kêu inh ỏi ngoài sân hòa thành một thứ ồn ào náo động ở ngoài như chợ vỡ. Không ai để ý là Pa-lê-nứt đã chuồn ra cửa sau trông ra một phố vắng, chạy như gió về ban tham mưu trung đoàn.

Nửa giờ sau, hai bên đánh nhau ra trò, chiến trận dàn ra giữa phố. Có tiếng súng nổ giòn liên tiếp phá tan yên tĩnh ban đêm, tiếng liên thanh vang rền không ngớt. Dân phố rất đỗi kinh ngạc, vội vàng tụt khỏi giường ngủ yên ấm, chạy ra dán mắt vào cửa sổ nhìn.

Dần dần tiếng súng im đi, chỉ còn ngoài mé ngoại ô xa, có tiếng liên thanh vang lên như chó sủa.

Đánh nhau ngớt dần. Sáng rồi...


Tin dữ vang đi khắp thành phố : người ta đồn sắp sửa có cuộc càn Do-thái. Tin đồn ấy chui vào tận những túp lều Do-thái thấp lè tè, cửa sổ ti hí, bám cheo leo trên bờ dốc bẩn của rãnh nước đổ ra sông. Trong những chiếc hộp gọi là nhà ấy, dân nghèo Do-thái sống chen chúc, khổ sở.

Ở nhà in mà Xéc-gây làm đã được hai năm, phần lớn anh em thợ sắp chữ và thợ máy đều là người Do- thái. Xéc-gây thân với anh em như bà con trong nhà. Mà tất cả thợ in là một nhà thật. Họ đoàn kết nhau lại chống lão chủ Bơ-lum-tanh giàu sụ, vênh váo. Giữa chủ và thợ là một cuộc đấu tranh không ngừng. Lão Bơ-lum-tanh chỉ tìm cách bòn rút cho nhiều sức lao động của thợ, mà tiền lương thì trả ít nhất. Cho nên, nhà in thường có khi đóng cửa hàng tuần lễ: thợ in bãi công. Anh em thợ tất cả mười bốn người. Xéc-gây ít tuổi nhất, cũng phải làm mười hai tiếng một ngày, quay máy in quần quật.

Hôm ấy Xéc-gây để ý thấy anh em có vẻ lo lắng, xôn xao. Đã mấy tháng nay, tình hình nguy ngập, nhà in không có việc làm đều, làm xong món hàng này lại phải đợi món hàng khác. Hiện đang in bản hiệu triệu của "đầu lĩnh trưởng”.

Bác thợ sắp chữ Mên-đen kéo Xéc-gây ra một góc, cặp mắt buồn rầu của bác nhìn Xéc-gây hỏi:

- Chú có biết sắp có càn dân Do-thái ở đây không?

Chú bé nhìn bác ta, ngơ ngác:

- Không, em không biết gì cả.

Bàn tay khô đét, vàng khè của Mên-đen để lên vai Xéc gây và nói đầy tin cẩn như cha nói với con:

- Nó định càn thật đấy. Nó sẽ hành hạ dân Do- thái. Anh hỏi chú nhé, chú có lòng giúp anh em trong lúc hoạn nạn này không?

- Nhất định là giúp chứ! Cháu giúp được gì, cháu xin giúp ngay. Xin bác cứ nói đi.

Anh em thợ cũng lắng tai nghe câu chuyện.

- Chú thảo lắm Xê-ri-ô-gia ạ. Anh em chúng tôi tin ở chú. Ông cụ đẻ ra chú cũng là dân thợ nhà ta cả. Chú chạy ngay về nhà nhé, nói với cụ xem có nhận cho mấy người già với đàn bà con gái trốn tạm lại đằng nhà không. Chúng tôi sẽ chọn trước những người sang lánh bên ấy. Rồi nói thêm với nhà xem có còn nhà ai lánh được nữa nhé. Hiện nay bọn phỉ ấy chưa dám đụng đến người Nga. Chú chạy nhanh về hỏi ngay hộ, gấp lắm rồi.

- Được bác cứ tin ở cháu ! Cháu chạy sang hỏi cả nhà Pa-ven và Cơ-lim-ca nữa. Chắc nhà chúng nó cũng không từ chối đâu.

Xéc-gây xăm xăm chạy đi, nhưng Mên-đen thốt nhiên lo ngại níu lại hỏi thêm:

- Hãy gượm một chút, Pa-ven với Cơ-lim-ca là người thế nào? Chú có hiểu bụng họ không?

Xéc gây gật đầu chắc chắn: - Bọn nó thế nào ư? Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin đối với cháu như anh em ruột vậy. Anh của Pa-ven là thợ máy.

Mên-đen yên tâm:

- À, nhà Ca-rơ-sa-ghin anh có biết. Trước cùng thuê chung một nhà. Có thể nhờ vả được đấy. Thôi chú đi, chóng về trả lời cho biết nhé.

Xéc-gây nhảy một bước ra đến đường.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 7-4-2012 13:39:15 | Chỉ xem của tác giả
Sau khi bọn Gô-lúp đánh nhau với bọn Pa-vơ-lúc được hai hôm thì mở ra cuộc càn Do-thái.

Pa-vơ-lúc thua bị đánh bật ra ngoài, liền chiếm lĩnh thị trấn bên cạnh. Trong trận đánh nhau đêm ấy mỗi bên thiệt chừng hai chục mạng.

Xác lính chết đưa vội đến nghĩa địa, chôn ngay hôm ấy, đám tang không kèn, không trống. Vì chết như thế chẳng vinh gì. Hai thằng đầu lĩnh cắn nhau như hai con chó dại đầu đường, làm chết oan lính, nếu tang lễ linh đình thì cũng bất tiện. Kể thì Pa- lê-nứt cũng muốn chôn cất ầm ĩ để kết tội Pa-vơ-lúc là giặc đỏ; song uỷ ban xã hội cách mạng, do lão cố Vát-xi-li cầm đầu không tán thành làm như thế.

Chuyện đánh nhau đêm trước gây bất mãn sâu sắc trong cả đơn vị Gô-lúp, nhất là đại đội vệ sĩ lại càng ấm ức, vì chúng bị sứt mẻ nhất. Để dẹp mối bất bình đó và lấy lại tinh thần cho lính, thằng quan hầu Pa-lê-nứt đề nghị với chủ tướng cho mở "một chầu tươi”. Đấy là tiếng lóng chúng trâng tráo dùng để gọi cái thú nhơ bẩn đi càn Do-thái. Lão quan năm sắp cưới con gái lão chủ hàng cơm, cũng chẳng muốn làm náo động thành phố làm gì, song Pa-lê-nứt tán mãi để lão thấy là phải làm như thế cho lính tráng đỡ bất mãn, nên cuối cùng lão đồng ý.

Thật ra trận càn này cũng làm cho lão quan năm ngài ngại vì lão mới vào Đảng xã hội cách mạng. Vả lại bọn không ưa lão có thể rêu rao lắm chuyện chẳng hay: họ sẽ tung dư luận là lão khát máu Do-thái và thể nào cũng lại ton hót với "đầu lĩnh trưởng” để làm mất uy tín của lão. Nhưng hiện thời Gô-lúp cũng có lệ thuộc chặt gì vào "đầu lĩnh trưởng” Pết-lu-ra đâu mà sợ, vì lão tự kiếm chác lấy để nuôi quân mình, thua được lão chịu cả kia mà. Với lại "đầu lĩnh trưởng” cũng hiểu chán bộ hạ mình thế nào rồi. Hắn đâu có ảo tưởng như là người của hắn có nhân, có đức. Chính hắn nhiều lần cũng ra lệnh cho bộ hạ tịch thu được bao nhiêu thì phải trích một phần gửi lên bộ chỉ huy tiêu dùng, chứ còn nói ai nữa. Còn như tiếng đồn là khát máu Do-thái thì đã hẳn rồi, về khoản ấy danh của Gô-lúp đã vang lừng: chẳng cần thêm thắt gì lắm, đã thành tích chán.

Trận càn bắt đầu lúc mờ sáng.

Một làn sương mờ xám ngoét bao phủ thành phố nhỏ. Phố xá vắng tanh. Đường phố chi chít như một mớ dây vải ướt quấn quanh những khu phố của dân Do-thái mọc lên lộn xộn, và đang im lìm như chết. Những cửa sổ nhỏ đóng kín mít, màn che cửa buông xuống hết, trông những khung cửa như những con mắt người mù.

Đứng ngoài nhìn vào, người ta thấy những khu phố Do-thái dường như đang còn ngủ trưa, say lắm, nhưng thật ra bên trong không ai dám ngủ. Nhà nào nhà ấy đang chờ tai họa giáng xuống. Người nào cũng ăn mặc quần áo sẵn sàng rồi, quây quần trong một căn buồng hẹp, chỉ có những trẻ thơ chưa biết gì mới còn ngủ yên được trên tay mẹ mà thôi.

Sáng hôm ấy, tên đội trưởng vệ sĩ là Xa-lô-mư-ga, da bánh mật, má có sẹo thâm thâm - vết tích một nhát kiếm cũ - lên lay mãi tên quan hầu Pa-lê-nứt.

Tên quan hầu Pa-lê-nứt nặng nhọc thức giấc. Nó còn đắm đuối trong giấc mơ kỳ quặc: con quỷ gù và nhăn như bị cả đêm ám ảnh bây giờ vẫn lấy móng sắc cào cấu cổ họng nó. Nhưng khi ngóc dậy, đầu đau nhức thì hắn mới hiểu: té ra con quỷ ấy là thằng Xa- lô-mư-ga đang lay đầu hắn. Xa-lô-mư-ga lắc vai tên quan hầu:

- Dậy đi thôi, ông thần dịch ơi! Muộn lắm rồi. Đến giờ bắt đầu rồi. Không uống say thêm nữa vào!

Pa-lê-nứt bấy giờ đã tỉnh hẳn, ngồi nhổm dậy; cơn nhức đầu làm hắn nhăn mặt, hắn nhổ bãi nước bọt đắng sè.

- Bắt đầu cái gì? - Hắn trố mắt ngây dại nhìn tên đội trưởng vệ sĩ.

- Còn cái gì nữa? Cái việc tróc bọn Do-thái chứ cái gì nữa. Mày lú lấp rồi sao?

Thật tình, Pa-lê-nứt đã quên khuấy mất cả rồi. Ngày hôm qua, hắn uống rượu chay với Gô-lúp ở dưới ấp. Gô-lúp đem con vợ chưa cưới và lũ bạn rượu của nó về dưới ấy suất thời gian càn này.

Gô-lúp thấy mình vắng mặt trong suốt thời gian càn là rất tiện.

Sau này có sao có thể đổ cho cấp dưới hiểu lầm lệnh trên trong khi chủ tướng vắng mặt. Còn Pa-lê- nứt ở nhà sẽ tha hồ làm tất cả mọi chuyện một cách có ý thức hẳn hoi. Chà, cái món "chầu tươi" ấy thì Pa-lê-nứt là tay thạo có tiếng.

Pa-lê-nứt múc một thùng nước giội lên đầu, thùng nước làm nó tỉnh rượu hẳn. Nó đến ngay ban tham mưu, đi đi, lại lại, ra các mệnh lệnh.

Đại đội vệ sĩ đã lên ngựa. Tên quan hầu tính cẩn thận đã ra lệnh cho lính đứng gác ngăn xóm thợ và nhà ga với trên phố, để tránh mọi phiền phức có thể xảy ra.

Trong vườn nhà Lê-sinh-ski đặt một khẩu súng máy chõ ra đường cái. Nhỡ công nhân có định ập vào cứu thì sẵn sàng quạt đạn chì này.

Chuẩn bị xong đâu đấy, tên quan hầu và Xa-lô- mư-ga lên ngựa.

Khi quân sắp sửa tiến thì Pa-lê-nứt mới chợt nhớ ra:

- Dừng lại, tí nữa thì quên... Đánh hai xe ngựa đi theo: ta phải chuẩn bị đồ mừng đại tá lấy vợ. Hô ! hô ! hô…Chiến lợi phẩm hạng nhất thì biếu chủ tướng như thường lệ. Còn tù binh giống cái hạng nhất thì về ta, phó quan của người. Ha, ha, ha... Mày hiểu rồi chứ, thằng đầu gỗ kia?

Tiếng "đầu gỗ" chỉ Xa-lô-mư-ga.

Mắt vàng ệch của tên này sáng lên:

- Rồi ai cũng có phần cả!

Bọn chúng tiến ra đường. Đi đầu là Pa-lê-nứt và Xa-lô-mư-ga, tiếp theo sau là lũ vệ sĩ đi lộn xộn, không hàng ngũ.

Sương sớm tan hẳn rồi. Đến trước nhà hai tầng, có tấm biển hoen gỉ đề "Phúc, cửa hàng tạp hóa và quần áo", Pa-lê-nứt ghìm cương ngựa lại. Con ngựa cái lông xám của nó chân rất thon, cuồng cẳng gõ móng lên vỉa hè. Pa-lê-nứt nhảy xuống đất ra lệnh:

- Nào, nhờ trời phù hộ, ta bắt đầu từ đây đi thôi.

Nó lại nói thêm với bọn cưỡi ngựa đang đứng bao lấy xung quanh nó:

- Xuống cả đi thôi, bắt đầu biểu diễn rồi. Nghe ta nói, quân bay, giờ có gặp Do-thái cũng đừng bập vào sọ vội: thong thả, rồi hẵng hay. Còn như đối với đàn bà con gái, nếu không thật muốn quá, ta cố kìm lại nhớ, để đến tối.

Một tên vệ sĩ nhe bộ răng bàn cuốc ra hỏi lại:

- Cấp trên nói kìm lại thế nào cơ? Nhỡ bên kia nó bằng lòng mê đi thì sao?

Nghe tên quân kia nói thế, cả lũ chúng nó cười như phá. Pa-lê-nứt nhìn tên quân ấy có vẻ khen ngợi:

- Chuyện! Nếu bên kia nó bằng lòng thì cứ việc! Còn ai mà có quyền cấm chú được nữa.

Nói rồi, nó đến trước hiệu buôn, lấy chân đá mạnh vào cửa đóng kín, cánh cửa gỗ sến cả tấm không rung chuyển một tí nào.

Không vào lối này được, tên quan hầu quay ra góc nhà đi lại cửa bên vào nhà ở của lão chủ. Tay hắn nắm đốc kiếm. Theo sau là Xa-lô-mư-ga.

Trong nhà có ba người. Họ đã nghe rõ tiếng móng ngựa lộp cộp trên vỉa hè, song đến khi nghe tiếng ngựa đứng giậm chân mãi ngoài cửa, tiếng bọn lính qua tường vọng vào trong, thì cả ba đều bay hết hồn vía, đứng ngây ra như chết.

Lão Phúc giàu sụ đã cùng vợ con bỏ thành phố này đi, chuồn khỏi đây từ hôm qua. Hắn giao nhà cửa lại cho người ở là Ri-va trông nom. Ri-va là một cô gái mười chín tuổi, tính hiền, ít nói và nhẫn nhục. Muốn cho Ri-va ở nhà vắng một mình đỡ sợ, lão bảo cô đưa cả bố mẹ già đến ở. Cả ba người phải trông nhà cho đến khi lão về.

Ri-va chực không nhận, song lão nhà buôn quỷ quyệt đó lại dỗ ngon, dỗ ngọt cô con ở dễ bảo: chắc đâu đã có càn. Với lại có gì mà sợ mới được: nghèo thì ai người ta lấy gì của mình. Rồi lão còn làm ra bộ nhân đức, hứa với Ri-va hôm nào lão về sẽ thưởng cho chiếc áo mới.

Cả ba đều lo lắng, nghe ngóng, cố bám lấy hy vọng: nào bọn lính có lẽ sắp sửa bỏ chỗ này đi xa, nào có thể chính là chúng lầm, có thể chúng không dừng lại ở trước cửa nhà này đâu, chẳng qua là tại mình nghe lẫn đấy thôi. Nhưng, như để đập vỡ tan tành những hy vọng đó, tiếng đập thình thình nện vào cửa.

Nghe thấy tiếng giày đá vào cửa, ông cụ Bê-sắc, bố đẻ Ri-va, tóc bạc phơ, mắt xanh hốt hoảng như một đứa trẻ thơ khiếp sợ, đứng bên cửa nhà ngoài, cất tiếng lâm râm cầu nguyện. Ông cụ sùng đạo, mê man cầu xin Thượng đế tối linh phù hộ, cầu Thượng đế che chở cho, để quỹ dữ không gieo tai giáng họa xuống nhà này. Bà cụ, đứng nép bên cạnh, tiếng lâm râm cầu kinh của ông cụ làm bà không nhận ra ngay được những tiếng chân người đang bước tới gần.

Ri-va thì trốn vào buồng trong cùng, nấp sau một cái tủ gỗ sến lớn.

Một tiếng đập mạnh, dữ dội, giáng vào cửa làm hai ông bà già run bắn người.

- Mở cửa! - Tiếng đập cửa nữa ầm ầm, dữ hơn, rồi có tiếng chửi rủa điên giận.

Nhưng tay ông bà già không còn đủ sức nâng then cài nữa.

Thế là báng súng từ bên ngoài nện chan chát vào ván cửa. Cánh cửa rung lên bần bật, rồi vỡ toang ra.

Lính cầm súng ập vào nhà, sục sạo các xó. Chúng lại lấy báng súng phá cửa ra nhà ngoài, rồi đi ra nâng then cài mở cửa chính.

Bắt đầu cướp phá vơ vét.

Xa-lô-mư-ga đánh về nhà Gô-lúp hai xe ngựa đầy vải vóc, giày dép và nhiều thứ hàng khác; khi nó trở lại nhà hàng Phúc, thì nghe một tiếng rú ghê rợn.

Để cho quân lính lục lọi ngoài hàng, Pa-lê-nứt đi vào buồng trong. Mắt nó xanh lè và sắc nhìn chòng chọc vào ba người Do-thái khốn nạn, rồi nói với vợ chồng ông già:

- Cút !

Cả hai ông bà già không nhúc nhích.

Pa-lê-nứt bước lên một bước, từ từ rút kiếm ra khỏi vỏ.

- Mẹ ! Mẹ ơi !... - Tiếng .Ri-va rú lên như xé. Tiếng rú ghê rợn mà Xa-lô-mư-ga nghe thấy chính là tiếng rú đó.

Bọn lính nghe thấy tiếng rú chạy vào thì Pa-lê- nứt quay lại, chỉ vào hai ông bà già, ra lệnh cộc lốc cho bọn lính:

- Tống cổ hai vợ chồng thằng già này đi!

Khi quân lính đã đẩy được hai vợ chồng ông cụ đi rồi, hắn bảo Xa-lô-mư-ga:

- Mày hãy đợi ngoài ấy đã, ta có tí chuyện cần nói với con bé này.

Nghe tiếng kêu của con gái, ông lão Bê-sắc xô lại phía cửa thì bị ngay một quả tống vào ngực đến uỵch một cái, khuỵu người vào tường. Ông lão bị đau nghẹn sằng sặc. Bà cụ thường lành như bụt, lúc ấy chồm lên như con sói dữ vồ lấy thằng Xa-lô-mư-ga.

- Buông cho tao vào, chúng mày làm gì thế?

Bà cụ cố sức xông vào cửa, Xa-lô-mư-ga không tài nào gỡ được ngón tay bà cụ cứ nắm riết lấy áo hắn. Ông cụ Bê-sắc hồi lại chạy đến cứu vợ.

- Để chúng tao vào, để chúng tao vào, ối trời đất ơi! Con tôi !

Hai vợ chồng ông lão xúm vào đầy được Xa-lô-mư- ga ra ngoài cửa. Tên giặc nổi xung, rút báng súng ngắn nện vào đầu bạc của ông già làm cụ Bê-sắc ngã lăn ra đất, không kêu được một tiếng.

Trong buồng, tiếng Ri-va kêu thét lên.

Bị chúng kéo tuột ra ngoài đường, bà cụ căm uất như điên như dại, tiếng bà la trời thảm thiết và kêu cứu tuyệt vọng vang inh cả phố xá.

Trong nhà tiếng kêu đã tắt.

Pa-lê-nứt ở buồng nhốt Ri-va bước ra, Xa-lô-mư- ga lúc đó đã sờ tay vào quả đấm mở cửa, đến lượt hắn chực vào, nhưng Pa-lê-nứt nắm tay hắn lại, quay mặt đi nói:

- Thôi, đừng vào nữa. Nó đi đời nhà ma rồi; tao đã lấy gối phủ lên mặt nó.

Pa-lê-nứt bước qua xác ông cụ Bê-sắc, chân hắn nhúng vào một vũng máu đặc sệt và đen ngòm.

- Mẹ kiếp! Tiền đầu bất lợi!

Miệng lẩm bầm thế, hắn bước ra. Quân của hắn lặng lẽ kéo đi ra sau, và sàn nhà, bậc cửa bê bết những vết giày dính máu đỏ lòm.

Khắp cả thành phố đâu cũng có cướp phá. Bọn hung hãn tranh cướp nhau mồi ăn, thộp lấy cổ họng nhau như một lũ chó sói. Đây đó, lưỡi kiếm tuốt ra khỏi vỏ lóe sáng khoa lên trời.

Những thùng rượu bằng gỗ sến, to tướng từ trong nhà hàng rượu lăn ra mặt đường cái.

Rồi bọn cướp xông vào phá các nhà.

Không ai chống cự lại. Chúng ập vào các buồng vội lục lọi mọi xó, lúc đi ra thì nặng trĩu tay những của cải cướp bóc được, để lại hàng đống bừa bãi những giẻ rách, những gối và những đệm rách tứ tung, lông rơi lả tả. Ngày đầu mới chỉ có hai người chết : cha con Ri-va! Nhưng đêm đến, tai họa chết chóc mới ghê người hơn nữa.

Đến chập tối, tất cả toán quân đủ loài thú dữ này, đứa nào cũng say máu và say rượu. Bọn lính của Pết- lu ra đầu óc chuếnh choáng hơi men, đã mất cả lương tri rồi, chỉ chở đêm tối đến.

Bóng tối xuống, chúng càng được thả tay hơn. Trong đêm tối càng dễ bóp chết mạng con người. Bọn sói lang cũng ưa bóng tối để dễ cắn xé những người đang hấp hối.

Nhiều người không bao giờ quên được hai đêm và ba ngày khủng khiếp ấy. Bao nhiêu cuộc đời đã bị thương tổn, tan vỡ, bao nhiêu mái tóc xanh đã bạc đi rất nhanh trong những giờ đẫm máu này, bao nhiêu nước mắt đã tuôn rơi ! Và có ai thấu cho chăng: những người còn sống sót có sung sướng hơn đâu! Sung sướng làm sao được khi tâm hồn bị trống trải, khi lòng bị nỗi nhục nhã chưa từng có đến giày vò ghê gớm, tâm tư phiền muộn, tiếc thương những người thân đã mất đi không bao giờ trở lại nữa. Trong các ngõ chật chội của xóm Do-thái, những tấm thân còn trẻ của những người con gái đau thương nằm trơ trơ, hai tay duỗi hất ngược, mình bị đâm, bị chém, bị hành tội, vẫn còn nguyên dấu quằn quại trong cơn giãy giụa, kháng cự.

Mãi ở tận ngoài bờ sông, trong căn nhà nhỏ của người thợ rèn Na-um, bọn hùm beo háu mồi chực hiếp chị vợ anh Na-um, mới gặp phải sức kháng cự dữ nhất. Anh thợ rèn Na-um đang sức trai hăm bốn tuổi, to như lực sĩ, bắp thịt rắn như thép quen quai búa sắt đâu có chịu để vợ mình bị nhục.

Trong cuộc xô xát ngắn ngủi và khủng khiếp, hai chiếc sọ ngụy binh băng đi, vỡ ra từng mảnh như một quả dưa hấu thối. Na-um bừng bừng khí uất của kẻ đằng nào cũng chết, đánh rất dữ để cứu mạng mình và cả mạng vợ nữa. Anh giằng lấy súng bắn lại hồi lâu, tiếng súng giòn giã nhằm vào phía bờ sông có quân lính Gô-lúp thấy nguy đang chạy đến cứu. Na-um bắn hết đạn, viên cuối cùng gửi vào ngực vợ còn mình thì lắp lưới lê vào súng xông thẳng lên trước cái chết. Đạn giặc bắn như mưa. Na-um vừa bước ra thềm đã ngã, tấm thân cao lớn rơi phịch xuống đất.

Người ta thấy mặt bọn phú nông béo núc ở vùng quê gần đấy dắt xe đến. Ngựa của chúng béo tốt. Chúng chất lên xe tất cả những thứ gì chúng thích mắt, chở đi vội vội vàng vàng. Con cái hoặc bà con chúng là ngụy binh cho đầu lĩnh Gô-lúp, giúp chúng chất hàng lên xe. Chúng chở về, rồi lại hối hả đánh xe ra, làm hai, ba chuyến nữa.

Xéc-gây cùng với cha vừa đưa một nửa số anh em thợ in đi ẩn, nhường cho họ hầm nhà và gác xép. Đi qua vườn để trở về nhà. Xéc-gây trông thấy một người đang chạy trên đường.

Đấy là một ông cụ Do-thái vừa chạy vừa thở hổn hển, tay vung vầy, đầu không mũ, người lóng nga lóng ngóng trong chiếc áo dài lòng thòng và vá chằng vá đụp, mặt tái mét vì khiếp sợ. Đằng sau là một tên lính Pết-lu-ra cưỡi con ngựa xám phóng theo. Nó đã đuổi tới gần, người nó chực cúi xuống chém. Nghe tiếng vó ngựa lóc cóc sau lưng, cụ giơ tay lên như để tự vệ. Xéc-gây liền nhảy bổ ra đường phố, xông ra trước con ngựa, lấy người mình che đỡ cho ông cụ già:

- Không được đụng vào cụ già, đồ ăn cướp, đồ chó! Tên lính ngụy đang đà tay không muốn kìm lại, liền trở sống kiếm đập vào mái đầu trẻ vàng hoe.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 8-4-2012 19:19:45 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG V

Quân đỏ mạnh mẽ đánh lui các đơn vị của "đầu lĩnh trưởng” Pết-lu-ra. Trung đoàn Gô-lúp lại bị gọi ra trận. Ở thành phố Sê-pê-tốp-ca chỉ còn một số nhỏ quân làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương và tên giám binh ở lại mà thôi.

Dân phố đã bắt đầu cựa quậy, đi lại. Đồng bào Do- thái lợi dụng lúc tạm yên, chôn cất người nhà bị nạn. Trong những túp lều tàn của xóm Do-thái, cuộc sống đã trở lại.

Những buổi tối yên tĩnh, tiếng súng nổ ì ầm thoáng vọng lại như những dịp sấm. Chắc là đang đánh nhau dữ ở đâu gần đây.

Thợ xe lửa bỏ nhà ga bò về thôn quê kiếm việc làm.

Trường học đóng cửa.

Trong thành phố, tuyên bố thiết quân luật.


Đêm tối như mực, ảm đạm, ghê rợn.

Những đêm như thế này, mắt sáng có mở to cũng không nhìn thấy gì, đi đâu phải sờ soạng, mò mẫm như người mù, sẩy chân một tí là rơi tõm xuống hố rãnh.

Dân phố biết thời buổi này ngồi nhà không thắp đèn là hơn cả. Có ánh lửa trong nhà có thể làm cho nhiều kẻ mò đến quấy rầy. Thà chịu tối còn yên thân hơn. Nhưng có những người ngồi yên không đành, thì họ cứ đi cho thích cẳng, dân phố chẳng có việc gì dính dáng đến họ. Dân không đi đâu làm gì. Chắc chắn như vậy, chẳng ai dại gì đi ra đường lúc này.

Vậy mà vào một đêm cũng tối như thế này, có người lần bước đi.

Đến nhà Ca-rơ-sa-ghin, người ấy thận trọng gõ khẽ vào khung cửa sổ. Thấy không ai trả lời, người ấy gõ lần nữa, mạnh hơn và gấp hơn.

Pa-ven đang nằm mê thấy một con vật lạ lùng, không giống người, đang chĩa súng máy vào anh; anh định chạy, nhưng chạy đi đâu được, tiếng súng máy cứ nổ lạch cạch, lạ lùng, ghê rợn.

Tiếng gõ lanh canh vào cửa kính đang giục mở cửa gấp.

Pa-ven từ trên giường nhảy xuống, men lại gần cửa sổ nhìn xem ai gõ. Nhưng ngoài bóng đen lờ mờ thấp thoáng sau cửa kính, cậu không nhìn rõ là ai.

Pa-ven ở nhà một mình. Mẹ sang chơi bên nhà chị gái có chồng làm thợ máy ở xưởng làm đường. Còn anh A-rơ-chom thì đi làm ở lò rèn thị trấn bên, quai búa để kiếm ăn.

"Chắc là A-rơ-chom gõ cửa chứ không ai nữa". Pa- ven định mở cửa, cậu nói vọng vào bóng tối: "Ai đấy?"

Bóng đen cử động sau cửa kính. Tiếng trả lời khàn khàn khe khẽ:

- Anh đây mà! Giu-khơ-rai đây.

Hai bàn tay bám lên thành cửa sổ, Giu-khơ-rai đã nhô đầu vào ngang mặt Pa-ven. Giu-khơ-rai thì thào:

- Anh định đến ngủ nhờ nhà em một đêm. Có được không, em?

Pa-ven vồn vã đáp lại: - Anh hỏi hay thật, nhất định là được chứ, anh trèo qua cửa sổ mà vào.

Thân hình lực lưỡng của Giu-khơ-rai luồn qua khung cửa vào nhà. Anh đóng cửa sổ lại, không đi vào ngay, còn đứng bên cửa nhìn ta, tai vểnh lên nghe ngóng. Mãi khi bóng trăng từ sau đám mây ló ra, soi rõ đường phố, anh chăm chú nhìn đường phố vắng tanh, không có ai, mới quay lại nói với Pa-ven:

- Vào thế này có làm mất giấc của mẹ không, em? Chắc mẹ đang ngủ?

Pa-ven nói cho Giu-khơ-rai biết cậu ở nhà một mình. người lính thủy bấy giờ mới thấy thoải mái và nói to hơn:

- Em thấy đấy, từ hôm nổ ra bãi công, bọn chó không rời anh một bước, chúng nó muốn đập chúng ta sau những việc vừa xảy ra ngoài ga dạo nọ. Nếu anh em công nhân đoàn kết hơn, thì trong khi chúng nó càn đồng bào Do-thái, ta có thể sửa cho chúng một mẻ... Nhưng em hiểu không, bà con mình còn chưa dám nhảy vào lửa, chưa dám vùng lên. Cho nên thất bại. Bây giờ chúng lùng bắt anh. Hai lần chúng đã ập đến định chộp anh. Hôm nay tí nữa anh bị chúng vớ được. Anh đi về nhà, trèo tường sau vào như mọi lần. Anh còn đang dừng chân một lát ở gần nhà chứa xe thì thấy ngay một lưỡi lê lù lù: một thằng đứng rình nấp sau thân cây trong vườn. Thế là anh chuồn thẳng, đến nhà em đây. Anh tính thả neo ở đây vài ngày. Em thấy không có gì trở ngại chứ? Không à? Thế thì hay lắm.

Giu-khơ-rai vừa cởi đôi giày bết bùn vừa thở lấy lại sức.

Giu-khơ-rai tới đây, Pa-ven lấy làm mừng lắm. Những ngày gần đây, sở máy điện nghỉ việc. Ở nhà vắng vẻ một mình, Pa-ven cũng thấy chán.

Hai anh em đi ngủ. Pa-ven nằm là ngủ ngáy, còn Giu-khơ-rai thì hút thuốc lá mãi. Rồi anh đứng dậy, khẽ rón rén chân không, mò đến gần cửa sổ. Anh nhìn ra đường phố hồi lâu. Không thấy gì, anh lại trở vào giường và mệt quá ngủ thiếp đi. Bàn tay anh luồn dưới gối đặt lên một khẩu súng ngắn nặng. Hơi nóng của bàn tay làm ấm cả khẩu súng.


Cái đêm Giu-khơ-rai đến bất ngờ và tám ngày sau sống chung với anh thật có ảnh hưởng rất lớn đối với Pa-ven. Lần đầu tiên, Pa-ven được nghe người thuỷ thủ nói nhiều điều mới lạ, quan trọng vô cùng làm tâm hồn anh hết sức khích động. Những ngày vừa qua thật là quyết định cho tương lai cậu công nhân đốt lò trẻ tuổi.

Người lính thủy ẩn tại đây, bị quân thù giăng bẫy mai phục ở hai đầu, anh tranh thủ lúc bất đắc dĩ  phải nằm im này, truyền cho chàng thanh niên háo hức lắng nghe anh nói tất cả ngọn lửa giận dữ và lòng căm thù bốc cháy của mình đối với bọn phản động mang cờ vàng xanh đang bóp nghẹt miền này.

Giu-khơ-rai nói rõ ràng dễ hiểu; lời nói giản dị, đi thẳng vào lòng. Ở Giu-khơ-rai, không một mảy may hoang mang, do dự. Anh biết rõ và tin chắc con đường mình theo, và Pa-ven bây giờ mới hiểu tất cả một mớ đảng phái mang tên rất kêu ấy, từ "xã hội cách mạng” đến "xã hội dân chủ”, "xã hội Ba Lan", gồm toàn những kẻ thù hiểm độc của giai cấp công nhân. Chỉ có một chính đảng cách mạng duy nhất, kiên quyết chiến đấu chống bọn giàu có áp bức, đấy là Đảng bôn-sê-vích.

Trước kia, Pa-ven thấy tất cả những điều ấy rối như bòng bong.

Và bây giờ, có người vạch ra cho cậu bé đốt lò trẻ tuổi thấy rõ sự thật tàn nhẫn của cuộc đời, người đó là một người cương nghị, một đảng viên bôn-sê-vích trung kiên, một thủy thủ trên biển Ban-tích, nước da rám màu gió biển, một người đã vào Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (Tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô) từ năm 1915; Pa-ven lắng nghe Giu-khơ-rai, nói nhìn anh với cặp mắt thán phục.

- Này em ạ ! Khi anh còn bé, anh cũng gần giống như em. Anh có sức khỏe mà không biết làm gì. Bản chất anh bướng bỉnh, hung hăng. Gia đình anh nghèo khổ Hễ cứ nhìn bọn con nhà giàu, ăn no, mặc diện là lòng anh căm ghét sôi lên. Nhiều khi anh choảng chúng không tiếc tay, song không đi đến đâu, mà chỉ tổ ăn vọt của ông cụ đẻ ra anh. Em ạ, một thân một mình chiến đấu chẳng tài nào thay đổi được cuộc đời. Em Pa-ven, em đủ điều kiện để trở nên một chiến sĩ trung thành chiến đấu cho sự nghiệp công nhân ta. Nhưng chỉ hiềm em còn non quá, về ý thức đấu tranh giai cấp, em rất lờ mờ. Anh sẽ chỉ cho em con đường chân chính vì anh biết em có thể thành người. Anh không chịu được những cậu cả ù ì, bụ sữa. Lúc này đây, lửa cách mạng đã nung nấu thế gian. Những người nô lệ đã vùng dậy và họ phải đạp phăng cuộc đời cũ Nhưng muốn thế, phải có một lớp người tương thân, tương ái và dũng cảm, không phải những đứa con cưng rúc bọc mẹ, mà là những tay chắc chắn, để đến giờ quật nhau thì không như loài gián sợ ánh sáng lẩn trốn vào khe vách, mà là biết xông ra đập không thương tiếc.

Nói đến đây, Giu-khơ-rai nắm tay đấm xuống bàn.

Anh đứng dậy đút tay vào túi quần, cau mày, đi đi lại lại trong phòng.

Cảnh nằm im không hoạt động đối với Giu-khơ- rai nặng nề khó chịu. Anh thấy mình ở lại thị trấn này thêm nữa vô ích, nên đã quyết định vượt qua mặt trận về bắt liên lạc với các đơn vị đỏ.

Trong thành phố hiện còn lại một nhóm chín đảng viên có trách nhiệm tiếp tục gây cơ sở.

Giu-khơ-rai bực tức nghĩ thầm: "Không có ta, các đồng chí cũng sẽ làm được, ta không thể nào ngồi bó tay như thế này. Ta đã mất ở đây mười tháng trời, cũng đủ rồi".

Một hôm Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai: - Anh Giu-khơ-rai, anh là ai thế hở anh?

Giu-khơ-rai tay đút túi, đứng dậy. Anh chưa hiểu ngay ý câu hỏi ra sao: - Sao, em không biết anh là ai ư?

Pa-ven khẽ đáp lại: - Em cho anh là một người bôn-sê-vích hay là một người cộng sản.

Giu-khơ-rai bật cười, đấm tay vào ngực rộng bị bó chặt trong chiếc may ô lính thủy kẻ dọc:

- Đúng thế, em ạ. Đúng, cũng như hai tiếng bôn- sê-vích và cộng sản nghĩa chỉ là một mà thôi. - Và nghiêm nét mặt, anh nói tiếp:

- Nhưng, em đã biết thế thì phải nhớ đừng nói hở điều đó với ai, nếu em không muốn chúng nó móc ruột anh. Em hiểu chứ?

Pa-ven giọng quả quyết, đáp lại: - Vâng, em hiểu.

Ngoài sân có tiếng nói giòn giã; một bọn người không gõ cửa cứ xồng xộc vào. Giu-khơ-rai sờ tay vào túi định rút súng ngắn, nhưng lại thôi ngay. Bước vào nhà là Xéc-gây, xanh và gầy hơn trước, đầu quấn băng, cùng đi với Va-li-a và Cơ-lim-ca.

- Chào cậu ạ! - Xéc-gây vừa cười vừa bắt tay Pa- ven. - Ba chúng mình đến thăm cậu. Va-li-a không dám để tớ đi đâu một mình, cô ấy sợ. Còn Cơ-lim- ca không dám để Va-li-a đi đâu một mình, cậu ấy cũng sợ nốt. Cậu ta tuy tóc đỏ hoe, mà khôn ra phết đấy.

Va-li-a lấy tay bịt mồm anh, cười nói: - Anh đến ba hoa. Từ sáng giờ anh ấy cứ trêu mãi, làm anh Cơ-lim-ca đến khổ.

Cơ-lim-ca cười hồn nhiên, để lộ hàm răng trắng nhởn: - Em trách làm gì người ốm ! Sọ cậu ấy bị nó nện vỡ rồi, nên cậu ấy nói lung tung đấy mà.

Cả bọn cười ầm lên.

Xéc-gây bị thương vì kiếm phang vào đầu, chưa khỏi hẳn. Cậu ngồi lên giường Pa-ven. Câu chuyện giữa mấy người bạn liền nở như ngô rang. Xéc-gây xưa nay vốn tính vui nhộn, bây giờ trở nên trầm lặng. Anh kể lại cho Giu-khơ-rai nghe chuyện tên lính ngụy đánh mình.

Giu-khơ-rai quen biết tất cả bọn trẻ đó. Anh cũng đã từng nhiều lần đến nhà Bơ-ru-giắc. Anh mến đám thanh niên công nhân ấy. Họ chưa tìm được đường đi trong cơn giông tố của đấu tranh, nhưng họ đã tỏ rõ những khát vọng của giai cấp mình. Và anh chăm chú nghe ba thiếu niên kể chuyện, mỗi người trong bọn họ đã giấu các gia đình Do-thái trong nhà mình để cứu giúp đồng bào Do-thái qua khỏi trận càn. Và đêm ấy, Giu-khơ-rai nói rất nhiều về Lê-nin, về những người bôn-sê-vích, giúp cho đám thanh niên hiểu rõ hơn những sự việc đang xảy ra.

Đến tận khuya, .Pa-ven mới tiễn ba bạn ra về.

Cứ tối tối Giu-khơ-rai thường đi vắng, tận đêm khuya mới về. Trước khi rời bỏ nơi này, anh đến gặp các đồng chí ở lại hoạt động để bàn về công tác phải làm sau khi anh rút đi nơi khác.

Đêm ấy, Giu-khơ-rai đi không thấy trở về. Sáng ngủ dậy, Pa-ven thấy giường Giụ-khơ-rai chăn đệm vẫn nguyên không có ai nằm.

Pa-ven linh tính thấy lo lo, sợ xảy ra chuyện không hay, bèn khoác vội áo đi ra. Pa-ven đóng cửa và giấu chìa khóa vào một chỗ mà Giu-khơ-rai đã biết, rồi đi thẳng đến nhà Cơ-lim-ca hỏi thăm xem có biết gì về Giu-khơ-rai không. Mẹ Cơ-lim-ca, người đẫy đà, khuôn mặt to hơi rỗ, đang giặt quần áo, nghe Pa-ven hỏi Giu-khơ-rai thì tru tréo lên:

- Mày tưởng tao không có việc gì làm, suốt ngày chỉ canh nhà bác Giu-khơ-rai cho mày đấy chắc? Chỉ tại cái bác khập khiễng ấy mà nhà bà cụ Dô-du-li- kha bị khám xét tung cả lên. Không hiểu mày cần gì bác ta mà mày cứ quấn lấy bác ấy? Mày không đánh bạn với người ta được. Rõ khéo được một lũ Cơ- lim-ca, nhà bác ta với mày... - Vừa nói, bà vừa vò mạnh thêm đống quần áo đang giặt.

Bà mẹ Cơ-lim-ca vốn là người đàn bà lắm điều, ăn nói chua ngoa.

Từ nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven lại tạt sang nhà Xéc- gây nói cho bạn biết mối lo lắng của mình. Nghe Pa- ven kể, Va-li-a nói xen vào:

- Gì mà anh cứ cuống lên thế. Có thể anh ấy nấn ná ở lại chơi nhà ai quen. - Nhưng giọng Va-li-a tỏ ra cũng không tin điều mình nói lắm.

Nhà Xéc-gây cố nài anh ở lại ăn cơm, nhưng Pa- ven chẳng còn bụng nào ở lại được, anh cảm ơn rồi ra về.

Về gần đến nhà, Pa-ven ước thầm sẽ thấy Giu-khơ-rai. Cửa nhà vẫn khóa như cũ. Pa-ven đứng sững trước cửa, lòng nặng trình trịch chẳng buồn bước vào căn nhà vắng.

Anh đứng ngoài sân suy nghĩ một lúc, rồi không hiểu nghĩ sao, đi xuống nhà dưới. Anh trèo lên xà nhà, vuốt mạng nhện dính ở mặt, từ một góc kín, rút ra khẩu súng ngắn Man-li-khe bọc giẻ nặng trĩu. Khẩu súng lủng lẳng trong túi, Pa-ven bước ra cửa đi lên nhà ga.

Chạy khắp mọi nơi, không được tin gì về Giu-khơ- rai cả.

Trên đường về, qua biệt thự quen thuộc nhà người chánh kiểm lâm, Pa-ven chậm bước lại. Một mối hy vọng mơ hồ làm anh ngước nhìn lên cửa sổ, nhưng vườn và nhà đều vắng không một bóng người. Khi đi qua rồi, Pa-ven còn ngoái lại, nhìn một lần nữa các lối đi trong vườn phủ đầy lá khô màu gỉ sắt. Cảnh vườn thật hoang vắng, hiu quạnh, chắc cả nhà đi vắng xa, không ai trông coi. Cảnh tượng im lìm, vắng ngắt của tòa nhà cổ càng gợi mối buồn của Pa-ven.

Pa-ven và Tô-nhi-a vừa giận nhau một trận găng nhất từ trước đến nay. Câu chuyện xảy ra bất ngờ, đã gần tháng nay rồi.

Thủng thẳng đi xuống phố, tay đút túi quần, anh vừa đi vừa nhớ lại chuyện giận nhau với Tô-nhi-a hôm trước.

Một hôm đang đi ngoài phố tình cờ gặp nhau, Tô- nhi-a mời Pa-ven đến chơi nhà.

- Chiều mai cậu mợ em đến nhà bác Bon-san-ski ăn cỗ. Em ở nhà một mình. Đến chơi với em, anh Pa- vơ-lu sa nhớ, chúng mình sẽ cùng nhau đọc cuốn truyện hay lắm, truyện Xa-sơ-ca Gi-gu-lếp của An- đơ rê-ép. Em đã xem truyện ấy rồi, nhưng em thích đọc lại với anh, anh ở chơi cả tối thì vui lắm. Anh đến chứ? ( Pa- vơ-lu sa cũng là tên Pa-ven, nhưng gọi rất thân mật).

Dưới vành mũ nhỏ màu trắng phủ lấy mái tóc nâu dày màu hạt dẻ, cặp mắt to của Tô-nhi-a nhìn Pa- ven chờ đợi trả lời.

- Đồng ý, anh sẽ đến.

Và họ chia tay nhau.

Pa-ven rảo bước đến nhà máy. Suốt ngày hôm ấy, anh cứ nghĩ mãi đến cả một buổi tối sẽ được ở chơi với Tô-nhi-a, hai người sẽ ở bên nhau. Nghĩ thế, anh cảm thấy hình như ngọn lửa cháy càng sáng hơn và củi nổ lách tách vui hơn.

Tối đến, khi Pạ-ven gõ cửa chính, Tô-nhi-a mở cửa, nói hợi lúng túng:

- Em có khách. Họ tự nhiên đến, chứ em không mời. Nhưng anh cứ vào, anh Pa-vơ-lu-sa ạ.

Pa-ven quay ra cửa, chực bước đi, Tô-nhi-a nắm lấy tay áo anh:

- Anh cứ vào, anh ạ. Họ được quen anh cũng tốt cho họ.

Rồi Tô-nhi-a khoác tay dẫn Pa-ven qua nhà ăn đến phòng mình. Vào đến nơi, Tô-nhi-a mỉm cười giới thiệu với bọn thanh niên nam nữ đang ngồi đó:

- Chưa quen nhau phải không? Đây là anh Pa- ven Ca-rơ-sa-ghin, bạn tôi.

Bọn ấy có ba người, đang ngồi ở quanh chiếc bàn tròn kê giữa phòng. Li-da, em gái Xu-khác-cô, nữ sinh rất kháu, da ngăm ngăm, miệng xinh xinh có vẻ hay làm nũng, mái tóc chải uốn đỏm dáng. Rồi đến một anh chàng mà Pa-ven không biết là ai, người dong dỏng, mặc áo đen lịch sự, tóc chải bóng mượt, mắt xám, có cái nhìn đầy vẻ chán chường. Người ngồi giữa là Vích-to Lê-sinh-ski, diện bộ quần áo học sinh rất bảnh. Chính hắn là người Pa-ven trông thấy trước tiên, khi Tô-nhi-a vừa hé cửa.

Hắn cũng nhận ra Pa-ven ngay. Đôi lông. mày nhỏ, cong của hắn rướn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên.

Pa-ven lặng lẽ dừng ở cửa một lát, mắt gườm gườm nhìn thằng Vích-to. Tô-nhi-a muốn phá sự im lặng không khéo đó của Pa-ven, liền mời anh vào và quay lại giới thiệu với Li-da:

- Li-da, làm quen đi.

Li-da đứng lên tò mò nhìn Pa-ven.

Pa-ven đột nhiên quay phắt lại và bước nhanh qua căn phòng ăn nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng, anh đi thẳng ra cửa. Tô-nhi-a đuổi theo đến hiên nắm lấy vai Pa-ven, giọng xúc động:

- Sao anh lại bỏ đi? Em chủ ý muốn mời anh vào để chúng nó được làm quen với anh cơ mà!

Nhưng Pa-ven gỡ tay Tô-nhi-a ra, trả lời xẵng:

- Thôi cô không cần đem tôi ra bêu trước mặt những quân ấy. Tôi không có việc gì phải dây với chúng nó. Có lẽ cô thích chơi với bọn chúng, côn tôi thì tôi chí ghét. Nếu biết trước cô thân với lũ ấy, tôi đã chẳng bao giờ đến đây đâu.

Tô-nhi-a cố nén giận, ngắt lời Pa:ven: - Tại sao anh lại ăn nói với em như thế? Em chưa từng hỏi anh chơi thân với ai, ai hay đến thăm anh.

Pa-ven vừa bước xuống thềm ra vườn, vừa nói dỗi: - Thôi, cô cứ việc giữ lấy bọn bạn ấy của cô. Còn tôi thì tôi không đến đây nữa đâu.

Nói rồi, Pa-ven chạy ra hàng rào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 8-4-2012 19:31:15 | Chỉ xem của tác giả
Từ ngày ấy đến giờ, Pa-ven chẳng có lần nào gặp lại Tô-nhi-a nữa. Những ngày giặc càn Do-thái, Pa- ven và người thợ điện cùng làm với anh bận tìm chỗ cho gia đình đồng bào Do-thái ẩn ở sở điện, vì mải việc nên cũng quên cả câu chuyện giận nhau với Tô- nhi-a hôm trước. Hôm nay Pa-ven chừng như muốn gặp lại Tô-nhi-a.

Giu-khơ-rai thì biến đâu mất, về nhà thì chỉ thấy vắng vẻ, trơ trọi một mình. Điều đó làm cho Pa-ven rất khổ. Dải đường màu xám còn ướt bùn lầy của tuyết tan mùa xuân, lồi lõm ổ gà đầy một thứ nước đục màu nâu, chạy ngoặt sang bên phải.

Ở phía sau căn nhà nhô ra đường cái, tường loang lổ róc hết vữa, hai phố gặp nhau.

Đến ngã tư, chỗ cái quán đổ nát, cửa đã sập còn mang tấm biển treo ngược "Đây bán nước suối", Vích- to Lê-sinh-ski chia tay Li-da.

Nắm bàn tay Li-da trong tay mình, Vích-to nhìn người yêu tình tứ

- Thế nào cũng đến chứ em? Đừng sai hẹn nhớ !

Li-da giọng lẳng lơ, đáp lại: - Em sẽ đến! Em sẽ đến! Anh đợi nhé!

Cô ta bước đi còn nheo đôi mắt nâu màu hạt dẻ, lẳng và hứa hẹn, cười tình với Vích-to.

Li-da đi chưa được mười bước thì thấy hai người đàn ông từ chỗ ngoặt bước ra phố lớn. Một người ra dáng thợ đi trước, người đẫy, ngực rộng, áo vét-tông mặc ngoài phanh ra để lộ chiếc áo may-ô lính thủy kẻ sọc, mũ cát-két đen đội sụp xuống trán, một bên mắt sưng húp tím bầm.

Người ấy bước vững chắc, chân xỏ giày da vàng không cổ, đi hơi khập khiễng.

Sau người ấy là một tên lính ngụy Pết-lu-ra đi cách ba bước. Hắn mặc toàn đồ xanh xám, mang hai bao đạn ở dây lưng, lưỡi lê cắm đầu súng chĩa thẳng vào lưng người đi trước.

Hai con mắt ti hí của tên ngụy, từ dưới vành mũ lông, nhìn chòng chọc vào gáy người bị áp giải. Râu mép hắn vàng khè thuốc lá, vểnh ra như lông dím.

Li-da đi chậm lại, tạt sang hè phố bên kia, Pa-ven lúc ấy đi sau cô ta cũng đang bước ra con đường này.

Khi quay sang bên phải để về nhà, Pa-ven cũng trông thấy hai người đàn ông đang đi.

Pa-ven kinh ngạc, chân anh như đóng đinh xuống đất không bước được nữa: Pa-ven nhận ngay ra Giu- khơ-rai.

"Anh ấy không về té ra vì thế !".

Giu-khơ-rai đi lại gần. Tim Pa-ven đập đổ hồi: ý nghĩ dồn dập rối lên trong đầu, khó mà trấn tĩnh được khó mà nhớ được mình nghĩ gì. Thời giờ để suy nghĩ gấp quá. Một điều rõ ràng là Giu-khơ-rai đã bị bắt.

Nhìn hai người đi lại gần, mọi thứ tình cảm quay cuồng như cơn gió lốc làm Pa-ven bối rối.

"Làm gì bây giờ'?

Đến phút cuối cùng, Pa-ven chợt nhớ ra trong túi có khẩu súng ngắn. - "Để cho hai người vừa đi qua mặt mình, bắn vào lưng thằng nguy thì Giu-khơ-rai sẽ thoát” - Anh quyết định ngay tức khắc làm cho luồng ý nghĩ không còn quay cuồng nữa. Hàm răng anh nghiến chặt như cắn vào nhau. Mới hôm qua chứ nào đã lâu gì, Giu-khơ-rai chẳng đã nói với mình: " Nhưng muốn thế, phải có một lớp người tương thân, tương ái và dũng cảm!...".

Pa-ven ngoái ra đằng sau, liếc mắt nhìn rất nhanh. Đường vào thành phố vắng vẻ. Không một bóng người. Trước mặt có bóng dáng thướt tha của một cô con gái mặc áo bành-tô ngắn mùa xuân đi rảo bước. Thứ người đó không ngại lắm. Pa-ven đứng lại, không nhìn thấy phố ngang rẽ ra đường này. Chỉ thấy đằng xa, trên con đường ra ga, có mấy bóng người thấp thoáng.

Pa-ven tránh ra tận mép đường. Đến cách nhau vài bước thì Giu-khơ-rai trông thấy Pa-ven.

Anh ngước mắt nhìn Pa-ven, đôi lông mày rậm nảy lên. Giu-khơ-rai nhận ra Pa-ven và sửng sốt nên đi chậm lại. Lưỡi lê của tên nguy binh thúc vào sau lưng, giọng hắn quát the thé:

- Đi mau lên không có ông cho một báng súng bây giờ.

Giu-khơ-rai bước dài ra. Anh muốn nói gì với Pa- ven, nhưng lại thôi và vẫy tay một cái như ra hiệu chào biệt.

Sợ tên lính nguy râu hoe chú ý, Pa-ven để cho Giu- khơ-rai đi qua, rồi quay lảng sang bên, làm như mình dửng dưng chẳng để ý gì đến chuyện đang xảy ra trước mắt.

Một ý nghĩ lo lắng như xoáy vào óc Pa-ven: "Nhỡ ra bắn trượt, đạn có thể trúng anh Giu-khơ-rai..."

Song thằng lính nguy đã bước đến kề ngay bên mình rồi còn suy nghĩ làm sao được nữa?

Và chuyện đã xảy ra như sau: khi tên nguy đi lên ngang mặt, Pa-ven xông ngay vào nó, nắm lấy khẩu súng, giúi mạnh xuống đất.

Lưỡi lê siết vào lề đường kêu rít lên.

Tên nguy bị đánh bất ngờ, bàng hoàng mất một lúc nhưng rồi hồi ngay lại được, hắn lấy hết sức giằng lại khẩu súng. Pa-ven đè cả người, giữ chịt lấy khẩu súng. Đụng phải cò, súng nổ, đạn bắn vào lề đường bật lên một tiếng chối tai và băng sang rãnh bên đường.

Nghe tiếng súng, Giu-khơ-rai nhảy sang bên và quay lại. Tên lính ngụy hết sức gỡ khẩu súng ở tay Pa-ven ra. Hắn xoay xoay khẩu súng, vặn tay Pa- ven. Nhưng Pa-ven vẫn giữ chặt. Hắn nổi khùng lên tức sùi bọt mép, quật Pa-ven ngã xuống đất. Nhưng vẫn không ăn thua, không gỡ được khẩu súng. Pa- ven ngã xuống, kéo thằng ngụy ngã theo. Trong giờ phút này, không sức gì trên đời có thể khiến Pa-ven buông khẩu súng ra được.

Nhảy hai bước, Giu-khơ-rai đã đến kề bên.

Một quả đấm nặng như chì vung lên hình vòng cung, giáng xuống đầu tên lính nguy. Một giây sau, nó đã phải buông Pa-ven ra; bị bồi luôn hai quả trời giáng nữa vào mặt, thân hình nó, như cái bị nặng, ngã lăn kềnh xuống hố rãnh bên đường cái.

Cũng đôi cánh tay rắn chắc của Giu-khơ-rai đã nâng Pa-ven từ dưới đất đứng dậy.

Vích-to rời ngã tư một quãng, vừa đi vừa huýt sáo bài "như lông chim trước gió lòng người đẹp thường dễ đổi thay". Vích-to hãy còn xúc động vì buổi gặp gỡ Li-da và lời cô ta hẹn hôm sau sẽ tìm nhau ở gần chỗ nhà máy bỏ không.

Trong đám những tay chim gái thành thần ở trường có nhiều tiếng đồn đại về Li-da. Người ta nói cô ấy về món yêu đương thì bạo lắm.

Cái thằng Xôm-ca trơ tráo và tự phụ, cũng đã có hôm khoe với Vích-to là lơn được con bé rồi. Tuy Vích- to cũng chẳng tin mồm thằng Xôm-ca lắm, nhưng vẫn định bụng mai thử xem những điều hắn nói có đúng không, bởi vì dù sao Li-da cũng là một miếng mồi xinh, đầy sức quyến rũ.

"Nếu con bé đến thật thì mình phải tỏ ra bạo dạn mới được. Nghe nói con bé cũng dễ để cho hôn. Và nếu con nhà Xôm-ca không bịp mình thì..." - Dòng ý nghĩ của Vích-to bỗng bị đứt quãng: hai tên lính Pết-lu-ra đi qua, Vích-to né người tránh. Một tên đi con ngựa cụt đuôi, tay lắc lắc cái thùng múc nước bằng vải bạt, chắc hắn cho ngựa đi uống nước. Còn thằng kia mặc áo ngắn, quần xanh lụng thụng tay đặt lên đầu gối thằng đi ngựa, miệng đang kể cho nó nghe một câu chuyện bông phèng.

Vích-to sắp bước đi, một tiếng nổ bất thình lình vang lên ngoài đường làm hắn đứng dừng lại. Ngoảnh lại Vích-to thấy tên lính thứ nhất quất ngựa lồng lên, phi tới chỗ có tiếng nổ. Thằng kia thì lấy tay đỡ kiếm chạy theo sau nó.

Vích-to cũng chạy theo chúng, ra đến gần đầu phố thì lại nghe thấy một tiếng nổ nữa. Từ chỗ ngoặt, thằng đi ngựa lúc nãy bất thình lình chạy trở ra phía Vích-to, hắn lấy gót chân và lấy cả cái thùng thúc vào mình ngựa; đến trại, vừa nhảy vào khỏi cổng, hắn đã la báo ngay cho bọn lính đang đứng ở sân:

- Các cậu ơi! Súng đâu ra ngay, chúng nó thịt một anh em mình ngoài kia!

Chốc lát đã có nhiều đứa từ trong sân chạy xổ ra, vừa chạy vừa lên quy-lát lách cách.

Chúng tóm lấy Vích-to.

Trên đường, người đứng xúm đông, trong đó có cả Vích-to và Li-da. Li-da bị giữ lại để làm chứng.

Li-da sợ quá đã đứng sững ngay tại chỗ, khi Giu- khơ-rai và Pa-ven chạy ngang qua mặt cô. Cô ngạc nhiên nhận ra người đánh tên lính Pết-lu-ra lại chính là thiếu niên mà hôm nào Tô-nhi-a có ý muốn giới thiệu với mình.

Người nọ theo sau người kia, nhảy qua hàng rào một biệt thự, và liền ngay lúc đó, có một tên lính đi ngựa phi ra đường phố. Thấy Giu-khơ-rai vác súng chạy, còn tên lính đi áp giải thì đang cố sức bò dậy, tên đi ngựa liền thúc ngựa về phía hàng rào biệt thự đó.

Giu-khơ-rai quay lại, kề súng vào vai, bắn tên lính đi ngựa, làm tên này phải quay ngựa lùi lại.

Khẽ nhúc nhích cặp môi sưng vều, tên ngụy đi áp giải kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thằng lính đi ngựa nghe xong mắng:

- Làm thế nào mà mày để thằng tù nó chuồn ngay dưới mũi, hở đồ ngu như lợn? Mày sẽ biết tội mày, hai mươi nhăm roi vào mông đít.

Bực mình, tên lính áp giải cũng cãi lại:

- Mày thì ma lanh lắm đấy! Để cho nó chuồn dưới mũi ! Ai mà biết được có quân khốn nạn nó từ đằng sau xông vào tao như ma hiện, ma vật ấy.

Li-da cũng bị hỏi cung. Cô khai y như tên lính, song giấu không nói rằng mình biết người hành hung là ai. Tất cả mọi người có mặt đều bị dẫn về đồn giám binh và đến tối tên giám binh ra lệnh thả họ ra.

Tên giám binh ngỏ ý muốn tự mình đưa Li-da về tận nhà, nhưng cố ta từ chối. Miệng tên này sặc mùi rượu vốt-ca và ý của hắn ta chẳng có tử tế gì.

Vích-to đưa Li-da về.

Đường về nhà ga còn xa, Vích-to khoác tay Li-da vừa đi vừa mừng thầm, có chuyện xảy ra mới có dịp may thế này.

Khi gần đến nhà, Li-da hỏi: - Anh có biết ai cứu người tù không?

- Li-da bảo tôi làm sao mà biết được.

- Anh có nhớ tối hôm nào Tô-nhi-a giới thiệu với chúng mình một thiếu niên?

Vích-to đứng dừng lại, sửng sốt: - Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin chứ gì?

- Đúng, tôi mang máng nhớ hình như tên anh ta là Ca-rơ-sa-ghin thì phải. Anh nhớ chứ, hôm ấy anh chàng trông thấy chúng mình là lỉnh đi ngay, đến lạ. Chính anh ta đấy.

Vích-to kinh ngạc: - Li-da không trông nhầm chứ?

- Không, Li-da nhớ kỹ nét mặt anh ta lắm.

- Thế sao Li-da không khai với ông giám binh.

Li-da nổi giận: - Anh cho tôi lại có thể đi làm cái việc khốn nạn ấy ư?

- Cô cho thế là khốn nạn à? Chỉ tên kẻ hành hung người lính áp giải theo cô là khốn nạn sao?

- Thế theo anh là chính trực hay sao? Anh quên mất những việc chúng làm. Anh không biết ở trường ta có biết bao bạn học sinh Do-thái vì chúng mà mồ côi cha mẹ. Vậy mà anh lại còn muốn tôi đi tố cáo Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin nữa ư? Thôi, cảm ơn anh, không ngờ anh là người như thế !

Vích-to có tưởng đâu Li-da trả lời như vậy. Hắn không muốn gây chuyện với Li-da, nên tìm cách nói lảng sang chuyện khác: - Li-da đừng giận, tôi nói đùa đấy thôi. Tôi không biết tính Li-da nguyên tắc như thế đấy.

Li-da đáp gọn lỏn: - Lối đùa của anh khó ngửi lắm.

Đến trước nhà Li-da Xu-khác-cô, khi chia tay bạn, Vích-to hỏi: - Mai Li-da đến chứ?

Vích-to chỉ nghe thấy câu trả lời lửng lơ: - Tôi không biết.

Trên đường về phố, Vích-to. suy tính: "Ồ! Nếu cô ả cho là bất chính thì thưa cô tôi lại hoàn toàn nghĩ khác. Tất nhiên về phần riêng mình, đứa nào bắt đứa nào và đứa nào cứu đứa nào thoát, mình chẳng cần biết làm quái gì".

Vích-to Lê-sinh-ski vốn dòng dõi quý tộc Ba Lan, nên ghét bọn Pết-lu-ra và quân đỏ như nhau cả. Dù thế nào ngày một, ngày hai đây, quân lê dương Ba Lan cũng kéo vào và sẽ lập lại chính quyền chân chính, thật sự của quý tộc Ba Lan. Song cơ hội này dù sao cũng là dịp có thể làm tiêu đời thằng nhãi Pa-ven. Chúng sẽ vặn cổ nó ngay cho mà xem.

Vích-to một mình ở lại Sê-pê-tốp-ca, trọ nhà bà thím là vợ người phó giám đốc xưởng đường. Còn bố mẹ nó và em gái nó là con Nen-ly thì đã đến ở Vác- xô-vi từ lâu. Bố Vích-to hiện đang giữ một chức vụ quan trọng bên ấy.

Cửa nhà giấy của đồn giám binh vẫn mở.

Vích-to bước vào, được một lúc rồi đi ra với bốn tên lính Pết-lu-ra. Bọn lính theo Vích-to đi về phía nhà Pa-ven.

Vích-to chỉ tay vào cửa sổ có đèn sáng nói khẽ: - Nhà nó đây rồi.

Hắn ngoảnh lại phía tên quan hai đứng cạnh, hỏi: - Tôi có thể về được chứ ạ!

- Vâng cậu về, bọn tôi đủ tóm cổ được nó rồi. Một lần nữa, xin cảm ơn cậu.

Vích-to rảo bước chuồn thẳng.


Chúng đánh vào lưng Pa-ven một roi nữa, rồi ném vào buồng giam. Hai tay anh giơ lên chạm phải tường của gian buồng tối om. Anh sờ soạng thấy một chỗ giống như chiếc bục gỗ, liền ngồi xuống, người kiệt sức đau như dần.

Pa-ven bị bắt giữa lúc không ngờ nhất. "Sao bọn Pết-lu-ra lại biết được là anh nhỉ? Không ai trông thấy anh cơ mà! Chúng sẽ làm gì anh không biết? Không hiểu anh Giu-khơ-rai đâu”.

Hai người chia tay nhau ở nhà Cơ-lim-ca, Pa-ven đến nhà Xéc-gây, còn Giu-khơ-rai thì chờ đến tối là trốn khỏi thành phố.

Pa-ven nghĩ thầm: "May mà mình giấu khẩu súng lên tổ quạ rồi, chứ không chúng khám thấy thì tiêu đời. Nhưng mà sao chúng lại biết là mình được nhỉ?" Điều không tài nào đoán ra được ấy cứ giày vò Pa- ven mãi.

Bọn lính Pết-lu-ra khám xét nhà Pa-ven chẳng kiếm chác được gì bở cả. Bộ cánh diện và chiếc đàn gió thì anh A-rơ-chom đã mang xuống làng. Cái rương của mẹ thì mẹ đã mang đi, thành thử bọn lính lục lọi mãi khắp nơi mà chẳng vớ được gì nhiều.

Nhưng Pa-ven không bao giờ quên được đoạn đường bị đánh từ nhà đến đồn. Đêm tối như bưng lấy mắt. Trời nặng trĩu mây. Đòn đánh không tiếc tay, bị đá vào sườn, bị đạp vào lưng túi bụi, mạng sườn bị thụi cái nào ra cái ấy, Pa-ven tối tăm mặt mũi đi như người mất hồn mất trí.

Ngoài cửa buồng giam, có tiếng người nói. Buồng bên cạnh là chỗ lính gác. Dưới gầm cửa có vệt sáng làm Pa-ven chú ý, Pa-ven đứng dậy lấy tay sờ soạng men theo tường, lần đi khắp buồng giam. Đối diện với cái bục, Pa-ven sờ thấy cửa sổ, chấn song có răng cưa chắc chắn. Pa-ven thử lấy tay lay, nhưng chấn song bằng sắt chắc lắm. Buồng giam này có vẻ như trước đây là kho chứa hàng.

Pa-ven mò lại cửa, đứng nghe ngóng động tĩnh một phút, rồi khẽ ấn quả đấm. Cánh cửa kêu lên ken két đến ác. Pa-ven phát cáu "Mẹ kiếp ! Chúng chẳng chịu cho dầu”.

Pa-ven nhìn qua khe cửa hở, thấy trên mép bục có đôi bàn chân bẩn, ngón chân khoằm khoằm chìa ra. Pa-ven lại vặn quả đấm, nhưng cửa lại kêu to hơn. Trên bục, có một bóng người đầu rối bù, mặt ngái ngủ, ngồi nhổm dậy, gãi đầu rối rít, miệng phun ra một thôi một hồi những lời tục tĩu; khi đã ề à chửi tục chán rồi, hắn sờ lên khẩu súng dựng ngay đầu bục, nói lạnh như tiền:

- Đóng ngay cửa lại! Còn dám nhìn ông lần nữa thì ông cho ăn luôn phát đạn...

Pa-ven ấn cửa lại. Phòng bên tiếng cười rộ lên.

Đêm ấy, Pa-ven nghĩ lung lắm. Lần đầu định góp sức vào cuộc chiến đấu đã gặp sự không may rồi. Mới bước đầu đã bị chúng tóm được và nhốt vào đây, như chuột mắc bẫy.

Anh vẫn ngồi, thiu thiu một giấc, nửa ngủ nửa mê: hình ảnh mẹ hiện ra, khuôn mặt gầy gầy, dăn deo, đôi mắt thân quý yêu dấu. Một ý nghĩ thoáng qua: "May mà mẹ không có nhà, mẹ có nhà thì thật phiền lòng mẹ".

Ánh sáng lờ mờ chiếu qua cửa sổ in lên nền nhà một khung vuông màu xám.

Bóng tối lùi dần. Sắp sáng rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2012 13:10:45 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG VI

Ngôi nhà to cổ kính chỉ có một cửa sổ che màn the là thắp đèn sáng mà thôi. Ngoài sân, con chó Tơ-rê- do bị xích sủa lên khàn khàn.

Đang thiu thiu ngủ, Tô-nhi-a nghe mang máng có tiếng mợ nói nhỏ: "Chưa, em nó chưa ngủ đâu, Li-da cứ vào đây”.

Bạn đến, chân bước nhẹ nhàng, trìu mến ôm choàng lấy Tô-nhi-a, xua tan hết vẻ ngái ngủ ở cô.

Tô-nhi-a cười mệt mỏi:

- Li-da đến chơi hay quá, nhà mình hôm nay có vui lớn: cậu mình bị mệt hôm qua lên cơn sốt nặng, hôm nay đã dứt cơn, suốt ngày ngủ yên. Còn mình và mợ mình thì cũng nghỉ, vì suốt mấy đêm nay không chợp mắt. Li-da có tin gì kể đi?

Tô-nhi-a kéo bạn lại ngồi cạnh trên đi-văng.

- Ồ, tin thì rất nhiều, nhưng có một tin mà mình chỉ có thể kể riêng với Tô-nhi-a thôi. - Li-da vừa nói vừa cười, mắt tinh nghịch liếc nhìn về phía mẹ Tô- nhi-a.

Mẹ Tô-nhi-a cũng mỉm cười. Bà là một người đàn bà đoan trang, đi đứng nhanh nhẹn như còn con gái, tuy năm nay đã ba mươi sáu tuổi; bà có cặp mắt màu tro thông minh, khuôn mặt đầy nghị lực, không đẹp sắc sảo nhưng có duyên.

Nghe Li-da nói, bà kéo ghế lại gần đi-văng, nói đùa: "Được, bác.bằng lòng để hai cô ngồi nói chuyện. riêng với nhau. Song trước hết cháu hãy kể cho bác nghe những tin tức ai cũng nghe được đã nào?"

- Tin thứ nhất, Tô-nhi-a ạ, là chúng mình sẽ không đi học nữa. Hội đồng nhà trường đã quyết định cấp bằng tất nghiệp cho học sinh lớp bảy. - Giọng Li-da kể càng phấn khởi. - Mình mừng lắm. Mình đã ngấy cái món đại số và hình học lắm rồi ! Mà học những cái ấy làm gì kia chứ? Bọn con trai thì đã đành, chúng nó có thể sẽ học lên nữa, tuy chúng nó cũng chẳng biết sẽ học ở đâu và bao giờ. Chỗ nào cũng là mặt trận đánh nhau. Sợ thật ! Nhưng còn chúng mình, chúng mình rồi sẽ đi lấy chồng cả. Mà đời làm vợ thì có cần gì đến đại số đâu? - Nói đến đây, Li-da cười phá lên.

Mẹ Tô-nhi-a ngồi với hai cô một lát, rồi trở về phòng mình.

Li-da nhích lại gần Tô-nhi-a, lấy tay quàng cổ bạn, rỉ tai kể lại cuộc xô xát mà Li-da đã được mục kích ở ngã tư ngoài phố.

- Tô-nhi-a thử tưởng tượng mình đã ngạc nhiên chừng nào khi nhận ra người đánh tháo cho tù là… Tô-nhi-a thử đoán xem ai?

Tô-nhi-a nghe chuyện rất ham, thấy hỏi thì nhún vai tỏ vẻ không biết.

Li-da buột miệng: - Người đó là Ca-rơ-sa-ghin.

Tô-nhi-a nghe giật nảy mình, cúi xuống, đau đớn, như hỏi lại chính mình: - Ca-rơ-sa-ghin à?

Li-da, muốn thử xem Tô-nhi-a nghe tin có lao đao không, bây giờ đã biết rõ kết quả rồi, thích chí liền kể sang chuyện bất hòa giữa cô và Vích-to.

Li-da mải kể chẳng để ý gì đến vẻ mặt Tô-nhi-a lúc đó đã tái đi ngón tay thon thon dứt dứt nếp áo cộc tay màu xanh. Li-da đâu có biết lúc này trái tim Tô-nhi-a se lại bao nhiêu lo lắng. Li-da không tài nào hiểu được vì sao hàng lông mi rất dày trên đôi mắt đẹp kia lại run rầy những lo âu.

Tô-nhi-a chẳng nghe gì câu chuyện về thằng quan hai say rượu muốn tiễn Li-da về nhà để giở trò nữa. Một ý nghĩ duy nhất giày vò Tô-nhi-a: "Vích-to biết tên người đánh tháo là Pa-ven. Tại sao Li-da lại nói cho hắn biết?" Và bất giác Tô-nhi-a buột mồm nói to câu đó làm cho Li-da không hiểu ra sao.

- Mình nói cái gì?

- Sao Li-da lại đem nói với Vích-to về chuyện "anh Pa-vơ-lu-sa", nghĩa là về chuyện anh Pa-ven Ca-rơ- sa-ghin làm gì? Vích-to có thể sẽ tố cáo...

- Không đâu! Mình tin là không, vì nghĩ cho cùng thì Vích-to tố cáo làm gì mới được?

Tô-nhi-a ngồi phịch xuống, tay ôm riết lấy đầu gối.

- Li-da ạ, Li-da không hiểu gì cả! Vích-to và Pa- ven thù ghét nhau. Ngoài ra lại còn chuyện khác nữa… Li-da đã làm một việc rất sai là đã kể cho Vích-to biết tên người đánh lính là Pa-vơ-lu-sa.

Đến bây giờ Li-da mới nhận thấy nỗi hồi hộp lo âu của Tô-nhi-a, và tiếng gọi "Pa-vơ-lu-sa" âu yếm mà Tô-nhi-a buột miệng thốt ra khiến Li-da bỗng nhiên hiểu hết tất cả những chuyện mà lâu nay Li-da còn mang máng ngờ ngợ.

Li-da cảm thấy mình có lỗi, nên im bặt, thái độ bối rối. Li-da nghĩ thầm: "Thế là mình nghĩ không sai! Ngộ thật! Hóa ra Tô-nhi-a đã phải lòng rồi. Phải lòng ai mới được chứ? Phải lòng một anh thợ tầm thường..."

Li-da rất muốn hỏi chuyện này, song vì nể bạn lại thôi. Muốn tìm cách làm nhẹ lỗi mình đối với bạn, cô nắm lấy tay Tô-nhi-a.

- Tô-nhi-a ơi, Tô-nhi-a lo lắm phải không?

Tô-nhi-a đang mải nghĩ đi đâu, đáp lại: - Không, có thể Vích-to tử tế hơn mình tưởng.

Mỗi bên theo đuổi một ý nghĩ riêng, câu chuyện không ăn khớp với nhau. Giữa lúc đó thì Đê-mi-a- nốp đến. Cậu ta là một thiếu niên nhút nhát, vụng về cùng học một lớp với Tô-nhi-a và Li-da.

Tiễn các bạn về rồi, Tô-nhi-a còn đứng một mình hồi lâu ngoài cổng. Dựa lưng vào hàng rào, cô thừ người nhìn đường cái chạy thẳng vào phố như một dải lụa màu sẫm. Gió là giống lang thang chơi vơi vô tận, gió nhẹ vật vờ, đến vờn trên má Tô-nhi-a, gió mang hơi ướt mát lạnh và hương vị hoa cỏ mùa xuân. Xa xa, những cửa sổ ở các căn nhà trong phố nhấp nháy như những con mắt đỏ đục ngầu giương lên nhìn, báo hiệu điều gì chẳng lành. Dưới kia là phố xá đối với cô xa lạ. Dưới phố ấy, dưới một mái nhà ở phố ấy, người bạn cứng đầu cứng cổ của cô vẫn còn chưa hay tai nạn sắp giáng xuống đời anh. Và có thể, anh cũng đã quên cả Tô-nhi-a rồi. Bao nhiêu ngày đã trôi qua từ lần gặp cuối cùng. Lần ấy, Pa-ven xử sự không đúng, nhưng dù sao cũng là chuyện đã qua, Tô-nhi-a đã quên bẵng đi rồi. Ngày mai, Tô-nhi-a sẽ gặp Pa-ven và tình bạn sẽ nối lại, tình bạn ấy thật dạt dào êm ái. Tô-nhi-a tin lắm, tình bạn sẽ nối lại. Chỉ cầu cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai hại. Nhưng sao đêm nay rờn rợn nơm nớp dường như bóng đêm ẩn nấp, bóng đêm đang đứng rình...

Trời lạnh.

Tô-nhi-a nhìn lại con đường lần nữa, rồi bước vào nhà. Nằm cuộn trong chăn, cô ngủ thiếp đi với ý nghĩ: chỉ cầu cho đêm nay đừng xảy ra chuyện gì tai hại!...

Sáng tinh sương, cả nhà còn ngủ, Tô-nhi-a đã bừng tỉnh dậy. Cô mặc vội quần áo, rón rén nhè nhẹ đi ra sân để khỏi làm thức giấc người nhà, rồi mở xích con chó lông xù Tơ-rê-do dắt đi ra phố. Đến trước nhà Pa-ven, Tô-nhi-a dừng chân lại, do dự, nhưng rồi đẩy cửa bước vào. Con chó chạy trước ngoe nguẩy đuôi...

Cũng vào sáng nay, từ sớm A-rơ-chom ở dưới làng về đi xe ngựa cùng với bác chủ lò rèn của anh. Tới cửa, anh xốc bao bột mì người ta trả công cho anh lên vai, rồi bước vào sân. Bác chủ lò rèn mang những thứ còn lại trên xe, bước theo sau. A-rơ-chom ném bao bột mì xuống bên cửa để ngỏ, cất tiếng gọi:

- Páp-ca ơi!

Song, không có tiếng đáp lại.

Người thợ rèn thấy thế nói: - Thì ta cứ đem vào nhà, còn đứng đây chờ gì nữa!

Xếp mọi thứ vào bếp đâu đấy, A-rơ-chom bước vào phòng và kinh ngạc đứng đờ người ra: nhà cửa bị lục lọi đảo lộn lung tung, quần áo cũ vứt bừa ra sàn nhà.

A-rơ-chom ngơ ngác không hiểu sự thể ra sao, càu nhàu quay lại nói với người thợ rèn:

- Trời đất!. Thế này nghĩa là thế nào?

Bác chủ lò rèn cũng thêm vào: - Thật là loạn. - Không hiểu thằng bé rúc vào đâu?

- A-rơ-chom bắt đầu phát cáu. Nhưng nhà cửa vắng tanh, chẳng có ai mà hỏi.

Bác chủ lò rèn từ giã ra về.

A-rơ-chom đi ra sân, tìm kiếm chung quanh.

"Thật chẳng hiểu câu chuyện ra sao nữa! Cửa thì bỏ ngỏ, mà Páp-ca thì mất hút".

Có tiếng chân đi đằng sau, A-rơ-chom quay lại.

Con chó to, tai vểnh, đứng ngay trước mặt. Một cô con gái mà anh không quen từ hàng rào đi vào nhà.

Cô ta nhìn A-rơ-chom, giọng hỏi khẽ: - Em cần gặp anh Pa-ven.

- Tôi cũng đang cần gặp nó đây. Trời biết được nó rúc vào đâu! Tôi vừa về, cửa bỏ ngỏ mà chẳng thấy nó đâu. - Rồi A-rơ-chom hỏi cô ta:

- Còn cô đến tìm Pa-ven phải không?

Câu trả lời lại là một câu hỏi: - Anh có phải là A-rơ-chom, anh ruột Pa-ven không ạ?

- Phải, cô hỏi làm gì vậy? Nhưng cô gái không đáp lại, vẻ mặt lo âu ngước nhìn cánh cửa mở. "Sao mình không đến từ tối hôm qua? Có lẽ thế rồi ư, có lẽ thế rồi ư?..." - Nghĩ thế, nỗi lo nặng nề càng đè trĩu cõi lòng Tô-nhi-a hơn nữa.

A-rơ-chom còn đang ngạc nhiên nhìn cô gái, thì cô ta lại hỏi:

- Anh về đã thấy cửa để ngỏ, và Pa-ven không có nhà, phải không anh?

- Phải ! Nhưng tôi muốn biết cô đến tìm Pa-ven có việc gì?

Tô-nhi-a bước lại gần, đưa mắt nhìn chung quanh, rồi nói với A-rơ-chom, giọng bồi hồi:

- Em không biết chắc lắm. Song nếu Pa-ven không có nhà tức là đã bị bắt rồi.

A-rơ-chom giật bắn mình, hốt hoảng: - Bị bắt vì sao cơ?

Tô-nhi-a nói: - Ta đi vào trong nhà nói chuyện.

A-rơ-chom im lặng, nghe Tô-nhi-a kể. Khi Tô-nhi- a đã kể tất cả những điều cô biết, A-rơ-chom thất vọng. A-rơ-chom tức bực chửi đổng lên:

- À thật là lũ khốn nạn ! Bọn chó chỉ chực có thế !. .. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao trong nhà bị lục tung lên như thế. Ma quỷ đâu đã dẫn thằng bé vào câu chuyện này... Bây giờ không biết tìm nó ở đâu cho thấy? Còn cô, cô là ai nhỉ?

- Em là con gái ông kiểm lâm Tu-ma-nốp. Em có quen Pa-ven.

- À à - A-rơ-chom kéo dài mãi tiếng "à". - Đây, tôi mang bột mì về cho nó ăn thêm một chút, thế mà bây giờ thì như vậy đấy...

Hai người lặng lẽ nhìn nhau.

Lúc chào A-rơ-chom ra về, Tô-nhi-a dặn khẽ: - Em về đây. Có lẽ anh sẽ tìm thấy Pa-ven. Chiều nay em sẽ đến, anh cho em biết tin về anh ấy.

A-rơ-chom im lặng gật đầu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 10-4-2012 20:33:11 | Chỉ xem của tác giả
Con nhặng gầy còm thức giấc ngủ mùa đông bay vo ve ở góc cửa sổ. Một cô gái nông dân chống tay vào đầu gối, ngồi ở mép chiếc ghế dài đệm đã mòn trơ, mắt cô thờ thẫn nhìn xuống sàn nhà nhớp nháp.

Lão giám binh ngậm bên mép một điếu thuốc lá đang nguệch ngoạc viết kín tờ giấy; dưới hàng chữ "trung úy giám binh thành Sê-pê-tốp-ca” hắn hí hửng ký ngoằn ngoèo, rồi đóng con dấu tên mình. Có tiếng lộp cộp ngoài cửa, hắn ngửng đầu lên.

Xa-lô-mư-ga, tay quấn băng, đứng trước mặt hắn.

Lão giám binh cất tiếng chào:

- Cơn gió lành nào đưa cậu đến đây thế?

- Cậu bảo gió lành à? Một tên ở trung đoàn Bô- gun làm tay tớ gẫy lòi xương ra đây.

Có một người đàn bà ngồi đấy, song Xa-lô-mư-ga chẳng giữ ý gì, văng tục ngay.

- Thế cậu về đây chữa hay sao?

- Có chữa ở bên kia thế giới. Khắp các mặt trận chúng nó uy hiếp quân mình, ngấy đánh nhau quá rồi.

Lão giám binh ngắt lời hắn, hất đầu ra hiệu chỉ người con gái.

- Thôi, chốc nữa ta sẽ nói chuyện.

Xa-lô-mư-ga ngồi phịch xuống ghế đầu và trật mũ ra, đính huy hiệu đinh ba sơn men: quốc trưng của "U-cơ-ren dân quốc".

Hắn bắt đầu nồi nhỏ:

- Gô-lúp phái mình về đây. Sắp có một sư đoàn bộ binh về đây trú quân. Có thể sinh ra lắm chuyện, mình phải về trước thu xếp. Có thể là "đầu lĩnh trưởng" sẽ thân hành đến đây, và cùng đi với "đầu lĩnh trưởng” còn có một tay tai to mặt lớn nước ngoài nữa. Vì thế đừng có ai hở mồm gì về vụ "chất tươi" hôm trước mà vạ đấy nhé! Còn cậu thì đang viết gì đấy?

Tên giám binh nhếch miệng chuyển mẩu thuốc lá sang mép kia, đáp lại:

- Tớ vớ được một thằng nhãi con chết rấp. Cậu nhớ thằng cha Giu-khơ-rai chứ, gã lính thủy xúi thợ xe lửa chồm lên với chúng mình ấy mà? Cậu biết không, chúng mình tóm được nó ở ngoài ga đấy.

- Thế rồi thế nào? - Xa-lô-mư-ga nhích lại gần, chăm chú nghe.

- Thế rồi thằng Ô-men-sên-cơ, trưởng đồn nhà ga, là một thằng ngu như bò, đưa thằng cha Giu-khơ- rai sang đây mà chỉ cho một thằng lính giải đi. Vì thế cho nên cái thằng nhãi con đang bị giam bây giờ nó mới đánh tháo được cho thằng kia giữa ban ngày ban mặt. Chúng nó tước súng thằng lính của mình, đấm vỡ quai hàm rồi biến. Thằng Giu-khơ-rai thì mất tích, còn thằng nhãi thì rơi vào tay mình. Hồ sơ đây, đọc mà xem.

Tên giám binh ấn cho Xa-lô-mư-ga một tập giấy. Thằng này lấy tay trái còn lành lần giở tập hồ sơ xem phớt qua. Xong rồi, hắn nhìn chằm chặp tên giám binh:

- Thế cậu chả moi được ở nó cái gì à?

Tên giám binh bực mình kéo sụp chiếc mũ cát-két tới sát mắt.

- Mình mất năm ngày trời vất vả với nó rồi đấy. Nó một mực: 'Tôi không biết gì hết. Tôi không đánh tháo cho ai cả”. Thật giống giặc lỏi con. Thằng lính áp giải thì nhận đúng mặt nó rồi, vừa nhìn thấy đã suýt nữa thì đè thằng nhãi ra chịt lấy cổ. Phải giằng nó ra, vì thằng lính đâu bị Ô-men-sên-cơ cho ăn hai mươi lăm roi về tội để tù xổng, nên hắn ấm ức cứ muốn nuốt chửng thằng nhãi. Thôi giữ mãi của nợ ấy cũng chẳng được tích sự gì. Tớ định viết giấy sang bên tham mưu để xin lệnh cho treo cổ.

Xa-lô-mư-ga nhổ nước bọt khinh bỉ.

- Mày lành quá. Phải tay tao thì nó đã phun ra rồi. Mày thật là đồ con nhà thầy tu, hạng mày không biết cách lấy cung. Giám binh gì mà như là thầy dòng ấy! Mày đã nện nó ra trò chưa đã?

Lão giám binh phát cáu: - Mày nói thế mà cũng nói được. Bỏ cái lối nói mỉa ấy của mày đi. Tao làm giám binh ở đây. Yêu cầu mày đừng chõ vào việc của tao.

Xa-lô-mư-ga thấy tên giám binh sừng sộ thì cười lên ha hả:

- Hà hà! Thôi xin ông thầy dòng non đừng bốc lên thế mà nổ con ngươi, lòi con mắt. Việc của mày thôi mặc xác mày. Bây giờ mày nói cho tao biết đào đâu được hai chai "cay” đây.

Tên giám binh cũng cười làm lành:

- Cái món ấy thì có thể được.

- Còn về thằng nhãi này. - Xa-lô-mư-ga gí ngón tay vào tập giấy. - Cái thằng nhãi này, nếu mày muốn cho nó tong đời thì chớ nói mười sáu tuổi, mà phải tăng lên mười tám. Dễ thôi, vòng lại tí râu con số sáu là được không thì trên chẳng duyệt bản án đâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2012 20:06:34 | Chỉ xem của tác giả
Trong nhà pha có ba người bị giam. Một ông cụ già râu ria xồm xoàm, mặc áo bông rách, nằm nghiêng trên bục, hai cẳng gầy đét co quắp lại thảm hại trong chiếc quần vải thô lụng thụng. Cụ bị giam vì tên lính ngụy đóng ở nhà cụ có con ngựa biến đâu mất. Dưới đất, một mụ nạ dòng, mắt ti hí rất gian giảo, cằm nhọn hoắt, vốn lầm nghề nấu rượu. Mụ bị kết tội ăn cắp đồng hồ và các thứ đồ quý khác. Ở một góc dưới khung cửa sổ, Pa-ven ngả đầu trên mũ cát-két nát, nằm gần như bất tỉnh.

Người ta đẩy vào nhà giam một cô gái trùm khăn sặc sỡ kiểu nông dân, hai mắt to sợ sệt.

Cô đứng một lúc, rồi lại ngồi bên mụ đàn bà nấu rượu. Mụ ta đưa mắt xét nét cô từng li từng tí, rồi hỏi liến thoắng:

- Cô bé kia cũng vào khám đấy à?

Không có tiếng đáp lại. Mụ ta vẫn không chịu thôi:

- Sao bị tóm thế? Có phải bị bắt vì nấu rượu lậu không?

Cô gái nông dân đứng dậy, nhìn mụ già khó chịu ấy khẽ đáp lại:

- Không. Tôi bị bắt vì anh tôi.

Mụ kia cứ hỏi gặng: - Thế ông anh làm sao?

Ông cụ già phải chen vào:

- Cái nhà mụ kia, thói đâu cứ làm tội người ta như thế? Lòng người ta đang như tan nát, mà mụ cứ lắm điều, hỏi ra rả.

Mụ kia phát cáu, quay phắt lại phía bục:

- Ai khiến ông lên mặt dạy đời thế hả ông lão kia? Tôi có nói với ông đâu mà ông chen vào?

Ông lão bực mình nhổ nước bọt.

- Lão cứ nói đấy. Mụ phải để cho người ta yên chứ !

Trong nhà giam lại im bặt. Cô gái nông dân cởi khăn quàng trải xuống đất nằm, lấy tay gối má.

Mụ hàng rượu lấy cơm ra ăn. Ông lão ngồi dậy, buông chân xuống đất và thủng thẳng quấn một điếu thuốc hút. Khói thuốc khét lẹt tỏa khắp nhà giam.

Miệng còn nhồm nhoàm nhai cơm bỏm ba bỏm bẻm, mụ kia càu nhàu:

- Cái nhà ông lão kia, không để cho người ta ăn cơm yên nữa. Khét lên lèn lẹt. Hút gì mà hút lắm thế. Y như cái ống khói !

Ông cụ chẳng vừa, nói lại:

- Mụ sợ gầy đi à? Chẳng mấy chốc rồi cửa kia mụ đi không lọt. Mụ gọi thằng bé kia vào cho nó ăn với, còn hơn là tọng cả vào mồm một mình mình thế.

Mụ kia bực mình cãi lại:

- Tôi bảo nó ăn mà nó có ăn đâu. Còn ông, ông đừng có mở mồm là đụng đến tôi; tôi không ăn của nhà ông đâu mà ông nói.

Người con gái ngoảnh lại phía mụ nấu rượu, hất đầu ra hiệu về phía Pa-ven, hỏi mụ ta:

- Bà có biết sao anh ấy bị bắt không bà?

Mụ kia vớ được người hỏi chuyện, bắt lấy ngay, kể luôn:

- Người tỉnh này đây. Con út mụ nấu bếp Ca-rơ- sa-ghin đấy mà.

Rồi mụ ghé vào tai cô gái thì thào:

- Cậu ấy đánh tháo cho một anh bôn-sê-vích. Anh này trước là lính thủy cũng ở tỉnh này, trọ ở nhà mụ Dô-du-li-kha, ngay cạnh nhà tôi.

Cô gái nông dân bỗng sực nhớ lại những lời lúc nãy của lão giám binh: "Tớ định viết sang tham mưu để xin lệnh cho treo cổ...".

Từng đoàn xe lửa tới tấp chạy đến mắc kẹt với nhau ở nhà ga. Các tiểu đoàn lính từ trên tàu đổ xuống ồn ào, rối loạn. Chuyến tàu bọc sắt có bốn toa kiểu "Da-pô-rô" từ từ bò trên đường sắt. Lính đẩy súng lớn từ trên những toa không mui xuống, kéo ngựa từ trong các toa hàng ra. Bọn kỵ binh thắng ngựa tót lên đi chèn qua đám bộ binh, ra sân ga đứng thành một đội kỵ mã.

Cai, quản nhốn nháo gọi số hiệu đơn vị của chúng.

Nhà ga ồn ào như một tổ ong. Đám đông lộn xộn những người cuống quít ầm ĩ, dần dần sắp thành từng trung đội vuông vắn, rồi dòng người súng ống đó kéo ào ào vào thành phố. Mãi đến tận tối, xe ngựa vẫn kêu lóc cóc trên đường, bộ phận hậu cần của sư đoàn mới đến vẫn tiếp nhau tiến vào thành phố.

Và đi đoạn hậu là đại đội tham mưu, một trăm hai mươi cái mõm gào lên:

Trên phố này có tiếng gì
Ầm ầm náo động nổi lên ?
Đấy là đầu lĩnh Pêt-lu-ra
Xuất hiện dưới trời U-cơ-ren...


Pa-ven nhóm lên nhìn qua cửa sổ. Trong nhá nhem cảnh chiều xuống sớm, anh nghe rõ tiếng bánh xe lăn ầm ầm trên đường phố, tiếng chân rầm rập và tiếng hát nhao nhao.

Phía sau có tiếng người dịu dàng nói khẽ:

- Có lẽ quân lính kéo vào thành.

Pa-ven ngoảnh lại. Người nói là thiếu nữ bị dẫn vào tối qua.

Pa-ven được nghe chuyện cô ta, mụ nấu rượu hỏi gặng mãi làm cô phải nói. Thiếu nữ ấy quê ở một làng cách Sê-pê-tốp-ca bảy dặm. Anh cô - Gơ-rít-cô - vốn là một du kích đỏ, trước kia làm chủ tịch ủy ban dân cày nghèo.

Khi quân ta phải rút lui, Gơ-rít-cô cũng đeo ngay băng đạn súng máy vào người và theo anh em đi. Gia đình anh giờ thì bị chúng nó khủng bố. Nhà chỉ có độc một con ngựa cũng bị chúng dắt đi mất. ông bố bị bắt đem ra tỉnh, bị hành hạ trong xà lim. Tên lý trưởng hội tề, một tay thuộc loại trước kia Gơ-rít-cô đã bắt vào khuôn vào phép, bây giờ được dịp trả thù, chuyên môn cắt nhà anh phải cho hết lũ lính này đến lũ lính khác đóng. Gia đình khốn khổ đến cùng cực. Tối hôm qua tên giám binh đến làng vây ráp, tên lý trưởng dẫn nó đến nhà cô bé, cô lọt vào mắt lão quan tư; sáng sớm nó cho đem cô lên tỉnh lấy cớ "để lấy khẩu cung".

Pa-ven thao thức không ngủ, lòng bồn chồn, mắt không sao nhắm được. Một ý nghĩ duy nhất quay cuồng  trong đầu: "Ngày mai rồi sẽ ra sao.. ".

Mình mẩy bị đánh giờ vẫn còn đau ê ẩm. Tên lính giải Giu-khơ-rai thù anh, đánh anh dã man như thú dữ.

Anh cố lắng nghe tiếng rì rầm trò chuyện của hai người đàn bà bên cạnh cho khuây nỗi lòng căm uất.

Cô gái thấp giọng thì thào kể đến chuyện lão quan tư định giở trò. Lão quan tư đã sán đến, nằn nì, dậm dọa. Bị cưỡng lại, hắn đùng đùng nổi giận, hùng hổ dọa: "Mày không chịu, tao cứ nhốt vào hầm nhà pha thì mày đừng có hòng ra khỏi nữa".

Bóng tối tràn vào dần dần ngập hết gian phòng. Đêm đến, một đêm nghẹt thở, tâm tư thao thức giày vò không biết ngày mai rồi sẽ ra sao. Sáu ngày ở đây đối với Pa-ven tưởng chừng như đến hàng tháng rồi. Nằm sàn đất cứng như đá, người lại càng đau nhừ. Trong phòng giam này chỉ còn có ba người: tên quan hai đã thả mụ hàng rượu ra để về lấy chất cay mang hầu chúng. Ông cụ già nằm trên bục gỗ ngủ kỹ, ngáy khỏe như ở nhà vậy. Y như một nhà hiền triết, cụ lúc nào cũng bình thản, đêm nào cũng ngon giấc. Khơ- ri-chi-na - cô gái nông dân - và Pa-ven nằm dưới đất gần như kề bên nhau. Chiều qua, Pa-ven nhìn qua cửa sổ thấy Xéc-gây đứng ỉu xìu hồi lâu trước nhà pha, buồn rầu nhìn lên những cửa sổ trại giam.

"Xéc-gây chắc biết mình bị nhốt ở đây".

Ba ngày nay có người gửi vào cho Pa-ven mấy mẩu bánh mì đen. Ai gửi đến, chúng cũng chẳng cho hay. Đã hai hôm nay, tên giám binh làm Pa-ven hoảng hốt vì những câu tra hỏi xoi mói.

Tra thế nghĩa là thế nào?

Pa-ven chối hết không khai gì cả. Vì sao không khai? Bản thân anh cũng không biết. Anh muốn can đảm, anh muốn mình cũng cứng cỏi như những anh hùng đọc thấy trong sách. Nhưng đến khi chúng bắt anh, dẫn anh đi giữa đêm dày, lúc đi qua cái hình thù lù lù của cối xay chạy bằng hơi nước, có tiếng một thằng lính áp giải nói: "Bẩm trung úy đưa nó đi làm gì nữa, cứ cho một phát vào lưng là xong chuyện". Lúc ấy Pa-ven mới cảm thấy rờn rợn. Phải, mới mười sáu tuổi đầu mà đã phải chết thì khổ thật. Vì khi đã chết rồi thì dù sao cũng là mãi mãi không sống nữa, không bao giờ sống nữa.

Khơ-ri-chi-na cũng nghĩ ngợi. Cô hiểu số phận Pa- ven hơn cả Pa-ven kia. Anh ta chắc còn chưa biết chuyện... chứ cô thì đã nghe chúng nói thế nào rồi.

Ban đêm, Pa-ven không ngủ, cứ day dứt vật mình. Khơ-ri-chi-na cảm thấy thương anh, ôi, thương không biết bao nhiêu mà kể. Song Khơ-ri-chi-na cũng có nỗi đau đớn của mình, cô không quên được những lời khủng khiếp của lão giám binh:

"Liệu hồn, mai rồi biết tay tao. Không bằng lòng tao, thì tao vứt xuống cho bọn vệ sĩ. Lính Cô-dắc chúng nó không chê mày đâu. Tùy mày chọn đấy”.

Lòng Khơ-ri-chi-na nặng trình trịch. Chẳng còn có thể trông ai thương cho phận mình nữa! Có tội tình gì cho cam. Có phải vì cô đâu mà anh Gơ-rít- cô đi theo du kích đỏ? "Ôi? Sao sống ở thế gian này khổ đến thế này !"

Nỗi đau đớn nhoi nhói ứ nghẹn lấy cổ. Thất vọng mênh mông, hãi hùng khủng khiếp, tất cả như chẹt lấy lòng; Khơ-ri-chi-na nức nở khóc.

Tấm thân non trẻ run lên, lo sợ và buồn vô hạn.

Có bóng người động đậy ở góc tường:

- Em làm sao thế?

Khơ- ri-chi-na ngỏ với người bạn ít nói nỗi khổ cùng đường của mình, tiếng nói khẽ, nhưng mang hơi thở nồng nàn. Pa-ven lặng nghe, bàn tay đặt lên đôi bàn tay Khơ-ri-chi-na.

- Bọn quỷ ấy chúng nó sẽ hành hạ em đến chết mất. - Cô gái nghĩ mà khiếp đảm, nuốt nước mắt thì thào: - Em đến bị với chúng nó mất. Sức em không làm gì chúng nó được.

Biết nói gì với người con gái này? Biết nói gì được? Nói không ra lời! Cuộc đời bạn bị dồn đến chỗ cùng đường, đến chỗ ngạt thở.

Hay ngày mai dùng võ lực bênh bạn, không để chúng đem đi, đánh nhau với chúng nó. Chúng nó sẽ đập chết Khơ-ri-chi-na, chém đứt cổ, và như thế là xong đời. Để an ủi người bạn gái đang bị đau khổ giày vò này, Pa-ven chỉ biết lấy tay trìu mến vuốt ve bàn tay bạn. Tiếng khóc nguôi dần.

Chốc chốc, tiếng lính gác ngoài cửa quen miệng hỏi người qua lại: "Ai, đứng lại!" Rồi lại vẫn là canh trường tịch mịch. Ông lão ngủ say như chết. Thời gian vô hình trôi đi chậm chạp. Đôi cánh tay ôm lấy và kéo riết Pa-ven lại gần. Pa-ven không hiểu ra sao.

Đôi môi Khơ-ri-chi-na nóng hổi tha thiết thủ thỉ:

- Anh ơi, anh yêu của em, đằng nào em cũng bị rồi, không thằng quan làm nhục em, thì lũ lính cũng làm nhục em mất. Anh hãy nghe em, anh ơi! Em không muốn trinh bạch của em vào tay đồ chó nhơ bẩn.

- Khơ-ri-chi-na, em nói sao?

Song đôi cánh tay mầm mẫm cứ riết lấy Pa-ven. Khó mà rời cặp môi mọng và nóng bỏng ấy. Lời nói của cô gái giản dị và âu yếm. Pa-ven giờ mới hiểu điều mà bạn muốn cầu xin mình.

Ý thức về hiện tại thốt nhiên mờ đi những hình ảnh ghê rợn: khóa sắt của buồng giam, thằng lính gác có ria đỏ hoe, lão quan tư, những trận đòn dã man, bảy đêm thao thức ngột ngạt, tất cả chìm đắm vào dĩ vãng. Giây phút này chỉ còn đôi môi nóng bỏng và khuôn mặt ướt đầm nước mắt của Khơ-ri-chi-na.

Bỗng nhiên Pa-ven sực nhớ đến Tô-nhi-a.

Anh quên nàng làm sao được? Đối với lòng anh, đôi mắt ấy đẹp xiết bao và yêu dấu xiết bao!

Pa-ven còn đủ sức dứt ra. Anh đứng lên, choáng váng, lảo đảo như người say rượu, hai bàn tay níu lấy song sắt cửa sổ. Tay Khơ-ri-chi-na sờ soạng với lấy anh:

- Anh ơi, thế nào hở anh ơi?

Tiếng gọi mang bao nhiêu đắm đuối ! Pa-ven cúi xuống, nắm rất chặt đôi bàn tay của Khơ-ri-chi-na:

-Anh không thể nào làm thế được, Khơ-ri-chi-na ạ. Anh hiểu em rất tốt.

Pa-ven còn nói nữa, nhưng chính anh cũng không hiểu mình nói gì.  

Để phá tan cái im lặng đang đè trĩu xuống đó, Pa- ven đứng hẳn dậy, bước lại chỗ ông lão nằm, ngồi xuống mép bục lay ông dậy:

- Cụ có thuốc cho cháu xin điếu.

Trong góc kia, cô gái gục mặt vào khăn trùm đầu, khóc nức nở.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách