|
52#
Tác giả |
Đăng lúc 12-5-2012 18:55:38
|
Xem tất
CHƯƠNG IV
Biên giới là hai cột biểu. Hai cột biểu đối diện nhau, im lặng và thù địch, là hiện thân của hai thế giới. Một chiếc làm bằng thân cây bào nhẵn, trơn tru, sơn vằn đen trắng như chòi canh của cảnh sát. Con diều hâu một đầu bằng gỗ đóng chắc bằng đinh to tướng vào đỉnh cột. Con diều hâu xù lông cánh, móng như bíu lấy cột sơn vằn, mỏ cong vênh vểnh ra đằng trước, mắt càu cạu nhìn cái biển sắt trước mặt. Cách sáu bước chân là chiếc cột khác, tròn trĩnh, bằng gỗ sên để mộc, chôn thật sâu xuống đất. Trên cột có một tấm biển bằng sắt mang hình búa liềm. Hai cột biển đều trồng trên một dải đất bằng, thế mà giữa hai thế giới đó là một vực sâu thăm thẳm. Người nào liều mạng mới dám vượt qua sáu bước chân đó.
Biên giới là đây.
Trên một khoảng dài hàng ngàn cây số, từ Hắc Hải chạy đến cực Bắc, cho đến tận đại dương băng giá dựng lên cả một dãy cột biển sừng sững, không động. Những người lính gác không biết nói ấy, mang trên những tấm mộc bằng sắt huy hiệu vĩ đại của lao động, đứng canh phòng cho các nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa. Chiếc cột biển đầu gắn con diều xòe cánh ấy đánh dấu biên giới giữa hai Nhà nước U-cơ-ren Xô-viết và nước Ba Lan của bọn địa chủ quý tộc. Thôn Bê-rê-dơ-đốp nhỏ xíu khuất vào rừng sâu. Cách thôn đó mười cây số là biên giới. Chỗ ấy giáp mặt với thôn Cô-rê-xơ bé nhỏ của Ba Lan. Giữa khoảng thôn Xư-la-vút và thôn A-na-pô- li là khu đóng quân của tiểu đoàn biên phòng X.
Hàng cột biển nối tiếp nhau chạy ngang cánh đồng phủ tuyết, xuyên qua các ngả rừng, đổ xuống các vực nước, rồi lại bò lên các gò cao, nhấp nhô trên các đồi núi và khi tới một con sông thì từ trên bờ cao, hàng cột đưa mắt dò xét nhìn xuống dải đồng bằng tuyết phủ trắng xóa bên kia của nước ngoài.
Trời lạnh cóng, nước đóng băng. Tuyết vỡ tan kêu răng rắc dưới gót ủng lông cừu. Trước cột biển mang hình búa liềm nổi bật lên bóng người đội mũ chiến đấu kiểu dũng sĩ, với bước đi chắc nịch, đang đi tuần trong khu vực mình. Người Vệ quân đỏ tầm vóc cao lớn ấy mặc áo ca-pốt xám, ren cổ xanh, chân đi ủng dạ. Ngoài chiếc áo ca-pốt lại khoác thêm một chiếc áo tơi cao cổ rộng bằng da cừu, đầu đội một chiếc mũ dạ ấm áp. Anh mang bao tay bằng da cừu. Cái áo tơi dài chấm gót dù bão tuyết dữ dội đến đâu cũng giữ được cho người ấm. Khẩu súng trường khoác vai đè lên áo tơi. Anh Vệ quân đỏ khoái trá hút khói thuốc mộc, đi theo lối mòn, áo dài quét tuyết. Trên biên cương Xô-viết, giữa đồng quang, các chiến sĩ biên phòng đứng người nọ cách người kia một cây số để mắt vừa nhìn thấy nhau. Bên phía Ba Lan, mỗi cây số có hai lính đứng.
Đi ngược lại phía anh Vệ quân đỏ là một người lính Ba Lan cũng đang đi tuần bên địa phận mình. Người lính Ba Lan mang đôi giày cao cổ thô kệch, mặc quần áo xanh ngả xám, ngoài khoác áo ca-pốt có hai hàng khuy lấp lánh. Trên đầu đội mũ "liên bang” mang huy hiệu diều hâu trắng;( Một thứ mũ của dân tộc Ba Lan gọi là "Konfédératka" mà những người cách mạng thời cách mạng liên minh ở Ba Lan năm 1768 đã dùng. Về sau bọn phản động Ba Lan cũng dùng mũ này cho quân lính để che giấu những đã tâm phản cách mạng của chúng. ) trên ngù dạ ở cầu vai cũng diều hâu, trên nẹp cổ áo cũng diều hâu. Nhưng ngần ấy con diều hâu cũng không làm cho người lính thấy ấm hơn. Rét cóng làm anh ta buốt thấu xương. Anh ta lấy tay xát hai tai đã tê cóng, vừa đi vừa đập đế giày vào nhau, hai bàn tay mang găng mỏng cũng bị tê cóng. Không một phút nào anh ta có thể dừng chân được, dừng lại thì giá rét như khóa lấy chân tay. Vì thế, lúc nào anh ta cũng cứ bước, đôi lúc lại chạy như ngựa phi nước kiệu. Khi hai người lính biên phòng đã đi gần nhau, người lính Ba Lan quay lại và đi song song với đồng chí Vệ quân đỏ.
Hai bên biên giới không được nói chuyện với nhau. Nhưng khi mà chung quanh vắng tanh vắng ngắt, cách một cây số mới có bóng người, thì ai biết được hai người lính này im lặng mà đi hay đang vi phạm luật lệ quốc tế?
Người lính Ba Lan thèm hút thuốc, nhưng lại bỏ quên bao diêm ở trại. Đang lúc ấy, gió cứ cố tình tạt cái mùi thuốc lá mộc quyến rũ từ phía Xô-viết sang mới hại chứ! Người lính Ba Lan ngừng tay xát tai tê buốt của mình và quay nhìn ra đằng sau: vì đôi khi có đội ba tui, thường do tên đội dẫn đi, có lúc do chính tên quan hai dẫn đi nữa, từ trên một đỉnh núi cao nào đó nhô ra bất ngờ, để kiểm soát các trạm gác. Nhưng lần này chung quanh không một bóng người. Tuyết óng ánh sáng dưới ánh nắng. Trên trời không một bông tuyết rơi.
- Đồng chí ơi, cho tôi xin que diêm. - Anh ta là người đầu tiên vi phạm điều luật quốc tế ác hại. Anh ta hất ra sau lưng khẩu súng trường kiểu bắn được mấy phát liền của Pháp, đầu có lắp lưỡi lê con kiếm, tay anh ta lóng cóng vất vả lắm mới móc trong túi áo ca-pốt ra được gói thuốc lá rẻ tiền.
Đồng chí Vệ quân đỏ nghe rõ lời khẩn cầu của anh lính Ba Lan. Song điều lệnh quân sự trong công tác biên phòng ngăn cấm chiến sĩ không được bắt chuyện với người bên kia biên giới. Hơn nữa, đồng chí không hoàn toàn hiểu hết những tiếng Ba Lan của anh lính kia. Cho nên đồng chí lại tiếp tục đi, đặt mạnh chân xỏ ủng lông cừu êm ấm lên lớp tuyết vỡ kêu lạo xạo.
- Đồng chí bôn-sê-vích ơi, cho tôi xin tí lửa hút thuốc, ném cho tôi mượn bao diêm. - Lần này người lính Ba Lan nói tiếng Nga.
Người Vệ quân đỏ nhìn anh ta chăm chú. "Hình như giá rét làm cho "pan" buốt thấu gan rồi. Gọi là anh lính tư sản mà đời anh ta thật cực như con chó. Rét cóng thế này mà bọn chúng bắt anh ta ra đây, chỉ cho được manh áo ca-pốt nhỏ xíu thổ tả. Đấy, anh ta nhảy cẫng lên như thỏ, và không có thuốc thì nhảy thế cũng chẳng ấm được". Đồng chí Vệ quân đỏ không quay đầu lại, ném sang bên kia bao diêm. Anh lính Ba Lan bắt ngay lấy và đánh luôn mấy que, mãi mới châm được thuốc. Bao diêm lại theo đường cũ ném trả lại qua biên giới. Lúc đó đến lượt anh Vệ quân đỏ vô tình phạm luật.
- Giữ lấy mà dùng, tôi còn bao khác.
Nhưng từ bên kia biên giới có tiếng đáp lại.
- Thôi, xin cảm ơn. Tôi mà cầm cái bao diêm này thì ăn hai năm tù mất.
Đồng chí Hồng quân nhìn bao diêm. Trên nhãn bao vẽ một chiếc máy bay. Ở chỗ đáng lẽ vẽ cánh quạt lại vẽ một quả đấm khỏe có đề chữ "Tối hậu thư”. Anh nghĩ thầm: "Ừ, mà phải, của này không hợp với họ" .
Người lính Ba Lan vẫn tiếp tục đi song song một chiều với đồng chí Hồng quân. Vì đi một mình giữa đồng không mông quạnh, chẳng có một bóng người, anh lính Ba Lan đó cũng thấy buồn.
Đôi yên nghiến kĩu kịp nhịp nhàng, hai con ngựa chạy nước kiệu đều và vững. Lông quanh mũi con ngựa giống đen nhánh dính nước đông lại: mũi nó thở ra thành lớp hơi trắng tan vào không khí. Con ngựa cái lang trắng mà người tiểu đoàn trưởng cưỡi có một dáng đi đẹp, nó nhằn nhằn dây cương, cúi cái cổ thon thon xuống thành một đường vòng cung. Hai người đi ngựa đều mặc áo ca-pốt xám, thắt dây lưng to bản, ở mỗi ống tay có ba gạch vuông đỏ, nhưng người tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp thì mang lon xanh và người đồng hành của anh ta thì mang lon đỏ. Ga- vơ-ri-lốp là chiến sĩ biên phòng. Các trạm của tiểu đoàn do anh chỉ huy đóng rải ra trên một khoảng dài bảy mươi cây số. Ở đây, anh là "chủ nhân". Người bạn cùng đi với anh là khách từ Bê-rê-dơ-đốp đến, đấy là chính ủy tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự tên là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.
Đêm ấy có tuyết rơi. Tuyết mềm mại, mịn màng phủ lấy mặt đất; chưa có một móng ngựa, một vết chân người chạm tới lớp tuyết trắng xóa. Hai người từ trong rừng cây đi ngựa ra bất thình lình phi nước kiệu trên cánh đồng. Độ bốn mươi thước lại có hai cột biển.
- Pơ-ru... u...!
Ga-vơ-ri-lốp ghì riết cương ngựa. Pa-ven quay ngoắt con hắc mã lại để biết tại sao bạn mình dừng ngựa. Ga-vơ-ri-lốp từ yên ngựa rướn người ra cúi xuống, nhìn chăm chú một vết lạ lùng kéo dài trên tuyết, trông hình như có ai lăn bánh xe nhỏ qua. Có một con thú ranh mãnh nào đã qua đây, chân nó bước chồng lên nhau, vẽ lên thành một đường mắt xích rất tinh khôn để đánh lạc dấu vết. Khó mà biết được dấu chân con vật đi từ đâu, nhưng đồng chí tiểu đoàn trưởng dừng ngựa lại không phải vì vết chân con thú ấy. Cách hai bước nữa, lớp dấu chân hình mắt xích lấm chấm tuyết phủ ấy lại có những dấu chân khác nữa. Có một người đã qua đây. Hắn không làm rối dấu chân mà đi thẳng về phía rừng. Xem dấu chân thì thấy rõ là người đó từ phía Ba Lan sang.. Đồng chí tiểu đoàn trưởng thúc ngựa theo dấu chân trên tuyết đi lại phía con đường vẫn đi tuần. Bên phía Ba Lan, dấu chân người đi xa có đến mươi thước nữa.
Tiểu đoàn trưởng càu nhàu:
- Đêm qua có kẻ vượt biên giới. Lại một lần nữa, trung đội ba đã để lọt, vậy mà trong báo cáo sáng nay không nói gì hết ! Lơ mơ thật.
Ga-vơ-ri-lốp có bộ ria đã hoa râm, hơi thở đông lại làm bạc bộ ria ấy và bộ ria bám vào làn môi trên, trông rất nghiêm.
Có hai bóng người đi lại phía tiểu đoàn trưởng và chính ủy. Một bóng người bé nhỏ đen ngòm, có đeo lưỡi lê Pháp ánh nắng sáng loáng; còn bóng kia thì to lớn bận áo tơi da cừu vàng. Con ngựa cái màu lang trắng bị thúc rảo bước chạy và hai người đi ngựa chẳng mấy chốc đã đến gần hai bóng người kia. Người lính Hồng quân sửa lại dây đeo súng trên vai và nhổ mẩu thuốc lá đã hút tàn xuống bãi tuyết.
- Chào đồng chí! Thế nào, khu vực đồng chí ở đây ra sao? - Anh lính Hồng quân to cao đến nỗi tiểu đoàn trưởng hầu như không phải cúi xuống khi giơ tay bắt. Anh chiến sĩ to lớn vội rút găng tay ra. Tiểu đoàn trưởng bắt tay anh.
Người lính Ba Lan từ xa theo dõi cảnh tượng đó. Hai sĩ quan Hồng quân bắt tay người lính như những người bạn rất hẩu với nhau. Trong nháy mắt, anh lính Ba Lan bỗng nảy ra mong ước: giá mình cũng được bắt tay lão quan tư Giắc-rếp-ski của mình như thế nhỉ ! Và mơ tưởng hão huyền ấy đột nhiên làm cho anh quay mặt đi.
Anh lính Hồng quân báo cáo: - Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, tôi vừa mới ra nhận gác.
- Đồng chí đã thấy dấu chân người đằng kia chưa?
- Báo cáo chưa thấy.
-Thế đêm qua ai gác từ hai giờ đến sáu giờ?
- Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, lúc ấy Xu- rô-ten-cô gác.
- Thôi được! Đồng chí nhìn cho kỹ nhớ.
Và lúc sắp đi tiểu đoàn trưởng giọng nghiêm nghị dặn trước:
- Đồng chí đừng có đi đi lại lại nhiều với bọn đó nhớ.
Khi đôi ngựa đã phi nước kiệu dọc con đường rộng chạy dài từ biên giới về thôn Bê-rê-dơ-đốp, tiểu đoàn trưởng kể chuyện:
- Ở biên giới phải tỉnh mắt mới được. Sơ ý một phút là có khi ân hận cay người. Chúng tôi ở đây làm việc là phải chịu mất ngủ. Ban ngày ban mặt, chúng vượt biên giới còn khó chứ ban đêm thì mình phải thính tai mới được. Đồng chí Pa-ven ạ, đồng chí nghĩ mà xem. Ở khu vực của tôi, có bốn thôn bị cắt làm hai (Hồi này có nhiều thôn ở biên giới Liên Xô- Ba Lan bị cắt làm đôi. Liên Xô một nửa, Ba Lan một nửa) cho nên rất nhiều khó khăn. Đặt bao nhiêu trạm gác cũng chẳng ăn thua gì. Cứ hễ có đám cưới hay có việc vui mừng gì là bà con phía bên kia lại kéo sang. Không có cách nào khác nữa: nhà bên này bên kia chỉ cách nhau có hai chục bước, con sông con thì con gà cũng lội qua được. Thêm vào đấy cái nạn buôn lậu. Hàng buôn lậu lặt vặt thôi, quả như thế. Một mụ đàn bà mang sang được chừng vài chai rượu Ba Lan 40 độ chẳng hạn. Nhưng cũng không ít những tên buôn lậu lớn có vốn rất to. Đồng chí có biết bọn Ba Lan làm gì không? Trong tất cả các thôn biên thùy, chúng đều mở cửa hàng bách hóa lớn: ai muốn mua gì cũng có. Tất nhiên, chúng làm thế chẳng phải vì nông dân nghèo khổ bên nước chúng nó đâu.
Pa-ven chăm chú nghe người tiểu đoàn trưởng. Cuộc sống của những chiến sĩ biên phòng thật là một công tác quân báo thường xuyên.
- Đồng chí Ga-vơ-ri-lốp này, việc đó chỉ là buôn lậu hay còn là thế nào nữa?
Tiểu đoàn trưởng, không cười nữa, đáp lại: - Cái hóc là ở chỗ ấy đấy.
Bê-rê-dơ-đốp là một thôn bé nhỏ trong tỉnh, xưa kia là khu cư trú của người Do-thái. Hai ba trăm nóc nhà dựng lên lộn xộn chẳng ra sao. Một bãi đất to họp chợ, giữa bãi là vài chục cửa hàng tạp hóa. Bãi đất bẩn thỉu, phủ đầy phân rác. Những nóc nhà nhỏ của nông dân như một cái dây lưng đánh đai lấy thôn này. Ở giữa khu người Do-thái ở, dọc đường đi đến lò lợn, có một cái nhà thờ Do-thái. Tòa nhà cũ kỹ trông thật ảm đạm. Thật ra, vào các ngày thứ bảy thì nhà thờ này không phải than phiền là vắng vẻ đâu: người đi lễ đến đông chật. Nhưng cũng chẳng được như ngày trước và cuộc đời của ông thầy tu "ráp-banh”( tên gọi thầy tu của đạo Do-thái) không được như ý ông mong muốn nữa. Nhất định là đã có chuyện gì rất tệ xảy ra vào năm 1917, vì ngay cả ở đây, là nơi hẻo lánh mà bọn thanh niên nhìn thầy "ráp-banh" không còn cung kính cho phải đạo nữa. Thật ra thì những người già vẫn kiêng những món ăn Chúa cấm, nhưng đã có biết bao gã trai hư hỏng ăn thứ xúc-xích lợn mà Chúa đã từng nguyền rủa. Chỉ nghĩ đến không thôi cũng đã đủ thấy tởm! Thầy tu Bô-rúc hầm hầm giận dữ, lấy chân đá con lợn sề đang rúc mõm vào đống rác kiếm ăn. Phải, thầy chẳng ưa gì việc thôn Bê-rê-dơ-đốp trở thành một trung tâm của quận này một tí nào. Một lũ cộng sản không hiểu từ đâu kéo đến, bày đặt ra lắm trò đời và mỗi ngày một đẻ ra thêm nhiều chuyện khó chịu. Hôm qua, một thầy ráp-banh đã từng thấy ở cổng biệt thự cũ của lão cố đạo một cái biển mới: "Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren, Ban chấp hành quận đoàn Bê-rê-dơ-đốp".
Cái biển ấy chẳng phải điềm lành. Lão thầy tu đang mải suy nghĩ thì mắt chạm ngay vào tờ yết thị nhỏ dán ở cửa nhà thờ của lão.
"Hôm nay, tại câu lạc bộ, có cuộc họp của thanh niên lao động. Li-xi-xưn, chủ tịch Ban chấp hành và Ca-rơ-sa-ghin, quyền bí thư quận đoàn thanh niên, sẽ đọc báo cáo. Sau cuộc họp sẽ có hòa nhạc của học sinh trường chín năm".
Lão thầy tu Do-thái giận dữ xé tờ giấy: - Đã bắt đầu giở trò!
Cái khu vườn rộng của lão cố đạo ôm lấy hai bên nhà thờ nhỏ thôn này. Trong vườn có một tòa nhà cổ rất lớn. Hơi mốc xông lên trong những gian phòng vắng vẻ, chán ngắt, nơi này trước kia là chỗ ở của lão cố đạo từ lâu đã chán ghét nhau, cả hai cùng già khọm và tẻ lạnh như cái nhà vậy. Nhưng từ khi có những người chủ mới đến ở thì vẻ tẻ lạnh biến đi ngay. Trong phòng khách, chỗ trước kia chủ cũ chỉ tiếp khách vào những dịp lễ lớn, bây giờ lúc nào cũng đông người. Nhà lão cố đạo đã trở thành trụ sở của Đảng ủy Bê-rê-dơ-đốp. Trên cánh cửa một phòng nhỏ phía bên phải lối vào, có mấy chữ viết bằng phấn: "Quận đoàn thanh niên cộng sản". Tại đây, ngày nào Pa-ven cũng đến làm việc một buổi. Anh vừa làm chính ủy của tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự thứ hai, vừa kiêm bí thư của quận đoàn thanh niên cộng sản vừa mới thành lập. (Quận ở đây tương đương như huyện, gồm nhiều thôn xã hợp lại).
Kể từ buổi tối các anh chị em liên hoan ở nhà An- na đến nay đã tám tháng trôi qua. Thế mà Pa-ven có cảm tưởng như chỉ mới hôm qua. Anh gạt chồng tài liệu sang bên, ngả lưng ra ghế bành, nghĩ ngợi...
Đêm đã khuya. Trụ sở Đảng ủy không còn ai. Im ắng, tịch mịch. Đồng chí Tô-rô-phi-mốp, bí thư quận Đảng ủy, là người ở lại sau cùng cũng vừa đi khỏi. Và bây giờ Pa-ven một mình ở lại nhà. Nước đóng băng vẽ lên cửa kính những nét chạm trổ muôn hình muôn vẻ. Trên bàn một ngọn đèn dầu, lò sưởi tỏa hơi nóng ấm. Pa-ven nhớ lại những chuyện xảy ra cách đây không lâu. . . Tháng Tám, tổ chức ở nhà máy đã phái anh đi phụ trách thanh niên trong "chuyến tàu sửa chữa" đến E-ca-chê-ri-nô-sláp. Suốt cả mùa thu, một trăm rưởi thợ đã đi từ ga này đến ga kia, dọn dẹp vết tích chiến tranh và tàn phá, thu vén những toa tàu bị cháy, bị đổ nát. Chuyến tàu đi từ Xi-nhen- nhi-cốp đến Pô-lốc. Vùng này chính là đất xưng hùng xưng bá trước kia của tên phỉ Ma-khơ-nô, cho nên mỗi bước đều gặp dấu vết phá hoại và giết chóc. Ở Gu-lay Pô-lê, mất một tuần lễ để sửa chữa kho nước, đặt những mảnh tôn vào lòng thùng nước đã bị mìn làm thủng đáy. Pa-ven vốn là thợ điện nên không thuộc nghề và không am hiểu kỹ thuật và những khó khăn của nghề thợ nguội, vậy mà bàn tay anh với cái lắc-lê đã vặn đến mấy nghìn đinh ốc gỉ sét.
Cuối mùa thu, chuyến tàu lại trở về nhà máy. Nhà máy lại nhận một trăm rưởi đôi tay thợ...
Người ta thấy người thợ điện Pa-ven năng đến nhà An-na hơn. Trên trán anh, nếp nhăn đã biến đi và lại hay nghe thấy những tiếng cười lôi cuốn của anh vang lên.
Bạn bè dự các nhóm học tập lại được nghe Pa-ven kể chuyện những năm đấu tranh qua đã lâu rồi. Anh kể về nước Nga xưa kia xơ xác, tả tơi, thân nô lệ mà lòng bất khuất, nước Nga đã từng vươn lên lật đổ con ác quỷ Nga hoàng. Anh kể về những cuộc khởi nghĩa của Stê-pan Ra-din và Pu-ga-sốp. ( Stê-pan Ra-din, người anh hùng Cô-dắc sông Đông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống phong kiến của nông dân và dân tộc Cô-dắc chống lại Nga hoàng, từ năm 1667 đến năm 1671. E-mê-liên Pu-ga-sốp, nhà lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa rất lớn có phạm vi toàn quốc chống phong kiến của nông dân Cô-dắc nước Nga vào thế kỷ 18.)
Một buổi tối, anh em thanh niên đến họp ở nhà An-na, người thợ điện Pa-ven hôm đó đột nhiên bỏ một thói quen có hại, mắc từ lâu. Anh quen hút thuốc, gần như từ bé đã hút, thế mà tuyên bố bằng một giọng quả quyết, dứt khoát rằng:
- Tôi không hút thuốc nữa.
Chuyện ấy xảy ra đột ngột. Đang nói chuyện có một người nêu lên thói quen là bản năng thứ hai của con người, do đó, gây ra tranh luận; người đó lấy tật nghiện thuốc lá ra làm ví dụ. Ý kiến bất đồng. Anh thợ điện Pa-ven không tham gia vào cuộc tranh luận. Nhưng Ta-li-a kéo Pa-ven vào, bắt nói. Anh nói điều mình nghĩ:
- Chính con người chỉ huy thói quen của mình, chứ không phải thói quen chỉ huy con người. Nếu không thế thì con người ta sẽ đi đến đâu?
Svê-tai-ép từ góc anh ta ngồi, nói to ra: - Nói thế nghe thì kêu lắm. Pa-ven vẫn thích cái lối nói như thế. Nhưng nếu đem bắc cân lời nói và việc làm thì thấy gì? Bản thân Pa-ven có hút không? Có hút. Pa-ven có biết hút thuốc lá có hại không? Có biết. Nhưng bỏ thuốc thì muộn rồi. Cậu ta không có gan bỏ. Gần đây, Pa-ven lại mới khởi xướng ra một "phong trào văn hóa" trong các nhóm học tập đấy. - Và Svê-tai-ép đổi giọng, hỏi có vẻ chế nhạo: - Hãy để cho Pa-ven trả lời chúng ta: Pa-ven có còn văng tục nữa không? Ai biết Pa-ven cũng đều phải nói: cậu ấy đã ít chửi tục, nhưng đã chửi thì lại chửi rất tệ. Nghề đời, thuyết pháp người ta vẫn dễ hơn là tự mình làm thánh.
Gian phòng trở nên im lặng. Giọng đả kích của Svê tai-ép làm cho mọi người cảm thấy khó chịu. Người thợ điện Pa-ven không trả lời ngay. Anh từ từ rút điếu thuốc đang ngậm ở miệng ra, vò nát điếu thuốc và nói, giọng vẫn như thường:
- Tôi không hút thuốc nữa.
Im lặng một lát, anh nói thêm:
- Tôi làm thế trước hết là ích cho tôi và đồng thời cũng ích phần nào cho Svê-tai-ép. Kẻ nào không bỏ được tật xấu của mình thì kẻ đó chẳng đáng một đồng kẽm. Tôi còn tật chửi tục nữa. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thắng hẳn được cái thói nhục nhã ấy. Nhưng ngay Svê-tai-ép cũng nhận rằng ít nghe thấy tôi chửi tục nữa. Văng ra một lời nói tục còn dễ hơn châm một điếu thuốc hút. Vì vậy cho nên ngay bây giờ, tôi chưa dám nói là đã bỏ hẳn được chửi tục. Nhưng rồi tôi sẽ bỏ được, chắc chắn là như vậy.
Bước vào mùa đông, gỗ trôi về ngáng lấy cả dòng sông. Cơn nước lũ mùa thu đã xô vỡ hết các bè củi và củi gỗ cứ thế bị nước cuốn trôi về xuôi. Khu Xô- lô-men-ca lại tung thanh niên đi cứu lấy của rừng.
Pa-ven không muốn rớt lại sau anh em, nên giấu không cho anh em biết là mình đã bị cảm mạo nặng. Và một tuần sau, khi trên các bến sông, củi gỗ vớt lên đã chất đống cao như núi thì nước lạnh buốt và khí ẩm mùa thu đã làm thức tỉnh kẻ thù lâu nay còn ngủ im trong máu Pa-ven: anh bị sốt, nóng như than, nằm liệt giường. Trong hai tuần lễ, cơ thể anh bị bệnh tê thấp ác tính giày vò và khi ra bệnh viện, anh đứng chưa vững, làm việc cứ phải ngồi buông hai chân trên bàn thợ như "cưỡi ngựa". Đốc công nhìn anh chán ngán lắc đầu. Mấy ngày sau, ủy ban công bằng(ở các nhà máy có lập ra ủy ban này, làm việc không thiên vị ai nên gọi là ủy ban vô tư hay công bằng ) đã công nhận anh là người không thể lao động được nữa. Người ta thanh toán tiền công còn lại cho anh và cho lĩnh thêm một số tiền trợ cấp nữa, làm anh nổi giận; từ chối không nhận số tiền ấy.
Anh giã từ công xưởng, lòng nặng trĩu, chống gậy lững thững ra về, mỗi bước chân nhấc đi lại đau điếng người. Mẹ đã nhiều lần viết thư cho anh, mong con về thăm. Và bây giờ đây, anh nghĩ đến bà cụ, nhớ lại lời mẹ nói lúc ra đi: "Chỉ khi nào chúng mày bị ốm đau thương tật, mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi!"
Đến tỉnh ủy, anh nhận hai tập hồ sơ cá nhân cuộn tròn lại: hồ sơ Đoàn và hồ sơ Đảng. Để khỏi làm tăng nỗi đau buồn cho mình, anh chẳng đến chào biệt ai cả, về thẳng nhà với mẹ. Suốt hai tuần, bà cụ chườm nước nóng và xoa bóp hai chân sưng cho con; được một tháng thì Pa-ven đã đi được không cần chống gậy nữa: nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng anh và buổi chiều tàn thế là lại đổi ra cảnh bình minh. Con tàu đưa anh đến tỉnh lỵ. Ba ngày sau, ban tổ chức cấp cho anh giấy giới thiệu điều anh đến nhận công tác của ủy ban quân sự tỉnh, làm chính trị viên ở cơ quan tổng huấn luyện quân sự đang thành lập lúc bấy giờ.
Sau đấy một tuần nữa, anh đến đây, đến thôn nhỏ ngập trong tuyết này, làm chính ủy tiểu đoàn số hai. Ở Liên quận Đoàn thanh niên cộng sản, anh nhận nhiệm vụ tập hợp các đoàn viên lâu nay bị phân tán lại và lập ra tổ chức đoàn ở khu mới này. Đấy, đời anh đã xoay chiều ra như vậy đấy. |
|