Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Tôtem Sói | Khương Nhung

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:55:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20 (tiếp)

Trương Kế Nguyên nói: Trên thảo nguyên ngựa giống là bá chủ.  Ngoại trừ sợ sói công kích vợ con, ngựa giống không sợ gì hết, không sợ sói, càng không sợ người.  Trước đây người ta có câu "làm thân trâu ngựa", thực ra câu này không đúng với ngựa giống.  Đàn ngựa Mông Cổ không khác đàn ngựa hoang, trong đàn trừ mấy con ngựa thiến, những con khác không có gì phân biệt.  Mình sống với đàn ngựa đã lâu năm, vẫn không tưởng tượng nổi người nguyên thủy thuần dưỡng ngựa hoang như thế nào.  Làm sao phát hiện ngựa đã bị thiến, mới có khả năng cưỡi lên lưng ngựa?  Thiến ngựa không dễ chút nào, phải thiến vào đầu xuân khi chớm hai tuổi, hoàn không khó lắm, rạch bìu, sau khi dịch hoàn tòi ra, dịch hoàn có rất nhiều tia máu không được lấy dao cắt, hễ cắt là bị nhiễm trùng; cũng không được lôi ra, đề phòng lôi cả nội tạng ra theo.  Cách thiến nguyên thủy của mã quan là xoắn cho đứt rồi thắt nút lại, chỗ bị thương sẽ không nhiễm trùng, nhiễm trùng là ngựa chết liền.  Thiến ngựa phải thiến vào năm hai tuổi, lên ba là đã luyện rồi.  Hai chuyện cùng làm trong một năm, chắc chắn con ngựa sẽ chết.  Kỹ thuật này rất khó, người thảo nguyên thủy làm sao mò ra?
Trần Trận và Dương Khắc nhìn nhau, lắc đầu.  Trương Kế Nguyên đắc ý nói tiếp: Tôi đã mò mẫm một thời gian dài, đoán rằng, người nguyên thuỷ tìm cách bắt con ngựa non bị sói cắn thành thươn, chữa vết thương cho nó, sau đó nuôi cho nó lớn, nhưng lớn rồi mà vẫn không thể cưỡi, vậy khi còn nhỏ thì cưỡi được, nếu đã thành ngựa giống thì không dám cưỡi.  Lại thử, thử không biết bao nhiêu lần, chưa chừng người nguyên thuỷ vớ được con ngựa hai tuổi bị sói cắn mất dịch hoàn may mà sống sót, nuôi lớn thành ngựa thuần dưỡng... Đó là sự gợi ý.  Có điều, người Mông Cổ nguyên thủy huấn luyện thuần hóa ngựa là một quá trình lâu dài và quá phức tạp.  Không biết bao nhiêu người dân thảo nguyên ngã chết và bị thương mới thuần phục được ngựa hoang.  Đây là bước phát triển vĩ đại trong lịch sử nhân loại, sớm hơn nhiều và quan trọng hơn nhiều so với bốn phát mình lớn của Trung Quốc.  Không có ngựa, cuộc sống của nhân loại cổ đại khó khăn không thể tưởng tượng, so với bây giờ thiếu xe hơi, xe hỏa, xe tăng thảm thương hơn nhiều.  Do vậy, không thể đánh giá hết sự cống hiến của dân tộc du mục đối với nhân loại.
Trần Trận vui vẻ ngắt lời: Mình đồng ý với quan điểm của cậu.  Người thảo nguyên thuần phục ngựa hoang khó hơn nhiều so với nông dân thời viễn cổ thuần hóa lúa nước.  Chỉ ít lúa nước không biết chạy, không biết đá hậu, không biết đá vỡ đầu, đá chết, kéo lê đến chết người ta.  Thuần hóa thực vật hoang dã về cơ bản là lao độg trong hòa bình, còn thuần hóa ngựa hoang, bò hoang là cuộc chiến đổ máu, đổ mồ hôi.  Đến nay, dân tộc nông canh vẫn đang hưởng dụng những thành quả vĩ đại của dân tộc du mục.
Dương Khắc nói: Dân tộc du mục quả đáng nể.  Họ đã dám chiến đấu, lại biết lao động và học tập.  Trình độ văn minh của dân tộc du mục tuy không cao bằng dân tộc nông canh, nhưng một khi có điều kiện, họ đuổi kịp và vượt dân tộc nông canh bằng tốc độ phi mã.  Các đế vương như Hốt Tất Liệt, Khang Hy, Càn Long học tập và nắm văn hóa Hán sâu sắc hơn nhiều so với đại đa số các hoàng đế Hán tộc, công lao và hành trạng cũng lớn hơn, đáng tiếc là họ học văn hóa Hán cổ đjai, nếu như họ học văn hóa cổ La Mã, cổ Hy Lạp hoặc văn hóa phương Tây cận đại, thì đáng nể hơn nhiều.
Trần Trận thở dài: Thực ra các dân tộc tiên tiến nhất thế giơi hiện nay, phần lớn là hậu duệ của các dân tộc du mục.  Cho đến bây giờ họ vẫn giữ những phong thục tập quán của dân tộc du mục nguyên thủy như uống sữa bò, ăn bơ, dệt áo len, trải thảm, nuôi chó, đấu bò, đua ngựa, thi đấu thể dục, yêu tự do, bầu cử dân chủ, tôn trọng phụ nữ v...v... Tính cách dũng cảm, thiện chiến, ngoan cường, tiến thủ, không những được họ kế thừa mà còn phát huy mạnh mẽ.  Người ta có câu ba tuổi là lớn, bảy tuổi là đã già, với dân tộc cũng vậy.  Du mục nguyên thủy là thủa ấu thơ của dân tộc phương Tây.  Chúng ta giờ đây nhìn du mục nguyên thủy cũng là nhìn tuổi thơ lên ba và lên bảy của các dân tộc phương Tây, nếu như học thêm bài học này, càng hiểu sâu sắc hơn vì sao phương Tây ngồi lên đầu chúng ta.  Kỹ thuật tiên tiến phương Tây không khó học, vệ tinh Trung Quốc lên trời rồi đấy thôi.  Nhưng cái khó học nhất là ý chí tiến thủ, tinh thần dũng cảm không sợ nguy nan từ trong máu của dân tộc phương Tây.  Từ lâu, Lỗ Tấn đã thấy tính cách quốc dân của dân tộc Hoa Hạ có vấn đề...
Trương Kế Nguyên nói: sau khi trở thành mã quan, cảm xúc sâu sa nhất của mình là sự khác biệt về tính cách giữa hai dân tộc Hán - Mông.  Trước đây ở trường học, mình được coi là nổi trội nhiều mặt, nhưng lên thảo nguyên chỉ thấy mình yếu ớt như một con mèo.  Mình đã nghĩ nhiều cách làm sao mạnh mẽ lên, sau đó ngộ ra rằng, hình như chúng ta tiên thiên bất túc hay sao ấy...
Trần Trận thở dài: Đúng là tiên thiên bất túc.  Kinh tế tiểu nông của Hoa Hạ là lao động trong hòa bình, sợ cạnh tranh.  Cương lĩnh của Nho gia là quân thần phụ tử, thượng tôn hạ ti, trật tự trên dưới, phục tùng vô điều kiện, dùng bạo lực chuyên chế thủ tiêu cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi hoàng triều và hòa bình cho nông nghiệp.  Kinh tế tiểu nông Hoa Hạ và văn hoa Nho gia, từ hai phương diện tồn tại và ý thức, đã làm suy yếu tính cách dân tộc Hoa Hạ. Dân tộc Hoa Hạ từng sáng tạo nền văn minh cổ đại xán lạn, nhưng đã phải trả giá bằng hy sinh tính cách dân tộc, dũng là hy sinh sức bật của dân tộc. Khi lịch sử thế giớ bước qua giai đoạn thấp của nền văn minh nông nghiệp, dứt khoát Trung Quốc lạc hậu sẽ bị đánh.  Có điều chúng ta vẫn còn may, đuổi kịp giai đoạn chót cuộc sống du mục nguyên thủy thảo nguyên, chưa chừng có thể tìm ra bí mật khiến phương Tây quật khởi?
Trên trảng cỏ, cuộc chiến giữa ngựa và ngựa vẫn diễn ra quyết liệt.  "Công chúa Tuyết" xinh đẹp đã bị kẻ chiến thắng đưa về nhốt trong đàn.  Kẻ thất bại không chịu xông vào, đá công chúa ngã lăn ra đất, cô không biết cầu cứu ai, cất tiếng hí thảm thiết.  Mẹ công chúa vội chạy đi cứu con, nhưng đã bị ông chồng dữ như hung thần ác quri cho mấy đá, đuổi về.
Dương Khắc quả thực thấy chướng.  Cậu hích Trương Kế Nguyên: Mã quan các cậu sao bỏ mặc?
Trương Kế Nguyên nói: Bỏ mặc là thế nào? Cậu đến, chúng ngưng chiến; cậu đi, chúng tiếp tục choảng nhau.  Mã quan du mục không can thiệp.  Đây là cuộc chiến tranh sinh tồn của đàn ngựa, ngàn vạn năm nay vẫn thế.  Suốt mùa hè, chừng nào ngựa giống chưa đuổi hết con gái ra khỏi đàn, chừng nào chưa giành giật xong các ngựa cái tơ, cuộc chiến chưa kết thúc.  Năm nào cũng vậy, cuối hạ đầu thu mới ngưng chiến.  Khi đó, con ngựa giống dũng mãnh nhất giành được nhiều ngựa cái nhất; con ngựa yếu nhất, nhát gan nhất chỉ khớang được cô ngựa cái người ta loại ra.  Thảm hại nhất là có chú ngựa giống không vớ được cô nào.  Cuộc chiến thảm khốc trong đàn ngựa sẽ xuất hiện con ngựa giống dũng mãnh nhất, con cái của nó cũng lợi hại nhất, chạy nhanh, nhạy cảm, tính cách hung hãn.  Cuộc chiến cạnh tranh tạo nên những con ngựa quý. Qua cuộc chiến giữa ngựa và ngựa mỗi năm một lần, đởm lượng và kỹ năng chiến đấu của ngựa giống ngày càng cao, càng tinh, dòng họ ngày càng thịnh vượng.  Đây cũng là cuộc diễn tập của ngựa giống nhằm rèn luyện bản lĩnh đánh giết sói, giữ nhà và bảo vệ cừu.  Không có cuộc diễn tập mỗi năm một lần này, đàn ngựa Mông Cổ không thể sinh tồn trên thảo nguyên.
Trần Trận nói: Xem ra khả năng thiện chiến làm kinh hoàng thế giới của ngựa Mông Cổ, cũng lại do sói bức bách mà có.
Trương Kế Nguyên nói: Đương nhiên.  Sói thảo nguyên không những đào tạo ra võ sĩ, mà còn đào tạo ra ngựa chiến Mông Cổ.  Chính quyền người Hán Trung Quốc cổ cũng có kỵ binh hùng hậu, nhưng ngựa của người Hán phần lớn là nuôi trong bãi trong chuồng.  Chúng mình đã từng về lao động ở nông thôn, biết họ nuôi ngựa như thế nào.  Ngựa nuôi trong chuồng được người cho ăn cho uống, đêm còn thêm cỏ.  Ngựa dưới xuôi làm gì thấy sói, chưa từng có cuộc chiến giữa ngựa và ngựa, không cần đánh nhau chí mạng mới được phối giống, chuyện này do con người bố trí: Buộc con cái vào cột, dắt con ngựa đực đến là xong.  Phối xong, rồi ngựa cái vẫn chưa biết mặt ngựa đực.  Con cháu của loại ngựa này làm gì có cá tính và sức chiến đấu?
Dương Khắc cười: Hôn nhân bao biện sẽ đẻ ra lũ ngốc!  May mà chúng ta không phải cái loại ấy, còn có cơ cứu vãn.  Thế nhưng nông thôn hiện nay tình trạng hôn nhân bao biện vẫn rất phổ biến, khá hơn ngựa nông nghiệp một chút, cô dâu còn được biết chú rể mặt mũi ra sao?
Trần Trận nói: Có thể coi đã có tiến bộ lớn ở Trung Quốc rồi đấy.
Trương Kế Nguyên nói: Ngựa của người Hán Trung Nguyên chỉ là lao động khổ sai.  Ban ngày làm lụng, tối ngủ như một nông dân.  Do vậy, nông dân lao động, ngựa lao động dưới này không thể đánh lại các võ sĩ công với ngựa chiến thảo nguyên.
Dương Khắc thở dài, than: Ngựa đần ra trận, thua là cái chắc.  Nhưng nguyên nhân cơ bản là do người đần.  Lính đần cưỡi ngựa đần, nửa đêm sa xuống đầm.
Ba người cười buồn.
Trương Kế Nguyên tiếp tục nói: Tính chiến đấu quan trọng hơn tính cần cù trong lao động hòa bình.  Trường thành, công trình lao động vĩ đại nhất thế giới, vẫn không ngăn được kỵ binh của một dân tộc nhỏ nhất thế giới.  Chỉ biết lao động, không biết chiến đấu là gì?  Là con ngựa thiến, bắt làm phải làm, bắt chở phải chở, gặp sói là bỏ chạy, không cắn không đá như ngựa giống.  Ở với đàn ngựa lâu, mình biết, trong đàn có rất nhiều ngựa thiến.  Dáng dấp, cân nặng, răng và vó không thua ngựa giống là mấy, nếu chúng dám ăn thua đủ với sói, chắc chắn sói đánh không lại.  Nhưng vì sao ngựa thiến trông thấy sói là chạy?  Vì nó đã bị cắt bỏ dũng khí và chất đàn ông trong người.
Dương Khắc tán thành, nói: Ừ, Vạn Lý Trường Thành là lao động chết, còn kỵ binh Mông Cổ là cuộc chiến sống, đi vòng mấy trăm dặm coi như không.  Có lần kỵ binh Mông Cổ đánh Kim, tấn công Cư Dung Quan không hạ được thành, liền vòng xuống phía nam mấy trăm dặm, nhân lúc chưa phòng bị, hạ luôn Tử Kinh Quan, từ Tử Kinh Quan tiến lên đánh chiếm Bắc Kinh.
Trần Trận nói: Mình cảm thấy giáo dục trước đây của ta quá đề cao lao động, nào là lao động sáng tạo ra con người, lao động sáng tạo tất cả.  Nhân dân Trung Quốc cần lao rất thích nghe câu này.  Thực ra, chỉ lao động không thể sáng tạo ra người.  Nếu người vượn chỉ biết lao động không biết chiến dấu thì đã  bị mãnh thú ăn thịt từ lâu, làm gì có chuyện sáng tạo ra tất cả sau này?  Người vượn phát minh rìu đá, cậu bảo nó là công cụ lao động hay vũ khí?  Hay cả hai?
Dương Khắc nói: Trước hết nó là vũ khí, nhưng mà cũng có thể dùng nó đập vỡ hạt dẻ.
Trần Trận cười: Lao động vẻ vang, lao động thiêng liêng.  Lao động là ưu thế lớn của dân tộc Hoa Hạ, là cái vốn hùng hậu phục hưng dân tộc sau này.  Nhưng lao động không phải vạn năng và vô hại.  Trong lao động có lao động nô lệ, lao động có tính chất nô dịch, lao động cưỡng bức, lao động cải tạo, lao động như trâu ngựa.  Những lao động ấy có vẻ vang và thiêng liêng không?  Có thể khen là đẹp không?  Vậy mà chủ nô và chúa phong kiến rất thích tán dương những loại lao động này.  Bản thân không lao động thậm chí bóc lột lao động của người khác cũng được ca ngợi như nhau.
Dương Khắc căm phẫn, nói; Mình căm nhất loại người đó, phải dùng rìu đá phang cho chúng một trận.
Trần Trận nghí: Lao động cũng có loại vô hiệu quả, lao động có tính chất phá hoại và lao động có tính hủy diệt.  Cách đây hai ngàn năm, lao động xây dưng cung A Phòng đã chặt quang núi rừng Tứ Xuyên, "núi Thục biến, A Phòng hiện", loại lao động này thực đáng ghét.  Kết quả lao động khẩn hoang của rất nhiều dân tộc nông canh trên thế giới là sa mạc, cuối cùng chôn vùi văn minh của dân tộc mình.  Với lại, rất nhiều chuyện quan trọng trên thế giới không phải do lao động sáng tạo ra.  Thí dụ lao động không sáng tạo ra hòa bình, an ninh, quốc phòng vững chắc, lao động không sáng tạo ra tự do, dân chủ, bình đẳng và chế độ của những thứ này; lao động không sáng tạo ra tính cách dân tộc kiên quyết đòi thực hiện tự do dân chủ bình đẳng.  Người lao động không biết chiến đấu chỉ là khổ sai, là thuận dân, gia súc, trâu ngựa.  Tự do dân chủ bình đẳng không thể trở thành khẩu hiệu chiến đấu của họ.  Trên thế giới, nhân dân Hoa Hạ đông nhất, cần lao nhất, lịch sử lao động dài nhất, hơn nữa chưa khia nào ngừng lao động, vậy mà không sáng tạo ra nền văn minh tiên tiến rạng rỡ như dân tộc phương Tây mà lịch sử lao động ngắn hơn nhiều đã sáng tạo ra...
Đám ngựa giống tạm thời ngưng chiến, đi ăn cỏ.  Đám ngựa cái tơ chạy về với mẹ. Ngựa mẹ thương con gái, dùng cặp môi dày chải lông cho con.  Nhưng ngựa cái tơ thấy ông bố trợn mắt khịt mũi hí vang thì mất vía, vội chạy về nhà mới của mình, đứng xa mà ngó mẹ, bốn mắt buồn rầu.
Dương Khắc nói thật lòng: Từ nay mình phải thường xuyên đến với đàn ngựa để học hỏi.  Kỵ binh Mông Cổ uy danh một thời là những sinh viên ưu tú do trường đại học của đàn ngựa đào tạo.
Cao Kiện Trung đánh một xe bò vui vẻ trở về, gọi toáng lên: Chúng mình vớ bở rồi!  Mình cướp được hơn nửa thùng trứng vịt trời!  Ba người chạy tới khênh cái thùng nặng trẫm tay xuống, trong thùng có đến bảy tám chục quả trứng vịt trời hình ô van, có một số bị giập vỡ, lòng đỏ trứng màu vàng gỉ ra ngoài.
Dương Khắc nói: Cậu tiêu diệt cà một đàn vịt trời!
Cao Kiện Trung nói: Cánh Vương Quân Lập đang tranh cướp ở đằng ấy.  Bên bãi lầy phía tây, trong cỏ trong các ổ cát bên sông, chỉ mươi bước chân lại gặp một ổ trứng vịt trời, mỗi ổ mười mấy quả.  Cướp của ai?  Cướp của đàn ngựa.  Lũ ngựa đi uống nước giẫm be bét từng đám lớn, bên bãi lầy toàn là vỏ trứng, nhìn mà đau lòng.
Trần Trận hỏi: Còn nữa không?  Đi nhặt ít nữa về làm trứng muối.
Cao Kiện Trung nói: Phía bên này không còn.  Bốn đàn ngựa tràn qua có sót cũng chẳng bao nhiêu, phía đông bãi lầy có thể vẫn còn.
Dương Khắc ngó Trương Kế Nguyên quát; Đàn ngựa chết tiệt, mã quan các cậu có mắt hay không hả/
Trương Kế Nguyên nói: Ai biết bờ sông có trứng vịt trời.
Cao Kiện Trung trông thấy đàn ngựa phía dưới cách lều không xa, liền hỏi Trương Kế Nguyên: Sao lại cho đàn ngựa ăn cỏ ngay trước cửa, cỏ hết, bò ăn gì?  Cậu đuổi đàn ngựa đi nơi khác rồi về đây ăn trứng vịt.
Trần Trận nói: Hắn cưỡi con ngựa chưa thuần, lên xuống không đơn giản, để hắn ăn trứng rồi hãy đi.  Vừa nãy hắn lên lớp cho chúng mình bao nhiêu chuyện, rất đáng được thưởng.  Rồi bảo Trương Kế Nguyên - Trứng giập nhiều thế này, ba chúng mình ăn không hết.
Trương Kế Nguyên phản công: Các cậu lại cả đây nhặt riêng trứng lành trứng giập ra.  Mình hai năm nay chưa được ăn trứng rán, hôm nay ăn cho đã.  Vừa hay trong lều có nhiều hành dại, trứng vịt rán hành rất đúng vị, chắc ngon.  Dương Khắc, cậu đi bóc hành, Trần Trận đánh trứng, Kế Nguyên đi nhặt sọt phân khô về đây, tôi đặt chảo.
Kết quả nhặt ra được một nửa trứng lành, một nửa trứng giập.  Số trứng giập, mỗi người có thể ăn tám chín quả.  Bốn người vui như tết.  Chỉ lát sau, mùi trứng rán, mùi hành, mùi mỡ cừu thơm lùng theo gió bay trên bãi chăn.  Lũ chó thèm rỏ dãi, vẫy đuôi tụ tập trước cửa lều.  Sói con phá xích kêu loảng xoảng, nhảy vọt lên rất cao, chân tướng sói lộ rõ.  Trần Trận bớt lại một ít cho con sói, cậu muốn biết nó có biết ăn trứng rán mỡ cừu.
Bốn người ăn như rồng cuốn hết bát nọ đến bát kia.  Đang ăn, chợt nghe tiếng Caxumai nói to bên ngoài lều: Hay nhỉ, có món gì ngon thế mà không gọi mình một tiếng.  Caxumai dắt Bayan và con Balua bước vào trong lều.  Trần Trận và Dương Khắc lập tức nhường chỗ, mời hai mẹ con ngồi xuống vị trí phía bắc.  Trần Trận vừa xúc trứng rán vừa bảo: Tưởng dân du mục không biết ăn thứ này.  Nào, em mời chị và cháu nếm thử.
Caxumai nói: Mình ngửi thấy mùi thơm từ ở nhà, rất thơm, mình thèm rỏ dãi như chó ấy.  Chó nhà mình cũng đi theo.  Sao lại không dám ăn? Mình ăn đây. Nói rồi, chị cầm đũa gắp một miếng trứng to đưa lên miệng cắn từng miếng một, khen: Ngon lắm, ngon lắm.  Bayan thì ăn ngốn ngấu như sói con, miệng ăn mắt nhìn chảo chỉ sợ hết.  Dân du mục sáng uống trà sữa, bữa cơm chiều là bữa chính, không ăn trưa.  Lúc này chắc hẳn hai mẹ con đang đói, Caxumai nói: Món này ngon thật đấy.  Mình được ăn quán rồi, không phải lên thành phố mới được ăn.  Hôm nay ăn cho đã.
Dân du mục gọi món ăn của người  Hán là "món quán", rất thích.  Mấy năm gần đây, họ cũng đã dùng gia vị.  Mục dân thích ăn hành hoa, tương ớt, hành tây.  Có người thích ớt tươi, nhưng không một ai thích dấm, tỏi, gừng tươi.
Trần Trận nói: Từ nay bọn em nấu món quán, thế nào cũng mời chị ăn.
Cao Kiện Trung thường được ăn bơ, váng đậu, váng sữa do Caxumai đem cho.  Cậu cũng thường xuyên đến nhà Caxumai uống trà sữa, ăn thịt hun.  Cậu thích nhất các món ăn Mông Cổ chế biến từ sữa và thịt. Lần này có dịp được mời đáp lễ, cậu vừa cười vừa nói: Có cả một thùng to, trứng giập không đủ thì ăn trứng lành.  Đảm bảo chị ăn bằng thích.  Cậu nhặt những quả giập sang một bên, lấy năm sáu quả trứng rán cho mẹ con Caxumai ăn.
Caxumai nói: Bố không cho ăn đâu, bố bảo trứng là của trời, không được đụng vào.  Mình phải đến chỗ các cậu mà ăn thôi.
Trần Trận hỏi: Năm ngoái em thấy bố xin hơn chục quả trứng gà ở nhà ông cán bộ mục trường, bố xin làm gì hả chị?
Caxumai nói: Đó là con ngựa bị cảm sốt, ông nắm mũi kéo ngược lên đút cho hai quả trứng vào miệng.  Chỉ vài lần là khỏi.
Dương Khắc rỉ tai Trương Kế Nguyên:  Tai hại, bọn mình lên đây, mục dân bắt đầu ăn những thứ trước kia họ không ăn.  Chỉ vài năm nữa, nói gì thiên nga, ngay vịt trời cũng không còn.
Bayan càng ăn càng ngon miệng.  Miệng  nhờn mỡ, nó bảo Cao Kiện Trung: Cháu biết một chỗ có những quả này.  Cho cháu bát nữa, mai cháu dẫn chú đi.  Trong hang rái cá chắn chắn có.  Sáng nay đi tìm cừu mới đẻ, cháu trông thấy những quả này bên bờ sông.
Cao Kiện Trung phấn khởi, nói: Tốt lắm, bên sông có một gò đất đúng là có rất nhiều hố cát, chắc chắn đàn ngựa không đi qua đấy mà giẫm vỡ trứng.  Lại một mẻ trứng rán rất dầy chín tới. Cao Kiện trung dùng xẻng nhà bếp xắn làm hai, xúc vào bát Caxumai và Bayan mỗi bát một nữa.  Hai mẹ con ăn toát mồ hôi.  Chảo bốc khói, một mẻ trứng nữa đã chín.
Mẻ trứng vừa rán xong, Trần Trận đón cái xẻng bếp, bảo Caxumai: Em làm món khác mời mẹ con chị. Cậu cho ít mỡ cừu vào chảo, bắt đầu rán trứng ốpla.  Chỉ lát sau, hai cái trứng chiên hình gương sen bên ngoài trắng đục, bên trong hồng hồng hiện ra trong lòng chảo.  Caxumai và Bayan nhìn không chớp.  Trần Trận xúc cho hai mẹ con mỗi người một cái, rắc lên chút muối ớt.  Caxumai vừa ăn vừa khen: Món này lại càng ngon, chiên cho mình hai cái nữa.  Dương Khắc cười hì hì, nói: Để lát nữa em nấu cho chị món trứng xào rau phỉ.  Ăn rồi, Trương Kế Nguyên nấu cho chị bát canh trứng - hành hoa.  Tay nghề bốn chúng em không tồi đâu nhá.
Mùi thức ăn bay khắp lều, sáu người đã thấy hơi ngán, liên buông bát đũa, không ăn nữa.  Bữa tiệc tiêu diệt nửa thùng trứng vịt trời.
Caxumai sốt ruột muốn về.  Vừa chuyển nhà, công việc bề bộn.  Cô ợ hơi, cười bảo cánh Trần Trận: Các cậu không được nói với bố đấy nhá.  Vài hôm nữa, mời các cậu đến nhà ăn váng sữa trộn cơm rang.
Cao Kiện Trung bảo Bayan: Mai đi nhặt trứng nhá.
Trần Trận đuổi kịp con Balua, nhét vào miệng nó miếng trứng rán to tướng.  Balua nhả miếng trứng xuống cỏ ngửi rồi nếm thử, thấy đúng là món cô chủ vừa ăn mới hỉ hả đớp luôn nuốt đánh ực, vẫy đuôi cảm ơn Trần Trận.
Mọi người giải tán, Trần Trận nhớ con sói, liền chạy ra chỗ nó.
Không thấy con sói, không hiểu nó đi đâu.  Trần Trận toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng chạy lại gần thấy nó nằm bẹp gí, cằm sát đát trong đám cỏ cao cao.  Hẳn là nó sợ khi tháy người lạ và hcos.  Xem ra nó có tài  ẩn nấp bẩm sinh.  Trần Trận thở ra một hơi nhẹ nhõm.  Sói con ngẩng nhìn lên, thấy người lạ, và chó không còn ở  đây nữa mới nhảy lên ngửi hít mùi trứng rán trên người Trần Trận, lại còn liếm bàn tay dính mỡ của cậu.
Trần Trận quay vào trong lều xin Cao Kiện Trung sáu bảy quả trứng giập rán cho sói con và lũ chó.  Không đủ no, nhưng cậu muốn cho chúng nếm thử.  Chó thảo nguyên nhiều khi ăn vặt thích hơn bữa ăn chính, cho ăn vặt cũng là một cách làm quen với con chó.  Trứng rán xong, Trần Trận cắt thành bốn miếng lớn ba miếng nhỏ.  Bốn miếng lớn cho ba con chó lớn và con sói, ba miếng nhỏ cho ba con cún.  Lũ chó tập trung ở cửa lều không chịu đi. Trần Trận cất riêng phần con sói rồi ngồi xổm trước cửa, cậu dùng xẻng nhà bếp gõ nhẹ lên đầu từng con bắt chúng xếp hàng lĩnh suất ăn.  Cậu cho con Nhị Lang miếng to nhất.  Nhị Lang mừng ron, chưa bao giờ vẫy đuôi mạnh đến thế.
Đợi lũ chó ăn xong ra bãi cỏ chơi, cũng là đợi miếng trứng rán nguội, cậu bỏ miếng trứng vào chậu thức ăn bê cho sói con.  Dương Khắc, Cao Kiện Trung và Trương Kế Nguyên đều ra theo để xem sói con có ăn trứng rán không.  Sói thảo nguyên chưa bao giờ thấy và ăn món này.  Trần Trận gọi to: Sói con... ăn cơm!  Miếng  trứng trong chậu vừa đặt xuống, con sói nhảy xổ vào đớp luôn và nuốt tởm không đầy một giây.
Bốn người thất vọng quá.  Trương Kế Nguyên nói: Sói cũng đáng thương, nuốt tởm thì sướng cái nỗi gì?  Trong từ điển nhà sói không có từ "nhâm nhi".
Cao Kiện Trung xót xa: Oan cho mấy cái trứng!
Trần Trận đành giải thích: Có thể nhũ đầu của con sói nằm trong dạ dày.
Ba người cười ồ.
Trần Trận ở lại thu dọn lều.  Ba người kia đi về đàn ngựa, đàn bò và đàn cừu.  Trần Trận hỏi Trương Kế Nguyên: có cần mình nắm tai ngựa để cậu lên yên không?
Trương Kế Nguyên nói: Mã quan đều có một hai con ngựa rất ngoan, chỉ gọi một tiếng hoặc dùng roi khẽ chạm vào mông là nó dừng lại liền, không cần đuổi hoặc tung thòng lọng.  Không có những con ngựa như thế, lỡ có người bị ngựa dữ quật ngã, không có ngựa cưỡi mà đàn đã chạy đi rồi thì gay.  Vào mùa đông, không chết cóng thì chớ kể.
Trương Kế Nguyên thay bộ đồ đã được giặt sạch, mượn Trần Trận cuốn tiểu thuyết "Sói biển" của Giắc London, ra khỏi lều.
Quả nhiên Trương Kế Nguyên nhẹ nhàng lên yên, đổi ngựa trong đàn không khó khăn gì rồi thúc ngựa phi nước đại về phía núi lớn.

________Hết chương 20________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:13:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21

Thác Bạt Thọ( Nguỵ Thái Vũ đế- người dân chủ) năm 429 quyết định đẩy lùi sự xâm nhập của bộ lạc Nho Nho người Mông Cổ. Một số cố vân của nhà vua dự báo: Nam triều (Nam Kinh) đế quốc người Hán có thể nhân dịp này đem quân kiềm chế. Thác Bạt Thọ trả lời đơn giản: “Người Hán dùng bộ binh, ta dung kỵ binh, trâu bò làm sao chống nổi sói.”
                                                                                                     (Pháp) Pierre Renouvin “Đế quốc thảo nguyên”

              Trần Trận thấy mấy đàn cừu lần lượt rời hồ nước, liền gom chúng lại dồn tới ven hồ. Thấy đàn cừu đã tụ tập một chỗ, cậu phóng ngựa tới ven hồ trước. Bãy sậy phía tây bắc đã bị chặt quang, lộ ra những dải cát nhân tạo rất rộng để gia súc xuống uống nước. Một đàn ngựa sau khi đã uống no, vẫn đứng yên nhắm mắt dưỡng thần, không chịu lên bờ. Vịt trời và các loại thuỷ cầm vẫn đùa giỡn trên mặt nước. Vài con chim còn dám bơi dưới bụng ngựa, ngang nhiên chui sang bên kia. Đàn ngựa nhìn lũ chim bằng ánh mắt thân thiện, không dùng đuôi xua đuổi. Riêng thiên nga không chịu kết bạn với ngựa. Chúng lánh xa vùng nước đục do ngựa gây nên, bơi chậm rãi bên bờ đối diện, trong bãi sậy.
              Đột nhiên trên quả đồi bên hồ có tiếng cừu be ầm ĩ: Đàn cừu của Trần Trận ngửi thấy mùi nước. Mùa hè cừu uống nước hai ngày một lần. Khát đã hai ngày, đàn cừu chạy ào xuống hồ làm tung lên từng đám bụi phía sau. Đàn gia súc vào bãi chăn mới chưa đầy mười ngày, bãi cỏ ven hồ đã bị chúng giẫm nát, biến thành bãi cát. Đàn cừu xuống nước, cắm đầu uống ngay bên cạnh đàn ngựa.
              Đàn cừu uống no vừa đi lên đồi, bên hồ lại rộ lên những tiếng be của một đàn cừu khác khát nước, bụi vàng bay lên dày đặc hơn.
              Trên một con dốc thoai thoải cách hồ nước hai dặm đã dựng lên ba bốn cái lán dân công. Vài chục dân công đang đào mương. Bao Thuận Quý chỉ huy đám dân công đào bể tắm chữa bệnh, xây nhà kho chứa lông cừu và trụ sở đội bộ tạm thời. Trần Trận trông thấy vài dân công cùng người nhà của họ đào mương, xới đất làm vườn rau. Cách đó rất xa, một số dân công đã đào xong một cái hố cực lớn, đang trình tường bằng đá hộc, vài chiếc xe lớn chở đá hộc và đá lát nhà đên địa điểm thi công. Không muốn nhìn mảnh đất trinh nguyên bị cày xới nham nhở, Trần Trận vội lùa cừu lên phia Tây Bắc.
              Đàn cừu qua một con đèo xuống thung lũng cỏ. Ông Pilich yêu cầu các tổ chăn thả không quanh quẩn ở tráng cỏ, mùa hè ngày dài, cố gắng đi thật xa, để cuối hạ đầu thu không phải chuyển nhà. Ông đặt kế hoach dùng đàn cừu càn đi càn lại cả trong lẫn ngoài bãi chăn vài lượt, khống chế cỏ mọc vô tổ chức, lèn mặt đất, đề phòng đàn muỗi nguy hiểm. Đàn cừu Trần Trận dàn hình cánh cung, chậm rãi di chuyển đến dốc tây nam.
              Dưới nắng, gần nghìn con cừu non như những bông cúc đại đoá trắng tinh nổi bật trên sườn dốc. Lông cừu non đã bắt đầu xoăn, chùng vừa ti sữa vừa ăn cỏ, khu đuôi mọc rất nhành, có con đã dài bằng khu đuôi cừu mẹ. Hoa cúc dại nở khắp nơi, trải màu vàng trước mặt Trần Trận. Hàng ngàn hàng vạn cây hoa chu cao hơn một mét, trên ngọn là một bông hoa màu vàng hình loa kèn, kẽ lá chi chít những nụ sắp nở. Trần Trận ngồi giữa đám hoa cúc vàng mà như ngồi trên đồng cải quê nhà. Cậu không ngờ trên cánh đồng hoang lại mọc nhiều cúc dại đến thế, bông cúc lớn hơn cúc vườn, nụ hoa to bằng cán bút bi.
              Trần Trận đứng dậy nhảy lên ngựa phóng tới phía trước đàn cừu, chỗ hoa cúc dày nhất để hái. Những ngày này rau cúc là món ăn ngon miệng cho đám học sinh Bắc Kinh, cúc vàng xào thịt cừu, bánh gối cúc nhân thịt, nộm cúc hành. Mời mục dân thưởng thức, nhưng mục dân không thích mùi hoa cúc. Buổi sang trước khi đi làm, Cao Kiện Trung đã chuẩn bị sẵn cho Trần Trận hai cái túi. Mấy ngày nay, Cao Kiện Trung không cho Trần Trận đọc sách, tranh thủ hái hoa đem về trần nước sôi, hong khô để ăn trong mùa đông, có tên là rau tram vàng. Họ đã phơi khô được nửa tải.
              Đàn cừu ăn cỏ phía sau rất xa, Trần Trận bứt từng nắm nụ hoa cúc, chẳng mấy chốc đã đầy một túi xách. Mải mê hái hoa cúc, Trần Trận chợt nhìn thấy cục phân sói, vội ngồi xuống nhặt lên xem kỹ. Cục phân có màu xám nhạt to bằng quả chuỗi tiêu, tuy đã khô nhưng vẫn có thể nhận ra chỉ cách đây vài hôm. Trần Trận ngồi xếp bằng tròn cân nhắc thật kỹ, cậu muốn có thêm ít kiến thức về phân sói. Cậu chợt nhận ra chỗ cậu ngồi đây chính là nơi con sói nằm nghỉ. Nó đến đây làm gì? Trần Trận nhìn thảm cỏ xung quanh, không xương xẩu vung vãi, lông lá cũng không. Rõ rang đây không phải là nơi sói đem con mồi đến ăn. Cỏ cao và rậm, đàn cừu của tổ thường đi qua, có thể đây là nơi sói phục kích. Trần Trận giật mình, vội đứng dậy nhìn bốn phía. Không sao, mấy cao điểm gần có mã quan đang nghỉ, và đàn cừu thì chỉ cách nửa dặm phía sau. Cậu lại ngồi xuống.
              Trần Trận nhận biết phân sói, nhưng cậu chưa có dịp nghiên cứu kỹ. Cậu bẻ cục phân làm đôi, thấy toàn là lông dê vàng và lông cừu, không thấy xương, chỉ có vài chiếc răng chuột bé tí và chất canxi của xương dính bết vào nhau như vôi vữa. Sói nuốt vào bụng thịt cừu thịt chuột, da cừu da chuột, xương cừu xương chuột, gân cừu gân chuột, tiêu hoá bằng hết gần như không còn chút gì, chỉ còn lại những thứ không thể tiêu hoá như lông và răng. Xem xét kỹ, ngay cả lông cũng là những sợi xenluylô ở lông thô, còn lông mịn cũng tiêu hoá hết. So với sói, tiêu hoá của chó kém xa, trong phân chó còn bã xương và vỏ ngô hạt chưa tiêu hoá hết.
              Trần Trận càng xem càng sợ, sói đúng là công nhân vệ sinh trên thảo nguyên. Chúng xử lý gọn bò cừu ngựa, rái cá dê vàng, thỏ đồng chuột đồng, thậm chí thi thể người chết, qua răng miệng dạ dày và ruột, chúng hấp thụ toàn bộ chất bổ dưỡng, cuối cùng chỉ còn thừa chút lông và răng, keo kiệt đến mức chẳng để lại chút nào cho lũ vi khuẩn. Thảo nguyên hàng vạn năm nay luôn sạch sẽ, đó là công lớn của sói!
              Trần Trận rơi vào trầm tư. Ngàn vạn năm nay, người thảo nguyên và sói thảo nguyên du mục và săn bắt, khi về trời không để lại mồ mả bia đá, càng không để lại cung điện lăng tẩm. Người và sói từng sinh ra, sống, chiến đấu và chết trên thảo nguyên, đến như thế nào khi đi như thế. Những dũng sỹ thảo nguyên từng đánh chiếm cách thành luỹ và thành phố của mấy chục quốc gia, vậy mà cái chết của họ nhẹ như lông hồng, khiến cho những nhà khảo cổ đời sau đau đầu vì không khai quật được gì. Cái sinh mạng thảo nguyên nhẹ như lông hồng ấy, hoá ra rất tôn trọng sinh mạng của tự nhiên và của đấng cao xanh, là tấm gương cho những chủ nhân của những lăng mộ đồ sộ Kim Tự Tháp, Tần Hoàng lăng, Thái Cơ lăng coi cái chết nặng tựa Thái sơn. Người thảo nguyên thông qua sói mà đạt tới sinh mạng nhẹ tựa lông hồng, cuối cùng về với thiên nhiên. Họ không thể thiếu một trong hai, sau khi thể xác tiêu tan, họ hoà với thiên nhiên làm một.
              Bột mịn lọt qua kẽ tay Trần Trận rơi xuống, có thể trong đám bụi này có tàn dư râu tóc người thảo nguyên. Thảo nguyên tháng nào, quý nào cũng có thiên tang đưa linh hồn người thảo nguyên lên trời. Trần Trận giơ cao hai tay ngửa mặt nhìn trời, chúc cho linh hồn họ bằng an hạnh phuc bên Tăngcơli.
              Đàn cừu hình răng lược chậm rãi chải những búi hoa vàng tiến dần lên dốc núi. Trần Trận tiếc, không muốn vứt bỏ mấy cục phân sói, bèn bỏ vào một cái túi khác, lên ngựa đón đầu đàn cừu.
              Trên đỉnh núi gần đó có một tảng đá lớn màu đen nhọ nồi, nhìn từ xa giống như một phong hoả đài. Trên những đỉnh núi xa hơn cũng có những tảng đá như thế. Trần Trận nheo mắt ngắm, thấy chúng như một đoạn trường thành còn sót lại, chợt nhớ tới câu thành ngữ “phong hoả hí chư hầu” (đốt lầu phong hoả đánh lừa chư hầu là có giặc cho vui) và “lang yên tứ khởi” (khói phân sói bốc lên mù mịt). Cậu từng tra những từ điển nổi tiếng, “lang yên” được giải thích là “khói đốt từ phân sói”. Nhưng như cục phân sói cậu vừa bóp nát cho thấy, phân sói chủ yếu do tàn tích của lông động vật tạo thành, làm sao có thể khói đen cuồn cuộn?
              Chẳng lẽ trong phân sói có thành phần đặc biệt gì đó? Tim cậu đập rộn lên: “phong hoả đài” ngay trước mắt, sao mình không đốt lên, đùa giỡn “chư hầu” một cái, tận mắt trông thấy “khói sói” khiến dân tộc Hoa Hạ kinh hồn táng đởm hàng ngàn năm nay? Xem cái khói sói ấy nó kinh khủng như thế nào. Do tính hiếu kỳ thôi thúc, Trần Trận quyết định đi nhặt thêm ít phân sói nữa, để “khói sói” bốc trên “phong hoả đài”.
              Đàn cừu di chuyển chậm, Trần Trận dạo qua rất nhiều lượt mới nhặt được chừng bốn vốc tay, chưa đầy nửa cái túi xách.
              Trần Trận ngày càng sinh nghi, cứ cho là phân sói bốc lên khói đen, nhưng sói không như cừu, sói là loài mãnh thú di chuyển nhanh, phân rải rác khắp nơi, không tập trung một chỗ như cừu. Vì vậy kiếm đủ phân sói đâu có dễ. Ngay cả nơi đàn sói lớn tập trung tiêu diệt đàn dê vàng, cũng khó tìm thấy phân, nói gì dưới chân trường thành ít gia súc. Hơn nữa, các binh sĩ phong toả đài trên trường, thành nhặt phân sói ở đâu? Rất nhiều phong hoả đài, bao nhiêu phân sói cho đủ? Sức tiêu hoá của sói rất mạnh, bài tiết phân rất ít, do vậy phải có những đàn sói khổng lồ mới đủ phân cho các phong hoả đài. Trần Trận lại dạo vài lượt nữa vẫn không kiếm thêm được bãi phân nào. Cậu cho đàn cừu trú tại chân dốc lớn rồi phóng ngựa lên chỗ tảng đá trên đỉnh núi.
              Trần Trận đến bên tảng đá nhìn lên. Tảng đá cao bốn tầm người, bên cạnh có nhiều tảng thấp có thể dùng làm bậc thang trèo lên. Cậu kiếm trong khe một ôm củi khô, buộc chặt, kéo lên đỉnh núi. Rồi đeo chéo túi sang bên, cậu trèo lên tảng đá, kéo bó củi lên theo. Bề mặt tảng đá bằng phẳng , rộng bằng hai chiếc bàn, bên trên có phân chim đại bàng trắng.
              Lúc này đã gần trưa, đàn cừu nằm nghỉ trên bãi cỏ. Trần Trận đứng trên “phong hoả đài” dung ống nhòm quan sát kỹ bốn phía, không có sói. Đàn cừu của cậu cách những đàn cừu khác năm sáu dặm, đàn gần nhất cũng ngoài ba dặm, không sợ lẫn. Yên tâm, Trần Trận chất củi thành đống, bỏ tất cả chỗ phân sói lên trên. Giờ là dầu hạ, không phải đề phòng hoả hoạn, trên thảo nguyên toàn là cây tươi, vả lại, trên mỏm đá cao cao, có đốt lửa cũng không bị ca cẩm, người ta nghĩ các mã quan nướng thịt ăn.
              Trần Trận ý đã quyết, móc cái ví da cừu nhỏ như quyển ngữ lục trong túi trên, bên trong có hai miếng thuỷ diêm và hơn chục que diêm đầu đỏ. Đây là vật bất li thân của những mục dân không nghiện thuốc trên thảo nguyên, dùng để phòng thân: Sưởi ấm, nấu nướng thức ăn, báo tin… Trần Trận quẹt diêm, đám củi khô lập tức bén lửa nổ tí tách, tim cậu đập thình thịch, nếu như phân sói bốc khói đen. Có thể nói từ khi có sử đến nay, đây là lần đầu tiên người Hán đốt lên làn khói của phân sói trên thảo nguyên Mông Cổ. Có thể mọi người trong đội đều nhìn thấy làn khói này, các thanh niên trí thức sẽ chắc chắn liên tưởng tới khói soi. Quả thật “khói sói” đã gieo rắc kinh hoàng trong tâm trí người Hán, nó là lời cảnh báo đặc biệt trong lịch sử văn hoá Trung Quốc, đồng nghĩa với báo động, khủng bố, chiến tranh bột phát và kẻ thù xâm nhập. “Sói đến đấy!” Tiếng kêu khiến người lớn trẻ em sợ mất vía, và “khói sói” khiến dân tộc Hán khiếp đảm, bao nhiêu vương triều Hán trung nguyên đã bị diệt trong “khói sói”!
              Trần Trận hơi sợ, khói sói bốc lên, tất cả thanh niên trí thức trong đội lập tức lên án cậu. Nuôi sói chưa đủ hay sao, lại còn ngang nhiên nổi khói sói, thằng cha này chắc hẳn là quân bất lương, phản phúc khó lường. Trần Trận giơ cao chân, sẵn sàng dùng gót ủng giập lửa bất cứ lúc nào. Nơi đây là vùng biên, tình hình khá căng, vậy mà dám đốt lửa giỡn chư hầu, chẳng phải thông báo địch tình thì là gì? Nghĩ vậy Trần Trận toát mồ hôi lạnh.
              Thế nhưng, lửa đã rừng rực mà chỗ phân sói không thấy động tĩnh, cục phân màu xám biến thành đen, không bốc khói cũng không cháy thành ngọn lửa. Đống lửa cháy càng to, phân sói đã bén lửa, bốc lên mùi hôi của sói và mùi khét của lông cừu, những vẫn không thấy khói đen. Đốt phân sói giống như đốt thảm len, khói bốc lên màu nâu nhạt, không đậm bằng khói củi. Củi cháy đùng đùng, phân sói cũng cháy thành ngọn lửa, cuối cùng tất cả đỏ rực, khói cũng không còn mấy, nói gì khói đen, khói trắng cũng không. Vậy làm gì có “khói sói” khiến người ta sợ mất vía? Làm gì có cột khói đen cuộn cuộn dâng cao đầy ma thuật? Chỉ là đống củi khô thêm vào đó ít thảm len rách, khói bôc lên rất bình thường, mỏng và nhẹ.
              Trần Trận hạ chân xuống từ lâu, cậu gạt mồ hôi do sợ hão, thở ra nhẹ nhõm. Đống lửa này chẳng có gì ghê gớm, chỉ bằng những đống lửa sưởi ấm mùa đông. Cậu nhìn đống củi và những mẩu phân sói đã cháy hết, tịnh không thấy xuất hiện khói sói. Cậu đứng lên trên tảng đá cao, trảng cỏ rộng lớn phía đông hoàn toàn thanh bình: những chiếc xe bò chậm rãi lăn bánh, đàn ngựa trong hồ vẫn nhắm mắt dưỡng thân, đám phụ nữ cắm cúi xén lông cừu, các dân công đang đào đa hộc. Đống lửa không gây phản ứng gì, một dương quan gần nhất đang nhìn về phía cậu. Ống khói trên nóc lều Mông Cổ phía xa toả khói trắng, cột khói vươn thẳng lên trời. Làn khói sói đốt bằng chính nguyên liệu phân sói lại chẳng có gì đáng chú ý, không hấp dẫn bằng khói cơm trên túp lều Mông Cổ.
              Trần Trận rất thất vọng. Cậu nghĩ, khói sói không có thật, chẳng qua là chuyện bịa. Thực nghiệm hồi nãy đã chứng minh sự phán đoán của cậu: Cái gọi là khói sói trên phong hoả đài, dứt khoát không phải khói của phân sói. Làn khói đen đặc kia hoàn toàn do đốt củi khô củi ướt và dầu mỡ khói bốc lên trời. Đốt phân cừu phân bò còn ướt cũng có khói đen, mà củi ướt, dầu mỡ, phân bò cừu ướt dễ kiếm hơn nhiều so với phân sói. Giờ thì cậu có thể khẳng định, khói sói là cách nói dựa vào uy thể của sói, hoàn toàn bịp bợm, là lời tự dối mình của cư dân hoà bình Hoa Hạ.
              Gió thổi tro củi và tro phân bay khỏi “phong hoả đài”. Trần Trận không sợ khói sói, cậu rất ghét cái lối giải thích về khói sói trong những từ điển danh tiếng của Trung Quốc. Nền văn minh nông canh Hoa Hạ hiểu rất nông cạn về văn minh thảo nguyên, không hiểu tí gì về sói thảo nguyên. Khói sói không đơn giản là khói của phân sói, chỉ cần đốt một ít phân sói là biết liền. Nhưng vì sao hàng triệu người Hán bao nhiêu năm nay không đốt thử? Từ một góc độ khác, Trần Trận thấy cái chuyện đơn giản như thế, thực tế không giản đơn chút nào. Sự mở mang nền văn minh nông canh mấy nghìn năm đã giết sách sói Hoa Hạ, người Hán có đâu phân sói mà nhặt? Những ông già đi nhặt phân đều là phân trâu bò dê cừu chó ngựa hoặc phân người, ngẫu nhiên gặp phân sói cũng không nhận ra.
              Trần Trận ngồi trên “phong hoả đài” suy nghĩ rất lung. Đã bảo khói sói không phải khói của phân sói, vậy thì khói đen cuồn cuộn trên phong hoả đài sao lại gọi là khói soi? “Khói sói”, từ này quả đáng sợ hơn, có tác dụng uy hiếp hơn đàn sói, còn từ “sói” trong “Sói đến đấy” không phải đàn sói thảo nguyên, mà là lá quân kỳ thêu hình đầu sói của kỵ binh Đột Quyết; là những kỵ binh Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết, Mông Cổ hùng mạnh, mang tính sói của thảo nguyên, noi gương sói, rất thích tự ví mình là sói, ví người Hán là cừu; luôn luôn tự hào về sói mạnh một chọi trăm của mình mà khinh rẻ tính cách nhu nhược như cừu của các dân tộc nông canh. Còn dân tộc nông canh Hoa Hạ cổ đại vẫn coi kỵ binh thảo nguyên là “sói”. Nghĩa ban đầu của “khoi sói” phải là “Khói lửa trên phong hoả đài, là tín hiệu bằng khói lửa cấp báo kỵ binh dân tộc thảo nguyên sùng bái tôtem sói, đã xâm phạm quan nội”. Khói sói và phân sói không hề lien quan.
              Cậu chợt nghĩ, có lẽ trên thế giới này chỉ Hán ngữ có cái từ “khói sói”. Trên đời này, chuột sợ mèo nhất, cừu sợ sói nhất. Lấy “khói sói” tượng trưng cho cuộc tiến công đáng sợ nhất của dân tộc thảo nguyên, đã bộc lộ bản chất tính cách cừu tính hoặc gia súc tính của dân tộc Hán. Từ khi Mãn Thanh lên thảo nguyên, do tộc Mãn du mục yêu thảo nguyên và nông canh, khói sói tiêu tan dần. Nhưng mâu thuẫn sâu sắc giữa văn minh thảo nguyên và văn minh nông canh vẫn không được giải quyết. Người Hán không hiểu thảo nguyên. Sauk hi dựng nước, khói sói tắt hoàn, nhưng khói đen khẩn hoang lại lan rộng trên thảo nguyên. Đay là một loại khói lửa chiến tranh, đáng sợ hơn khói sói, là cuộc chiến tranh tự  sát dã man hơn tự huỷ trường thành. Trần Trận nhớ lại ông Ulichi, nếu như bắc trường thành biến thành sa mạc, nối liền sa mạc Mông Cổ thành một dải, vậy Bắc Kinh sẽ như thế nào? Trần Trận thở dài, để dân tộc nông canh xưa nay coi thảo nguyên như kẻ thù, yêu mến và trân trọng thảo nguyên, có lẽ phải đợi khi trường thành bị sa mạc vùi lấp mới có thể. Dân tộc nông canh là dân tộc chưa thấy quả báo nhỡn tiền thì chưa chịu, tộc Thanh sau khi vào trung nguyên dần dà bị văn minh nông canh đồng hoá, bế quan toả cảng, tự đóng cửa lại mà huenh hoang khoác lác, cự tuyệt văn minh bốn phương, không chịu cải cách đổi mới, nếu không có chuyện các cường quốc đưa tàu to súng lớn mở toang cửa ngõ Trung Quốc, cắt đất đền tiền, đuổi hoàng thất ra khỏi kinh thành, chưa hẳn đã có cuộc cải cách gượng gạo mấy chục năm sau đó.
              Trần Trận nhìn cục phân sói dưới đất đã biến thành tro, buồn da diết.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:13:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21 (tiếp)

Cái nắng mùa hạ trên cao nguyên, đến trưa bỗng trở nên gay gắt, toàn bộ cỏ trên đồng bị héo lùn ba tấc, tảng đá khổng lồ nứt thêm mấy vết mới. Trần Trận vun tàn tro nhét đầy các kẽ nứt, rồi trèo xuống trở lại trảng cỏ. Đàn cừu say nắng rúc trong bụi cỏ, cằm sát đất, lưng phơi lên trời, núp dưới cái bóng của chính mình. Cả đàn đang ngủ trưa, im phắc.
              Ẩn sau một phiến đá lớn, Trần Trận cũng muốn chợp mắt một lát nhưng không dám. Chỗ này vừa nhặt được phân sói, rất có thể một con sói lớn đang ẩn nấp đâu đó chỉ đợi mình ngủ say. Trần Trận uống mấy ngụm lớn sữa chua trong bi đông, thấy đỡ buồn ngủ. Mỗi lần đi chăn cừu, cậu lại đến nhà Caxưmai lấy đầy bi đông sữa chua, loại nước giải khát của dương quan trong mùa hè, cũng là đồ uống chống nóng ưa thích của người và chó ở nhà.
              Có tiếng vó ngựa. Đanchi đang nhảy xuống. Anh mặc áo dài trắng Mông Cổ, thắt lưng đoạn màu xanh ra vẻ một trang anh tuấn. Khuôn mặt đỏ như táo chin đẫm mồ hôi. Anh lau mặt, bảo Trần Trận: Té ra là cậu. Hồi nãy trông thấy khói trên tảng đá tưởng cậu dương quan nào nướng rái cá. Tôi buồn ngủ quá nên đốt lửa cho đỡ ríu mắt lại. Cừu của anh đâu? Đanchi trỏ đàn cừu ở sườn núi phía bắc, nói, ngủ cả rồi. Mình buồn ngủ quá, nhưng sợ nên tìm cậu nói chuyện. Đừng lo cho đàn cừu của mình, mình đã giao cho dương quan trông rồi. Hai cậu dương quan đang đánh cờ đằng ấy. Đanchi ngồi hóng mát sau tảng đá.
              Trần Trận biết mục dân thảo nguyên biết chơi cờ bắt dê; cờ tướng quốc tế thì do kỵ binh Mông Cổ đem từ phương Tây về. Nhưng không ai biết chơi cờ tướng Trung Quốc. Ông Pilich nói: Quân cờ người Hán toàn chữ Hán, người Mông Cổ không đọc được. Cờ phương Tây không có chữ nhưng ai cũng nhận ra, nhất là con mã không khác đầu ngựa Mông Cổ là mấy. Người Mông Cổ rất thích quân cờ có đầu ngựa. Trần Trận nghĩ thầm, đến nay Mông Cổ còn lưu giữ những hiện vật, chứng cứ, ảnh hưởng của kỵ binh Mông Cổ càn quét thế giới đem về. Dân tộc thảo nguyên tiếp xúc với cờ tướng quốc tế và quốc tế sớm hơn nhiều so với người Hán, là dân tộc phương Đông thu được chiến lợi phẩm sớm nhất từ phương Tây. Thời kỳ Mông Cổ chinh chiến thế giới, ngay cả giáo hoàng La Mã cũng cử sứ thần đến chào. Sự dũng mãnh của người Mông Cổ là một trong những nguyên nhân khiến phương Tây không dám khinh rẻ người phương Đông. Sau khi lên thảo nguyên, Trần Trận đã học được lối chơi cờ tướng quốc tế.
              Mùa hè trên thảo nguyên, ban ngày dài dễ sợ, hơn ba giờ đã sang, bảy tám giờ tối mới tối hẳn. Tuy đàn cừu sợ giẫm sương bị thấp khớp, tám giờ mới xuất chuồng, nhưng phải đợi đến chin giờ nắng khô sương mới lùa cừu lên núi. Nhưng buổi chiều thì phải đợi tối hẳn mới cho cừu về chuồng, vì đây là khoảng thời gian cái nóng dịu đi, cừu tranh thủ ăn cỏ vỗ béo. Mùa hè chăn cừu dài gần gấp đôi mùa đông. Các dương quan đều sợ mùa hè. Sáng uống bát trà sữa, bụng đói đến tận tám chin giờ tối, nắng và buồn ngủ, khát và đói, nhàm chán và cô đơn. Giữa mùa hạ, khi đàn muỗi bay ra, thảo nguyên đúng là nhà tù. Sau khi lên thảo nguyên, đám thanh niên trí thức mới biết, so với mùa hạ, mùa đông rét buốt triền mien, nhưng lại là mùa người ta béo lên.
              Trước khi đàn muỗi kéo đến, Trần Trận khó chịu nhất là đói. Mục dân rất giỏi nhịn đói, nhưng phần lớn đau dạ dày. Mùa hè đầu tiên, thanh niên trí thức đem theo lương khô, nhưng về sau dần dà nhập gia tuỳ tục. Nói đến rái cá nướng, bụng hai người réo ùng ục.
              Đanchi nói: Bãi chăn mới rái cá rất nhiều, sườn núi phía tây toàn là hang rái cá. Hôm nay thăm thú tình hình, mai đặt một ít bẫy, đến trưa chắc chắn được vài con. Trần Trận luôn miệng khen hay, nếu như bẫy được rái cá thì vừa no bụng vừa tỉnh ngủ. Đanchi thấy hai đàn cừu chưa muốn dậy ăn cỏ, liền dẫn Trần Trận sang đỉnh dốc phía tây nấp sau những phiến đá thạch anh, vừa có thể theo dõi đàn cừu phía sau, vừa quan sát hang rái cá sườn núi phía trước. Hai người lấy ống nhòm ra quan sát kỹ. Sườn núi yên tĩnh, hơn chục nấm đất trước hang trống không, phản chiếu tia thạch anh lấp loáng. Hang rái cá ở Ơlôn rất sâu. Rái cá đùn cả quặng trong núi ra ngoài hang, mục dân có khi nhặt được đá saphia màu tím hoặc đá cuội chứa quặng đồng. Chuyện này làm kinh động đoàn thăm dò địa chất quốc gia, nếu Ơlôn kề sát đường biên thì đã trở thành vùng mỏ từ lâu.
              Chỉ lát sau, từ bên sườn núi vọng lại tiếng “chít chít”, “chút chút” rất to. Đó là rái cá phát đi tín hiệu thăm dò trước khi ra ngoài. Chỉ cần bên ngoài không có phản ứng là hàng loạt rái cá chuẩn bị ra ngoài hang. Lại một loạt tiếng kêu nữa, vài chục con rái cá to có nhỏ có chui lên, gần như mỗi nấm đất đều có một con rái cá mẹ ngó nghiêng, liên tục phát ra những tiếng “chít chít” nhịp nhàng chậm rãi, báo hiệu bình yên. Thế là lũ rái cá con chạy hểt ra ăn cỏ cách đó mấy chục mét. Đại bang lượn vòng trên cao, rái cá mẹ cảnh giác nhìn trời, nếu kẻ thù sà xuống, rái cá mẹ lập tức kêu “chíp chíp”, đàn con chui hết xuống hang, đợi hết nguy hiểm lại mò lên.
              Trần Trận nhích người sang bên, động tác hơi mạnh. Đanchi vội dung tay ấn lưng Trần Trận, nói nhỏ:  Trông kìa, bên dưới cái hang ở tận cùng phía bắc có một con sói. Người và sói cùng một ý tưởng rồi. Nó cũng định ăn thịt rái cá. Nghe nói đến sói, Trần Trận hết cả buồn ngủ vội giơ ống nhòm về phía mục tiêu. Một con rái cá đực rất to đứng thẳng trên một nấm đất, hai chân trước buông xuôi trước ngực ngó quanh, không dám xuống ăn cỏ. Rái cá trên thảo nguyên, con cái ở cùng đàn con, con đực ở riêng một hang. Phía dưới cửa hang của con sói đực cỏ mọc rất cao, mỗi khi có gió lại lộ ra mấy hòn đá màu vàng, đám cỏ rung rinh, rất khó phân biệt mọi vật. Trần Trận nói: Tôi chưa trông thấy con sói, chỉ thấy mấy hòn đá.
              Đanchi nói: Nó ở ngay bên cạnh hòn đa. Mình đồ chừng nó phục ở đấy lâu rồi. Trần Trận lại nhìn kỹ mới thấy thấp thoáng nửa thân con sói, buột miệng nói: Mắt anh mới tinh chứ, làm sao tôi không thấy nhỉ? Đanchi nói: Nếu cậu không biết sói bắt rái cá bằng cách nào thì dù mắt tinh đến mấy cũng khó nhìn thấy nó. Sói chọn hướng ngược gió phục kích phía dưới cửa hang, trong đám cỏ rậm. Một lần bắt rái cá không dễ, nên sói chọn con đực. Cậu xem, con đực này mới to chứ, gần bằng con cừu choai, ăn một con đủ no. Muốn tìm sói, trước hết tìm rái cá đực trên miệng hang rồi lần xuống đám cỏ cao phía dưới theo hướng ngược gió…
              Trần Trận vui vẻ kêu: Hôm nay lại học thêm một chiêu. Khi nào con rái cá này ăn cỏ? Tôi rất muốn biết con sói bắt con rái cá như thế nào. Sói ló đầu lên, con rái cá liền chui tọt vào một cái hang gần đấy là sói chịu phép. Đanchi nói: Sói đần không bắt nổi đâu, phải là con thông minh kia. Sói đầu đàn thường giở tuyệt chiêu, rái cá có muốn chui vào hang cũng không được. Cậu cứ ở đấy mà xem tài nghệ con sói này.
              Hai người ngoảnh lại nhìn đàn cừu, thấy chúng vẫn nằm yên bèn quyết định đợi. Đanchi nói: Rất tiếc hôm nay không đem chó theo. Có chó ở đây, đợi sói bắt được rái cá, liền thả chó cho đuổi, còn ta lên ngựa phóng theo, dứt khoát cướp lại được con rái cá. Dù cho hai người ăn nhưng vẫn đảm bảo một bữa no. Trần Trận nói: Đợi lát nữa ta thử đuổi theo xem sao, chưa chắc đã đuổi kịp. Đanchi nói: Chắc chắn không đuổi kịp. Cậu thấy đấy, sói trên sườn núi, sói chạy xuống, ta chạy lên, càng không đuổi kịp. Trần Trận đành thôi.
              Đanchi nói: Mai ta đặt bẫy. Hôm nay đưa cậu đi quan sát tình hình, sói cũng chỉ còn nửa tháng bắt rái cá. Nửa tháng nữa mưa xuống, muỗi bay ra, sói không bắt rái cá nữa. Vì sao? Vì muỗi cứ nhè vào mũi vào mắt vào tai sói mà đốt khiến sói nhảy như choi choi thì còn nằm phục sao được. Sói động là rái cá chạy liền. Khi đó sói mới tấn công đàn cừu đàn ngựa chúng ta, người và gia súc khốn đốn đây.
              Con rái cá đực nhìn đàn rái cá ăn cỏ, không chịu nổi nữa, nó bèn nhảy xuống chạy một quãng chừng hai chục mét bứt mấy miếng rồi chạy trở lại nấm đất, kêu cầm canh như cũ. Đanchi nói: Cậu xem, con rái cá không ăn cỏ ngay miệng hang để khỏi lọ miệng hang. Động vật hoang dã trên thảo nguyên sống rất khó khăn, sểnh ra một tí là mất mạng.
              Trần Trận sốt ruột nhìn con sói, đoán chừng từ chỗ nấp nó không trực tiếp nhìn thấy, chỉ bằng thính giác mà phán đoán vị trí và hành động của con rái cá, vì vậy nó ép sát gần như chui xuống đất.
              Con rái cá đực chạy ra chạy vào mấy lượt không thấy có gì nguy hiểm liền buôn lỏng cảnh giác, nhằm một búi cỏ lớn chạy tới. Chừng năm sáu phút trôi qua, con sói bật dậy. Điều khiến Trần Trận giật mình là con sói không vồ ngay con rái cá, mà nó cào cho sỏi đá lăn xuống rào rào. Con rái cá đực cách đó hai chục mét nghe tiếng động giật mình chạy trở về hang. Lúc này con sói nhanh như chớp nhảy vọt lên nấm đất trước cửa hang con rái cá, và gần như cùng một lúc, nó và con rái cá chạm trán nhau ở cửa hang. Con rái cá định chạy sang hang khác nhưng không kịp, con sói ngoạm gáy con rái cá cắn một phát đứt cổ, rồi nó ngẩng cau đầu, miệng ngậm con rái cá nhanh nhẹn vượt qua một con đèo mất hút, từ lúc xuất kích cho đến lúc hạ con mồi chưa đầy nửa phút.
              Trên sườn núi, lũ rái cá biến mất. Trần Trận tận mắt chứng kiến tuyệt kỹ của con sói mà sững người. Trí tuệ của loài sói thật không thể lường, Trần Trận đã đọc “Nguồn gốc loài vật” nhưng sách không giải thích rõ, chỉ trong cuộc sống cậu mới được mục kích kỳ tích này.
                                                                                   *    *    *            
              Nắng ngả màu vàng, hai đàn cừu đã đứng lên ăn cỏ, di chuyển theo hướng tây bắc một hai dặm nữa. Hai người chuyện trò thêm dăm câu rồi ai nấy đi về đàn cừu của mình. Đã đến lúc đổi hướng cho con cừu đầu đàn để về chuồng. Đúng lúc hai người định đứng lên dắt ngựa, Trần Trận chợt phát hiện có chuyện xao động giữa đàn cừu, vội giơ ống nhòm lên thấy một con sói lông màu vàng kim từ bụi cúc bên trái đàn cừu vọt ra quật ngã con cừu mẹ rồi cắn xé. Trần Trận tái mặt định hét lên, nhưng Đanchi vội ấn cậu xuống. Trần Trận chợt hiểu, ngừng ngay tiếng kêu. Con sói ăn thịt đùi cừu ngay khi con cừu còn sống. Cừu thảo nguyên là loại động vật hạ đẳng, thấy máu không dám kêu. Cổ toé máu, chân giãy đạp nhưng nó không dám kêu lên như sơn dương để được cứu.
              Đanchi nói: Xa đàn quá, cứu không kịp. Để nó ăn no rồi sẽ tính. Đanchi bình tĩnh, con sói chết tiệt, dám bắt cừu ngay trước mũi mình. Hai người ngồi yên bên tảng đá, sợ đứng dậy sớm quá, kinh động con sói.
              Rõ rang đây là con sói đói, thấy người chăn xa đàn đã lâu, bèn lợi dụng những đám cúc vàng bò tới, bất chợt nhảy ra ăn thịt cừu. Nó đã trông thấy hai người và hai con ngựa nhưng không bỏ chạy, vừa theo dõi hai người, ước lượng chính xách khoảng cách, vừa tranh thủ từng phút từng giây ngốn hết miếng nọ đến miếng kia, ăn được chừng nào có thể ăn. Trần Trận nghĩ, thảo nào sói con ở nhà ăn như ăn cướp. Trên thảo nguyên, thời gian là thịt, ăn nhỏ nhẹ thì chỉ có chết đói.
              Trần Trận từng nghe kể chuyện dương quan đổi cừu lấy sói. Căn cứ vào tình hình trước mắt, có lẽ phải dung cách này. Đổi một cừu lấy một sói lớn, quá lãi. Một sói lớn một năm ăn thịt mười mấy con cừu, đấy là chưa kể ngựa lớn ngựa nhỏ. Dương quan đổi cừu lấy sói, không bị đội phạt đã đanh, mà còn được biểu dương. Nhưng Trần Trận vẫn lo, không tóm được sói thì thiệt to. Cậu dán mắt vào ống nhòm, con sói ăn hết cái đùi chỉ trong một phút, cả da lẫn lông. Hai người rón rén đến bên ngựa, lặng lẽ cởi dây buộc chân, nắm chặt dây cương thấp thỏm chờ đợi.
              Giống cừu thậm ngu. Khi con sói ăn thịt con cừu mẹ, mấy chục con gần đấy kinh hoàng chạy túa ra, nhưng chỉ lát sau chúng trở lại bình tĩnh, thậm chí có những con còn đứng gõ móng tỏ vẻ sốt ruột hoặc xán lại gần xem sói ăn. Tiếp theo lại hơn chục con nữa xúm quanh. Cuối cùng, hơn trăm con cừu đứng chen chúc vòng trong vòng ngoài đường kính dễ đến ba mét, nghển cổ mà nhìn sói ăn đồng loại, nét mặt tỏ ra “sói ăn cậu, chả việc gì đến tới!” hoặc “cậu chết thì tớ thoát”. Đàn cừu sọ vạ vào thân, không con nào dám chống lại sói.
              Trần Trận trong lòng đau nhói. Cậu không nén nổi căm phẫn. Cảnh tượng trước mắt khiến cậu nhớ lại những gì Lỗ Tấn  tả một đám dân ngu giống hệt lũ cừu trước mặt: Vươn cổ mà ngó quân Nhật giết người mình!
              Sói ăn thịt cừu là dã man, nhưng nhu nhược như cừu quả thực đáng sợ, khiến lòng người tê tái.
              Đanchi có vẻ lúng túng. Là thợ săn nổi tiểng của đội mà bỏ mặc đàn cừu, đưa một thanh niên trí thức đi xem sói bắt rái cá, giữa ban ngày ban mặt để sói vồ mất mẹ cừu. Mất mẹ, cừu con thiếu sữa sẽ không lớn, không qua nổi mùa đông. Có thể coi như một vụ thiều tinh thần trách nhiệm, Trần Trận bị phê bình, Đanchi tránh không khỏi liên can. Gay go là sẽ có người làm to chuyện, vì sao sự cố sói ăn thịt cừu mẹ lại xảy ra đối với người nuôi sói con? Người nào không quan tâm đến cừu thì không nuôi được cừu, người nào bắt sói về nuôi chắc chắn sẽ bị sói mẹ báo thù. Những đội viên phản đối nuôi sói nhân dịp này sẽ tha hồ thêu dệt. Trần Trận càng nghĩ càng sợ.
              Đanchi dùng ống nhòm quan sát rất lâu, hình như anh ta đã có chủ ý. Anh ta bảo: Con cừu mẹ cứ tính vào tôi, nhưng tôi sẽ lấy da. Tôi chỉ việc đem bộ da lên nộp Bao Thuận Quý, ông ta sẽ biểu dương cả hai chúng ta.
              Con sói vừa nhìn người bằng ánh mắt sói, vừa tăng nhanh tốc độ ngốn thịt. Đanchi chỉ: Không đến mấy lúc đói cũng ngốc. Sao nó không nghĩ lát nữa còn chạy nổi không? Tôi đồ chừng đây là con sói ngố, bắt không được rái cá mới quay về đây. Chắc nhiều ngày nay không có gì vào bụng.
              Trần Trận thấy con sói đã ăn gần hết nửa con cừu, bụng căng như trống, bèn hỏi: Xông tới được chưa? Đanchi nói: Đừng vội, đợi lát nữa. Phải rất nhanh đấy. Ta từ phía nam đuổi tới buộc nó phải chạy lên phía bắc. Phía ấy có mấy dương quan, họ sẽ chặn đường giúp ta.
              Đanchi còn xem một lúc nữa, cuối cùng hô: Lên ngựa! Hai người vịn cọc yên nhảy lên mình ngựa nhằm phía nam đàn cừu phi tới. Con sói chưa vội bỏ chạy, thấy người tới, còn cắn thêm mấy miếng nữa mới bỏ con cừu lại, nhằm phía bắc chạy đi. Nhưng chạy được vài chục mét, hình như nhận ra sai lầm, con sói dừng lại đột ngột, ngồi xổm, đầu cúi xuống. Đanchi hét to: Không hay rồi, nhanh lên! Nó định nôn bớt. Quả nhiên Trần Trận trông thấy nó thót bụng lại, nôn ra toàn là thịt. Hai người tranh thủ thời cơ ngàn năm có một, thúc ngựa vọt lên, loáng cái đã đuổi kịp con sói.
              Trần Trận chỉ biết sói oẹ thức ăn trong bụng để nuôi con, không biết sói nôn thức ăn để nhẹ bụng chạy cho dễ. Con sói đói cũng không ngu. Nếu chỉ còn bụng không thì cừu bị sói ăn thịt đúng là sự cố. Cậu lập tức ra roi cho ngựa vọt lên, ngựa Đanchi lại càng nhanh, anh ta vừa hò hét vừa gọi các dương quan trên núi giúp đỡ. Đanchi sắp tới gần, con sói buộc phải ngừng nôn, điên cuồng bỏ chạy, tốc độ nhanh gấp đôi lúc nãy. Trần Trận đuổi theo một đoạn, trông thấy đống thịt con sói nôn ra màu đỏ tươi. Cậu càng cuống, thúc ngựa đuổi bắt bằng được.
              Có lẽ trong bụng còn khá nhiều thịt, thực phẩm mới ăn vào bụng chưa phát huy tác dụng, nên con sói tuy chạy nhanh nhưng vẫn chưa đạt tộc độ thường ngày của nó. Con ngựa của Đanchi đã chạy nhanh bằng con sói. Chạy thêm đoạn nữa, con sói đột nhiên đổi hướng chạy lên con dốc cao, định dùng tuyệt chiêu lăn dốc của sói để thoát hiểm. Đúng lúc, dương quan Tang Kiệt hiện ra vung cây thòng chặn đường sói chạy. Con sói run lên, nhưng nó chỉ lưỡng lự trong giây lát rồi lập tức đổi hướng xông thẳng vào đàn cừu gần nhất. Trần Trận không ngờ con sói tính nước lợi dụng đàn cừu hỗn loạn làm chậm chân ngựa, mã quan vướng cừu không tung được thòng, để một lần nữa thoát hiểm.
              Nhưng đúng lúc con sói do dự, Đanchi không bỏ lỡ thời cơ thúc ngựa vọt lên tiếp cận nó. Tang Kiệt cũng nhanh nhẹn chặn đường con sói chạy về phía đàn cừu. Con sói lần nữa định đổi hướng, chỉ thấy Đanchi vươn người ra phía trước giơ cao cây sào dài thượt, đồng thời ném thòng trúng cổ con sói. Không cho nó rụt cổ để gỡ thòng, Đanchi run nhẹ cho thòng lọng xiết chặt cổ chỗ yết hầu và lập tức quay ngựa kéo lê con sói phía sau.
              Con sói đã mất khả năng chống cự. Thân hình nặng nề của nó càng làm cho thòng xiết chặt đến thè lưỡi, há miệng thở dốc cùng với bọt máu. Đanchi cho ngựa chạy lên dốc để sức kéo lớn hơn. Trần Trận chạy theo sau thấy con sói  co giật toàn thân bắt đầu giãy chết. Trần Trận thở ra nhẹ nhõm, vậy là sự cố để sói ăn mất cừu đã được hoá giải. Nhưng cậu không sao vui lên được khi thấy con sói lớn đầy sức sống mà chỉ trong vài phút đã chểt ngoẻo. Thảo nguyên tàn khốc vô cùng. Thảo nguyên yêu cầu nghiêm khắc đối với các loài động vật về khả năng sinh tồn. Chỉ cần lóng ngóng vụng về một chút là bị đào thải. Trần Trận tiếc ngẩn ngơ. Cậu thấy con sói rất thông minh, mạnh mẽ: Nếu có những con người như thế, liệu có bị đào thải không?
              Khi ngựa chạy đến nửa dốc, con sói đã không cựa quậy nữa, nhưng vẫn còn thở ra bọt máu. Đanchi xuống ngựa, vừa xiết vừa rút ngắn dây thòng, cầm lấy cây gậy vẫn lồng ở cổ tay vụt liền mấy gậy rồi rút dao Mông  Cổ đâm một nhát giữa ngực con sói. Lúc Trần Trận xuống ngựa, con sói đã tắt thở. Đanchi đá con sói hai cái thấy không có phản ứng, liền lau mồ hôi trên mặt, ngồi xuống cỏ lấy thuốc ra hút.
              Tang Kiệt ngó con sói khen Đanchi mấy câu. Rồi giúp Đanchi dồn cừu về. Trần Trận chạy đến đàn cừu của mình, định hướng về nhà cho chúng, rồi quay lại xem Đanchi lột da sói. Mùa hè nóng bức sợ da bị thối nên không lộn trái mà mổ phanh như lột da cừu, tấm da có thể trải phẳng. Lúc Trần Trận quay lại, Đanchi đã phơi tấm da sói trên cỏ.
              Trần Trận nói: Đây là lần đầu tiên em trông thấy giết sói bằng thòng lọng, sao anh giỏi thế? Đanchi cười hề hề: Mình nhận ran gay con này hơi vụng về. Nếu nó nhanh nhẹn một chút thì khi cái thòng rơi trúng cổ, nó rụt đầu mà lắc cho bật ra. Trần Trận nói: Mắt anh tinh thật, phục anh đấy. Em có tập dăm ba năm cũng không được như anh. Con ngựa của em cũng không ổn. Sang năm em phải luyện vài con, trên thảo nguyên mà không có ngựa tốt không xong. Đanchi nói: Cậu bảo Batu chọn cho một con. Batu như anh trai cậu, chắc chắn sẽ chọn cho cậu một con ngựa tốt.
              Trần Trận chợt nhớ đến con sói của Đanchi, hỏi: Lâu nay bận quá không đến được, con sói của anh thế nào rồi? Có ai nói gì không? Đanchi lắc đầu nói: Đừng nhắc đến nó nữa, hôm kia mình đập chết nó rồi. Trần Trận bị hẫng, vội hỏi: Đập chết rồi à? Sao thế? Xảy ra chuyện gì với nó?
              Đanchi thở dài, nói: Giá như mình xích nó lại như cậu đã làm thì hay. Con sói của mình nhỏ hơn con của cậu, sói tính cũng không rõ lắm, nên mình vẫn cho sống chung với lũ chó con, sau một tháng chúng đã quan nhau, kể cả với chó cái, không ai biết nó là sói. Sau đó nó lớn nhanh hơn chó, như một con bécgiê, cả nhà ai cũng thích. Con sói rất thích chơi với thằng con mình. Thằng nhỏ lên bốn, cũng rất thích con sói. Chẳng ngờ hôm kia đang chơi với nhau, con sói cắn thằng nhỏ một miếng vào bụng chảy máu, dứt đứt một mẩu da. Thằng nhỏ đau quá, khóc. Răng sói rất độc, độc hơn răng chó, mình sợ quá vác gậy vụt chết luôn rồi bế thằng nhỏ đến chỗ cô Bành tiêm hai mũi mới không sinh chuyện. Giờ bụng thằng nhỏ vẫn còn sưng.
              Trần Trận có vẻ hoang mang, vội nhắc: Phải rất cẩn thận, vẫn phải tiêm tiếp. Bệnh dại có thể tiêm phòng, không sợ.
              Đanchi nói: Chuyện này mục dân đều biết, bị chó cắn là phải tiêm phòng ngay, bị sói cắn lại càng phải tiêm. Sói và chó khác nhau hoàn toàn. Dân ở đây nói không thể nuôi sói, xem ra đúng thế thật, sói không đổi tính, sớm muộn sẽ sinh chuyện. Mình khuyên cậu đừng nuôi nữa, con của cậu to lớn, sói tính càng lớn, nọc độc ở răng càng lớn, bị nó cắn một miếng là mất mạng. Xích cũng không an toàn.
              Trần Trận cũng hơi sợ, nghĩ một lúc, cậu nói: Em sẽ cẩn thận hơn, nuôi được nó lớn đâu có dễ! Em không nỡ. Ghét nó như Cao Kiện Trung mà bây giờ suốt ngày chơi với nó.
              Các dương quan đã về hết. Đanchi cuộn tấm da lại buộc bên yên rồi lên ngựa về trại.
              Trần Trận nhớ con sói. Cậu đến bên con cừu bị sói ăn thịt, dùng dao lưỡi gập của thợ điện, cắt bỏ những chỗ sói ăn dở, bỏ ruột, để lại tim gan, rồi cột đầu cừu vào cọc yên,chuẩn bị đem về cho đàn chó và sói con ở nhà. Cậu lên ngựa cho đi từng bước một, lòng nặng trĩu.
              Hôm sau, chuyện Đanchi  đổi cừu lấy sói lan khắp đại đội. Bao Thuận Quý được biếu tấm da, tán dương Đanchi hết lời, lại còn thưỏng cho anh 30 viên đạn. Sau đó mấy hôm, một dương quan trẻ tổ 3 cũng dùng cừu dụ sói, kết quả mắc mưu một con sói thành tinh. Nó chỉ ăn một đùi rưỡi con cừu, không nhiều hơn, nghĩa là ăn đủ chứ không ăn no, không hề ảnh hưởng đến tốc độ chạy, trái lại càng khoẻ, loáng cái đã mất dạng. Cậu dương quan bị ông Pilich phê bình một trận trước đại đội, phạt cả nhà cậu một tháng không ăn thịt cừu.


________Hết chương 21________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:14:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 22

Tộc Mãn và Thần Sói Đen được một số saman Đacachi, Ơlônxun, Ngạc Ông Khắc sùng bái. Thần Sói Đen dũng cảm vô địch, coi cái ác như kẻ thù, là hộ thần và trợ thủ của saman trong trừ hung diệt bạo. Hễ những ai gặp ma quái hung tợn, gian giảo, đêm đêm làm điều ác, đều nhờ Thần Sói Đen dùng mưu nuốt chửng trong bóng tối. Thần Sói Đen là sói điên, nhưng cũng là sát thủ cũng những ác ma.
                                                                                                                                 Phúc Dục Quang “Saman luận”

           Lại đến phiên Trần Trận gác đêm. Có Nhị Lang canh giữ đàn cừu, Trần Trận có thể vừa gác vừa đọc sách hoặc ghi nhật ký trong lều. Để khỏi ảnh hưởng đến giấc ngủ của hai bạn, cậu kê bàn bên cạnh cửa lều, lại còn che hai bên hai quyển sách dày chắn ánh đèn. Bãi chăn im ắng, không nghe tiếng sói tru, ba con chó suốt đêm không sủa nhưng lúc nào cũng dỏng tai cảnh giác. Cậu ra bên ngoài có một lần, cầm đèn pin đi một vòng quanh đàn cừu. Con Nhị Lang luôn nằm canh góc tây bắc khiến  Trần Trận yên tâm. Cậu xoa đầu con Nhị Lang tỏ ý cảm ơn. Trở lại lều, cậu cũng không dám ngủ ngay mà còn xem sách đến quá nửa đêm. Sáng hôm sau thức dậy, công việc đầu tiên của cậu là cho sói con ăn.
           Từ khi đẽn bãi chăn mới, trời rạng sang là sói con như nằm rình mồi, mắt nhìn không chớp cánh cửa gỗ của căn lều Mông Cổ, nơi để chậu thức ăn. Trong con mắt sói con, cái chậu là con mồi di động. Nó biết chờ đợi thời cơ như sói mẹ, đợi “con mồi” đến gần mới tập kích. Do vậy thức ăn đưa đến miệng, nó coi là săn được chứ không phải người ta đem đến cho.Sói con vẫn giữ tính độc lập của loài sói. Trần Trận cũng cố ý ra vẻ sợ hãi lùi lại mấy bước, nhưng thường thì vui vẻ kêu lên.
           Trên thảo nguyên Mông Cổ trước khi mùa mưa bắt đầu, thường có những ngày oi bức, thời tiết năm nay nóng hơn năm ngoái. Trần Trận cảm thấy mặt trời trên thảo nguyên Mông Cổ không những mọc sớm hơn, mà hình như thấp hơn dưới xuôi. Mới mười giờ sang mà đã nóng như giữa trưa hè. Ánh nắng gay gắt đốt cháy cỏ xung quanh lều, thân cỏ rỗng giữa như kim tiêm. Muỗi chưa ra, nhưng nhặng xanh bay vù vù như ong, tấn công toàn diện người và gia súc. Nhặng xanh chuyên tấn công vào đầu, mắt, mũi, khoé miệng và vết thương trên người và gia súc, hoặc bám trên những súc thịt cừu còn máu. Con Vàng thường đớp rất nhanh một con nhặng, cắn chết rồi phun ra. Lát sau, xung quanh con Vàng đã có rất nhiều xác nhặng to như hạt dưa hấu.
           Nắng ngày càng gắt, mặt đất bốc hơi, toàn bộ bãi chân như một cái chảo sao chè khổng lồ, nóng hầm hập, cỏ non đã biến thành những tôm chè đen kịt. Lũ chó nằm tập trung dưới mái lều phía bắc hình cánh cung chật hẹp, miệng há hốc, lưỡi thè dài, bụng phập phồng gấp gáp. Trần Trận không thấy con Nhị Lang trong bóng râm, gọi hai ba tiếng cũng không thấy chạy ra. Chắc nó chuồn đi chơi, có lẽ ra song hóng mát. Nhị Lang làm tròn trách nhiệm khi trực đêm, không ai trong đội còn gọi nó là chó hoang, nhưng hễ trời sang, đêm trực kết thúc, nó thích đi đâu là nó đi, không như con Vàng và con Ilưa ban ngày vẫn trông nhà.
           Lúc này tình hình sói con hơi gày. Dưới nắng gắt, sợi xích nóng bỏng, nó phơi mình dưới nắng, không có gì che chắn. Cỏ trong phạm vi chuồng bị giẫm nát, chết khô, cái chuồng đã biến thành miếng đất hình tròn toàn cát, y như một cái chảo đáy bằng đặt trên lò, bên trong là cát bỏng. Còn sói con thì như một hạt giẻ bị rang khô cháy sắp nứt vỏ. Tội nghiệp sói con, nó không những bị tù, mà còn bị tra tấn bằng lửa như một trọng phạm.
           Thấy cửa mở, sói con vụt đứng dậy bằng hai chân sau, xích sắt thít chặt lè lưỡi, hai chân trước như đánh trống trong không khí. Lúc này cái nó cần không phải là bóng râm, cũng không phải là nước uống, mà là cái ăn. Sói con ăn bằng trời. Mấy ngày nay Trần Trận thấy sói con không hề bị cái nóng mà bỏ cơm, trái lại càng nóng nó càng ăn khoẻ. Sói con ra sức vẫy, ra hiệu cho Trần Trận bê chậu thức ăn vào chuồng, nó “cướp” lấy “con mồi”, rồi đuổi Trần Trận đi.
           Trần Trận lo quá. Thảo nguyên vào hè, theo tập quán, mục dân ăn sữa là chính, thịt giảm nhiều. Hàng ngày một bữa trà một bữa cơm, thịt vụn không thấy nữa. Món chính biến thành những món có bột: Bánh mỳ, kê, gạo rang và các phế phẩm từ sữa; sữa đậu, sữa chua, bơ, phù chúc… Mục dân mùa hè thích sữa tươi, nhưng đám thanh niên trí thức chưa học đựơc cách làm món ăn từ sữa, một phần là vì không quen ăn sữa hay thịt; quan trọng hơn là thanh niên trí thức không chịu nổi vất vả của chế biến sữa. Không ai thích ba giờ sang đã dậy vắt sữa trong bốn năm tiếng đồng hồ, rồi luôn tay khuấy sữa chua trong thùng bằng chiếc đũa cả, càng không thích buổi chiều năm giờ khi bò về chuồng, vắt bốn năm tiếng đồng hồ sữa bò. Và hôm sau thì hàng loạt công việc lao động chân tay: đun sôi, ép, cắt, phơi. Thanh niên trí thức vui lòng gặm bánh mỳ, bánh chay, cũng không thích chế biến sản phẩm từ sữa. Mùa hè mục dân chế biến sữa, thanh niên trí thức đi hái rau dại: hành, tỏi dại, mã lien phỉ, rau cúc, rau khúc, bồ công anh… Còn có một loại rau mà hộ ngụ cư gọi là “halacai”, lá to, cay như ớt. Mùa hè ngừng ăn thịt, mục dân và đám thanh niên trí thức có dịp thay đổi khẩu vị, chỉ Trần Trận và sói con là khổ.
           Mùa hè dân tộc thảo nguyên rất ít khi thịt cừu. Một là khi thịt một con cừu, phần lớn không có cách bảo quản, trời nóng, ruồi nhặng nhiều, chỉ hai hôm là thối, có giòi. Cách làm của mục dân là cắt thịt thành thẻo to bằng ngón tay, lăn bột mỳ để chống nhặng đẻ trứng, sau đó đem hong ở một chỗ thoáng mát trong lều cho đến khô. Hàng ngày thái một hai thẻo cho vào bát mỳ, gọi là có vị thịt. Nếu gặp những ngày ẩm ướt lien tục, thịt sẽ thối, sinh giòi. Hai là, mùa hè cừu tích nước mỡ để sang thu tạo mỡ. Khi chưa béo, con cừu chỉ là cái khung, thịt mỏng, mỡ ít, vị kém , mục dân không thích ăn. Hơn nữa mùa hè cừu vừa cắt lông, da cừu bán không được tiền, phải sang thu lông dày mới lấy được nhiều len. Ông Pilich nói: Giết cừu vào mùa hạ thì chẳng khác nông dân nhổ lúa vào mùa xuân để ăn đỡ đói.
           Ơlôn tuy dân số ít, đàn gia súc khổng lồ, nhưng chính sách vẫn không cho ăn nhiều thịt. Vào cái thời dầu mỡ thiếu thốn, thịt cung cấp theo định lượng nhỏ giọt, mỗi con cừu đều là động vật quý hiếm.
           Đám thanh niên trí thức ăn no thịt liên tục ba mùa thu đông xuân, nay thiếu thịt thì không chịu nổi, bèn xin tổ phá lệ, nhưng không được chấp thuận. Caxưmai thấy Trần Trận bước vào cửa là vừa cười vừa bê ra cho cậu ăn váng sữa, phù chúc trộn đường kính, lại còn chuẩn bị cho cậu rất nhiều sản phẩm từ sữa tươi, khiến cậu không dám mở miệng xin giết cừu. Thảng hoặc thanh niên trí thức ở tổ nào đấy được giết mổ một con, lập tức đem đi nửa số thịt chia cho các bạn học ở tổ khác, để mọi người cứ ít hôm lại được ăn một chút thịt tươi, nhưng như vậy, thịt hong khói của các nhà ngày càng ít.
           Người thì tạm được, nhưng sói con thì sao?
           Hôm ấy Trần Trần trước tiên bỏ vào chậu một thẻo thịt hong cho sói con ăn. Sau đó cậu vội cầm chậu trở về lều nghĩ cách. Cậu ngồi xuống ăn sáng, nhìn thấy miếng thịt cừu khô bé tí trong nồi, chần chừ một lát rồi nhặt ra bỏ vào chậu của con sói. Khác vói chó, sói không ăn cháo kê hoặc cơm kê không có mùi thịt. Không có thịt hoặc xương, sói con đứng ngồi không yên, nổi cáu cắn dây xích.
           Trần Trận ăn hai bát mì thịt khô với dưa muối, chỗ còn lại trong nồi, cậu trút hết vào chậu rồi dùng que củi khuấy cho mấy miếng thịt khô lộn lên trên cho con sói trông thấy. Cậu bê chậu lên ngửi, thấy mùi thịt cừu còn nhạt, nên định bụng lấy thêm ít mỡ cừu để thắp đèn cho vào chậu. Trời nóng, mỡ cừu đựng trong lon bắt đầu mềm ra, may mà sói thích thịt động vật ôi, mỡ cừu vẫn là món ngon của sói. Trong lều còn hai lọ mỡ cừu từ mùa thu còn lại dung để đọc sách, đủ đến sang thu hay không cũng khó nói. Nhưng giờ đang là thời kỳ quan trọng, sói con phát triển xương, cậu đành bấm bụng chịu đau, cắt bỏ một số thời gian đọc sách. Có điều, cậu vẫn không bỏ được thói quan, ngày nào cũng đọc, xem ra lần này đành muối mặt đến xin Caxưmai vậy. Ông Pilich và Caxưmai khi biết các cậu thiếu mỡ thắp đèn, nhất định sẽ cấp đủ cho cậu. Mùa hè quá bận quá mệt, cậu kể chuyện lịch sử cho ông già nghe và nghe ông kể chuyện ngày càng ít.
           Trần Trận múc một thìa mỡ cừu trong lọ trộn vào cháo nóng, mỡ nổi váng trên mặt chậu. Cậu đưa lên mũi ngửi, toàn mùi mỡ cừu, coi như con sói có một bữa ngon. Cậu lại trút nửa nồi cháo kê vào chậu nhưng lại tiếc chưa muốn cho mỡ cừu vào. Mùa hè thịt ít, hàng năm chó thảo nguyên có một số ngày nửa đói nửa no.
           Mở cửa ra,lũ chó đã vây kín bên ngoài. Trần Trận cho chó ăn trước. Đợi chó ăn xong liếm sách chậu, lui ra chỗ bong râm của căn lều, Trần Trận mới bê chậu thức ăn ra chỗ sói con, vừa đi vừa gọi như mọi ngày: Sói con… sói con… ăn cơm! Con sói mong đã đỏ mắt, giằng xích gần như nghẹt thở.Trần Trận đẩy cái chậu đến trước mặt con sói rồi  lùi lại hai bước, đứng nhìn sói ăn như ăn cướp, hình như nó rất bằng lòng về bữa ăn này.
           Ngày nào cho sói ăn cũng phải gọi, bữa nào cũng phải nói câu trên, Trần Trận rất mong sói con sẽ nhớ ơn cậu, coi cậu là người bạn khác loài. Cậu thường nghĩ, rồi có ngày cậu lấy vợ sinh con, chưa chắc cậu đã có tình cảm như thế đối với con trai. Cậu tin rằng loài sói có ma lực, trong rừng sâu của thảo nguyên đói khát, sói mẹ nuôi đứa trẻ bị bỏ rơi bằng sữa của nó. Đàn sói chăm nom bảo vệ thằng bé (con bé) và nuôi thằng bé (con bé) thành sói. Nếu không có tình cảm siêu nhân loại siêu sói thì không thể ra đời loại “thần thoại” đó. Từ khi nuôi con sói, Trần Trận luôn bị những giấc mơ như trong thần thoại và ảo tưởng quấy rầy. Khi học tiểu học, cậu từng đọc một truyện của Liên Xô, kể rằng một người thợ săn cứu một con sói, sau khi chữa lành vết thương cho nó, ông thả nó về rừng. Về sau, một buổi sáng mở cửa đã thấy trên tuyết có bảy con thỏ lớn và hai hang dấu chân sói… Đây là lần đầu tiên Trần Trận được đọc một truyện kể về tình hữu nghị giữa sói và người, khác hẳn với sách và phim ảnh đương thời nói về quan hệ giữa sói và người, kể toàn những chuyện bà ngoại sói, sói ăn thịt cừu, sói moi tim gan trẻ em… thậm chí con sói dưới ngòi bút Lỗ Tấn cũng tàn bạo có truyền thống. Vì vậy cậu rất mê cuốn tiểu thuyết của Liên Xô, nhiều năm vẫn không quên. Cậu thường mơ thấy mình là người thợ săn lội tuyết vào rừng chơi với các bạn sói, vật nhau với sói trên tuyết, cưỡi sói phi trên thảo nguyên.
           Vậy mà giờ đây cậu có một con sói bằng xương bằng thịt, có thể sở mó được. Chỉ cần cho nó ăn no là cậu có thể vật nhau với nó. Cậu đã từng vật nhau với nó mấy bận rồi. Giấc mơ của cậu đã thực hiện được một nửa, còn nửa sau… cậu không dám nghĩ tiếp- Con sói lớn lên cho cậu một lũ bécgiê, rồi trở về với đàn sói. Trần Trận thường mơ thấy mình cưỡi ngựa bạch dẫn đàn bécgiê vào rừng sâu, gọi vào trong núi: Sói con… sói con… ăn cơm! Tôi đến đây, tôi đến rồi đây! Thế là trong ánh hoàng hôn mênh mang, một sói chúa xanh biếc màu thép, mạnh mẽ như hổ lang, dẫn một đàn sói vừa tru vừa sủa chạy ra đón… Tiếc rằng đây là khu du mục thảo nguyên, không phải rừng sâu, lều trại có thợ săn, chó săn, súng trường và thòng lọng. Mà dù sói con lớn lên trở về với thiên nhiên, cũng khó có thể tha bảy con thỏ lớn đến trước cửa lều làm quà tặng cậu.
           Trần Trận thấy trong huyết quản hình như đang sục sôi dòng máu dân tộc du mục. Tuy tổ tiên cậu là nông dân chính hiệu, nhưng cậu vẫn cảm thấy hình như cậu không phải là hậu duệ của dân tộc nông canh, không thực tế, thực sự, thực dụng, thực lợi như nho sĩ Hoa Hạ coi mộng mơ ảo tưởng như kẻ thù. Trần Trận đã thực hiện được một nửa giấc mơ, còn một nửa rất khó khăn nữa cậu phải dũng cảm thực hiện nốt. Cậu hi vọng thảo nguyên sẽ khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần mạo hiểm và những giấc mơ cậu ấp ủ từ lâu.
           Sói con liếm sạch chậu thức ăn. Nó đã dài hơn nửa mét, sau khi đã ăn no, nó có vẻ lớn hơn, oai vệ hơn. Trần Trận đem cái chậu về chỗ cửa lều, chuồng của sói con. Giờ thì cậu đã có thể chơi đùa với nó. Cậu bế nó môt lúc rồi lật ngửa nó đặt trên hai chân cậu duỗi thẳng, xoa bóp nhẹ vùng bụng cho nó. Trên thảo nguyên, khi chó và sói cắn xé nhau, bụng là nơi quan trọng nhất để công kích, bụng bị xé rách thì chết là cái chắc. Do vậy, chó và sói không khi nào giơ bụng ra trước mặt kẻ đồng loại hoặc khác loại không đáng tin. Tuy con sói của Đanchi vì cắn con trai anh ta mà bị đập chết, nhưng Trần Trận vẫn giơ ngón tay cho sói con ôm lấy mà liếm, mà cắn nhẹ. Cậu tin cón sói không cắn thật, nó gặm ngón tay cậu cũng going như nó cắn anh chị em nhà nó, không rách da chảy máu. Con sói đã dám phơi bụng ra với cậu, sao cậu không dám giơ tay cho nó cắn? Cậu nhìn thấy tình bạn và lòng tin trong đôi mắt nó.
Gần trưa, cái nắng dữ dội trên cao nguyên đốt cháy ngọn cỏ rỗng thân, phần lớn cỏ trên đồng héo rũ, sói con lại bắt đầu chịu cực hình. Nó há miệng mà thở, đầu lưỡi nước nhỏ giọt. Trần Trận lật tất cả thảm tường lên nóc, căn lều tám phía thông gió, trông giống cái đình hóng mát hoặc như một lồng chim khổng lồ. Trong lều, cậu có thể vừa đọc sách vừa để ý con sói, cân nhắc xem có nên giúp nó không? Xưa nay sói thảo nguyên không hề sợ khí hậu khắc nghiệt, con nào sợ liền bị thảo nguyên loại bỏ không thương tiếc, tồn tại được đều là loại sừng sỏ mình đồng da sắt. Nhưng nếu quá nóng, sói thảo nguyên thường ẩn dưới ghềnh đá. Trần Trận nghe ông già Pilich nói, mùa hè gặp chỗ râm mát thì đừng vội cho cừu dừng lại, mà phải tiến lên thăm thú trước, xem có sói “phục kích” không?
           Trần Trận chưa tìm ra cách giúp con sói chống nóng. Trước tiên cậu muốn biết khả năng chịu đựng của nó. Gió thổi vào lều cũng bắt đầu nóng lên. Đàn bò đã ngừng ăn, tất cả nằm xuống bãi lầy bên sông. Đàn cừu phía xa phần lớn nằm ngủ nơi đầu gió. Trên đỉnh núi xuất hiện những lều vải trắng hình tam giác. Các dương quan chịu không nổi, liền cắm nghiêng cây sào thòng lọng vào hang rái cá, cới áo ngoài vắt lên, vậy là đã có một cái lều che nắng hình tam giác, rất được việc. Trong lều thường có hai người, một người ngủ, một người trông hai đàn cừu. Lều tam giác chỉ xuất hiện khi thảo nguyên rất nóng. Trần Trận bắt đầu ngồi không yên.
           Sói con đã khốn khổ vì nắng nóng, nó đứng ngồi không yên, mặt đất bốc hơi, con sói bốn chân luân phiên đổi chỗ, nó ngó quanh tìm lũ chó cún, khi thấy chúng nằm dưới bóng râm của cỗ xe bò, nó tức điên giằng xích loảng xoảng. Trần Trần chạy ra. Cậu lo con sói sẽ bị say nắng và chắc chắn ông thú y không chữa cho nó. Làm sao bây giờ? Thảo nguyên gió to, chỉ có áo mưa, không có ô, và cũng không thể kiếm cho nó một cái dù che nắng. Vậy thì đẩy cỗ xe bò đến cho nó nằm dưới. Nhưng cỗ xe kết cấu quá phức tạp, không khéo xích cuốn vào trục, con sói sẽ chết vì ngạt thở. Tốt nhất là dựng cho nó một cái lều ba góc như của dương quan nhưng cậu không dám. Người và gia súc đều phơi nắng ngoài trời, giờ lại có người làm lều tránh nắng cho sói, đó là “tình cảm giai cấp” gì? Riêng chuyện này cũng đủ để những người phản đối đàm tiếu. Dạo này mọi người đều bận, gần như quên hẳn con sói. Đã nuôi trộm lại còn rêu rao! Trần Trận không dám làm điều gì khiến người ta nhắc đến con sói.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:15:22 | Chỉ xem của tác giả
Chương 22 (tiếp)

Trần Trận múc nửa chậu nước từ xe chở nước đem đến cho con sói. Nó vục đầu đánh lưỡi uống sạch rồi nhanh nhẹn đến trú dưới cái bóng của Trần Trận để tránh nóng. Trần Trận đứng một lúc thấy sau gáy nóng ran. Sợ bị cảm, cậu ra chỗ xe nước múc nửa thùng đổ vào chuồng, mặt đất lập tức bốc hơi, con sói vội nằm xuống vì nó đã đứng liền mấy tiếng đồng hồ. Nhưng chỉ lát sau mặt đất đã lại khô, con sói lại chạy quanh. Trần Trận không còn cách nào khác, cậu không thể lúc lúc lại đổ, mà dù có như thế thì lúc cho đàn cừu đi xa, cậu làm thế nào?
           Trần Trận vào trong lều. Cậu không thể tiếp tục đọc sách. Cậu bắt đầu lo cho con sói, sợ nó say nắng gầy đi, thậm chí say nắng mà chết. Cậu không ngờ bảo đảm an toàn cho người và gia súc, lại không an toàn cho con sói. Nếu như định cư ở một chỗ, chí ít con sói có bóng râm của bức tường. Chẳng lẽ trong điều kiện du mục nguyên thuỷ không nuôi được sói? Ông già Pilich cũng không biết nuôi sói phải làm những gì, cậu không có ai để học hỏi kinh nghiệm.
           Trần Trận cứ nhìn con sói mà nghĩ tới nghĩ lui. Vẫn không có lối thoát.
           Con sói vẫn loanh quanh trong cái chuồng, loay hoay một lúc, nó chợt phát hiện hình như đám cỏ xanh bên ngoài chuồng mát hơn, thò hai chân sau giẫm thử thấy không nóng lắm, liền nằm bẹp xuống đám cỏ bên ngoài, chỉ còn đầu và cổ ở lại bên trong chuồng. Chiếc xích kéo căng như sợi chỉ, con sói đã có thể nằm nghỉ thoải mái tuy vẫn phơi nắng, nhưng cái nóng dưới thân giảm đi nhiều. Trần Trận vui quá suýt hôn con sói một cái, sự thông minh của con sói khiến cậu còn chút hi vọng. Cậu cũng đã nghĩ ra một cách: Cứ vài hôm cậu lại chuyển con sói sang một cái chuồng có cỏ non. Trần Trận thán phục khả năng sinh tồn của sói hơn hẳn con người, dù không còn mẹ dìu dắt, sói con vẫn tự giải quyết khó khăn, nói gì đến hành động tập thể của đàn sói.
                                                                                      *           *           *
           Cậu tựa lưng vào đống chăn, bắt đầu đọc sách.
           Bên ngoài có tiếng vó ngựa chạy gấp. Hai con ngựa phóng nhanh trên con đường của xe bò chếch cửa 20mét. Cho rằng đó là những mã quan qua đường, Trần Trận không để ý xem ai. Không ngờ khi đến ngang tầm căn lều, hai con ngựa đột nhiên quay ngoắt lại nhắm con sói chạy tới. Sói con hốt hoảng đứng bật dậy trên hai chân sau, sợi xích căng như dây đàn. Người chạy trước tung thòng lọng trúng ngay cổ con sói và hung hãn giật mạnh khiến con sói như bay lên. Cái kiếu xuống tay tàn nhẫn đó chỉ có định giết chết con sói mới lợi dụng cái xích xiết đứt cổ nó. Sói con vừa ngã xuống đất, người thứ hai đã xông lên dung dây thòng làm roi vụt cho nó lăn lộn trên đất. Hai người gò cương đổi tay cầm gậy, chuẩn bị xuống ngựa đánh tiếp. Trần Trận hét to, cầm chày cán bột chạy ra, điên cuồng lao vào hai người. Thấy Trần Trận liều mạng, hai người vội vã lên ngựa, chửi đổng: Sói ăn thịt ngựa con mà hắn còn nuôi sói con, sớm muộn tôi sẽ giết con sói đó.
           Con Vàng và con Ilưa vừa sủa vừa xông ra liền bị một roi. Hai con ngựa nhằm phía đàn cừu chạy đi.
           Trần Trận không nhận ra hai người là ai. Cậu đoán một người là dương quan bị ông Pilich mắng, còn người kia là mã quan tổ Bốn. Hai người làm dữ, quyết giết chết con sói. Trần Trận nếm mùi thế nào là tập kích của kỵ binh Mông Cổ.
           Trần Trận đến bên con sói. Nó sợ muốn chết, đuôi quặp, bốn chân run bần bật. trông thấy Trần Trận, nó lảo đảo chạy tới nhào vào lòng cậu như gà con nhào vào lòng gà mẹ khi vừa thoát khỏi vuốt mèo. Người và sói cùng run lẩy bẩy. Cậu hốt hoảng sờ cổ con sói. Cổ sói chưa bị đứt nhưng có một mảng lông đã bị dây thòng lọng cứa đứt, dưới da có một vết bầm tím. Tim con sói đập loạn xạ. Trần Trận vừa nựng vừa vỗ về con sói, khó khăn lắm nó và cậu mới hết run. Cậu vào trong lều, lấy ra một thẻo thịt kho an ủi con sói. Đợi nó ăn xong, cậu lại bế nó lên trước ngực, mặt nó áp mặt cậu. Cậu sờ ngực con sói, tim nó đã trở lại bình thường, tuy nhiên nó vẫn còn sợ, nó nhìn Trần Trận, nhìn mãi rồi bất chợt nó thè lưỡi liếm Trần Trận một cái vào má. Trần Trần sững sờ, đây là lần thứ hai cậu được sói hôn, và là lần đầu tiên được sói cảm ơn. Xem ra chuyện sói trả ơn bằng cách tha đến trước cửa bảy con thỏ rừng không phải chuyện bịa.
           Nhưng Trần Trận thấy tim nặng trĩu, điều mà cậu lo cuối cùng cũng đã xảy ra. Chuyện nuôi sói đã làm mếch long số đông mục dân, cậu cảm thấy họ lạnh nhạt và xa lánh cậu, ngay ông Pilich cũng đã ít đến căn lều của cậu. Hình như cậu bị mục dân coi như Bao Thuận Quý và đám dân công, những kẻ ngụ cư phá hoại quy củ trên thảo nguyên. Sói là linh vật về tinh thần hay xác thịt, dân thảo nguyên đề không cho phép nuôi sói. Cậu nuôi sói, về tinh thần là một sự khinh mạn, về xác thịt là liên kết với kẻ thù. Cậu quả thật đã xúc phạm giới luật của trời về thảo nguyên, đụng vào những cấm kỵ của dân tộc và văn hoá thảo nguyên. Cậu không biết có thể bảo vệ và nuôi được con sói? Nhưng quả thực cậu rất muốn ghi chép và nghiên cứu sâu về bí mật và giá trị “linh vật sói- hồn thảo nguyên”, không thể giương mắt nhìn linh vật sói từng ảnh hưởng to lớn đến lịch sử thể giới và Trung Quốc, tiêu vong cùng với sự tiêu vong của cuộc sống du mục trên thảo nguyên. Cũng như thể xác người thảo nguyên, qua sói thành tro bụi, biến mất không để lại dấu vết. Có thể đây là cơ hội cuối cùng, Trần Trận bảo vệ đến cùng ý kiến của mình, cắn răng nuôi tiếp. Cậu tìm Nhị Lang khắp nơi mà vẫn không thấy. Nếu có Nhị Lang trông nhà, ngoài mục dân trong tổ, người tổ khác không dám vào nhà. Nhị Lang sẽ cắn xé ngựa của người lạ khiến ngựa bỏ chạy.  Trần  Trận cảm thấy hai người cưỡi ngựa hồi nãy ánh mắt sắc sảo, chắc chắn họ thấy con Nhị Lang không ở nhà mới đánh lén.
           Mặt trời chưa phải lúc nóng nhất, vậy mà bồn địa thảo nguyên đã tập trung nhiệt lượng vào chuồng sói con. Sói con tuy dưới bụng đã mát đôi chút, nhưng đầu và cổ vẫn trên đất bỏng, lại thêm cổ bị thương, không nằm được nữa, nó đứng dậy đi vòng quanh rồi lại nằm xuống cỏ.
           Không thể xem sách, Trần Trận bắt đầu làm việc vặt. Cậu nhặt rau, đánh trứng, nhào bột, nướng bánh, cặm cụi hơn nửa tiếng. Khi ngửng lên nhìn con soi, cậu ngẩn người. Nó đang chổng mông đào hang, ngay trong chuồng, cát bụi bắn tung như pháo hoa. Trần Trận vội lau tay chạy ra, ngồi xổm nhìn con sói bằng ánh mắt hiếu kỳ.
           Con sói đào hang ở phần đất phía nam của cái chuồng, nửa thân đã lọt xuống dưới, đuôi vẫy loạn xạ, đất cát từ dưới bụng phụt lên. Lát sau, con sói lên miệng hang, dùng hai chân trước ôm đống đất đá kéo về phía sau. Mình mẩy đầy đất, nó nhìn Trần Trận một thoáng, ánh mắt hoang dã và nôn nóng như bọn đào vàng.
           Con sói định làm gì? Chẳng lẽ nó định đào đổ cọ để chạy vào chỗ râm mát? Không phải, vị trí không phải như thế. Con sói không nhằm cái cọc, hơn nữa cái cọc chôn rất sâu, nó phải đào cái hố bao lớn? Con sói ở phần đất phía nam chuồng, lưng quay về phía cọc, hướng nam, ngoảnh mặt về phía mặt trời mà đào. Trần Trận mừng rỡ, cậu hiểu ngay ý đồ con sói.
           Sói con lại bới rất nhiều đất vụn. Nó vừa thở, lúc bới đất lúc hất ra ngoài. Mắt sáng rực, nó không còn thì giờ hỏi han Trần Trận. Cuối cùng Trần Trận không đừng được, gọi khẽ: Sói con sói con, tà tà thôi kẻo gãy vuốt. Con sói liếc cậu một cái, cười tít mắt, rất bằng lòng về hành vi của mình.
           Đất đào lên hơi ẩm, mát hơn nhiều so với bên ngoài hố. Trần Trận vốc lên một nắm, quả thực vừa ẩm vừa mát. Cậu nghĩ, con sói quả thật thông minh. Nó đào cho nó một cái hang trú ẩn rất mát, tránh nắng, tránh người tránh nguy hiểm. Đúng là con sói nghĩ vậy, trong hang vừa lạnh vừa tối, cửa hang hướng bắc, ruột hang hướng nam, nắng không chiếu vào hang. Lúc con sói chui xuống đào, nửa người nó không bị nắng.
           Sói con đào càng sâu vào bên trong, ánh sáng càng yếu. Rõ ràng nó đang hưởng niềm vui của bóng tối, bắt đầu tiếp cận mục tiêu đã định. Bóng tối là thứ mà sói yêu thích nhất, bóng tối đồng nghĩa với mát mẻ, an toàn và hạnh phúc. Từ nay, nó sẽ không bị những bò những ngựa những người lớn đáng ghét doạ dẫm và công kích. Nó càng đào càng hăng, đúng là mừng đến nỗi không ngậm miệng lại được. Lại 20phút nữa trôi qua, mặt đất chỉ còn thấy cái đuôi ve vẩy, còn toàn thân con sói đã ở trong hang.
           Một lần nữa, Trần Trận kinh ngạc trước khả năng sinh tồn và trí thông minh của con sói. Cậu nhớ câu: “Rồng đẻ ra rồng, phượng lại sinh ra phượng, chuột sinh ra để đào hang”. Chuột biết đào hang, vậy chuột nhắt chí ít đã có lần thấy chuột mẹ đào hang. Nhưng con sói này xa mẹ từ lúc chưa mở mắt, đâu đã nhìn thấy sói mẹ đào hang. Hơn nữa, đàn chó xung quanh nó cũng không thể dạy nó đào hang. Chó là loại gia súc không biết đào hang. Vậy thì ai đã dạy cho con sói đào hang? Hơn nữa, phương và hướng rất chuẩn xác, khoảng cách cũng rất vừa. Nếu xa cái cọc quá, chiều dài của cọc và đường viền mép chuồng. Ai dạy nó đào hang ở khoảng giữa cái cọc và mép chuồng? Tài chọn đất thì ngay cả sói lớn cũng không có, vậy sói con tính toán như thế nào khi đào cái hang?
           Trần Trận sởn gai ốc, con sói chưa đầy ba tháng tuổi, trong hoàn cảnh không bố không mẹ ở bên trực tiếp chỉ bảo, mà đã tự quyết định vấn đề sốn còn của mình. Quả thật nó thông minh hơn chó, thậm chí hơn người. Di truyền bẩm sinh của con sói mạnh đến vậy sao? Trần Trận kết luận sau khi quan sát: Di truyền chỉ là cơ sở, chỉ số IQ của con sói càng lớn hơn. Một người lớn có kiến thức như cậu loay hoay cả nửa ngày mà không nghĩ ra đào cho con sói cái hang chênh chếch để chống nắng. Một trí thức hiện đại mà để cho con sói lên lớp về khả năng sinh tồn. Trần Trận nghĩ cậu không bằng con sói. Trí tuệ con sói hơn cậu gấp nhiều lần. Nên vui vẻ chấp nhận con sói cười nhạo. Thảo hèn trong khi chơi đùa, cậu mơ hồ cảm thấy nó “bình đẳng” với cậu. Lúc này, Trần Trận cảm thấy con sói không coi cậu là cái đinh. Qua ánh mắt ương ngạnh của con sói luôn có một ẩn ý khiến Trần Trận hoảng sợ: Ông đừng đắc ý vội, đợi tôi lớn lên hãy hay.  Trần Trận ngày càng không hiểu khi lớn lên con sói sẽ đối xử với cậu như thế nào.
           Nhưng trong lòng Trần Trận thì vui như tết. Cậu quỳ xuống nhìn ngắm mãi, thấy mình không phải nuôi con vật bé nhỏ, mà là một ông thầy. Cậu tin con sói sẽ dạy cậu nhiều điều: Dũng cảm, khôn ngoan, kiên cường, nhẫn nại, yêu tha thiết cuộc sống, không bao giờ tự mãn, quyết không khuất phục, hơn nữa coi  thường hoàn cảnh ác liệt, tạo dựng cái tôi mạnh mẽ.Cậu nghĩ thầm, dân tộc Hoa Hạ còn bị cái nhục nhiều lần mất nước nữa không, còn ngán ngẩm về công cuộc phục hưng vĩ đại thực hiện một Trung Hoa tự do dân chủ và giàu mạnh nữa không?
           Con sói cong đuôi hì hục đào, càng đào sâu nó càng cảm thấy khoan khoái và mãn nguyện, hình như nó ngửi thấy mùi đất trong bóng tối khi nó ra đời. Trần Trận cảm thấy con soi không chỉ đào một cái hang tránh nắng, một cái hầm trú ẩn, mà còn đào bới ký ức đẹp đẽ thuở lọt lòng, đào lên sói mẹ và các anh chị em ruột. Cậu tưởng tượng tình cảm của con sói lúc này, có lẽ rất phức tạp, phấn khởi kỳ vọng may mắn và bi ai xen lẫn.
           Trần Trận ứa nước mắt, lòng đầy mâu thuẫn. Cậu ngày càng yêu con sói, nhưng chính cậu lại là hung thủ huỷ diệt gia đình nó. Nếu không vì cậu thì ổ sói đó đã đánh nam dẹp bắc cùng sói bố sói mẹ từ lâu. Trần Trận nghĩ, con sói con ưu tú này có thể là con trai của sói chúa trên thảo nguyên Ơlôn. Nếu như được đàn sói kèm cặp, rồi đây rất có thể nó sẽ là sói chúa thế hệ mới. Tiếc rằng tiền đồ xán lạn của nó đã bị cậu chặn đứng.
           Sói con đã đào đến điểm cuối, độ dài cố định của dây xích không cho phép nó đào thêm nữa. Trần Trận cũng không định nới dài sợi xích. Nơi đây đất xốp, nóc hang đã chạm lớp rễ cỏ trên mặt đất, đào thêm nữa. Chẳng may ngựa hoặc bò giẫm lên, con sói sẽ bị chôn sống. Con sói đang hào hứng giờ bị đứt đoạn, nó nổi cáu chui ra khỏi hang, cố sức giằng cái xích, đai cổ xiết vào vết thương khiến nó há mõm vì đau. Nhưng nó vẫn không chịu cho đến khi mệt quá lăn ra nghỉ. Lát sau, nó lại ngó vào trong hang, Trần Trận chẳng biết nó còn giở trò gì nữa.
           Con sói đỡ mệt lại chui luôn vào hang, lát sau bắt đầu hất đất lên. Trần Trận tròn mắt, cúi xuống ngó tận nơi, thấy con sói đang đào rẽ sang hai bên. Nó biết không thể đào sâu hơn thì đào rộng ra. Đào không thấy mẹ và các anh chị em, con sói đành tạo cho nó một cái giường rộng, một cái ổ thoải mái. Trần  Trận ngẩn người, cậu quả thực không dám tin con sói từ khi bắt đầu chọn địa điểm, đào hang, căn cứ và vóc dáng mà sửa sang cho vừa, đều chỉ một lần là xong, không làm đi làm lại, không lãng phí. Trần Trận không hiểu tài hoa của con sói từ đâu mà có? Có lẽ do quá nhiều “không hiểu”, nên xưa nay dân tộc thảo nguyên đưa sói lên ngôi “linh vật”.
           Hang chống nóng, đồng thời là hầm trú ẩn đã đào xong, con sói nằm thư giãn trong hang, Trần Trận gọi mấy cũng không ra. Cậu ngó vào, con sói hai mắt xanh biếc, thâm trầm đáng sợ hoàn toàn giống con sói hoang. Lúc này nó đang hưởng thụ khí ẩm và mùi đất mà nó ưa thích, như được trở về nhà cũ, hang cũ trên núi, về bên sói mẹ và sói anh sói em. Lúc này nó đang thoải mái, nó đã thoát được cái cảnh người và gia súc vao vây suốt ngày trên mặt đất, nó về với thế giới loài sói. Nó có thể ngủ yên, mơ những giấc mơ đẹp. Trần Trận gạt chỗ đất con sói đào lên, san lại chuồng cho phẳng. Vậy là con sói có ngôi nhà mới an toàn, sáng kiến này khiến  Trần  Trận khôi phục lòng tin vào khả năng sống còn của nó.
           Chiều tối, Cao Kiện Trung và Dương Khắc trở về, hai người hết sức ngạc nhiên khi thấy cái hang sói cách cửa lều không xa. Dương Khắc nói: Cả ngày chăn cừu trên núi khát khô cả cổ, tưởng chết, mình sợ sói con không qua nổi mùa hè. Ai ngờ sói con giỏi quá, đúng là sói thần.
           Cao Kiện Trung nói: Từ nay phải chú ý đề phòng hơn, hang ngày phải kiểm tra xích, cọc, đai cổ, biết đâu sơ suất ở khâu nào đó, con sói chuồn mất, mục dân và đám thanh niên trí thức cười thối mũi.
           Ba người lấy ra phần trứng tráng đậm mỡ cừu của mình cho sói ăn. Dương Khắc vừa gọi: ăn nào! Sói con lập tức chui lên liền, tha luôn miếng trứng tráng vào hang. Nó đã coi đây là lãnh địa của nó, từ rày không ai được đụng đến.
           Nhị Lang lang thang cả ngày, cũng đã về. Bụng no căng, mỡ nhờn mép, không hiểu nó săn được con gì trên núi. Con Vàng, con Ilưa và ba con cún ùa tới tranh nhau liếm mỡ trên mép Nhị Lang. Đã lâu không nhìn thấy mỡ, lũ chó them phát điên.
           Sói con nghe tiếng sủa của Nhị Lang liền chui lên. Nhị Lang đến gần chuồng, sói con lại liếm mép Nhị Lang. Trông thấy cái hang, Nhị Lang tò mò đi quanh mấy vòng rồi ngồi xổm trước cửa hang cười khà, lại còn rúc cái mũi dài vào trong hang mà ngửi. Sói con trèo lên cổ lên lưng Nhị Lang mà đùa nghịch, quên cả vết đau trên cổ, tinh thần phấn chấn thổi bùng sức sống trong con thú hoang.
           Mặt trời lặn, hơi nóng tan dần, gió lạnh thổi lên. Dương Khắc lập tức mặc áo dày đi về phía đàn cừu. Trần Trận lùa cừu giúp Dương Khắc. Đàn cừu ăn no kỵ nhất dồn đuổi. Dương Khắc và Trần Trận thong thả như đi dạo, chậm rãi dồn cừu lại một cái chuồng trên không mái che, dưới không rào ngăn. Mùa hè cừu ngủ ngoài trời, chỗ đất trống sau lều. Trực đêm mùa hè là công việc gian khổ và nguy hiểm. Hai người không dám lơ là, sợ nhất là đàn sói phát hiện sói con, tìm cách trả thù.
           Một ngày của sói bắt đầu từ ban đêm. Sói con vui vẻ chạy, kéo theo sợi xích, chốc chốc lại ngó thành quả lao động của nó. Hai người ngồi bên chuồng sói im lặng ngắm con sói trong bóng tối và đôi mắt xanh như ngọc bích của nó. Hai người đều không biết đàn sói có đánh hơi thấy mùi sói con không, những con sói mẹ mất con có phải đang phục ở một khe núi gần đó không?
           Trần Trận kể chuyện xảy ra ban ngày cho Dương Khắc nghe, cậu nói: Phải tìm cách kiếm cho chúng ít thịt, nếu không sói con sẽ không khoẻ, Nhị Lang không yên tâm trông nhà, như vậy rất nguy hiểm. Dương Khắc nói: Hôm nay mình được ăn thịt rái cá nướng trên núi. Đanchi bắt bằng thòng lọng. Bắt được nhiều mình có thể xin một con đem về cho sói và chó. Nhưng nếu dương quan và đàn cừu làm rái cá sợ, không chui lên thì chịu.
           Trần Trận lòng nặng trĩu: Mình lo rất nhiều thứ. Lo nhất là ban đêm sói về bắt cừu. Tình mẫu tử của sói mẹ cực kỳ mãnh liệt, mất con, sói mẹ trả thù điên cuồng. Lỡ ra nửa đêm đàn sói kéo về tập kích chớp nhoáng đàn cừu diệt một nửa thôi, chúng mình cũng toi rồi. Dương Khắc thở dài, nói: Mục dân đều bảo sói mẹ nhất định sẽ về đây. Năm nay thảo nguyên Ơlôn bị người ta bắt mất mấy chục ổ sói con, mấy chục con sói mẹ đang tìm cách trả thù. Mục dân một mực đòi giết sói con, học sinh các tổ khác cũng phản đối nuôi sói. Hôm nay nhóm cậu Bành vì chuyện này suýt gây sự với mình. Họ bảo xảy ra chuyện gì, thanh niên trí thức trong tổ sẽ lãnh đủ. Chúng mình hiện nay đang rối như gà mắc tóc. Theo mình, kín đáo thả con sói ra là xong, nói là nó cắn đứt xích bỏ chạy. Dương Khắc bế con sói lên xoa đầu, nói: Tuy vậy, mình cũng rất tiếc, mình thân với nó hơn là em trai.
           Trần Trận đánh bài liều, nói: Người Trung Quốc lúc nào cũng sợ tới sợ lui, thực đáng thương. Chúng mình đã vào hang sói bắt sói con thì không nên bỏ cuộc, đã nuôi là nuôi đến cùng.
           Dương Khắc vội nói: Mình không sợ trách nhiệm, mình chỉ thấy con sói kéo lê cái xích như kẻ tội dồ thì thương quá. Sói là động vật ưa tự do nhất, vậy mà giờ đây suốt ngày bị xiềng xích, cậu không thấy bất nhẫn sao? Tự đáy lòng, mình sùng bái tôtem sói, mình hiểu vì sao ông Pilich phản đối cậu nuôi sói. Vì đó là chuyện báng bổ thần linh.
           Trần Trận trong lòng đầy mâu thuẫn nhưng miệng vẫn nói cứng, bảo Dương Khắc: Mình cũng muốn thả nó lên núi, nhưng bây giờ thì chưa được. Còn nhiều vấn đề chưa làm rõ. Tự do của con sói là tự do của một con sói, nếu như rồi đây thảo nguyên không còn con sói nào nữa thì bàn về tự do của sói có ích gì? Khi ấy, cậu sẽ hối hận cho mà xem.
           Dương Khắc nghĩ một lúc rồi đành thoả hiệp. Đắn đo hồi lâu, cậu nói: Vậy thì ta tiếp tục nuôi. Mình nghĩ cách kiếm ít “pháo nhị thành”, sói cũng như kỵ binh thảo nguyên rất sợ tiếng nổ, sợ bộc phá. Thấy Nhị Lang quần nhau với sói là mình châm một bó “tạc đạn”, cậu ném từng quả vào đàn sói, đảm bảo chúng sẽ bỏ chạy.
           Trần Trận dịu dọng, nói: Kỳ thực, cậu còn phiêu lưu hơn mình. Chà, cậu định cưới một cô vợ Mông Cổ hả? Dữ hơn sói cái hả?
           Dương Khắc vội xua tay: Cậu đừng có la rầm lên, kẻo có cô Mông Cổ nào nổi máu đuổi theo mình như sói cái, là mình trụ không nổi. Thôi, trước tiên hãy kiếm một cái lều Mông Cổ đã.

________Hết chương 22________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:16:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23

Đồng Trọng Thư trả lời: “… Tần không như vậy, cầm quân theo phép tắc của Thân, Thương, hành pháp theo thuyết Tào Phi, không thích vương dạo, lối sống tham như sói…”
                                                                                                                           Tư Mã Quang “Tư trị thông giám.
                                                                                            Hán Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế thượng chi thượng”


           Dương Khắc quay lưng về phía công trường ồn ào, nhìn ra hồ thiên nga trước mặt. Cậu không dám quay lại nhìn công trường. Từ khi Bao Thuận Quý bắn chết con thiên nga để ăn thịt, cậu đêm nào cũng mơ thấy máu loang mặt hồ, nước xanh biến thành màu đỏ…
           Hơn 30 dân công đến từ khu vực nông nghiệp Nội Mông, đã cắm rể ở bãi chăn mới. Với tốc độ phi mã, họ kiến tạo những ngôi nhà đất kiên cố. Những dân công là người ở năm hoặc làm công theo thời vụ, ông tổ ba đời là mục dân khu vực chăn nuôi, đời bố là mục dân nửa chăn nuôi nửa làm ruộng, đến đời họ thì bãi chăn đã biến thành ruộng đất cằn, đất đai không còn nuôi nổi họ. Thế là họ như chim di trú bay đến thảo nguyên. Họ nói trôi chảy tiếng Mông lẫn tiếng Hán, hiểu biết công việc chăn nuôi, đồng thời là nhà nông thực thụ. Họ thông thuộc thảo nguyên hơn những người Hán tới từ khu vực thuần nông, biết khai thác tại chỗ những gì có thể khai thác, có biệt tài xây dựng cơ sở hạ tầng chăn nuôi. Trần Trận và Dương Khắc mỗi khi cho cừu ra sông uống nước về, đều ghé qua chỗ dân công thăm viếng chuyện trò dăm câu. Dương Khắc nhận thấy, do công trình quá bận, thời hạn quá gấp, Bao Thuận Quý đã khoán trắng trước mùa mưa phải hoàn thành nhà kho tạm và bể tắm thuốc. Xem ra, đám dân công chưa kịp để ý đám thiên nga trên hồ.
           Những ngày này Trần Trận và Dương Khắc thường xuyên trao đổi về các chính sách “Vừa khai hoang vừa bảo vệ biên giới”, “di dân lên đường biên” của các chính phủ Hán tộc cổ đại và chính sách “khai hoang trồng trọt” của nhà Thanh giai đoạn hậu kỳ. Chính sách tằm ăn dâu, dồn nén du mục vẫn tiếp tục thực hiện cho đến bây giờ. Dương Khắc không hiểu vì sao báo chí ra sức công kích chính sách quảng canh, khai khẩn bừa bãi thảo nguyên, biến những vùng rộng lớn thành sa mạc của Khơrútxốp, nhưng những hành động như thế ở Trung Quốc thì bỏ qua. Trái lại, “bài ca người lính khẩn hoang” thì ca suốt. Dương Khắc chưa tới những binh đoàn khẩn hoang Đông Bắc, Tân Cương mà cuối cùng chọn thảo nguyên, vì cậu đọc tiểu thuyết Nga, xem phim Nga, tranh sơn dầu Nga và những điệu múa Nga mà lớn lên. Tình yêu của những nhà văn, đạo diễn, hoạ sĩ, nhạc sĩ vĩ đại Nga đối với rừng Nga và thảo nguyên, đã hun đúc Dương Khắc thành “động vật” của thảo nguyên và rừng. Cậu không ngờ đã chạy khỏi binh đoàn nông khẩn Đông Bắc Tân Cương, mà vẫn không thoát “nông khẩn” ở đây, xem ra dân tộc nông canh bản tính khó sửa, chừng nào chưa sa mạc hoá tất cả thảo nguyên thì họ chưa cam long.
           Dương Khắc không thể không khâm phục tài dựng nhà của những người dân công. Lần đầu tiên đi qua còn là bãi đất trống, ngày hôm sau đã mọc lên những bức tường đất cao hơn đầu người. Dương Khắc cưỡi ngựa chạy mấy vòng quan sát kỹ, thấy họ dung hai cỗ xe lớn chở đất thịt ven hồ. Họ dung mai rộng bản xắn từng tảng đất dài và rộng gấp đôi những viên gạch xây trường thành, rất chắc vì trong đất toàn rễ cỏ ken dày. Loại tường này kiên cố hơn tường trình. Loại “gạch” này không bao giờ thiếu, vì vậy tường dày hơn nhiều so với tường thường. Dương Khắc dung ủng nện thử, cảm thấy nó rắn như bê tong cốt thép xây dựng pháo đài.
           Đám dân công chỉ chở vài xe là dựng được một lớp tường, những “viên gạch cỏ” nhất loạt hướng xuống đất, đất hướng lên trên, xếp hết lớp một, dùng mai san phẳng, nện chặt, xếp tiếp lớp hai. Chỉ hai ngày là xong một bức tường. Đợi tường khô là bắc quá giang, đặt nóc, lợp mái, một ngôi nhà hình thành. Bãi đất thịt cỏ mọc xanh rờn biến mất, còn lại là một bãi bùn nhão, trông giống thuở ruộng đã cày bừa nhưng chưa cấy, người và bò cừu đều phải đi vòng mỗi khi ra sông uống nước.
           Một dãy nhà đất xuất hiện trên bãi chăn mới như cái gái trong mắt Dương Khắc. Phong cảnh tuyệt đẹp ở bãi chăn mới nếu như điểm xuyết bằng những chiếc lều Mông Cổ, vẫn không mất đi vẻ đẹp. Còn như xuất hiện những dãy nhà đất thì chẳng khác vẽ thêm mấy cái chuồng lợn trên tấm phông của vở kịch Hồ Thiên nga. Cậu van nài lão Vương cầm đầu đám dân công, liệu có thể quét vôi trắng những ngôi nhà xám xịt đó, để trông xa chúng giống như những căn lều Mông Cổ. Lão Vương cười nhăn nhở, nói: Cậu bỏ tiền mua vôi, tôi quét liền. Dương Khắc tức điên, thảo nguyên không sản xuất vôi, có tiền cũng không mua được.
           Việc khai thác đá  ngày càng quy mô. Trên những quả đồi thông thường ở thảo nguyên Mông Cổ, chỉ cần gạt lớp cỏ hoặc đá sỏi trên mặt rồi đào xuống một hai thước là thấy đá hộc, đá phiến, đá sỏi bị phong hoá, dùng đầu đòn khiêng mà bẩy những hòn đá lên, không cần dùng choòng, cuốc chim và thuốc nổ. Bảy tám dân công khuân những hòn đá từ dưới hố lên xếp đống bên ngoài, trông xa như những nấm mồ xây bằng đá trên đồi cỏ xanh mượt.
           Vài hôm sau, công trường khởi công toàn diện, trên 20 dân công ngồi xe bánh hơi đến bãi chăn, trên xe chất đầy hành lý xanh xanh đỏ đỏ, một số vợ con dân công cũng đến, đem theo mấy con ngỗng đông bắc, có vẻ như đến ở hẳn, bắt rễ cắm chốt trên thảo nguyên. Dương Khắc đau xót bảo Trần Trận: Bãi chăn đẹp thế này mà sắp biến thành một cái thôn nông nghiệp bẩn thỉu của Hoa Bắc, hồ thiên nga quý hiếm cũng sẽ trở thành ao nuôi ngỗng nhà. Trần Trận buồn rầu, nói: Dân tộc nào bị bùng nổ dân số, sốn còn là công việc hàng đầu, còn đâu dinh dưỡng mà chăm nuôi tế bào nghệ thuật. Sau này Dương Khắc nghe nói, đa số những người mới đến đều là người nhà Bao Thuận Quý, ông ta tiếc không chuyển cư được nửa số dân trong thôn đến thảo nguyên.
           Lại vài ngày nữa, Trần Trận phát hiện trước cửa các nhà đều đào mương và cày xới đất. Bốn con mương sâu vây lấy một khoảnh đất trên mười mẫu. Chỉ ít hôm sau, cải bẹ, cải bắp, củ cải, rau thơm, dưa chuột, hành, tỏi… nảy mầm, khiến đám thanh niên trí thức tranh nhau đến đặt mua những loại rau của người Hán ít thấy trên thảo nguyên.
           Con đường ngoằn ngoèo của xe bò trên thảo nguyên bị những chiếc máy kéo bánh lốp chở lông cừu nắn thẳng tàn bạo, rồi thì gia quyến của cán bộ nhân viên đến nhặt lông cừu, nhặt quả hạnh, đào cây thuốc, cắt rau phỉ. Một vùng tấc đất tấc vàng vừa mở ra, lưu manh các vùng nông nghiệp đã ào tới như bầy ong, ở nơi vùng sâu vùng xa của thảo nguyên chỗ nào cũng nghe thấy tiếng Hán giọng Mông vùng Đông Bắc. Trần Trận bảo Dương Khắc: Văn minh nông canh Hán tộc trong hai ba trăm năm nay đã đồng hoá tộc Mãn nhà Thanh. Vì rằng quê gốc của tộc Mãn- đông tam tỉnh có vùng đất đen rộng lớn và rất dày, lấy lý do “cùng nguồn gốc” có thể đồng văn hoá nông canh. Vấn đề đồng hoá chưa phải quá lớn, nhưng nếu văn hoá Hán đồng hoá thảo nguyên Mông Cổ mong manh, thì “họa vàng” sẽ xảy ra.
           Bao Thuận Quý ngày ngày bám công trường. Ông ta đã chuẩn bị tiềm lực phát triển mục trường, dự định năm thứ hai sẽ chuyển cả bốn đại đội đến bãi chăn mới này, biến nó thành bãi chăn mùa hè cho bốn đại đội, dành ra những vùng đất đen phát triển nông nghiệp. Khi đó, cần lương thực có lương thực, cần thực phẩm có thực phẩm, ông ta có cái vốn để di chuyển họ hàng anh em bè bạn đến nơi phong thuỷ bảo địa này lập nên mục trường họ Bao. Bao Thuận Quý yêu cầu nghiêm khắc về tiến độ xây dựng, nhưng các dân công không hề oán thán.
           Ông Pilich cùng mấy mục dân có tuổi suốt ngày cãi nhau với đám dân công, bắt họ phải lấp mương, vì ban đêm đã có ngựa bị vấp ngã gãy chân. Mương đã lấp, nhưng ít hôm sau xuất hiện bức tường đất cao nửa người. Ông Ulichi buồn bã ủ ê, ân hận vì ông là người phát hiện bãi chăn mới.
           Dương Khắc mất khá nhiều công sức mới gạt bỏ cảnh bát nháo của công trường, tập trung vào phong cảnh trước mắt chỉ là muốn lưu lại đôi chút ấn tượng về hồ thiên nga này. Mấy ngày nay, cậu mê hồ thiên nga còn hơn Trần Trận mê thảo nguyên. Cậu e chỉ một năm nữa, các trảng cỏ bên kia song sẽ xuất hiện các đàn gia súc lớn của ba đại đội khác đồng thời với công trường lớn hơn của dân công. Giả dụ các bãi lau sậy bị chặt quang, đàn thiên nga sẽ không còn bức màn xanh che chở.
           Dương Khắc cưỡi ngựa đi tới bên hồ. Cậu muốn biết thiên nga con đã nở chưa vì đang là mùa sinh sản. May mà thời gian này chỉ có vài con bò quanh quẩn, đàn gia súc lớn đều xa ven hồ. Con song nhỏ chở đi dòng nước đục ngầu do gia súc vấy bẩn, đón dòng nước trong xanh từ thượng nguồn chảy về. Hồ nước trở lại trong vắt. Cậu ước ao đàn thuỷ cầm tạm thời được yên.
           Bỗng những tiếng kêu kinh hoảng bằng đủ các giọng của thuỷ câm vang lên trong bãi sậy. Vịt trời, đại nhạn bay sát mặt nước về phía đông nam. Thiên nga lập tức vọt lên nhằm đầm lầy phía bắc bay đi. Dương Khắc vội rút ống nhòm chĩa về phía bãi sậy, hẳn có kẻ định bắn thiên nga.
           Mười mấy phút sau, mặt hồ phía xa xao động, một chiếc bè được nguỵ trang như bè cánh nhạn của du kích hồ Bạch Dương trong chiến tranh chống Nhật, xuất hiện trước ống kính Dương Khắc. Chiếc bè từ trong bãi sậy nhẹ nhàng bơi ra, trên có hai người đầu đội mũ nguỵ trang bằng cây sậy, khoác áo choàng cũng bằng cây sậy. Cây sậy còn chất đống trên bè, y như một khóm sậy khổng lồ đang trôi, nếu không quan sát kỹ, không thể phân biệt với đám sậy xung quanh. Dương Khắc nhìn rõ hai người ngồi trên bè đã có thu hoạch, một người bỏ mũ nguỵ trang ra, người kia dùng chiếc xẻng sắt làm mái chèo, lái chiếc phà về bờ sông bên này.
           Chiếc phà cặp bờ. Thì ra nó vốn là sáu chiếc săm xe tải và mấy tấm cánh cửa kết lại. Dương Khắc nhận ra một người là lão Vương cầm đầu cánh dân công, một người cháu của lão là Hai Thuận. Hai Thuận gạt bỏ đám sậy nguỵ trang, lộ ra chiếc bồn sắt tây vẫn dùng để giặt quần áo, trong bồn chứa đầy trứng chim to nhỏ các loại, giữa bồn có hai quả rất lớn, trắng như pha lê, bóng mịn như điêu khắc ngọc Dương chỉ. Dương Khắc trong bụng đau nhói, cậu tự nhủ: Trứng Thiên nga! Càng kinh hoảng hơn, phía dưới lộ ra một nửa con thiên nga lớn, cánh trắng muốt dây đầy máu. Dương Khắc máu dồn lên đầu, cậu định lật sấp chiếc bè nhưng cố kiềm chế. Con thiên nga không thể sống lại, nhưng hai quả trứng thiên nga cậu sẽ cứu bằng được.
           Chiếc bè cập bến, Dương Khắc gầm lên: Ai cho phép các người bắn thiên nga? Lấy trứng thiên nga? Đi, lên đội cùng tôi!
           Lão Vương người không cao nhưng rắn chắc, bộ râu nửa Hán nửa Mông che gần hết khuôn mặt. Ông ta trợn mắt nhìn Dương Khắc: Chủ nhiệm Quý cho phép đấy, việc gì đến cậu? Đội xây dựng ăn thịt chim, càng tiết kiệm thịt cừu cho đại đội các cậu chứ sao!
           Dương Khắc gầm lên: Người Trung Quốc đều biết câu: Cóc ghẻ đòi ăn thịt ngỗng trời, ông có còn là người Trung Quốc nữa không?
           Lão Vương cười nhạt: Chính là người Trung Quốc mới không muốn cho thiên nga bay đến chỗ bọn khốn khiếp, cậu định dâng thiên nga cho bọn chúng hả?
           Dương Khắc thấy mồm mép bọn “lưu manh” chẳng vừa, nên không nói gì nữa.
           Con thiên nga được đưa lên bờ. Điều làm cho Dương Khắc kinh ngạc là nó bị một mũi tên trúng ngực. Trên bè còn có một cây cung bằng tre vầu và một nắm tên dùng chưa hết, thảo nào không nghe thấy tiếng súng. Vừa nãy cậu còn băn khoăn, hai người không đem theo súng, vậy họ bắt thiên nga bằng cách nào? Thì ra họ dùng thứ vũ khí cổ lỗ nhất. Vào cái thời dùng súng đạn này, cậu thấy bộ cung tên lại có sức sát thương mạnh nhất, hữu hiệu nhất, kín đáo nhất, không làm kinh động những con thiên nga và các loài thuỷ cầm khác để săn bắn được ngày càng nhiều hơn. Dương Khắc tự nhủ không nên coi thường loại người này, phải dùng mưu mà trị chúng.
           Dương Khắc cố nén giận, khó khăn lắm mới dịu được nét mặt, cầm chiếc cung lên khen” Cung này tốt đây! Ông bắn con thiên nga bằng cái cung này phải không?
           Lão Vương thấy Dương Khắc đã đấu dịu liền kheo mẽ: Đúng thế. Cung này tôi lấy trên xưởng dệt thảm, vốn là cái cần nâng con cò trên khung cửi, rất mạnh, bắn chết người như bỡn. Dương Khắc rút lấy một mũi tên, nói: Cho tôi bắn thử một phát, được không? Lão Vương ngồi trên một mô đất vừa xem Hai Thuận vặt lông thiên nga, vừa hút thuốc, nói: Công phu lắm mới vót được một mũi tên, tôi còn để dùng, cậu bắn thử một mũi thôi.
           Dương Khắc nghiên cứu rất kỹ bộ cung tên. Thanh tre làm cung dày gần một đốt, rộng ba đốt ngón tay. Dây cung làm bằng mấy sợi da bò mảnh bện to bằng bút chì, tên làm bằng cành liễu vuốt thẳng, mũi tên bọc bằng sắt tây đồ hộp, có mũi bên ngoài còn rõ hai chữ “chiên vàng”. Sắt tây cắt thành hình tam giác rồi bọc quanh đầu mũi tên đã vót nhọn, bọc rất khít rồi chốt lại bằng đinh. Đầu mũi tên có hình ngòi bút lông, Dương Khắc lấy tay gại thử, nó vừa cứng vừa nhọn như mũi lao. Cậu nhấc thử, thân không nặng nhưng đầu mũi thì hơi nặng, khi bắn đi không bị lạng.
           Cung rất cứng. Dương Khắc vận hết sức mới giương được năm sáu phần mười. Cậu giương cung đặt tên, nhằm bó cỏ cách mười mấy mét bắn một phát. Mũi tên cắm xuống đất bên cạnh bó cỏ. Dương Khắc chạy tới cẩn thận rút mũi tên, lau sạch đất, đầu nhọn vẫn sắc nguyên. Lúc này cậu có cảm giác như trở về thời kỳ cổ đại cưỡi ngựa bắn cung trên thảo nguyên Mông Cổ.
           Dương Khắc đến bên lão Vương, hỏi: Ông bắn con thiên nga cách bao nhiêu mét?
           Khoảng bảy tám bộ.
           Ông đứng gần thế mà con thiên nga không trông thấy ông?
           Lão Vương gõ gõ cái tẩu: Hôm kia tôi vào bãi sậy tìm cả buổi mới thấy thiên nga. Tinh mơ sáng nay, hai người chúng tôi đẩy bè nguỵ trang vào trong bãi sậy, may mà trời mù, không bị đàn thiên nga phát hiện. Tổ thiên nga cao một tầm với, bằng cây sậy, thiên nga mẹ ấp trứng, thiên nga bố bơi dưới nước canh chừng.
           Ông bắn chết con bố hay con mẹ?
           Hai chúng tôi nằm chỗ thấp, bắn không tới ổ, đành đợi con đực. Rất lâu con đực mới bơi ngang chiếc bè, tôi bắn một phát, nó chết liền. Con cái thấy động cất cánh bay đi, chúng tôi mới trèo lên lấy trứng trên ổ.
           Dương Khắc nghĩ thầm: Khả năng sinh tồn và phá hoại của dân lưu manh này thật đáng gờm. Không súng đạn thì dùng cung tên; không thuyền thì dùng be. Lại còn biết nguỵ trang, biết trường kỳ mai phục, có thể bắn chết từ phát đầu tiên. Nếu chúng được trang bị súng đạn và máy kéo thì thảo nguyên sẽ bị chúng huỷ hoại đến như thế nào? Tổ tiên chúng vốn là mục dân, nhưng sau khi bị văn hoá nông canh của người Hán chinh phục, liền trở thành kẻ thủ của thảo nguyên Mông Cổ. Hàng ngàn năm nay người Trung Quốc tự lấy làm vui về khả năng phi phàm đồng hoá dị tộc của mình, nhưng người Trung Quốc chỉ có thể đồng hoá dân tộc nào trình độ văn hoá thấp hơn mình, hơn nữa, giấu biệt những hậu quả tai hại do sự đồng hoá đó đẻ ra. Dương Khắc mục kích hậu quả đó mà trong lòng rỉ máu.
           Hai Thuận dọn dẹp xong cái bè, cũng ngồi nghỉ. Dương Khắc quan tâm nhất hai quả trứng. Thiên nga mẹ chưa chết, dứt khoát phải trả trứng về ổ. Phải cho hai con thiên nga con chào đời, cùng mẹ chúng bay cao bay xa, bay đi Sibia.
           Dương Khắc cố làm ra vẻ tươi tỉnh, bảo lão Vương: Ông quả thực đáng nể. Sau này cháu phải học ông vài món.
           Lão Vương cười đắc ý: Việc khác thì không biết, còn như bắt chim, bắt rái cá, bẫy sói, đào cây thuốc, nhặt nấm thì lão biết tuốt. Những trò này lão biết từ trước, sau khi người Hán vào đồng cỏ Quan Đông, đất trở nên thiếu, động vật hoang dã cũng bị người Hán chén sạch. May mà lão chưa quên nghề, đành lên đây kiếm ăn qua ngày. Chúng ta tuy cùng tộc Mông nhưng bỏ quê mà đi cũng không dễ. Thanh niên trí thức các cậu từ Bắc Kinh đến, lại có hộ khẩu ở đây, các cậu nói hộ cánh ngụ cư chúng tôi dăm câu, đừng để dân địa phương đuổi chúng tôi đi. Nếu cậu nhận lời, lão sẽ dạy cho mấy món, bảo đảm mỗi năm cậu kiếm được bạc ngàn.
           Dương Khắc nói: Vậy cháu xin tôn ông làm thầy.
           Lão Vương nhích lại gần, hỏi: Nghe nói ở đằng lều các cậu và các mục dân trữ nhiều mỡ cừu, liệu cho lão một ít không? Bọn tôi bốn năm chục người ngày ngày làm việc nặng, lương thực đều mua từ chợ đen với giá cao, ngày ngày ăn rau dại, không chút mỡ vào bụng, vậy mà các cậu thắp đèn bằng mỡ, phí quá! Cậu bán rẻ cho lão một ít nhá?
           Dương Khắc cười: Chuyện này dễ thôi. Chúng cháu còn hai ống bơ mỡ trong lều. Hai quả trứng thiên nga này đẹp quá! Thế này nhé, cháu đổi cho ông nửa ống bơ mỡ lấy hai quả trứng, được không? Lão Vương nói: Được. Hai quả này lão cũng định rán ăn, coi như ăn bớt đi năm sáu quả trứng vịt, cậu cầm về đi. Dương Khắc liền lấy áo bọc kỹ hai quả trứng, bảo lão Vương: Mai cháu đem mỡ đến cho ông. Lão Vương nói: Người Bắc Kinh các cậu nói một là một hai là hai, lão tin.
           Dương Khắc thở ra một hơi nhẹ nhõm: Trời hãy còn sớm, cháu mượn cái bè của ông đi xem ổ thiên nga… Ông vừa nói ổ thiên nga cao hơn một tầm với, cháu không tin, muốn thấy tận mắt.
           Lão Vương nhìn con ngựa của Dương Khắc, nói: Được, thế này nhá, cậu mượn bè của lão, lão mượn ngựa cậu chở con thiên nga này về bếp ăn. Nặng quá, nặng gần bằng con cừu.
           Dương Khắc đứng lên, nói: Cứ thế nhé… Gượm hẵng, ông cho cháu biết cái ổ ấy ở đâu?
           Lão Vương cũng đứng lên, trỏ đám sậy chụm thành hình cái cổng, nói: Đến đầu đông thì rẽ sang hướng bắc, chỗ đó có bụi sậy bị bè lướt gãy, bơi theo vệt bè là tìm thấy cái ổ. Cậu biết chèo bè không?
           Dương Khắc lên bè, quạt vội mấy xẻng, nói: Cháu bơi thuyền suốt ở công viên Bắc Hải- Bắc Kinh. Cháu biết bơi lội, vài cây số không thành vấn đề. Không chết đuối đâu mà lo.
           Lão Vương căn dặn: Trở về cậu nhớ cột bè cho kỹ. Nói xong, lão ôm con thiên nga đặt lên yên, còn lão ngồi phía mông cho ngựa đi chầm chậm. Hai Thuận ì ạch bê bồn trứng theo sau.
           Đợi hai người đi xa, Dương Khắc lại cập bờ đem  hai quả trứng lên bè rồi hối hả chèo tới khóm sậy phía đông.
Mặt hồ mênh mông phản chiếu những đám mây trắng nhức mắt, một đàn đại nhạn và những con vịt cổ xanh từ những ao đầm phía bắc mạnh dạn đáp xuống hồ. Hình ảnh lộn ngược, những con chim nước như rẽ mây mà bơi, lát sau chúng đã nổi trên những bóng mây dưới nước. Vào trong hồ, Dương Khắc bất giác chèo chậm lại, cậu như tắm trong màu xanh thẫm của những cây sậy. Mùi thơm nhẹ của nước hồ và của lá sậy đưa tới, càng vào sâu bên trong càng thơm, hình như đã thực sự vào trong hồ thiên nga mộng ảo. Dương Khắc nghĩ, nếu gọi được Trần Trận và Trương Kế Nguyên cùng bơi thì hay quá. Ba người sẽ ở lì trong hồ không ra, nằm trên bè một ngày hoặc một đêm, mặc cho nó trôi đi đâu thì đi.
           Chiếc bè dần dà tiếp cận đám sậy phía đông, ở đây nước chảy, là dòng chính của con sông qua hồ chảy lên phía bắc. Lông chim nổi trên mặt hồ, trắng có, xám có, màu cà phê có, màu vàng chanh có, màu cánh trà có, đủ cả. Đôi khi vài con vịt hiện ra đột ngột rồi rúc luôn vào bên trong khi thấy người. Bãi sậy sâu thăm thẳm, là phòng sản yên tĩnh, là sân chơi an toàn của thuỷ cầm. Làn gió mát thoảng qua, rũ sạch mùi mồ hôi trên người Dương Khắc.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:17:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23(tiếp)

           Lại qua một khúc ngoặt, dòng sông lúc hẹp lúc rộng. Dương Khắc chèo một lúc nữa thì đến chỗ phân nhánh. Cậu dừng chèo, chợt trông thấy mấy cây sậy gãy giập trên mặt nước, bèn men theo lối đó bơi vào trong. Mặt nước ngày càng rộng ra, trước mặt cậu ẩn hiện một cái hồ, mặt hồ phía đông bắc có rất nhiều cây sậy bị phạt ngã, một đường đi trên mặt nước do con người tạo ra xuất hiện trước mắt cậu. Cậu bơi theo dòng nước, thấy phía sau một búi sậy có một cái gò nổi, cao dễ hơn hai mét, đường kính một mét. Dương Khắc tim đập như trống làng: Đúng nó! Đây là một ổ thiên nga mà cậu chưa từng trông thấy trên phim ảnh hoặc trong sách. Cậu dụi mắt không tin đây là sự thật.
           Dương Khắc thở gấp, hai tay run run. Cậu loạng choạng bơi tới, dùng xẻng gạt đám sậy trên mặt nước, tiếp cận cái ổ. Cuối cùng, ghìm được bè vào khóm sậy khổng lồ, cậu thở ra một hơi, dùng cán xẻng làm điểm tựa, nhẹ nhàng nhón gót, vươn cổ ngó vào trong. Cậu muốn biết hoàng hậu thiên nga sau khi mất chồng, còn ở trong ổ không? Nhưng cái ổ cao quá, cậu không thể nhìn vào, nhưng bằng vào cảm giác, cậu thấy trong ổ không có gì.
           Dương Khắc ngẩn ngơ trước ổ thiên nga. Cậu như mụ đi vì chưa bao giờ trông thấy một tổ chim lớn như thế. Cậu cứ tưởng cái tổ chỉ cao hơn mặt nước đôi chút. Thiên nga mà có thể đạp gãy một khóm sậy lớn rồi nhặt những cành sậy và lau già đan thành tổ hình cái bát. Cái tổ thiên nga khiến cậu thấy sức tưởng tượng của cậu quá tầm thường. Là bậc vương giả trong loài chim, cái tổ của con thiên nga không những mang phong cách đế vương, mà về công nghệ tạo hình cũng khác đời. Đây là một tâm hồn độc đáo, tay nghề tinh vi. Cái tổ vô cùng chắc chắn.
           Sau khi xác định thiên nga mẹ không có trong tổ, Dương Khắc bèn ngó vào trong.
           Vị trí cái tổ cực đẹp. Đây là nơi lau sậy mọc dày nhất trong hồ, lại là nơi nước sâu nhất. Bên cạnh tổ là một mảng của cái hồ thứ hai. Người bạn đời của thiên nga xây tổ ở đây tiện cho ẩn nấp, tiện cho ăn uống, ra vào, tiện cho thiên nga đực tuần tiễu bảo vệ. Nếu không có hai dân công xảo trá dùng bè nguỵ trang mở một lối vào trong bí mật tập kích, nói chung rất khó tiếp cận tổ của vua các loài chim này.
           Dương Khắc dùng cả hai tay đẩy cái tổ, thấy không rung chuyển, y như đấy một cái cây đường kính hàng mét. Tuy lớn lên trong nước, nhưng rễ của chúng là rễ chum cắm sâu dưới đáy hồ. Kết cấu tổ, Dương Khắc chưa bao giờ trông thấy. Quan sát kỹ, cuối cùng Dương Khắc cũng nhận ra thiên nga xây tổ như thế nào? Trước tiên đôi thiên nga chọn một bụi sậy thật to thật cứng, sau đó dùng búi sậy này làm như cốt thép rồi dùng thân cây sậy mà đan ngang đan dọc hết lớp nọ đến lớp kia. Dưong Khắc đoán chừng lúc bắt đầu, đôi thiên nga đan một lớp thật dày rồi chúng trèo lên trên, dùng sức nặng cơ thể giằn cái tổ xuống dưới nước tiếp tục đan cho đến khi cái tổ ló lên mặt nước. Dương Khắc dùng cán xẻng thăm dò độ sâu, đo được một mét rưỡi tính đến mặt nước. Vậy là nếu bộ phận chủ thể tính từ mặt nước lên cao hơn hai mét, cái tổ này cao hơn bốn mét. Có lẽ đây là công trình đặc cấp trong vương quốc chim.
           Những cây sậy già dẻo quánh như tre, chịu được ngam nước. Dương Khắc có lần khơi lại cái giếng trên bãi chăn bị lấp đã bảy tám năm, thấy những chọc chống lở đất bằng cây sậy vẫn chưa mục nát hết. Cậu dùng xẻng chọc vào đáy tổ, quả nhiên rất kiên cố.
           Khi tổ đã ló lên mặt nước, người tình của con thiên nga cái bắt đầu kiến trúc, từng lớp phần chủ thể trên mặt nước. Dương Khắc nhận thấy thân tổ đan kết vừa dày vừa chặt y như một cái sọt đặc ruột, tới cách ngọn sậy chừng một thước thì dừng, những cây sậy làm cốt toẽ ra xung quanh như lan can lẩn trong những ngọn sậy. Dương Khắc bám một cây trụ, dùng chân đạp mạnh xem có chỗ nào bật ra không rồi thận trọng leo lên khoảng hai thước ngó vào trong, cuối cùng cậu nhìn rõ phòng sản của thiên nga hình cái đĩa, bên trong lót một lớp lá sậy, một ít lông tơ mềm mại, chứ không hình trôn bát như những loại ổ khác.
           Dương Khắc bước xuống bè, ngước nhìn cái tổ thiên nga bằng ánh mắt tán thưởng. Người tình thiên nga cần cù thông minh am hiểu sâu sắc lực học và mỹ học. Thảo nguyên Mông Cổ là thiên đường của những động vật Quý hiếm và cũng là vương quốc của kẻ mạnh và khôn ngoan, ẩn giấu bao nhiêu của ngon vật lạ mà rất nhiều dân tộc nông canh không được thưởng thức. Tiếp đó, Dương Khắc lại phát hiện ra càng nhiều ưu điểm của tổ thiên nga: Cao chót vót trên ngọn đám lau sậy thoáng mát và khô ráo, tầm nhìn xa, được màu xanh như một bức màn che chở, lại cách xa đám cành khô lá mục thối rữa dưới chân. Mùa hè còn tránh được muỗi đốt và rắn nước tập kích. Nếu thiên nga con mổ trứng chui ra, mở mắt đã thấy trời xanh mây trắng. Sang thu, trước khi bay về phương nam tránh rét, chúng ẩn hiện trong hoa lau trắng như bong. Dù xa xôi ngàn dặm, đàn thiên nga con không bao giờ quên quê hương vừa xinh đẹp vừa lãng mạn của chúng.
           Gió nhẹ, những cây sậy đung đưa trước gió, hàng vạn bông lau uốn cần câu, nhưng cái tổ vĩ đại của thiên nga vẫn đứng im phăng phắc, như bậc đế vương tiếp nhận triều kiến của chư hầu. Thiên nga rất kiêu, tự  nhận là loài chim bay cao nhất thế giới, nhưng Dương Khắc không ngờ trên thảo nguyên không một bóng cây, thiên nga vẫn cứ kiêu ngạo hơn chim ưng. Chim ưng đực trên thảo nguyên lấy độ cao của núi để tăng độ cao của tổ. Dương Khắc đã xem hơn chục tổ chim ưng thảo nguyên trên đỉnh núi, đâu phải tổ, mà chỉ là một đống cành cây và vài miếng da rách như cái ổ của tên ăn mày, khiến lòng ngưỡng mộ của cậu đối với chim ưng tan biến.
           Thiên nga cao quý, đẹp và trong sạch cả trên trời lẫn dưới đất. Nếu như trên đời không có thiên nga, làm gì có hồ thiên nga trên sân khấu? Làm gì có Ulanôva? Dương Khắc nhìn lên ngai vàng của thiên nga, mở to mắt ghi nhớ từng chi tiết cái tổ đế vương. Cậu rất muốn dựng một cái tổ thiên nga cao vút trên quảng trường nhà hát quốc gia, trở thành linh vật của những ai yêu thiên nga và hồ thiên nga, trên đỉnh trụ là đôi bạn thiên nga thanh khiết vỗ cánh bay lên trời xanh, họ sẽ là linh vật của tình yêu và cái đẹp bất tử trong lòng nhân loại.
           Gió trên hồ dần chuyển lạnh, lau sậy cũng biến từ màu xanh sang sẫm. Dưong Khắc hai tay nâng hai trứng thiên nga trước ngực, truyển hơi ấm cho chúng. Thế giới này cóc ghẻ ngày càng nhiều, trên sân khấu, đại đao của nữ hồng quân đuổi sạch công chúa thiên nga. Nhưng thế giới này vẫn có những người yêu thích và sùng bái thiên nga.
           Dương Khắc thận trọng trèo lên tổ, thành kính đưa quả trứng lên quá đầu, trả lại tổ, lại lấy từ trong bọc quả trứng thứ hai trả nốt. Trở lại bè, cậu thở một hơi khoan khoái. Cậu tin rằng hai quả trứng trên cột totem cao to kia sẽ là hai viên ngọc lớn, từ bãi sậy phát ra ánh sáng chói lọi vẫy gọi nữ hoàng thiên nga đang bay lượn trên trời cao.
           Rồi thì bầu trời xuất hiện một chấm trắng bay rất cao. Dương Khắc vội vàng cởi dây cột, đẩy nhẹ chiếc bè trở lại lòng sông. Cậu nâng dậy những cây sậy bị đổ rạp, dùng xẻng gạt lá sậy trôi trên mặt nước, cậu hi vọng những cây lau bị chặt ngã lại nảy mầm, che khuất cái tổ thiên nga vĩ đại đã bị lộ.
           Trước khi rời đi, Dương Khắc trông thấy một con thiên nga đang sà xuống và khi bè cập bến, không còn thấy nó trên trời.
                                                                      *          *           *
           Dương Khắc đến bếp ăn của công trường, Hai Thuận nói chú cậu ta đã cưỡi ngựa đi tổ chăn nuôi số 3 mua bò ốm. Bãi đất bên ngoài nhà bếp đã mọc lên một cái bếp đất, trên bếp có một nồi cực lớn. Mặt đất đầy lông thiên nga ướt mèm, chiếc nồi trên bếp sôi sùng sục, trong nồi là những miếng thịt thiên nga to bằng nắm tay. Dương Khắc trông thấy con thiên nga trong nồi đang khóc, bên bếp là một cô ăn mặc gọn gang đang cho gia vị như tiêu ót hành tỏi, gừng tươi vào nồi lại còn tưới lên đầu thiên nga loại xì dầu rẻ tiền. Dương Khắc bị choáng, ngồi bệt xuống xe. Cô gái trẻ bảo Hai Thuận dìu cậu thanh niên trí thức Bắc Kinh vào trong lều, lát nữa tặng cậu ta bát cháo thiên nga bồi dưỡng sức khoẻ. Dương Khắc gạt Hai Thuận sang bên. Cậu tức đế nỗi suýt đá bay cái nồi trên bếp. Cậu không chịu nổi cái mùi bốc lên từ cái nồi nhưng không dám đá, cũng không dám nổi giận. Người ta là bần nông và trung nông lớp dưới, còn thanh niên trí thức các cậu là lũ “chó rẻ” về đây để được giáo dục lại. Cậu dứt khoát phải tìm cách huỷ cái bè.
           Đám dân công mồ hôi chua loét lục tục trở về. Ngửi thấy mùi thịt thèm rỏ giãi, họ reo ầm lên vây quanh nồi vừa hát vừa gọi:
           Cóc ghẻ ăn thịt ngỗng trời nào! Cóc ghẻ ăn thịt ngỗng trời nào!
           Ăn thịt thiên nga thì còn là cóc ghẻ nữa thôi?
           Vậy là gì?
           Vua.
           Một cậu tướng ngũ đoản giương cặp mắt lồi như mắt cóc, nhân lúc láo nháo cầm que củi đang cháy đốt đít cô gái, cười đĩ thoã: Ai bảo cóc ghẻ không ăn thịt nổi ngỗng trời? Lát nữa ta sẽ ăn. Lời chưa dứt, cậu ta đã bị đập một phát bằng que củi đang cháy.
           Đám dân công thấy thịt chưa chin, liền cởi trần, tay vung khăn mặt bẩn, chạy ra hồ. Vài người trèo lên bè bơi ra giữa hồ. Vài cậu không sợ nước, trần truồng nhảy xuống bơi như chó, nước đục bắn tung toé. Mặt hồ vừa yên thì một đám chim lớn giật mình bay lên, kêu loạn xạ.
           Dương Khắc không hiểu, cùng là dân tộc Mông, mà sao những người ở khu vực nông nghiệp quên rất nhanh thuỷ thần mà người Mông Cổ sùng bái. Khi thanh niên trí thức Bắc Kinh chưa về đến mục trường, công xã đi qua trụ sở cơ quan huyện, một số cán bộ người Hán đến thăm, nói riêng với đám Trần Trận, là đến thảo nguyên thì phải tôn trọng phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng của mục dân. Thảo nguyên Mông Cổ thiếu nước, nên người Mông Cổ đặc biệt quý trọng nước, không dám giặt quần áo, càng không dám tắm trong hồ. Trong lịch sử dân tộc Mông Cổ thời bán khai, vì dân tộc Islam thích tắm nơi sông hồ, rất khinh nhờn thuỷ thần Mông Cổ, nên hai dân tộc này đã đánh nhau máu chảy thành sông. Họ mong sau khi lên thảo nguyên, thanh niên trí thức không nên tắm giặt ở sông ngòi. Hơn hai năm nay, đám thanh niên trí thức đã kiềm chế được ý thích tắm sông. Ai ngờ đám dân công đến từ khu vực Mông Cổ- nông nghiệp dám phá hoại quy củ của thảo nguyên.
           Không còn cách nào khác, Dương Khắc đành trở về căn lều Mông Cổ cùng Trần Trận bàn cách đối phó. Đi được vài bước, cậu phát hiện năm sáu cái rễ cây rất to dưới chân tường. Cậu giật mình nghĩ đến những bông thược dược đẹp như các nàng tiên, vội chạy tới nhìn kỹ. Cậu chưa bao giờ nhìn thấy rễ cây hoa thược dược. Chúng rất giống sừng con cừu, lại giống củ khoai lang lớn đầy những mấu. Thân  cây hoa bị cắt cụt, chỉ còn lại vài mầm non mới nhú. Mấy cái rễ to nhất đã được thả trong thùng sắt lớn, một thùng chỉ thả được một rễ, trong thùng có cát ướt, bảo đảm rễ không bị héo.
           Dương Khắc hỏi Hai Thuận: Đây có phải rễ cây thược dược? Hai Thuận nói: Đúng, thược dược trắng, mọc trong núi, ở đâu thì không thể cho cậu biết. Cách đây mấy hôm chở đi hơn nửa xe bán cho hiệu thuốc trên thành phố. Dương Khắc không ngờ chỗ hơn nửa xe com măng ca Bao Thuận Quý chở đi chỉ là một phần nhỏ, còn lại toàn bộ thược dược thiên nga đã bị đám dân công đào sâu ba thước, lấy cả rễ. Những con người đã không yêu quê mình thì khi đến nơi khác, họ dám phá sạch.
           Dương Khắc trở về nhà, kể lại cho Trần Trận và Cao Kiện Trung những điều mắt thấy tai nghe.
           Trần Trận cũng tức đến nỗi không nói thành lời. Khi đã bình tâm trở lại, cậu bảo Dương Khắc: Những điều cậu thấy là hình ảnh thu nhỏ mối quan hệ mấy nghìn năm giữa hai dân tộc du mục và nông canh. Dân du mục trở thành dân làm ruộng rồi quay về giết thảo nguyên. Cả hai đều bị thương.
           Dương Khắc không hiểu, hỏi: Làm sao cả hai đều bị thương? Vốn cùng cội rễ, du mục quay về du mục, nông canh trở về nông canh có phải yên ổn không?
           Trần Trận trả lời lạnh nhạt: Trái đất bé tí ấy mà. Lịch sử nhân loại là lịch sử giữa tước đoạt và bảo vệ không gian sinh tồn. Hoa Hạ kinh tế tiểu nông tầm nhìn hạn hẹp, cả đời chỉ nhìn thấy mảnh đất bé tí dưới chân mình. Chúng mình nếu không lên thảo nguyên, chắc cũng chỉ như ếch ngồi đáy giếng, cứ cho mình ghê gớm lắm.
           Bên ngoài có tiếng sủa của ba con chó lớn. Dương Khắc nói: Chắc lão Vương đem trả con ngựa. Nhị Lang hung hăng đến nỗi lão không dám xuống ngựa, gọi Dương Khắc ầm ĩ. Dương Khắc vội chạy ra nạt chó để lão vào trong lều rồi mới tháo yên. Con ngựa mồ hôi ướt sũng, hơi bốc ngùn ngụt, đệm lót yên cũng ướt mèm, toàn mùi mồ hôi. Dương Khắc giận dữ mở cửa bước vào. Lão Vương trên người toàn mùi tỏi, mép bóng nhẫy, luôn miệng khen thịt thiên nga ngon. Dương Khắc cố nhịn để khỏi rút dây động rừng, lấy mỡ cừu đưa cho lão. Lão Vương được nửa lon mỡ vui vẻ ra về. Dương Khắc nghĩ đến con thiên nga đực sáng nay còn bay lượn trên trời, giờ đã trong bụng lão Vương cùng với đám tỏi hôi rình thì xót xa quá chỉ chực khóc.
           Ba người ngẩn ra hồi lâu không nói gi. Sao không ngăn lão lại nện cho một trận? Sao không cho lão một bài học? Nhưng các cậu thấy với loại chỉ thích lấy thịt đè người này, đánh không đánh, mà nói lý lẽ thì như đàn gẩy tai trâu. Muốn trị chúng, phải lấy độc trị độc. Trần Trận và Cao Kiện Trung tánh thành phá huỷ chiếc bè của lão Vương, mà phải phá tan thành, khiến lão hết cách phục hồi. Phải bảo đảm cho hai con thiên nga lớn lên bay đi. Dương Khắc xót xa: Mình nghĩ sang năm đàn thiên nga chắc không về đây nữa. Ba người ngồi im như phỗng.
           Nhưng các cậu không biết đội thông báo tối nay học chính trị, không ai được vắng mặt, khiến các cậu lỡ cơ hội duy nhất phá huỷ chiếc bè.
           Người đầu têu ăn thịt thiên nga trên thảo nguyên Ơlôn là Bao Thuận Quý, nhưng là ăn trong trướng của đội săn bắt sói. Nồi thịt thiên nga hôm đó không có gia vị, mà chỉ là thịt luộc chấm muối. Tất cả đám thợ săn và Dương Khắc không ai đụng tay. Bao Thuận Quý uống rượu một mình, lão cũng chẳng có cảm giác đó là yến tiệc cung đình, thậm chí còn bảo thịt thiên nga chẳng khác thịt ngỗng nấu với ngô ở quê lão.
           Lúc này Bao Thuận Quý đã kịp mò tới bếp công trường. Đây là món ăn Hán, có đủ nguyên liệu phụ, nấu nướng cầu kỳ, lại thêm mấy chục con người tán hươu tán vượn, hót như khướu khiến lão có cảm giác và tâm trạng của bậc vương giả.
           Tiếc rằng thịt thì ít mà người lại nhiều. Bao Thuận Quý và lão Vương mỗi người ăn hết một đĩa, những người khác chẳng được mấy miếng. Tiệc thiên nga vừa tan, Bao Thuận Quý mồm miệng bóng nhẫy chủ trì buổi học chính trị, khiến mọi người nhốn nháo vì them. Vậy là quyết định ngày hôm sau trời chưa sáng lại khoác áo nguỵ trang, lại đem theo cung tên, lại vào chỗ phục kích hôm trước, để cho chắc ăn, họ còn đem theo khẩu bán tự động của Bao Thuận Quý, nếu không bắn được thiên nga thì họ bắn đại nhạn, vịt trời, gì thì gì, mọi người phải ăn một bữa thoả thích.
*
                                                               *           *
           Sáng sớm hôm sau, tiếng súng trong hồ đánh thức Dương Khắc, Trần Trận và Cao Kiện Trung. Ba người giậm chân kêu trời. Dương Khắc nổi cơn điên, phóng ngựa về phía hồ. Trần Trận nhờ Quanbu chăn cừu hộ một ngày, rồi cùng Cao Kiện Trung lên ngựa phóng theo.
           Ba người thấp thỏm đợi chiếc bè cập bến. Thảm cảnh trước mắt khiến Dương Khắc và Trần Trận như chứng kiến người thân đột tử. Lại một con thiên nga, vài con nhạn biển và vịt trời nằm lăn lóc trên bè cùng với hai quả trứng thiên nga vấy máu. Đó chính là con thiên nga cái vừa chết chồng, vì hai đứa con yêu quý chưa chào đời mà nó nán lại, chưa kịp rời bỏ cái hồ đáng sợ này. Nó bị bắn nát đầu, chết thê thảm hơn người chồng quá cố, chết trên hai đứa con một gái một trai chưa nở, máu tươi trên trứng coi như cung cấp chút hơi ấm cuối cùng cho các con.
           Dương Khắc nước mắt đầm đia, nếu cậu không đem trả  hai quả trứng, có lẽ con thiên nga đã thoát khỏi những bàn tay độc ác.
           Lão Vương lên bờ. Đám dân công, mục dân và thanh niên trí thức đã tụ tập đông đảo. Lão Vương mặt hầm hầm bảo Dương Khắc: Cậu còn định đổi mỡ cừu nữa thôi? Đừng có mà nằm mơ! Lần này thì lão sẽ đổi hai quả trừng này cho cậu Bành. Hôm qua lão đi mua bò chê cỏ gặp cậu Bành, kể chuyện cậu đổi nửa lon mỡ cừu lấy hai quả trứng thiên nga. Cậu ta bảo lão bị thiệt. Cậu ta đặt hàng, cứ mỗi quả đổi một lon mỡ cừu.
           Đang nói thì tiểu Bành hối hả xuống ngựa, cầm hai quả trứng nhét luôn vào túi xách rồi lên ngựa đi luôn.
           Đám dân công vui như tết, mang các các thứ săn được về nhà bếp. Đám mục dân nghi ngờ và phẫn nộ khi thấy những người Mông Cổ mặc y phục Hán này sao lại quá tàn nhẫn, dám ăn thịt cả đại điểu của Tăngcơli (Trời). Ông già Pilich lần đầu tiên gặp chuyện này. Giận run người, ông lớn tiếng chửi lão Vương là đồ vô lại, khinh nhờn chim thần Saman, đồ mất gốc! Ông có còn là người Mông Cổ nữa không hả? Lão Vương không chịu, cãi: Saman đã là cái thứ gì! Quê tôi ngay cả tượng Bồ Tát còn bị người ta đập nát bét, còn ông thì vẫn ôm lấy thần Saman! Lạc hậu, đập tuốt! Ông Pilich thấy đem giới luật của trời ra mà vẫn không ăn thua, vội rút quyển sách đỏ của Mao Chủ tịch in bằng chữ Mông Cổ ra, hỏi Trần Trận: Trừng trị bọn thổ phỉ này thì đọc đoạn nào? Trần Trận và Dương Khắc mãi không nghĩ ra trong ngữ lục có đoạn nào nói về trừng trị những kẻ giết chim quý.
           Đám dân công cậy đông, lại có ô dù, nên cãi nhau tay đôi với ông Pilich. Đám mục dân gầm lên xông tới. Hai bên đều là người Mông Cổ, đều là bần nông (mục) và trung nông (mục) lớp dưới, cùng dân tộc, cùng giai cấp, vậy mà không có cách nào hoà giải cuộc xung đột giữa dân tộc Mông- nông canh với dân tộc Mông – du mục. Dương Khắc và Trần Trận và một số thanh niên trí thức đứng về phía những người Mông Cổ mặc áo dài, chửi những người Mông Cổ mặc y phục Hán. Hai bên càng chửi càng hăng. Lanmutrăc vốn dữ như sói và mấy tay mã quan sắp sửa dùng đến roi ngựa thì Bao Thuận Quý đến kịp. Lão xông vào giữa đám đông, vung roi trên đầu mấy vòng, quát: Im lặng! Kẻ nào động thủ là tôi gọi Tổ chuyên chính đến tóm cổ nhốt tuốt vào lớp học. Mọi người im ngay lập tức.
           Bao Thuận Quý xuống ngựa đi đến trước mặt ông Pilich, nói: Thiên nga là cái thứ chỉ có bọn xét lại Liên Xô thích. Ở Bắc Kinh, vở diễn Hồ Thiên Nga đã bị cấm, những kẻ sắm vai chính đã bị đấu tố. Chuyện bảo vệ thiên nga ở đây mà để cho người ta biết là rắc rối đấy, thành vấn đề chính trị chứ chả chơi! Chúng ta hãy nắm khâu cách mạng đẩy mạng sản xuất. Muốn đẩy nhanh tốc độ xây dựng thì phải cho dân công ăn thịt, nhưng đại đội không cung cấp thịt cừu cho họ, buộc họ phải tự đi kiếm, vậy thì chuyện này tốt quá đi chứ!
           Bao Thuận Quý quay sang bảo mọi người: Đang vào vụ, các người ở đây làm gì? Đi làm đi!
           Mọi người giận dữ bỏ đi.
           Dương Khắc không chịu nhún. Cậu phi ngựa chạy về lều lấy ba quả nhị thanh hướng ra mặt hồ đốt cả ba. Sáu tiếng nổ vang rền khiến tất cả các loại thuỷ cầm bay tứ tán. Bao Thuận Quý tức quá, thúc ngựa chạy trở lại, dùng roi ngựa điểm mặt Dương Khắc, quát: Mi có mấy cái đầu mà dám triệt thức nhắm của ta? Đừng quên lão già phản động bố mi đang lao động cải tạo! Mi phải chịu sự giáo dục lại của bần nông và trung nông lớp dưới. Những dân công ở công trường này, cả ta nữa, đều là bần nông và trung nông lớp dưới!
           Dương Khắc cãi: Về đây, tôi chỉ chịu sự giáo dục lại của bần nông và trung nông lớp dưới.
           Ông Pilich và mấy mã quan ôm vai Trần Trận đi lên dốc. Ông Pilich nói: Vừa nãy cháu đốt pháo, bác sướng quá.
           Về sau Dương Khắc nghe nói Tiểu Bành là một tay sưu tầm vật lạ, đương nhiên hắn biết cách bảo tồn hai quả trứng thiên nga. Hắn là “bác sĩ chân đất” của đại đội. Hắn dùng kim tiêm rút hết lòng trắng lòng đỏ rồi lấy keo bịt lỗ thủng là không lo trứng bị thối, có thể bảo quản lâu dài. Hắn còn đến xưởng mộc của mục trường làm hai cái hộp bằng kính đáy lót gấm, mỗi hộp đựng một quả như một thứ hàng mỹ nghệ độc đáo, cất tận đáy hòm không cho ai biết. Vài năm sau hắn biếu hai quả trứng đó cho ông cán bộ tuyển sinh là con em công nông binh, mượn cánh thiên nga bay về Bắc Kinh, vào một trường đại học.
           Buổi chiều ngày thứ tư, Cao Kiện Trung cho bò về chuồng, bí mật nói với Dương Khắc và Trần Trận, con bò ốm lão Vương mua về đã bị sói ăn thịt, trước cửa nhà lão không xa.
           Hai người ngớ ra, Dương Khắc nói: Phải rồi, họ không có chó. Lỗ to rồi!
           Cao Kiện Trung nói: Mình đã đến xem tận nơi. Con bò buộc cách nhà hơn mười bước chân chỉ còn sót lại cái sỏ, bốn móng guốc và bộ xương. Lão Vương uất quá chửi toáng lên, nói tiền mua con bò bằng nửa tháng ăn của nhà bếp, giờ thì ăn nhạt. Cao Kiện Trung cười: Thực ra con bò này có ốm đâu, chẳng qua là trong bụng có giun, lão Vương biết nghề thú y, mua về cho uống thuốc tẩy giun, rồi lợi dụng ở đây nhiều cỏ để vỗ béo rồi mới thịt. Không ngờ mới béo lên được tí chút, sói đã xơi mất.
           Dương Khắc chì chiết: Đám lưu manh này làm gì biết cảnh giác, đêm ngủ như chết. Đàn sói Ơlôn cũng rất tinh. Chúng thoáng qua đã biết đây là dân ngụ cư mới dám ăn thịt con bò ngay trước cửa. Dương Khắc tỏ vẻ hỉ hả: Phải chăng đây là hành động coi thường bần nông và trung nông lớp dưới? Người không dám, chỉ có sói mới dám làm thế.
           Trần Trận nói: Không phải coi thường, mầ phải coi là trả thù.
           Dương Khắc thở dài: Thời buổi sung đạn, sói đựoc mấy hơi sức mà trả thù? Hồ thiên nga, mảnh đất hoang hoá cuối cùng trên thảo nguyên Mông Cổ đã thất thủ. Nếu sau này còn có dịp về Bắc Kinh, mình không dám xem vũ kịch Hồ thiên nga, hễ xem là nhớ lại nồi thịt thiên nga, cái đầu thiên nga trong bát canh tiêu ớt. Lúc sống thì quý phái cao sang là thế… Trước kia tôi cho rằng nền văn minh nông canh Trung Quốc bị các cường quốc xâm lược chà đạp, mà không ngờ văn minh nông canh lại huỷ hoại văn minh du mục cũng tàn nhẫn và tởm lợm như thế.
           Cao Kiện Trung ngắt lời: Đừng nói xa xôi, sói đã hoành hành ngay trước nhà mình, cẩn thận kéo nó thấy sói con là hai đàn cừu nhà mình đi đứt.

________Hết chương 23________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:18:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 24

Tần Mục Công… diệt 12 Nhung quốc, mở rộng đất đai nghìn dặm, trở thành bá chủ Tây Nhung. Sau khi Tây Chu bị diệt, đất cũ Tây Chu là nơi tạp cư của các tộc Nhung Địch… Văn hoá Tây Chu bị tục lệ Nhung Địch và văn hoá Thương xoá sổ. Tần áp dụng chế độ (bao gồm em kế vị anh) và văn hoá lạc hậu này, tuy đã trở thành nước lớn phía tây, nhưng bị các chư hầu Hoa Hạ coi là nước Nhung Địch, không cho dự minh ước.
                                                                          - Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên. Đệ nhất biên”

           Đêm mùa hạ trên thảo nguyên Nội Mông thoắt cái đã lạnh như cuối thu. Đàn muỗi đáng sợ trên thảo nguyên chuẩn bị triển khai những trận tập kích. Đây là một trong mấy đêm yên tĩnh cuối cùng. Đàn cừu vừa cắt trụi lông nằm sát bên nhau thong thả nhai lại nghe rào rạo như tiếng máy cắt cỏ. Nhị Lang và con Vàng chốc chốc lại ngẩng mặt lên đánh hơi không khí, sau đó dẫn Ilưa và ba con chó nhỏ đi tuần một vòng quanh đàn cừu.
           Trần Trận cầm đèn pin, đem theo một tấm thảmto bằng chiếc đệm cá nhân đến góc tây bắc đàn cừu, chọn chỗ phẳng trải thảm ra, khoác chiếc áo lông mỏng rồi ngồi xếp bằng tròn chứ không dám nằm. Từ sau khi đến bãi chăn mới, chăn cừu, gác đêm, xén lông cừu, cho sói con ăn, đọc sách ghi nhật ký, ngày dài đêm ngắn, cậu thiếu ngủ trầm trọng, chỉ cần nằm xuống là ngủ say như chết, chó sủa dữ dội đến mấy cũng không đánh thức nổi. Lẽ ra có thể tranh thủ mấy đêm còn yên tĩnh mà ngủ, nhưng cậu không dám lơ là, vì sói thảo nguyên là bậc thầy về “chớp thời cơ”.
           Sau lần tốp sói tập kích thành công con bò ốm, ba người thần kinh căng thẳng. Đàn sói ăn thịt con bò là một tín hiệu cho mục dân, rằng sói đã di chuyển từ dê vàng, rái cá, chuột sang gia súc. Dê vàng chạy như bay, rái cá càng cảnh giác, đàn sói đói không bằng lòng với vài con chuột nhép, nên chuyển sang đánh lớn. Nơi bãi chăn mới, người và gia súc chưa kịp ổn định, ông Pilich đã triệu tập mấy cuộc họp nhắc nhở mọi người không được sơ suất, phải như sói, khi ngủ nếu hai mắt nhắm thì hai tai phải dỏng lên. Thảo nguyên Ơlôn lại bắt đầu cuộc chiến giữa người và sói.
           Trần Trận ngày nào cũng quét dọn cực kỳ sạch sẽ chỗ ở của sói con, khử hết mùi phân và mùi sói, lại rải lên một lớp đất mỏng. Làm vậy không những giữ vệ sinh cho sói, bảo đảm sói con khoẻ mạnh, mà quan trọng hơn, không vì hơi hướng sói con mà lộ mục tiêu.
           Gần đây Trần Trận thường nghiền ngẫm những tình tiết từ sau khi đem sói con từ ổ sói trở về, nghĩ đau cả đầu. Cậu cảm thấy bất cứ khâu nào cũng có vấn đề và sói mẹ có thể phát hiện. Thí dụ ở khu lều trại cũ, sói mẹ có thể đánh hơi thấy mùi nước tiểu sói con. Đêm nào cậu cũng lo đàn sói tập kích tắm máu đàn cừu, cướp đi sói con. Điều mừng duy nhất là trên đường đi vào bãi chăn mới, cậu nhốt sói con trong chiếc thùng đựng phân khô, không cho sói xuống xe lần nào, cho nên không để lại dấu vết trên đường. Cho dù sói con để lại hơi ở khu lều cũ, nhưng sói mẹ không biết sói con chuyển đi đâu.
           Trong không khí có mùi sói, ba con chó choai chạy tới bên Trần Trận, cậu vuốt ve từng con. Con Vàng và con Ilưa cũng chạy tới, mong được chủ nhân ve vuốt. Chỉ Nhị Lang là trung thành với chức phận, vẫn tuần tra mạn tây bắc đàn cừu. Nó hiểu sói hơn tất cả những con chó bình thường, luôn cảnh giác như sói.
           Gió đêm mỗi lúc một lạnh, đàn cừu càng nhích lại gần nhau, thu hẹp một phần tư bãi nghỉ. Ba con chó choai rúc trong vạt áo dài Trần Trận. Quá nửa đêm về sang, trời tối đến nỗi Trần Trận không nhìn thấy con cừu trắng nằm bên. Gió đã lặng, nhưng khí lạnh càng đậm đặc. Trần Trận đuổi những con chó trở về vị trí của nó, rồi cậu đứng lên quấn chặt áo dài, cầm đèn pin đi tuần quanh đàn cừu hai vòng.
           Trần Trận vừa trở lại ngồi lên tấm thảm, dốc núi gần đó vọng lại tiếng sói tru thảm thiết, dài lê thê, run run và ngắt từng quãng ngắn, âm thanh thuần chất, mạnh mẽ, tròn và sắc như xuyên thủng màng nhĩ. Dư âm chưa dứt, từ ba phía đông nam bắc có những tiếng tru đáp lại trầm trầm, lan xa trong khe, dưới thung lũng, trên mặt hồ rồi hoà vào tiếng gió rung cây sậy loạt soạt, thành bản hợp xướng tiéng sói gào và tiếng lau sậy vi vu trước gió, khiến Trần Trận cảm thấy lạnh cứng như đang ở Sibia.
           Đã lâu, Trần Trận chưa nghe bản hợp ca của bầy sói trong đêm khuya tĩnh mịch. Cậu bất giác rùng mình cuộn chặt áo dài, nhưng hình như vẫn có cảm giác những âm thanh sắc lạnh như lọt qua kẽ nứt của băng, qua lần vải áo xuyên thấu da thịt, từ đỉnh đầu tới đốt xương cùng. Trần Trận quờ tay ôm con Vàng vào long mới cảm thấy có chút hơi ấm.
           Khúc dạo đầu trầm đục và dài lê thê vừa chấm dứt, bản hợp ca giọng nam cao của mấy con sói gộc nổi lên. Lần này thì chó của đại đội sủa đồng loạt. Chó lớn chó bé xung quanh Trần Trận đều hướng về phía tây bắc, đứng vòng ngoài đàn cừu, sủa như điên. Nhị Lang lúc đầu thì vừa sủa vừa chạy về phía có tiếng sói gào, nhưng chỉ lát sau, sự đàn sói chặn mất đường về, nó dừng lại ở đoạn đàn cừu đối mặt với đàn sói không xa, tiếp tục sủa. Lều trại của đại đội trải dài như con mãng xà trên triền núi dọc theo thung lũng, đều loé lên ánh đèn pin, hơn một trăm con chó của đại đội sủa râm ran trong nửa giờ mới tạm lắng.
           Đêm càng tối, khí lạnh càng đậm đặc. Chó vừa ngừng sủa, thảo nguyên im ắng tới mức nghe rõ tiếng lá xào xạc. Lát sau, con sói lĩnh xướng bắt đầu bản hợp ca thứ hai. Ngay lập tức, từ ba mặt bắc, tây, nam nổi lên tiếng tru dày đặc như ba bức tường âm thanh dựng lên bao vây khu lều trại, áp đảo hoàn toàn tiếng chó sủa. Toàn bộ chó của đại đội kêu như bị chọc tiết, đám phụ nữ gác đêm cầm đèn pin quét loạn về phía sói, miệng la: A…ha! U…hu! Ơ…hơ!... Tiếng la sắc nhọn từng đợt như song áp đảo đàn sói. Giọng ca của các ca sĩ thảo nguyên có lẽ được luyện từ những trận la hét đuổi sói ban đêm.
           Chó cậy gần nhà, lũ chó lớn sủa càng dữ. Tiếng sủa, tiếng gào, tiếng gừ, tiếng rít ư ử, tiếng sủa khiêu khích, tiếng sủa uy hiếp của chó thành một mớ âm thanh hỗn độn như tiếng trống trận, không phân biệt được rành rẽ từng âm. Gay go căng thẳng, long trời lở đất, như một trận huyết chiến sắp sửa nổ ra, các loại chó dữ, chó săn, chuẩn bị sẵn sàng xuất kích, quyết một trận sống mái.
           Trần Trận cũng gân cổ lên mà gào thét quát tháo, nhưng tiếng cậu ồ ồ như bò rống, thua xa tiếng thét lanh lảnh của đám phụ nữ.
           Đã lâu lắm thảo nguyên chưa xảy một trận chiến âm thanh và ánh sáng điện quy mô lớn như thế. Lều trại nơi bãi chăn mới rất tập trung, khiến cuộc phản kích bằng âm thanh và ánh đèn pin so với nơi ở cũ càng dầy đặc, càng quyết liệt. Và cũng đem lại cho thảo nguyên, cho phiên gác đêm đơn điệu một không khí chiến đấu ồn ào. Trần Trận nhất thời lấy lại tinh thần. Cậu nghĩ, giả dụ thảo nguyên không có sói, các dân tộc thảo nguyên sẽ trở nên uỷ mị và trung nguyên chắc chắn sẽ gánh chịu hậu quả: Dân tộc Hoa Hạ sẽ không cần xây dựng trường thành nữa, như vậy thì dân tộc Hoa Hạ đã sớm diệt vong trong vũng nước tù vì không còn nạn ngoại xâm.
           Tiếng tru của đàn sói đã bị lấn át. Cách bố trí lều trại của ông Pilich và ông Ulichi rất hữu hiệu, thế trận vững chắc, lều trại kiên cố, đàn sói rất khó hạ thủ.
           Trần Trận chợt nghe thấy tiếng xích sắt leng keng, vội chạy tới chỗ sói con. Sói con tránh nắng, tránh ánh sang, tránh người suốt một ngày trời, giờ đang nhe nanh múa vuốt nhảy như choi choi. Nó tỏ ra phấn khích cao độ trước trận chiến người- sói- chó- âm thanh- ánh sáng đèn pin. Nó nhảy liên tục, không ngừng lao tới cắn xé kẻ thù giả tưởng, chỉ tiếc không dứt đứt được xích sắt, lao vào cuộc chiến. Sói con nóng ruột thở phì phò chỉ sợ lỡ cơ hội tham chiến, khó chịu hơn khi không cướp được thịt.
           Sói ưa thích bóng đêm, tối đến, sức mạnh toàn thân sói bột phát; Sói ưa thích chiến đấu, tối đến, những xung động về tâm lý cầu chiến phát tiết ra ngoài. Đêm tối là thời gian sói quậy phá, ăn từng miếng to, uống từng ngụm lớn, xé xác con mồi. Nhưng sợi xích đã giữ sói con trong một không gian chật hẹp, khiến tính hiếu chiến, tính ưa đánh đêm bẩm sinh của nó càng sôi sục. Nó như một chiếc nồi áp suất bịt chặt lỗ thoát hơi, lúc nào cũng có thể nổ tung. Không dứt đứt cái xích, nó phát điên. Ý muốn tham chiến mãnh liệt khiến nó co rúm lại rồi bật lên như một quả bóng, chạy như điên quanh chuồng, vừa chạy vừa vồ con mồi tưởng tượng vừa cắn gió. Có lúc nó đột nhiên dừng lại tiếp theo là một cú vồ, tiếp theo nữa là một cú lộn vòng, rồi sau đó là khợp, xé, lắc, làm như đã chộp được con mồi bằng xương bằng thịt, rồi như đang cắn vào chỗ chí mạng cho con mồi chết hẳn.
           Lát sau, nó lại nhìn trân trân về phía bắc, sốt ruột dỏng tai nghe, hễ có động tĩnh là lại điên cuồng cắn xé. Bản năng chiến đấu của sói con bị không khí chiển tranh kích thích cao độ,nó gần như không phân biệt địch ta, cứ thấy có đánh nhau là xông vào, còn nhào vào bên nào nó không quan tâm, cắn chết một con chó hay một sói con, nó đều thích.
           Sói con trông thấy Trần Trận liền nhào tới nhưng bị vướng xích, nó lùi lại mấy bước chờ Trần Trận đi lại gần. Trần Trận hơi sợ. Cậu tiến lên một bước, vừa ngồi xuống liền bị nó vồ lấy gối như hổ vồ mồi. May mà Trần Trận đã phòng bị trước, vội dùng đèn pin đẩy mũi con sói ra. Cậu hơi buồn, con sói bị tù túng quá, khổ thân nó!
           Đàn chó của đại đội lại sủa ran, có lúc chạy tới chỗ sói con, nhưng lại chạy lên mạn bắc, coi như không biết có sói con ở đấy. Ba con chó cún nghiễm nhiên chính thức tham chiến, sủa anh ách, rên ư ử, khiến sói con giận run lên. Bản tính, lòng tự trọng, ý thích tham chiến của nó bị coi thường, bị tổn thương chỉ Trần Trận mới hiểu. Cậu đoán đêm nay sói con sẽ tham chiến bằng mọi giá, dứt khoát không chịu đứng ngoài.
           Sói con ngoẹo đầu nghe tiếng sủa đầy nam tính của chó lớn, suy nghĩ hồi lâu, nó chợt nhận ra nó không thể sủa như chó thì kém quá. Đây là lần đầu tiên nó có ý nghĩ như thế. Nhưng sói con mong muốn lập tức thoát khỏi cảnh ngộ này. Nó há miệng, rõ rang là định bắt chước tiếng chó sủa. Trần Trận hơi bị bất ngờ. Cậu ngồi xổm, quan sát sói con bằng ánh mắt tò mò. Sói con liên tục nhịn hơi lấy hơi, há miệng ngậm miệng, thót bụng phình bụng, mất bao công phu mà chỉ rặn ra được mấy tiếng khè khè quái gở, không thể sủa “gâu gâu” hoặc “óc óc” như chó. Sói con nổi hung, lại nhái những cử chỉ của chó, kết quả chỉ bật ra những tiếng chẳng phải của chó chẳng phải của sói, khiến nó tức giận càng lồng lộn.
           Trần Trận nhìn bộ dạng kỳ quặc của sói con mà buồn cười. Nó chưa biết tru mà đã định sủa như chó thì khó cho nó quá. Tuy sói và chó có cùng tổ tiên, nhưng cả hai tiến hoá ngày càng xa nhau. Đa số chó bắt chước được tiếng tru của sói, nhưng sói chưa bao giờ học tiếng sủa của chó, có lẽ sói lớn không thích tiếng sủa của chó. Vậy mà lúc này, sói con lớn lên trong tiếng chó sủa lại muốn học tiếng sủa của chó. Nó vẫn chưa biết thân phận của nó, thật đáng thương!
           Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, sói con vẫn không từ bỏ ý định học tiếng chó. Trần Trận cúi xuống ghé tai sói con nhái một tiếng sủa thật to. Sói con hiểu “ông chủ” muốn dạy nó, ánh mắt đang đần thổi bỗng chuyển sang hung dữ vì ngượng. Nhị Lang chạy tới bên sói con, thong thả sủa từng tiếng, kiên nhẫn như một nhà sư phạm. Đột nhiên Trần Trận nghe thấy từ họng con sói phát ra tiếng “âu… âu!” tiết tấu thì đúng nhưng vẫn không thành tiếng “gâu!” Con sói phấn khởi nhảy lên liếm mặt Nhị Lang. Sau đó cứ cách sáu bảy phút, sói con lại phát ra tiếng “âu… âu!” khiến Trần Trận cười nôn ruột.
           Tiếng kêu quái gở không phải sói không phải chó khiến lũ chó cún đổ xô lại xem, đàn chó lớn cũng khành khạch cười giễu. Trần Trận cười đến gập người lại, mỗi khi sói con “âu…âu!”, cậu lại đế “đâu đâu”…
           Sói con hình như biết người và chó cười giễu, nên nó càng cuống, lũ chó cún đứng vây quanh xem nó lăn lộn. Vài phút sau, chó của đại đội đều ngừng sủa. Sói con không có chó lĩnh xướng,lại kêu.
           Tiếng chó sủa vừa dứt, từ ba phía núi liền vọng lại tiếng sói tru. Cuộc chiến âm thanh và thần kinh giao phong bốn năm chục hiệp, cuối cùng người và chó đều mệt lử. Đàn sói rất giỏi lặng lẽ tập kích, ngay cả lúc xung phong cả tập đoàn mà vẫn im lặng như tờ, vậy mà đêm nay chúng khua chiêng gõ trống, hò hét ầm ĩ, rõ rang là hư trương thanh thế, không có ý công kích thật sự. Ba phía núi một lần nữa vọng lại tiếng sói tru, tiếng người thì đã dừng, đèn pin đã tắt hết, ngay chó cũng sủa lấy lệ, vậy mà tiếng sói tru mỗi lúc một gay gắt. Trần Trận cảm thấy trong chuyện này có âm mưu gì đó lớn hơn, có thể đàn sói phát hiện phòng tuyến người và chó quá đông, nên áp dụng chiến thuật tiêu hao sức lực, đợi khi người và chó mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác, chúng mới tập kích. Có thể trận chiến âm thanh nhằm tiêu hao sức khoẻ còn tiếp diễn nhiều đêm nữa. Trần Trận nhớ tới chiến thuật đánh du kích của Bát lộ quân “địch ở ta quấy”, lại còn đốt pháo tép trong thùng sắt tây giả làm súng liên thanh uy hiếp kẻ địch. Nhưng những chiến thuật này, sói đã nắm vững cách đây hàng vạn năm.
           Trần Trận nằm xuống thảm, bảo con Vàng nằm xuống rồi gối đầu lên. Không một tiếng người la chó sủa, cậu có thể lắng nghe và phân tích âm tố âm điệu trong tiếng tru để hiểu ngôn ngữ sói. Lên thảo nguyên, Trần Trận rất mê tiếng tru của sói. Tiếng tru của sói đối với dân tộc Hoa Hạ thực khủng khiếp, cư dân trung nguyên hễ nghe thấy tiếng tru là kinh hồn tang đởm, đến nỗi người Trung Quốc thường ví “quỷ khóc” với “sói gào”. Lên thảo nguyên Trần Trận đã quen với tiếng tru của sói, nhưng cậu vẫn không hiểu vì sao nó lại thê thảm đến thế. Nó như tiếng khóc nỉ non của người phụ nữ dưới xuôi mất chồng. Trần Trận ngay từ lần nghe đầu tiên đã cảm thấy lạ, vì sao người hùng trên thảo nguyên dũng mãnh có thừa, mà trong lòng sao lại đau khổ xót xa đến thế? Chẳng lẽ do cuộc sống trên thảo nguyên quá khó khăn, sói bị chết đói chết rét, bị bắt bị giết quá nhiều, nên mới khóc thương số phận đến thế? Trần Trận đã từng nghĩ rằng, con sói bề ngoài có vẻ hung hãn, thực ra nó rất mềm yếu.
           Nhưng hơn hai năm đối mặt với sói, nhất là trong nửa năm nay, Trần Trận dần bỏ cái nhìn trước kia. Cậu cảm thấy, so với những người gan dạ nhất, sói còn gan dạ hơn. Sói thường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, thà chết không chịu cúi đầu khuất phục. Trong từ điển nhà sói không có từ mềm yếu. Sói mẹ mất con, sói đực trọng thương cụt chân cụt ngón, nỗi đau tạm thời càng làm cho sói điên cuồng hơn, chỉ đợi có dịp là trả thù. Trần Trận nuôi sói con đã được mấy tháng, càng chứng minh điều đó. Cậu chưa từng thấy sói con uỷ mị, trừ phi mỏi mệt thực sự, còn thì lúc nào cũng mắt nẩy lửa, tinh thần phấn chấn, nhanh nhẹn hoạt bát. Tuy bị mã quan xiết cổ suýt mất mạng, nhưng chỉ lát sau, nó đã đầy sức sống như cũ.
           Lắng nghe hồi lâu, Trần Trận cũng nhận ra ý tứ doạ giẫm trong tiếng tru, nhưng vì sao lại dùng cái giọng thê thảm để doạ giẫm? Gần đây, đàn sói không bị thiên tai nhân hoạ đả kích, hình như không phải nguyên nhân do đau thương. Chẳng lẽ như một số mục dân đã nói, con sói than khóc cho số kiếp của người và gia súc, khiến con người rùng mình sởn gáy, chưa đánh đã thua? Sói thảo nguyên hình như còn nắm được tư tưởng chiến lược giành thắng lợi bằng cách làm cho quân địch ngã long, hoặc khủng bố tinh thần. Cách nói này tuy có lý đôi chút, nhưng vì sao khi gọi đàn, tìm bạn, tổ chức chiến dịch, báo tin cho thân hữu ở một nơi xa, chào hỏi gia tộc hoặc chia chác vật săn được sói đều dùng cái giọng khóc ấy? Rõ ràng là không lien quan đến tâm lý.
           Vậy thì vì nguyên nhân gì con sói tru như khóc? Dòng suy tưởng như chiếc dùi khoan sâu vào vấn đề còn nghi vấn. Cậu  nghĩ, con sói hung hãn tuy có lúc đau thương, nhưng không phải bất cứ lúc nào, ở đâu và bất cứ tâm trạng vui buồn hờn giận nào cũng “khóc”. “Khóc” không phải giọng điệu cơ bản trong tính cách sói.
           Nghe đến quá nửa đêm tiếng tru của sói, đầu óc Trần Trận ngày càng sáng ra, thường thì so sánh và đối chiếu là chìa khoá giải mật. Cậu bỗng nhận ra có sự khác biệt trong tiếng sói tru và tiếng sủa của chó. Cậu thấy chó sủa tiếng ngắn, còn sói thì tru dài, hiệu quả khác hẳn: Tiếng tru vang xa hơn tiếng sủa. Tiếng chó sủa vọng lại từ đoạn cực bắc của đại đội nghe không rõ bằng tiếng tru của sói gần đó. Phía đông, Trần Trận vẫn nghe thấy mơ hồ tiếng sói tru, nhưng tiếng chó sủa thì tuyệt nhiên không nghe thấy. Tiếng chó sủa không vang xa đến thế.
           Trần Trận dần ngộ ra một điều: Sở dĩ sói lấy khóc làm giai điệu chính cho tiếng tru, vì rằng diễn tiến tự nhiên hàng triệu năm khiến đàn sói phát hiện ra, kéo dài giọng khóc là có thể truyền âm đi rất xa, rất rộng và rất rõ trên thảo nguyên, giống như “gần nghe sáo, xa nghe tiêu”, tiếng sáo lảnh lói không thể lan xa bằng tiếng tiêu trầm đục. Kỵ binh thảo nguyên thời xưa dùng tù và truyền lệnh, hoặc tiếng chuông chùa ngân xa là có lý do của nó.
           Sói thảo nguyên rất giỏi cơ động đường dài, phân tán trinh sát, tập trung công kích. Sói là loại mãnh thú tác chiến bầy đàn trên phạm vi rộng. Để tiện liên lạc trên cự li rộng, sói chọn tín hiệu liên lạc tiên tiến nhất trên thảo nguyên. Chiến tranh tàn khốc rất coi trọng hiệu quả thực tế, còn như khóc hay cười, êm tai hay khó nghê, sói không bận tâm. Quân đội hùng mạnh cần phương tiện thông tin tiên tiến; phương tiện thông tin tiên tiến tăng cường sức mạnh quân đội. Có thể ngày xưa đàn sói đã sử dụng tiếng tru làm phương tiện thông tin tiên tiến trên thảo nguyên nên mới tăng cường sức chiến đấu, trở thành lực lượng quân sự lớn nhất sau con người, đuổi sạch những cá thể to lớn như hổ báo gấu đi nơi khác.
           Trần Trận lại nghĩ, một trong những nguyên nhân chó được người thuần dưỡng, có lẽ vì thời thượng cổ, thông tin của chó lạc hậu, do đó bị sói đánh bại, đành phải ăn nhờ con người. Ý thức độc lập tự do của sói, tính cách dũng mãnh ngoan cường của sói được xây dựng trên cơ sở bản lĩnh siêu mạnh đó. Người cũng vậy, một dân tộc bản lĩnh không cao, tính cách không mạnh, lại muốn độc lập tự do, dân chủ giàu mạnh thì chỉ là không tưởng. Trần Trận bất giác thở dài nghĩ thầm: Tài giỏi nên có gan, có gan nên càng tài giỏi. Thảo nguyên gợi mở và cung cấp bao nhiêu là bài học cho con người. Xem ra, kỵ binh thảo nguyên từng càn quét thế giới, họ cũng được sói gợi mở về thủ đoạn thông tin: Tiếng tù và lê thê trên chiến trường xưa từng tập hợp bao nhiêu kỵ binh thảo nguyên, phát lệnh chiến đấu cho biết bao cuộc chiến?
           Tiếng tru của sói thưa dần, đột nhiên tiếng tru của con sói miệng còn hơi sữa từ chuồng cừu vọng tới. Trần Trận giật thót, tưởng sói đã bít đường rút của đàn cừu. Nhị Lang dẫn toàn bộ số chó chạy đi. Trần Trận lồm cồm bò dậy, cầm gậy và đèn pin chạy theo. Đến trước lều, cậu thấy Nhị Lang và tất cả chó lớn chó bé vây quanh chuồng sói con, gầm gừ nhìn sói con kinh ngạc.
           Trong quầng sang của đèn pin, Trần Trận nhìn thấy sói con ngồi xổm bên cọc, mũi nhọn hếch lên trời mà tru, tiếng tru phát ra từ cái họng bé tí của nó. Sói con đã biết tru rồi sao? Đây là lần đầu tiên Trần Trận nghe sói con tru, cậu cứ tưởng con sói trưởng thành thì mới biết tru, không ngờ con sói chưa đến bốn tháng tuổi mà đã phát ra tiếng “hu…u…”, âm thanh và động tác hoàn toàn giống con sói hoang dã. Trần Trận vui sướng ôm sói con vào long, thơm nó một cái. Nhưng cậu không muốn cắt đứt niềm vui của sói con và cũng muốn nghe thật gần tiếng ca của sói con yêu quý của cậu. Cậu xúc động hơn ông bố trẻ lần đầu nghe đứa con yêu quý cất tiếng gọi “bố”. Không đừng được, cậu vuốt ve sói con, sói con vui sướng liếm tay cậu, sau đó lại tiếp tục bài ca.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:18:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 24 (tiếp)

Lũ chó đâm ra hồ đồ, không biết nên cắn chết hay chặn đứng con sói lại không cho tru. Trên cùng trận tuyến bảo vệ đàn cừu, lũ chó đột nhiên nghe tiếng tru, vậy là đội ngũ chó rồi loạn. Chó nhà Quanbu cũng ngừng sủa, có mấy con còn chạy sang lều Trần Trận để xem cho rõ thực hư và chuẩn bị chi viện. Chỉ có Nhị Lang vui vẻ đến ben sói con liếm đầu nó rồi nằm xuống bên cạnh nghe nó hát. Con Vàng và con Ilưa giận dữ trừng mắt nhìn sói con. Lúc này, sói con từng ăn ở cùng lũ chó ba bốn tháng trời, bỗng không khảo mà xưng, hiện nguyên hình là sói chứ không phải là chó, hoàn toàn giống những con sói hoang dã vừa khẩu chiến với đàn chó. Con Vàng và con Ilưa thấy chủ vuốt ve con sói thì chỉ bực chứ không dám can thiệp. Mấy con chó nhà hàng xóm thấy cảnh chung sống hoà bình giữa người, chó và sói thì không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, chỉ giương mắt nhìn nghi hoặc, không hiểu rốt cuộc là sói hay là chó. Chúng ngoẹo đầu nhìn con vật cổ quái hồi lâu rồi lặng lẽ bỏ đi.
           Trần Trận ngồi xổm bên con sói nghe nó tru, quan sát tỉ mỉ từng động tác tru của nó. Cậu nhận thấy khi bắt đầu tru, con sói hếch mũi lên trời. Cậu hân hoan thưởng thức dư âm mượt mà lan xa mãi, chẳng khác con lợn biến ló cái mũi dài lên mặt biển lặng, tạo nên những gợn sóng lan ra tứ phía. Trần Trận chợt hiểu, con sói hếch mũi lên trời là để sóng âm đi xa, chỉ có chĩa thẳng mũi lên trời mới khuếch tán được sóng âm đều khắp cả bốn phương tám hướng dòng họ nào cũng nghe thấy. Tiếng tru như khóc và âm thanh kéo dài là sự sáng tạo của sói để thích ứng với thực tiễn sinh tồn và dã chiến trên thảo nguyên. Sói thảo nguyên tiến hoá hoàn mỹ như thế, thành công như thế, xứng đáng là kiệt tác của Tăngcơli (Trời). Tù và của kỵ binh thảo nguyên, đầu thoát hơi cũng chĩa thẳng lên trời. Âm thanh kéo dài và động tác chĩa tù và lên trời hoàn toàn giống sói. Chẳng lẽ đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Xem ra người thảo nguyên cổ xưa nghiên cứu rất sâu nguyên nhân vì sao âm điệu và tư thái của sói phải như thế. Sói thảo nguyên đã dạy cho người thảo nguyên khá nhiều bản lĩnh.
           Trần Trận máu nóng sục sôi trong huyết quản. Trong hoàn cảnh du mục nguyên thuỷ, ở một nơi tận cùng của thảo nguyên Nội Mông trước đây chưa hề in dấu chân người mà cậu có thể vỗ lưng con sói nghe nó hát. Ngồi kề bên con sói để nghe tiếng tru thì quả là rõ, mềm mại, tròn trĩnh, trơn tru và trong vắt, tuy vẫn theo tiêu chí của tiếng tru, nhưng tuyệt nhiên không chút bi thương. Trái lại, sói con tỏ ra hưng phấn lạ thường, nó vô cùng xúc động vì chất giọng của nó, cao vút, âm sau dài hơn âm trước. Sói con như một ca sỹ lần đầu lên sân khấu đã thành công, lần nữa không chịu rút lui.
           Tuy mấy tháng gần đây, sói con luôn có những chuyện khiến Trần Trận giật mình, vậy mà lúc này cậu vẫn bị kinh ngạc thật sự. Sói con bắt chước tiếng chó sủa không được, chuyển sang học tiếng tru của sói, thành công liền. Nhưng bắt chước tiếng tru thì có thể mô phỏng bầy sói, còn tru dài thì tư thế học ở ai? Thảo nguyên trong đêm, sói con không thể nhìn thấy sói lớn trong tư thế tru dài như thế nào. Vậy mà nó không học cũng biết. Sói con bắt chước tiếng chó sủa cực kỳ khó khăn, học tiếng sói tru thì như có phép thần thông, loáng cái đã học được. Đó là do nó mang sẵn chất sói. Sói con từ con đường tắt học tiếng chó sủa, nay trở về với thế giới loài sói. Nó không tru lên thì thôi, tru lên là khiến người kinh hoàng. Nó lớn rồi, từ nay nó sẽ trở thành một con sói thực thụ. Trần Trận vui mừng không kể xiết.
           Thế nhưng, cùng với tiếng tru ngày càng thành thục, cao vút, vang xa, Trần Trận chợt thấy nhói một cái như bị con sói cào trúng. Thanh la trộm về không dám gõ cho kêu, nhưng sói con bắt về nuôi lén thì lại tự “gõ” cho kêu lên, chỉ e không ai biết đến mình. Trần Trận than thầm: Cha nội! Mày không biết có bao nhiêu người và chó muốn đập chết mày không? Có bao nhiêu sói mẹ muốn cướp lại mày không? Để tránh mặt người, mày đào một cái hang, ẩn mình dưới đó, vậy là tru lên một tiếng, tất cả công lao đổ xuống sông xuống biển? Thế là tự sát, mày có biết không? Nhưng nghĩ lại, Trần Trận nhận ra rằng, sói con không nề nguy hiểm mà tru lên, chắc hẳn gọi bố mẹ nó đến cứu. Sau khi phát ra tiếng nói của chính nó, sói con theo bản năng ý thức được thân phận của mình. Nó không phải con chó sủa “gâu gâu”, mà là một thành viên trong những “bóng đen” lang thang tru dài trên đồng cỏ. Trần Trận toát mồ hôi lạnh, cảm thấy sức ép ghê gớm từ phía sói và phía người.
           Đột nhiên sói con vận hết hơi sức toàn thân tru một tiếng dài.
           Về tiếng tru của sói con, vì trở tay không kịp, mọi người, đàn chó, đàn sói phía xa không kịp phản ứng. Trong lúc vội vàng, vẫn là đàn sói phản ứng nhanh nhất. Khi tiếng tru thứ ba thứ tư cất lên, đàn sói lập tức im bặt, có con đang tru vội cắt đứt tiếng ngân, nuốt trở lại bụng như nấc cụt.
           Trần Trận đoán rằng, đám sói chúa, sói già, sói đầu đàn và sói mẹ trên thảo nguyên chưa bao giờ nghe thấy tiếng sói tru chính hiệu nổi lên từ lều trại của người. Cậu có thể hình dung mức độ kinh hoàng của đàn sói, có thể chúng nghĩ: Chẳng lẽ có một sói con nào đấy không nghe lệnh dám tự ý xông vào lều trại của người? Không phải thế, thường thì con sói đó lập tức bị chó dữ xé xác. Nếu vậy sao không nghe thấy nó kêu thảm thiết, mà có vẻ vui mừng tru mãi không thôi.
           Vậy chẳng lẽ không phải sói con, mà là một con chó tru tiếng sói? Trần Trận thử dịch địa vị của sói mà suy đoàn. Nhưng họ hàng nhà sói chưa khi nào nghe tiếng chó sủa mà như tiếng tru của sói chuẩn xác, tinh tế, chỉ sói mới có thể. Chẳng lẽ người nuôi sói con? Nhưng xưa nay chỉ có chuyện sói nuôi người, không có chuyện người nuôi sói. Cứ cho là người nuôi sói, vậy con sói đó là con nhà nào? Dạo mùa xuân, người và chó đã bắt đi rất nhiều sói con, khi đó chúng chưa biết tru, nên các sói mẹ không thể phân biệt nó là con cái nhà ai?
           Đàn sói rõ rang là lúng túng và mất khả năng phân tích. Trần Trận đoán chúng đang mắt tròn mắt dẹt không nói lên lời. Hành vi ngang ngược của một thanh niên trí thức đến từ Bắc Kinh, khiến các sói đầu đàn ngớ ra. Nhưng sớm muộn đàn sói sẽ nhận ra đó là một con sói thực thụ. Những sói mẹ mất con vào mùa xuân còn hi vọng tìm thấy và cướp lại con trong cái nóng như lò của thảo nguyên. Sói con đột nhiên tự bộc lộ, khiến sự việc mà Trần Trận quan tâm nhất, cuối cùng hiện ra trước mắt.
           Đợt phản ứng thứ hai về tiếng tru của sói con là của đàn chó đại đội. Đàn chó bắt đầu nghỉ ngơi, nghe thấy tiếng tru từ nội bộ khu lều trại, chắc vô cùng kinh hoảng, cho rằng đàn sói thừa cơ người và chó mỏi mệt, tập kích đàn cừu nhà ai đó, vậy là toàn thể chó của đại đội sủa vang. Hình như chúng hổ thẹn đã để xảy ra sơ suất, nên có bao nhiêu hơi sức vận ra bằng hết, sủa như điên, sủa lộn tùng phèo thảo nguyên lúc gần sáng. Đàn chó quyết một trận sống mái, đánh động cho các chủ nhân, rằng đàn sói đang tấn công trên tất cả các mặt, mau cầm lấy súng mà đối phó.
           Phản ứng chậm chạp nhất là người. Hầu hết số phụ nữ gác đêm đều đã ngủ vùi không nghe thấy tiếng tru của sói con. Họ bị tiếng sủa khác thường của đàn chó đánh thức, tiếng hò lảnh lói bắt đầu rộ lên, ánh đèn pin loang loáng chiếu lên trời và trên sườn núi. Không ai ngờ đàn sói lại tấn công trước khi đàn muỗi về.
           Trần Trận gần như bị choáng trước sóng âm của bầy chó. Cậu đã tự rước hoạ vào thân. Cậu không biết sáng ra sẽ ứng phó với sự chỉ trích của toàn thể đại đội như thế nào.Cậu rất sợ một số mục dân sẽ quăng con sói của cậu lên trời. Con sói vẫn không ngừng tru, sung sướng như đang ăn một cái tết của tuổi thanh niên. Và nó vẫn chưa chịu kết thúc, sau khi uống mấy ngụm nước cho trơn họng, nó hào hứng tru tiếp. Màu đen kịt trên trời đã nhạt, những phụ nữ không gác đêm đã dậy vắt sữa. Trần Trận vội ôm con sói, tay trái bóp chặt cái mõm dài của nó không cho tiếng phát ra. Con sói không chịu để con người coi thường, quẫy mạnh bằng tất cả sức lực để giằng ra. Nó đang lớn, Trần Trận không ngờ nó lại khoẻ đến thế, một tay cậu không đè nổi nó, còn tay kia bóp mõm thì không dám bỏ ra. Lúc này mà bỏ tay ra, chắc chắn bị nó đớp.
           Con sói chống cự điên cuồng. Nó trở mặt không nhận Trần Trận là người quen, hai mắt long sòng sọc, đồng tử vàng choé như hai mũi dùi đồng. Không gỡ được mõm khỏi tay Trần Trận, con sói bắt đầu cào cấu, quần áo Trần Trận bị xé rách, mu bàn tay phải bị cào chảy máu. Trần Trận đau quá gọi Dương Khắc. Cửa mở, Dương Khắc chân trần chạy ra, hai người cố sức đè con sói xuống đất, nó thở phì phò, hai chân cào đất thành hai hố nhỏ.
           Mu bàn tay Trần Trận rỉ máu. Hai người đành một…hai…ba đồng thời buông tay rồi nhảy ra khỏi chuồng. Sói con không chịu bỏ cuộc, chồm tới nhưng bị chiếc xích giữ chặt. Dương Khắc chạy vội vào trong lều lấy bông băng và bạch thược Vân Nam ra bôi thuốc và băng bó vết thương cho Trần Trận. Cao Kiện Trung cũng bị tiếng ồn đánh thức, cậu bước ra ngoài, giận dữ chửi: Sói nào mà chẳng bạc ác! Cậu ngày nào cũng hầu hạ nó như hầu hạ quan lớn, vậy mà nó còn cắn cậu. Cậu không dám ra tay thì để đấy cho tôi, lát nữa tôi sẽ hoá kiếp cho nó.
           Trần Trận vội xua tay: Đừng, đừng! Lần này không phải lỗi tại nó. Mình bóp miệng nó, nó không cáu sao được?
           Trời rạng sang, sói con vẫn chưa thoả dạ, nó nhảy như choi choi, thở phì phò, chốc chốc lại ngồi xuống mép chuồng ngó về phía tây bắc, ngửa mặt hếch mũi lên trời định tru tiếp. Nào ngờ sau trận vật lộn, sói con đã quên mất tiếng tru mới học, rặn mãi không ra, kết quả lại bật ra những tiếng “âu…âu”. Nhị Lang thích thú vẫy đuôi. Ba người cũng vui vẻ không kém. Thẹn quá hoá giận, sói con nhằm bố nuôi Nhị Lang mà nhe răng nhe lợi.
           Trần Trận đâm lo: Sói con đã biết tru hệt như sói hoang dã, mọi người đều nghe thấy hết, chắc chắn sẽ rất phiền toái, làm thế nào bây giờ?
           Cao Kiện Trung kiên trì bảo lưu ý kiến của mình: Giết luôn nó đi, nếu không đêm nào đàn sói cũng vây quanh đàn cừu mà tru, lại thêm hơn một trăm con chó sủa thì ngủ sao được? Nếu chúng bắt cừu thì buộc phải di chuyển thôi.
           Dương Khắc nói: Không giết, chúng mình bí mật thả, bảo nó cắn đứt xích bỏ chạy.
           Trần Trận nghiến chặt hai hàm răng, nói: Không giết mà cũng không thả! Giữ được ngày nào hay ngày ấy. Muốn thả cũng không thể thả ngay bây giờ. Bên ngoài khu lều trại toàn là chó của các gia đình khác, thả ra là bị chúng cắn chết. Những ngày này, cậu chăn cừu ban ngày, mình canh gác ban đêm, còn ban ngày mình trông sói con.
           Dương Khắc nói: Đành vậy thôi. Nếu đại đội ra lệnh dứt khoát phải giết sói con thì ta lập tức thả cho nó đi. Đem nó đến một nơi thật xa không có chó hãy thả.
           Cao Kiện Trung hừ một tiếng, nói: Các cậu toàn nghĩ viển vông, hãy đợi đấy, lát nữa sẽ có mục dân gõ cửa cho mà xem. Mình bị nó quấy rầy suốt đêm không ngủ được, đau đầu quá. Mình muốn giết béng nó.
                                                                     
   *
*      *
           Bữa trà sang chưa xong, bên ngoài đã có tiếng vó ngựa đến gần. Trần Trận và Dương Khắc hốt hoảng chạy ra. Ông Pilich và ông Ulichi đã tới trước cửa. Hai người chưa xuống ngựa, đi quanh lều hai vòng mới trông thấy sợi xích sắt luồn xuống một cái hang. Ông già xuống ngựa, ngó vào trong hang, nói: Thảo nào tìm không ra, nó ở dưới này. Trần Trận và Dương Khắc vội đón lấy dây cương từ tay hai ông, dắt ngựa cột vào trục xe bò. Hai cậu không dám nói gì, chuẩn bị nghe kể tội.
           Ông Pilich và ông Ulichi ngồi xổm bên cạnh hang, ngó vào trong. Sói con đang nằm nghỉ. Nó rất ghét có người quấy nhiễu nên nhe răng gầm gừ, mắt long sòng sọc.
           Ông già nói: Chà, lớn thế này rồi cơ à? Lớn nhanh hơn bọn sói hoang. Ông quay lại bảo Trần Trận: Cậu quý nó thật đấy, đào hang cho nó tránh nắng. Lão cứ nghĩ trời nắng này mà buộc nó ở ngoài trời, không ai giết nó cũng chết vì nắng.
           Trần Trận thận trọng, nói: Bố, hang này không phải con đào, mà nó tự đào. Hôm ấy nó suýt chết nắng, loay hoay một hồi, nó bèn nghĩ ra cách này.
           Ông già ngạc nhiên chăm chú nhìn con sói. Lát sau, ông nói: Không có sói mẹ dạy mà nó tự đào được hang? Đó là Tăngcơli không muốn nó chết.
           Ông Ulichii nói: Đầu óc con sói khá linh hoạt, khôn hơn chó nhiều, rất nhiều chuyện thông minh hơn người.
           Trần Trận tim đập thình thịch, cậu thở ra một hơi, nói: Con cũng băn khoăn. Nó còn nhỏ vậy mà đã có bản lĩnh. Khi bắt về, nó chưa mở mắt, ngay cả mẹ nó cũng chưa nhìn thấy.
           Ông già nói: Sói có linh tính, sói mẹ không dạy thì Tăngcơli dạy chứ sao! Đêm qua cậu trông thấy nó ngửa mặt lên trời mà tru chứ gì. Trên thảo nguyên, bò, cừu ngựa, chó, cáo, dê vàng, rái cá… tất cả khi kêu đều không ngửa mặt lên trời, chỉ sói là ngửa mặt lên. Vì sao? Lão đac có lần nói, sói là cục cưng của Trời, khi có chuyện phiền muộn, sói ngửa mặt lên trời mà tru, cầu Trời giúp đỡ. Tài năng đa dạng của sói là do trời cho. Từ lâu, sói thảo nguyên đã biết “sáng thỉnh thị, tối báo cáo”. Người thảo nguyên khi gặp khó khăn cũng ngẩng mặt cầu Trời. Vạn vật trên thảo nguyên chỉ có sói và người là tôn kính Trời.
           Ánh mắt ông già đã dịu khi nhìn con sói. Ông lại nói: Người thảo nguyên tôn kính Trời là học từ sói. Khi người Mông Cổ chưa đến thảo nguyên, sói đã ngày đểm ngẩng mặt lên Trời mà tru. Cuộc sống trên thảo nguyên khổ quá, con sói lại càng khổ. Đêm đêm nghe tiếng sói tru, người già thường rơi nước mắt.
           Trần Trận giật mình. Trên thảo nguyên mênh mông, quả là chỉ có sói và người là ngửa mặt tru dài hoặc cầu khấn. Người và sói thảo nguyên sống trên thảo nguyên xinh đẹp nhưng nghèo khó quả thật gian nan, chỉ biết kêu trời để vơi bớt nỗi niềm.Từ góc độ khoa học, sói ngửa mặt tru là để cho tiếng tru vang xa, rộng và đều khắp. Nhưng về mặt tình cảm, Trần Trận thích cách giải thích của ông già Pilich. Kiếp người nếu không có sự bảo trợ nào đó của thần linh, thì cuộc sống quả vô vọng. Trần Trận nước mắt chạy quanh.
           Ông già Pilich quay lại bảo Trần Trận: Đừng giấu cái tay đi. Bị sói con cào phải không? Đêm qua lão nghe thấy hết. Con ơi, con tưởng ta đến giết sói con chứ gì? Sáng nay có một số mã quan, dương quan đến chỗ ta kiện con, đề nghị đại độ xử lý con sói. Ta và ông Ulichi bàn nhâu cứ để con nuôi nhưng phải cẩn thận đấy. Chà, ta chưa thấy người Hán nào mê sói như con!
           Trần Trận ngớ ra hồi lâu mới hốt hoảng hỏi lại: Đúng là cho con tiếp tục nuôi hở bố? Con cũng rất sợ gây tổn thất cho đội, sợ làm phiền bố. Con đang tính may chiếc rọ mõm cho con sói khỏi tru.
           Ông Ulichi nói: Muộn rồi, sói mẹ đều đã biết nhà cậu có một con sói. Tôi đoán đêm nay đàn sói nhất định đến. Tuy nhiên, các tổ của ta đã khoá rất chặt, người nhiều chó nhiều súng nhiều, đàn sói khó làm gì được. Chỉ sợ sau này về bãi chăn mùa thu lều trại phân tán, cái lều của các cậu sẽ gặp nguy hiểm.
           Trần Trận nói: Khi ấy ba con chó của cháu đã lớn. Năm con chó lớn, lại thêm con săn sói Nhị Lang, chúng cháu tăng cường tuần đêm, rồi lại có pháo nhị thanh, chúng cháu không sợ sói.
           Ông già nói: Khi ấy hãy tính.
           Trần Trận vẫn chưa yên tâm, hỏi lại: Bố, rất nhiều người đòi giết con sói, bố nói với họ thế nào?
           Ông già nói: Những ngày này đàn sói đang bắt ngựa con. Đàn ngựa tổn thất rất lớn. Nếu sói con dụ được đàn sói về phía này, thì đàn ngựa đỡ thiệt hại, các mã quan đỡ vất vả và đàn ngựa được yên.      
           Ulichi bảo Trần Trận: Cậu nuôi con sói thế mà hay! Chia lửa với đàn ngựa… Cậu nhất thiết không để nó cắn phải. Không phải chuyện chơi đâu. Cách đây ít hôm một dân công lấy trộm phân bò khô của một gia đình mục dân, bị chó nhà ấy cắn, suýt toi mạng vì bệnh dại. Tôi đã bảo cậu Bành lên mục trường bộ lấy ít thuốc về.
           Ông già và ông Ulichi lên ngựa phóng về phía đàn ngựa. Rất vội, chắc là đàn ngựa có sự cố. Trần Trận trông theo hai vệt bụi vàng, trong bụng không hiểu nhẹ nhõm hay căng thẳng.

________Hết chương 24________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:19:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25

Nước Tần vốn là khu vực du mục của Nhung Địch, Thành vương phong người em cùng mẹ Thúc Ngu làm Đường hầu, lấy luật lệ Nhung làm cơ sở (Tả truyện Định công năm thứ tư), có nghĩa là căn cứ vào cách làm của Nhung Đich mà phân phối đất chăn thả, không như Lỗ Vệ tại khu vực nông nghiệp, căn cứ vào phép tắc nhà Chu mà phân phối đất cày. Thúc Ngu thay đổi quyết định của cha, đổi tên nước là Tấn.
                                                                       - Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên” đệ nhất biên

           Trần Trận lấy ra hai thẻo thịt khô, thêm một ít mỡ cừu, nấu cho sói con một nồi cháo đặc. Sức ăn của sói con ngày càng lớn, một chậu đầy cháo thịt chưa no. Trần Trận thở dài, vào lều tranh thủ ngủ một giấc, chuẩn bị tinh thần cho trận chiến đêm nay. Hơn một giờ chiều, cậu tỉnh dậy vì tiếng gọi, vội chạy ra ngoài.
           Trương Kế Nguyên cưỡi con ngựa cao lớn chạy đến bãi đất trống trước cửa lều. Nửa thân trước con ngựa bê bết máu, cà nhắc cà nhót không áp sát được vào chiếc xe bò. Đàn chó ùa tới vây quanh người ngựa, rối rít vẫy đuôi. Trần Trận dụi cặp mắt ngái ngủ, giật mình: Con ngựa Trương Kế Nguyên chở trên lưng một con ngựa choai bị thương. Cậu vội chạy lên giữ hàm thiết cho con ngựa đứng yên. Con ngựa choai đau đớn vật vã, mấy vết thương ở ngực, ở cổ đang chảy máu, nhuốm đỏ yên và thân trước con ngựa lớn. Con ngựa lớn giương mắt khiếp hãi, mũi phun phì phì, một chân trước liên tục gõ móng, còn chân kia cào đất. Trương Kế Nguyên ngồi trên mông ngựa, sau yên, tư thế rất khó xuống, lại sợ con ngựa choai rớt xuống kinh động con ngựa đang cưỡi. Trần Trận giơ tay cầm chân trước con ngựa choai, Trương Kế Nguyên cố rút chân phải ra khỏi bàn đạp rồi thận trọng xuống ngựa, thiếu chút ngã bổ chửng.
           Hai người đứng hai bên nâng con ngựa choai nhẹ nhàng hạ xuống đất. Con ngựa lớn vội quay lại nhìn bằng con mắt thương cảm. Ngưạ choai đã không thể cất đầu lên, mở cặp mắt đen tuyệt đẹp nhìn mọi người cầu cứu. Nó rên rỉ, chân trước chống xuống đất nhưng không đứng lên được nữa. Trần Trận hỏi: Còn cứu được không? Trương Kế Nguyên nói: Batu đã xem xét vết thương, khẳng định không cứu được. Chúng mình đã lâu không có thịt, phải giết khi nó hãy còn sống. Saxưleng cũng cho khênh đến nhà ông Pilich một con bị thương.
           Trần Trận chột dạ. Cậu bê cho Trương Kế Nguyên một chậu nước để cậu ta rửa tay, vội hỏi: Đàn ngựa có chuyện phải không? Thiệt hại có lớn không?
           Trương Kế Nguyên buồn bã nói: Đừng nhắc đến nữa. Đêm qua đàn ngựa của mình và Batu bị cắn chết bốn con, bị thương một con. Đàn ngựa của Saxưleng càng thảm hơn, trong mấy ngày bị năm sáu con. Những đàn khác không biết thế nào, chắc chắn thiệt hại không nhỏ. Các vị lãnh đạo đều xuống các đàn ngựa.
           Trần Trận nói: Đêm qua đàn sói xung quanh đại đội tru suốt đêm. Chúng tụ tập tất cả ở bên này, làm sao đến chỗ đàn ngựa?
           Trương Kế Nguyên nói: Thế mới gọi là chiến thuật bầy đàn, xuất kích toàn diện, bốn phía nở hoa, giương đông kích tây, yểm hộ lẫn nhau, đánh dứ cộng với đánh thật, đánh được thì đánh, không đánh được thì kiềm chế, khiến đối phương đầu đuôi không cứu được nhau, cứu được chỗ nọ mất chỗ kia. Chiêu này của đàn sói còn lợi hại hơn chiến thuật tập trung ưu thế binh lực dứt điểm từng trận. Trương Kế Nguyên rửa tay xong, nói: Làm thịt ngay con ngựa đi, đợi nó chết rồi thì máu đọng trong thịt, ăn không ngon.
           Trần Trần nói: Nghe nói mã quan đầy sói tính quả không ngoa. Cậu bây giờ ra vẻ mã quan rồi đấy, khẩu khí ngày càng lớn, tính cách thì có vẻ như võ sĩ thảo nguyên thời xưa. Trần Trận đưa cho Trương Kế Nguyên con dao Mông Cổ chuôi đồng, bảo: Cậu giết nó đi, con ngựa đẹp như thế mình không dám đụng dao.
           Trương Kế Nguyên nói: Sói giết con ngựa này chứ không phải người, không liên quan gì đến thiện ác của con người. … Được thôi, mình giết cũng chẳng sao, nhưng phải giao hẹn trước: Mình chỉ giết, còn như lột da xẻ thịt các cậu làm tất, chịu không? Trần Trận đồng ý.
           Trương Kế Nguyên tay cầm dao, chân chặn một bên ức con ngựa, đè đầu nó xuống sao cho một mắt nhìn thẳng lên trời theo truyền thống thảo nguyên, rồi thọc một nhát cắt đứt động mạch cảnh, máu tuy không vọt ra, nhưng vẫn chảy. Trương Kế Nguyên nhìn con ngựa giãy chết mà chỉ như một con cừu. Lũ chó thèm rỏ dãi, đuôi ngoáy tít. Lũ chó cún xông lên liếm máu ngựa trên cỏ. Sói con ngửi thấy mùi máu cũng chui ra khỏi hang, giằng xích, mắt loé lên những tia hung dữ.
           Trương Kế Nguyên nói: Cách đây mấy hôm mình đã phải giết một con kém thịt hơn con này. Mình và một số mã quan ăn hai bữa bánh bao nhân thịt ngựa non. Thịt ngựa non cực mềm cực thơm, nhưng ăn vào mùa hạ với dân du mục là chuyện bất đắc dĩ. Bánh bao nhân thịt ngựa non là món ăn nổi tiếng của thảo nguyên hàng ngàn năm nay. Kế Nguyên rửa tay xong, ngồi trên càng xe xem Trần Trận lột da ngựa.
           Trần Trận xẻ những tảng thịt ngựa vừa non vừa béo. Cậu cũng vui, nói: Con ngựa này khá lớn, gần bằng một con cừu đực thiến. Tháng này mình chưa ngửi thấy mùi thịt. Người ta con bảo, mình sắp sửa biến thành sói con thành cừu non, không cho nó ăn thịt, nó sẽ be như cừu cho mà xem.
           Trương Kế Nguyên nói: Con ngựa này sinh sớm nhất đầu năm nay. Bố mẹ to nên nó cũng to. Nếu các cậu thấy ngon, vài hôm nữa mình lại chở đến cho một con. Mùa hè là mùa tang tóc của đàn ngựa, năm nào cũng thế. Mùa này ngựa đẻ con, sói bắt dễ nhất là ngựa con. Đàn ngựa nào cũng bị sói bắt mất một hai con, rất khó tránh. Lúc này, mùa sinh sản đã qua, mỗi đàn ngựa tăng thêm khoảng một trăm bốn năm mươi con ngựa con. Ơlôn cỏ tốt, sữa mẹ đủ, ngựa con lớn nhanh, con nào cũng khoẻ mạnh, hiếu động, ngựa giống và ngựa mẹ quản không nổi.
           Trần Trận dùng rìu lọc ra những chỗ thịt bị sói xé rách ở đầu, ngực và cổ ngựa rồi thái miếng. Sáu con chó đã vây kín xung quanh. Năm con đuôi vẫy như cờ lau gặp gió, riêng con Nhị Lang đuôi dựng đứng như lưỡi lê, đứng xem Trần Trận chia thịt. Nhiều ngày chưa ngửi thấy mùi thịt, sói con cuống quýt chạy quanh, bật ra tiếng “âu âu” của chó.
           Thịt và xương đã chia xong, vẫn ba suất lớn ba suất nhỏ. Trần Trận cho con Nhị Lang nửa cái sọ, một mảng cổ. Nó quẫy đuôi, tha chỗ thịt tới chỗ gầm xe ăn nghiến ngấu. Con Vàng, con Ilưa và ba con cún đều có phần. Mỗi con tha phần của mình đến chỗ bóng râm hoặc trong lều. Trần Trận đợi lũ chó đã đi mới lấy chỗ thịt dành cho sói con thái thành miếng nhỏ bỏ vào chậu của sói được nửa chậu, lấy huyết đọng trong khoang ngực ngựa tưới lên chỗ thịt rồi gọi to: Sói con, ăn cơm nào! Nói rồi đi đến chỗ sói con.
           Cái cổ con sói đã thành chai, ngửi thấy mùi thịt tươi lẫn máu, nó kéo căng xích chẳng khác con bò kéo cỗ xe chở nước leo dốc, rớt dãi lòng thòng. Trần Trận nhanh nhẹn chạy tới chỗ chuồng sói. Con sói vồ lấy chậu thịt ngựa như sói lớn vồ mồi, nhe răng gầm gừ đuôi Trần Trận đi nơi khác. Trần Trận trở lại chỗ lột da con ngựa, tiếp tục xẻ thịt vừa trông chừng con sói. Nó ăn ngấu nghiến, nhưng mắt vẫn canh chừng người và chó, gồng mình lên, chuẩn bị tha những miếng thịt vào trong hang.
           Trần Trận hỏi Trương Kế Nguyên: Mục dân có ăn nội tạng ngựa không? Trương Kế Nguyên nói: Ngựa bị thương vì sói cắn thì không ăn. Trần Trận trước hết moi dạ dày, ruột non ruột già vứt vào đống tro bên bếp, kệ cho lũ chó tranh cướp. Sau đó cậu lấy ra hai cái chậu không, chất đầy tim gan phổi vào rồi để chỗ mát trong lều, phần bữa sau của sói và chó.
           Trần Trận hỏi: Chẳng lẽ mã quan các cậu không có cách đối phó?
           Trương Kế Nguyên nói: Sau hai năm chăn ngựa trên thảo nguyên, mình nhận thấy khâu yếu nhất là đàn ngựa. Một đàn ngựa bốn năm trăm con mà chỉ bố trí hai mã quan, giờ thêm một thanh niên trí thức cũng không đủ. Hai ba người ngày đêm luân phiên mà còn gục nữa là chỉ một người làm sao trông xuể.
           Trần Trận lại hỏi: Vậy vì sao không bố trí thêm mấy mã quan?
           Trương Kế Nguyên nói: Mã quan là “phi công” trên thảo nguyên, thuộc loại công nghệ cao. Đào tạo được một mã quan chính hiệu không dễ, phải mất nhiều thời gian. Không ai dám giao đàn ngựa cho một mã quan bất tài, lơ mơ là một năm mất nửa đàn ngựa. Lại nữa, mã quan quá khổ, quá mệt, quá nguy hiểm. Những đêm mùa đông có bạch mao phong lạnh âm 30-40độ C, dồn ngựa là phải dồn suốt đêm, mặc ba áo da mà ngón chân vẫn bị rụng. Mùa hè, muối có thể hút kiệt máu của  người và ngựa, rất nhiều mã quan chỉ bảy tám năm là giải nghệ, hoặc nghỉ hẳn vì thương tật. Đại đội ta có bốn mã quan là thanh niên trí thức, giờ chỉ còn lại mỗi mình. Mã quan thiếu kinh niên, làm gì có thừa để bổ sung? Đàn ngựa di chuyển nhanh trong đàn, có nhiều ngựa con và ngựa đực thiến, bọn này dát, rất dễ vỡ đàn. Mã quan chỉ thổi nồi cơm trong lều là đàn ngựa bên ngoài đã mất tăm. Lạc mất đàn ngựa, thường phải đi tìm hai ba ngày, cũng là nhịn đói hai ba ngày. Trong hai ba ngày ấy, đàn sói có thể truy sát ngựa con rồi. Lần trước mã quan tổ Bốn ngựa hụt chân bị ngã vỡ đầu, đàn ngựa trong đêm vượt biên, mục trường thông qua đồn biên phòng, mất mười mấy ngày mới đòi được đàn ngựa về, trong thời gian đó đàn ngựa không có người trông, tổn thất càng lớn.
           Trần Trận hỏi: Quan hệ hai nước căng thẳng là thế, mà sao người ta không giữ ngựa lại?
           Trương Kế Nguyên nói: Không đâu. Hai nước đã có hiệp định từ lậu. Chỉ cần báo chính xác thời gian, địa điểm vượt biên, số lượng, nhất là số đầu ngựa giống và màu lông, là người ta cử người đem trả. Bên ta cũng vậy. Nhưng trên đường đi bị sói ăn thịt mất con nào, hai đồn biên phòng không chịu trách nhiệm. Có lần, người ta báo trên 120 con, ta cử người tìm hai ngày chỉ tìm được 90 con. Mã quan nói, quá nửa số con không tìm thấy bị sói ăn thịt.
           Trần Trận chớp thời cơ xoáy vào vấn đề cậu quan tâm: Mình vẫn không hiểu vì sao đàn ngựa cứ thích chạy bạt mạng?
           Trương Kế Nguyên nói: Nguyên nhân thì có nhiều. Trời lạnh quá, chạy cho ấm; mùa xuân cần chạy toát mồ hôi để chong thay lông; mùa hè trốn muỗi, chạy ngược gió; mùa thu muốn ăn cỏ ngon ở bãi chăn cừu, chạy lên tới trước. Nhưng quan trọng nhất là chạy trốn cuộc truy sát của đàn sói, bốn mùa trong năm chạy chí chết. Đàn ngựa tính cơ động cao, không thể đem theo chó. Đêm đến, mã quan không có đàn chó giúp gác đêm, một mình trông nom đàn ngựa dát như cáy sao được? Nếu là đêm không trăng, đàn sói thường tập kích đàn ngựa. Nếu sói không đông, mã quan và ngựa giống có thể bảo vệ được đàn ngựa; nếu sói đông, ngựa vỡ đàn, vỡ trận như núi lở, mã quan và các ngựa giống không bảo vệ nổi.
           Trương Kế Nguyên nói: Giờ đây mình mới hiểu vì sao kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn ngày đi ngàn dặm. Ngựa Mông Cổ ngày nào cũng buộc phải luyện tốc độ, chạy việt dã, luyện sức bền. Mình ở với đàn ngựa thường chứng kiến cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa sói và ngựa, thê thảm lắm. Trong đêm đàn sói truy sát đàn ngựa, tàn ác không thể tả, đuổi đến kỳ cùng, giết không thương tiếc, nhanh như tên bắn, liên tục tác chiến, không cho đàn ngựa xả hơi lấy một phút. Những con ngựa già, ngựa ốm, chạy chậm, ngựa non, ngựa choai, ngựa cái có chửa, hễ rớt lại lập tức bị đàn sói ăn thịt. Cậu chưa nhìn thấy thảm cảnh đàn ngựa chạy tháo thân, con nào cũng sùi bọt mép, toàn thân ướt đẫm. Có con chạy đến sức cùng lực kiệt, ngã xuống tắt thở liền. Con nào chạy nhanh vọt lên trước thì có thể dừng lại một thoáng gặm vài miếng cỏ, đói quá, gặp gì ăn nấy, sậy khô cũng ăn; khát quá, gặp gì uống nấy bất kể nước tù nước bẩn, có phân bò phân cừu đều uống tất. Ngựa Mông Cổ rất dai sức, khả năng tiêu hoá, chống bệnh, chịu rét nóng nhất thế giới. Nhưng chỉ có mã quan biết rằng, những bản lĩnh ấy của ngựa Mông Cổ là do đàn sói dung tốc độ và cái chết huấn luyện cho ngựa.
           Trần Trận nghe say sưa, cậu bê tất cả thịt pha và thịt đã thái vào trong, phơi tấm da ngựa lên nóc lều. Cậu bảo Kế Nguyên: Cậu làm mã quan mới một năm mà đã sắp thành chuyên gia rồi. Những điều cậu nói rất quan trọng. Bên ngoài nóng, vào trong lều đi , cậu thì nói, còn mình thì làm bánh bao nhân thịt. Hai người vào trong lều. Trần Trận bóc hành, nhào bột, nặn nhân, chuẩn bị làm món bánh bao nhân thịt dân du mục thường ăn.
           Trương Kế Nguyên uống một bát trà lạnh, nói: Những ngày này mình và một số mã quan luôn bàn tới chuyện ngựa. Mình nghĩ, chính là thảo nguyên Mông Cổ đã tạo nên loài ngựa Mông Cổ có sức chịu đựng bền bỉ nhất, và cũng tạo nên kỵ binh Hung Nô, Đột Quyết, Mông Cổ hung hãn thiện chiến. Hãn huyết mã, ngựa Ili, ngựa Arập, ngựa sông Đông đều là những loài ngựa nổi tiếng thế giới. Nhưng vì sao kỵ binh khu vực Trung Á, kỵ binh Nga La Tư, kỵ binh Arập, kỵ sĩ châu Âu… đều bị kỵ binh Mông Cổ đánh bại? Kỵ binh Mông Cổ đánh một lèo sang phía tây tới Ba Lan, Hunggari, Áo, tới cửa ngõ Ai Cập. Kỵ binh Hung Nô còn càn quét toàn bộ châu Âu, đánh thẳng tới nước Pháp. Ngựa chiến của dân tộc nào trên thế giới dẻo dai được như thế?
           Trần Trận nói xen vào: Sử chép rằng, thảo nguyên Mông Cổ xưa người ít ngựa nhiều, khi ra trận, một kỵ binh dắt theo bốn năm con ngựa luân phiên cưỡi, ngày đi ngàn dặm. Vì vậy kỵ binh Mông Cổ đã được cơ giới hoá từ thời nguyên thuỷ, chuyên đánh chớp nhoáng. Ngựa nhiều nên có thể lấy ngựa bị thương làm quân lương, đói thì ăn thịt ngựa, khát uống huyết ngựa, không sử dụng hậu cần.
           Trương Kế Nguyên gật đầu cưới: Đúng thế. Còn nhớ cậu có nói, từ Khuyển Nhung, Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết cho đến dân tộc Mông Cổ hiện giờ, tất cả các dân tộc thảo nguyên từng sống và chiến đấu trên thảo nguyên đều biết những bí ẩn và giá trị của sói. Mình ngày càng cảm thấy cậu ấy có lý. Sói thảo nguyên Mông Cổ đã cho người thảo nguyên tính cách ngoan cường trong chiến đấu, trí tuệ trác việt về chiến tranh và ngựa chiến xuất sắc. Ba ưu thế về mặt quân sự đó là bí mật và nguyên nhân gây chấn động thế giới của người thảo nguyên Mông Cổ.
           Trần Trận vừa ra sức nhào bột, vừa nói: Ngựa chiến Mông Cổ thiện chiến là do sói huấn luyện, phát hiện của cậu quan trọng đấy. Mình cứ tưởng totem sói giải quyết tính cách ngoan cường của người thảo nguyên và nguồn gốc của trí tuệ quân sự, không nghĩ rằng sói còn là huấn luyện viên làm nghĩa vụ dạy thú, đào tạo cho dân tộc trên lưng ngựa này những con chiến mã hạng nhất. Có loại chiến mã lợi hại này, tính cách và trí tuệ người Mông Cổ như hổ mọc thêm cánh. Được lắm, một năm làm mã quan của cậu không uống.
           Trương Kế Nguyên cười, nói: Mình cũng bị lây cậu, rất mê sói. Hai năm nay cậu giảng cho mình bao nhiêu kiên thức lịch sử trong sách vở, mình cũng phải cung cấp cho cậu một ít tài liệu sống chứ.
           Trần Trận cũng cười, nói: Một sự trao đổi ngang giá. Tuy nhiên, có một điều mình vẫn chưa hiểu, đàn sói ngoài chuyện truy sát, còn dùng thủ đoạn nào nữa để ăn thịt ngựa con?
           Trương Kế Nguyên nói: Nhiều lắm. Đàn ngựa khi lên đồi cao hoặc một nơi địa hình phức tạp, mình thường rất căng thẳng. Sói ép bụng sát đất mà bò, không cần ngóc đầu lên, mũi và tai nó cho biết con mồi đang ở chỗ nào. Ngựa mẹ thường xuyên gọi khẽ ngựa con, sói căn cứ vào âm thanh phát ra mà đoán ngựa con ở xa hay gần rồi nhích tới, nếu không có ngựa giống ở đấy là nó vồ liền, đầu tiên cắn một phát vào yết hầu, sau đó kéo ngựa con ra chỗ khuất ăn ngấu nghiến. Nếu bị ngựa mẹ hoặc ngựa giống phát hiện, sói bỏ chạy liền. Đàn ngựa khi di chuyển không đem được con ngựa chết đi theo, đợi đàn ngựa đi rồi, sói quay lại ăn. Có con sói đặc biệt ranh ma, biết đánh lừa ngựa con. Nó phát hiện trong đàn có ngựa con nhưng bên cạnh có ngựa mẹ, nó liền nằm rạp xuống bò tới đám cỏ cao, sau đó nó giấu kín mục tiêu lớn là cái thân, còn mục tiêu nhỏ là bốn cái chân, nó thò ra ngoài động đậy khẽ, từ xa tưởng đó là hai cái tai con thỏ hoặc đầu con chuột hôi đang ló ra nghe ngóng, hoặc sinh vật bé bỏng nào khác. Có điều không giống sói hoặc chó. Ngựa con mới chào đời rất tò mò, thấy có sinh vật nào ngọ nguậy chạy đến xem sao. Ngựa mẹ chưa kịp ngăn thì sói đã cắn đứt họng ngựa con rồi.
           Trần Trận nói: Có khi mình cảm thấy sói không phải con vật, mà là quái vật.
           Trương Kế Nguyên nói: Đúng là quái vật! Cậu nghĩ coi, ban ngày đàn ngựa tản ra rất rộng, mã quan dù ở ngay trong đàn ngựa cũng không thể đảm bảo sẽ không xảy ra chuyện. Đêm đến đàn sói càng ngang ngược, trộm được thì trộm, cướp được thì cướp, trộm cắp đều không xong thì tổ chức đánh phá. Các ngựa giống đẩy ngựa cái ngựa con vào giữa rồi đứng ra vòng ngoài dẫm đạp cắn xé đàn sói. Đàn sói bình thường không phá nổi liên hiệp phòng vệ của mười mấy con ngựa giống, không khéo còn bị ngựa giống đá chết hoặc cắn bị thương. Nhưng gặp khi thời tiết xấu và đàn sói thì đang đói, các ngựa giống ngăn không nổi, bầy sói liền phá vỡ đàn ngựa, tiếp tục tàn sát ngựa non. Sói con  trong đàn đã lớn, sức ăn của đàn tăng, chúng bắt không được dê vàng và rái cá cạn, liền quay sang bắt ngựa con trong đàn ngựa.
           Trần Trận hỏi: Vậy mỗi năm đàn ngựa tổn thất bao nhiêu ngựa con?
           Trương Kế Nguyên nghĩ một lát, nói: Đàn ngựa của mình và Batu, năm ngoái đẻ được 110 con, đến mùa hè năm nay chỉ còn lại 40 con, có 70 con bị sói cắn chết hoặc ăn thịt, tổn thất hàng năm 70% được coi là thịt hại ít nhất trong bốn đàn ngựa của đại đội. Tổ chăn nuôi số 4 chỉ còn mười mấy con, thiệt hại một năm trên 80%. Mình hỏi ông Ulichi, tổn thất của toàn bộ mục trường hàng năm tính theo tỉ lẹ phần trăm là bao nhiêu, ông ta bảo tổn thất bình quân khoảng 70%.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách