|
Ông đi về hướng Nam, đi quá khách sạn, và tìm thấy một quán ăn bình dân để ăn tối. Sau đó ông đi về hướng Bắc, bước chậm, băng qua quảng trường, qua tòa cao ốc kính đen, dưới xa lộ, đi hết con đường trở lại bar rượu thể thao. Ông đi lang thang trên đường suốt cả giờ mà không thấy ai đi theo mình. Không thấy gã đàn ông tàn tật trong bộ đồ vest kỳ cục. Không một ai.
Bar rượu thể thao vơi khách một nửa và màn hình nào cũng chiếu bóng chày. Ông tìm đến một chiếc bàn trong góc và xem đội Cardinals đấu với đội Astros ở Houston. Đó là một trận nhạt nhẽo cuối mùa giữa hai đội không còn sức ganh đua. Trong suốt thời gian quảng cáo giữa trận, ông quan sát cánh cửa. Không thấy ai. Thứ Ba còn im ắng hơn cả thứ Hai, ở cái miệt trong này.
*
* *
Grigor Linsky bấm điện thoại di động. Gã nói:
- Hắn quay lại quán bar.
The Zec hỏi:
- Hắn có thấy mày không?
- Không.
- Tại sao hắn lại trở lại quán bar?
- Không có lý do gì cả. Hắn cần một nơi để đến, có vậy thôi. Hắn thả bộ loanh quanh gần một giờ, cố ý làm cho em lộ diện.
Im lặng trong một thoáng. The Zec nói:
- Để mặc hắn ở đó. Tới đi, mình nói chuyện.
*
* *
Alex Rodin gọi điện về nhà Emerson. Emerson đang ăn tối muộn với vợ và hai con gái, và ông không hứng thú gì việc nghe máy trong lúc này. Nhưng ông vẫn nghe. Ông bước ra ngoài hành lang và ngồi xuống bậc thang gần cuối, chồm người tới trước, chống cùi chỏ lên gối, chiếc điện thoại kẹp giữa bả vai và tai. Rodin nói:
- Chúng ta cần làm một điều gì đó với thằng cha Jack Reacher.
Emerson nói:
- Tôi không thấy hắn là một vấn đề nghiêm trọng. Có lẽ hắn muốn như thế, nhưng hắn không thể làm cho các dữ kiện biến mất. Chúng ta đã có được nhiều thứ hơn mức cần thiết trong vụ của tay Barr này.
Rodin nói:
- Giờ thì vấn đề không phải là các dữ kiện. Mà là chứng mất trí nhớ. Là bên bào chữa sẽ lợi dụng nó đến mức nào.
- Việc đó tùy thuộc vào cô con gái của ông.
- Hắn có một ảnh hưởng xấu đối với con bé. Tôi đang đọc luật tiền lệ [26]. Nó là một vùng xám thật sự. Vấn đề cần kiểm tra không phải là Barr có nhớ cái ngày gây án hay không. Mà là hắn có hiểu cái tiến trình, ngay lúc này, hôm nay hay không, và chúng ta có đủ những chứng cứ khác để kết tội, mà không cần đến lời cung khai trực tiếp của hắn hay không.
- Tôi có thể nói là có.
- Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng Helen cần tiêu hóa điều đó. Con bé cần phải đồng ý. Nhưng con bé cứ bị tên kia ám suốt, khiến đầu óc nó đảo điên. Tôi hiểu nó mà. Con bé sẽ không chịu tin cho tới khi nào hắn biến khỏi vụ này.
- Tôi không hiểu mình có thể làm gì đây.
- Tôi muốn ông tóm cổ hắn.
Emerson nói:
- Tôi không thể làm chuyện đó. Không có cớ gì.
Rodin im lặng. Rồi ông nói:
- Vậy thì hãy để mắt đến hắn nhé. Hắn mà khạc nhổ trên vỉa hè thì tôi muốn ông nhốt hắn lại và dợt cho hắn một trận.
Emerson đáp:
- Đây không phải là miền Viễn Tây. Tôi không thể xua hắn ra khỏi thành phố.
- Có lẽ một vụ bắt nhốt là đủ. Chúng ta cần một cái gì đó để phá bùa mê. Hắn đang thúc đẩy Helen đến chỗ mà con bé không muốn đến. Tôi hiểu nó. Chỉ mình con bé thôi thì nó sẽ bỏ Barr ngay, khỏi phải bàn.
*
* *
Linsky bị đau suốt đường trở lại xe. Một giờ phải đi đứng là hết cỡ đối với gã. Ngày xưa, những cái xương trên cột sống của gã đã bị đập vỡ, bằng một cái búa đầu tròn của kỹ sư một cách có phương pháp, hết đốt này đến đốt khác, khởi đầu từ xương cụt và đi dần lên qua mọi đốt sống thấp hơn, và không mấy vội vàng. Thường là đủ thời gian cho cái trước lành lại rồi mới dần cho vỡ cái tiếp theo. Khi cái cuối cùng đã lành, thì chúng lại bắt đầu làm lại. Chơi mộc cầm, chúng gọi trò này như thế. Chơi từng thang âm. Rốt cuộc thì gã không còn nhớ nổi, có bao nhiêu thang âm chúng đã chơi trên thân thể của mình.
Nhưng gã không bao giờ nói về chuyện này. The Zec còn gặp phải những chuyện tệ hại hơn.
Chiếc Cadillac có ghế mềm và ngồi vào nó thật là nhẹ mình. Chiếc xe có động cơ nổ êm ru, chạy rất đằm và một chiếc radio rất tốt. Những chiếc Cadillac là một trong những thứ đã làm cho nước Mỹ thành một nơi chốn tuyệt vời, bên cạnh đám dân chúng cả tin và những sở cảnh sát què quặt.
Linsky đã sống ở nhiều nước khác nhau, và không hề băn khoăn thêm về chuyện nước nào là vừa ý nhất. Những nơi khác gã cuốc bộ, hay chạy, hay lê lết trong đất bụi, hay đẩy xe bò và xe trượt tuyết bằng tay. Giờ thì gã ngự trên một chiếc Cadillac.
Gã lái đến nhà The Zec, ngôi nhà ở cách thị trấn tám dặm về hướng Tây Bắc, kế bên nhà máy nghiền đá của lão. Nhà máy là một xưởng công nghiệp trên một vỉa đá vôi, trữ lượng lớn được khám phá dưới đất cày, xây đã bốn chục năm nay.
Ngôi nhà là một thứ lâu đài tráng lệ được xây trăm năm trước, khi phong cảnh vẫn còn nguyên vẹn, dành cho một thương gia buôn vải vóc giàu có. Nó quá trưởng giả và màu mè về mọi mặt, nhưng nó là một ngôi nhà tiện nghi cũng như cái lối tiện nghi của chiếc Cadillac. Điều đáng kể nhất là nó ngự một mình giữa một vùng đất phẳng.
Có thời nơi đây được bao quanh bởi nhiều khu vườn xinh đẹp, nhưng The Zec đã san bằng cây cối và bụi rậm, để tạo nên một vùng hoàn toàn bằng phẳng và mở tầm nhìn ra khắp chung quanh. Không có hàng rào nào cả, vì làm sao The Zec có thể chịu đựng thêm một ngày nào nữa ở sau rào chắn? Cũng vì lý do đó mà không có khóa, không có then chốt, không có thanh chắn nào cả. Không gian thoáng đãng là món quà mà The Zec tặng cho mình.
Nhưng đó đồng thời cũng là phương pháp an ninh tuyệt hảo theo cách riêng của nó. Ngôi nhà lắp máy quay phim giám sát. Không một ai có thể tiếp cận với ngôi nhà mà không bị phát hiện. Vào ban ngày, khách khứa hiện rõ ít nhất là cách hai trăm thước, và khi trời tối, thiết bị gia tăng thị lực vào ban đêm, phát hiện ra họ trong khoảng cách chỉ gần hơn một chút.
Linsky đỗ lại và chuồi người ra khỏi xe. Đêm im ắng. Xưởng nghiền đá ngưng chạy vào bảy giờ tối, và đứng âm thầm cho tới lúc rạng đông. Linsky liếc nhìn về phía nó rồi bước về hướng ngôi nhà. Cánh cửa trước mở ra trước khi gã tiến đến gần. Ánh sáng ấm áp tràn ra và gã thấy Vladimir đích thân đi xuống đón gã, điều này có nghĩa là Chenko cũng đã có mặt ở đó, trên lầu, có nghĩa là The Zec đã triệu tập tất cả các đàn em thân tín nhất, có nghĩa là The Zec đang lo lắng.
Linsky hít một hơi sâu, nhưng gã bước vào bên trong không ngần ngại. Sau rốt, giờ thì còn điều gì bất ngờ có thể xảy ra với gã đây? Với Vladimir và Chenko thì khác, nhưng đối với những người có tuổi tác và kinh nghiệm của Linsky, thì không còn điều gì là hoàn toàn không thể tưởng tượng được.
Vladimir không nói năng gì. Chỉ đóng cánh cửa lại và đi theo Linsky lên lầu. Ngôi nhà có ba tầng. Tầng thứ nhất không dùng làm gì cả, chỉ trừ giám sát. Tất cả các phòng hoàn toàn để trống, ngoại trừ một phòng có bốn màn hình tivi đặt trên một chiếc bàn dài, chiếu những cảnh từ bốn hướng Bắc, Đông, Nam và Tây với góc nhìn rộng. Sokolov sẽ ở đó, trông coi chúng. Hay là Raskin. Hai tên này thay phiên nhau từng ca mười hai giờ.
Tầng thứ hai của ngôi nhà có một nhà bếp, một phòng ăn, một phòng khách, và một phòng làm việc. Tầng ba có các phòng ngủ và phòng tắm. Tầng hai là nơi điều hành mọi thứ. Linsky nghe thấy tiếng The Zec vọng ra từ phòng khách, gọi gã. Gã bước thẳng vào mà không gõ cửa.
The Zec đang ngồi trong ghế bành, ủ một tách trà giữa hai lòng bàn tay. Chenko nằm ườn trên sofa. Vladimir bước vội ngay sau Linsky và ngồi xuống cạnh Chenko. Linsky đứng yên chờ đợi. The Zec nói:
- Ngồi đi, Grigor. Không ai phiền mày đâu. Đó là thất bại của thằng nhóc.
Linsky gật đầu và ngồi xuống chiếc ghế bành, hơi gần với The Zec hơn là Chenko. Đó là để duy trì thứ bậc theo một trật tự đúng đắn. The Zec tám mươi tuổi, và Linsky cũng đã hơn sáu mươi. Cả Chenko và Vladimir đều trên bốn mươi, và chắc chắn chúng là những người quan trọng, nhưng so ra vẫn trẻ hơn. Chúng không có cái tiểu sử mà The Zec và Linsky chia sẻ với nhau. Thậm chí không được một mẩu.
The Zec hỏi bằng tiếng Nga:
- Uống trà nhé?
Linsky đáp:
- Vâng.
The Zec nói:
- Chenko, mang cho Grigor một tách trà.
Linsky cười thầm. Chenko bị điều đi lấy trà cho gã là lời khẳng định về vị trí quan trọng nhất. Và gã thấy Chenko cũng không phải không sẵn lòng làm việc đó. Hắn bật dậy đi ra bếp, rồi mang vào một tách trà đặt trên một chiếc khay nhỏ bằng bạc.
Chú thích:
[26] : Tiền lệ pháp/án lệ pháp hay luật vụ việc, nghĩa là khi xét xử, thẩm phán có thể dựa theo các phán quyết cho các vụ việc tương tự trong quá khứ. |
|