|
Ở thôn bên, trước cửa trường học trên gò cao, các chiến sĩ kỵ binh tập hợp thành một vòng lớn. Một chiến sĩ kỵ binh khỏe mạnh thuộc đơn vị Bu-đi-on- ny ngồi mé sau chiếc xe ngựa, mũ cát-két hất ra sau gáy, đang kéo rên rỉ chiếc đàn gió. Trong tay đồng chí ấy chiếc đàn kêu rú lên, nhịp điệu hỗn loạn, làm lạc cả bước chân của chiến sĩ mặc chiếc quần thủng màu đỏ đang nhảy một cách điên cuồng điệu nhảy dân gian xứ U-cơ-ren.
Trai gái trong làng tò mò kéo ra, leo lên chiếc xe ngựa và những hàng rào bên cạnh để xem những nhà vũ đạo rất liều của lữ đoàn kỵ binh vừa mới đến đóng ở làng này.
- Tốp-tan ơi! Kéo hăng lên nào! Làm một quắn nữa chứ! Cho thêm chất nóng vào đi!
Nhưng những ngón tay to lớn của anh bộ đội kéo đàn gió, chỉ quen gò móng ngựa, nên ngó ngoáy một cách khó nhọc trên phím đàn.
Anh chiến sĩ da rám nắng đang nhảy, bỗng than phiền:
- Chà, tiếc thằng Cu-láp-cơ quá. Quân thổ phỉ Ma- khơ-nô khốn kiếp đã giết chết mất cậu ấy. Cu-láp- cơ kéo đàn gió còn phải nói. Hạng nhất...Chiến đấu luôn luôn đi hàng đầu trung đội mình. Tiếc cậu ấy quá! Vừa là một chiến sĩ cừ, vừa là một tay chơi nhạc giỏi.
Pa-ven cũng đứng trong đám dự cuộc vui. Nghe mấy lời vừa rồi, anh liền len đến chiếc xe ngựa, lấy tay ấn vào hòm xếp của chiếc đàn. Tiếng đàn im bặt.
Chiến sĩ kéo đàn gió quắc mắt nhìn anh: - Cậu muốn gì?
Tốp-tan ngừng lại, không kéo nữa, làm mọi người chung quanh nhao nhao, giọng không bằng lòng nổi lên:
- Cái gì thế? Sao dừng lại thế?
Pa-ven chìa tay về phía dây kéo đàn:
- Đưa cho mình chơi một lát.
Tốp-tan nhìn người đồng đội lạ mặt với cặp mắt hoài nghi do dự, rồi gỡ dây đeo khỏi vai.
Bằng một cử chỉ quen thuộc, Pa-ven để đàn lên gối. Anh dìu dặt kéo nếp đàn lượn khúc mở ra hình cánh quạt, rồi sau từng nấc, từng nấc dồn dập, Pa- ven dạo bản nhạc với tất cả sức mạnh của chiếc đàn:
"Quả táo hồng hồng
Mày lăn đằng nào
Lăn vào Sê-kha
Chẳng ra được sớm"
( Sê-kha : cơ quan đặc biệt chống phản cách mạng trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết)
Tốp-tan cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh dang hai tay lên như hai cánh chim, lượn vòng tròn, hai chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào gối, vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng vào cái mồm đang hát to.
Tiếng đàn gió rung lên, kích thích, thúc giục chiến sĩ đang nhảy trong điệu hùng mạnh, hừng hực, tới tấp như những luồng gió cuồng liên tiếp. Tốp-tan bắt đầu quay tít đi như con cù đinh, vừa quay vừa nhảy một vòng tròn hết chân nó đến chân kia đá vút vào không khí, miệng hét lên đến hết hơi:
- Hích hắc! Hích hắc!
Ngày mồng năm tháng Sáu năm 1920, sau mấy cuộc giao chiến chớp nhoáng nhưng khốc hệt, tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất, do Bu-đi-on-ny chỉ huy, đã chọc vỡ phòng tuyến Ba Lan ở điểm đóng giáp nhau của quân đoàn thứ hai và quân đoàn thứ tư của địch, đánh tan được lữ đoàn của tướng địch Xa-vi-ski và thừa thế tiến về hướng Ru-gin.
Bộ chỉ huy Ba Lan muốn đối phó với cuộc tiến quân đột phá ấy liền hối hả cho lập một đội xung kích. Năm xe tăng bọc sắt chở từ xe lửa tới ga Pô-gờ-rê- bích cấp tốc đến tiếp viện.
Chúng chuẩn bị đối phó ở Da-rút-nhích, nhưng kỵ binh Hồng quân đã vòng qua Da-rút-nhích, lọt vào hậu phương của các quân đoàn Ba Lan.
Chúng tung sư đoàn kỵ binh Ba Lan do tướng Coóc- nhi-ski chỉ huy ra đuổi theo vết chân tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn kỵ binh Coóc-nhi-ski có nhiệm vụ đánh tập hậu bằng được vào cánh quân đỏ mà bộ chỉ huy Ba Lan cho là có ý định tấn công vào Ca-da-chin, điểm chiến lược trọng yếu nhất của hậu phương Ba Lan. Nhưng kế hoạch đó cũng không cứu vãn nổi tình hình nguy ngập của quân bạch vệ Ba Lan. Tuy ngày hôm sau quân Ba Lan có lấp được chỗ trận tuyến bị chọc thủng và khép được phòng tuyến sau đường đánh thọc của kỵ binh đỏ nhưng lúc đó trong lòng hậu phương của chúng, cả một đoàn quân đỏ mạnh như vũ bão đã hoành hành rồi. Tập đoàn quân này sau khi đã tiêu diệt các căn cứ hậu phương của địch, tiến lên đánh vào những lực lượng của Ba Lan đóng ở Ki-ép. Dọc đường tiến quân, các sư đoàn kỵ binh đỏ đã phá hủy các cầu và đường sắt để chặn đường rút lui của quân Ba Lan.
Theo tin tù binh khai thì tham mưu quân đoàn địch đóng ở Gi-tô-mia, nhưng thật ra ở đấy là cả bộ tham mưu mặt trận của địch. Chỉ huy tập đoàn quân kỵ binh của ta quyết định chiếm lấy những đầu mối đường xe lửa quan trọng và những trung tâm hành chính quan trọng là Gi-tô-mia và Béc-đi-sép. Và ngày mồng bảy tháng Sáu, khi trời vừa tảng sáng, sư đoàn kỵ binh thứ tư của ta đã ập đến Gi-tô-mia.
Pa-ven được bổ sung vào một trung đội kỵ binh, đi xung kích thay chân Cu-láp-cơ đã hy sinh. Cả tập thể chiến sĩ không muốn rời bỏ người kéo đàn gió cừ ấy, nên đã đề nghị thu nạp anh vào trung đội.
Đến gần Gi-tô-mia, quân ta chia làm nhiều mũi theo hình cánh quạt đánh tỏa vào. Không ai muốn ghìm vó ngựa đang phi hăng. Ánh nắng rọi vào lưỡi kiếm, bật ra muôn tia sáng óng ánh bạc.
Đất chuyển, ngựa hí, chiến sĩ rướn người trên bàn đạp.
Mặt đất chạy lướt nhanh, lùi lại dưới vó ngựa. Thành phố Gi-tô-mia to lớn có những công viên xinh như chạy đến đón sư đoàn kỵ mã. Đã vượt qua những vườn hoa ngoại thành. Và giờ đây, sư đoàn ập vào trung tâm, tiếng thét "xung phong” ghê rợn như thần chết, rung chuyển không trung.
Bọn Ba Lan kinh hoàng hầu như không dám chống cự lại. Quân đóng ở đây bị tiêu diệt tan tành.
Pa-ven cúi rạp xuống bờm ngựa, phi như bay. Bên cạnh là Tốp-tan đang phi trên con ngựa đen nhánh chân thon.
Mắt Pa-ven trông thấy nhát kiếm ác liệt của chiến sĩ Tốp-tan quả cảm bổ xuống một thằng lê dương Ba Lan, tên này không kịp đưa lưỡi lê lên đỡ.
Móng sắt của vó ngựa nện siết đường phố. Rồi bất chợt, ở ngã tư, một khẩu súng máy nhô ra. Ba tên mặc binh phục xanh, đầu đội ca-lô cúi rạp trên khẩu súng, một tên nữa, cổ áo có dải vàng như con rắn, chĩa súng lục nhằm bắn những người đi ngựa.
Không ghìm được dũng mã, cả Tốp-tan lẫn Pa-ven cứ lao tới khẩu súng, đi thẳng vào nanh vuốt của thần chết. Thằng sĩ quan cầm súng lục nhằm thẳng Pa-ven. Bắn trượt... Đạn víu như chim sẻ kêu, sượt qua má. Và thằng sĩ quan địch bị ngựa xô ngã lộn nhào, đầu vập xuống đường đá. Cùng lúc ấy, những súng máy hối hả nhả đạn như bật ra những dịp cười điên cuồng ghê rợn. Như bị đàn ong bằng sắt châm đốt, Tốp-tan và ngựa bị trúng chừng chục viên đạn ngã nhào xuống cả người lẫn ngựa.
Con ngựa của Pa-ven hoảng sợ, rống lên, cất vó nhảy chồm qua xác người và ngựa của Tốp-tan, rơi vào giữa bọn giặc giữ súng máy. Mũi kiếm Pa-ven hoa lên một vòng sáng rực, xả vào một chiếc ca-lô-xanh.
Lưỡi kiếm lại vung lên không, nhằm bổ vào một chiếc đầu khác. Nhưng con dũng mã đang phi hăng đã nhảy tót sang bên.
Như thác lũ tràn về cả trung đội ập đến ngã tư này, hàng chục mũi kiếm hoa lên ngang dọc trên không…
Những hành lang hẹp và dài của nhà pha Gi-tô- mia vang ầm những tiếng kêu thét.
Trong các xà-lim đầy ắp những người bị giam, mặt hốc hác, đau khổ. Ngoài phố đang đánh nhau to, có thể nào tin được là giải phóng đến nơi? Có thể nào tin được đấy là quân mình đã bất ngờ từ đâu hiện đến?
Trong sân nhà pha đã có tiếng súng nổ rồi. Dọc các hành lang, người chạy vội vã. Rồi có tiếng đột ngột nói lên thân thiết, vô cùng thân thiết.
- Ra đi, các đồng chí ơi !
Pa-ven dừng lại trước tấm cửa đóng kín. Hàng chục cặp mắt nhìn qua lỗ nhỏ. Hăng máu lên, Pa-ven dùng báng súng cố ghè khóa cửa. Ghè nữa, ghè nữa!
- Để tớ làm cho. Lấy mìn mà phá. - Mi-rô-nốp gạt Pa-ven sang bên, rồi thò tay rút quả lựu đạn trong bao ra.
Trung đội trưởng Xi-ga-sên-cơ giằng lấy quả lựu đạn:
- Dừng lại, đồ ngốc! Mày điên à? Đợi mang chìa khóa mở đến. Không bẻ được đâu, để người ta lấy khóa mở cho chúng mình.
Bọn canh ngục, có súng ta gí sau lưng, bị dẫn đến mở khóa xà-lim. Hành lang một lát đã đầy những người quần áo tả tơi, lâu ngày không được tắm rửa. Lòng họ đang vui như điên.
Pa-ven mở rộng cửa sắt, chạy vào nhà giam.
- Các đồng chí ơi! Các đồng chí đã được giải phóng rồi! Chúng tôi là chiến sĩ kỵ binh của Bu-đi-on-ny. Sư đoàn chúng tôi đã chiếm được thành phố rồi.
Một người đàn bà, nước mắt giàn giụa, ôm chầm lấy Pa-ven như ôm người nhà thân thiết, khóc nức nở.
Giải phóng bằng ấy đồng chí bôn-sê-vích của mình, đối với các chiến sĩ của sư đoàn, thật quý hơn tất cả mọi thứ chiến lợi phẩm, quý hơn cả chiến thắng. Trong những hộp bằng đá này, bọn Ba Lan trắng nhốt của ta năm ngàn bảy mươi mốt đồng chí bôn-sê-vích đang đợi ngày chúng đem đi bắn hay đi treo cổ và hai ngàn chính trị viên Hồng quân. Đối với bảy ngàn chiến sĩ cách mạng được giải phóng ấy, đêm tối không cùng vừa qua phút chốc đã chuyển ngay thành ánh sáng chan hòa của một ngày tháng Sáu tươi nắng.
Một đồng chí bị giam mặt vàng như vỏ chanh ủng, sung sướng chạy đến gặp Pa-ven. Đấy là Xa-miên Lê-khe, người thợ sắp chữ ở xưởng in Sê-pê-tốp-ca.
Nghe Xa-miên kể chuyện, mặt Pa-ven cứ xám dần. Một tấn thảm kịch đẫm máu đã xảy ra ở thị trấn quê hương. Mỗi tiếng Xa-miên nói ra rơi vào lòng anh như từng giọt sắt nung lỏng.
- Có một thằng khiêu khích khốn nạn báo, nên chúng tôi bị tóm tất cả. Cả bọn chúng tôi rơi vào tay hiến binh. Chúng nó đem ra tra tấn ngay rất dã man. Tôi bị đau ít hơn các đồng chí khác: vì bị chúng nó đánh mấy tua đầu là tôi lăn ra bất tỉnh ngay. Còn các cậu khác thì khỏe hơn tôi. . . Cũng chẳng có gì mà giấu chúng nó nữa. Bọn sen đầm biết mọi chuyện hơn cả chúng tôi kia. Chúng nắm được chẳng sót một tý gì.
Làm sao mà chúng không biết, khi có một thằng chó phản bội đã len được vào tổ chức. Kể đến chuyện những ngày đó thật đau lòng. Những anh chị em bị bắt, Pa-ven quen biết gần hết đấy. Va-li-a Bơ-ru- giắc, Rô-da Gơ-rít-sman, người ở quận lỵ, anh nhớ ra Rô-da chứ, một cô bé con, một nữ thanh niên mười bảy tuổi, can đảm lắm, có đôi mắt người ta cứ nhìn vào là tin ngay, rồi đến Xa-sa Bun-sáp, Pa-ven nhớ chứ, thợ sắp chữ ở chỗ chúng tôi ấy mà, một thằng bé vui tính lắm, lúc nào cũng vẽ nghịch lão chủ xưởng. Cậu ấy rồi đến hai học sinh nữa: Nô-vô-xen-ki và Tu- gít. Những người ấy Pa-ven đều biết cả. Còn những người khác là người ở quận và ở thôn ngoại ô. Hai mươi chín người tất cả, trong đó có sáu phụ nữ. Ai cũng bị đánh dã man hết sức. Va-li-a và Rô-da bị chúng hiếp ngay hôm đầu. Thôi thì quân khốn kiếp tha hồ làm nhục hai người con gái tội nghiệp. Lúc chúng nó lôi hai người về xà-lim thì đã chết dở cả. Sau lần đó, Rô-da bắt đầu nói huyên thuyên và vài hôm sau thì phát điên hẳn.
Song quân giết người không muốn tin là chị điên. Cho là giả vờ, mỗi lần hỏi cung, lại đánh chị tàn tệ. Hôm chúng đem chị đi bắn, thật nhìn mà ghê sợ. Mặt bị đánh thâm tím khắp cả, đôi mắt dữ và dại đi. Trông y như một bà lão.
Va-li-a cho đến lúc chết vẫn hiên ngang. Anh chị em đã chết ra cái chết của những chiến sĩ chân chính. Tôi không biết anh chị em đó đã lấy đâu ra sức mạnh mà dũng cảm phi thường như vậy. Pa-ven ơi! Có tài nào thuật lại được hết về cái chết của họ? Không, Pa- ven ạ. Cái chết của họ ghê gớm hơn tất cả những lời kể lại... Va-li-a nguy nhất trong bọn: chị phụ trách bắt liên lạc với cánh làm vô tuyến điện cho tham mưu Ba Lan. Chị được phái đến quận để bắt liên lạc. Chúng vào khám nhà chị thấy khẩu Bơ-rao-ninh và hai quả lựu đạn. Súng lục và lựu đạn đó chính do tên khiêu khích đã đưa cho chị. Chúng nó bày trò ra tất cả, để buộc tội chị âm mưu dùng mìn ám sát ban tham mưu.
Pa-ven ạ, tôi thật đau lòng mà kể lại những giờ phút cuối cùng của anh chị em, nhưng Pa-ven đã yêu cầu thì tôi xin kể hết. Tòa án binh của chúng đã tuyên án: Va-li-a và hai người làm việc với chị thì bị treo cổ, những đồng chí khác thì xử bắn.
Những lính Ba Lan mà chúng tôi đã vận động được bị đem ra xử trước chúng tôi hai ngày.
Đồng chí vô tuyến điện tên là Snê-guốc-cô liên lạc với Va-li-a bị buộc tội phản quốc và tuyên truyền cộng sản trong binh lính. Đồng chí người còn trẻ, đóng cai, trước chiến tranh làm thợ máy điện ở Lốt. Chúng kết tội xử bắn. Đồng chí từ chối không ký giấy chống án, và bị đem đi bắn ngay, hai mươi bốn giờ sau khi tuyên án.
Va-li-a bị gọi đến làm chứng xử vụ Snê-guốc-cô, về có kể lại là Snê-guốc-cô nhận đã tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, song cực lực phản đối án kết tội anh là phản quốc. Anh nói:
"Tổ quốc của tôi là nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa Ba Lan. Phải, tôi là đảng viên Đảng cộng sản Ba Lan, bị cưỡng ép mà đi lính. Vào lính, tôi phải tìm hết cách để mở mắt cho các bạn đồng ngũ cũng bị ép ra mặt trận như tôi. Các ông viện cớ đó muốn treo cổ tôi thì treo cổ, nhưng không bao giờ tôi phản bội Tổ quốc của tôi, không bao giờ cả. Duy có một điều: Tổ quốc của các ông và Tổ quốc của tôi không phải là một. Tổ quốc của các ông là tổ quốc của bọn vương bá. Tổ quốc của tôi là Tổ quốc của thợ thuyền và dân cày. Tổ quốc của tôi - phải, tương lai sẽ có Tổ quốc của tôi, tôi tin tưởng sâu xa điều đó. - Trong Tổ quốc của tôi, không ai nói rằng tôi là phản quốc cả".
Bị kết án xong, chúng tôi bị giam tập trung vào một chỗ. Trước khi bị đem đi hành hình, chúng lại chuyển chúng tôi về nhà pha. Đêm trước chúng trồng cột treo cổ ngay trước nhà pha bên cạnh nhà thương. Chỗ bắn lại ở nơi khác, hơi xa đấy, bên rừng, gần con đường men theo bờ lạch. Chúng đã đào sẵn một cái huyệt chung để vùi chúng tôi.
Bản án dán khắp nơi, trong thành phố ai cũng biết. Chúng rắp tâm định hành án chúng tôi giữa ban ngày, có mặt dân, để cho nhân dân ai cũng trông thấy mà sợ. Từ sáng sớm, chúng lùa hàng phố ra chỗ cột treo cổ. Một số người vì tò mò mà kéo đến. Trông xử treo cổ ghê mắt thật, nhưng họ vẫn đến. Quần chúng vây quanh những cột treo cổ đông lắm. Nhìn đâu cũng thấy đầu người như sóng biển. Pa-ven nhớ có cái tường bao quanh nhà pha bằng gỗ cây ghép đấy nhỉ. Cột treo cổ trồng dựa lưng vào nhà pha cho nên chúng tôi nghe rõ tiếng rào rào của đám đông bên ngoài. Trên đường phố, phía sau lưng quần chúng, đã đặt sẵn súng máy, sen đầm đi ngựa và đi chân đều dồn về đây canh gác. Một tiểu đoàn bộ binh vây lấy các vườn rau và các thành phố. Chúng đã đào sẵn một hố riêng chôn những người bị treo cổ ngay bên cột treo cổ. Chúng tôi im lặng chờ đợi trong ngục, thỉnh thoảng nói với nhau vài lời. Đêm hôm trước, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện với nhau rồi và đã gửi nhau lời vĩnh biệt. Chỉ có Rô-da đứng lẩm bẩm một mình ở góc tường. Va-li-a bị đánh, bị hiếp, kiệt sức không bước được nữa, thường phải nằm liệt một chỗ. Có hai chị em ruột, đảng viên ở thôn ngoại ô, ôm lấy nhau chào vĩnh biệt và không nén nổi, nấc lên khóc nức nở. Stê-pa-nốp, một thanh niên ở quận khỏe như đô vật, khi mới bị bắt đã choảng hai tên sen đầm bị thương, nghe khóc, lại gần hai chị ấy, nhắc đi nhắc lại: "Đừng khóc, các đồng chí! Nếu khóc ở đây để chốc nữa đừng khóc ngoài kia thì các đồng chí cứ khóc. Đừng cho đàn chó khát máu thấy chúng ta yếu lòng mà chúng phởn bụng. Thế nào thì chúng cũng chẳng thương gì chúng ta đâu, thế nào rồi cũng chết. Vì vậy phải chết cho cứng cỏi. Đừng có ai trong chúng ta được quỳ gối, cúi đầu cả. Các đồng chí nhớ lấy, chết thì phải chết cứng cỏi".
Rồi chúng đến dẫn chúng tôi đi. Đi đầu là thằng Sơ-vác-cốp, trưởng ban phản gián trắng, một thằng cuồng dâm điên loạn, một đứa trông thấy đàn bà nếu chính nó không đè ra hiếp, thì cũng để cho lũ sen đầm hiếp ngay trước mặt để nhìn cho sướng mắt. Từ nhà ga ra đến cột treo cổ, xếp song song hai hàng rào sen đầm. Bọn "vện" đeo lon vàng ấy đứng nghiêm, gươm tuốt trần sáng loáng.
Chúng nó lấy báng súng dồn chúng tôi ra sân nhà pha, rồi bắt chúng tôi xếp hàng tư điệu ra chỗ cột treo cổ, định tâm bắt chúng tôi phải chứng kiến cái chết của đồng chí mình, trong khi chờ đợi đến lượt mình đi chết. Cột treo cổ bằng những thanh gỗ to sù, cao dựng đứng, lủng lẳng ba thòng lọng bằng thừng to bện lại. Chung quanh, biển người náo động, xì xào. Dân nhìn chúng tôi... chúng tôi nhìn dân. Mỗi người nhận ra người nhà của mình.
Xa xa, trên thềm cao, tất cả bọn quý tộc Ba Lan đã ngồi chầu sẵn, tay cầm ống nhòm. Nhiều đứa là võ quan. Chúng đến xem treo cổ người bôn-sê-vích.
Dưới chân chúng tôi, tuyết êm lắm, rừng chung quanh trắng xóa, cây cối như có bông bao phủ, hoa tuyết quay tròn rơi từ từ và tan trên da mặt nóng bừng của chúng tôi. Bệ dưới cột treo cổ cũng có tuyết. Mặc phong phanh mà chúng tôi cũng chẳng thấy rét, Stê-pa-nốp cũng không biết là chân mình chỉ đi tất không mang giày.
Tên chưởng lý tòa án binh và các sĩ quan cao cấp đứng trước cột treo cổ. Rồi chúng dẫn Va-li-a và hai người nữa bị xử treo cổ ra khỏi nhà giam. Ba người khoác tay nhau, Va-li-a đi giữa. Hai người đỡ cho chị đi, chị không còn sức nữa, cố lê bước chân, mình không áo khoác, trần một chiếc áo sợi. Chị cố đi thẳng người, có lẽ chị đang nhớ tới lời Stê-pa-nốp: "Phải chết cho cứng cỏi!" Thằng Sơ-vác-cốp trông thấy ba người tử tù khoác tay nhau mà đi thì lấy làm cáu lắm. Nó gạt hai người đàn ông đỡ chị ra. Chị cự lại nó ngay. Thế là có một thằng sen đầm đi ngựa đến quất roi da vào mặt chị, tay này mỏi hắn lại đưa roi sang tay khác quất lấy quất để.
Trong đám quần chúng có một người đàn bà rú lên, tiếng rú của một người mất trí khôn, bà ta lăn xả vào lách qua hàng rào lính, chạy đến hàng người bị xử, nhưng bà bị giữ lại và bị dẫn đi đâu không rõ. Chắc là bà mẹ chị Va-li-a. Khi ba người đến dưới chân cột treo cổ, Va-li-a cất tiếng hát. Chưa bao giờ tôi được nghe thấy một giọng hát như thế. Chỉ có một người bị xử tử, dũng cảm đi ra trước cái chết, mới hát say mê đến nhường ấy được. Va-li-a cất tiếng hát lên Bài hát của người dân thành Vác-xô-vi. Hai người cùng bị tội với chị đồng thanh hát theo. Thế là bọn sen đầm quất roi như bão táp vào mặt họ thật cực kỳ hung tợn. Nhưng họ dường như không biết đau nữa. Rồi bọn chúng đánh họ ngã lăn ra, lôi lại cột treo cổ như lôi những bì gạo. Chúng hấp ta hấp tấp đọc bản án, rồi vứt thòng lọng vào cổ họ. Thế là đến lượt chúng tôi hát lên.
Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian !…
Chúng nó tứ phía bổ lại nện chúng tôi túi bụi. Tôi chỉ còn kịp trông thấy một tên lính lấy báng súng đánh bật cọc giữ chân ra và ba thân người lủng lẳng, giãy giụa ở đầu dây thừng treo cổ.
Mười người trong bọn tôi, trong số đó có tôi được ân giảm: khi chúng tôi đã bị đứng lấp quay mặt vào tường để ăn đạn chì, thì chúng đọc cho chúng tôi nghe lệnh của tên tướng cho giảm xuống mười năm khổ sai thay vào tội xử tử. Mười bảy đồng chí kia bị bắn chết gục bên cạnh chúng tôi.
Xa-miên cởi giật cúc áo cổ dường như bị nghẹt thở, rồi kể tiếp:
- Trong ba ngày, những người bị treo cổ cứ lủng lẳng ở đấy, ngày đêm có một tiểu đội lính gác bên cột treo cổ. Anh em bị bắt vào sau cho chúng tôi biết như thế. Đến ngày thứ tư thì xác đồng chí Tô-bôn- đin nặng nhất rơi xuống. Bấy giờ, chúng mới cởi hai cái xác kia, chôn ngay tại chỗ. Còn cột treo cổ vẫn để đấy, hôm chúng dẫn bọn tôi vào đây, bọn tôi vẫn còn trông thấy. Cả cột lẫn dây thòng lọng vẫn còn nguyên để đợi những người khác bị xử tử.
Xa-miên ngừng kể, mắt nhìn chằm chằm vào một cái gì mơ hồ ở đằng xa. Câu chuyện kể hết vào lúc nào, Pa-ven cũng không để ý nữa. Trước mắt anh hiện rõ ra hình ảnh ba xác người, đong đưa, im lặng, đầu rũ về bên một cách thê thảm.
Ngoài kia, kèn gọi tập hợp. Tiếng kèn oai hùng đưa anh về với thực tại. Anh nói khẽ, tiếng bật ra trong hơi thở.
- Xa-miên ạ, chúng ta ra khỏi đây đi thôi !
Ngoài phố, tù binh Ba Lan lê bước giữa hai hàng kỵ binh của ta áp giải. Ở cửa trại giam, đồng chí chính ủy trung đoàn đứng viết nốt mệnh lệnh vào cuốn sổ tay đi trận. Đồng chí đưa mảnh giấy cho người trung đội trưởng thấp lùn:
- Danh sách tù binh đây, đồng chí An-ti-pốp cầm lấy. Lấy một tổ đi theo và áp giải họ về Nô-vô-gơ-rát - Vô-lưn-xki. Cho băng bó những người bị thương, rồi đặt họ nằm trên xe và cũng đưa về đấy cả. Áp giải họ chừng hai mươi dặm, sau đó để họ tự đi tiếp. Ở đây chúng ta còn bận việc khác. Song cẩn thận nhé, đừng để xảy ra chuyện gì ngược đãi đối với họ.
Pa-ven lên ngựa, quay bảo Xa-miên:
- Anh nghe rõ chứ? Chúng nó treo cổ anh chị em ta, mà chúng ta thì dẫn họ đi không được ngược đãi họ ! Không dễ như thế đâu!
Đồng chí chính ủy quay lại, nhìn vào mặt Pa-ven và đồng chí nói những tiếng gọn, rắn rỏi, như nói với chính mình:
- Ai ngược đãi tù binh giải giáp rồi sẽ bị xử bắn. Chúng ta không có như bọn bạch vệ.
Rời trại giam, Pa-ven nhớ lại những lời cuối trong bản mệnh lệnh của Hội đồng quân sự cách mạng đã đem ra đọc trước toàn thể trung đoàn:
"Đất nước của thợ thuyền và dân cày yêu mến Hồng quân của mình và lấy làm tự hào về Hồng quân. Đất nước đòi hỏi phải giữ cho lá cờ của Hồng quân trong sạch, không một vết nhơ".
Pa-ven nhủ thầm trên môi: "Không một vết nhơ". |
|