|
Trong phòng, không khí ngột ngạt. Ai cũng chỉ có một ý nghĩ: làm sao mau đến phía đằng ấy, đến những con đường hai bên trồng cây hạt dẻ ở khu phố Xô- lô-men-ca, gần nhà ga.
Svê tai-ép mồ hôi nhễ nhại, nói như van nài:
- Đề nghị cho nghỉ thôi, Páp-ca ạ. Mình nóng quá không chịu được nữa.
Ca-chi-u-sa và sau chị, nhiều người khác cũng đều đồng thanh tán thành ý kiến Svê-tai-ép.
Pa-ven gấp sách lại. Buổi học của nhóm nghiên cứu hôm đó đến đây là xong.
Toàn nhóm đứng dậy nói cười huyên náo. Giữa lúc ấy chuông dây nói reo lên hối hả. Svê-tai-ép cầm ống nghe và trả lời, cố nói to át mọi giọng ồn ào trong phòng.
Nói xong, buông máy, Svê-tai-ép quay về phía Pa-ven:
- Pa-ven ơi, ngoài ga có hai toa ngoại giao của lãnh sự quán Ba Lan đang đỗ. Họ bị hỏng điện mà một giờ nữa tàu chạy. Phải chữa dây điện. Cậu cầm hòm đồ đi ngay đi. Việc cần lắm.
Hai toa xe lộng lẫy của công ty toa xe giường ngủ quốc tế đậu ở ke thứ nhất ngoài ga. Toa phòng khách thì đèn sáng trưng, còn toa bên cạnh thì tối om.
Pa-ven lại gần toa xe, nắm lấy thành sắt của bậc toa, định trèo lên.
Từ tường nhà ga, một người đàn ông chạy vội đến, nắm lấy vai anh.
- Anh này đi đâu?
Giọng nói quen quen, Pa-ven quay lại. Người ấy mặc áo khoác da, đội mũ cát-két vành rộng, mũi lõ mỏng dính, mắt nhìn trừng trừng ra ý dò xét.
Đến lúc ấy, Ác-chu-khin mới nhận ra Pa-ven. Anh buông vai người trẻ tuổi, nét mặt tươi dần, song cặp mắt lại nhìn hòm đồ như dò hỏi:
- Cậu đi đâu thế ?
Pa-ven trả lời vắn tắt. Một bóng người nữa từ sau toa hiện ra:
- Để tớ đi gọi người liên lạc của họ.
Pa-ven theo chân người liên lạc bước vào. Trong toa phòng khách, có mấy người ngồi, ăn mặc cầu kỳ, quần áo du lịch sang trọng. Ở bàn khách phủ khăn thêu hoa hồng, một người đàn bà ngồi quay lưng ra cửa. Lúc Pa-ven bước vào, người đàn bà ấy đang nói chuyện với một viên sĩ quan cao lớn đứng trước mặt. Người thợ điện vừa bước vào thì họ im ngay không nói chuyện nữa.
Pa-ven xem xét rất nhanh những dây điện từ bóng đèn cuối cùng của toa này đi sang toa sau. Thấy không việc gì, Pa-ven ra khỏi phòng khách, cố tìm ra chỗ hỏng. Người liên lạc bụng phệ, cổ như cổ trâu, mặc đồng phục có đốm khuy đồng mang hình diều hâu một đầu. Hắn ta theo sát anh không rời một bước.
- Ta sang toa bên, ở đây không có gì hỏng, pin đèn vẫn chạy. Chắc là hỏng ở bên kia.
Người liên lạc khóa trái cửa lại, rồi đi vào lối đi tối mò của toa sau. Pa-ven bấm đèn soi những đường dây; anh tìm ra ngay chỗ chập dây. Chỉ mấy phút, bóng đèn đầu tiên bật lên trong lối đi, tỏa ánh sáng đục mờ. Pa-ven bảo người liên lạc đi theo anh:
- Phải mở buồng này ra để thay bóng. Bóng trong buồng cháy hết rồi.
- Thế thì phải gọi bà ấy sang. Bà ta giữ chìa khóa. Người bảo vệ không dám để Pa-ven đứng đấy một mình, kéo anh đi theo.
Người đàn bà bước vào trong buồng trước. Pa-ven đi theo ngay sau.
Người liên lạc đứng ở ngưỡng cửa, thân hình phì nộn chật cả lối ra vào. Pa-ven nhìn qua gian phòng: hai hòm da xinh treo trên lưới, một áo khoác lụa quàng trên giường, một lọ nước hoa và một hộp phấn bé xíu bằng ngọc thạch để trên bàn con gần cửa sổ. Người đàn bà ngồi vào góc giường, rồi vừa quấn lại mớ tóc màu gai, vừa trông người thợ làm.
Tên liên lạc cúi cổ trâu xuống, trịnh trọng thưa:
- Xin phép bà cho con đi một phút. Quan "pan" thiếu tá gọi con lấy rượu bia ướp lạnh để ngài xơi. ( Pan : Tiếng Ba Lan nghĩa là "ông, ngài")
Người đàn bà trả lời, giọng uốn éo, đỏng đảnh: - Cho người đi.
Hai người nói với nhau bằng tiếng Ba Lan.
Vệt sáng của ngọn đèn ngoài hành lang rọi vào, đổ ngang vai người đàn bà. Tấm áo dài bằng lụa nõn Ly-ông, do nhà hàng thợ may giỏi nhất Pa-ri cắt, để lộ hai cánh tay và đôi vai. Một viên kim cương óng ánh như một giọt nước chấm sáng ở vành tai nhỏ nhắn. Pa-ven chỉ nhìn thấy cánh tay và vai người đàn bà, nõn nà như tạc bằng ngà voi. Mặt người ấy lẩn trong tối. Pa-ven lấy tuốc-nơ-vít xoay xoay mấy cái thay bóng đèn trần và chỉ một phút sau, cả gian phòng lại sáng. Chỉ còn phải xem lại cái bóng đèn thứ hai mắc ở mé trên chiếc giường người đàn bà đang ngồi. Pa-ven dừng lại trước mặt người đàn bà ấy.
- Tôi cần thử cái bóng này.
- À phải, tôi cản trở việc anh làm.
Người đàn bà trả lời bằng tiếng Nga rất đúng giọng, rồi nhẹ nhàng ngồi dậy và đứng gần Pa-ven. Giờ thì anh nhìn rõ cả người. Đôi mày gãy góc, đôi môi mím chặt kiêu kỳ. Không còn nghi ngờ gì nữa: nó là con Nen-ly Lê-sinh-ski. Đứa con gái lão thầy kiện cũng vừa nhận ra cái nhìn sửng sốt của Pa-ven. Nhưng nếu Pa-ven nhận ra nó, thì nó lại không nhận ra được người thợ điện này là thằng bé láng giềng ngỗ ngược, mới có bốn năm qua mà đã lớn hẳn lên.
Để trả lời vẻ ngạc nhiên của Pa-ven, nó cau mày khinh khỉnh đi ra cửa phòng; đứng ở đấy nó gõ mũi giày nhỏ tí bóng nhoáng vào tường gỗ, tỏ ý sốt ruột. Pa-ven tháo bóng thứ hai, soi lên ánh sáng xem và chính anh không ngờ tới, cả con Nen-ly Lê-sinh-ski lại càng không ngờ tới nữa, anh buột mồm hỏi nó bằng tiếng Ba Lan:
- Vích-to cũng có ở đây chứ?
Pa-ven hỏi thế, song không quay mặt lại. Anh không trông thấy mặt con Nen-ly, nhưng thấy lâu nó không đáp, đủ hiểu nó nghe hỏi thì ngơ ngác đến thế nào.
- Thế anh biết Vích-to à?
- Sao lại không biết! Ta trước ở cạnh nhà nhau mà. - Pa-ven quay lại nhìn nó.
- Anh là Pa-ven, con mụ.. - Nen-ly nói nửa chừng.
Pa-ven nhắc tiếp: - Con mụ nấu bếp đấy.
- Ồ anh lớn nhanh thật. Tôi nhớ ra anh trước kia là một thằng bé con rất gấu.
Nen-ly nhìn anh từ đầu đến chân một cách sống sượng:
- Anh hỏi Vích-to làm gì? Nếu tôi không nhớ lầm thì anh với Vích-to có ưa nhau đâu.
Nen-ly nói giọng lanh lảnh như chim, những mong cuộc gặp gỡ bất ngờ này làm nó đỡ sốt ruột chờ tàu chạy.
Đồ nghề của người thợ điện bắt rất nhanh vào tường gỗ một chiếc đinh ốc mới.
- Vích-to còn nợ tôi. Nếu cô gặp hắn thì cô bảo hắn là tôi vẫn đợi có dịp hắn trả nợ đấy.
- Anh cho biết Vích-to nợ anh bao nhiêu để tôi trả hộ.
Nó rất hiểu cái "nợ” Pa-ven đòi là cái nợ gì. Nó biết chuyện xảy ra với tên lính nguy Pết-lu-ra ngày trước, nhưng nó thích trêu "thằng nhãi này” nên giở giọng chọc tức chơi.
Pa-ven im không nói. Nen-ly buồn rầu hỏi thăm:
- Anh này, có phải biệt thự nhà tôi đã bị cướp phá tan tành và giờ đổ nát rồi, phải không anh? Giàn cây và những bồn hoa cũng bị phá trụi sạch rồi phải không?
- Nhà ấy nay thuộc về chúng tôi rồi, không phải của các người nữa. Việc gì chúng tôi lại phá.
Nen-ly cười mỉa:
- Ô ô! Tôi xem ra cả anh nữa cũng bị người ta lên lớp cho rồi. Nhưng toa này là toa của phái đoàn Ba Lan. Trong toa này, tôi là chủ và anh vẫn là thằng hầu của tôi như ngày trước. Giờ anh đang chữa điện cho tôi có đèn dùng, để tôi nằm đọc sách thoải mái trên chiếc giường này. Trước kia thì mẹ anh giặt quần áo cho nhà tôi, còn anh thì xách nước. Bây giờ ta lại gặp nhau nhưng phận người nào vẫn phận người ấy, không có gì khác trước.
Nó nói với vẻ đắc thắng, lấy làm thú vị một cách tinh ác. Pa-ven vừa lấy dao con cạo đầu dây điện vừa nhìn con bé Ba Lan, chẳng giấu vẻ chế nhạo.
- Nếu chỉ vì nhà chị thì chỉ một chiếc đinh gỉ tôi cũng chẳng thèm chịu đóng cho chị nhờ. Nhưng vì bọn tư sản đã sinh ra cái giống ngoại giao thì chúng ta đây, chúng ta cũng muốn tỏ ra cho chúng nó biết ta đã có chính quyền trong tay, chúng ta không thèm lấy đầu các người, chúng ta lại còn tỏ ra lễ độ nữa. Chứ chẳng có ăn nói xách mé như nhà chị.
Nen-ly đỏ chín má.
- Giá các anh chiếm được Vác-sa-va thì chẳng biết các anh sẽ định làm gì tôi? Bắt tôi làm nàng hầu hay băm thịt tôi ra làm ba-tê?
Nó đứng ưỡn ở cửa, điệu bộ đỏm dáng; hai lỗ mũi rất dâm quen mùi thuốc phiện trắng, phập phồng, mấp máy. Đèn bật sáng trên đầu giường, Pa ven đứng nhổm dậy:
- Ai người ta thiết gì nhà chị? Ngữ ấy thì chết non sớm vì thuốc phiện trắng, chứ chẳng phải đợi đến gươm đây chém cổ. Cái con người chị như thế, cho đây ngủ đây cũng chẳng thèm.
Pa-ven nhặt hòm đồ, đi hai bước ra cửa. Nen-ly nép về bên. Ra đến đầu lối đi, anh mới nghe thấy. tiếng nó chửi thầm:
- Thằng bôn-sê-vích chết tiệt!
Tối hôm sau, Pa-ven đang đi ra thư viện thì gặp Ca-chi-u-sa. Chị đưa bàn tay nhỏ xíu nắm lấy áo Pa- ven, vừa cười vừa chặn đường.
- Chạy đi đâu thế hở ông Chính trị và Huấn luyện?
Pa-ven cũng đùa, đáp lại:
- Thưa mẹ ranh, con ra thư viện. Xê ra cho người ta đi.
Anh khẽ nắm lấy vai Ca-chi-u-sa, đẩy nhẹ cô xuống đường. Ca-chi-u-sa gỡ tay anh ra và quay lại đi theo anh.
- Pa-vơ-lu-sa này, người ta không thể lúc nào cũng học tập. Hôm nay, anh có biết không, anh phải đến dự tối vui của chúng tôi. Bà con hôm nay tụ tập ở nhà Di-na Gơ-la-đúc. Bọn con gái bảo tôi phải kéo anh đến. Nhưng anh thì anh chỉ biết độc có cắm đầu vào chính trị thôi. Có thể nào anh chẳng nghĩ gì đến vui chơi, giải trí cả. - Ca-chi-u-sa cố nài ép. - Thôi, hôm nay anh nghỉ đọc sách một tối thì ngày mai đầu óc anh lại càng nhẹ nhõm !
- Tối vui gì mới được? Ở đấy người ta làm gì nào?
Ca-chi-u-sa nhại lại anh, giọng chế nhạo:
- Người ta làm gì ấy à? Người ta không cầu kinh là được rồi. Đến đấy vui một lúc, thế thôi. Anh chơi được đàn gió phải không? Tôi chưa được nghe anh chơi bao giờ. Nào, anh chiều lòng tôi một chút. Chú con Di-na có cái đàn gió, nhưng ông ta chơi tồi lắm. Bọn con gái chú ý đến anh lắm, mà anh cứ gầy khô đi trên đống sách. Có luật nào cấm thanh niên cộng sản vui chơi giải trí đâu? Tôi còn khẩn khoản mời thì anh đến đi. Nếu không tôi giấn đấy, giận rõ một tháng cho mà xem.
Người con gái có đôi mắt to làm nghề thợ sơn ấy là một đồng chí tốt và một đoàn viên khá. Pa-ven không muốn mếch lòng cô, tuy nghĩ đến tối vui ấy, anh thấy có một cái gì không quen và ngớ ngẩn nữa.
Nhà người thợ chữa đầu máy xe lửa Gơ-la-đúc tối nay đông người và rất ồn ào. Để cho bọn trẻ tha hồ vui chơi, người lớn rút cả vào phòng trong. Ở buồng lớn phía trước và ở hàng hiên trông ra vườn nhỏ, có chừng mười lăm thanh niên nam nữ quây quần. Lúc Pa-ven tới thì ở đấy họ đang chơi trò gọi là "mớm cho chim bồ câu ăn". Giữa hiên ngoài, hai ghế dựa áp lưng vào nhau, cô chủ nhà làm trưởng trò ra lệnh: một anh con trai và một chị con gái ngồi vào ghế. Trưởng trò hô lên: "Mớm chim bồ câu !" Thế là gã trai và ả gái đang ngồi áp lưng vào nhau, quay ngay đầu lại hai miệng gặp nhau và hôn môi nhau giữa công chúng. Rồi người ta gọi chơi trò "cái nhẫn", trò "người đưa thư", trò nào cũng có ôm nhau hôn. Khi chơi đến trò "người đưa thư" thì vì ngoài hiên sáng, người ta đưa nhau vào trong buồng tắt đèn hôn nhau để không ai trông thấy. Ai không thú những trò ấy thì ở một góc, trên mặt bàn tròn, có cỗ bài để chơi trò "lơn hoa". Cô bé ngồi cạnh Pa-ven, mới mười sáu tuổi, tên gọi Mua-ra, đưa đôi mắt xanh liếc anh và chìa ra cho anh một lá bài, thủ thỉ:
- Hoa tím này.
Mấy năm trước đây, Pa-ven cũng đã dự những buổi tối như thế này. Tuy bấy giờ anh chẳng trực tiếp chơi mấy, anh còn cho cái cách chơi ấy hết sức tự nhiên. Song bây giờ anh đã thoát ly hẳn cuộc đời tủn mủn tiểu tư sản của thị trấn nhỏ, buổi vui tối nay đối với anh có một cái gì kỳ quái và hơi lố bịch nữa.
Dù sao, tay anh cũng đã cầm lá bài "chim chuột" rồi.
Trên lá bài, cạnh chữ "hoa tím", có dòng chữ "Em ưa anh lắm".
Pa-ven nhìn cô bé. Cô bé nhìn lại, chẳng bối rối chút nào.
- Thế nào?
Câu hỏi của Pa-ven hơi nặng nề. Mua-ra đã nghĩ sẵn câu trả lời.
Cô bé chìa một lá bài nữa cho Pa-ven.
- Hoa hồng nữa này.
Cạnh chữ "hoa hồng", có dòng chữ: "Anh là người trong.mộng của em". Pa-ven quay sang cô bé, dịu giọng hỏi:
- Tại sao em cứ nghịch trò vớ vẩn này?
Mua-ra bối rối, xấu hổ.
- Em bộc lộ tình cảm của em làm cho anh bực mình hay sao?
Rồi bĩu môi đỏng đảnh.
Pa-ven không trả lời. Nhưng lại muốn hiểu xem cô bé là con nhà ai. Anh hỏi lại mấy câu, cô bé vui vẻ trả lời. Mấy phút sau, anh được biết cô bé đang học trường bảy năm, cha là công nhân đường sắt, đã gặp Pa-ven từ lâu và muốn làm thân với Pa-ven.
- Tên em là gì?
- Mua-ra Vô-lưn-xép.
- Có phải anh trai em là bí thư chi đoàn sở đầu máy không?
- Vâng.
Giờ thì Pa-ven hiểu cô bé là ai rồi. Rõ ràng là Vô- lưn-xép, một trong những đoàn viên thanh niên tích cực nhất quận này, đã không chú ý đến giáo dục em gái mình, và cô bé cứ là một cô ả tiểu tư sản tầm thường mãi. Từ một năm nay, cô bé năng lui tới những tối vui tổ chức ở nhà bạn, đem đến đấy những chiếc hôn làm chóng mặt được. Cô bé đã gặp Pa-ven nhiều lần đến chơi với anh mình.
Mua-ra nhận ra người con trai ngồi bên không tán thành thái độ của mình; khi người ta gọi cô vào chơi "mớm cho chim bồ câu ăn", cô thấy Pa-ven cau mày, liền từ chối thẳng. Hai người ngồi với nhau mấy phút nữa, Mua-ra kể chuyện đời mình. Ca-chi-u-sa đến tìm họ.
- Mình mang đàn gió lại nhớ, Pa-ven chơi hộ vài bài!
Rồi nheo mắt nhìn Mua-ra một cách láu lỉnh, Ca- chi-u-sa hỏi:
- Thế nào, quen nhau rồi chứ?
Pa-ven kéo Ca-chi-u-sa ngồi cạnh anh, và nhân lúc chung quanh đang cười đùa, la hét ầm ĩ, anh bảo bạn:
- Mình không chơi đâu. Mình đi dạo với Mua-ra một lúc.
- A, a, có người cắn câu. - Ca-chi-u-sa hỏi, ra dáng hiểu cả rồi.
- Phải. Cắn câu rồi đấy. Tôi hỏi Ca-chi-u-sa, ở đây ngoài hai chúng ta, có ai là đoàn viên nữa không? Hay chỉ có hai chúng ta rơi vào một "ổ chim bồ câu"?
Ca-chi-u-sa làm lành, nói cho Pa-ven biết:
- Họ thôi không làm trò điên nữa đâu. Sắp nhảy rồi.
Pa-ven đứng dậy:
- Thế thì tốt. Mời mụ cứ nhảy. Còn tôi với Mua- ra đi đây.
Một buổi tối, An-na Bô-khác đến nhà Ô-cu-nhếp. Chỉ gặp có Pa-ven ở đấy.
- Anh bận lắm phải không? Đi dự phiên họp toàn thể của Xô-viết đi nào. Để lúc về, đi có bạn cho vui, chứ họp về khuya lắm.
Một lát, Pa-ven mặc xong quần áo. Đầu giường anh treo khẩu Mô-de: khẩu súng này nặng quá. Anh mở ngăn kéo Ô-cu-nhếp, lấy khẩu Bơ-rao-ninh cho vào túi. Rồi viết lại mẩu giấy cho Ô-cu-nhếp và giấu chìa khóa vào chỗ đã hẹn với nhau.
Ở rạp hát, hai người gặp Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga. Mấy người cùng ngồi gần nhau. Những lúc phiên họp tạm nghỉ, họ đi dạo chơi với nhau ngoài sân. Như An-na đã đoán trước, buổi họp kéo dài đến một giờ khuya. Ôn-ga đề nghị:
- Hay các cậu về cả nhà mình ngủ. Khuya lắm rồi mà các cậu lại ở xa.
An-na từ chối: - Thôi, mình đã hẹn với Pa-ven đi về rồi.
Pan-cơ-ra-tốp và Ôn-ga cứ dọc đường cái đi xuôi, còn bọn về khu phố Xô-lô-men-ca thì đi ngược lên.
Đêm ngột ngạt, tối mịt như bưng lấy mắt. Cả thành phố đã ngủ kỹ. Các đại biểu ra về, mỗi người mỗi ngả, đi theo các phố im phăng phắc. Tiếng nói và tiếng chân họ cứ chìm dần trong đêm. Pa-ven và An- na đã đi khỏi các phố lớn một quãng xa. Đến phố chợ, vào giờ này vắng tanh, vắng ngắt thì gặp đội tuần tra họ giữ lại hỏi giấy rồi cho đi. Qua con đường lớn, vào một phố vắng không có đèn. Phố này chạy ngang một bãi đất bỏ hoang. Hai người rẽ sang trái, rồi men theo con đường chạy dọc những kho chính của nhà máy xe lửa. Những nếp nhà dài bằng bê-tông, trông tối đen và ghê sợ. An-na đột nhiên đâm lo. Chị len lét nhìn vào đêm tối, trả lời Pa-ven nhát gừng chẳng ra đâu vào đâu. Đến khi cái bóng đen làm chị hoảng hóa ra là cái cột dây thép thì chị cười phá lên, cắt nghĩa cho Pa-ven hiểu điều làm mình sợ. An-na khép cánh tay mình dưới cánh tay Pa-ven, sát vai mình vào vai bạn và thấy vững lòng hơn.
- Mình năm nay mới có hai mươi hai tuổi đầu nhưng thần kinh bị rão như một bà lão rồi, Pa-ven có thể cho mình là nhát gan. Mình không phải nhát gan đâu. Nhưng hôm nay không hiểu tại sao mình thấy não cân bị kích thích lạ. Giờ có Pa-ven đi bên cạnh, mình không lo nữa và thấy xấu hổ là đã hốt hoảng.
Vẻ trấn tĩnh của Pa-ven, đầu lửa đỏ của điếu thuốc lá anh cầm chốc chốc lại soi lên một bên mặt anh, đôi mày của anh cong một cách cứng cỏi, tất cả những điều đó làm An-na tiêu tan hết nỗi hoảng sợ vì đêm hôm tối mịt, vì cảnh hoang vắng của bãi đất bỏ không, cả vì câu chuyện giết người khủng khiếp xảy ra hôm qua ở khu phố Pa- dôn, vừa được nghe kể chuyện xong lúc ở rạp hát.
Hai người đã vượt qua dãy nhà kho, đi qua cái cầu nhỏ bắc ngang con lạch và đi vào con đường phố ga; con đường này đưa tới khúc đường hầm dưới gầm đường xe lửa chạy, khúc đường hầm nối thông mé bên thành phố với cả khu phố đường sắt.
Hai người đã bỏ xa nhà ga ở mé bên tay phải. Một đoàn xe chạy vào đường đỗ xe, ở cuối dãy nhà kho. Đây đã là giang sơn mà họ quen thuộc rồi. Trên kia, đường tàu chạy, ánh sáng màu óng ánh ở những đèn kho và đèn hiệu; gần kho đầu máy, một chiếc đầu máy chạy đi chạy lại, thở dốc ra như một con vật mệt lử sắp được nghỉ đêm.
Cửa vào đường hầm, có cái đèn treo trên móc sắt gỉ. Gió hiu hiu khẽ đưa đẩy ngọn đèn, ánh sáng mờ vàng ệch đong đưa, hắt lên tường bên này rồi lại hắt lên tường bên kia của đường hầm.
Khỏi đường hầm mười bước, ngay bên đường có nếp nhà nhỏ trơ trụi, chính giữa căn nhà ấy có vết thủng lớn há hốc. Hai năm trước đây, một quả trái phá hạng nặng tương trúng ngôi nhà, làm trong nhà bể tung từng mảng và mặt nhà đổ vỡ tan nát. Trông nếp nhà ấy chẳng khác một ông lão ăn mày ngồi bên vệ đường chìa vết thương của mình ra cho người qua lại trông thấy. Trên mặt đường cao, một chuyến tàu chạy qua.
An-na thở phào.
- Ta gần đến nhà rồi.
Pa-ven gỡ tay An-na ra. Song An-na không chịu bỏ. Hai người qua một căn nhà đổ nát.
Bỗng có tiếng động sau lưng. Tiếng chân chạy gấp, tiếng thở hồng hộc. Có người đuổi theo họ.
Pa-ven giật tay ra định đối phó, nhưng An-na thất kinh cứ ôm ghì lấy anh. Đến khi Pa-ven gỡ tay ra được thì muộn quá rồi: những ngón tay cứng như sắt đã nắm lấy cổ anh; anh quẫy mạnh nhưng kẻ hành hung đã sấn đến trước mặt. Nó lấy tay sờ cổ họng anh, nắm lấy cổ áo vặn mạnh, rồi ngẩng đầu anh lên trước nòng một khẩu súng ngắn, khẩu súng từ từ giơ lên vẽ thành một vòng cung.
Mắt người thợ điện như bị thôi miên, nhìn theo khẩu súng giơ lên theo đường vòng cung, óc anh căng thẳng quá sức người chịu đựng. Cái chết từ nòng súng đen ngòm nhìn thẳng vào mắt anh, và Pa-ven không đủ sức nhìn đi chỗ khác, dù chỉ là một phần trăm giây đồng hồ. Anh đợi phát súng, nhưng không thấy nổ. Mắt anh tròn xoe nhìn thấy mặt thằng cướp. Sọ nó to, cằm nó bạnh, râu ria đen sì tua tủa; mắt nó nấp dưới bóng đen vành rộng mũ cát-két.
Pa-ven liếc nhìn An-na mặt trắng bệch như vôi. Một đứa trong ba thằng cướp kéo An-na vào xó thủng của căn nhà đổ. Nó vặn tay người con gái, đè ra đất. Một bóng đen nữa đi kèm Pa-ven, anh chỉ thấy bóng nó in trên tường hầm. Đằng sau, trong gian nhà đổ nát, có tiếng vật lộn. An-na cố giãy không chịu; tiếng kêu cứu bỗng im bặt: An-na bị nó lấy mũ cát-két nhét vào mồm. Tên cướp to đầu đang ôm ghì Pa-ven không chịu để đứa khác hiếp mà nó chỉ đứng xem: như con thú dữ, nó muốn sán ngáy đến mồi ngon. Hình như nó là chủ tướng và nó không ưa làm cho đứa khác ăn. Anh con trai nó nắm trong tay này mặt non choẹt ấy mà. Trông cách ăn mặc, dáng chừng là "một thằng mọi" làm ở sở đầu máy thì phải. Thằng nhãi con này chẳng có gì nguy hiểm cả.
"Ta gõ hai ba lần cái củ tỏi này vào hoa cái nó, rồi ta chỉ cho nó con đường chạy qua bãi hoang thì nó sẽ chạy biến về phố, không dám ngoái cổ lại". Và thằng cướp nới nắm tay đang siết chặt của nó ra.
- Xéo! Chạy đi khỏi đây ngay lập tức. Hễ mở mồm kêu, ông cho kẹo vào mồm ngay. - Và nó lấy nòng súng cốc vào trán Pa-ven. - Cút đi ngay! Nó rống lên, rồi hạ súng xuống cho nạn nhân của nó chạy đi, khỏi sợ nó cho ăn đạn vào lưng.
Pa-ven lùi lại phía sau, đi chếch hai bước, mắt không rời thằng cướp. Thằng cướp lại tưởng gã thanh niên non choẹt ấy vẫn còn sợ nó bắn vào đầu và không để ý cứ đi về phía căn nhà.
Tay Pa-ven thò ngay vào túi. "Chỉ cốt là đừng chậm quá!” , Anh quay phắt lại, giơ thẳng tay trái, nhằm đúng thằng cướp. Nó nhận ra nó đã tính lầm thì chậm quá mất rồi. Viên đạn chọc thủng mạng mỡ.
Nó không kịp giơ tay lên trời, loạng choạng ngã khuỵu vào tường hầm, rồi kêu lên không ra tiếng, ngón tay bíu chặt lấy tường, xác nó từ từ rơi phịch xuống đất. Từ chỗ thủng của căn nhà đổ, một bóng đen vụt ra, nhảy phắt xuống rãnh sân. Pa-ven bắn phát thứ hai theo nó. Một bóng nữa lom khom, ba chân bốn cẳng chạy vụt vào hầm tối. Súng lại nổ. Đạn bật vào tường bê-tông, bụi trắng rắc theo lên bóng đen. Nó nhảy né sang bên, rồi biến mất vào đêm tối. Khẩu Bơ-rao-ninh còn bắn theo ba phát inh tai nữa. Dưới chân tường hầm, thằng cướp to đầu hấp hối, quằn quại như con giun.
Pa-ven đỡ An-na dậy. Chị chưa hết kinh hoàng, nhìn tên cướp già giãy giụa, còn chưa tin hẳn là thoát nạn.
Pa-ven dìu An-na đi trong đêm tối, về phía phố, xa dần chỗ có ánh đèn. Hai người cùng chạy về phía nhà ga. Trên bờ cao của đường sắt, gần đường hầm, có ánh đèn đi tuần soi rối rít. Một tiếng súng báo động nổ ầm trên đường sắt.
|
|