Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: khoanhkhac_cb88
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Thép Đã Tôi Thế Đấy | Nhicalai Axtơrốpxki

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 22-4-2012 20:18:17 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG VIII

Trong sương sớm lúc mặt trời chưa mọc, dòng sông ánh lên bàng bạc và êm đềm chảy rì rầm giữa hai bờ sỏi đá. Gần bờ, mặt nước sông lặng màu xám nhạt dường như không động, đôi lúc long lanh sáng. Nhưng giữa dòng sông, nước thăm thẳm sóng nhấp nhô quằn quại hối hả trôi đi. Con sông xinh đẹp, hùng vĩ ấy là con sông Đơ-nhi-ép, con sông Đơ-nhi-ép mà nhà văn Gô-gôn đã viết nên áng văn tuyệt diệu : "Tươi đẹp thay, con sông Đơ-nhi-ép..." Bờ sông bên phải, núi đá dựng đứng. Dường như núi ấy chạy đến đây, sắp sửa đâm sầm vào bờ sông thì thốt nhiên dừng chân đứng sững lại, ngây ngất trước khoảng bao la trời nước. Bờ sông bên trái thoai thoải những bãi cát. Sau vụ nước lớn mùa xuân, dòng sông thu mình vào bờ sỏi, để lại những bãi cát ấy.

Bên bờ sông có năm người nấp trong hầm chật hẹp, giữ khẩu súng Mắc-xim. Đấy là đội viễn tiêu của sư đoàn bộ binh thứ bảy. Xéc-gây nằm nghiêng bên súng máy, mặt ngoảnh ra sông.

Hôm qua, bộ đội ta giao chiến liên miên với giặc. Đại bác Ba Lan, như bão táp làm cho tan tác. Sau cùng, kiệt sức, họ đành để thành Ki-ép lọt vào tay giặc và lui về cố thủ ở tả ngạn sông Đơ-nhi-ép.

Đã phải rút lui, lại thương vong nặng và cuối cùng mất Ki-ép đã làm cho các chiến sĩ đau buồn. Sư đoàn thứ bảy này đây đã chiến đấu anh dũng vượt qua vòng vây của địch, mở đường lách qua rừng rậm, tiến đến gần ga Ma-lin-nơ. Họ tấn công rất gắt, đánh tan bọn Ba Lan chiếm đóng nhà ga, dồn chúng vào rừng, giải phóng đường đi Ki-ép.

Bây giờ thì thành Ki-ép diễm lệ đã mất vào tay giặc rồi. Các chiến sĩ mặt mày ủ dột và buồn bực trong lòng.

Quân Ba Lan đã đánh bật các đơn vị Hồng quân khỏi Đác-nhi-xa và chiếm được một căn cứ nhỏ bên tả ngạn sông, cạnh chiếc cầu đường xe lửa.

Chúng ra sức đánh rộng ra nữa, nhưng gặp sức phản công mãnh liệt của Hồng quân, chúng chẳng nhích thêm được bước nào cả.

Xéc-gây ngắm dòng sông đang chảy và anh không thể không hồi tưởng lại chuyện xảy ra ngày hôm qua.

Hôm qua, vào lúc mặt trời đứng bóng, anh đang cùng anh em hăng máu xông lên thì đụng phải quân Ba Lan trắng trong một đợt phản công quyết liệt. Lần đầu tiên, Xéc-gây đứng trước mặt đối mặt một kẻ thù. Một thằng lê-dương Ba Lan, không râu, không ria, cầm súng cắm lưỡi lê Pháp dài như thanh kiếm, chạy lại đâm Xéc-gây.(Bọn can thiệp Ba Lan lúc bấy giờ do các đế quốc Pháp, Anh, Mỹ trang bị ). Nó nhảy như choi choi, miệng kêu xì xà xì xồ. Xéc-gây chỉ còn kịp nhận ra hai mắt nó trợn trừng điên cuồng. Chưa đầy một giây đồng hồ, Xéc-gây đã lấy đầu lưỡi lê của mình đánh bật lưỡi lê tên Ba Lan. Chiếc lưỡi lê Pháp sáng loáng rơi bắn sang bên.

Tên Ba Lan ngã vật xuống...

Xéc-gây đâm lưỡi lê không có run tay. Anh biết anh còn phải giết nhiều nữa. Chính anh là người biết yêu tha thiết, đối với tình bạn rất mực thủy chung, anh có phải đâu là một đứa hung tàn độc ác. Song anh biết rằng những người lính bị lừa dối kia, ăn phải thuốc của bọn sâu mọt toàn thế giới, đang xông lại đánh nước Cộng hòa của anh với một thú điên giận thật là của loài súc vật.

Và Xéc-gây thẳng tay giết cho chóng đến ngày trên trái đất này không còn có người chém giết người nữa.

Pa-ra-mô-nốp lắc vai Xéc-gây:

- Này, Xéc-gây xuống hầm đi, kẻo chúng nó trông thấy chúng mình đấy.


Đã một năm nay, Pa-ven hành quân đi dọc ngang khắp miền quê hương xứ sở, khi ngồi trên một chiếc xe kéo súng máy, khi leo lên bệ một khẩu đại bác, khi cưỡi trên con ngựa xám cụt tai. Khỏe ra, cứng rắn ra, anh đã lớn lên trong gian lao khổ cực.

Người anh đeo bao đạn sát vào da đến bật máu, chỗ sát đã thành sẹo và dây súng lằn trên vai đã chai lên thành một ụ thịt không bao giờ tan được nữa.

Trong có một năm trời, mắt anh đã thấy biết bao nhiêu cảnh đời ghê gớm. Cùng hàng ngàn chiến sĩ khác, áo quần tả tơi, chân đất như mình, nhưng lòng hừng hực bốc cháy ngọn lửa không bao tắt của cuộc đấu tranh vì chính quyền giai cấp, Pa-ven đã bước chân đi khắp các ngả của Tổ quốc U-cơ-ren và chỉ bị dứt ra khỏi cơn bão táp ấy có hai lần.

Lần thứ nhất, bị thương vào đùi, lần thứ hai, vào một ngày tháng Hai lạnh buốt của năm 1920, anh giãy giụa trong cơn sốt nhớp nháp của bệnh chấy rận.

Cái bệnh chấy rận truyền nhiễm đã tác hại các trung đoàn và sư đoàn của tập đoàn quân thứ mười hai ghê gớm hơn cả những cỗ súng máy Ba Lan kia. Tập đoàn quân lúc đó đóng ở một khu rộng lớn, rải hầu khắp miền Bắc U-cơ-ren, ngăn đường tiến của quân Ba-lan. Vừa dứt bệnh, Pa-ven đã trở về đơn vị ngay.

Bây giờ, trung đoàn của Pa-ven đóng ở một vị trí cơ động gần ga Phơ-rông-tốp-ca, trên con đường ngoặt từ Ca-da-chim đi U-mân.

Ga ở giữa rừng. Những túp nhà bị tàn phá xúm quanh khu ga bé nhỏ. Đấy là những căn nhà hoang trống trải, dân bỏ đi vì không thể nào ở được yên. Hai năm qua, chập chờn có lúc yên tĩnh, có lúc lại đánh nhau dữ. Suất hai năm trời, ga Phơ-rông-tốp- ca đã chứng kiến biết bao nhiêu là chuyện!

Lại sắp sửa xảy ra nhiều việc lớn. Trong lúc sư đoàn mười hai bị tổn thất nặng, tan rã từng phần, trước sức thọc mạnh của quân đội Ba Lan, phải rút lui về gần Ki-ép thì nước Cộng hòa vô sản chuẩn bị giáng một đòn chí tử vào quân thù lúc đó đang say sưa thừa thắng tiến.

Những sư đoàn kỵ binh dạn dày lửa đạn của tập đoàn kỵ binh thứ nhất đã mở cuộc trường chinh chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, từ vùng Bắc Cô- ca-dơ xa xôi chuyển đến U-cơ-ren. Các sư đoàn kỵ binh thứ tư, thứ sáu, thứ mười một và thứ mười bốn lần lượt tiến đến U-mân và tập kết ở sau trận tuyến của ta. Trên đường xông tới những cuộc chiến đấu ác liệt kỵ binh đã quét sách bọn phỉ Ma-khơ-nô.

Một vạn sáu ngàn năm trăm thanh kiếm, một vạn sáu ngàn năm trăm chiến sĩ da rám nắng đồng cỏ.

Bộ Tổng tư lệnh Hồng quân và Bộ Tổng tư lệnh mặt trận Tây-nam hết sức giữ bí mật để cho quân Ba Lan của phát-xít Điu-xuýt-ski không thể nào đối phó kịp với cuộc hành quân có tính chất quyết định đang chuẩn bị. Bộ tham mưu của nước Cộng hòa và các mặt trận trực tiếp phụ trách tập hợp khối kỵ binh này.

Chiến sự ngừng hẳn ở mặt trận U-mân, đường dây liên lạc thẳng từ Mát-xcơ-va đến Bộ tham mưu mặt trận Khác-cốp làm việc không ngừng. Từ Khác-cốp, điện lại báo đi các bộ tham mưu các tập đoàn quân thứ mười bốn, thứ mười hai. Điện báo tạch tè ghi những mệnh lệnh mật mã lên những băng điện hẹp: "Không để cho quân Ba Lan chú ý đến quân đoàn kỵ binh của ta tập kết". Chiến sự ngừng trên khu vực U-mân. Chỉ giao chiến khi nào và nơi nào bọn Ba Lan tiến quân uy hiếp đoàn kỵ binh của Bu-đi- on-ny, tránh cho kỵ binh khỏi bị dồn vào tình thế phải giao chiến quá sớm.

Đống lửa trú quân bập bùng ngọn lửa màu hung, khói bốc lên xoắn tít hình trôn ốc. Loài nhặng rừng không chịu được hơi khói bay tứ tung như ong vỡ tổ. Các chiến sĩ ngồi quanh ngọn lửa theo hình vòng cung, lửa hồng làm mặt họ ánh lên bóng như màu đồng.

Những chiếc cà-mèn vùi trong tro biếc ánh lửa. Nước sôi sùng sục. Một ngọn lửa từ khúc gỗ cháy lóe ra bén sém một chiếc đầu bù. Người bị cháy tóc bực mình phát bẳn:

- Rõ khỉ !

Anh em chung quanh bật cười khúc khích.

Một người lính già mặc áo dạ, râu mép xén ngắn, đang chìa nòng súng ra ánh lửa xem, thấy vậy nói khẽ:

- Thằng bé này mải đọc khoa học quá, đến nỗi sán vào lửa cháy mà cũng không biết.

- Pa-ven ơi! Đọc gì thế, kể cho chúng tớ nghe với.

Pa-ven, người lính trẻ ấy, vừa lấy tay mân mê mớ tóc sém của mình, vừa mỉm cười nói :

- Đồng chí An-đơ-rơ-súc ạ! Cuốn sách hay tuyệt. Đã đọc vào là tôi không thể nào buông ra được nữa.

Người ngồi cạnh Pa-ven là Xê-rê-đa, một thanh niên có cái mũi ngắn, hếch lên, đang chăm chú vá lại dây đeo bao đạn, hai răng cắn chặt lấy sợi chỉ xám to, nghe bạn nói vậy thì tò mò hỏi:

- Thế cuốn sách viết về ai hở cậu? - Xê-rê-đa tay cuộn đoạn chỉ còn lại vào cái kim cắm trên mũ dạ, nói thêm:

- Nếu nói về tình yêu thì mình thú lắm đấy.

Chung quanh cười rộ lên. Mát-vây-súc nhô cái đầu tóc cắt ngắn lên, nheo mắt láu lỉnh nói trêu Xê-rê-đa:

- Tình yêu là chuyện cũng hay, Xê-rê-đa ạ. Cậu đẹp trai, trông rất bảnh ! Hễ quân ta đi đến đâu, các cô ả thấy cậu đều mê tít. Chỉ phải một cái tật nhỏ: mũi cậu quá ngắn và hếch lên làm cho mưa cứ rơi tọt vào trong. Nhưng mà có thể chữa được. Cậu cứ lấy quả lựu đạn Nô-vít-ki treo vào đầu mũi, chỉ một đêm là mũi dài ra và quặp xuống thôi. (Thứ lựu đạn tay, nặng gần bốn cân, dùng để phá hàng rào dây thép gai).

Câu nói bông đùa ấy làm mọi người phá ra cười sằng sặc. Nghe tiếng cười, mấy con ngựa buộc ở những xe súng máy cũng phải rùng mình phì hơi một cách hoảng hốt.

Xê-rê-đa lừ đừ quay mặt lại:

- Hơn nhau chẳng phải ở cái đẹp trai, mà ở cái sọ này. - Xê-rê-đa đập tay lên trán như ra hiệu chỉ cái đầu to - Đấy nhớ, lưỡi cậu cay như ớt thế mà cậu cứ vẫn là một thằng hết sức khờ. Với lại cậu có đôi tai lạnh như tiền nữa.

Hai chiến sĩ chực xông vào vật nhau, nhưng đồng chí tiểu đội trưởng Ta-ta-ri-nốp đã can ngay:

- Này, này, các cậu ơi, vặc nhau làm gì! Thôi để Pa-ven nó đọc sách cho mà nghe còn hơn.

- Phải đấy ! Đọc đi Pa-ven ạ! - Tiếng hưởng ứng nhao nhao lên.

Pa-ven kéo cái yên ngựa lại gần ánh lửa, ngồi cưỡi lên yên, mở trên đầu gối cuốn sách khổ nhỏ song khá dày.

- Báo cáo các đồng chí, cuốn truyện này tên là Ruồi trâu (một truyện nổi tiếng nói về phong trào cách mạng ở Ý so người thủ lĩnh lấy tên là Ruồi trâu đề xướng ra (N.D)). Đồng chí chính ủy tiểu đoàn cho tôi mượn đấy. Cuốn truyện rất thấm thía đối với tôi. Các đồng chí ngồi yên đừng đùa, tôi đọc cho mà nghe.

- Thôi đọc đi, nhanh lên. Chẳng ai phá đám đâu.

Khi đồng chí trung đoàn trưởng Pu-dư-rếp-ski cùng đồng chí ủy viên quân sự Đô-rê-nin đi ngựa, lẳng lặng đến gần đống lửa, thì trông thấy mười một cặp mắt châu châu vào một chiến sĩ đang đọc to quyển truyện.

Pu-dư-rếp-ski quay đầu lại phía đồng chí chính ủy viên lấy tay chỉ nhóm người:

- Đây là một nửa số anh em quân báo của trung đoàn, trong đó có bốn thanh niên cộng sản, ít tuổi lắm, song mỗi cậu đều bằng một chiến sĩ cừ. Anh trông cậu đang đọc truyện, và cậu kia nữa có cặp mắt y như cặp mắt của con sói con, đấy là Ca-rơ-sa- ghin và Giác-ki. Hai cậu bé thân với nhau lắm, nhưng cũng ganh ngầm với nhau lắm. Trước kia thì Pa-ven là một tay quân báo giỏi nhất của tôi. Giờ có Giác- ki là tay địch thủ khá lợi hại của cậu ta. Anh trông kìa, các cậu ta đang làm công tác chính trị đấy. Nhìn thì chẳng ai biết là làm công tác, nhưng tác dụng lại rất lớn. Anh em gọi họ là "Đội thanh niên cận vệ", tên ấy thật đúng quá.

Đồng chí ủy viên quân sự hỏi: - Đồng chí đang đọc kia có phải là chính trị viên đội quân báo không?

- Không. Chính trị viên là Cơ-ra-me.

Trung đoàn trưởng cho ngựa bước lên. Đồng chí cất giọng nói to: - Chào các đồng chí!

Mọi người quay lại. Trung đoàn trưởng nhẹ nhàng xuống ngựa, đi lại gần các chiến sĩ đang ngồi.

- Các đồng chí ngồi sưởi đấy à? - Trung đoàn trưởng hỏi, nụ cười rộng rãi ở trên môi. Trên khuôn mặt cứng cỏi của đồng chí với đôi mắt bé hơi giống mặt người Mông Cổ, vẻ nghiêm khắc đã biến đi.

Các đồng chí niềm nở đón đồng chí chỉ huy như một người đồng đội hiền từ, như một người bạn thân. Đồng chí ủy viên quân sự vẫn ngồi trên ngựa định đi tiếp sang đơn vị khác.

Pu-dư-rếp-ski kéo bao súng Mô-de ra phía sau, rồi lại ngồi cạnh Pa-ven và nói:

- Mời các đồng chí, ta hút một điếu thuốc. Tôi có thuốc lá hút cũng tạm được.

Châm thuốc xong, trung đoàn trưởng quay ra nói với đồng chí ủy viên quân sự:

- Đồng chí cứ về trước đi, đồng chí Đô-rê-nin ạ. Tôi ở lại chơi với anh em một lát. Nếu ở bộ tham mưu cần đến tôi, đồng chí tin cho tôi biết nhé.

Khi Đô rê-nin đã đi khỏi, Pu-dư-rếp-ski quay lại bảo Pa-ven:

- Chú đọc tiếp đi, tôi cũng nghe với.

Đọc xong những trang cuối, Pa-ven đặt sách lên gối và bâng khuâng nhìn chăm chăm vào ngọn lửa, nghĩ ngợi.

Trong mấy phút đồng hồ, không ai nói một lời. Tất cả mọi người đều xúc động vì cái chết của "Ruồi trâu”.

Pu-dư-rếp-ski hút một hơi thuốc lá, chờ đợi anh em lên tiếng.

Lời phát biểu của Xê-rê-đa phá tan cái không khí yên lặng.

- Câu chuyện bi thảm thật. Ai mà tưởng có được những con người bản lĩnh như thế trên đời này. Một người thường không thể chịu được cực hình đến độ ấy Nhưng khi người ấy đã vì lý tưởng mà chiến đấu thì nhất định giữ vững được tinh thần.

Giọng Xê-rê-đa hết sức xúc động. Câu chuyện làm anh cảm xúc sâu xa.

An-đơ-ru-sa, một người thợ học việc đóng giày vùng Bê-lai-a Xéc-cốp, bừng bừng phẫn nộ:

- Thằng ác tăng khốn nạn đó mà vớ phải tay tôi thì tôi đâm chết nó ngay tại chỗ!

An-đơ-rơ-súc lấy que củi ấn thêm chiếc cả-mèn của mình vào bếp, rồi nói bằng một giọng tin tưởng:

- Chết mà biết mình chết vì một sự nghiệp gì thì chết cũng đáng lắm. Trong trường hợp ấy anh thấy mình có đủ sức mạnh để không sợ chết. Ta sẵn sàng đi đến cái chết một cách kiên nhẫn khi ta cảm thấy có chính nghĩa ở phía ta. Chính cái đó làm con người ta trở thành anh hùng đấy. Tôi biết một đồng chí trẻ tuổi tên gọi là Pô-rai-ca. Cái hôm bọn giặc trắng thọc vào Ô-đét-xa, một mình anh ta xung phong đánh cả một trung đội chúng nó. Bọn chúng chưa kịp giở lưỡi lê đâm anh, anh đã rút lựu đạn ra, quăng ngay dưới chân mình. Người anh tan ra từng mảnh, nhưng cả bọn Ba Lan cũng tan xác. Ấy thế mà trông anh ta bề ngoài chẳng có vẻ gì đâu. Không ai viết sách nói về anh ta. Song chuyện anh ta thật đáng chép vào sách. Hàng ngũ ta có vô số đồng chí ưu tú như thế.

An-đơ-rơ-súc lấy thìa quấy cà-mèn, thè lưỡi ra nhắp ngụm trà, rồi nói tiếp:

- Cũng có cái chết như chó chết, chết đục, chết ô nhục. Bữa chúng tôi đánh nhau ở I-di-a-sláp, một thị trấn cổ, xây từ đời vua nào ngày trước trên sông Gô- rin, đấy có một nhà thờ Ba Lan, y như cái pháo đài, khó lắm. Thế mà cũng vào được tất. Quân ta hàng một trèo vào, leo lên các lối đi nhỏ ngoằn ngoèo, sườn bên phải có anh em người Lét-tô-ni kiềm chế cho rồi. Còn ta đổ ra phố lớn. Ra đến phố lớn thì trông thấy gì? Gần vườn hoa có ba con ngựa đóng yên sẵn buộc vào hàng rào.

Bọn tôi trước tình huống ấy tất nhiên bảo nhau: phen này tóm cổ bọn Ba Lan. Cả mười người hết cả vào sân. Đồng chí đại đội trưởng người Lét-tô-ni tay lăm lăm cầm khẩu Mô-de đi trước.

Vào đến nhà chính thì cửa đã mở. Bọn tôi đi vào. Tưởng tóm được bọn Ba Lan, hóa ra không phải. Trong đó có sẵn một tổ của ta. Họ vào trước chúng mình. Chẳng hay hớm gì cái chuyện đang xảy ra ở đấy. Nhà này vốn có một thằng sĩ quan Ba Lan ở. Bọn mất dạy ở tổ ấy vào đè ngay mụ vợ thằng ấy ra để cưỡng hiếp. Đồng chí chỉ huy người Lét-tô-ni của chúng mình tên là Bơ-rê-đi, trông thấy thế thét lên câu gì bằng tiếng Lét-tô-ni. Rồi cho tóm cổ ba đứa kia lôi ra sân. Hôm ấy chỉ tôi và một đồng chí nữa là người Nga, còn toàn người Lét-tô-ni cả. Họ nói gì với nhau, mình nghe không hiểu, song cũng thấy câu chuyện rõ ràng: kẻ nào phạm lỗi thì sẽ bị xử. Người Lét-tô-ni, tính thẳng, rắn chắc như đá lửa. Họ ấn ba thằng kia vào sát vách chuồng ngựa. Mình nghĩ thầm: chết, chắc là họ định bắn tan xác ba tên này đây. Trong số ba đứa đó có một tên vạm vỡ, chắc nịch cố cưỡng lại, mồm chửi rủa, văng tục lung tung. Hắn la ầm lên: ai lại nỡ vì một mụ đàn bà mà treo cổ tôi? Hai tên kia cũng van xin rối rít.

Trông thấy như thế mà ớn lạnh cả người. Mình  chạy lại nói với Bơ-rê-đi: "Đồng chí đại đội trưởng, đồng chí bắn làm gì, dính vào máu chúng nó cho bẩn tay? Để đưa tòa án binh xử. Trong thành phố, chiến đấu đang tiếp tục mà ta lại đứng đây để xử tội". Tức thì Bơ-rê-đi quay lại nhìn mình và mình thấy hối ngay là đã trót nói mất rồi. Mắt Bơ-rê-đi nhìn mình y như mắt hổ. Anh ấy gí súng vào tận miệng mình. Mình chiến đấu đã bảy năm rồi, bây giờ nói ra thật khỉ, song lúc ấy thật tình là mình hoảng thật. Mình nghĩ bụng: không khéo thì mất mạng phen này, chẳng còn nói năng gì nữa. Anh ta bảo mình bằng tiếng Nga lơ lớ, mình khó lòng mới nghe rõ, nhưng cũng hiểu ý như thế này: "Ngọn cờ của ta là máu nhuộm đỏ. Vậy mà quân chó này làm ô danh cả quân đội ta. Quân thổ phỉ phải lấy xác để đền tội".

Mình không dám ở nán lại nữa, chạy một mạch từ sân ra đến phố thì nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau. Mình nghĩ thầm: thế là xong. Khi mình đi theo kịp đơn vị mình thì thành phố đã hoàn toàn về tay ta. Câu chuyện như thế đấy. Những tên ấy chết, thật chết như giống chó. Nghe đâu bọn đó trước là quân phỉ của Ma-khơ-nô, mới chạy sang theo ta ở gần Mê- li-tô-pôn. Bọn chúng chỉ là một lũ ô hợp, phức tạp.

Nói đến đây, An-đơ-rơ-súc, đặt cái cà-mèn xuống chân, tay mở túi dết lấy bánh mì ra:

- Có thể nào một đống phân bẩn như thế lại dính vào hàng ngũ chúng ta? Không sao kiểm tra hết được. Trông chúng, người ta tưởng như chúng cũng chiến đấu vì cách mạng. Thật ra, chính vì chúng mà bùn vấy cả lên mặt chúng ta. Dù sao thấy vậy cũng đau lòng. Chuyện đó cho đến bây giờ mình vẫn không quên được.

An-đơ-rơ-súc kết luận câu chuyện, rồi bắt đầu nhắp trà.

Đội quân báo kỵ binh mãi tận đêm khuya mới ngủ. Xê-rê-đa ngủ say hếch mũi lên kéo gỗ. Pu-dư-rép-ski cũng đã ngủ, đầu gối trên chiếc yên ngựa. Đồng chí chính trị viên Cơ-ra-me thì đang ghi sổ tay.

Ngày hôm sau, đi trinh sát về, Pa-ven buộc ngựa vào cây thấy đồng chí chính trị viên Cơ-ra-me vừa uống trà xong, bèn mời lại nói chuyện.

- Đồng chí chính trị viên ạ, tôi có ý định như thế này, đồng chí nghĩ có được không? Tôi định bỏ đây sang bên Quân đoàn kỵ binh thứ nhất. Bên ấy, sắp nóng sốt đến nơi rồi. Vì nhất định là họ tập trung đông người như thế chắc không phải để mà chơi. Còn ta ở đây thì cứ chết gí một chỗ. Tôi chán ngấy lắm rồi.

Cơ ra-me sửng sốt nhìn Pa-ven:

- Sao, thế nào, chú định bỏ đây chuồn đi à? Chú nghĩ thế nào? Vậy ra theo chú, Hồng quân là rạp chiếu bóng hay sao mà đòi đổi đơn vị như đổi chỗ ngồi thế? Nếu ai cũng đòi đổi đơn vị thế thì còn ra thế nào nữa?

Pa-ven ngắt lời đồng chí chính trị viên:

- Cốt sao đánh hăng là được. Ở đấy hay bên ấy cũng thế cả, không có gì quan trọng. Tôi có đào ngũ chuồn về hậu phương đâu!

Cơ-ra-me một mực can ngăn Pa-ven:

- Thế chú cho kỷ luật là cái gì? Pa-ven ạ, chú có nhiều ưu điểm, song chú phải cái tính vô chính phủ. Chú thích sao, chú làm vậy. Chú quên rằng Đảng và Đoàn thanh niên dựa vào kỷ luật sắt ư? Đảng trên hết. Đảng cần mình ở đâu thì mình phải ở đấy, chứ không phải mình muốn ở đâu thì ở. Đồng chí trung đoàn trưởng đã không cho phép chú đổi đơn vị nữa rồi phải không? Thế là quyết định rồi, không bàn gì nữa.

Cơ-ra-me người mảnh khảnh dong dỏng cao, nước da vàng nhợt, ho sù sụ vì xúc động. Bụi chì của nhà in đã ngấm sâu vào hai lá phổi, thỉnh thoảng những quầng đỏ tật bệnh của chứng lao lại hiện trên đôi má.

Khi Cơ-ra-me dứt cơn ho, Pa-ven nói thấp giọng, nhưng cương quyết:

- Tất cả những điều đồng chí nói đều rất phải, song mai tôi sẽ cứ sang đoàn kỵ binh Bu-đi-on-ny, thật đấy!

Và tối hôm sau không còn bóng Pa-ven bên đống lửa trú quân nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2012 18:28:30 | Chỉ xem của tác giả
Ở thôn bên, trước cửa trường học trên gò cao, các chiến sĩ kỵ binh tập hợp thành một vòng lớn. Một chiến sĩ kỵ binh khỏe mạnh thuộc đơn vị Bu-đi-on- ny ngồi mé sau chiếc xe ngựa, mũ cát-két hất ra sau gáy, đang kéo rên rỉ chiếc đàn gió. Trong tay đồng chí ấy chiếc đàn kêu rú lên, nhịp điệu hỗn loạn, làm lạc cả bước chân của chiến sĩ mặc chiếc quần thủng màu đỏ đang nhảy một cách điên cuồng điệu nhảy dân gian xứ U-cơ-ren.

Trai gái trong làng tò mò kéo ra, leo lên chiếc xe ngựa và những hàng rào bên cạnh để xem những nhà vũ đạo rất liều của lữ đoàn kỵ binh vừa mới đến đóng ở làng này.

- Tốp-tan ơi! Kéo hăng lên nào! Làm một quắn nữa chứ! Cho thêm chất nóng vào đi!

Nhưng những ngón tay to lớn của anh bộ đội kéo đàn gió, chỉ quen gò móng ngựa, nên ngó ngoáy một cách khó nhọc trên phím đàn.

Anh chiến sĩ da rám nắng đang nhảy, bỗng than phiền:

- Chà, tiếc thằng Cu-láp-cơ quá. Quân thổ phỉ Ma- khơ-nô khốn kiếp đã giết chết mất cậu ấy. Cu-láp- cơ kéo đàn gió còn phải nói. Hạng nhất...Chiến đấu luôn luôn đi hàng đầu trung đội mình. Tiếc cậu ấy quá! Vừa là một chiến sĩ cừ, vừa là một tay chơi nhạc giỏi.

Pa-ven cũng đứng trong đám dự cuộc vui. Nghe mấy lời vừa rồi, anh liền len đến chiếc xe ngựa, lấy tay ấn vào hòm xếp của chiếc đàn. Tiếng đàn im bặt.

Chiến sĩ kéo đàn gió quắc mắt nhìn anh: - Cậu muốn gì?

Tốp-tan ngừng lại, không kéo nữa, làm mọi người chung quanh nhao nhao, giọng không bằng lòng nổi lên:

- Cái gì thế? Sao dừng lại thế?

Pa-ven chìa tay về phía dây kéo đàn:

- Đưa cho mình chơi một lát.

Tốp-tan nhìn người đồng đội lạ mặt với cặp mắt hoài nghi do dự, rồi gỡ dây đeo khỏi vai.

Bằng một cử chỉ quen thuộc, Pa-ven để đàn lên gối. Anh dìu dặt kéo nếp đàn lượn khúc mở ra hình cánh quạt, rồi sau từng nấc, từng nấc dồn dập, Pa- ven dạo bản nhạc với tất cả sức mạnh của chiếc đàn:

"Quả táo hồng hồng
Mày lăn đằng nào
Lăn vào Sê-kha
Chẳng ra được sớm"

( Sê-kha : cơ quan đặc biệt chống phản cách mạng trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết)

Tốp-tan cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh dang hai tay lên như hai cánh chim, lượn vòng tròn, hai chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào gối, vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng vào cái mồm đang hát to.

Tiếng đàn gió rung lên, kích thích, thúc giục chiến sĩ đang nhảy trong điệu hùng mạnh, hừng hực, tới tấp như những luồng gió cuồng liên tiếp. Tốp-tan bắt đầu quay tít đi như con cù đinh, vừa quay vừa nhảy một vòng tròn hết chân nó đến chân kia đá vút vào không khí, miệng hét lên đến hết hơi:

- Hích hắc! Hích hắc!


Ngày mồng năm tháng Sáu năm 1920, sau mấy cuộc giao chiến chớp nhoáng nhưng khốc hệt, tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất, do Bu-đi-on-ny chỉ huy, đã chọc vỡ phòng tuyến Ba Lan ở điểm đóng giáp nhau của quân đoàn thứ hai và quân đoàn thứ tư của địch, đánh tan được lữ đoàn của tướng địch Xa-vi-ski và thừa thế tiến về hướng Ru-gin.

Bộ chỉ huy Ba Lan muốn đối phó với cuộc tiến quân đột phá ấy liền hối hả cho lập một đội xung kích. Năm xe tăng bọc sắt chở từ xe lửa tới ga Pô-gờ-rê- bích cấp tốc đến tiếp viện.

Chúng chuẩn bị đối phó ở Da-rút-nhích, nhưng kỵ binh Hồng quân đã vòng qua Da-rút-nhích, lọt vào hậu phương của các quân đoàn Ba Lan.

Chúng tung sư đoàn kỵ binh Ba Lan do tướng Coóc- nhi-ski chỉ huy ra đuổi theo vết chân tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn kỵ binh Coóc-nhi-ski có nhiệm vụ đánh tập hậu bằng được vào cánh quân đỏ mà bộ chỉ huy Ba Lan cho là có ý định tấn công vào Ca-da-chin, điểm chiến lược trọng yếu nhất của hậu phương Ba Lan. Nhưng kế hoạch đó cũng không cứu vãn nổi tình hình nguy ngập của quân bạch vệ Ba Lan. Tuy ngày hôm sau quân Ba Lan có lấp được chỗ trận tuyến bị chọc thủng và khép được phòng tuyến sau đường đánh thọc của kỵ binh đỏ nhưng lúc đó trong lòng hậu phương của chúng, cả một đoàn quân đỏ mạnh như vũ bão đã hoành hành rồi. Tập đoàn quân này sau khi đã tiêu diệt các căn cứ hậu phương của địch, tiến lên đánh vào những lực lượng của Ba Lan đóng ở Ki-ép. Dọc đường tiến quân, các sư đoàn kỵ binh đỏ đã phá hủy các cầu và đường sắt để chặn đường rút lui của quân Ba Lan.

Theo tin tù binh khai thì tham mưu quân đoàn địch đóng ở Gi-tô-mia, nhưng thật ra ở đấy là cả bộ tham mưu mặt trận của địch. Chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh của ta quyết định chiếm lấy những đầu mối đường xe lửa quan trọng và những trung tâm hành chính quan trọng là Gi-tô-mia và Béc-đi-sép. Và ngày mồng bảy tháng Sáu, khi trời vừa tảng sáng, sư đoàn kỵ binh thứ tư của ta đã ập đến Gi-tô-mia.

Pa-ven được bổ sung vào một trung đội kỵ binh, đi xung kích thay chân Cu-láp-cơ đã hy sinh. Cả tập thể chiến sĩ không muốn rời bỏ người kéo đàn gió cừ ấy, nên đã đề nghị thu nạp anh vào trung đội.

Đến gần Gi-tô-mia, quân ta chia làm nhiều mũi theo hình cánh quạt đánh tỏa vào. Không ai muốn ghìm vó ngựa đang phi hăng. Ánh nắng rọi vào lưỡi kiếm, bật ra muôn tia sáng óng ánh bạc.

Đất chuyển, ngựa hí, chiến sĩ rướn người trên bàn đạp.

Mặt đất chạy lướt nhanh, lùi lại dưới vó ngựa. Thành phố Gi-tô-mia to lớn có những công viên xinh như chạy đến đón sư đoàn kỵ mã. Đã vượt qua những vườn hoa ngoại thành. Và giờ đây, sư đoàn ập vào trung tâm, tiếng thét "xung phong” ghê rợn như thần chết, rung chuyển không trung.

Bọn Ba Lan kinh hoàng hầu như không dám chống cự lại. Quân đóng ở đây bị tiêu diệt tan tành.

Pa-ven cúi rạp xuống bờm ngựa, phi như bay. Bên cạnh là Tốp-tan đang phi trên con ngựa đen nhánh chân thon.

Mắt Pa-ven trông thấy nhát kiếm ác liệt của chiến sĩ Tốp-tan quả cảm bổ xuống một thằng lê dương Ba Lan, tên này không kịp đưa lưỡi lê lên đỡ.

Móng sắt của vó ngựa nện siết đường phố. Rồi bất chợt, ở ngã tư, một khẩu súng máy nhô ra. Ba tên mặc binh phục xanh, đầu đội ca-lô cúi rạp trên khẩu súng, một tên nữa, cổ áo có dải vàng như con rắn, chĩa súng lục nhằm bắn những người đi ngựa.

Không ghìm được dũng mã, cả Tốp-tan lẫn Pa-ven cứ lao tới khẩu súng, đi thẳng vào nanh vuốt của thần chết. Thằng sĩ quan cầm súng lục nhằm thẳng Pa-ven. Bắn trượt... Đạn víu như chim sẻ kêu, sượt qua má. Và thằng sĩ quan địch bị ngựa xô ngã lộn nhào, đầu vập xuống đường đá. Cùng lúc ấy, những súng máy hối hả nhả đạn như bật ra những dịp cười điên cuồng ghê rợn. Như bị đàn ong bằng sắt châm đốt, Tốp-tan và ngựa bị trúng chừng chục viên đạn ngã nhào xuống cả người lẫn ngựa.

Con ngựa của Pa-ven hoảng sợ, rống lên, cất vó nhảy chồm qua xác người và ngựa của Tốp-tan, rơi vào giữa bọn giặc giữ súng máy. Mũi kiếm Pa-ven hoa lên một vòng sáng rực, xả vào một chiếc ca-lô-xanh.

Lưỡi kiếm lại vung lên không, nhằm bổ vào một chiếc đầu khác. Nhưng con dũng mã đang phi hăng đã nhảy tót sang bên.

Như thác lũ tràn về cả trung đội ập đến ngã tư này, hàng chục mũi kiếm hoa lên ngang dọc trên không…

Những hành lang hẹp và dài của nhà pha Gi-tô- mia vang ầm những tiếng kêu thét.

Trong các xà-lim đầy ắp những người bị giam, mặt hốc hác, đau khổ. Ngoài phố đang đánh nhau to, có thể nào tin được là giải phóng đến nơi? Có thể nào tin được đấy là quân mình đã bất ngờ từ đâu hiện đến?

Trong sân nhà pha đã có tiếng súng nổ rồi. Dọc các hành lang, người chạy vội vã. Rồi có tiếng đột ngột nói lên thân thiết, vô cùng thân thiết.

- Ra đi, các đồng chí ơi !

Pa-ven dừng lại trước tấm cửa đóng kín. Hàng chục cặp mắt nhìn qua lỗ nhỏ. Hăng máu lên, Pa-ven dùng báng súng cố ghè khóa cửa. Ghè nữa, ghè nữa!

- Để tớ làm cho. Lấy mìn mà phá. - Mi-rô-nốp gạt Pa-ven sang bên, rồi thò tay rút quả lựu đạn trong bao ra.

Trung đội trưởng Xi-ga-sên-cơ giằng lấy quả lựu đạn:

- Dừng lại, đồ ngốc! Mày điên à? Đợi mang chìa khóa mở đến. Không bẻ được đâu, để người ta lấy khóa mở cho chúng mình.

Bọn canh ngục, có súng ta gí sau lưng, bị dẫn đến mở khóa xà-lim. Hành lang một lát đã đầy những người quần áo tả tơi, lâu ngày không được tắm rửa. Lòng họ đang vui như điên.

Pa-ven mở rộng cửa sắt, chạy vào nhà giam.

- Các đồng chí ơi! Các đồng chí đã được giải phóng rồi! Chúng tôi là chiến sĩ kỵ binh của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn chúng tôi đã chiếm được thành phố rồi.

Một người đàn bà, nước mắt giàn giụa, ôm chầm lấy Pa-ven như ôm người nhà thân thiết, khóc nức nở.

Giải phóng bằng ấy đồng chí bôn-sê-vích của mình, đối với các chiến sĩ của sư đoàn, thật quý hơn tất cả mọi thứ chiến lợi phẩm, quý hơn cả chiến thắng. Trong những hộp bằng đá này, bọn Ba Lan trắng nhốt của ta năm ngàn bảy mươi mốt đồng chí bôn-sê-vích đang đợi ngày chúng đem đi bắn hay đi treo cổ và hai ngàn chính trị viên Hồng quân. Đối với bảy ngàn chiến sĩ cách mạng được giải phóng ấy, đêm tối không cùng vừa qua phút chốc đã chuyển ngay thành ánh sáng chan hòa của một ngày tháng Sáu tươi nắng.

Một đồng chí bị giam mặt vàng như vỏ chanh ủng, sung sướng chạy đến gặp Pa-ven. Đấy là Xa-miên Lê-khe, người thợ sắp chữ ở xưởng in Sê-pê-tốp-ca.

Nghe Xa-miên kể chuyện, mặt Pa-ven cứ xám dần. Một tấn thảm kịch đẫm máu đã xảy ra ở thị trấn quê hương. Mỗi tiếng Xa-miên nói ra rơi vào lòng anh như từng giọt sắt nung lỏng.

- Có một thằng khiêu khích khốn nạn báo, nên chúng tôi bị tóm tất cả. Cả bọn chúng tôi rơi vào tay hiến binh. Chúng nó đem ra tra tấn ngay rất dã man. Tôi bị đau ít hơn các đồng chí khác: vì bị chúng nó đánh mấy tua đầu là tôi lăn ra bất tỉnh ngay. Còn các cậu khác thì khỏe hơn tôi. . . Cũng chẳng có gì mà giấu chúng nó nữa. Bọn sen đầm biết mọi chuyện hơn cả chúng tôi kia. Chúng nắm được chẳng sót một tý gì.

Làm sao mà chúng không biết, khi có một thằng chó phản bội đã len được vào tổ chức. Kể đến chuyện những ngày đó thật đau lòng. Những anh chị em bị bắt, Pa-ven quen biết gần hết đấy. Va-li-a Bơ-ru- giắc, Rô-da Gơ-rít-sman, người ở quận lỵ, anh nhớ ra Rô-da chứ, một cô bé con, một nữ thanh niên mười bảy tuổi, can đảm lắm, có đôi mắt người ta cứ nhìn vào là tin ngay, rồi đến Xa-sa Bun-sáp, Pa-ven nhớ chứ, thợ sắp chữ ở chỗ chúng tôi ấy mà, một thằng bé vui tính lắm, lúc nào cũng vẽ nghịch lão chủ xưởng. Cậu ấy rồi đến hai học sinh nữa: Nô-vô-xen-ki và Tu- gít. Những người ấy Pa-ven đều biết cả. Còn những người khác là người ở quận và ở thôn ngoại ô. Hai mươi chín người tất cả, trong đó có sáu phụ nữ. Ai cũng bị đánh dã man hết sức. Va-li-a và Rô-da bị chúng hiếp ngay hôm đầu. Thôi thì quân khốn kiếp tha hồ làm nhục hai người con gái tội nghiệp. Lúc chúng nó lôi hai người về xà-lim thì đã chết dở cả. Sau lần đó, Rô-da bắt đầu nói huyên thuyên và vài hôm sau thì phát điên hẳn.

Song quân giết người không muốn tin là chị điên. Cho là giả vờ, mỗi lần hỏi cung, lại đánh chị tàn tệ. Hôm chúng đem chị đi bắn, thật nhìn mà ghê sợ. Mặt bị đánh thâm tím khắp cả, đôi mắt dữ và dại đi. Trông y như một bà lão.

Va-li-a cho đến lúc chết vẫn hiên ngang. Anh chị em đã chết ra cái chết của những chiến sĩ chân chính. Tôi không biết anh chị em đó đã lấy đâu ra sức mạnh mà dũng cảm phi thường như vậy. Pa-ven ơi! Có tài nào thuật lại được hết về cái chết của họ? Không, Pa- ven ạ. Cái chết của họ ghê gớm hơn tất cả những lời kể lại... Va-li-a nguy nhất trong bọn: chị phụ trách bắt liên lạc với cánh làm vô tuyến điện cho tham mưu Ba Lan. Chị được phái đến quận để bắt liên lạc. Chúng vào khám nhà chị thấy khẩu Bơ-rao-ninh và hai quả lựu đạn. Súng lục và lựu đạn đó chính do tên khiêu khích đã đưa cho chị. Chúng nó bày trò ra tất cả, để buộc tội chị âm mưu dùng mìn ám sát ban tham mưu.

Pa-ven ạ, tôi thật đau lòng mà kể lại những giờ phút cuối cùng của anh chị em, nhưng Pa-ven đã yêu cầu thì tôi xin kể hết. Tòa án binh của chúng đã tuyên án: Va-li-a và hai người làm việc với chị thì bị treo cổ, những đồng chí khác thì xử bắn.

Những lính Ba Lan mà chúng tôi đã vận động được bị đem ra xử trước chúng tôi hai ngày.

Đồng chí vô tuyến điện tên là Snê-guốc-cô liên lạc với Va-li-a bị buộc tội phản quốc và tuyên truyền cộng sản trong binh lính. Đồng chí người còn trẻ, đóng cai, trước chiến tranh làm thợ máy điện ở Lốt. Chúng kết tội xử bắn. Đồng chí từ chối không ký giấy chống án, và bị đem đi bắn ngay, hai mươi bốn giờ sau khi tuyên án.

Va-li-a bị gọi đến làm chứng xử vụ Snê-guốc-cô, về có kể lại là Snê-guốc-cô nhận đã tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, song cực lực phản đối án kết tội anh là phản quốc. Anh nói:

"Tổ quốc của tôi là nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa Ba Lan. Phải, tôi là đảng viên Đảng cộng sản Ba Lan, bị cưỡng ép mà đi lính. Vào lính, tôi phải tìm hết cách để mở mắt cho các bạn đồng ngũ cũng bị ép ra mặt trận như tôi. Các ông viện cớ đó muốn treo cổ tôi thì treo cổ, nhưng không bao giờ tôi phản bội Tổ quốc của tôi, không bao giờ cả. Duy có một điều: Tổ quốc của các ông và Tổ quốc của tôi không phải là một. Tổ quốc của các ông là tổ quốc của bọn vương bá. Tổ quốc của tôi là Tổ quốc của thợ thuyền và dân cày. Tổ quốc của tôi - phải, tương lai sẽ có Tổ quốc của tôi, tôi tin tưởng sâu xa điều đó. - Trong Tổ quốc của tôi, không ai nói rằng tôi là phản quốc cả".

Bị kết án xong, chúng tôi bị giam tập trung vào một chỗ. Trước khi bị đem đi hành hình, chúng lại chuyển chúng tôi về nhà pha. Đêm trước chúng trồng cột treo cổ ngay trước nhà pha bên cạnh nhà thương. Chỗ bắn lại ở nơi khác, hơi xa đấy, bên rừng, gần con đường men theo bờ lạch. Chúng đã đào sẵn một cái huyệt chung để vùi chúng tôi.

Bản án dán khắp nơi, trong thành phố ai cũng biết. Chúng rắp tâm định hành án chúng tôi giữa ban ngày, có mặt dân, để cho nhân dân ai cũng trông thấy mà sợ. Từ sáng sớm, chúng lùa hàng phố ra chỗ cột treo cổ. Một số người vì tò mò mà kéo đến. Trông xử treo cổ ghê mắt thật, nhưng họ vẫn đến. Quần chúng vây quanh những cột treo cổ đông lắm. Nhìn đâu cũng thấy đầu người như sóng biển. Pa-ven nhớ có cái tường bao quanh nhà pha bằng gỗ cây ghép đấy nhỉ. Cột treo cổ trồng dựa lưng vào nhà pha cho nên chúng tôi nghe rõ tiếng rào rào của đám đông bên ngoài. Trên đường phố, phía sau lưng quần chúng, đã đặt sẵn súng máy, sen đầm đi ngựa và đi chân đều dồn về đây canh gác. Một tiểu đoàn bộ binh vây lấy các vườn rau và các thành phố. Chúng đã đào sẵn một hố riêng chôn những người bị treo cổ ngay bên cột treo cổ. Chúng tôi im lặng chờ đợi trong ngục, thỉnh thoảng nói với nhau vài lời. Đêm hôm trước, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện với nhau rồi và đã gửi nhau lời vĩnh biệt. Chỉ có Rô-da đứng lẩm bẩm một mình ở góc tường. Va-li-a bị đánh, bị hiếp, kiệt sức không bước được nữa, thường phải nằm liệt một chỗ. Có hai chị em ruột, đảng viên ở thôn ngoại ô, ôm lấy nhau chào vĩnh biệt và không nén nổi, nấc lên khóc nức nở. Stê-pa-nốp, một thanh niên ở quận khỏe như đô vật, khi mới bị bắt đã choảng hai tên sen đầm bị thương, nghe khóc, lại gần hai chị ấy, nhắc đi nhắc lại: "Đừng khóc, các đồng chí! Nếu khóc ở đây để chốc nữa đừng khóc ngoài kia thì các đồng chí cứ khóc. Đừng cho đàn chó khát máu thấy chúng ta yếu lòng mà chúng phởn bụng. Thế nào thì chúng cũng chẳng thương gì chúng ta đâu, thế nào rồi cũng chết. Vì vậy phải chết cho cứng cỏi. Đừng có ai trong chúng ta được quỳ gối, cúi đầu cả. Các đồng chí nhớ lấy, chết thì phải chết cứng cỏi".

Rồi chúng đến dẫn chúng tôi đi. Đi đầu là thằng Sơ-vác-cốp, trưởng ban phản gián trắng, một thằng cuồng dâm điên loạn, một đứa trông thấy đàn bà nếu chính nó không đè ra hiếp, thì cũng để cho lũ sen đầm hiếp ngay trước mặt để nhìn cho sướng mắt. Từ nhà ga ra đến cột treo cổ, xếp song song hai hàng rào sen đầm. Bọn "vện" đeo lon vàng ấy đứng nghiêm, gươm tuốt trần sáng loáng.

Chúng nó lấy báng súng dồn chúng tôi ra sân nhà pha, rồi bắt chúng tôi xếp hàng tư điệu ra chỗ cột treo cổ, định tâm bắt chúng tôi phải chứng kiến cái chết của đồng chí mình, trong khi chờ đợi đến lượt mình đi chết. Cột treo cổ bằng những thanh gỗ to sù, cao dựng đứng, lủng lẳng ba thòng lọng bằng thừng to bện lại. Chung quanh, biển người náo động, xì xào. Dân nhìn chúng tôi... chúng tôi nhìn dân. Mỗi người nhận ra người nhà của mình.

Xa xa, trên thềm cao, tất cả bọn quý tộc Ba Lan đã ngồi chầu sẵn, tay cầm ống nhòm. Nhiều đứa là võ quan. Chúng đến xem treo cổ người bôn-sê-vích.

Dưới chân chúng tôi, tuyết êm lắm, rừng chung quanh trắng xóa, cây cối như có bông bao phủ, hoa tuyết quay tròn rơi từ từ và tan trên da mặt nóng bừng của chúng tôi. Bệ dưới cột treo cổ cũng có tuyết. Mặc phong phanh mà chúng tôi cũng chẳng thấy rét, Stê-pa-nốp cũng không biết là chân mình chỉ đi tất không mang giày.

Tên chưởng lý tòa án binh và các sĩ quan cao cấp đứng trước cột treo cổ. Rồi chúng dẫn Va-li-a và hai người nữa bị xử treo cổ ra khỏi nhà giam. Ba người khoác tay nhau, Va-li-a đi giữa. Hai người đỡ cho chị đi, chị không còn sức nữa, cố lê bước chân, mình không áo khoác, trần một chiếc áo sợi. Chị cố đi thẳng người, có lẽ chị đang nhớ tới lời Stê-pa-nốp: "Phải chết cho cứng cỏi!" Thằng Sơ-vác-cốp trông thấy ba người tử tù khoác tay nhau mà đi thì lấy làm cáu lắm. Nó gạt hai người đàn ông đỡ chị ra. Chị cự lại nó ngay. Thế là có một thằng sen đầm đi ngựa đến quất roi da vào mặt chị, tay này mỏi hắn lại đưa roi sang tay khác quất lấy quất để.

Trong đám quần chúng có một người đàn bà rú lên, tiếng rú của một người mất trí khôn, bà ta lăn xả vào lách qua hàng rào lính, chạy đến hàng người bị xử, nhưng bà bị giữ lại và bị dẫn đi đâu không rõ. Chắc là bà mẹ chị Va-li-a. Khi ba người đến dưới chân cột treo cổ, Va-li-a cất tiếng hát. Chưa bao giờ tôi được nghe thấy một giọng hát như thế. Chỉ có một người bị xử tử, dũng cảm đi ra trước cái chết, mới hát say mê đến nhường ấy được. Va-li-a cất tiếng hát lên Bài hát của người dân thành Vác-xô-vi. Hai người cùng bị tội với chị đồng thanh hát theo. Thế là bọn sen đầm quất roi như bão táp vào mặt họ thật cực kỳ hung tợn. Nhưng họ dường như không biết đau nữa. Rồi bọn chúng đánh họ ngã lăn ra, lôi lại cột treo cổ như lôi những bì gạo. Chúng hấp ta hấp tấp đọc bản án, rồi vứt thòng lọng vào cổ họ. Thế là đến lượt chúng tôi hát lên.

Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian !…


Chúng nó tứ phía bổ lại nện chúng tôi túi bụi. Tôi chỉ còn kịp trông thấy một tên lính lấy báng súng đánh bật cọc giữ chân ra và ba thân người lủng lẳng, giãy giụa ở đầu dây thừng treo cổ.

Mười người trong bọn tôi, trong số đó có tôi được ân giảm: khi chúng tôi đã bị đứng lấp quay mặt vào tường để ăn đạn chì, thì chúng đọc cho chúng tôi nghe lệnh của tên tướng cho giảm xuống mười năm khổ sai thay vào tội xử tử. Mười bảy đồng chí kia bị bắn chết gục bên cạnh chúng tôi.

Xa-miên cởi giật cúc áo cổ dường như bị nghẹt thở, rồi kể tiếp:

- Trong ba ngày, những người bị treo cổ cứ lủng lẳng ở đấy, ngày đêm có một tiểu đội lính gác bên cột treo cổ. Anh em bị bắt vào sau cho chúng tôi biết như thế. Đến ngày thứ tư thì xác đồng chí Tô-bôn- đin nặng nhất rơi xuống. Bấy giờ, chúng mới cởi hai cái xác kia, chôn ngay tại chỗ. Còn cột treo cổ vẫn để đấy, hôm chúng dẫn bọn tôi vào đây, bọn tôi vẫn còn trông thấy. Cả cột lẫn dây thòng lọng vẫn còn nguyên để đợi những người khác bị xử tử.

Xa-miên ngừng kể, mắt nhìn chằm chằm vào một cái gì mơ hồ ở đằng xa. Câu chuyện kể hết vào lúc nào, Pa-ven cũng không để ý nữa. Trước mắt anh hiện rõ ra hình ảnh ba xác người, đong đưa, im lặng, đầu rũ về bên một cách thê thảm.

Ngoài kia, kèn gọi tập hợp. Tiếng kèn oai hùng đưa anh về với thực tại. Anh nói khẽ, tiếng bật ra trong hơi thở.

- Xa-miên ạ, chúng ta ra khỏi đây đi thôi !

Ngoài phố, tù binh Ba Lan lê bước giữa hai hàng kỵ binh của ta áp giải. Ở cửa trại giam, đồng chí chính ủy trung đoàn đứng viết nốt mệnh lệnh vào cuốn sổ tay đi trận. Đồng chí đưa mảnh giấy cho người trung đội trưởng thấp lùn:

- Danh sách tù binh đây, đồng chí An-ti-pốp cầm lấy. Lấy một tổ đi theo và áp giải họ về Nô-vô-gơ-rát - Vô-lưn-xki. Cho băng bó những người bị thương, rồi đặt họ nằm trên xe và cũng đưa về đấy cả. Áp giải họ chừng hai mươi dặm, sau đó để họ tự đi tiếp. Ở đây chúng ta còn bận việc khác. Song cẩn thận nhé, đừng để xảy ra chuyện gì ngược đãi đối với họ.

Pa-ven lên ngựa, quay bảo Xa-miên:

- Anh nghe rõ chứ? Chúng nó treo cổ anh chị em ta, mà chúng ta thì dẫn họ đi không được ngược đãi họ ! Không dễ như thế đâu!

Đồng chí chính ủy quay lại, nhìn vào mặt  Pa-ven và đồng chí nói những tiếng gọn, rắn rỏi, như nói với chính mình:

- Ai ngược đãi tù binh giải giáp rồi sẽ bị xử bắn. Chúng ta không có như bọn bạch vệ.

Rời trại giam, Pa-ven nhớ lại những lời cuối trong bản mệnh lệnh của Hội đồng quân sự cách mạng đã đem ra đọc trước toàn thể trung đoàn:

"Đất nước của thợ thuyền và dân cày yêu mến Hồng quân của mình và lấy làm tự hào về Hồng quân. Đất nước đòi hỏi phải giữ cho lá cờ của Hồng quân trong sạch, không một vết nhơ".

Pa-ven nhủ thầm trên môi: "Không một vết nhơ".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2012 19:23:19 | Chỉ xem của tác giả
Trong khi sư đoàn kỵ binh đỏ thứ tư chiếm lĩnh Gi-tô-mia thì lữ đoàn thứ hai mươi của sư đoàn khinh binh thứ bảy vượt sông Đơ-nhi-ép ở quãng thôn Ô- cu-nhi-nô-vô. Lữ đoàn thứ hai mươi này nhập vào binh đoàn xung kích của đồng chí Gô-li-cốp.

Đoàn này gồm có sư đoàn khinh binh 25 và lữ đoàn kỵ binh Ba-sơ-kia, nhận lệnh sau khi vượt sông Đơ- nhi-ép, thì cắt đường rút quân của địch từ Ki-ép đến Cô-rô-ten, gần ga La-sa. Do thế vận động đó mà quân Ba Lan mất đường rút lui duy nhất. Chính trong cuộc vượt sông Đơ-nhi-ép này mà Mi-sa, người thanh niên cộng sản thành Sê-pê-tốp-ca, đã hy sinh.

Lúc ấy bộ đội như đang chạy thi vượt nhanh nhịp cầu nổi rung rinh, thì có một quả đại bác, từ phía đằng kia, sau ngọn đồi, rú lên, ghê rợn, bay trên đầu các chiến sĩ rồi rơi tõm xuống nước. Mi-sa bị bắn, người lộn nhào ngay xuống dưới đáy một chiếc thuyền làm cầu. Dòng nước cuốn nuốt chửng anh đi không buông tha nữa. Chỉ có I-a-ki-men-cô, một thanh niên tóc vàng hoe, đội mũ mất lưỡi trai, kêu lên kinh ngạc:

- Cậu không trông thấy gì à? Mi-sa bị nước cuốn mất rồi. Tội nghiệp thằng bé rơi xuống đã biến mất, như bị con bò thè lưỡi liếm phăng đi ! - I-a-ki-men- cô đứng sững lại, hoảng hốt, nhìn dòng nước thăm thẳm, nhưng đoàn quân từ phía sau tiến lên xô tới, giục anh:

- Sao cậu đứng há mồm ra nhìn như thằng ngố thế ? Tiến lên đi nào!

Thời giờ không có để mà suy nghĩ về người đồng đội mất tích ấy nữa: lữ đoàn của họ đã bị các đơn vị khác chiếm xong bên hữu ngạn, bỏ rớt lại xa rồi.

Bốn ngày sau, Xéc-gây mới biết tin bạn chết. Khi đó lữ đoàn đã chiếm được ga Bu-sa và chuyển thế trận quay sang Ki-ép, chống lại những đợt tấn công ác liệt của quân Ba Lan đang tìm cách đánh thọc vào Cô-rô-ten.

I-a-ki-men-cô nằm ngay cạnh cùng hàng xạ kích với Xéc-gây. Anh ngừng nhịp bắn điên giận, đẩy quy- lát một cách khó nhọc trên nòng súng nóng bỏng, cúi đầu xuống đất, quay lại nói với Xéc-gây:

- Khẩu súng của mình nó đòi nghỉ. Ái chà nòng súng nóng như lửa!

Tiếng nổ ầm ầm át đi làm Xéc-gây chỉ thoáng nghe thấy tiếng nói của bạn. Khi tiếng súng im một lát, I-a-ki-men-cô mới báo tin qua cho Xéc-gây biết:

- Bạn cậu bị chết đuối ở Đơ-nhi-ép rồi. Lúc ấy một quả đại bác bắn tung tóe vào chúng tớ. Mình chưa kịp kêu lên, Mi-sa đã lăn tòm xuống nước rồi không thấy ngoi lên nữa.

I-a-ki-men-cô nói rồi lấy tay kéo quy-lát, móc túi dết lấy đạn ra và vội vã lắp vào súng.


Sư đoàn mười một tấn công vào chiếm lĩnh Béc- đi-sép vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân Ba Lan.

Chiến đấu gay go, máu loang các phố. Liên thanh nổ giòn chặn đường kỵ binh. Nhưng rồi thành phố cũng bị ta chiếm, tàn quân địch bỏ chạy. Trên ga, ta thu được nhiều đoàn tàu chở quân trang, quân dụng của chúng. Thiệt hại nặng nhất của địch là kho dự trữ đạn dại bác của toàn mặt trận chừng một triệu viên bị nổ tung. Các cửa kính trong phố vỡ vụn ra, nhà cửa bị tiếng nổ mạnh rung chuyển, tưởng như làm bằng giấy bồi.

Bị đánh vào Gi-tô-mia và Béc-di-sép đối với quân Ba Lan tức là bị đánh quật từ sau lưng lại, cho nên chúng vội vàng chia ngay làm hai mũi như hai dòng thác người hấp tấp chuồn khỏi Ki-ép, cố sống cố chết đánh một cách tuyệt vọng để mở đường chạy thoát vòng vây sắt của quân ta.

Pa-ven đã không còn nghĩ gì về cá nhân mình. Những ngày đang sống say sưa trong những trận xung sát ác liệt, anh hòa hẳn mình vào tập thể và cũng như mỗi người trong các chiến sĩ, anh như đã quên hẳn tiếng "tôi" chỉ còn nói tiếng "ta": trung đoàn "ta", trung đội "ta", lữ đoàn "ta".

Mà tình hình thì dồn dập, diễn biến nhanh như gió bão. Mỗi ngày đều mang đến một chuyện mới.

Đoàn kỵ mã lao đến đâu cuốn phăng phăng đến đấy. Đoàn kỵ binh quang vinh của tướng Bu-đi-on- ny đánh hết trận này đến trận khác, đã làm tiêu hao, kiệt sức tất cả hậu phương của Ba Lan. Say sưa trước thắng lợi ngày càng một lớn, các sư đoàn kỵ binh đỏ hùng dũng tấn công vào Nô-vô-gơ-rát-vô-lưn-ski, trái tim của hậu phương quân địch.

Quân ta lùi lại như những đợt sóng đập vào bờ sông có đá dựng đứng, bị đẩy ra, rồi lại chồm lên với tiếng thét "xung phong” mãnh liệt. Không gì cứu nổi quân Ba Lan nữa rồi, cả những hệ thống hàng rào dây thép gai và cuộc kháng cự liều chết cố sống của quân giữ thành này cũng chẳng ăn thua gì. Sáng hai mươi bảy tháng Sáu, quân kỵ mã của ta thúc ngựa lội qua sông Xi-lút, ập vào thành, truy kích quân địch ở phía làng Cô-rét. Cùng lúc ấy, sư đoàn bốn mươi nhăm cũng vượt qua sông này ở quãng Mi-rô-pôn, còn lữ đoàn kỵ binh Cô-tốp-ski thì đã phóng tới Lu-ba.

Vô tuyến điện của tập đoàn quân kỵ mã thứ nhất nhận được lệnh của Bộ tư lệnh mặt trận: đưa toàn bộ quân kỵ mã xung phong chiếm lấy Rốp-nô. Cuộc tấn công ồ ạt không sức gì cản nổi của các sư đoàn đỏ truy kích quân Ba Lan, làm chúng bị chia cắt tán loạn, rời rạc, mất tinh thần, cố chạy dài bán sống bán chết để tháo thân.

Một hôm, Pa-ven được lữ đoàn trưởng phái đến chỗ ga có đoàn xe bọc sắt đỗ. Tới đấy, anh được gặp một người mà anh không ngờ là có thể gặp. Con ngựa của anh nhảy tót qua bờ dốc của đường xe lửa. Pa- ven kéo cương dừng lại trước toa xe đầu sơn xám. Đoàn xe bọc sắt kiên cố ghê sợ đứng lù lù, ló những chiếc mõm đen của nòng súng giấu trong tháp pháo. Chung quanh nhiều bóng người bê bết dầu mỡ đang loay hoay ỳ ạch nâng những tấm thép nặng bọc ngoài bánh.

Gặp một chiến sĩ mặc áo da đang xách thùng nước, Pa-ven hỏi:

- Đồng chí có biết đồng chí chỉ huy đoàn tàu bọc thép này ở đâu không?

Chiến sĩ kia hất đầu chỉ về phía đầu tàu: - Ở đằng kia kìa.

Pa-ven đi lại đầu tàu hỏi: - Ở đây ai là đồng chí chỉ huy xin cho biết.

Một người mặc toàn đồ da từ đầu đến chân, mặt rỗ, quay lại : - Tôi đây.

Pa-ven thò vào túi lấy ra một phong thư:

- Đây là mệnh lệnh của lữ đoàn trưởng. Đề nghị đồng chí ký nhận trên phong bì cho.

Đồng chí chỉ huy tì phong bì lên đầu gối ký tên.

Một bóng người đang cầm bình dầu lúi húi gần bánh xe giữa của đầu máy. Pa-ven chỉ nhìn thấy cái lưng rộng của người ấy và báng súng lục lòi ra ngoài túi quần da.

Đồng chí chỉ huy trao lại phong bì cho Pa-ven:

- Gửi đồng chí. Tôi đã ký nhận rồi đấy.

Pa-ven cầm dây cương ngựa định ra về. Giữa lúc đó bóng người bên đầu tàu đứng thẳng cả người lên quay lại. Thì ngay lúc ấy, Pa-ven nhảy tót xuống như thoắt có một cơn gió cuốn khỏi yên ngựa:

- Anh A-rơ-chom!

Người thợ máy khắp người nhọ nhem dầu ma-dút, đặt bình dầu xuống đất và ôm chặt lấy anh chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi trong cánh tay khỏe như gấu của mình.

- Pa-ven! Ra mày đấy à, hở thằng nhãi con. - A- rơ-chom kêu lên thế, mắt nhìn còn ngỡ là nhầm.

Đồng chí chỉ huy đoàn tàu nhìn cảnh đó rất lấy làm lạ. Anh em pháo thủ chung quanh cười ran cả lên:

- Trông kìa, hai anh em gặp nhau.


Ngày mười chín tháng Tám, trong trận đánh ở vùng Lơ-vốp, Pa-ven để rơi mất mũ cát-két. Vừa hãm ngựa lại nhặt mũ thì thấy trước mặt các trung đội đỏ đã đánh thọc vào hàng ngũ khinh binh Ba Lan. Lúc đó, Đê-mi-đốp phi ngựa vun vút giữa những lùm cây, vừa phi theo bờ dốc xuống sông, vừa kêu lên:

- Sư đoàn trưởng đã bị chúng giết rồi.

Pa-ven rùng mình. Đồng chí Lê-tu-nốp, người chỉ huy anh hùng của sư đoàn, người đồng chí có lòng quả cảm vô biên, người ấy đã mất rồi. Pa-ven căm giận sôi người, lấy đốc kiếm phát vào mông con ngựa Gơ-nê-đốc, ghì cương chặt, hàm thiếc siết mạnh làm mõm ngựa bật máu tươi, anh lao sâu vào lòng cơn xung sát, thét lớn:

- Chém hết đầu loài súc sinh nhơ bẩn ấy đi! Chém đi! Chém hết bọn quý tộc Ba Lan! Chúng nó đã giết mất Lê-tu-nốp rồi.

Và Pa-ven chém phập vào bóng một tên mặc binh phục xanh, anh chẳng ngoái lại nhìn kẻ bị chém đó nữa. Điên tiết lên vì căm thù trước cái chết của sư đoàn trưởng, quân kỵ mã đỏ chém chết cả một đơn vị lê-dương.

Họ xông lên đến tận cánh đồng, truy kích lũ giặc đang chạy thì vừa lúc ấy pháo binh địch bắn tới. Trái phá nổ vừa bung lên xé đứt không trung, mảnh đạn chết người bắn tung tóe.

Trước mắt Pa-ven, một ngọn lửa xanh bùng lên, lóe sáng, như chớp lòe xoẹt mạnh bên tai nghe như tiếng sấm, mảnh đạn đỏ rực cháy sém vào đầu anh. Mắt Pa-ven hoa lên, đất bắt đầu xoay như chong chóng, ghê sợ, quay cuồng, lảo đảo rồi như ngã vật xuống bên anh. ("Chớp lòe": Trong bản tiếng Nga là "lóe sáng như đốt mỹ chát" (mỹ chất: ma-nhê-di-um, chất kim màu bạc, cháy sáng lòe thường dùng để chụp ảnh). Ở đây tạm dịch là "chớp lòe". (N.D)).

Tiếng nổ rung chuyển mạnh làm Pa-ven bắn khỏi mình ngựa nhẹ như chiếc lông. Anh lăn qua đầu con ngựa Gơ-nê-đốc, nặng nề ngã nhào ra đất.

Và anh thấy tối sầm lại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 28-4-2012 13:40:16 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG IX

Trong cơn mê man, Pa-ven thấy một con bạch tuộc. Mắt nó lồi lên, to bằng đầu con mèo, đỏ ngầu, giữa thì xanh, sáng óng ánh một thứ ánh sáng chói lọi. Con bạch tuộc ngọ nguậy hàng chục những tua càng xoắn lại như rắn rết, lớp vẩy trên da cọ sột soạt. Con bạch tuộc nhúc nhích bò lên. Pa-ven thấy nó ngay trước tầm mắt mình. Tua càng của nó bò trên mình anh tê lạnh mà làm người anh ngứa ran nóng bỏng như bị lá han. Nó chìa vòi ra sắc như gươm rúc vào đầu anh như giống đỉa, co mình lại giãy lên đành đạch, rồi thì hút máu của anh. Pa-ven cảm thấy dường như máu mình thấm hết vào cái xác căng trương của con vật. Vòi nó hút máu hút lấy hút để. Nó chui đến đâu thì anh lại thấy đầu anh đau nhói không tài nào chịu được.

Có tiếng người nói văng vẳng ở đâu xa lắm.

- Mạch cậu ấy bây giờ bao nhiêu?

Rồi có tiếng người phụ nữ đáp lại, giọng nói càng khẽ hơn:

- Mạch 138. Nhiệt độ 39,5. Không lúc nào ngớt mê sảng.

Con bạch tuộc đã biến rồi, nhưng đầu anh vẫn còn đau. Pa-ven cảm thấy có ngón tay ai chạm vào cổ tay mình. Anh cố mở mắt ra, nhưng hai hàng mi nặng trĩu không sao hé ra được. Mà sao lại nóng thế nhỉ. Chắc là mẹ đốt lò nướng bánh rồi. Vẫn còn giữa cơn nửa tỉnh nửa mê ấy thì anh lại nghe có tiếng người nói đâu đây:

- Mạch bây giờ 122.

Anh lại cố mở mắt ra. Trong người nóng như lửa đốt. Ngột ngạt quá.

Khát quá đi mất! Anh định ngồi dậy uống nước cho thỏa cơn khát. Nhưng sao không dậy được? Muốn cựa mình một cái, mà sao cái xác cứ ỳ ra, không nhích được, chẳng phải là thân thể mình nữa rồi. Anh vẫn còn mê man nghĩ đến mẹ sắp đem nước tới, anh sẽ nói với mẹ: "Con muốn uống nước". Có cái gì cựa quậy bên anh. Hay lại con bạch tuộc rồi. Đấy mắt nó đỏ ngầu kia kìa...

Từ xa có tiếng nói nhỏ vọng lại: - Phơ-rô-xi-a, mang nước lại !

"Phơ-rô-xi-a? Tên ai đấy nhỉ?" Pa-ven cố nhớ lại xem là tên ai, nhưng sự cố gắng đó lại nhấn chìm anh vào bóng tối. Anh cố ngoi lên và một lần nữa lại nhớ ra: "Mình khát lắm".

Có tiếng nói: - Tôi thấy cậu ta tỉnh lại rồi đấy.

Và ngay đó có tiếng dịu dàng, lần này nói nghe rõ hơn, gần hơn, hỏi Pa-ven:

- Đồng chí bệnh binh muốn uống nước phải không?

"Té ra mình là bệnh nhân hay sao? Hay là không phải người ta nói với mình đâu? Ừ, ta bị bệnh chấy rận thật rồi mà". Và lần thứ ba, Pa-ven định mở mắt ra. Lần này thì mở được. Qua khe nhỏ của bên mắt mở, cảm giác đầu tiên mà anh cảm thấy là một quả cầu đỏ lơ lửng trên đầu anh, nhưng rồi một vật gì tối om đã che mất; bóng tối om ấy cứ cúi xuống gần anh và làn môi anh nhận ra cái thành cứng cửa chiếc cốc rồi là nước, một thứ nước mát rượi uống tỉnh người. Lửa nóng trong người nguội đi.

Anh khoan khoái thì thầm: - Bây giờ dễ chịu rồi.

- Đồng chí bệnh binh! Đồng chí có nhìn thấy tôi không? Người hỏi đó chính là cái bóng tối om đang ngả xuống người anh. Pa-ven thiu thiu ngủ, miệng vẫn còn kịp đáp lại:

- Không thấy, nhưng nghe thấy.

- Ai có thể nói là cậu ấy qua khỏi được. Thế mà, cậu ấy hồi lại rồi đấy. Thật là một cơ thể rắn khỏe lạ thường. Chị Nhi-na ạ, chị có thể tự hào là đã cải tử hoàn sinh cho cậu ta.

Và giọng người phụ nữ, xúc động, trả lời:

- Cậu ta khỏi được, tôi mừng lắm.

Sau mười ba ngày mê thiếp đi, Pa-ven đã hồi tỉnh lại.

Tấm thân trẻ của anh không muốn chết sớm, dần dần lại sức. Thật như sống lại; mọi vật, mọi thứ đối với anh đều mới lạ khác thường. Chỉ có cái đầu nặng trình trịch nằm cứng trong hộp bó thạch cao không nhúc nhích. Nhưng cảm giác toàn thân đã trở lại và những ngón tay anh đã có thể nắm vào duỗi ra rồi.

Nhi-na, y sĩ của một quân y viện, ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong gian phòng vuông đang lật từng tờ quyển vở dày bìa trắng bạch. Mỗi trang ghi những dòng nhật ký ngắn, nét chữ thanh, viết nghiêng:

26 tháng Tám 1920.  

Chuyến xe lửa quân y hôm nay đưa về một lô chiến sĩ bị thương nặng. Trên giường ở góc toa, gần cửa sổ, có một chiến sĩ Hồng quân mới mười bảy tuổi bị thương ở sọ. Tên cậu ta là Ca-rơ-sa-ghin Pa-ven An-đơ-rê- vích. Người ta trao cho tôi những giấy má tìm thấy trong túi chiến sĩ, bỏ trong một chiếc phong bì, cùng với y bạ của thầy thuốc. Trong phong bì có một tấm thẻ đã nhàu nát của Đoàn thanh niên cộng sản U- cơ ren số 967, một cuốn sổ quân bạ đã rách, trong đó có ghi Pa-ven được tuyên dương vì đã hoàn thành tốt một nhiệm vụ quân báo, và một mẩu giấy có lẽ chính tay Pa-ven viết:

"Nếu tôi chết, xin các đồng chí báo cho thân nhân tôi: thành Sê-pê-tốp-ca, sở đầu máy xe lửa, ông thợ nguội A-rơ-chom Ca-rơ-sa-ghin".

Người thương binh ấy đã bất tỉnh từ lúc bị một mảnh trái phá bắn bị thương, từ ngày 19 tháng Tám. Ngày mai, bác sĩ A-na-tôn Stê-pan-nô-vích sẽ khám bệnh cho cậu ta.

27 tháng tám.

Hôm nay đã xem vết thương của Pa-ven. Sâu lắm, nặng lắm. Hộp sọ bị thủng cho nên cả nửa đầu bên phải bị liệt hẳn. Mắt phải bị đứt mạch máu, sưng vù lên.

Bác sĩ giải phẫu A-na-tôn muốn lấy cả mắt đi cho khỏi sưng. Tôi can mãi vì còn có thể hy vọng chỗ sưng sẽ bớt tấy lên. Bác sĩ đồng ý.

Tôi đề nghị thế chỉ vì nghĩ đến vẻ đẹp của con người: nếu cậu ta sống được, thiếu một mắt là xấu đi bao nhiêu, mà lấy mắt ấy đi có lợi gì đâu.

Người thương binh trẻ tuổi ấy vật vã, mê hoảng liên miên. Phải cho người gác luôn ở bên. Tôi để phần lớn thời giờ trông nom cậu ta. Thấy cậu ta trẻ măng mà thương quá. ước gì cứu được cậu ta khỏi chết!

Hôm qua sau khi hết phiên, tôi đã ở lại rất lâu trong phòng cậu ta, vì cậu ta là người bị nặng nhất. Tôi nghe hết những lời nói mê của cậu ta. Đôi khi nói mê như kể chuyện ấy. Vì cậu ta mê hoảng mà tôi được biết thêm về đời cậu ta. Nhưng đôi lúc cậu ta hét chửi ghê quá. Nghe những câu hét chửi như thế ở miệng cậu ta ra, sao tôi thật đau lòng. Bác sĩ A-na-tôn thì cho là không sao qua khỏi được. Ông già ấy cứ phàn nàn: "Tôi không hiểu cớ sao người ta lại nhận những thiếu niên bé tí tuổi đầu như thế vào bộ đội. Thật vô lý".

30 tháng Tám.

Pa-ven vẫn chưa tỉnh. Cậu ta nằm riêng ra một nơi ở buồng những người hấp hối. Chị hộ lý Phơ-rô- xi-a trông nom cậu ta, không rời cậu ta một bước. Đâu chị có quen biết cậu ta. Trước kia hai người cùng làm ở một khách sạn. Cô ta phục vụ người bệnh này hết sức ân cần, hết sức chu đáo. Bây giờ tôi cũng bắt đầu thấy rằng không có hy vọng gì cứu sống được cậu ta.

2 tháng Chín.

Mười một giờ đêm. Hôm nay ngày vô cùng tươi đẹp của tôi ! Người bệnh Pa-ven của tôi đã tỉnh, đã hồi sinh. Qua được độ bệnh trầm trọng nhất rồi. Hai ngày nay, tôi không về nhà.

Thật tôi không thể nói hết nỗi vui mừng của mình: lại cứu sống thêm được một người bệnh nữa. Thôi thế là bớt được một người chết bệnh trong ban tôi. Trong công tác mệt nhọc của tôi, nguồn vui trong trẻo nhất là thấy những người bệnh qua khỏi đang hồi lại sức. Họ quấn quít lấy tôi như một đám trẻ nhỏ.

Tình thân của họ giản dị, thật thà, và đến khi cùng họ chia tay, nhiều lần tôi phải khóc. Buồn cười thật, song thật như thế đấy, không sao cầm lòng được.

10 tháng Chín.

Hôm nay, tôi viết hộ Pa-ven bức thư thứ nhất gửi cho người nhà cậu ta. Cậu ta bảo tôi viết là vết thương nhẹ thôi, sắp khỏi và sẽ về thăm nhà. Thật ra, cậu ta mất nhiều máu lắm, người xanh bệch, hãy còn yếu lắm.

14 tháng Chín.

Cái cười thứ nhất của Pa-ven. Cười ngoan lắm. Thường cậu ta có vẻ mặt khắc khổ ít thấy ở số người cùng lứa tuổi với cậu. Cậu đã bình phục lại nhanh chóng quá, thật không ngờ. Phơ-rô-xi-a và cậu ta là đôi bạn thân. Tôi luôn thấy Phơ-rô-xi-a ở bên giường cậu ta. Chắc là cô ấy có nói cho cậu ta biết, tôi đã chăm sóc thế nào, có lẽ còn nói quá lên nữa. Cậu ta thấy tôi đến thì hớn hở cười.

Hôm qua, cậu ta hỏi tôi: "Thưa bác sĩ tại sao cánh tay bác sĩ có nhiều vết tím bầm thế". Tôi không muốn nói cho cậu ta biết đấy là vết móng tay cậu ta: trong cơn mê hoảng, cậu ta ôm ghì lấy cánh tay tôi, cào cấu rất đau.

17 tháng Chín.

Vết thương Pa-ven đã khá. Tất cả các thầy thuốc đều ngạc nhiên trước tinh thần chịu đựng kiên nhẫn khác thường của cậu ta trong những buổi làm thuốc.

Thường thường trong những ca như vậy, người bệnh rên la và khó tính lắm. Thế mà Pa-ven thì không hề rên la và cho đến khi bôi canh-ki-dết lên vết thương, thì người cậu ta co lại, căng thẳng như chiếc dây thừng. Thường khi cậu ta ngất đi.

Ở nhà thương, ai cũng hiểu: nếu Pa-ven rên la, ấy là cậu ta đã bất tỉnh rồi. Làm sao mà cậu ta gan thế nhỉ? Tôi cũng không biết nữa.

21 tháng Chín.

Lần đầu tiên, Pa-ven được ra ngoài hiên chơi. Người ta đặt cậu ta ngồi trên cái ghế bành có bánh xe đun. Cậu nhìn vườn hoa bằng con mắt háo hức vô chừng, hít lấy hít để không khí tươi mát ngoài trời. Mặt cậu ta quấn băng kín mít chỉ để hở con mắt trái. Con mắt đó sáng và nhanh ngắm nhìn sự vật y như người mới nhìn thấy lần đầu.

26 tháng Chín.

Hôm nay, người ta gọi tôi xuống phòng khách gặp hai cô thiếu nữ. Trong hai cô đó có một cô rất xinh. Cả hai đều đến xin gặp Pa-ven. Một cô tên là Tô-nhi- a, cô kia là Ta-chi-a-na. Tôi đã nghe đến tên Tô-nhi- a. Trong lúc mê, Pa-ven hay nhắc đến tên cô ta. Tôi cho phép vào thăm.

8 tháng Mười.


Lần đầu tiên Pa-ven đã đi bách bộ một mình ngoài vườn được rồi. Nhiều lần cậu ta hỏi tôi khi nào thì ra viện được. Tôi đáp: chóng thôi. Hai cô bé bạn cậu ta ngày nào cũng đến thăm.

Giờ tôi mới biết tại sao cậu ta không rên la. Tôi hỏi thì cậu ta trả lời:

- Bác sĩ đọc truyện Ruồi trâu tất hiểu.

14 tháng Mười.

Pa-ven ra viện. Chúng tôi chia tay nhau một cách rất trìu mến. Băng ở mắt Pa-ven đã bỏ ra, chỉ còn băng ở trán. Một mắt hỏng, song trông ngoài không ai biết được. Từ biệt người đồng chí tất ấy, tôi thấy hết sức buồn trong lòng.

Ở bệnh viện thường như vậy, các anh chị em thương binh chữa khỏi rồi ra đi, xa chúng tôi để có lẽ rồi không bao giờ gặp nữa. Lúc từ giã, Pa-ven có than thở:

- Giá hỏng mắt trái thì hơn, bác sĩ ạ! Hỏng mắt phải thế này làm sao còn ngắm bắn được nữa?

Chưa chi cậu ta đã nghĩ đến mặt trận rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 28-4-2012 14:14:17 | Chỉ xem của tác giả
Ở nhà thương ra, thời gian đầu Pa-ven ở nhà Ta- chi-a-na là nhà bà con với Tô-nhi-a, Tô-nhi-a về ở đấy trong thời gian đến thăm anh.

Anh nghĩ ngay đến chuyện đưa dần người yêu vào công tác chung. Một hôm anh rủ Tô-nhi-a đến dự cuộc họp của Đoàn thanh niên thành phố. Tô-nhi-a nhận lời. Nhưng khi thấy Tô-nhi-a từ trong buồng riêng bước ra diện rất sang, cầu kỳ nữa, Pa-ven cắn môi. Anh cảm thấy rất ngượng ngùng khó chịu phải dẫn Tô-nhi-a như thế đến với các đồng chí của mình.

Thế là xảy ra sự va chạm đầu tiên giữa hai người. Khi Pa-ven hỏi Tô-nhi-a tại sao lại ăn mặc như thế, thì Tô-nhi-a không bằng lòng:

- Em không bao giờ hòa với cái điệu tầm thường của mọi người được. Nếu anh thấy cùng đi với em không tiện, thì em ở nhà để anh đi một mình.

Ở câu lạc bộ, giữa anh chị em thanh niên cộng sản mặc toàn quần áo bạc phếch, nhìn Tô-nhi-a mặc diêm dúa quá, Pa-ven cảm thấy khổ tâm. Các đồng chí coi Tô-nhi-a như một người xa lạ lạc điệu. Tô-nhi-a cũng cảm thấy thế. Cô nhìn mọi người bằng cặp mắt khinh bỉ có vẻ khiêu khích.

Anh công nhân khuân vác Pan-cơ-ra-tốp, vai rộng mặc áo vải bạt thô là bí thư chi đoàn, kéo Pa-ven ra một chỗ, quắc mắt nhìn anh, rồi nheo mắt về phía Tô-nhi-a:

- Có phải cậu dắt cái của ấy đến đây phải không?

Pa-ven đáp lại cộc lốc: - Phải, mình đấy.

Pan-cơ-ra-tốp bĩu môi:

- Chà! Cái bộ ấy chẳng hợp với chúng mình đâu, sặc mùi tư sản. Sao lại để cho nó vào đây được cơ chứ?

Pa-ven cảm thấy hai thái dương nóng rực lên:

- Đấy là một đồng chí của tôi, và chính tôi đưa đến đây, cậu rõ chưa? Đối với chúng ta, cô ta không phải là thù địch. Còn về cách ăn mặc, cô ta thích thế, có thế thật. Song không thể cứ nhìn cách ăn mặc mà chụp mũ cho người ta được đâu. Mình cũng hiểu như cậu những ai có thể vào đây được. Cho nên chĩa mũi dùi vào nhau thì không có lợi đâu, đồng chí ạ.

Pa-ven suýt bốp chát thêm nữa. Song nén được vì hiểu rằng Pan-cơ-ra-tốp đã nói lên ý kiến chung của anh chị em. Anh quay ra bực với Tô-nhi-a.

"Đã bảo mà! Cứ thích lên khung lòe loẹt làm gì?"

Từ buổi tối hôm ấy, tình cảm giữa hai người bắt đầu rạn nứt. Pa-ven nhận ra ngay vết rạn ngày một to trong tình yêu mà anh tưởng bồi đắp đến thế là bền vững. Anh ngơ ngác và đau xót.

Qua mấy ngày, mỗi lần gặp gỡ, mỗi lần trò chuyện lại càng làm không hiểu nhau thêm, hai bên dần dần cảm thấy đối với nhau lạnh nhạt, có phần không ưa nhau nữa mà nói ra. Chủ nghĩa cá nhân rẻ tiền của Tô-nhi-a đối với Pa-ven đã trở nên không thể nào chịu được.

Mỗi bên đều thấy rõ đến nông nỗi này thì cần phải cắt đứt.

Ngày hôm ấy, hai người đưa nhau đến công viên thương mại, để nói với nhau những lời quyết định. Lá khô vàng úa phủ đầy dưới đất. Tựa vào hàng lan can nhô ra trên vực sâu, hai người cùng nhìn xuống con sông Đơ-nhi-ép lấp lánh màu nước xám. Một cái tàu kéo, từ một chiếc cầu lớn ló ra, chạy ngược dòng đang kéo hai chiếc sà-lan to phình, cánh guồng uể oải đập vào nước. Nắng xế chiều dát vàng lên hòn cù lao Tơ-ru-kha-nốp. Cửa kính những căn nhà nhỏ chói nắng ánh lên rực màu vàng tía.

Tô-nhi-a nhìn những tia nắng vàng, buồn rầu nói:

- Có thể nào tình bạn của chúng ta lại nguội đi như mặt trời sắp tắt kia được?

Pa-ven cau mày nhìn Tô-nhi-a không chớp, thấp giọng trả lời:

- Tô-nhi-a, chúng ta đã nói chuyện với nhau rồi đấy. Em đã biết anh yêu em đến thế nào và bây giờ tình yêu đó vẫn còn có thể trở lại nữa. Nhưng muốn thế, thì Tô-nhi-a phải đi với các anh. Anh bây giờ chẳng còn là cậu bé Pa-vơ-lu-sa như hồi trước kia nữa đâu. Và anh đối với Tô-nhi-a sẽ chỉ là một người chồng rất đáng khinh bỉ nếu Tô-nhi-a đòi rằng anh trước hết là của em rồi sau mới là người của Đảng. Không, anh trước hết phải là của Đảng, rồi mới đến là của em và của những người thân khác.

Tô-nhi-a buồn rầu nhìn dòng nước xanh biếc, trên khóe mắt nhòa ánh lệ.

Nhìn bóng dáng thân yêu quá ấy, với mái tóc dày màu hạt dẻ, lòng Pa-ven cảm thấy ái ngại vô hạn. Người con gái này trước đây đối với anh thân thiết và gần gũi biết nhường nào!

Tay anh đặt nhẹ lên vai Tô-nhi-a.

- Tô-nhi-a ơi, em hãy trút hết những cái gì còn ràng buộc em đi. Em hãy đi đến với các anh, cùng nhau hạ nốt bọn quyền quý. Trong hàng ngũ các anh có rất nhiều người con gái can đảm, cùng các anh gánh vác nhiệm vụ chiến đấu ác liệt, cùng chia gian khổ với các anh. Các chị ấy có thể không học thức bằng Tô-nhi-a. Vậy mà tại sao, tại làm sao Tô-nhi- a lại từ chối không muốn đi với các anh? Tô-nhi-a bảo tại Tru-gia-nin đã chực dùng vũ lực mà chiếm lấy thân thể Tô-nhi-a. Nhưng thằng Tru-gia-nin ấy là một con quái vật, chứ không phải là một chiến sĩ cách mạng. Tô-nhi-a bảo tại anh chị em trong Đoàn thanh niên khinh khỉnh với Tô-nhi-a, có phải không? Nhưng tại làm sao Tô-nhi-a đi họp lại tô son điểm phấn như đi dự hội khiêu vũ của bọn tư sản ấy thế? Chính là tính kiêu ngạo khiến Tô-nhi-a làm ra như vậy. Tô-nhi-a không muốn hòa mình vào những người mặc toàn quần áo nhem nhuốc. Tô-nhi-a đã từng có gan yêu một công nhân, nhưng Tô-nhi-a không có đủ can đảm để yêu một lý tưởng. Phải xa Tô-nhi-a, anh rất tiếc, và đối với Tô-nhi-a anh muốn còn giữ những kỷ niệm tốt đẹp.

Pa-ven im không nói nữa.

Ngày hôm sau, Pa-ven đọc thấy ngoài phố bản mệnh lệnh của ủy ban chống phản cách mạng tỉnh, ký tên Giu-khơ-rai là chủ tịch ủy ban này. Lòng Pa-ven bồi hồi. Anh vất vả lắm mới đến tìm gặp được Giu-khơ- rai vì người ta không cho vào. Pa-ven làm om lên khiến những đồng chí đứng gác đã chực bắt giữ lại. Cuối cùng vẫn vào được.

Cuộc gặp gỡ thật thắm thiết. Giu-khơ-rai bị một viên đạn đại bác cụt mất một tay. Hai anh em đồng ý với nhau ngay về công tác. Giu-khơ-rai nói:

- Chú cũng chưa được khỏe lắm để trở ra tiền tuyến. Vậy thì chú ở lại làm việc với anh ở đây vậy, hai anh em ta sẽ cùng nhau bóp chết hết bọn phản cách mạng ở đây đi. Mai chú đến đây ngay tìm anh nhé.

Chiến tranh với bọn Ba Lan trắng kết liễu. Những đạo Hồng quân đã tiến đến chân thành Vác-sa-va, tiêu hết sức người sức của. Xa hậu phương không tiếp viện kịp, họ không chiếm được chiến tuyến cuối cùng, nên đành rút lui. Cuộc rút lui của ta trước thành Vác-sa-va là "phép lạ trên sông Vi-stuyn" như bọn thù địch Ba Lan thường nói. Nước Ba Lan của bọn bạch vệ thế là sống sót. Trong lúc này, ta đành chưa thực hiện được ước mơ có một Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Ba Lan.

Đất nước bị ngập trong máu lửa cần có một thời gian hòa hoãn.

Pa-ven không về thăm nhà được vì Sê-pê-tốp-ca lại bị quân Ba Lan trắng chiếm đóng lại và tạm thời lấy làm thành phố giới tuyến của hai bên. Ta và địch đang tiến hành đàm phán lập lại hòa bình. Ngày đêm, Pa-ven công tác trong Ban đặc biệt chống phản cách mạng, làm mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho. Anh ở cùng phòng với Giu-khơ-rai. Được tin quê hương nằm trong vùng chiếm đóng của Ba Lan, Pa-ven buồn rười rượi:

- Đồng chí Giu-khơ-rai ạ, nếu sau khi đình chiến vẫn giữ được nguyên tình trạng ấy thì mẹ em hóa ra thành sống ở nước ngoài mất ư?

Giu-khơ-rai giải thích cho Pa-ven yên tâm:

- Chắc giới tuyến sẽ chạy qua Gô-rin, dọc theo bờ sông. Như thế thì Sê-pê-tốp-ca vẫn là của ta. Chúng ta sẽ chóng được tin chắc chắn.

Những sư đoàn Hồng quân rời mặt trận Ba Lan đổ về phía Nam. Lợi dụng thời cơ ngừng chiến, tên Vơ-ran-ghen đã bò ra khỏi Cơ-ri-mê. Và trong khi nước Cộng hòa tuôn hết sức ra mặt trận Ba Lan thì tên tướng Nga trắng ấy đã từ phương Nam lần lần tiến về phía Bắc, dọc sông Đơ-nhi-ép, tìm cách chiếm tỉnh Ê-ca-chê-rin.

Nhân lúc chiến tranh với quân Ba Lan chấm dứt, đất nước ta điều quân đến Cơ-ri-mê để tiêu diệt cái ổ cuối cùng này của bọn phản cách mạng.

Những chuyến tàu chất đầy người, đầy xe cộ, chở những bếp cấp dưỡng lưu động, những khẩu đại bác, chạy qua Ki-ép, đổ về phương Nam. Ủy ban đặc biệt địa phương của ngành vận tải làm việc sốt vó. Tất cả làn sóng những chuyến tàu như thác lũ đổ về đó bị ứ lại mắc nghẽn. Nhà ga chật ăm ắp, sự đi lại bị tắc vì đường nào cũng mắc cả. Máy điện đài nhả ra hàng loạt băng ghi những bức điện tối hậu thư, những bản mệnh lệnh khẩn cấp mở đường cho sư đoàn này, sư đoàn khác. Những băng điện vô tận ấy chi chít những chấm, gạch cứ bò ra dài dằng dặc và gần như điện nào cũng đọc thấy "tối khẩn. . . mệnh lệnh chiến đấu có đường ngay lập tức" và bức điện nào cũng nhắc ai không chấp hành mệnh lệnh sẽ phải đưa ra tòa án quân sự cách mạng.

Bao nhiêu chuyện mắc nghẽn, trách nhiệm đều đổ lên đầu ủy ban đặc biệt về giao thông vận tải cả thôi.

Luôn luôn có những cán bộ chỉ huy đơn vị xồng xộc ập tới ủy ban, khoa súng ngắn và đòi phải có đường ngay cho đơn vị mình đi, chiểu theo điện thượng khẩn số nọ số kia của tư lệnh trưởng tập đoàn quân.

Chẳng ai chịu hiểu cho rằng những việc yêu cầu của họ thật không thể nào làm nổi được. "Mặc kệ! Các đồng chí cứ giải quyết đường cho chúng tôi đi ngay thôi". Thôi thì tiếng la, tiếng chửi om sòm suốt ngày trong trụ sở. Gặp những trường hợp nan giải nhất, người ta phải cấp tốc mời Giu-khơ-rai đến. Có thế mới trấn tĩnh được đám người hùng hổ sắp sửa xông vào cấu xé lẫn nhau.

Nét mặt rắn rỏi như đúc bằng thép, bình tĩnh lạnh lùng, giọng nói cứng không thể cãi lại được của Giu- khơ-rai, buộc họ phải chịu ngoan ngoãn cho súng vào bao.

Ở phòng làm việc bước ra ke, Pa-ven thấy đầu đau nhoi nhói. Công tác ở đây rất hại đến thần kinh của anh.

Có một hôm, trên một chiếc toa không mui chở đấy những hòm đạn, Pa-ven nhìn thấy Xéc-gây. Cùng lúc ấy Xéc-gây nhảy bổ xuống suýt nữa xô ngã bạn và ôm ghì lấy Pa-ven:

- Pa-ven, thằng quỷ, tao nhận ngay ra mày.

Đôi bạn gặp nhau, không biết hỏi nhau, kể cho nhau nghe chuyện gì bây giờ. Thời gian gấp lắm mà từ lúc xa nhau, hai người đã sống biết bao chuyện trong đời. Hỏi nhau câu này, chưa kịp nghe trả lời, đã lại nói luôn. Còi tàu giục đi, cũng không nghe thấy nữa. Mãi khi đoàn xe chuyển bánh, từ từ bò đi, đôi bạn mới chịu buông nhau ra.

Làm thế nào bây giờ? Cuộc gặp gỡ thế là bị ngắt. Con tàu mở thêm tốc độ. Để khỏi bị rớt lại, Xéc-gây choàng đuổi theo xe, chạy dọc bờ ke, ngoái lại phía Pa-ven, kêu gì lần cuối không nghe rõ, rồi nhảy tót lên bám lấy cửa một toa chở hàng. Những bàn tay từ trong toa thò ra nắm lấy tay anh, kéo vào trong. Pa-ven đứng lại, bàng hoàng, nhìn theo con tàu xa dần. Mãi bây giờ anh mới sực nhớ ra là thằng bạn nó chưa biết tin Va-li-a chết rồi. Ừ, nó có về qua Sê- pê-tốp ca đâu mà biết. Pa-ven ngây người vì cuộc gặp gỡ bất ngờ nên đã quên khuấy không nói với bạn.

"Thế càng hay, không biết tin đó, nó đi càng yên tâm hơn". Pa-ven tự bảo thế. Anh có ngờ đâu là anh gặp bạn lần ấy là lần cuối cùng. Xéc-gây đứng trên nóc toa xe lửa, phanh ngực ra hứng gió mùa thu, cũng không biết là mình đang đi ra trước cái chết.

Đô-rô-sen-cô, một chiến sĩ mặc áo ca-pốt, lưng áo bị cháy sém, nói với Xéc-gây:

- Ngồi xuống không bị ngộ gió đấy, Xéc-gây ạ.

Xéc-gây cười đáp lại:

- Không hề gì. Mình với gió là bạn đấy mà. Cứ để mình đứng, gió thổi cho mát.

Và một tuần sau, Xéc-gây hy sinh ngay trong trận đầu của cuộc Nam hạ giữa đồng cỏ vàng úa mùa thu của xứ U-cơ-ren.

Một viên đạn lạc trúng vào anh.

Anh bị đạn, rùng mình, giúi thêm một bước, ngực đau buốt như xé, miệng không kêu không nói, lảo đảo tay sờ soạng không gian, rồi hai bàn tay đưa lên ôm ghì lấy ngực, khom khom mình như người chực chạy, thân thể bỗng chốc nặng như chì, anh ngã vật xuống, đôi mắt xanh thao láo trừng lên nhìn như dán vào khoảng mênh mông đồng cỏ.


Công việc hết sức căng thẳng ở ủy ban đặc biệt đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của Pa-ven vốn yếu sẵn, chưa lại người. Vết thương cũ lại luôn luôn đau nhói lên và sau hai đêm mất ngủ, Pa-ven bị ngất đi.

Vì thế Pa-ven lại hỏi Giu-khơ-rai:

- Anh Giu-khơ-rai ạ, em muốn đổi công tác, ý kiến anh thấy có đúng không? Em thì rất muốn trở lại nghề cũ, ở phân xưởng chính nhà máy xe lửa. Không có làm ở đây em thấy sức em yếu quá. Tiểu ban y tế khám lại sức khỏe nói là em yếu sức không thể tòng quân được nữa. Nhưng ở đây còn gay hơn ngoài mặt trận kia. Mấy hôm vừa rồi, đi tiễu bọn phỉ Xu- tưa đã làm em mệt lả người đi. Cứ sau loạt bắn là em lại phải nghỉ tay để thở. Anh Giu-khơ-rai ạ, chắc anh cũng hiểu, chân em đứng cũng chẳng còn vững nữa, thì em làm công tác tốt thế nào được ở ủy ban đặc biệt này.

Giu-khơ-rai nét mặt lo lắng nhìn Pa-ven:

- Phải đấy, tôi thấy chú yếu lắm. Đáng lẽ phải đổi công tác cho chú từ trước đây rồi. Khuyết điểm ở tôi. Bận công tác quá không nhìn đến.

Sau buổi nói chuyện đó, Pa-ven được điều động sang tỉnh đoàn thanh niên cộng sản nhận công tác.

Một tay trẻ măng tính hay cựa quậy luôn, mũ cát- két kéo sụp xuống tận mắt rất ngang, nhìn lướt qua mảnh giấy, rồi vui vẻ nháy mắt hỏi Pa-ven:

- Cậu ở ủy ban đặc biệt đến à? Cơ quan đó dễ chịu đấy! Chờ nháy mắt là chúng mình giao công tác cho cậu ngay. Bên mình bấn người quá. Thật là nạn thiếu cán bộ. Cậu muốn sang đâu? Ủy ban cung cấp? Không à? Ừ đừng sang đó. Sang cơ sở tuyên truyền ngoài bến sông? Không à? Thế thì dại quá. Chỗ này bở lắm, sinh hoạt phí theo chế độ xung phong đấy.

Pa-ven ngắt lời: "Mình muốn sang đường sắt làm ở các phân xưởng chính".

Gã kia trố mắt nhìn Pa-ven:

- Sang phân xưởng chính à? Hừ, ở đấy có cần người đâu. Thôi cậu cứ đến gặp chị Ri-ta, chị ấy sẽ xếp công việc cho.

Sau cuộc nói chuyện ngắn với người con gái nước da ngăm ngăm bánh mật, Pa-ven được chỉ định làm bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản xí nghiệp xe lửa, vừa công tác vừa tham gia sản xuất.


Giữa lúc đó, trước cửa ngõ vùng Cơ-ri-mê, tại những đường biên giới cổ xưa đã từng là ranh giới giữa những người Tác-ta xứ Cơ-ri-mê và những trung đoàn người Da-pô-rô, ở chỗ thắt lại của bán đảo, nổi lên pháo đài của bọn bạch vệ mới xây lại, chung quanh có những công sự kiên cố rất lợi hại: pháo đài Pê-rê-cốp.

Sau pháo đài ấy, cả cái xã hội cũ đã bị lên án, từ khắp xó xỉnh trong nước chúi vào xó Cơ-ri-mê này, yên trí ở đấy an toàn, say sưa túy lúy với nhau trong hơi men rượu nho.

Một đêm mùa thu băng giá, hàng vạn người con của nhân dân lao động đã đổ xuống eo biển nước giá lạnh để đêm tối vượt vịnh Xi-vát đánh vào sau lưng kẻ địch đã chui tọt vào các công sự. Đi trong hàng quân đó có Giác-ki, hai tay nâng niu khẩu súng máy đội trên đầu.

Và khi rạng đông, cả vùng eo biển Pê-rê-cốp sôi lên sùng sục trong cơn sốt rét điên cuồng; hàng ngàn người ào ào ập vào hàng rào dây thép gai, những mũi quân tiến đầu tiên lội qua vịnh Xi-vát, đặt chân lên những bờ đá lởm chởm của bán đảo Li-tốp ở sau lưng  quân địch. Và một trong những chiến sĩ đầu tiên đổ bộ lên được là Giác-ki.

Chiến đấu ác liệt chưa từng thấy. Bọn trắng tung kỵ binh vào đám người vừa lội dưới nước lên; kỵ binh của chúng lao vào như thú dữ. Giác-ki không ngừng bắn, khẩu liên thanh của anh nhả đạn như khạc cái chết vào kẻ địch. Từng đống xác người và ngựa địch chồng chất lên nhau trong trận mưa chì này. Giác- ki, nhanh đến run tay lên, lắp hết băng đạn này đến băng đạn khác bắn vào kẻ địch.

Hàng trăm khẩu pháo nổ ầm ầm ở Pê-rê-cốp. Dường như cả eo đất này cũng sụt xuống biển sâu thẳm không đáy. Hàng ngàn quả đại bác rú lên ghê rợn, bay nhằng nhịt trên trời, rắc tung cái chết, rơi xuống tóe ra thành từng mảnh nhỏ. Mặt đất bị cày nát, bị nghiền vụn, bị bắn tóe lên. Những tảng đất đen lớn do đại bác cày đã hất lên, che lấp cả ánh mặt trời.

Đầu con rắn độc đã bị đánh giập rồi. Dòng thác đỏ lại băng mình về phía Cơ-ri-mê, các sư đoàn của đoàn quân kỵ mã thứ nhất băng mình vào Cơ-ri-mê giáng cho quân địch một đòn cuối cùng ác liệt. Lũ bạch vệ kinh hoảng, sợ run lên, hớt ha hớt hải cố chạy xô nhau bám lấy những tàu biển sắp rời bến.

Trên những bộ quân phục đã sờn đã bạc. Tổ quốc Cộng hòa gắn vào chỗ trái tim người ta thường đập những đồng tròn vàng của huân chương Cờ đỏ. Trong số những quân phục được gắn huy chương ấy có áo của người đoàn viên thanh niên cộng sản giữ súng máy: Giác-ki.

Hòa ước với Ba Lan đã ký và đúng như Giu-khơ- rai hy vọng, Sê-pê-tốp-ca trở về với xứ U-cơ-ren Xô- viết. Giới tuyến là con sông cách thành phố ba mươi lăm cây số. Tháng Chạp năm 1920, Pa-ven về quê thăm nhà, buổi sớm đó, anh ghi nhớ mãi trong lòng.

Pa-ven bước xuống sân ga chớm tuyết, đưa mắt nhìn thấy tấm biển "Sê-pê-tốp-ca, ga thứ nhất" liền quay sang trái, đi vào sở đầu máy. Hỏi anh A-rơ-chom, nhưng anh chẳng có ở đấy. Pa-ven khép vạt áo choàng cho thêm khít vào người, rồi đi ngang qua rừng vào thành phố.

Anh gõ cửa. Lúc ấy bà mẹ đang ngồi ở ghế nghe tiếng đập cửa, quay lại mời khách vào nhà. Nhưng khi cửa mở rồi, một người mình đầy tuyết trắng hiện ra trong khung cửa, bà cụ nhận ra khuôn mặt yêu dấu, liền đưa tay lên ôm lấy ngực. Mừng quá, bà cụ không nói được nên lời nữa.

Bà ấp tấm thân già, gầy còm vào ngực con trai, hôn lấy hôn để lên mặt con, nước mắt trào ra, mừng mừng tủi tủi.

Pa-ven ôm lấy mẹ, nhìn nét mặt mẹ răn reo, hốc hác vì lo buồn và mong nhớ con, anh im lặng chờ mẹ bình tâm lại.

Bà cụ đau khổ đã nhiều, hôm nay mắt lại sáng lên vì sung sướng. Ngày hôm ấy và mấy ngày liền, bà nói không chán, nhìn con không chán. Bà đã tưởng chẳng còn hy vọng gì gặp lại con nữa. Ba ngày sau A-rơ-chom nửa đêm đeo ba-lô trên vai cũng trở về căn nhà cũ bé nhỏ này. Nỗi mừng của bà cụ càng không để đâu cho hết.

Dưới mái nhà nhỏ bé của gia đình Ca-rơ-sa-ghin, những người đi xa đã trở về đông đủ. Sau bao nhiêu thử thách gian khổ, hai anh em không ai tổn thất, đã được gặp lại nhau.

Mẹ hỏi các con: - Giờ thì các con tính làm gì?

A-rơ-chom đáp:

- Con lại sẽ trở về với ổ bi bánh xe, làm nghề như trước, mẹ ạ.

Còn Pa-ven thì ở nhà được mười lăm ngày, rồi lại trở về Ki-ép. Ở đấy công việc đang chờ anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 30-4-2012 19:44:49 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN THỨ HAI


CHƯƠNG I

Nửa đêm. Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp ẹp chạy qua đã được một lúc lâu rồi. Trăng suông trải lên thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt giường một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng trong bóng tối lờ mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm cụi với tập nhật ký thân thiết.

Đầu bút chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:

"24 tháng Năm,

Lại thử ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng trống nữa trong nhật ký. Sáu tuần qua, không viết một chữ. Đành vậy thôi.

Lấy đâu ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ này, đêm khuya, mình mới có thời giờ viết. Không ngủ được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy làm tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật là một người ưu tú. Mãi bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần. Cố nhiên, Xê-gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua bọn mình họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước tiến của "các con đỡ đầu” của chúng mình. Đến dự, có A- kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh chàng trưởng phòng quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu được hạng người tự phụ "cái gì tôi cũng biết” ấy! Xê-gan thì hớn hở. Người học trò anh là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đã đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử Đảng. Phải, hai tháng qua thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế, người ta chẳng thấy tiếc sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công tác ở Ban đặc biệt của Quân khu. Tại sao thế nhỉ? Mình chẳng biết nữa.

Xê-gan đã giao phó người học trò của anh cho mình. Khi chia tay, anh nói:

"Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây nhớ. Đừng bỏ dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như anh ta, cả hai đều có những điều học hỏi lẫn nhau được. Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ được và có thể đẩy anh ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người hướng dẫn thích hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên viết thư về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!"

Hôm nay, Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình quen Giác- ki từ hồi ở bộ đội.

Ngày mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với mình. Hình dạng anh chàng Đu-ba-va: vóc người tầm thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba người đã bị khai trừ ra khỏi tỉnh đoàn vì thuộc "khối đối lập thợ thuyền". Giúp Đu-ba-va học tập thật không dễ. Lần nào anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi quay mình, làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-va, cô học trò thứ hai của mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu tiên, anh ta nhìn Ôn-ga suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:

- Trang bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì phải mặc quần da, mang đinh ba, đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc, cũng chẳng ra mỡ.

Ôn-ga cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình không lầm thì Đu-ba-va là bạn Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi thế này đủ rồi. Đi ngủ".

Nóng như thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga, sờ vào nóng bỏng. Đoàn người dãi nắng mệt lử, uể oải bước lên cầu Họ không phải là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên đường sắt qua cầu sang bên phố.

Đứng trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta. Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven và đang nhìn hành khách xuống tàu.

Đến Cách Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri- ta không trông thấy Pa-ven. Anh đứng ngắm Ri-ta với cặp mắt tò mò khác thường. Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc, bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo khoác ngoài bằng da mềm vắt lên vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang ngược bao quanh lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta đứng hơi ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị nheo mắt lại. Lần đầu tiên Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình bằng cặp mắt ấy, và cũng lần đầu tiên trong đầu anh nảy ra ý nghĩ: Ri-ta không phải chỉ là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ "tội lỗi", Pa-ven gọi giật Ri-ta:

- Tôi đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-ta không trông thấy. Đến lúc đi rồi, tàu đã vào ga.

Hai người dẫn nhau đến lối ra ke.

Hôm qua, Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội nghị của một huyện đoàn. Pa-ven được cử đi phụ với Ri-ta. Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng được, chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào giờ tàu chạy, nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có uy quyền điều khiển, ai không có giấy của ban này không được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được một phần mười những người cần đi. Không ai muốn ở lại để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một chuyến tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới những toa xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu đả.

Pa-ven và Ri-ta định chen ra ke, nhưng không sao len được.

Vốn biết hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn gái đi qua kho chứa hành lý.

Vất vả lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn. Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ hôi đứng trước cửa xe, giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có đến trăm lần:

- Tôi nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh trên cấm ngặt không được ai trèo lên cả.

Có những người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn vào mũi anh những vé do ban xếp người phát cho họ đi toa số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ, tiếng kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối thường thì không thể nào lên được Mà việc thì cần, không đi được thì hội nghị không thành mất.

Pa-ven kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động của mình. Pa-ven sẽ len vào trong toa, bỏ cửa kính xuống và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào khác.

- Ri-ta đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng minh thư tốt nhất.

Pa-ven khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng ngắn vào túi, cố ý để lòi báng súng và dây súng ra ngoài. Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ toa xe. Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành khách, với được thành sắt bậc lên tàu.

- Này, đồng chí đi đâu?

Pa-ven ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.

- Tôi là người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra xem hành khách các đồng chí cho lên tàu có đủ vé của ban xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy may ngờ vực uy quyền của mình.

Người công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi trán và nói bằng một giọng hờ hững:

- Ừ đồng chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí chen vào được.

Pa-ven chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng nắm tay, trườn lên vai người khác, rướn tay đánh đu lấy giá ghế trên; tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá; chửi thì chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.

"Quỷ tha ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái nhà anh trời đánh thánh vật kia!". Một mụ béo phị mắng Pa-ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ đã thu cái thân hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai chân đang kẹp lấy cái bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước, hộp đựng sữa, hòm, bao và thùng ngổn ngang các ghế dài. Không khí ngạt thở.

Đáp lời chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:

- Bà cho tôi xem vé của ban xếp người!

Mụ phát khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai cần đó: - Cái gì?

Một cái đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng ồ ồ rống lên:

- Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho nó một vé vào mõm ấy!

Ngay trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là Vát-ca: người nó lực lưỡng, ngực đầy lông, giương cặp mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.

- Mày nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé gì?

Từ giá ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn hạt hướng dương lách tách. Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen. Pa-ven không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta vào trong toa đã.

Pa-ven chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một công nhân đường sắt đứng tuổi:

- Hòm này của ai đây?

Bác công nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục, đi tất màu hạt dẻ:

- Của nhà chị này!

Phải kéo cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa, không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm lên và đưa cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:

- Đồng bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.

Khi Pa-ven đặt chiếc hòm lên đùi mụ kia thì nhà mụ mũi tẹt ấy tru tréo lên:

- Cái nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?

Rồi mụ cầu cứu lão bên cạnh.

- Mốt-ca ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo cả lên thế!

Tên gọi Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng Pa-ven:

- Ê đồ muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ mặt bây giờ!

Pa-ven nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và nói với bác công nhân đường sắt:

- Đồng chí lùi ra cho một chút.

Pa-ven dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở ngoài, chị nhanh tay đưa cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang kẹp bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí Hồng quân trong đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong toa rồi. Đồng chí bộ đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu nhàu bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao lên, làm cho Ri-ta bối rối và lo ngại. Chị không có chỗ nào đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới, tay víu lấy chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại. Giọng ồ ồ ở phía trên phì ra:

- Rõ thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả "mèo" lên nữa!

Một tên ngồi khuất đâu trên cao hết lên: "Mốt-ca! Cậu cho nó dăm quả tống cho tối mắt đi!"

Mụ mũi tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung quanh toàn những bộ mặt ti tiện, hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho có chỗ ngồi.

- Này anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ đồng chí này đứng. - Pa-ven nói với tên mà người ta gọi là Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần thỉu làm cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức trên mu mắt phải.

- Được mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay tao - Pa-ven cố nén, nói với tên lưu manh như vậy, nhưng vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu.

Bọn chúng ở bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:

- Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra !

Bao nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây giờ bật ra, và trong những lúc như thế này, cử chỉ của anh bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.

- Bọn đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu được tao đấy phải không? - Pa-ven, tay bíu lấy giá ghế thứ hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên con buôn đầu cơ ngã bổ nhào lên đầu những đứa khác, rồi lăn kềnh xuống lối đi.

"Bọn khốn nạn ! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả như chó ấy!" Pa-ven giận dữ quát lên, tay vung khẩu súng ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.

Câu chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng vào bất cứ kẻ nào định chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.

Khi Pa-ven đã đưa Ri-ta lên ngồi trên ghế đã quang người anh rỉ tai với Ri-ta:

- Ri-ta ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.

Ri-ta ngăn anh lại: - Pa-ven định đi đánh nhau với chúng đấy à?

Pa-ven nói cho Ri-ta yên tâm: - Không, tôi sẽ về ngay.

Pa-ven lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài phút sau, anh đã có mặt ở phòng làm việc của Bua-mây-stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau khi nghe Pa-ven kể, đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi người.

Bua-mây-stơ lẩm bẩm: - Tôi nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn con buôn đầu cơ rồi.

Một đội công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven giúp việc kiểm tra lại cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt, Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí thư đoàn thanh niên đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở Cục công an đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa- ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây giờ đầy hành khách mới: những cán bộ đi công tác và các chiến sĩ Hồng quân.

Trên ghế tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi. Những bó báo đã choán hết chỗ.

Ri-ta nói: - Không sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.

Đoàn tàu chuyển bánh.

Nhìn qua cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều lúc nãy ngồi trên đống bao bì. Tiếng kêu của mụ vẳng lại: "Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi ?".

Ri-ta và Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo ngăn cách họ với những người bên cạnh. Hai người giở bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu chuyện chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.

Xe lửa bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô nghiến ken két và răng rắc, toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường sắt nối. Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh dày đặc. Rồi đêm tối giăng màn đen lên những khoang cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như bưng.

Ri-ta mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết. Pa-ven ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng không có chỗ đặt lưng. Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc của Pa-ven, Ri-ta nghĩ thầm: "Cậu Pa-ven ngồi mãi thế được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng ngại không muốn làm phiền mình đây". Ri-ta nói giọng thương mến: "Đồng chí Pa-ven, bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm xuống mà nghỉ!"

Pa-ven ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi cặp giò đã mỏi tê.

"Mai chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng hay đánh nhau ạ". Cánh tay Ri-ta ôm chặt lấy người đồng chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc Ri-ta áp vào má mình.

Đối với anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân, người đồng chí cùng chung lý tưởng, giảng viên chính trị của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ. Khi ở gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều đó, cho nên cái ôm của người bạn gái hôm nay mới làm lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe thấy hơi thở mạnh và đều của Ri-ta; đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần gũi đó như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp dẫn ấy. Cuối cùng, Pa-ven phải dùng hết ý chí để nén lòng mình lại.

Hình như đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua niềm sung sướng trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất. Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của bọn Nga trắng đã cướp mất của Ri-ta cả hai người. Một người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn. Còn người kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.

Chẳng mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven. Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú lên mới đánh thức anh dậy.


Ri-ta khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra, có ghi thêm mấy đoạn ngắn:

"11 tháng Tám,


Xong hội nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ U-cơ-ren. Mọi công việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-va được phái đi làm bí thư Huyện đoàn Pê-séc thì không đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố tiếp tục học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven bận đi công tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm trọng nên bên ấy phải ra lệnh động viên thường xuyên. Hôm qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì bên mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó cũng rất cần thiết đối với bên ấy”.

"23 tháng Tám,

Hôm nay, mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven và một người lạ nữa đứng ở cửa phòng hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:

- Ở đấy toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói: "Các anh không được phép can thiệp vào quyền hạn sử dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm chủ, chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả". Mồm nó nói thế đấy, các cậu ạ. Lũ ăn hại nó nấp ở những chỗ ấy đấy chứ ở đâu.

Tiếp đó, Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-tốp nhìn thấy mình, liền máy Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi lỉnh đi ngay. Chắc Pa-ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu cho mà xem. Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay nói tục".

"27 tháng Tám,


Ban thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây giờ thì chưa thể ghi mọi chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm qua, bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe chở lương thực xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những mầu chuyện vụn vặt. Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng Giác-ki lập công xã năm người".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 30-4-2012 19:46:06 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN THỨ HAI


CHƯƠNG I

Nửa đêm. Chuyến tàu điện cuối cùng kéo lê thân tàu ọp ẹp chạy qua đã được một lúc lâu rồi. Trăng suông trải lên thành cửa sổ, ánh trăng lọt vào nhà như trải lên mặt giường một tấm màng xanh, bỏ khoảng còn lại của gian phòng trong bóng tối lờ mờ. Trên chiếc bàn ở góc phòng, một vầng ánh sáng loe dưới chao đèn. Ri-ta cặm cụi với tập nhật ký thân thiết.

Đầu bút chì nhọn nguệch ngoạc trên giấy:

"24 tháng Năm,

Lại thử ghi lại cảm nghĩ của mình. Thế là bỏ một khoảng trống nữa trong nhật ký. Sáu tuần qua, không viết một chữ. Đành vậy thôi.

Lấy đâu ra thời giờ ghi nhật ký thân yêu này được. Giờ này, đêm khuya, mình mới có thời giờ viết. Không ngủ được. Đồng chí Xê-gan về công tác ở Trung ương. Tin ấy làm tất cả bọn mình ngao ngán. Xê-gan của chúng mình thật là một người ưu tú. Mãi bây giờ, mình mới thấy rõ tình thân giữa bọn mình và Xê- gan thật quý vô ngần. Cố nhiên, Xê-gan đi là nhóm học tập duy vật biện chứng sẽ tan. Hôm qua bọn mình họp ở nhà anh đến tận khuya để kiểm điểm bước tiến của "các con đỡ đầu” của chúng mình. Đến dự, có A- kim bí thư Tỉnh đoàn thanh niên, và anh chàng trưởng phòng quản lý cán bộ Túp-ta đáng ghét. Không thể nào chịu được hạng người tự phụ "cái gì tôi cũng biết” ấy! Xê-gan thì hớn hở. Người học trò anh là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đã đập gãy Túp-ta ra trò về môn lịch sử Đảng. Phải, hai tháng qua thật đã không phí. Khi có được những kết quả như thế, người ta chẳng thấy tiếc sức. Có tin Giu-khơ-rai sang công tác ở Ban đặc biệt của Quân khu. Tại sao thế nhỉ? Mình chẳng biết nữa.

Xê-gan đã giao phó người học trò của anh cho mình. Khi chia tay, anh nói:

"Hãy làm cho xong công tác mà tôi đã bắt đầu ở đây nhớ. Đừng bỏ dở nửa đường. Ri-ta ạ, đối với chị cũng như anh ta, cả hai đều có những điều học hỏi lẫn nhau được. Chàng thanh niên ấy, chưa bỏ hẳn được tính bồng bột tự phát. Tình cảm anh ta sôi sục, khiến anh ta không tự chủ được và có thể đẩy anh ta đi chệch con đường đúng. Ri-ta ạ, theo chỗ tôi hiểu chị, chị sẽ là người hướng dẫn thích hợp nhất đối với Pa-ven. Chúc chị may mắn. Đừng quên viết thư về Mát-xcơ-va cho tôi nhé!"

Hôm nay, Trung ương phái Giác-ki đến làm bí thư mới của Quận đoàn Xô-lô-men-ca. Mình quen Giác- ki từ hồi ở bộ đội.

Ngày mai, Đu-ba-va sẽ dẫn Pa-ven đến giới thiệu với mình. Hình dạng anh chàng Đu-ba-va: vóc người tầm thước, khỏe, bắp thịt nở nang. Vào Đoàn thanh niên cộng sản từ 1918, vào Đảng từ 1920. Đấy là một trong số ba người đã bị khai trừ ra khỏi tỉnh đoàn vì thuộc "khối đối lập thợ thuyền". Giúp Đu-ba-va học tập thật không dễ. Lần nào anh ta cũng phá kế hoạch, phóng ra nhiều câu hỏi quay mình, làm mình nói lạc ra ngoài đề. Giữa Ôn-ga I-u-rê-nê-va, cô học trò thứ hai của mình, và anh chàng Đu-ba-va, hay xảy ra cãi nhau. Ngay tối học đầu tiên, anh ta nhìn Ôn-ga suốt từ đầu đến chân, rồi nhận xét:

- Trang bị của bà không đủ lệ bộ, bà cụ non ơi! Bà thì phải mặc quần da, mang đinh ba, đội mũ kiểu Bu-đi-on-ny đeo kiếm vào, chứ ăn mặc như bà thì thật chẳng ra nạc, cũng chẳng ra mỡ.

Ôn-ga cũng không chịu lép. Mình phải can họ. Nếu mình không lầm thì Đu-ba-va là bạn Pa-ven. Thôi, hôm nay ghi thế này đủ rồi. Đi ngủ".

Nóng như thiêu rang khô kiệt mặt đất. Tay vịn bằng sắt ở cầu bắc vắt ngang qua nhà ga, sờ vào nóng bỏng. Đoàn người dãi nắng mệt lử, uể oải bước lên cầu Họ không phải là hành khách. Phần đông là dân khu nhà bên đường sắt qua cầu sang bên phố.

Đứng trên đầu thang lên cầu, Pa-ven trông thấy Ri-ta. Ri-ta đã tới ga trước Pa-ven và đang nhìn hành khách xuống tàu.

Đến Cách Ri-ta vài ba bước, Pa-ven dừng lại. Ri- ta không trông thấy Pa-ven. Anh đứng ngắm Ri-ta với cặp mắt tò mò khác thường. Ri-ta mặc áo sơ-mi cộc tay kẻ dọc, bận váy xanh ngắn bằng vải thường, chiếc áo khoác ngoài bằng da mềm vắt lên vai, đầu không mũ, mớ tóc ngang ngược bao quanh lấy khuôn mặt rám nắng. Ri-ta đứng hơi ngả đầu về phía sau, nắng chói làm chị nheo mắt lại. Lần đầu tiên Pa-ven nhìn người bạn và người phụ đạo của mình bằng cặp mắt ấy, và cũng lần đầu tiên trong đầu anh nảy ra ý nghĩ: Ri-ta không phải chỉ là ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, mà còn là... Giận mình đã có ý nghĩ "tội lỗi", Pa-ven gọi giật Ri-ta:

- Tôi đứng suốt một tiếng đồng hồ nhìn Ri-ta, thế mà Ri-ta không trông thấy. Đến lúc đi rồi, tàu đã vào ga.

Hai người dẫn nhau đến lối ra ke.

Hôm qua, Tỉnh đoàn đã cử Ri-ta làm đại biểu đi dự hội nghị của một huyện đoàn. Pa-ven được cử đi phụ với Ri-ta. Hôm nay thế nào cũng phải lên xe lửa đi cho bằng được, chuyện đó không phải dễ. Thời buổi hiếm tàu xe đi lại, vào giờ tàu chạy, nhà ga do một ban xếp người lên tàu rất có uy quyền điều khiển, ai không có giấy của ban này không được bước ra ke. Tất cả các cửa ra vào đều có người của ban này đứng chắn. Tàu đầy ắp mà vẫn chỉ mới chở được một phần mười những người cần đi. Không ai muốn ở lại để chờ ngày nọ qua ngày kia, họa ra mới có một chuyến tầu khác. Hàng nghìn người vây các lối ra ke, cố chen ra tới những toa xanh. Nhà ga mấy ngày nay sống trong cảnh bị bao vây thật sự, đôi khi xảy ra ẩu đả.

Pa-ven và Ri-ta định chen ra ke, nhưng không sao len được.

Vốn biết hết ngõ ngách ra vào, anh liền dẫn người bạn gái đi qua kho chứa hành lý.

Vất vả lắm, hai người mới đến được toa tàu số bốn. Anh công an đặc biệt, ướt đẫm mồ hôi đứng trước cửa xe, giữ cho đám đông khỏi chen lên. Anh nhắc đi nhắc lại có đến trăm lần:

- Tôi nói với đồng bào là toa chật ních rồi. Còn những chỗ nối toa vào mái tàu, lệnh trên cấm ngặt không được ai trèo lên cả.

Có những người hùng hổ xấn đến chỗ anh công an, ấn vào mũi anh những vé do ban xếp người phát cho họ đi toa số bốn. Trước toa tàu nào cũng có tiếng chửi rủa giận dữ, tiếng kêu la, xô đẩy nhau. Pa-ven hiểu là lên tàu theo lối thường thì không thể nào lên được Mà việc thì cần, không đi được thì hội nghị không thành mất.

Pa-ven kéo Ri-ta ra bên, trình bày kế hoạch hành động của mình. Pa-ven sẽ len vào trong toa, bỏ cửa kính xuống và kéo Ri-ta lên qua cửa sổ. Không có cách nào khác.

- Ri-ta đưa tôi chiếc áo da của Ri-ta, đấy là cái chứng minh thư tốt nhất.

Pa-ven khoác chiếc áo của Ri-ta lên người, nhét súng ngắn vào túi, cố ý để lòi báng súng và dây súng ra ngoài. Anh đặt túi lương ăn xuống chân Ri-ta, rồi lại chỗ toa xe. Pa-ven không nể nang ai, lấy cùi tay chen lấn đám hành khách, với được thành sắt bậc lên tàu.

- Này, đồng chí đi đâu?

Pa-ven ngoảnh lại nhìn người công an béo lùn.

- Tôi là người của Ban đặc biệt Quân khu. Tôi kiểm tra xem hành khách các đồng chí cho lên tàu có đủ vé của ban xếp người không. - Giọng Pa-ven không để cho ai mảy may ngờ vực uy quyền của mình.

Người công an nhìn túi Pa-ven, lấy tay áo lau mồ hôi trán và nói bằng một giọng hờ hững:

- Ừ đồng chí cứ việc vào mà kiểm tra, nếu đồng chí chen vào được.

Pa-ven chen lách bằng tay, bằng vai và có lúc bằng nắm tay, trườn lên vai người khác, rướn tay đánh đu lấy giá ghế trên; tiếng la chửi đổ lên đầu anh như mưa đá; chửi thì chửi, Pa-ven cũng len được vào giữa toa tàu.

"Quỷ tha ma anh đi đâu mà anh chen gớm thế hở cái nhà anh trời đánh thánh vật kia!". Một mụ béo phị mắng Pa-ven khi anh giẫm chân lên đầu gối mụ ta. Mụ đã thu cái thân hình nặng hơn một tạ vào thành ghế dài ở hàng dưới, hai chân đang kẹp lấy cái bình đựng đầy bơ. Bình đựng nước, hộp đựng sữa, hòm, bao và thùng ngổn ngang các ghế dài. Không khí ngạt thở.

Đáp lời chửi rủa của mụ ta, Pa-ven hỏi:

- Bà cho tôi xem vé của ban xếp người!

Mụ phát khùng với nhà anh soát vé chẳng ai khiến ai cần đó: - Cái gì?

Một cái đầu du côn từ ghế tầng ba thò xuống, và giọng ồ ồ rống lên:

- Vát-ca, nó là cái thứ gì mà đến đây nhiễu sự? Mày cho nó một vé vào mõm ấy!

Ngay trên đầu Pa-ven nhô ra một tên dáng chừng là Vát-ca: người nó lực lưỡng, ngực đầy lông, giương cặp mắt to như mắt bò mộng nhìn Pa-ven chòng chọc.

- Mày nhiễu sự cái gì với người đàn bà này? Mày hỏi vé gì?

Từ giá ghế bên, bốn đôi chân buông thõng xuống. Bốn tên ngồi sát nhau, thi nhau cắn hạt hướng dương lách tách. Rõ ràng đây là một bọn trộm cắp buôn lậu chợ đen. Pa-ven không có thời giờ gây chuyện với chúng. Phải đưa Ri-ta vào trong toa đã.

Pa-ven chỉ tay vào cái hòm gỗ đặt bên cửa sổ, hỏi một công nhân đường sắt đứng tuổi:

- Hòm này của ai đây?

Bác công nhân chỉ tay về phía hai cái chân to trùng trục, đi tất màu hạt dẻ:

- Của nhà chị này!

Phải kéo cửa kính xuống. Cái hòm chắn mất cửa, không chuyển đi đâu được. Pa-ven nâng hòm lên và đưa cho chủ nó đang ngồi ở giá ghế trên:

- Đồng bào giữ cho một chút để tôi mở cửa sổ.

Khi Pa-ven đặt chiếc hòm lên đùi mụ kia thì nhà mụ mũi tẹt ấy tru tréo lên:

- Cái nhà anh này sao lại mó vào đồ đạc của người ta?

Rồi mụ cầu cứu lão bên cạnh.

- Mốt-ca ơi! Cái nhà anh kia là ai mà đến đây làm nháo cả lên thế!

Tên gọi Mốt-ca ngồi giá ghế trên, chẳng buồn nhổm dậy, lấy chân đi dép nện vào lưng Pa-ven:

- Ê đồ muỗi tép kia! Xéo ngay không ông đập cho vỡ mặt bây giờ!

Pa-ven nín lặng chịu cái đạp. Anh cắn môi mở cửa và nói với bác công nhân đường sắt:

- Đồng chí lùi ra cho một chút.

Pa-ven dẹp một cái thùng ra bên để lấy chỗ, rồi đứng sát ngay cửa sổ. Ri-ta đã chờ ở ngoài, chị nhanh tay đưa cái túi cho Pa-ven. Pa-ven ném cái túi lên đùi mụ đang kẹp bình đựng bơ, rồi cúi xuống nắm tay Ri-ta kéo lên. Đồng chí Hồng quân trong đội tuần tra chưa kịp trông thấy và ngăn việc trái phép đó thì Ri-ta đã ở trong toa rồi. Đồng chí bộ đội chậm chạp ấy không làm sao được, chỉ còn cách càu nhàu bỏ đi. Thấy Ri-ta vào, lũ trộm cắp chợ đen nhao nhao lên, làm cho Ri-ta bối rối và lo ngại. Chị không có chỗ nào đặt chân, đành phải đứng lên mép giá ghế dưới, tay víu lấy chỗ vịn của giá ghế trên. Lời chửi rủa từ mọi chỗ dồn lại. Giọng ồ ồ ở phía trên phì ra:

- Rõ thằng đê mặt, nó đã lên rồi còn tha cả "mèo" lên nữa!

Một tên ngồi khuất đâu trên cao hết lên: "Mốt-ca! Cậu cho nó dăm quả tống cho tối mắt đi!"

Mụ mũi tẹt định đặt cái hòm gỗ lên đầu Pa-ven. Chung quanh toàn những bộ mặt ti tiện, hằn học. Pa-ven tiếc là Ri-ta có mặt ở đây, nhưng thế nào cũng phải thu xếp cho có chỗ ngồi.

- Này anh, cất hộ những bao ở lối đi đi, lấy chỗ cho nữ đồng chí này đứng. - Pa-ven nói với tên mà người ta gọi là Mốt-ca, nhưng nó đã đáp lại một câu thô tục bần thỉu làm cho anh sôi cả người lên. Anh cảm thấy tức tối, đau nhức trên mu mắt phải.

- Được mày chờ một chút, đồ du côn, mày sẽ biết tay tao - Pa-ven cố nén, nói với tên lưu manh như vậy, nhưng vừa dứt lời anh bị liền bị một cái đá vào đầu.

Bọn chúng ở bốn chung quanh thét lên ầm ĩ:

- Vát-ca, cứ nện đi, cho nó nảy đom đóm mắt ra !

Bao nhiêu giận dữ từ nãy Pa-ven cố nén trong lòng bây giờ bật ra, và trong những lúc như thế này, cử chỉ của anh bao giờ cũng nhanh và quyết liệt.

- Bọn đầu cơ chó má, chúng mày tưởng có thể trêu được tao đấy phải không? - Pa-ven, tay bíu lấy giá ghế thứ hai, đánh đu lên như lò xo và giáng một quả đấm vào cái mặt đểu giả vênh váo của Vát-ca. Quả đấm mạnh làm tên con buôn đầu cơ ngã bổ nhào lên đầu những đứa khác, rồi lăn kềnh xuống lối đi.

"Bọn khốn nạn ! Bỏ ghế, cút ngay không tao bắn chết cả như chó ấy!" Pa-ven giận dữ quát lên, tay vung khẩu súng ngắn vào mặt bốn tên côn đồ.

Câu chuyện đã xoay ra chiều hướng khác. Ri-ta chăm chú theo dõi, sẵn sàng nổ súng vào bất cứ kẻ nào định chạm đến người Pa-ven. Trong nháy mắt ghế dài tầng trên đã quang hẳn. Lũ gian vội vã chuồn sang toa bên.

Khi Pa-ven đã đưa Ri-ta lên ngồi trên ghế đã quang người anh rỉ tai với Ri-ta:

- Ri-ta ngồi đây nhớ, để tôi đi thanh toán với bọn chúng.

Ri-ta ngăn anh lại: - Pa-ven định đi đánh nhau với chúng đấy à?

Pa-ven nói cho Ri-ta yên tâm: - Không, tôi sẽ về ngay.

Pa-ven lại mở cửa sổ và nhảy xuống thềm nhà ga. Vài phút sau, anh đã có mặt ở phòng làm việc của Bua-mây-stơ, cục trưởng Cục công an đặc biệt và là người phụ trách cũ của anh. Đồng chí Bua-mây-stơ là người Lét-tô-ni. Sau khi nghe Pa-ven kể, đồng chí hạ lệnh cho hành khách ra khỏi toa và kiểm tra lại giấy tờ của mọi người.

Bua-mây-stơ lẩm bẩm: - Tôi nói y như rằng, tàu vào đến ga là đã đầy ắp bọn con buôn đầu cơ rồi.

Một đội công an đặc biệt gồm mười người đến kiểm soát toa tàu. Theo thói quen, Pa-ven giúp việc kiểm tra lại cả chuyến tàu. Tuy thôi công tác ở Cục công an đặc biệt, Pa-ven vẫn đi lại với các bạn mình ở đấy. Khi còn làm bí thư đoàn thanh niên đường sắt, anh đã đưa nhiều đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú vào công tác ở Cục công an đặc biệt. Kiểm tra xong, Pa- ven về chỗ Ri-ta. Toa tàu bây giờ đầy hành khách mới: những cán bộ đi công tác và các chiến sĩ Hồng quân.

Trên ghế tầng ba ở góc toa chỉ đủ chỗ cho Ri-ta thôi. Những bó báo đã choán hết chỗ.

Ri-ta nói: - Không sao, rồi thế nào cũng thu xếp được chỗ ngồi.

Đoàn tàu chuyển bánh.

Nhìn qua cửa sổ, hai người lại trông thấy mụ lắm điều lúc nãy ngồi trên đống bao bì. Tiếng kêu của mụ vẳng lại: "Man-ca ơi, cái bình toong của tao đâu rồi ?".

Ri-ta và Pa-ven ngồi ở một chỗ hẹp, những bó báo ngăn cách họ với những người bên cạnh. Hai người giở bánh mì và táo ra ăn một cách ngon lành, vui vẻ ôn lại câu chuyện chẳng lấy gì làm vui lắm vừa qua.

Xe lửa bò chậm chạp. Những toa tàu xộc xệch chở quá nặng, chạy lắc lư, bánh xe khô nghiến ken két và răng rắc, toa rùng mình nảy lên khi bánh lăn qua chỗ đường sắt nối. Trời nhá nhem, cảnh vật bên ngoài chìm trong màu xanh dày đặc. Rồi đêm tối giăng màn đen lên những khoang cửa sổ mở toang. Trong toa cũng tối như bưng.

Ri-ta mệt mỏi thiu thiu ngủ, đầu gối lên túi dết. Pa-ven ngồi hút thuốc lá ở mép ghế, chân buông thõng xuống. Anh cũng mệt nhoài, nhưng không có chỗ đặt lưng. Gió hiu hiu đưa hơi đêm lạnh mát lọt vào cửa sổ. Tàu lắc mạnh, Ri-ta sực tỉnh. Nhìn thấy chấm đỏ ở đầu điếu thuốc của Pa-ven, Ri-ta nghĩ thầm: "Cậu Pa-ven ngồi mãi thế được cho đến sáng đấy. Đích là anh chàng ngại không muốn làm phiền mình đây". Ri-ta nói giọng thương mến: "Đồng chí Pa-ven, bỏ những kiểu cách tư sản ấy đi, nằm xuống mà nghỉ!"

Pa-ven ngả mình bên cạnh Ri-ta và khoan khoái duỗi cặp giò đã mỏi tê.

"Mai chúng mình phải làm khối việc. Ngủ đi, ông tướng hay đánh nhau ạ". Cánh tay Ri-ta ôm chặt lấy người đồng chí một cách tin cậy. Pa-ven cảm thấy làn tóc Ri-ta áp vào má mình.

Đối với anh, Ri-ta là thiêng liêng. Một người bạn thân, người đồng chí cùng chung lý tưởng, giảng viên chính trị của anh. Thế nhưng Ri-ta dù sao cũng vẫn là phụ nữ. Khi ở gần cầu đường sắt, anh cũng đã lần đầu tiên cảm thấy điều đó, cho nên cái ôm của người bạn gái hôm nay mới làm lòng anh xúc động đến thế. Pa-ven nghe thấy hơi thở mạnh và đều của Ri-ta; đôi môi Ri-ta ở đâu đây, gần lắm. Sự gần gũi đó như thúc giục, khêu gợi Pa-ven tìm đến đôi môi hấp dẫn ấy. Cuối cùng, Pa-ven phải dùng hết ý chí để nén lòng mình lại.

Hình như đoán biết tình cảm của Pa-ven, Ri-ta mỉm cười trong tối. Ri-ta đã từng trải qua niềm sung sướng trong tình yêu say đắm, cũng như nỗi kinh sợ khi tổn thất. Ri-ta đã yêu hai người bôn-sê-vích, và những viên đạn của bọn Nga trắng đã cướp mất của Ri-ta cả hai người. Một người to lớn, dũng cảm, tư lệnh một lữ đoàn. Còn người kia là một thanh niên có đôi mắt trong sáng.

Chẳng mấy chốc, tiếng bánh xe lăn đã ru ngủ Pa- ven. Mãi đến sáng, tiếng còi tàu rú lên mới đánh thức anh dậy.


Ri-ta khuya mới về nhà. Trong cuốn nhật ký ít khi mở ra, có ghi thêm mấy đoạn ngắn:

"11 tháng Tám,


Xong hội nghị, A-kim, Sum-ski và các đồng chí khác đã đi Khác-cốp để dự hội nghị toàn xứ U-cơ-ren. Mọi công việc hành chính đều trút lên đầu mình. Đu-ba- va và Pa-ven được đề bạt vào Ban chấp hành Tỉnh đoàn. Từ khi Đu-ba-va được phái đi làm bí thư Huyện đoàn Pê-séc thì không đến học tối nữa. Anh ta bận quá. Pa-ven còn cố tiếp tục học, nhưng lúc thì mình không có thời giờ, lúc thì Pa-ven bận đi công tác. Tình hình ngành đường sắt trở nên nghiêm trọng nên bên ấy phải ra lệnh động viên thường xuyên. Hôm qua, Giác-ki đến gặp mình tỏ vẻ không bằng lòng, vì bên mình đã lấy của anh nhiều người, anh ta kêu là số người đó cũng rất cần thiết đối với bên ấy”.

"23 tháng Tám,

Hôm nay, mình đang đi ngoài hành lang thì thấy Pan-cơ-ra-tốp, Pa-ven và một người lạ nữa đứng ở cửa phòng hành chính. Mình lại gần, nghe tiếng Pa- ven đang kể:

- Ở đấy toàn những quân đáng ăn đạn. Chúng dám nói: "Các anh không được phép can thiệp vào quyền hạn sử dụng của chúng tôi. Ở đây là do ủy ban vận chuyển gỗ làm chủ, chứ chẳng biết có đoàn Côm-xô-môn nào cả". Mồm nó nói thế đấy, các cậu ạ. Lũ ăn hại nó nấp ở những chỗ ấy đấy chứ ở đâu.

Tiếp đó, Pa-ven buông lời chửi rủa rất tục, Pan- cơ-ra-tốp nhìn thấy mình, liền máy Pa-ven. Pa-ven quay lại thấy mình, mặt anh ta tái đi, không dám nhìn thẳng rồi lỉnh đi ngay. Chắc Pa-ven sẽ tránh đến đây gặp mình một dạo lâu cho mà xem. Pa-ven biết là mình không tha thứ cho ai hay nói tục".

"27 tháng Tám,


Ban thường vụ họp kín. Tình hình trở nên phức tạp. Bây giờ thì chưa thể ghi mọi chuyện vào nhật ký được. Nhỡ lộ bí mật. A-kim ở huyện về, mặt mày buồn bực. Hôm qua, bên Chê-chê-rếp, bọn chúng lại làm trượt một chuyến xe chở lương thực xuống chân đường. Có lẽ đến bỏ không ghi nhật ký. Lâu nay chỉ ghi toàn những mầu chuyện vụn vặt. Đợi Pa-ven. Hôm trước thấy Pa-ven: Pa-ven đang cùng Giác-ki lập công xã năm người".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2012 19:07:12 | Chỉ xem của tác giả
Đang giữa trưa ở xưởng máy, người ta gọi Pa-ven đến dây nói. Ri-ta báo cho anh biết tối nay Ri-ta rỗi rãi có thể giảng cho xong vấn đề đang nói dở: "Nguyên nhân thất bại của Công xã Pa-ri".

Tối hôm ấy, Pa-ven đến gần ngôi nhà phố Cơ-rúc U-ni-ve, ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng Ri-ta có ánh đèn. Pa-ven chạy lên thang gác và như mọi lần, lấy nắm tay đập cửa và không chờ trả lời, đã bước vào ngay.

Một cán bộ quân đội đang nằm trên giường Ri-ta; giường này các bạn Ri-ta không một ai được phép ngồi lên dù chỉ một chốc lát. Khẩu súng ngắn, cái xà-cột và chiếc mũ đính sao nằm trên bàn. Ri-ta ngồi bên cạnh, tay ôm chặt lấy người đàn ông kia. Hai người đang nói chuyện gì với nhau, sôi nổi lắm... Pa- ven vào, Ri-ta quay ra nhìn, mặt hớn hở.

Anh cán bộ quân đội gỡ tay Ri-ta ra và đứng dậy.

Ri-ta bắt tay Pa-ven và giới thiệu: -  Đây là…

Người đàn ông đó bắt tay Pa-ven rất chặt và đỡ lời Ri-ta: - Tôi là Đa-vít Uốt-chi-nô-vích.

Ri-ta vừa cười vừa nói với Pa-ven:

- Anh ấy đến bất ngờ quá. Như hòn ngói rơi xuống đầu mình…

Cái bắt tay của Pa-ven thì lạnh nhạt. Đôi mắt anh ngầm nảy lửa. Anh còn kịp nhận ra trên tay áo cán bộ quân đội của Đa-vit có bốn gạch.

Ri-ta chưa nói, thì Pa-ven cướp lời ngay:

- Tôi chạy đến báo cho Ri-ta biết là hôm nay tôi bận tham gia dỡ gỗ ở ngoài bến. Để Ri-ta khỏi phải chờ tôi... Hơn nữa, hôm nay Ri-ta lại có khách. Thôi, tôi đi kẻo anh em đang đợi ở dưới chân thang.

Pa-ven đến một cách đột ngột và cũng đột ngột biến đi ngay. Tiếng chân anh chạy nhanh thoăn thoắt xuống cầu thang. Cửa đóng lại kêu đánh rầm một cái. Rồi lại im phăng phắc.

Trước cái nhìn ngạc nhiên của Đa-vít, Ri-ta nói một giọng không vững lòng lắm:

- Chắc anh ấy có chuyện gì đây.

…Dưới gầm cầu, chiếc đầu tàu thở hồng hộc, lồng ngực rắn chắc của nó phun ra hàng đàn đom đóm loé vàng. Vòng đom đóm muôn hình, muôn vẻ tung lên và tắt biến đi trong khói cuộn.

Pa-ven đứng dựa lưng vào lan can cầu, nhìn những đèn hiệu nhiều màu nhấp nháy trên ngã ba đường. Anh nhắm mắt lại.

Anh tự mình mỉa mai hỏi mình:

"Đồng chí Pa-ven ơi, dù thế nào đi nữa, không hiểu cớ sao đồng chí lại thấy lòng đau đớn đến như thế khi biết Ri-ta đã có chồng kia chứ? Có khi nào Ri- ta nói với đồng chí là Ri-ta chưa chồng đâu? Mà dù có nói chăng nữa, thì đã sao? Cớ sao đồng chí lại bực dọc? Thôi, xin đồng chí thân mến, đồng chí đã chẳng cho là giữa hai người chỉ có tình bạn, tình đồng chí cùng chung lý tưởng và chỉ có thế thôi đấy ư? Thế thì cớ sao đồng chí lại...? Và nhỡ người đó không phải là chồng Ri-ta? Đa-vít Uốt-chi-nô-vích (Uốt chi-nô-vích là tên họ của Ri-ta. Ở Liên Xô, cha con, anh em, chú cháu, vợ chồng đều lấy một tên họ trùng nhau. Nghe qua tên Đa- vít Uốt chi-nô-vích có thể hiểu là anh hay chú, và cũng có thể là chồng, cho nên Pa-ven thắc mắc) có thể là anh hay là chú Ri-ta… Nếu như thế thì hóa ra, chàng ngố ạ, anh đã giận oan người ta. Rõ ràng đồng chí cũng chỉ là một đứa nhỏ nhen như những đứa đàn ông khác. Có phải anh Ri-ta hay không, chuyện đó cũng dễ biết thôi. Nhưng nếu là anh hay là chú, thì đồng chí sẽ ăn nói với Ri-ta ra sao về thái độ của mình? Không ! Từ nay trở đi, đừng có đến gặp Ri-ta nữa!".

Còi tàu rú lên, ngắt luồng ý nghĩ của Pa-ven. "Muộn rồi. Nghĩ vẩn vơ mãi ! Đã đến giờ về !".


Ở xóm Xô-lô-men-ca (tên gọi khu công nhân đường sắt ở) năm thanh niên lập nên một tiểu công xã. Xã viên gồm có Giác-ki, Pa-ven, một thanh niên Tiệp tóc hoe, vui tính tên là Cơ-la-vi-sếch, Ô-cu-nhép và đồng chí A-chu-khin, bí thư chi đoàn đoạn đầu máy kiêm nhân viên Ban đặc biệt ngành đường sắt; cách đây không lâu, đồng chí ấy còn là thợ đốt lò ở xưởng trung tu đầu máy.

Họ kiếm được một căn phòng, rồi ba ngày liền, cứ đi làm về là họ lau chùi, quét tước, quét lại vôi. Tiếng xô xách nước loảng xoảng ầm ĩ khiến lắm lúc hàng phố tưởng là chữa cháy. Họ đóng phản nằm, lấy lá khô ngoài công viên nhồi vào bao làm đệm. Sang đến ngày thứ tư thì họ treo lên tường bức chân dung Pê- tơ-rốp-ski (Một cán bộ lâu năm của Đảng hồi đó làm Chủ tịch toàn U-cơ-ren) và một bản đồ lớn. Gian phòng bóng lộn, trắng tinh.

Giữa hai cửa sổ gian phòng là giá xếp đầy sách. Hai hòm gỗ không lót bìa dày thay nệm dùng làm ghế ngồi, hòm nữa to hơn làm tủ. Giữa phòng có kê một bàn bi-a thật rộng, do các xã viên lấy lưng ra khiêng đến: mặt bàn dạ lót màu xanh đã bị bóc đi rồi, bàn ấy ban ngày dùng làm bàn viết, ban đêm là giường ngủ của Cơ-la-vi-sếch. Tất cả của riêng tây của mỗi người đều đem đến đây. Cơ-la-vi-sếch tính rất tỉ mẩn, đã làm bản kiểm kê tài sản của công xã, định treo lên tường, nhưng bị anh em phản đối rầm rầm lại thôi. Trong phòng cái gì cũng thành của chung. Tiền lương tháng, thực phẩm được cấp phát và cả những quà bà con thân thích gửi cho đều đem chia đều. Chỉ có vũ khí thì được coi là của riêng mà thôi. Các xã viên nhất trí quyết nghị: ai vi phạm nội quy tài sản công cộng và bất tín với anh em thì bị khai trừ ra khỏi công xã. Ô-cu-nhép và Cơ-la-vi-sếch còn nèo ghi thêm: và bị đuổi ra khỏi nhà này.


Hôm ăn mừng thành lập công xã, tất cả cán bộ Đoàn ở khu phố công nhân đường sắt đều đến dự. Mượn hàng xóm được một ấm pha chè gộc và cho ra hết cả số đường dự trữ. Anh chị em làm xong tuần trà thì hát đồng ca vang lên.

Thế gian này nước mắt tràn đầy
Đời chúng ta nhục nhằn, lao khổ.
Nhưng rồi nhất định sẽ đến ngày. . .


Ta-li-a, nữ công nhân xưởng thuốc lá, chỉ huy ban đồng ca. Khăn trùm sợi đỏ tuột ra bên đầu, chị có đôi mắt của trẻ em tinh nghịch. Chưa ai được ghé sát nhìn gần vào cặp mắt ấy. Cái cười của Ta-li-a làm ai cũng vui lây. Cô thợ làm hộp này nhìn đời qua tuổi trẻ đang nở hoa, nhìn đời trên bậc thang của tuổi mười tám. Tay Ta-li-a đánh nhịp vung lên và điệp khúc vang như tiếng kèn đồng.

Bài ca ta bay xa, bay khắp bốn phương
Ngọn cờ ta phấp phới khắp thế gian,
Đấy là máu đào của ta rực cháy
In trên cờ đỏ thắm sáng chói...


Khuya lắm họ mới chia tay ra về. Tiếng hát chia tay vang lên rộn rã làm mất giấc hàng phố đang yên ngủ.

Giác-ki choài tay ra với ống nghe dây nói. Trong phòng đồng chí bí thư phụ trách này, anh chị em đoàn viên đứng chật, chuyện ồn ào. Giác-ki phải kêu lên:

- Các cậu ơi! Khẽ một chút, chẳng còn nghe thấy gì cả.

Tiếng chuyện trò hạ thấp hẳn giọng xuống.

- Tôi nghe đây. Đồng chí đấy à? Vâng, vâng. Ngay bây giờ. Chương trình họp à? Vẫn vấn đề ấy: vấn đề dỡ củi ngoài bến? Không, cậu ta không đi công tác đâu cả. Đang ở đây. Có muốn gọi cậu ta không? Được chờ nhé!

Giác-ki vẫy gọi Pa-ven: - Nữ đồng chí Ri-ta Uốt-chi-nô-vích hỏi cậu. Và anh chuyển ống nghe cho Pa-ven.

- Ri-ta cứ tưởng là Pa-ven không có đấy. May quá, tối nay Ri-ta không bận. Đến nhé. Hôm trước anh Ri-ta đi qua rẽ vào chơi, anh em đã hai năm nay mới gặp nhau đấy.

Hóa ra là anh Ri-ta!

Pa-ven không còn để tai nghe Ri-ta nói những gì nữa. Anh nghĩ đến buổi tối hôm ấy, nghĩ đến điều mà lòng anh đã quyết định lúc đứng trên cầu. Ừ, ngay hôm nay, phải đến gặp Ri-ta và tuyên bố cắt đứt. Tình yêu bắt phải nghĩ ngợi nhiều và gây ra khá là đau đớn cho lòng. Lúc này không phải là lúc nghĩ đến yêu.

Tiếng bên kia ống nói: - Sao thế ? Pa-ven không nghe rõ Ri-ta nói phải không?

- Có đang nghe. Đồng ý. Họp xong sẽ đến. Nói rồi, bỏ ống nói xuống.  

Pa-ven nhìn thẳng vào mắt bạn, tay bám chặt mép chiếc bàn gỗ sên và nói:

- Chắc chắn là tôi không thể tiếp tục đến với Ri- ta được nữa đâu.

Hàng lông mi dày của người bạn gái đập đập vào nhau. Chiếc bút chì trên tay đang lướt trên trang giấy bỗng ngừng lại và ngả xuống nằm yên trên cuốn vở để mở.

- Sao thế ?

- Thời giờ mỗi lúc một khó thu xếp quá. Ri-ta cũng biết đấy: càng ngày công tác càng gay. Bỏ học cũng đáng tiếc lắm, nhưng đành phải gác lại...

Pa-ven cảm thấy lời nói về cuối mình thiếu bề chắc chắn. Anh nghĩ thầm:

"Sao lại nói quanh thế Ra mi chẳng có can đảm lấy tay đấm thẳng một cái vào trái tim mi ư?"

Nghĩ thế, Pa-ven nói tiếp, giọng quả quyết hơn:

- Ngoài ra, từ lâu đã định nói với Ri-ta là Pa-ven nghe Ri-ta giảng thật ra không hiểu lắm đâu. Khi học với Xê-gan thì trong đầu nhớ được hết. Còn với Ri-ta thì Pa-ven học không có kết quả. Cứ mỗi lần nghe Ri-ta giảng xong, Pa-ven lại phải tìm đến hỏi đồng chí Tô-ca-rếp. Đầu óc Pa-ven chẳng chịu làm việc nữa. Ri-ta nên tìm một người học trò vào sáng dạ mà giúp thì hơn.

Và Pa-ven quay đi để tránh cái nhìn chằm chằm của bạn. Anh nói thêm, nhất quyết:

- Cho nên, chúng ta không nên tiếp tục làm mất thì giờ chung của cả hai người.

Pa-ven đứng dậy, chân nhẹ nhàng đẩy lùi chiếc ghế, mắt nhìn xuống đầu Ri-ta đang cúi gục; ánh đèn soi rõ mặt Ri-ta tái nhợt đi. Pa-ven đội mũ cát- két lên đầu:

- Thôi, từ biệt đồng chí Ri-ta nhớ. Tiếc rằng lâu nay đã làm phiền Ri-ta. Đáng lẽ phải nói với Ri-ta ngay từ lâu rồi. Đấy là lỗi của Pa-ven.

Ri-ta đưa tay ra bắt. Vẻ lạnh nhạt không ngờ của Pa-ven làm chị lặng đi. Chị chỉ còn nói được mấy tiếng:

- Pa-ven ạ, Ri-ta không oán trách gì Pa-ven hết. Ri-ta đã không làm cho Pa-ven hiểu Ri-ta, thì Ri-ta đành phải chịu lấy điều xảy ra hôm nay.

Chân Pa-ven bước ra nặng nề. Anh lặng lẽ khép cửa lại, rồi đi ra. Đến cổng, anh đứng lại suy nghĩ: "Có lẽ nên trở lại chăng? Nói cho Ri-ta hiểu... Nói để làm gì cơ chứ? Để nhận một lời khinh bỉ đốp vào mặt và lại bước ra cổng như thế này ư? Không!"

Trên các ngả đường sắt vào nhà kho đoạn đầu máy, những toa tàu xơ xác, những đầu tàu lạnh ngắt nằm lổng chổng trông y như những bãi tha ma. Gió lùa vào thổi bay mù mạt cưa trong nhà kho chứa gỗ từ nay bỏ trống không.

Bọn phỉ của tên O-rơ-lích đang như thú dữ rình mồi quanh thị trấn. Chúng men theo những khe sâu, men theo các lối mòn trong rừng. Ban ngày lũ phỉ nghỉ chân trong những bản lân cận, náu mình trong nhà của bọn chủ trại nuôi ong giàu có, đêm đến chúng mò ra các ngả đường sắt, lấy nanh vuốt cào cấu bóc đi từng mảng đường ray; khi đã làm xong cái trò ghê tởm ấy, chúng lại bò về thu mình trong sào huyệt.

Thường có những chuyến tàu bị lăn nhào xuống chân dốc nền đường, những toa xe bật tung lên vỡ tan tành, đè bẹp gí những hành khách còn đang ngon giấc; những hạt lúa mì quý đổ vãi ra mặt đường, trộn lẫn với máu và đất.

Bọn phỉ tấn công những thị trấn thanh bình trong tổng. Đàn gà mái hoảng sợ, kêu quang quác, chạy túa ra khắp ngả. Một tiếng súng nổ vang trước ngôi nhà trắng của trụ sở Xô-viết tổng, nghe như những cành khô kêu răng rắc dưới chân người. Bọn phỉ cưỡi những con ngựa béo tốt, chạy sục sạo khắp bản làng, gặp người là chém ngay. Chúng vung kiếm vun vút, chém như bổ củi. Súng nổ thưa thớt: chúng còn để dành đạn.

Lũ phỉ hiện ra rất nhanh, rồi cũng biến đi rất nhanh. Bọn chúng có tai mắt rình mò khắp nơi. Những cặp mắt cú vọ ấy đã nhìn như xoáy vào trụ sở Xô-viết tổng mà lão thầy tu và bọn cu-lắc thường rình mò. Có những đường dây liên lạc vô hình từ đấy đến tận đám rừng rậm. Đạn dược, những súc thịt lợn tươi, những chai rượu mạnh xanh xanh đều được lén lút chở vào đấy. Cả tin tức cũng thậm thụt thì thầm truyền đến tai những tên tiểu đầu lĩnh, rồi qua một mạng lưới thông tin phức tạp hơn, đến tận tai tên trùm O-rơ-lích.

Đám phỉ này tất cả chỉ gồm vẻn vẹn độ hai ba trăm tay chuyên môn chặt đầu người, nhưng chia ra đến mấy toán hoạt động cùng một lúc ở hai ba huyện. Ta vẫn chưa tóm được chúng vì không sao theo dõi được chúng. Ban đêm, nó làm phỉ, ban ngày nó lại khoác áo nông dân hiền lành, loay hoay làm lụng ở sân, cho ngựa ăn và kéo tẩu thuốc. Đứng trước thềm nhà chúng nhếch mép cười thầm, đưa mắt lấm lét nhìn theo những đội kỵ binh tuần tra đi lùng dõi chúng.

Pu-dư-rếp-ski lâu nay mất cả nghỉ, mất cả ngủ: đồng chí đã chỉ huy cả trung đoàn của mình phi ngựa lùng khắp ba huyện. Đồng chí không biết mệt, kiên tâm lùng riết lũ giặc, đôi khi đã nắm được đuôi của bọn chúng.


Trong vòng một tháng tên phỉ O-rơ-lích phải rút bọn lâu la của nó ra khỏi hai huyện. Nó bị ép trong một vòng vây khép chặt đang giãy giụa. Trong thành phố, dòng đời cứ trôi xuôi như thường lệ. Khắp năm khu chợ người lúc nhúc đông nghìn nghịt, tiếng huyên náo rào rào, ầm ĩ. Hai xu hướng ngự trị ở nơi đây: kẻ bán muốn bán giá cắt cổ, người mua muốn mua giá hời nhất. Bọn bịp bợm đủ loại tha hồ mà trổ tài đánh xoáy. Có đến hàng trăm dứa lùi lùi rình mò như một đàn rệp, cử chỉ nhanh thoăn thoắt, cứ nhìn mắt chúng, người ta có thể biết được đủ mọi tính tình, trừ bản chất làm ăn lương thiện. Cả lũ cặn bã của thành phố đều tụ tập ở đây như bu vào một đống phân với mục đích duy nhất: "xoay" của những ai lớ ngớ mới đến. Những chuyến tàu thưa chạy đến như khạc ra bên đường hàng đám người tay xách, lưng đeo nặng trĩu những bao với bị. Bọn họ đều đi đến các ngả chợ này.

Chiều tối, chợ nào cũng vắng tanh. Những phố buôn bán, những dãy cửa hàng tối om, trông chẳng khác gì những phố hoang. Họa hoằn mới có những tay cứng bóng vía ban đêm dám mạo hiểm đi vào khu phố chết này, nơi đây mỗi căn phố lặng ngắt đều như có quân bất lương nấp sẵn và sắp sửa xồ ra hăm dọa. Đêm đêm lại hay có tiếng súng nổ đánh đẹt một cái nghe như tiếng búa đập vào mảnh tôn, rồi có tiếng người kêu ú ớ, máu sặc trong họng. Và chờ cho đến lúc mấy anh công an ở các đồn gần đấy cùng chạy đến (họ không dám đi từng người một) thì ngoài cái xác người còn đang giãy chết ra chẳng còn thấy bóng một ai. Bọn giết người đã đi xa rồi và tiếng nổ làm những người còn đi chơi đêm lánh cho xa khu phố chợ. Phía trước là rạp chiếu bóng "Ô-ri-ông" ánh điện dãi trên đường phố và vỉa hè, công chúng đang chen chúc nhau ở đấy.

Trong rạp máy chiếu phim lẹt xẹt. Trên màn ảnh, những cặp tình nhân bất hạnh giết lẫn nhau, và mỗi lần phim đứt, người xem lại la ó dữ dội.

Ở khu trung tâm và ở các ngoại ô, cuộc sống xem ra như không đi chệch vết xe cũ, và ngay ở Tỉnh ủy, nơi đầu não của chính quyền cách mạng này, mọi sự vẫn trôi theo dòng thường lệ. Song đấy chỉ là vẻ yên tĩnh bề ngoài.

Cơn bão táp đang chín mùi, sắp nổ ra giữa thành phố.

Có nhiều kẻ biết cơn bão táp sắp đến: chúng là những kẻ từ các nơi kéo lên tỉnh, giấu không kín khẩu súng trường trong tà áo dài nông dân. Chúng còn là những đứa giả dạng làm bọn con buôn đầu cơ lương thực ngồi trên mái các toa xe lửa đến đây, đáng lẽ đi tới chợ, lại mang những bao bị ấy đến những địa chỉ mà chúng nhớ như in trong óc.

Bọn chúng thì biết rõ, còn các xóm thợ và ngay cả những người bôn-sê-vích thì lại không hay gì về cơn giông tố đang kéo đến gần.

Trong thành phố, chỉ có năm người bôn-sê-vích là nắm vững tình hình chuẩn bị làm loạn của lũ phản động.

Tàn quân Pết-lu-ra bị Hồng quân đuổi chạy sang nước Ba Lan trắng đã câu kết chặt chẽ với các phái đoàn nước ngoài ở Vác-xô-vi, chuẩn bị tham gia vào cuộc nổi loạn đã dự định.

Số tàn dư của các trung đoàn Pết-lu-ra được bí mật lập thành đội xung kích.

Bọn đầu sỏ phiến loạn của chúng cũng có bộ phận ở Sê-pê-tốp ca nữa, gồm bốn mươi bảy tên, phần lớn là những tên tích cực phản cách mạng mà trước đây ủy ban đặc biệt địa phương vì cả tin, nên đã tha bổng chúng.

Tổ chức này đo lão cố Vát-xi-li, lão chuẩn úy Vin- ních và lão võ quan của bọn Pết-lu-ra là Cu-mên-cơ cầm đầu. Hai đứa con gái lão cố, em và bố tên Vin- ních và cả lão Xa-mô-tư-nha đã len lỏi được vào ủy ban hành chính sở tại làm chân thư ký chép công văn, tiến hành do thám lượm tin cho chúng.

Bọn phiến loạn đã quyết định trong đêm khởi sự sẽ ném lựu đạn vào phân đồn công an biên phòng đặc biệt, đánh tháo tù và nếu có thể được thì chiếm nhà ga.

Giữa khu phố lớn, trung tâm của cuộc nổi loạn sắp tới chúng đang hết sức bí mật tập trung bọn sĩ quan lại. Trong khi đó thì bầy thổ phỉ cũng tụ tập ở những khu rừng lân cận ngoại ô. Từ những khu rừng ấy, chúng phái những tay chân tin cậy của chúng sang Ru-ma-ni và đến tận nơi báo cáo với đích thân Pết-lu-ra.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2012 19:37:50 | Chỉ xem của tác giả
Giu-khơ-rai làm việc ở ủy ban đặc biệt (Ủy ban đặc biệt, một cơ quan vừa là công an, vừa là tình báo còn được gọi là công an đặc biệt nữa) quân khu chống phản cách mạng. Đêm này nữa là sáu đêm ròng anh thức trắng chưa hề nhắm mắt lấy một phút. Anh là một trong năm người bôn- sê-vích biết rõ mọi chuyện. Giu-khơ-rai có cảm giác như người đi săn đã dõi thấy vết chân con thú dữ giữa lúc nó sắp nhảy xổ ra cắn.

Song biết mà không thể kêu lên, không thể báo động được. Phải đập chết con ác thú. Có đập chết tươi nó, mới có thể yên ổn làm ăn được, đi đâu khỏi phải nơm nớp nhìn từng bụi rậm. Cần nhất đừng làm cho con thú dữ kia kinh động. Trong trận tử chiến này, chiến sĩ phải có trí sáng suốt, lòng kiên tĩnh và cánh tay vững mạnh mới đảm bảo được thắng lợi.

Ngày ấy, giờ ấy sắp đến nơi rồi.

Tại một nơi nào đó ở thành phố, trong ngóc ngách của tổ chức bí mật của chúng, bọn chúng đã họp kín với nhau quyết định: đêm mai.

Nhưng năm người bôn-sê-vích biết chuyện đã trù tính chặn trước. Không, phải ra tay ngay hôm nay, ngay đêm nay.

Lúc tối, một chuyến xe lửa bọc sắt lặng lẽ không kéo còi, từ từ chạy ra khỏi nhà ga, và xe vừa ra khỏi, cổng lớn nhà kho khép ngay lại, im ắng như không.

Các đường dây điện báo trực tiếp hối hả truyền những bức mật điện; những hàng chữ số đó bay đến đâu là bộ đội biên phòng ở đấy quên cả ngủ, tróc cho tiệt ổ thú dữ.

A-kim gọi dây nói cho Giác-ki.

- Các hội nghị chi bộ đã triệu tập xong chưa? Thế nào? Tốt. Đồng chí cùng với đồng chí bí thư Đảng ủy khu phố lại họp ngay nhớ. Vấn đề tiếp tế củi thế mà trầm trọng hơn ta tưởng đấy. Đến đây ta sẽ bàn - Giác-ki nghe xong câu nói nhanh, với giọng quả quyết của A-kim, vừa đặt ống nói xuống vừa càu nhàu: - Vẫn vấn đề củi. Còn là điên đầu với nó.

Hai người bí thư Đảng và Đoàn từ trong chiếc xe của anh lái Lít-kê bước ra. Lên đến tầng hai, họ hiểu ngay không phải vấn đề củi.

Một khẩu súng máy "Mác-xim" nằm trên bàn giấy đồng chí phụ trách. Các chiến sĩ súng máy của đơn vị đặc công đang tíu tít chung quanh. Ngoài hành lang, những đảng viên và đoàn viên trung kiên của thành phố lặng lẽ đứng gác. Trong phòng làm việc của đồng chí bí thư Tỉnh ủy, cuộc họp bất thường của ban thường vụ sắp sửa kết thúc.

Đường dây từ ngoài phố mắc qua cửa sổ con nối với hai máy nói kiểu dùng khi hành quân.

Người ta thì thầm nói chuyện với nhau. Giác-ki gặp A-kim, Ri-ta và Mi-khai-lô ở trong phòng. Ri-ta mặc quân phục, như hồi còn làm chính trị viên đại đội: mũ Bu-đi-on-ny, váy ka-ki, thắt lưng đeo súng "Mô-de" nặng trĩu.

Giác-ki sửng sốt hỏi: - Thế này nghĩa là thế nào?

Ri-ta nói cho anh biết: - Tập báo động đấy, Giác-ki ạ. Chốc nữa, tất cả sẽ đến khu phố đồng chí. Có hiệu lệnh là tập hợp ở Trường Lục quân thứ năm. Anh chị em họp chi bộ xong thì cứ đến thẳng đấy ngay. Chủ yếu là tập hợp thế nào cho không ai để ý đến mình.

Im lặng bao trùm khu rừng "Học sinh quân". ( Thời trước ở đây có trường "Học sinh quân" của chính phủ Nga hoàng nên gọi là rừng "Học sinh quân")

Hàng cây sên đại thụ đứng yên không lay động. Mặt nước ao tù phủ đầy những mảng bèo đang yên ngủ. Những lối đi rộng kín cỏ. Giữa rừng, sau bức tường trắng cao là những tòa nhà của trường "Học sinh quân" trước kia, ngày nay là Trường Lục quân thứ năm của Hồng quân. Đêm đã khuya. Từng nhà trên không thắp đèn sáng. Đứng ngoài trông vào có vẻ tịch mịch lắm. Ai qua đây cũng tưởng trong mấy tòa nhà này mọi người đang ngủ say. Song nếu ngủ thì tại sao hai cánh cửa đúc bằng gang nặng trình trịch lại mở toang ra và ngoài của có hai đống đứng lù lù như hai con cóc khổng lồ thế ? Người ở khắp các ngả trong khu công nhân đường sắt kéo đến đều biết rằng có báo động đêm thì trong trường chẳng ai ngủ đâu. Từ những cuộc họp chi bộ Đảng, sau khi được nghe chỉ thị vắn tắt, họ liền đi thẳng đến đây, lẳng lặng, không trò chuyện. Họ đi từng người một hay từng đội, nhưng không quá ba người, trong túi người nào cũng có chứng minh thư trên đề "Đảng cộng sản bôn-sê-vích" hoặc "Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ- ren". Có chìa một trong hai giấy chứng nhận đó mới qua được hai cánh cửa đúc bằng gang này.

Trong phòng họp lớn, người đã đông. Gian phòng này thắp đèn sáng. Vải bạt che kín các cửa sổ. Những người bôn-sê-vích họp mặt ở đây nói đùa nhau rằng cách tập báo động này có vẻ công thức. Họ thản nhiên hút thuốc như không có chuyện gì xảy ra. Không ai cảm thấy có biến cả. Ai cũng tưởng tập hợp lại như thế chỉ là để kiểm tra tinh thần kỷ luật của các đơn vị công tác đặc biệt mà thôi. Song những cựu chiến binh dày kinh nghiệm hơn, vừa bước chân vào cổng trường Lục quân, đã cảm thấy ngay có một cái gì hoàn toàn không phải là tập báo động cả. Mọi việc đều tiến hành một cách quá lặng lẽ. Theo tiếng hô khe khẽ, từng trung đội học viên sĩ quan im lặng xếp thành hàng ngũ , và súng máy xách tay, họ tiến ra ngoài đường. Ở ngoài nhìn vào, không một ngôi nhà nào có chút ánh đèn.

Pa-ven đến gần Đu-ba-va, khẽ hỏi: - Có gì nghiêm trọng không, Đu-ba-va?

Đu-ba-va đang ngồi ở thành cửa sổ, cạnh một cô con gái mà Pa-ven chỉ mới thoáng gặp ở nhà Giác-ki hôm kia. Nghe hỏi, Đu-ba-va vỗ vai Pa-ven nói đùa:

- Thế ra cậu lo mất hồn rồi à? Chẳng ngại gì đâu! Rồi chúng mình sẽ dạy cậu đánh nhau. À, cậu không quen cô này hay sao? - Đu-ba-va hất đầu chỉ về phía thiếu nữ kia: - Đây là cô An-na. Họ gì, mình không biết, còn chức vụ: phụ trách cơ sở tuyên truyền.

Thiếu nữ nghe lời giới thiệu tinh nghịch của Đu- ba-va, đưa mắt nhìn kỹ Pa-ven. Cô vuốt lại mái tóc tuột ra ngoài khăn quàng màu hoa cà.

Cặp mắt cô bạn mới bắt gặp mắt Pa-ven. Nhìn nhau không nói mấy giây. Đôi mắt cô bạn đen xanh, ánh lên, hơi kiêu kỳ dưới hàng mi dày mượt. Pa-ven quay sang nhìn Đu-ba-va. Cảm thấy mặt mình đỏ lên, Pa- ven bực mình cau mày và cố nhếch mép mỉm cười, hỏi cô bạn mới:

- Vậy thì trong hai đồng chí, ai là người đang tuyên truyền thuyết phục ai?

Giữa lúc ấy, trong phòng họp có tiếng ồn ào. Đại đội trưởng trèo lên ghế, hô lớn:

- Các đảng viên cộng sản thuộc đại đội thứ nhất! Sắp đội ngũ trong phòng này ! Mau lên, các đồng chí, mau lên !

Vừa lúc ấy, Giu-khơ-rai, đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh (Ban chấp hành tỉnh giống như Ủy ban tỉnh. Hồi đó ở Liên-xô chính quyền từ Trung ương trở xuống đều gọi là Ban chấp hành) và A-kim bước vào. Cả ba vừa mới tới đây. Gian phòng chật ních người đứng sắp thành hàng.

Đồng chí chủ tịch bước lên chỗ đặt khẩu súng máy thường ngày dùng để tập, giơ tay lên, cất tiếng nói:

- Các đồng chí, hôm nay chúng ta họp nhau ở đây vì một công việc rất khẩn trương. Việc đó đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao. Bây giờ thì tôi có thể nói ra điều mà hôm qua chưa thể nói được, vì đấy là một bí mật quân sự quan trọng. Đêm mai, trong thành phố này và các thành phố khác của U-cơ-ren sẽ nổ ra cuộc nổi loạn của bọn phản cách mạng. Thành phố đã đầy rẫy bọn võ quan trắng. Lũ phỉ đã tập trung quanh thành. Một bộ phận của bọn phiến loạn ấy đã chui vào tiểu đoàn thiết giáp của ta làm chân lái xe. Ủy ban đặc biệt của ta đã khám phá ra vụ này và hôm nay, chúng tôi huy động tất cả tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản tới đây để vũ trang đi dẹp phiến loạn. Tiểu đoàn cộng sản thứ nhất và thứ hai sẽ cùng phối hợp hành động với các đơn vị học sinh sĩ quan và Ban đặc biệt đã từng quen chiến đấu. Học viên sĩ quan đã đi trước rồi. Giờ đến lượt các đồng chí. Các đồng chí có mười lăm phút để nhận vũ khí và xếp đội ngũ cho xong. Đồng chí Giu-khơ-rai đây sẽ chỉ huy chiến đấu. Các đội trưởng sẽ nhận chỉ thị cụ thể ở đồng chí Giu-khơ-rai. Tôi thiết tưởng không cần nói nhiều với tiểu đoàn cộng sản ta đây về tính chất nghiêm trọng của giờ phút này. Cuộc phiến loạn sắp nổ ngày mai, chúng ta phải bóp chết nó ngay hôm nay.

Mười lăm phút sau, toàn tiểu đoàn đã vũ trang đầy đủ đội ngũ chỉnh tề đứng trong sân trường.

Giu-khơ-rai đưa mắt nhìn những hàng người đứng im.

Đứng trước, cách hàng ba bước, hai người nai nịt gọn gàng: tiểu đoàn trưởng Mê-nhay-lô, vóc người to lớn, vốn làm nghề thợ đúc ở U-ran, và bên cạnh là A-kim làm chính ủy. Bên trái, những trung đội thuộc đại đội thứ nhất. Trước đại đội hai bước là đồng chí đại đội trưởng và đồng chí chính trị viên. Sau lưng họ, những hàng quân im lặng của tiểu đoàn cộng sản. Ba trăm tay súng.

Giu-khơ-rai ra hiệu lệnh:

- Đến giờ rồi! Tiến lên, bước!


Ba trăm chiến sĩ tiến bước vào các ngả phố vắng tanh.

Thành phố đang ngủ yên.

Tiểu đoàn dừng chân tại phố Lơ-vốp, ngay chỗ đối diện với phố Đi-cai. Bắt đầu hành động từ địa điểm này.

Các khối nhà đều bị bao vây một cách lặng lẽ. Cơ quan tham mưu đóng ngay trên thềm một cửa hiệu.

Một chiếc ô-tô từ khu trung tâm đổ xuống, xuôi dọc con đường Lơ-vốp, đèn pha rọi lên hè phố. Chiếc xe đỗ xịch trước cơ quan tham mưu.

Anh thanh niên Guy-gô, con trai Lít-kê, lẩn này lái xe đưa cha tới. Cha anh là tư lệnh đơn vị bảo vệ thành phố. Ông nhảy xuống đường nói với con mấy câu vắn tắt bằng tiếng Lét-tô-ni. Chiếc xe lại nhảy chồm lên phía trước và trong nháy mắt đã biến vào lối rẽ sang phố Đơ-ni-tơ-rép. Guy-gô mắt nhìn không chớp, hai tay như gắn chặt vào tay lái, ngoặt sang phải, ngoặt sang trái.

Cái tính lái xe táo bạo của Guy-gô thế mà cũng có lúc được việc! Chẳng ai còn có ý muốn bắt phạt giam anh hai đêm vì cái tội cầm lái điên cuồng này nữa.

Và Guy-gô bay khắp phố phường như một trận cuồng phong.

Guy-gô đưa Giu-khơ-rai thoắt từ đầu này thành phố, trong nháy mắt đã vụt đến đầu kia thành phố, làm cho Giu-khơ-rai cũng phải khen:

- Guy-gô ạ, nếu đêm nay không chẹt phải ai thì mai cậu sẽ được thưởng một chiếc đồng hồ vàng.

Guy-gô mừng quýnh, đáp lại bằng giọng Lét-tô- ni lơ lớ của anh:

- Em thì cứ tưởng là em đến phải ngồi tù mười ngày vì cái tội lái bạt mạng này mất.

Những đòn đầu tiên nhằm giáng vào tổng hành dinh bọn phiến loạn. Những tên bị bắt và những tài liệu thu được đưa ngay đến Ban đặc biệt.

Trên phố Di-cai, ở ngõ cũng mang cái tên lạ lùng ấy tại nhà số 1 có một đứa tên là Xuy-béc. Căn nhà nó ở có cửa sổ nhìn ra một khu vườn, vườn này chỉ cách có bức tường ngăn với ngôi nhà trước kia là nhà tu kín. Lúc quân ta đến thì căn nhà không có ai ở đấy. Láng giềng nói là hôm ấy Xuy-béc không về nhà. Khám trong nhà thì thấy có một hòm lựu đạn cùng với bản danh sách có kèm địa chỉ. Đồng chí Lít-kê hạ lệnh phục kích sẵn ở những địa chỉ ấy, còn mình thì đứng lại bên bàn một phút xét qua những tài liệu tìm được.

Người đứng gác ở trong công viên là một học viên sĩ quan trẻ tuổi. Cậu ta trông thấy rõ cửa sổ có ánh sáng. Đứng ở trong góc này, có một mình thôi, chẳng thú tí nào; cậu thấy ngài ngại. Người ta ra lệnh cho cậu gác bức tường bao phủ khu vườn. Nhưng từ chỗ tường đến chỗ ánh sáng yên ổn ở cửa sổ kia còn xa lắm. Hơn nữa, mặt trăng quái ác kia lại cứ bị mây che mờ luôn. Trong bóng tối, bụi cây nào cũng như có người trong ấy. Cậu học viên sĩ quan lấy lưỡi lê dò dẫm quanh mình: chẳng có gì cả.

"Sao lại đặt mình gác ở đây? Tường cao thế thì ai mà leo vào được kia chứ. Thôi mình lại gần cửa sổ ngó vào xem cái đã !". Nghĩ thế, cậu ta nhìn đầu tường cao chót vót một lần nữa, rồi bước khỏi góc tối sặc mùi ẩm mốc ấy. Cậu dừng lại bên cửa sổ một lát. Đồng chí Lít-kê thu nhặt nhanh những giấy tờ và định bước ra khỏi phòng. Giữa lúc đó trên đầu tường hiện ra một bóng đen. Bóng đen đó từ trên tường nhìn thấy rõ người đứng gác trước cửa sổ và cả người đang đứng ở trong phòng. Nhẹn như một con mèo, nó chuyền sang một ngọn cây rồi bò xuống đất, rón rén đến chỗ anh lính gác, tay nó vung lên và anh học viên sĩ quan quỵ xuống. Lưỡi đoản kiếm cắm phập vào cổ người gác lút đến tận cán.

Tiếng súng nổ giữa khu vườn đập vào tai các chiến sĩ đang vây quanh khu phố như một luồng điện giật.

Sáu người lộp cộp chạy đến.

Đồng chí Lít-kê đã chết, xác ngã trong chiếc ghế bành, đầu đẫm máu gục trên bàn. Kính cửa sổ vỡ toang. Kẻ địch không có thời giờ lấy lại tài liệu.

Tiếng nổ tới tấp vang lên ở chân tường khu nhà tu kín. Hung thủ đã nhảy ra phố và chuồn về khoảng đất trống ở đường Lu-ki-an, vừa chạy hắn vừa bắn trở lại. Nhưng thoát sao được: một viên đạn của ta đã bắn theo trúng.

Khám xét suốt đêm. Hàng trăm người không có tên trong danh sách hộ khẩu, nhưng có vũ khí và những tài liệu khả nghi trong người, đã bị giải đến Ban đặc biệt, ở đây có bộ phận chuyên môn tra xét.

Ở một vài chỗ bọn phiến loạn đã dùng vũ trang kháng cự. Ở phố Gi-liên, đồng chí An-tô-sa bị chúng bắn chết giữa lúc ta đang khám xét một nhà.

Tiểu đoàn Xô-lô-men-ca đêm ấy mất đi năm chiến sĩ. Ban đặc biệt mất đồng chí Lit-kê, lão đồng chí bôn-sê-vích, người lính gác trung thành và mẫn cán của nước cộng hòa.

Âm mưu phiến loạn đã bị chặn đứng.

Cũng đêm ấy Ở Sê-pê-tốp-ca, lão cố Vát-xi-li, hai con gái và cả bè lũ nhà hắn đã bị bắt.

Tình thế nguy ngập đã dịu dần.

Song một kẻ thù mới lại đe dọa thành phố : thiếu củi, đường xe lửa bị tê liệt, và tiếp sau đó là giặc đói và giặc rét.

Bánh mì và củi sẽ quyết định tất cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2012 20:24:17 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG II

Giu-khơ-rai trầm ngâm suy nghĩ; anh rút tẩu thuốc lá đang ngậm ở miệng ra và khẽ lấy ngón tay sờ vào tàn thuốc. Tẩu đã tắt ngóm.

Chừng mười điếu thuốc lá tỏa khói xám, cuộn khúc trên cao gần những ngọn đèn trần bóng mờ, lượn trên chiếc ghế bành của đồng chí chủ tịch Ban chấp hành tỉnh. Nét mặt những người ngồi quanh bàn trong góc phòng làm việc trông chỉ thấy lờ mờ như bị một làn sương nhẹ bao phủ.

Tô-ca-rếp ngồi cạnh đồng chí chủ tịch Ban chấp hành, ngực tì vào bàn. Ông già bứt chòm râu, cử chỉ đầy vẻ bực tức. Chốc chốc Tô-ca-rếp lại đưa mắt liếc nhìn một tên hói trán lùn tịt: tên này giọng the thé đang nói liến thoắng hàng tràng những câu rỗng tuếch như trứng đã mút hết lòng.

A-kim bắt gặp cái liếc mắt của người thợ nguội già Tô-ca-rếp, cái nhìn đó làm anh nhớ lại thời thơ ấu: hồi đó nhà bố mẹ anh có một con gà chọi, anh thường gọi đùa là "con Móc mắt". Trước khi nhảy xổ vào đối thủ, con gà chọi ấy cũng nhìn như kiểu Tô-ca-rếp đang nhìn bây giờ.

Cuộc họp tỉnh ủy đã kéo dài hơn một tiếng rồi. Tên hói trán là chủ tịch ủy ban vận chuyển gỗ củi. Hắn vừa lấy những ngón tay rất nhẹn lật lật tập giấy, vừa nói thao thao:

- ... Chính vì những lý do khách quan ấy mà quyết nghị của tỉnh ủy và của cục quản lý đường sắt không thể thực hiện được. Tôi xin nhắc lại: dù hạn cho một tháng nữa, chúng tôi cũng không thể cung cấp được hơn bốn trăm thước khối củi gỗ. Còn con số mười tám vạn thước khối mà các đồng chí ấn định thì là... - Tên hói trán nghĩ để tìm ra tiếng muốn nói. - Thì là chuyện không tưởng! - Nói xong hắn mím cái miệng nhỏ xíu mắm môi lại, vẻ bực tức.

Im lặng thấy càng kéo dài.

Giu-khơ-rai lấy móng tay gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi ra. Giọng khàn khàn trong cổ họng Tô-ca-rếp phá tan không khí im lặng:

- Cần quái gì phải nhai đi nhai lại mãi như thế. Anh bảo rằng ở ủy ban vận chuyển gỗ của anh trước đây không sẵn củi, giờ cũng không có nốt và sau này các anh cũng không đào đâu ra được . . . Có phải anh nói thế không?

Tên hói trán nhún vai:

- Xin lỗi đồng chí, củi thì chúng tôi đã trữ sẵn, chỉ phải cái không có xe chở đi. . . - Hắn ho lên một tiếng, lấy khăn tay kẻ ô vuông ra lau cái trán bóng. Lau xong, bàn tay lần mãi không thấy túi áo đâu, hắn bực mình nhét cái khăn vào cặp giấy.

Đê-nhếch-cô từ góc phòng lên tiếng:

- Thế anh đã tìm cách gì để chở củi chưa? Vì từ khi bọn phụ trách chuyên môn dính vào cuộc âm mưu phiến loạn bị bắt đến nay kể đã lâu rồi còn gì!

Tên hói trán quay lại phía Đê-nhếch-cô:

- Tôi đã ba lần báo cáo với cục đường sắt là không có phương tiện vận tải thì không làm ăn gì được...

Tô-ca-rếp ngắt lời hắn:

- Cái đó chúng tôi đều đã nghe lắp đi lắp lại mãi rồi - Tô-ca-rếp hằn học nhìn hắn, giọng bực tức ra mặt - Thế ra anh cho chúng tôi là đồ ngu cả hay sao?

Câu hỏi ấy làm cho tên hói trán thấy lạnh cả gáy. Lần này hắn hạ thấp giọng nói khẽ:

- Tôi không chịu trách nhiệm về những hành động của bọn phản cách mạng.

A-kim hỏi:

- Nhưng anh hẳn phải biết là nơi các anh cho đốn gỗ ở cách đường xe lửa quá xa.

- Tôi có nghe nói thế, song đấy không phải là phạm vi tôi phụ trách, nên tôi không thể báo cáo cấp trên về tình trạng bất thường xảy ra ở phạm vi người khác được.

Chủ tịch hội đồng công đoàn hỏi:

- Anh có bao nhiêu người làm?

- Gần hai trăm.

Tô-ca-rếp cáu tiết: - Thế ra một năm mỗi tên ăn hại chỉ làm được độc một thước khối!

Chủ tịch công đoàn nói tiếp:

- Chúng tôi đã cấp phát cho ủy ban vận chuyển của các anh khẩu phần lương ăn gấp đôi, chúng tôi phải rút của anh chị em công nhân để cấp cho các anh như thế, ngược lại thì các anh làm được những gì? Hai toa bánh mì đưa cho các anh để phát cho công nhân, các anh đã nhét đâu mất?

Những câu nói từ bốn phía dồn dập trút lên đầu tên trán hói, nhưng hắn ta tìm cách đánh lảng như con nợ trốn chủ nợ.

Hắn nói quanh co, trơn tuột như chạch, không trả lời thẳng, mắt lấm lét nhìn sang hai bên. Hắn đã cảm thấy nguy đến nơi rồi. Rúm mình trong nỗi lo sợ hoảng hốt, hắn chỉ ước muốn một điều độc nhất: chóng rời khỏi được chốn này để về ăn bữa cơm chiều thịnh soạn với con vợ còn trẻ của hắn giờ đây đang đọc cuốn truyện của Pôn-đờ-cốc để giết thời giờ.

Giu-khơ-rai vừa chú ý nghe những câu trả lời của hắn, vừa ghi vào tờ giấy sổ tay: "Phải điều tra kỹ thằng cha này hơn, đây không phải đơn thuần là vấn đề thiếu tích cực. Đã có một số tài liệu về hắn... Thôi, nói chuyện với hắn đã đủ rồi. Để hắn cút đi cho rảnh. Còn chúng ta thì bắt tay vào việc của ta đi thôi".

Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành đọc mảnh giấy ghi mấy hàng chữ đó và nhìn Giu-khơ-rai gật đầu.

Giu-khơ-rai đứng dậy đi ra phòng ngoài gọi dây nói. Lúc anh trở vào, chủ tịch Ban chấp hành đã đọc đến đoạn cuối của nghị quyết.

"... Cách chức toàn ban phụ trách cơ quan vận chuyển gỗ vì hành động phá hoại hiển nhiên. Đưa vụ đốn gỗ này ra tòa".

Cơ sự đã không đến nỗi nguy như hắn chờ đợi. Thật ra, cách chức vì phá hoại thì chắc là đặt vấn đề nghi ngờ lòng trung thành của hắn, nhưng đấy chẳng qua là chuyện vặt. Còn việc đốn gỗ ở công trường Bai-a-rơ-ca thì hắn không phải lo, vì nó không phải phạm vi của hắn. "Chà mình cứ tưởng là tụi nó đã lần ra được manh mối gì rồi kia..."

Hắn gần như đã yên trí lắm, vừa cho giấy má vào cặp vừa nói:

- Phải, tôi là một nhà chuyên môn ngoài Đảng, nên các anh có quyền không tin tôi là phải. Nhưng lương tâm tôi trong sạch. Tôi không làm được việc chỉ vì thực tế tôi không thể làm nổi thôi.

Không ai trả lời hắn. Hắn bước ra, vội vã xuống thang gác và mở cửa ra phố, thấy nhẹ nhõm cả người.

Một người mặc áo khoác bộ đội hỏi hắn:

- Vị cho biết tên là gì?

Hắn chột dạ trả lời ấp úng: - Séc…vin-ski...

Phần tử lạc loài ấy vừa ra khỏi, trong phòng giấy của chủ tịch Ban chấp hành tỉnh, mười ba cái đầu chụm sát vào nhau trên chiếc bàn lớn.

Giu-khơ-rai ấn ngón tay trên tấm bản đồ mở rộng:

- Các đồng chí xem... Đây là ga Bai-a-rơ-ca, cách chỗ lấy gỗ bảy dặm. Ở đấy có hai mươi mốt vạn thước khối gỗ đang xếp đống. Đội quân lao động đã khó nhọc tám tháng trời, mất bao nhiêu là công lao động. Kết quả thế nào? Chúng nó đã phản ta, xe lửa và  thành phố vẫn không có củi để đốt. Gỗ đốn rồi phải chở sáu dặm đường nữa mới tới được nhà ga. Muốn thế phải dùng ít nhất là năm nghìn xe ngựa chở suốt một tháng, mà phải chở mỗi ngày hai chuyến mới được. Thôn gần nhất ở đấy cũng cách mười lăm dặm. Lại phải cái vạ tên O-rơ-lích và lũ phỉ lâu la của hắn luôn quấy phá ở những vùng này. Các đồng chí có hiểu tình hình như vậy là thế nào không?. . . Thế này đây: theo kế hoạch thì đáng lẽ công trường khai thác gỗ bắt đầu từ đây và làm dần về phía nhà ga. Nhưng quân khốn nạn chúng nó lại vào mãi tận rừng sâu mở công trường. Chúng đã tính sát: chúng ta không thể nào chở gỗ đã chặt tới đường sắt được. Thật thế, chúng ta cũng chẳng đào đâu ra lấy trăm chiếc xe ngựa. Chúng đã chơi chúng ta những đòn như thế đấy... Lợi hại chẳng kém gì cái ban bạo động của chúng.

Quả đấm nắm chặt của Giu-khơ-rai nặng nề rơi chát xuống tấm bản đồ.

Cả mười ba người đều tưởng tượng thấy rất rõ tai họa đang ập đến, tai họa mà Giu-khơ-rai không nói ra. Mùa đông đã kề bên cửa. Nhà thương, trường học, các cơ quan và hàng trăm ngàn nhân dân lâm vào cảnh gió rét cắt da mà không củi đốt, còn ở các nhà ga, hành khách đông như kiến mà xe lửa mỗi tuần chỉ chạy được có một chuyến.

Mỗi người suy nghĩ miên man.

Giu-khơ-rai buông nắm tay ra:

- Có một biện pháp, các đồng chí ạ: phải làm cho xong trong vòng ba tháng một con đường sắt nhỏ từ ga tới chỗ đẵn gỗ - bảy dặm. Tính thế nào để trong một tháng rưỡi thì đã làm được đến đầu chỗ đẵn gỗ. Việc này tôi đã nghĩ tám ngày nay rồi... Muốn làm được thì... Giọng Giu-khơ-rai rít lên trong cổ họng khô - Thì cần ba trăm năm mươi công nhân và hai kỹ sư. Ở kho đoạn đầu máy Pu-sa Vô-đi-xa, chúng ta đã có sẵn đường ray và bảy chiếc đầu máy do thanh niên cộng sản tìm được. Trước chiến tranh người ta đã định đặt một con đường sắt nhỏ từ đấy vào thành phố. Nhưng ở Bai-a-rơ-ca, công nhân không có chỗ ở tại đấy chỉ có độc một cái trường lâm nghiệp cũ đã đổ nát ở mãi tít trong rừng. Phải chia công nhân thành từng toán đến làm việc, hai tuần thay phiên một lần, vì mỗi phiên làm lâu hơn nữa thì không chịu nổi. Ta phải phái các đoàn viên thanh niên cộng sản đến đấy, anh A-kim thấy thế nào?

Và không đợi trả lời, Giu-khơ-rai nói tiếp:

- Đoàn thanh niên cộng sản phải cố hết sức điều động tất cả những đoàn viên nào có thể điều động được đến đấy trước hết là tổ chức đoàn ở Xô-lô-men- ca và một bộ phận ở trong thành phố. Nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng nếu giải thích cho lứa trẻ biết rằng có thế mới cứu được thành phố khỏi chết rét, cứu được đường xe lửa khỏi bị tê liệt thì bọn trẻ sẽ làm bằng được.

Đồng chí phụ trách đường sắt lắc đầu tỏ vẻ không tin, giọng đồng chí mệt mỏi:

- Không biết giải quyết thế có ổn hay không. Tôi tính không tài nào làm được đoạn đường sắt dài bảy dặm, trên một khoảng đất không trơ trụi, trong hoàn cảnh hiện nay đang tiết trời mùa thu, sắp bắt đầu có mưa rồi, lại sắp mùa đông tháng giá…

Giu-khơ-rai, không quay lại nhìn đồng chí ấy cắt ngay:

- Đồng chí An-đrây Va-xi-li-ê-vích ạ, đồng chí cần phải để tâm săn sóc hơn việc đốn gỗ! Còn con đường này, chúng ta sẽ làm được.. Chẳng có ai lại chịu ngồi khoanh tay chờ chết rét đâu.


Những hòm dụng cụ cuối cùng đã xếp lên toa xe.  Người làm trên xe lửa, ai nấy đã về phần việc của mình rồi. Ngoài trời mưa nhỏ hạt, buốt cóng. Những giọt mưa trong như những hạt pha lê lăn trên chiếc áo da ướt bóng loáng của Ri-ta.

Từ biệt Tô-ca-rếp, Ri-ta bắt chặt tay đồng chí già. và khẽ nói:

- Chúc các đồng chí thành công.

Cụ già ngước hàng lông mày xám, thân thiết nhìn Ri-ta. Cụ nói lẩm bẩm, thốt lên những tiếng như đáp lại ý nghĩ của chính mình:

- Phải, cái quân khốn ấy đã làm chúng mình mất  ăn mất ngủ. Ở đây các đồng chí phải để ý theo dõi. Nếu bên chúng tôi có chuyện gì rắc rối thì bất cứ việc gì cần đến, các đồng chí phải giúp ngay một tay mới được. Vì cái lũ đểu ấy không có làm cái gì mà không ba hoa kiểu cách ngoài miệng bao giờ. Thôi, tàu sắp chạy, già phải lên rồi, con ạ.

Ông già khép chặt cái áo vét-tông lại. Phút cuối cùng, Ri-ta làm ra vẻ vô tình hỏi:

- Kìa, thế Pa-ven không cùng đi với các đồng chí hay sao? Trong đám anh chị em đi đây, chẳng thấy anh ấy đâu cả.

- À, cậu ấy hôm qua đã cùng đồng chí phụ trách công trình ngồi xe goòng đi trước để chuẩn bị cho chúng tôi tới sau.

Trên sân ga, Giác-ki và Đu-ba-va đang vội vã đi lại phía cụ Tô-ca-rếp và Ri-ta. Cùng đi với họ có cả An-na Bô-khác, áo ngắn mặc ngoài vắt thõng ngang vai, những ngón tay mảnh khảnh của chị cặp một điếu thuốc lá đã tắt.

Nhìn về phía ba người đang đi tới, Ri-ta hỏi rốn cụ Tô-ca-rếp:

- Pa-ven học với bác ra sao rồi, bác?

Tô-ca-rếp ngạc nhiên nhìn chị:

- Học gì? Cậu ấy lâu nay do cháu hướng dẫn học tập cơ mà? Đã nhiều lần cậu ta nói với bác về cháu đấy. Thằng bé nó khen cháu không ngớt lời.

Ri-ta nghe ông cụ nói, bụng vẫn chưa tin.

- Có thật thế không, đồng chí Tô-ca-rếp? Theo cháu biết, anh ấy vẫn thường đến nhà bác để nhờ bác giảng lại bài cháu hướng dẫn.

Ông già phá ra cười: - Đến nhà bác à?... Tôi có thấy cậu ấy đến hỏi tôi bao giờ đâu!

Còi tàu rú lên, Cơ-la-vi-sếch từ trong toa kêu to:

- Đồng chí Ri-ta ơi ! Đồng chí để cho bố già đi với chúng tôi thôi chứ. Ai lại cứ giữ mãi ông cụ lại mà chuyện thế ! Không có bố già thì chúng tôi biết làm ăn thế nào?

Anh chàng người Tiệp Khắc đó còn đang muốn nói thêm gì nữa, nhưng nhận ra ba đồng chí đang đi đến gần toa xe, anh im ngay. Trong khoảnh khắc, đôi mắt anh bắt gặp cái nhìn lo lắng của An-na; trông thấy An-na mỉm cười từ biệt Đu-ba-va, anh rời cửa sổ quay phắt ngay vào trong toa, lòng buồn rười rượi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách