|
TÂY BAN NHA
Hai lần đến Barcelone
Năm 2000, nhân đang ở Marseille (Pháp) thăm cô bạn thân, tôi mua open-tour của sinh viên đi Barcelone (Tây Ban Nha) chơi. Vì là tour dành cho giới trẻ nên giá rất phải chăng, dù phải ngồi trên xe suốt đêm và ngủ gà ngủ gật đến mười giờ sáng mới đến. Anh chàng hướng dẫn cũng trẻ măng, tự xưng mình kiêm luôn chức giám đốc công ty du lịch và chiếc xe bus là tài sản để khởi nghiệp. Barcelone là tour duy nhất của công ty và cuối tuần nào anh cũng đến đây. Thế nhưng, sức hút của thành phố sôi động là không bao giờ cạn.
Nghe anh nói, mọi người thấy phấn chấn sau mười mấy tiếng đồng hồ ngồi xe “tăng kể” (tê cẳng”. Tuy nhiên anh cảnh báo: “Tuần nào tôi cũng dặn đi dặn lại phải cẩn thận bị móc túi ở Barcelone. Vậy mà tuần nào cũng có nạn nhân!”. Anh khuyên đừng dùng ví, dùng bóp mà nhét tiền vào túi quần thật sâu, chia nhỏ tiền ra nhiều túi theo nguyên tắc “đừng bỏ trứng vào cùng một rổ”. Tôi lật đật nghe theo, passport thì đeo khư khư trước ngực, bỏ sâu vào hai ba lớp áo.
“Cái sân vuông” Reial
Xe dừng tại đại lộ La Ramblas trứ danh, chúng tôi đeo ba lô rồng rắn đi theo hướng dẫn. “Khi các bạn đi theo đoàn và đeo ba lô như thế này, đã có rất nhiều cặp mắt đạo chích phục kích rồi đó! Nhớ nguyên tắc của tôi: không dùng ví, không đeo ba lô!”. Chúng tôi quẹo vào quảng trường Reial yên tĩnh và khách sạn Roma Reil hiện ra khiêm tốn mà duyên dáng. Ở Barcelone có rất nhiều những quảng trường be bé thế này, đó là những cái sân vuông được bao bọc bốn phía là những dãy nhà có mái vòm vùng Địa Trung Hải, những cửa sổ gỗ xám cổ kính, ban công xinh xinh.
Khách sạn tôi trọ là một căn nhà nằm trong “cái sân vuông” đó. Xung quanh là các shop bán hàng lưu niệm, quán ăn, tiệm cà phê. Chính giữa sân là một bồn nước có bức tượng chú bé đứng, nước phun lên nhè nhẹ yên bình. Đặc biệt, những cây cọ xanh miền duyên hải mọc lộn xộn chen chân cùng những chiếc cột điện cong cong trông thật… Tây Ban Nha. Dù chưa một lần đặt chân đến đây, thốt nhiên tôi thấy thân thương quá đỗi. Phải rồi, chính không khí bình lặng của những nhóm người ngồi chơi cờ, đọc báo và nhâm nhi cà-phê đã làm tôi liên tưởng đến Sài Gòn của những năm tám mươi. Tôi ở chúng phòng với hai cô sinh viên người Mexico và cô giáo của họ người Pháp, dạy tiếng anh tên Jacqueline. Chúng tôi vui vẻ trò chuyện rồi rủ nhau cùng đi dạo Barcelone chung.
Phố xá thân thiện
Đại lộ La Ramblas là ưu tiên số một của chúng tôi, vì thật ra chỉ cần bước chân ra khỏi “cái sân vuông” Reial là đã đến con đường nhộn nhịp này. Dân Tây Ban Nha đẹp quá! Nam nữ gì cũng mặn mà, chân mày rậm đen, lông mi cong vút, mắt sậm màu, môi đỏ rực, mặt ửng hồng, da bánh mật. Nhìn họ như một bức tranh chân dung được tô vẽ cẩn thận, không mấy “trớt quớt” như dân phương Bắc. Họ không quá cao, trông cũng “xứng” với tôi nên tôi thấy an ủi phần nào cho chiều cao cần phải bổ sung thêm can-xi của mình.
Trên con đường La Ramblas, nam thanh nữ tú đứng bán hàng lưu niệm, diễn trò tạp kỹ (xiếc, khiêu vũ theo điệu Flamenco, giả làm tượng, hát, đàn… ) hoặc dạo chơi xôm tụ. Đi ngang một nhóm người đang diễn trò, tôi còn bị anh hề chạy đến ôm, giật mình vì bất ngờ, mặt tôi trông “quái” lắm hay sao mà đám đông cười nắc nẻ. Dù “quê”, tôi cũng mau “huề” vì những ánh mắt thân thiện xung quanh. Đâu phải họ giễu cợt, đó là một hình thức làm quen và lôi kéo khán giả gần gũi hơn với nghệ sĩ đường phố. Theo dòng người đưa đẩy, tôi lọt vào một con hẻm vắng lặng có ngôi giáo đường trầm mặc đứng lẻ loi. Một người đàn ông tóc hoa râm đang trải lòng trên những phím guitar réo rắt. Tôi nhớ ba tôi quá. Ông cũng hay ôm đàn những lúc rảnh rỗi và rất mê đàn guitarists.
“Rậm rực” về đêm
Càng về chiều Barcelone càng sôi động, chúng tôi đi thăm vài bảo tàng và đến quảng trường nhạc nước. Thành phố đẹp lạ với lối kiến trúc… không giống ai. Mọi thứ đều “cong cong - quẹo quẹo”, hình dáng uốn lượn điệu đà, màu sắc sặc sỡ. Đó là bàn tay của kiến trúc sư tài hoa AntonyGaudi, ông thích dùng gốm màu, ghép các mảnh vỡ lại theo kiểu “mosaique”, rất sống động và công phu.
Đến tối, tôi cùng cô giáo Jacqueline xếp hàng ở một nhà hàng nằm sát khách sạn, chung trong “ cái sân vuông”. Theo lời cô, người đã đến Barcelone nhiều lần, nhà hàng này giá hợp lý mà ngon vô cùng. Thế thì xếp hàng hơi lâu một tí cũng được. Đúng như lời Jacqueline, tôi gọi món cơm Paella đặc trưng Tây Ban Nha và hoàn toàn hài lòng. Tôi đã ăn món này ở Pháp nhưng không ngon bằng. Cơm trộn với gia vị gì đó có màu vàng như nghệ (gần giống ngũ vị hương), các loại hải sản như sò, tôm, mực rải lên tươi ngon.
Ăn tối xong, hai cô sinh viên Mexico liền đi discotheque, ngoài phố “rậm rực” lắm, thiên hạ náo nức lạ kỳ, từ choai choai cho đến sồn sồn, ai cũng có vẻ đam mê và sẵn sàng cho một đêm cuối tuần “xả láng”. Tôi theo chân các cô gái Mexico ra bến cảng, vào một câu lạc bộ nhỏ nhảy nhót chút đỉnh rồi chuồn sớm vì sức người có hạn. Thật đúng là muốn làm dân chơi cũng không phải dễ. Nếu có sức khỏe hơn, tôi sẽ thức trọn đêm cùng Barcelone, không phải trong những discotheque hay quán bar náo nhiệt, chỉ cần đi tản bộ dọc bến cảng hoặc bờ biển. chờ mặt trời lên cùng những cánh hải âu trong ban mai tươi đẹp.
Một chuyện đau lòng
Ngày hôm sau, tôi tranh thủ đi vào nơi nữa của Barcelone như giáo đường Barcelone như giáo đường La Sagrado Familia, khi hoa viên và một nhà nguyện vô danh. Ở nhà nguyện này, “một chuyện đau lòng” đã xảy ra cho cô giáo Jacqueline, người bạn mới quen của tôi. Sau khi cầu nguyện với biết bao ước vọng, chúng tôi nhí nhảnh đứng chụp hình trong sân sau. Jacqueline đặt chiếc túi giấy của mình xuống một góc cột rồi chạy đến chụp hình chung với tôi. Trong tích tắc đó, một bóng đen lướt qua, chiếc ví căng phồng trong túi giấy của Jacqueline biến mất. Chúng tôi ngỡ ngàng, ngơ ngác, nghi ngờ. Lẽ nào chiếc ví đã về tay đạo chích Barcelone? Sự thật lúc nào cũng là sự thật, dù ta có muốn chối từ. Jacqueline đau khổ, thất thần, tê tái. Lúc đó, tôi cugx buồn giận dùm cho cô, cũng đi ra đồn cảnh sát trình báo lung tung. Tôi không ngờ rằng chỉ một tuần sau, chính tôi cũng gặp phải “chuyện đau lòng”. Tôi ước mình cũng bị đạo chích Barcelone thó ví, như thế cũng còn ít khổ tâm hơn khi phát hiện mình bị mất cắp hơn hai ngàn đô bởi một một người bà con khá thân thiết vì quá cả tin. Cảm giác bàng hoàng, tức giận, ngơ ngẩn khó tả nên lời. Sau sự cố đó, tôi rút ra kết luận thương đau: những nơi an toàn nhất là những nơi nguy hiểm nhất. Và với tôi, Barcelone vô cùng an toàn.
Trở lại Barcelone
Năm 2005, tôi trở lại Barcelone một tuần nhân hội nghị chuẩn bị tung sản phẩm mới của Tập đoàn Sanofi Aventis. Cùng hai cô đồng nghiệp Hàn Quốc, tranh thủ chút thời giờ rảnh hiếm hoi chúng tôi bắt taxi đến La Sagrado Familia thăm viếng. Lần trước ngôi giáo đường này đang sửa, tôi hy vọng lần này đã hoàn tất. Thế nhưng sau năm năm, tôi ngạc nhiên khi thấy tiến độ thi công không nhích lên tí nào. Và càng kinh ngạc hơn, tôi được biết ngôi giáo đường nổi tiếng này đã được khởi công từ 1884, qua hơn một thế kỷ, công trình vẫn chưa hoàn tất! Chính tính chất “chỉ đẹp khi còn dang dở” của La Sargado Familia đã làm nơi đây trở thành điểm du lịch “hot” nhất Barcelone. Ngôi giáo đường sẽ tiếp tục ở trong tình trạng chẳng bao giờ hoàn tất, mãi mãi và mãi mãi. Xem ra “ăn tết Congo” còn chờ được chứ “ăn tân gia La Sargado Familia” sẽ là chuyện không tưởng.
Lần thứ hai quay lại Barcelone, thành phố vẫn trẻ trung mà tôi chẳng còn là cô bé vô tư nữa rồi. Tôi không có dịp quay lại thăm “cái sân vuông” Reial nhưng thấy nhớ cô giáo Jacqueline quá. Khách sạn Rome Reil ngày nào với tôi sao ấm cúng và những người bạn cùng phòng thật thân thương. Giờ ở một mình trong căn phòng sang trọng của khách sạn năm sao Rey Juan Carlos I, tôi không có cảm giác mình đang ở Tây Ban Nha chút nào. Tôi tự nhủ, sẽ có lần thứ ba, Barcelone sẽ lại đón tôi về, với những hàng cọ miền Duyên Hải, với vũ điệu Flamenco sôi động, với không khí hội hè, những ánh mắt nhung đen…
BỒ ĐÀO NHA
Trên đời này còn có một Lisbon
Dù Bồ Đào Nha nằm sát nước láng giềng nổi tiếng Tây Ban Nha, ít người nào chịu khó tìm đến với đất nước cũng lừng lẫy một thời với những chuyến thám hiểm tìm vùng đất mới này.
Từ Paris, tôi lấy máy bay đến thủ đô Lisbon với nhiều hồi hộp và phấn khích. Người sếp gốc Paris đã tử tế giới thiệu tôi đến trú ở nhà một gia đình sống ngay trung tâm. Chủ nhà ra phi trường rước tôi khá thân thiện và phân bua về tình hình kẹt xe tại Lisbon. Hình như với bà Maria, nạn kẹt xe thật đáng xấu hổ. Xe hơi tràn lan khắp nơi, ai cũng lấy báo ra vừa đọc vừa nhích trong trật tự. Thỉnh thoảng một vài tiếng còi vang lên nhắc nhở người trước đang chăm chú với một tin giật gân nào đó. Nếu Maria từng đến Việt Nam, hẳn bà không việc gì phải đỏ mặt lên và cứ phân trần dông dài về cái nạn kẹt xe giờ cao điểm này.
Thành phố trên bảy ngọn đồi
Càng khám phá Lisbon tôi càng thấy bất ngờ bởi nét duyên lạ của một thành phố châu Âu ít được nhắc đến. Lisbon nằm trên bảy ngọn đồi liền kề nhau nên nhà cửa nhấp nhô rất ngộ nghĩnh. Từ ngọn đồi này sang ngọn đồi kia, người ta dùng thang máy. Và để di chuyển từ thấp lên cao, dân Lisbon sử dụng những chiếc xe điện chỉ dài bốn mét. Đây là nét đặc biệt nhất của Lisbon so với những thành phố khác ở châu Âu. Những ngôi nhà nhỏ xinh xắn được ốp gạch men có những họa tiết màu xanh của sứ. Việc dùng gạch men azulejos làm vật liệu trang trí là một trong những nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của Bồ Đào Nha. Hàng cọ dài thẳng tắp và những con đường lót đá kỳ công theo những họa tiết tinh xảo với hai màu đen trắng cũng là nét lạ của đất nước này.
Đại lộ Liberdade, có nghĩa là “Tự do”, là một trong những con đường đẹp nhất châu Âu, sang trọng và rực rỡ không thua gì Champ Elysée của Paris. Cây cột cao có tượng Marquez de Pombal nằm ở đầu đường là một trong những di tích tưởng nhớ công trạng của hầu tước Pombal, người đã dùng ý chí sắt đá xây dựng lại Lisbon từ đống tro tàn vì trận động đất năm 1755.
Saint Georges: vương miện thành phố
Quảng trường Figueira với pháo đài Saint Georges có mười tòa tháp trải dài theo lối kiến trúc của người Moor. Pháo đài nằm trên ngọn đồi cao nhất nên dù đứng ở bất kỳ đâu ở Lisbon ta cũng nhìn thấy Saint Georges ngạo nghễ và xinh đẹp như một vương miện của thành phố. Bà Maria e dè nhìn thân hình không năng thể thao của tôi, hỏi có đủ can đảm leo mấy trăm bậc thang lên pháo đài trứ danh này ngắm thành phố không. Bật cười sau cái lắc đầu ngại ngùng của tôi, Maria dắt tôi đến thang máy Santa Justa. Tôi ngỡ ngàn nhìn thang máy bằng sắt nằm ngoài trời như một cái tháp duyên dáng được trang trí bằng những đường viền đăng ten bao phủ bảy tầng lầu. Thang máy cao bốn mwoi lăm mét nên đứng trên đỉnh ta tha hồ thấy Lisbon trải dài bên dưới. “Thang máy này xây từ năm 1902 lận đó - Maria tự hào cho biết - do kiến trúc sư người Bồ Đào Nha Mesnier du Ponsard, một đồ đệ của Gustave Eiffel”.
Chúng tôi bách bộ tiếp đến Praca do Comercio, tức là quảng trường Thương Mại. Đây là quảng trường chính của Lisbon, rộng ngút mắt với các tòa dinh thự của chính phủ bao quanh. Từ đây có thể nhìn ra dòng sông Tagus ôm lấy thành phố. Buổi tối khi chồng đi làm về, bà Maria bảo ông đưa tôi ra bến cảng, chỉ cho tôi thấy chiếc cầu treo xa xa trong ánh đèn vàng là làn mưa phùn lất phất. Cây cầu do nhà độc tài Salazar cho xây và khánh thành năm 1966. Vào thời điểm đó, cây cầu treo dài hai cây số rưỡi, rộng sáu mươi mét này được xem là kỷ lục của châu Âu.
Tháp Bélem và bánh caramen
Ngày hôm sau, hai con trai song sinh của bà Maria xung phong đưa tôi tiếp tục thăm thành phố. Được hai hướng dẫn viên đẹp trai như những vị thần La Mã mới mười tám tuổi đưa đi, tôi thấy Lisbon… hấp dẫn hẳn lên. Chúng tôi lấy xe điện ra Tháp Belém. Tháp xây bằng đá sáng màu, nằm ở lưng chừng mặt nước sông Tagus. Bên trong tháp Belém, người ta trang hoàng như một chiến hạm tượng trưng cho tinh thần đam mê thám hiểm bằng những chuyến vượt biển của người Bồ Đào Nha.
Họ dẫn tôi đến tiệm bánh kem caramen ở gần tháp Belém. Quán đã có mặt từ năm 1837 với kiểu dáng cổ kính của những bức tranh gạch men màu trắng xanh. Chỉ đạt đến mức đón tiếp ngày càng đông khách, phải mở rộng thêm. Bánh này làm bằng bột gạo có mật ong, bơ và quế. “Đơn giản vậy nhưng chẳng ai bắt chước được”, Marc và Mathieu giải thích. Hương quế thơm dịu hòa với vị mằn mặn của bơ, vị ngọt thanh của mật và độ nướng vừa tới làm caramen tan ra của chiếc bánh khiến tôi muốn… ngừng thở.
Những ngày tiếp theo chẳng còn ai rảnh rang đưa đi thăm thú nhưng tôi lại hoàn toàn thoải mái được tự do chiêm ngưỡng Lisbon theo kiểu của mình. Tôi không ghé vào các bảo tàng nghệ thuật rất phong phú của thành phố theo đề nghị của bà Maria vì kiến thức quá eo hẹp của mình trong lĩnh vực này. Tôi thích đi bách bộ, ngắm những tòa nhà có lối kiến trúc lạ mắt nhấp nhô trên bảy ngọn đồi, những hàng cây ô-liu xanh mướt thanh bình, những con hẻm nhỏ lót đá kỳ công. Bất chợt trên những bước chân vô định của mình, tôi rơi vào một góc sân có ngôi giáo đường bé nhỏ, và tiếng chuông thánh thiện vang lên. Những bà mẹ trẻ đẩy xe nôi hẳn đang cầu an cho con mình.
Thư thái và thanh bình
Dù chỉ lưu lại Lisbon một tuần lễ ngắn ngủi, tôi thấy thật yêu thành phố này. Lisbon quá hiền hòa, dù hiện đại nhưng con người vẫ giữ lại cho mình tác phong thư thái. Chẳng thấy ai rảo bước thật nhanh, chen lấn tranh thủ hay tỏ thái độ nôn nóng. Ai cũng bình tĩnh, thong thả và thân thiện với nụ cười túc trực trên môi. Khác xa với dân Paris hay London làm ra vẻ bận rộn, hay kiêu kỳ và thích nhăn nhó. Lại càng không thể so sánh dân Bồ Đào Nha chân thật với dân Ý hay Tây Ban Nha vốn nhiều “thủ thuật” để móc túi (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) du khách. Đất nước này nằm giáp hai mặt với Đại Tây Dương và Địa Trung Hải nên con người cũng được ảnh hưởng sự mạnh mẽ và phóng khoáng của người dân biển.
Tôi còn một ấn tượng khó phai khác ở Lisbon. Không như dân Ý và Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, đặc biệt là giới trẻ, rất chịu khó học ngoại ngữ. Tôi nói tiếng gì là được đáp lại bằng tiếng đó (dĩ nhiên tôi chưa thử thách họ bằng tiếng Việt). “Quê” nhất là tôi bày đặt nói tiếng Bồ Đào Nha mua thẻ điện thoại. Ông già bán hàng kiên nhẫn lắng nghe rồi cười đề nghị “Cô cứ nói ngôn ngữ nào mà mình muốn, đừng vất vả làm gì!”. Yêu mến người dân nơi đây, tôi tự nhủ sẽ xây dựng một nhân vật nam thật “manly” người Bồ Đào Nha. Khi tôi nói ý định này với vợ chồng người chủ nhà Fernando - Maria đêm chia tay, thật bất ngờ ông chủ đề nghị “Lấy tên tôi làm tên nhân vật chính nhé!”. Fernando trong Oxford thương yêu không có tí gì “dính dáng” đến ngoại hình tròn trịa của ông, ngoại trừ tính bộc trực, nhiệt tình và thân ái.
Bởi Lisbon, tôi tiếc cho một thành phố quá xinh đẹp và duyên dáng lại không chịu khó làm marketing để thu hút khách thập phương. So với những thành phố châu Âu khác, Lisbon nào kém cạnh gì. Tuy hàng năm thủ đô Bồ Đào Nha cũng đón hơn hai mươi triệu du khách, nhưng Lisbon phải xứng đáng hơn con số này. Nhưng ngẫm lại, người Bồ Đào Nha đâu thèm khoe khoang, họ cứ bình thản sống, ung dung thụ hưởng cảnh thanh bình và tự biết, trên đời này còn có một Lisbon…
ÁO
Những nhạc sĩ thành Vienne
Ngày bé, được ông nội cắt nghĩa chuyện đời xưa “Những nhạc sĩ thành Vienne” rồi kết luận đó là nơi chỉ dành cho âm nhạc, tôi đinh ninh trong lòng người dân nào sống ở đây cũng yêu những giai điệu trữ tình và có một tâm hồn thanh thoát như tiếng vĩ cầm sang trọng. Và rồi, tôi đã đến Vienne, thủ đô nước Áo, quê hương của nhà soạn nhạc thiên tài Mozart tình cờ vào đúng đầu năm 2006, khi khắp thế giới đang tổ chức lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh của ông.
Nghe nhạc Mozart
Thú thật tôi không có kiến thức về âm nhạc cổ điển nên chỉ mong đến Vienne tìm ngắm những công trình kiến trúc, cung điện hoàng gia từng in dấu nữ hoàng Sissi lộng lẫy và dòng sông Danuble xanh. Thế nhưng khi chỉ vừa bước chân ra khỏi hầm xe điện ngầm dẫn đến vùng trung tâm thành phố, một nhóm những nhân viên tiếp thị trong trang phục áo choàng lịch lãm của thế kỷ mười tám đã vây lấy mời chào du khách mua vé xem hòa nhạc vào buổi tối. Họ nói nếu không mua từ sáng, đến tối không còn một chỗ trống nào. Đến Vienne mà không nghe hòa nhạc, nhất là trong thời điểm sinh nhật Mozart là một điều đáng tiếc. Những người khách du lịch xung quanh tôi ai cũng móc ví ra dù họ đến từ Đông Âu, nơi có mức sống còn khá thấp.
Người bạn Việt Nam đi cùng tôi xuýt xoa khen những tòa nhà cổ, những bức tượng, những hàng cây của Vienne thật ấn tượng, nhưng công bằng mà nói tôi lại thấy nơi đây không có bản sắc gì đặc biệt so với những thành phố châu Âu khác. Chúng tôi lang thang khắp thành Vienne rồi vào thăm những cửa hàng bán đồ lưu niệm. Những chiếc áo thun có in dòng chữ “This is Austria, not Australia” và “No kangaroo in Austria” cho thấy hẳn nhiều người không phân biệt được hai nước này do cách đọc gần giống nhau. Đến chiều khi gặp Stephan, dân Vienne chính hiệu (được một người bạn giới thiệu), anh cho biết người dân Áo rất khó chịu nếu thế giới lầm lẫn mình với nước Úc.
Trời mùa đông mau tối, thành Vienne lên đèn trang trí rực rỡ nhưng chừng mực. Chúng tôi vào một viện bảo tàng nghệ thuật nhỏ nghe hòa nhạc. Có thể vì được nghe nhạc Mozart ngay tại Vienne nên tôi thấy mười hai nhạc công trẻ tối hôm đó chơi thật xuất sắc, chưa bao giờ trong đời tôi nghe nhạc giao hưởng mà thấy xúc động kỳ lạ đến vậy. Nhắm mắt lại tôi như thấy cảnh núi non đẹp hùng vĩ, rừng cây xanh ngút mắt và tiếng suối chảy trong lành. Những cảnh vật xinh tươi trong bộ phim ca nhạc nổi tiếng Giai điệu hạnh phúc (La mélodie du bonheur) được quay tạ Áo trong những năm 1960 lại hiện ra trong tôi, thiết tha, lãng mạn mà hùng tráng.
Ngăn nắp - lạnh lùng
Stephan và bạn gái, những thanh niên Áo thành đạt trong xã hội, đón tiếp chúng tôi trong căn hộ vô cùng ngăn nắp. Stephan là kỹ sư hàng không, bạn gái làm người dẫn chương trình truyền hình. Họ ngụ tại một khu phố ngay trung tâm thành phố, yên tĩnh và sang trọng. Căn hộ của đôi bạn Áo sạch sẽ còn hơn cả.. bệnh viện đến mức làm tôi thấy thật “lạnh” và ngại ngùng. Không phải họ không biết cách bài trí nhà cửa, ngược lại học cố tình sắp xếp mọi thứ phải hoàn hảo trong một trật tự nhất định với nhiều khoảng trống, trong suốt về tầm nhìn và hạn chế tối thiểu những vật dụng trang trí rườm rà. Tôi từng trú ở nhiều nhà người châu Âu khác, họ cũng ưu tiên tối đa cho sự ngăn nắp và sạch sẽ nhưng phong cách bài trí ấm cúng và thân thiện hơn. Stephan thú nhận dân Áo và Đức chuộng sự ngăn nắp, sạch sẽ, rộng thoáng. Họ hiếm khi sống theo kiểu ngẫu hứng mà khá kỷ luật. Đôi tình nhân rủ chúng tôi cùng đi ăn ở một nhà hàng trung bình và sau bữa ăn họ sòng phẳng rút tiền ra trả phần mình một cách dứt khoát. Họ không chấp nhận được mời mà cũng chẳng thích mời ai.
Giao thiệp với người phương Tây khá nhiều, song hành động “không dây dưa” của đôi bạn Áo làm tôi thấy vô cùng ái ngại. Thật lạ, thế mà đất nước này lại sinh ra những thiên tài âm nhạc như Mozart, Schubert, Schomberg. Và đây cũng là quê hương của những phụ nữ xinh đẹp mà nổi loạn như nữ hoàng Sissi và hoàng hậu Marie Antoinette (cho đến nay người Pháp khi nói “L’Autrichienne” - Người đàn bà Áo, đều ám chỉ đó là Antoinette). Về sau nữ minh tinh Romy Schneider của Áo cũng làm nức lòng thế giới vì sắc đẹp sang trọng mà lãng mạn của mình khi hóa thân vào vai Sissi. Cuộc đời của Romy cũng nhiều sóng gió và kết thúc bằng một cái chết trẻ rất bi kịch.
Danuble xanh?
Sáng hôm sau chúng tôi tìm đường ra sông Danuble. Dòng sông xanh của một thời nay vẫn còn vẻ quyến rũ. Trong cái rét mùa đông, Danuble không có được màu xanh đặc trưng của mình nhưng dòng sông trải dài, rộng thoáng, sạch sẽ tạo cảm giác tuy “lạnh” nhưng bình yên. Không muốn làm phiền Stephan dù anh có lịch sự mời quay lại nghỉ ngơi, chúng tôi tiếp tục tự lang thang chờ đến giờ tàu chạy. Bất chợt trên đường ra ga, chúng tôi phát hiện một nhà hàng sang trọng có bảng hiệu “Sài Gòn”, ngó nghiêng vào bên trong thấy những chai bia Sài Gòn được trang trí sang trọng trên các quầy, những người phục vụ châu Á lịch sự đang cúi chào thực khách. Dù đang đói và thèm một món ăn Việt nhưng chúng tôi không muốn bước vào vì cách bài trí của nhà hàng cũng “lạnh” không kém gì căn hộ của Stephan.
Tạm biệt kinh thành âm nhạc, trong tôi còn lưu mãi những giai điệu của Mozart và các nhạc công trẻ nhiệt tình, dẫu biết rằng, không phải người dân Vienne nào cũng có một tâm hồn thanh thoát như tiếng vĩ cầm thiết tha. |
|