Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Tôtem Sói | Khương Nhung

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:29:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30 (tiếp)

Bốn người cùng ra tay, chật vật mãi mới buộc xong, con thỏ nằm yên bất động, nhưng ánh mắt thì rất giảo hoạt. Trương Kế Nguyên vạch cái miệng ba múi của con thỏ, xem xét một lúc, nói: Các cậu xem, con thỏ này rất già, răng vàng khè. Các ông chủ xe thường bảo: “Người già gian ngoan, ngựa già láu cá, thỏ già chim ưng khó bắt”. Thỏ già đáng gờm, không khéo sói con ăn đòn.
            Trần Trận ngoái lại hỏi Trương Kế Nguyên: Vì sao thỏ già chim ưng khó bắt?
            Trương Kế Nguyên nói: Chim ưng bổ nhào từ trên không xuống, chân trái chộp mông thỏ, thỏ bị đau quay mình lại, chân phải chim ưng được đà chộp luôn lưng, vậy là con thỏ khó thoát. Chim ưng giữ chắc thỏ rồi vút lên cao thả xuống cho thỏ bị đập chết rồi mới tha lên đỉnh núi ăn. Nhưng gặp con thỏ già, chim ưng không dễ dàng hạ thủ. Khi bị chộp mông, thỏ già nhịn đau không quay mình lại mà rúc luôn vào bụi thanh khoả hoặc liễu đỏ. Chính mắt mình trông thấy con thỏ cùng chim ưng chui vào đám đất mọc đầy hồng liễu gai góc rậm rịt, chim ưng bị kẹt lông, đau quá phả nhả con thỏ ra. Ủ rũ như gà chọi bật sới, chim ưng phải nghỉ hồi lâu mới bay đi…
            Dương Khắc nghe xong mắt tròn mắt dẹt, nói: Vậy ta phải tính kỹ!
            Trần Trận nói: Cứ quẳng con thỏ cho sói con, một bên là thỏ già mưu mẹo giảo hoạt, một bên là sói con trẻ tuổi vô tư răng sứt mẻ. Cuộc đấu mà một bên buộc chân, một bên mắc xích mình thấy không công bằng.
            Dương Khắc nói: chúng mình đều đã đọc “Xpáctác”, nên theo quy tắc đẫu trường La Mã, nếu thỏ thắng, ta trả tự do cho thỏ.
            Ba người đồng thanh: Được.
            Dương Khắc nói riêng với thỏ: Ai bảo mày đào nhiều hang, huỷ hoại nhiều thảm cỏ! Xin lỗi nhé! Lại quay sang nói với sói con: Sói con ăn cơm! Sói con ăn cơm! Nói xong, quẳng con thỏ vào chuồng. Vừa rơi xuống đất, con thỏ vùng ngay dậy nhảy tưng tưng. Sói con xông tới nhưng không biết cắn vào chỗ nào. Nó dung chân trước gạt con thỏ ngã xuống, nhưng vừa chạm đất con thỏ rúm người lại thành một cục có vẻ sợ, ngực phập phồng, toàn thân run bắn, nhưng hai mắt nó thì vô cùng điềm tĩnh quan sát từng cử động của sói con. Hắn là con thỏ này đã từng đào thoát khoie sói và chim ưng nhiều lần.
            Con thỏ dưới cái vỏ bọc run như cấy sấy, tiếp tục co rúm người lại, co nữa, co nữa, cuối cùng như một “nắm đấm”, sau đó co vuốt sắc lại, điều chỉnh vị trí ôhngs vuốt như kiểu giấu vũ khí trong tay áo.
            Sói con đã có kinh nghiệm ăn một con chuột lớn, tưởng thỏ là chuột lớn hơn, them nhỏ dãi tiến đến ngửi hit. Thỏ vẫn dang run. SÓi con giơ chân trước ấn ấn, coi như một miếng thịt thỏ vô hại. Sói con hết ngửi hít lại ấn chân, tìm chỗ cắn.
            Đột nhiên con thỏ ngừng run, lúc này đầu sói con vừa vặn ló sát chân sau của thỏ. “Không hay rồi!” Bốn người cùng kêu lên nhưng không kịp nhắc sói con. Con thỏ vận hết sức mạnh cuối cùng, nhắm giữa đầu sói con đạp một phát mạnh như búa bổ. Sói con “oắc” lên một tiếng bật ngửa lộn một vòng ra phía sau, mãi mới dậy được thì đầu đã đầy máu, tai thủng một lỗ to tướng, mặt bị thưưong mấy chỗ, mắt phải suýt bị mù.
            Trần Trận và Dương Khắc xót xa đứng phắt dậy, mặt tái nhợt. Dương Khắc lấy ra bạch thược Vân Nam chuẩn bị băng bó cho sói con, nhưng Trần Trận ngăn lại: Trên thảo nguyên không có con sois nào lành lặn, cứ để vậy cho sói con nếm mùi.
            Sói con chưa bao giờ bị một vố như thế. Nó gồng mình lên vì sợ và giận dữ nhưng lại tò mò nhìn con thỏ. Con thỏ sau khi rat ay, bắt đầu cựa dữ, lật người lại, cà nhắc cà nhót định lết ra ngoài chuồng. Mấy con chó tức giận đứng cả dậy xông tới con thỏ mà sủa. Nhị Lang thấy fai mắt định xông vaog chuồng cắn chết thỏ, nhưng bị Trần Trận ôm chặt.
            Con thỏ dần tới mép chuồng, sói con chậm rãi theo sau, khoảng cách chừng một thưứoc, chỉ cần chân sau con thỏ bước dài hơn một chút, sói con nhảy lùi lại như bị rết cắn.
            Dương Khắc nói: Trận giác đấu này coi như thỏ thắng. Nếu như ngoài đồng, cú đá vừa rồi đánh gục sói, thỏ đã thừa cơ chạy thoát. Thằng cha này trong 20 phút đả thương một người một sói, giỏi đấy! Ta hãy thả nó ra. Cùng là động vật nông canh ăn cỏ, người Hán Trung Quốc nếu như có đựoc tinh thần thỏ thảo nguyên thì đâu đến nỗi rơi vào cảnh bán thực dân địa.
Trần Trận trong lòng mâu thuẫn: Cho sói con cơ hội cuối cúng. Nếu thỏ lần ra được ngoài chuồng, coi như thỏ thắng. Nếu không ra được, lại đấu tiếp.
Dương Khắc nói: Được, lấy vành ngoài cái chuồng để phân thắng bại.
            Con thỏ hình như thấy có cơ may thoát chết, vừa lăn vừa lết để ra ngoài vòng. Sói con điên tiểt, hình như cảm thấy con vật kia dã là của mình, giờ không dám vồ nhưng hễ có điều kiện là nó lại dùng chân trước kéo lùi con thỏ một cái rồi nhảy sang bên, con thỏ đợi con sói nhảy lại nhích lên một bước để ra ngoài vòng. Cò cưa vài hiệp, sói con đã tìm ra nhược điểm của thỏ. Nó tách hai chân sau của thỏ chui lên phía trước, cắn tai lôi thỏ trở lại. Thỏ giẫy, sói nhả tai ra. Sói con dần nhận ra chân sau của thỏ không còn nguy hiểm đối với sói nữa, nó mạnh dạn cắn tai lôi thỏ vào bên chân cọc. Con thỏ kinh hoàng đá lung tung giẫy giụa như cá chép mắc câu, đến nỗi sói con không dám nhả ra.
            Trần Trận quyết định gơi ý cho sói con, cậu gọi: Sói con ăn cơm! Sói con giật mình, tiếng gọi ăn cơm khiến nó đói ran, từ sói đấu biến thành sói đói, thế là sói đè đầu thỏ xuống, cắn đứt một tai thỏ bằng răng hàm, ăn ngấu nghiến cả da lẫn lông. Máu vọt ra, thú tính trỗi dậy, sói con hung hăng cắn nốt tai bên kia. Con thỏ mất cả hai tai, dữ như con rái cá cạn liều chết chống lại, cắn lung tung. Trong chuồng, một sói máu me đầm đìa trên đầu, một thỏ đầu bê bết máu quần nhau một mất một còn. Chuồng sói thực sự trở thành chiến trường máu me vung vãi.
            Nhưng sói vẫn chưa nắm được kỹ thuật cắn chổ hiểm rồi ăn thịt, mà chỉ cắn miêng nào nuốt chửng miếng ấy, sục khắp mình thỏ. Răng tuy cùn nhưng sức mạnh thì như hổ, sói con cắn chặt da thỏ lắc mạnh, xé toạc từng miếng. Tuy nó chưa biết cắn vào chỗ chí mạng là yết hầu, nhưng theo bản năng, nó cắn vào chỗ nguy hiểm khác là bụng, bụp một phát, lôi ruột gan ra ngoài. Cái đám bung nhùng mềm nhũn vương máu là thứ sói thích ăn nhất. Soi con mắt loé sang, nhét tuốt ruột gan tim phổi vào bụng, còn thỏ chiến đấu tới khi mất ruột gan mới ngừng phản kháng.
            Trần Trận tạo cho sói con cơ hội sống như một con sói thực thụ. Sói con rốt cuộc lớn lên. Nó trả giá bằng cái tai sứt sẹo để từ đó có “tai sói tiêu chuẩn” mà trở thành sói thảo nguyên có chiến tích được ghi lại. Nhưng hình như Trần Trận không thể vui lên được, sói con thắng, cậu lại thấy tiếc thương cho con thỏ. Thỏ già đã dốc toàn lực và chết một cách khả kính. Nó cũng bị sói con anh dũng ngoan cường ăn thịt, nhưng về tinh thần nó không bị đánh bại. Tất cả những sinh linh trên thảo nguyên Mông Cổ, trừ cừu, bất kể động vật ăn thịt hay động vật ăn cỏ, đều được bà mẹ thảo nguyên ban cho tinh thần dũng mãnh ngoan cường. Đó là tinh thần du mục.
            Đàn cừu tự động vào chuồng. Trần Trận và Dương Khắc tạm thời kết thúc khoá trình đi dạo. Sói con đắm chìm trong hưng phấn, quên sạch những buổi chiều tự do.
                                                                       o0o
            Bốn người rất ít khi gặp mặt cùng nhau ăn một bữa cơm. Căn lều bạt Mông Cổ rất ấm và dễ hoà hợp. Trần Trận rót cho Trương Kế Nguyên một bát trà, hỏi: Cậu vẫn chưa kể cho mình nghe cậu làm thế nào bắt được con thỏ?
            Trương Kế Nguyên cũng như các mã quan trưởng thành, thích dềnh dàng cho người nghe sốt ruột. Cậu ta dừng một lát, kể: Con thỏ này là sói đem đến cho mình.
            Ba người đực mặt ra. Trương Kế Nguyên lại dừng mấy giây, kể tiếp: Trưa nay mình và Batu đi tìm ngựa, nửa đường khi qua một con dốc nhỏ, trông thấy một con sói từ rất xa, đang chổng mông cào đất. Hai chúng mình đều có ngựa tốt, ra roi cho ngựa chạy lên, con sói vội bỏ chạy. Bọn mình chạy đến chỗ sói cào đất thấy đó là một cái hang nhỏ, bên ngoài có nhiều đất mới do sói đào. Cái hang này rất kín, ẩn dưới một bụi cỏ, nếu như bên ngoài không có đất mới, rất khó phát hiện. Batu thoạt nhìn đã bảo đây là hang chứ không phải ổ, chỉ là nơi thỏ ẩn nấp tạm thời khi gặp địch. Mã quan rất căm loại hang này, người ngựa thường bị thưong vì nó. Năm ngoái chính nó đã làm con ngựa tốt nhất của Lanmutrăc bị gãy chân trước. Bọn mình không ai bảo ai, xuống ngựa đào bằng được. Hang thỏ sâu hơn một thước, dùng cán thòng chọc thăm dò, thấy mềm mềm là có thỏ bên trong. Sói biết đào hang, chỉ một lúc là lôi con thỏ lên. Nhưng con sói bỏ chạy rồi, bọn mình đào hang bằng gì bây giờ? Batu bảo anh ta có cách: tháo đoạn nhỏ trên cây thông chẻ đôi ở đầu nhọn rồi ném vào trong hang cho đến khi đụng con thỏ, chậm rãi dúi sâu vào thân thỏ để kẹp lông, kẹp được rồi thì xoắn cho lông da thỏ cuộn chặt vào chàng nạng, cho đến khi không xoắn được nữa mới kéo dần ra từng tí một. Lát sau Batu đã lôi được con thỏ lên, mình chộp luôn hai tai.
            Ba người đồng thanh khen: Cao thủ, đúng là cao thủ!
            Cao Kiện Trung nói: Hồi nãy mình cũng phát hiện một con thỏ chui vào hang mà không làm sao lôi được nó lên. Hôm nay mình học được chiêu này. Các cậu nói đúng, mục dân hình như khôn hơn nông dân nhiều. ĐÚng là nghề nào nghiệp ấy, trước đây mình không hiểu người Trung Quốc kém ở điểm nào, nội bộ đấu đá quyết liệt, nhưng với bên ngoài thì chưa đánh đã thua. Một nước Trung Quốc lớn là thế mà để cho thằng Nhật Bản bé xíu chiếm đóng trong tám năm, nếu không có Liên Xô đưa quân sang, không có Mỹ ném bom nguyên tử, không biết Nhật Bản chiếm thêm bao nhiêu lần tám năm nữa. Nhật vừa mới bị đánh bại, vậy mà nghe tin trên đài, người ta đã trở thành cường quốc hạng nhất về kinh tế. Cái thằng cướp biển oắt con ấy chẳng phải tay vừa!
            Ba người cùng cười.Trưong Kế Nguyên nói: Đúng là gần đèn thì rạng, ngay cả Cao Kiện Trung cũng tán thành quan điểm của cậu.
            Bốn người ngồi quanh bàn, ăn cháo kê, thịt cừu xào nấm và canh rau phi.
            Dương Khắc bảo Trương Kế Nguyên: Cậu đi nhiều, thạo tin, kể chuyện binh đoàn cho chúng mình nghe đi!
            Trương Kế Nguyên nói: Trụ sở mục trường ta bây giờ là Đoàn bộ, cán bộ đợt một đã về, nửa người Mông nửa người Hán. Việc thứ nhất sau khi xây dựng binh đoàn là diệt sói. Các cán bộ binh đoàn nghe nói sói cắn chết nhiều ngựa thì tức điên. Họ bảo ngày xưa bộ đội về thảo nguyên giúp dân tiễu phỉ, giờ công việc đầu tiên là giúp dân diệt sói, điều động quân hùng tướng mạnh vì dân trừ hại. Người ta có thiện chí, nhưng người già Mông Cổ thì có khổ mà không nói ra, nói về cái lợi của sói với binh sĩ xuất thân nông dân chẳng khác đàn gảy tai trâu! Lúc này lông sói đã mọc dày, bộ da bán được tiền, lương cán bộ binh đoàn không cao, tham mưu cán sự lương tháng chỉ sáu bảy chục tệ, một bộ da sói bán được hai mươi tệ, lại còn khen thưởng biểu dương, các cán bộ sư đoàn, binh đoàn đều phấn chấn.
            Dương Khắc thở dài, nói: Sói thảo nguyên Mông Cổ là những anh hùng mạt lộ, vang bóng một thời, hãy chuồn sang Ngoại Mông mau!

________Hết chương 30________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:30:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31

Lý Uyên xuất thân quý tộc, mẹ là con gái Độc Cô, chị em với Hoàng hậu Tuỳ Văn Đế.
                                                      Trương Truyền Tỉ “Trung Quốc cổ đại sử cương”


Nếu như bàn về mẫu hê, người sáng lập và là quân chủ thời kỳ đầu nhà Đường như Cao Tổ (Đường Cao Tổ Lý Uyên - người dẫn chú), mẹ là Độc cô thị, Đường Thái Tôn (Đường Thái Tôn Lý Thế Dân- người dẫn chú), mẹ là Đậu Thị, tức Hột Đậu Lăng Thị, Cao Tôn (Đường Cao Tôn Lý Trị), mẹ là Trường Tôn Thị, đều loài Hồ, không phải tộc Hán. Do vậy hoàng thất Lý Đường có sự pha trộn, con cháu của tộc Hồ
                                                                             Trần Tân Lạc “Đường đại chính trị sử thuật luận cương”

            Sáng tinh mơ, hai chiếc xe gíp mui trần đỗ cách lều bạt Trần Trận không xa. Sói con trông thấy hai con vật khổng lồ, lại ngửi thấy mùi lạ hoắc, sợ quá chui tụt vào hang. Chó lớn chó bé xông ra vây quanh hai chiếc xe mà sủa. Trần Trận và Dương Khắc vội từ trong lều chạy ra nạt chó, đuổi chúng dạt ra.
            Cửa xe mở, Bao Thuận Quý dẫn bốn quân nhân đi thẳng tới chuồng sói. Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung không hiểu sẽ xảy ra chuyện gì, vội đi theo. Trần Trận cố trấn tĩnh, chào hỏi: Chào ông Chủ nhiệm, ông lại đưa người đến xem sói?
            Bao Thuận Quý cười mỉm, nói: Nào, tôi giới thiệu trước- Ông ta trỏ hai sĩ quan tuổi chừng ba mươi- Hai vị là cán bộ tiền trạm của binh đoàn. Vị này là Tham mưu trưởng Từ, vị này là tham mưu Bathơ. Lại trỏ hai lái xe, đây là lão Lưu, đây là cậu Vương. Tất cả rồi sẽ định cư ở đây. Đoàn bộ xây xong nhà, các vị sẽ đón gia quyến lên. Lần này Đoàn bộ cử các vị về đội giúp ta diệt sói.
            Trần Trận tim đập như tim sói đang chạy trốn. Cậu bước tới bắt tay mấy người rồi theo phong tục địa phương, mời mọi người vào trong lều uống trà.
            Bao Thuận Quý nói: Thôi, xem con sói đã. Gọi nó ra đi, hai vị này đến đây là để xem nó.
            Trần Trận cười: Các vị thích nó thế cơ à?
            Tham mưu Từ giọng Thiểm Tây ôn tồn trả lời: Ở đây sói phá dữ, thủ trưởng sư và trung đoàn cử bọn tôi về diệt. Hôm qua trung đoàn phó Lý đã xuống đội. Bọn tôi chưa nhìn thấy sói bao giờ nên Chủ nhiệm Bao đưa về đây xem con sói của các cậu.
            Tham mưu Bathơ nói giọng đông bắc: Nghe anh Bao nói, các cậu nghiên cứu rất sâu về sói cả hai mặt diệt và bắt sói con, lại còn nuôi hẳn một con để tìm hiểu tính nết sói. Đúng là có gan lại hiểu biết, bọn tôi diệt sói phải nhờ các cậu giúp một tay.
            Hai vị tham mưu tỏ ra hoà nhã, không làm bộ làm tịch. Trần Trận thấy họ không đến giết sói con thì hơi yên tâm, cậu ấp úng: Tìm hiểu về sói thì nhiều chuyện lắm, nói mấy ngày đêm cũng không hết. Lát nữa các vị đững xa cái chuồng vài bước, đừng có lại gần, con sói thấy người lạ là cắn. Hôm nọ một vị cán bộ trên Minh (huyện) suýt bị nó cắn đấy.
            Trần Trận vào trong lều lấy ra hai miếng thịt, lại xách theo một cái thớt, lẳng lặng đến bên miệng hang đặt cái thớt xuống, gọi: Sói con ra ăn cơm!
            Con sói chui lên vồ luôn miếng thịt. Trần Trận dùng chân gạt cái thớt che miệng hang rồi chạy luôn ra ngoài chuồng. Thường ngày cho sói ăn vào sáng và chiều. Cho ăn vào lúc tinh mơ thế này thì chưa lần nào. Sói con mừng ra mặt, ăn ngấu nghiến. Bao Thuận Quý và các vị khách vội lùi mấy bước.
            Trần Trận ra hiệu bốn năm người nhích lên cách chuồng một mét, ngồi xuống thành hình cánh cung. Sói con thấy đông người, lắm mùi lạ thì không dám nhảy xổ ra cắn như mọi ngày, nó cụp đuôi rúm người lại, ngoạm miếng thịt ra tận góc xa đặt xuống, quay lại lấy nốt miếng thứ hai. Nó xù lông, tranh thủ ăn như ăn cướp, rất bất mãn vì có nhiều người đến phá bĩnh  Vừa ăn được hai miếng nó trở mặt, nhe răng gầm gừ, rồi nhảy xổ vào các vị khách, động tác nhanh, thái độ hung dữ, khiến khách bị bất ngờ, có một vị ngã bổ chửng. Sói con bị cái xích giật lại chỉ cách các vị khách chừng một mét.
            Tham mưu Bathơ ngồi xếp bằng tròn, phủi đất trên tay, nói: Ghê thật, ghê thật! Dữ hơn bécgiê của quân khu, không có xích thì đã bị nó ngoạm phải.
            Tham mưu Từ nói: Đẻ năm nay mà to gần bằng sói lớn. Bác Bao dẫn bọn tôi đến xem con sói quả đúng sách. Tôi giờ đây đang có cảm giác trận mạc- Lại nói với tham mưu Bathơ- Động tác của sói đột ngột và kín đáo hơn béc-giê, xuất kích rất nhanh!
            Tham mưu Bathơ gật đầu lia lịa. Sói con lỉnh về chỗ miếng thịt, vừa gầm gự vừa ăn nhanh như chớp.
            Hai vị tham mưu còn dùng tay ước lượng tỉ lệ giữa đầu và thân con sói, xem xét cẩn thận bộ lông, nhất trí cho rằng bắn vào đầu hoặc vào ức thì tốt nhất, chỉ một phát là hạ gục, lại không hỏng bộ da.
            Hai vị tham mưu quan sát rất có nghề. Bao Thuận Quý hỉ hả, nói: Toàn thể mục dân và phần lớn thanh niên trí thức phản đối nuôi sói, nhưng tôi cứ để các cậu này nuôi. Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng. Hè vừa rồi tôi đã đưa mấy toán cán bộ về đây. Là người Hán càng phải xem, người sợ sói càng phải xem. Họ bảo con này đẹp hơn sói ở vườn thú. Còn bảo lên thảo nguyên Mông Cổ tận mắt xem sói thảo nguyên, cơ hội ngàn năm có một. Cả Nội Mông không có con thứ hai. Sau này thủ trưởng Đoàn xuống thị sát liên đội, tôi sẽ dẫn các vị về đây để hiểu hơn về loài sói Mông Cổ nổi tiếng này.
            Hai vị tham mưu đều nói: Các thủ trưởng nghe chuyện chắc chắn đến xem. Tham mưu Từ còn dặn Trần Trận: Phải thường xuyên kiểm tra xích và cái cọc.
            Bao Thuận Quý xem đồng hồ, bảo Trần Trận: Nói chuyện chính nhé. Hôm nay đến sớm, một là xem con sói, hai là một người trong hai cậu giúp chúng tôi đi bắn sói. Hai vị tham mưu xuất thân kỵ binh, là xạ thủ ngoại hạng của quân khu. Thủ trưởng binh đoàn đặc cách điều hai vị về đây giúp diệt sói. Hôm qua trên đường đi, tham mưu trưởng bắn hạ một con chim ưng bay cao chỉ còn bằng hạt đỗ, chỉ một phát! Nào, ai trong các cậu đi cùng bọn tôi?
            Trần Trận tim đau nhói. Lần này thảo nguyên Ơlôn gặp khắc tinh rồi. Cùng với bùng nổ dân số ở khu vực nông canh, xe gíp quân sự cộng với xạ thủ ngoại hạng đã về vùng biên. Trần Trận nhăn nhó: Mã quan biết rõ tập tính sói hơn bọn tôi, các vị nên chấm họ làm hướng đạo.
            Bao Thuận Quý nói: Mã quan già không mời được, mã quan trẻ không dùng được, những mã quan có kinh nghiệm đều theo đàn ngựa lên núi, ngựa không thể vắng người trông. Hôm nay một trong hai cậu phải đi. Hai vị tham mưu không phải lúc nào cũng về được. Lần sau thì không cần các cậu nữa.
            Trần Trận nói: Sao ông không gặp Đanchi, anh ấy nổi tiếng về săn bắn.
            Bao Thuận Quý nói: Đanchi đã được Phó Đoàn Lý gọi đi rồi. Phó Đoàn Lý là xạ thủ có hạng, nói đến sói là cơn nghiện nổi điên. Người ta ngồi xe mui trần về nữa kia. Đứng trên xe mui trần mà bắn sướng hơn trên xe gíp mui bạt nhiều. Bao Thuận Quý nhìn đồng hồ nói: Đừng mất thì giờ nữa, đi thôi!
            Trần Trận thấy thoái thác không xong, bảo Dương Khắc: Cậu đi!
            Dương Khắc nói: Mình không hiểu sói bằng cậu. Cậu đi!
            Bao Thuận Quý sốt ruột: Tôi chỉ định cậu Trận đi. Cậu đừng có thoái thác. Nếu cậu nưong nhẹ sói như ông Pilich để bọn tôi trở về tay không là tôi bắn chết con sói của cậu. Đừng dài dòng nữa, đi mau!
            Trần Trận tái mặt, tự nhiên dịch người che cho con sói, nói: Thôi được, để cháu đi.
            Hai xe gíp phóng như bay về hướng tây, kéo theo hai làn bụi khổng lồ.
            Nắng đầu thu khiến Trần Trận nheo mắt. Cậu ngồi bên ghế phụ, gió mạnh đến nỗi không đội nổi mũ đơn. Phóng ngựa nhanh đến mấy cũng không ngộp thở như thế này. Hai xe gíp còn mới, tỉ lệ hao mòn 80%, ít tạp âm, quay xe dễ, máy khoẻ, hai lái xe đều là có thâm niên, nhiều kinh nghiệm việt dã, xe chạy nhanh và ổn định, chạy trên đồi núi mấp mô mà như trên đất bằng.
      Trần Trận đã hai năm không ngồi xe gíp. Nếu như cậu không mê sói, nếu như cậu còn là một tay mơ trước thảo nguyên, nếu như cậu không được thảo nguyên và sói thảo nguyên dạy bảo hơn hai năm, hẳn cậu vui sướng lắm về ân sủng này. Ngồi trên xe gíp chạy như bay như biến trên đại thảo nguyên, truy sát sói thảo nguyên Mông Cổ, quả thật là một hưởng thụ, một khoái cảm, mê hơn nhiều so với quý tộc Anh quốc thổi tù và phóng ngựa săn cáo, so với quý tộc Nga săn gấu trong rừng sâu, so với quý tộc hoàng thất Mãn Mông huy động hàng vạn kỵ binh vây bắt con mồi. Nhưng lúc này Trần Trận thực tình muôn xe bị pan, cậu cảm thấy mình là tên phản bội, dẫn lính đi bắt bạn mình. Bao Thuận Quý thừa biết tình cảm của cậu đối với sói, vì vậy cậu không biết hôm nay phải làm gì để vừa giữ được mạng cho sói con, vừa an toàn cho đàn sói?
      Phong trào diệt sói của binh đoàn đã triển khai trên địa bàn mênh mông của sư đoàn. Quân đoàn sói cuối cùng theo phiên chế viễn cổ trên đại thảo nguyên Mông Cổ vẫn duy trì chiến lược chiến thuật từ thời Hung Nô, Đột Quyết, Tiên Ty, Thành Cát Tư Hãn, sắp bị binh đoàn hiện đại hoá bao vây tiêu diệt. Hơn nữa, còn bị gánh chịu những lời chửi rủa cay đọc, những chuyện vu oan giá hoạ phũ phàng, bị xổ toẹt mọi ảnh hưởng và công lao, bị những kẻ thừa hưởng ân huệ của mình đuổi mình ra khỏi nước, ra khỏi vũ đài lịch sử. Nỗi buồn của Trần Trận chỉ có ông già Pilich và những người thờ tôtem sói trên thảo nguyên, chỉ hai người bạn trong túp lều Mông Cổ của cậu hiểu cho cậu. Cậu buồn vì cậu đi trước thiên hạ xa quá, lùi về viễn cổ sâu quá!
      Thảo nguyên Ơlôn cách năm dặm đã không cùng gió, mười dặm đã không cùng mưa. Chiếc xe gíp chạy trên đường đất ẩm ướt, gió thu ào ào khiến đầu óc Trần Trận tỉnh táo. Cậu tính bất kể trường hợp nào cũng chỉ cho họ nhìn thấy sói chứ không thể hạ sát, nếu vậy phải là nơi sói dễ lẩn trốn.
      Trần Trận ngoảnh lại bảo Bao Thuận Quý: Cháu biết chỗ có sói nhưng rất dốc và nhiều lau sậy, xe không chạy được.
      Bao Thuận Quý trợn mắt: Cậu đừng có bịp tôi. Lúc này bãi sậy nhiều muỗi nhất, sói ở đấy sao được? Tôi săn sói đã hơn nửa năm, chuyện ấy sao không biết.
      Trần Trận chống chế: ý cháu nói là… không thể vào bãi sậy, chỉ có thể đến vùng cát hoặc nơi có những con dốc thoai thoải.
      Bao Thuận Quý hỏi dồn: Vùng cát sau khi xảy ra sự cố, đàn sói đã bị mã quan đuổi sạch. Hôm qua bọn tôi đã lượn vài vòng không gặp con sói nào. Tôi thấy hôm nay cậu không chịu trổ tài. Cậu nghe tôi nói rồi đấy, tôi nói một là một hai là hai! Hôm qua cả ngày trời không được con nào, bọn tôi đang bực mình đây.
      Bao Thuận Quý rít một hơi thuốc thổi vào gáy Trần Trận.
      Trần Trận biết khó mà lung lạc con người từ cơ sở ngoi lên này, bèn nói: Cháu biết có một trảng cát ở mạn tây bắc Sacanôla, là nơi đầu gió, nhiều cát ít cỏ, chuột và chuột hôi rất nhiều, rái cá cạn cũng lắm. Không bắt được ngựa, đàn sói lên đó bắt chuột, bắt rái cá.
      Trần Trận quyết định dẫn họ lên trảng cỏ cằn cỗi nửa cát nửa cỏ tận phía tây bắc mục trường. Bãi chăn ấy tốt nhưng rất gần đường biên, xưa nay chưa mã quan nào dám lên. Trần Trận hi vọng nhìn thấy họ là sói đã kịp chạy lên đường biên.
      Bao Thuận Quý đắn đo một lát, chợt mỉm cười, nói: Đúng rồi, đó là nơi có sói. Sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Lão Lưu, cho xe rẽ hướng bắc, hôm nay không đi đâu hết, chỉ đến đó. Chạy nhanh vào!
      Trần Trận bổ sung: Săn sói phải đi bộ, xe gíp ồn quá, chỉ sợ sói chạy hết vào trảng cỏ. Năm nay mưa nhiều, cỏ mọc cao, sói để nấp.
      Tham mưu Từ nói: Cậu để tôi trông thấy sói là được, chuyện sau đó không cần quan tâm.
      Trần Trận cảm thấy có thể cậu phạm sai lầm lớn.
      Xe gíp men theo con đường bốn mùa di chuyển bãi chăn, chạy hết tốc lực về phía tây bắc. Bãi cỏ xuân cho cừu đẻ con bị gặm cụt gốc, nay sang thu đã cao trên hai thước, thân cỏ ken dày, dập dềnh trước gió như sóng biển; những bông cúc vàng rung rinh, những vạt cỏ dinh dưỡng cao toả mùi hương hấp dẫn; vài con chim én đuổi theo xe đớp đám côn trùng bay vù lên. Chim én bị ô tô bỏ lại phía sau, nhưng phía trước xe lại hiện ra những con khác, chúng vẽ những đường parapôn phía trên xe.
      Trần Trận ngốn mùi thơm của hoa cỏ mùa thu. Trước mắt có thể là bãi đỡ đẻ cho cừu vào năm tới, là dương quan, cậu rất quan tâm đến tình hình mọc cỏ ở đây. Thu nhập hàng năm của mục trường, 70% dựa vào tiền bán len và cừu sống. Bãi đỡ đẻ là bãi vàng, là sinh mạng của mục trường. Trần Trận nhìn kỹ hai bên đường, cỏ mọc đep như có người chăm sóc, phẳng như ruộng lúa mạch. Từ khi đại đội chuyển vào bãi chăn mới, chỗ này không thấy có người dựng lều bạt. Trần Trận cảm ơn đàn sói và các mã quan, nếu như không có đàn sói, bãi cỏ thơm mê mẩn này sẽ biếu không cho dê vàng, thỏ đồng và chuột thảo nguyên. Suốt mùa hè, đàn sói không cho những cao thủ giành giật cỏ non nói trên đạt mục đích.
      Mỗi bãi chăn xanh tốt mà Trần Trận nhìn thấy đều là công lao của các mã quan. Chính họ không quản ngày đêm, bất chấp nắng mưa chặn đứng đàn ngựa tham lam, khoanh chúng trên núi cho ăn cỏ loại hai hoặc ăn thừa cỏ của bò cừu, dứt khoát không cho chúng ăn cỏ ở bãi cừu đẻ. Những dân tộc sống trên lưng ngựa rất yêu ngựa, coi ngựa như sinh mạng. Nhưng khi chăn thả, họ coi ngựa như đạo tặc hoặc như châu chấu để đề phòng. Nếu không có các mã quan, bãi cỏ quý như mạng người này sẽ chỉ còn lại những bãi phân ngựa tiêu hoá không hết, những đám cỏ chết khô vì nước đái ngựa. Thế nhưng, những cán bộ binh đoàn đến từ vùng nông nghiệp làm sao hiểu nổi những ảo diệu của thảo nguyên và nghề chăn thả?
      Xe chạy như bay, nhưng không cuốn theo bụi vàng nữa. Được nghỉ ngơi cả mùa hè, con đưòng đất cổ lỗ được phủ lên một lớp cỏ non mảnh mai. Du mục là luân canh. Cho lớp cỏ mỏng manh ấy xây xát nhẹ rồi bón bằng phân bò phân cừu. Hàng ngàn năm nay, dân tộc thảo nguyên áp dụng phương pháp sản xuất tối nguyên thuỷ và cũng rất khoa học này để bảo vệ thảo nguyên Mông Cổ. Trần Trận nghĩ một lúc, rồi không đừng được, cậu nói với Tham mưu trưởng Từ: Ông xem, đồng cỏ này được bảo vệ rất tốt. Mùa xuân năm nay đại đội nhân mã kéo đến chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu thì cũng là lúc mấy vạn con dê vàng từ Ngoại Mông kéo về. Mọi người dùng súng đuổi không đi, ban ngày đi, tối trở lại giành giật cỏ với cừu non, cừu mẹ. Sau đó may mà có đàn sói, chỉ ít ngày đã đuổi sạch dê vàng. Thảo nguyên mà không có sói, cừu mẹ không có cỏ, cừu non không có sữa, hàng vạn cừu non sẽ chết đói. Chăn nuôi không như trồng trọt. Trồng trọt mất mùa chỉ một năm, còn chăn nuôi thì bảy tám năm, thậm chí thu thập cả đời cũng không bù nổi. Tham mưu trưởng Từ gật đầu, cặp mắt chim ưng tiếp tục sục sạo các xó xỉnh. Ông ta nói: Diệt dê vàng mà phải nhờ sói? Quá lạc hậu! Súng và lỗi bắn của mục dân không ổn, lại không có ô tô. Để mùa xuân sang năm chúng tôi tiến hành cho các vị xem, chúng tôi dùng tiểu liên, trung liên thì mấy vạn dê vàng cũng không sợ. Hồi tôi ở miền tây Nội Mông có săn dê vàng. Săn dê vàng tốt nhất là vào ban đêm, bật đèn pha, dê vàng sợ bóng tối, tập trung hết về phía ánh sang trước mũi xe, thế là vừa cho xe chạy vừa lia, một đêm hạ gục mấy trăm con. Đây có dê vàng thì hay rồi. Chúng đến càng nhiều càng tốt, như vậy sư đoàn bộ và nông nghiệp đoàn có thịt ăn.
      Kìa! Bao Thuận Quý khẽ kêu, trỏ phía bên trái. Trần Trận dùng ống nhòm, vội bảo đó là con cáo lớn, đuổi theo mau! Bao Thuận Quý tỏ vẻ thất vọng, nói: Cáo thì đừng đuổi. Quay lại nói với Tham mưu trưởng: Đừng bắn, đừng bắn! Sói rất thính tai, chúng giật mình bỏ chạy là chuyến đi công cố.
      Tham mưu Từ ngồi xuống, mặt mày tươi tỉnh, nói: Hôm nay hên rồi, đã gặp cáo thì thế nào cũng gặp sói.
      Xe gíp càng gần bãi chăn, động vật trên sườn núi và trong trảng cỏ càng nhiều, hơn nữa đều có đuôi “sa mạc” ở sau: én sa mạc, gà sa mạc, cáo sa mạc. Gà sa mạc có cánh nâu nhiều nhất, hàng đàn, vỗ cánh rào rào. Trần Trận trỏ một con đèo thấp xa xa, nói: Qua con đèu kia là tới vùng cát. Những người già bảo, vùng cát xưa kia vốn là vùng cỏ, còn có cả một con suối. Cách đây mấy chục năm, vùng Ơlôn bị đại hạn, hồ cạn, sông biến mất dòng chảy, giếng khô, nhưng một giếng thiên nhiên có nước. Khi đó, tất cả những đàn cừu đàn bò đàn ngựa đều đến uống nước ở mắt giếng này, từ sáng đến đêm, từng đàn gia súc xếp hàng uống nước. May mà mắt giếng không cạn, đồng cỏ hồi phục dần, nhưng phải mấy chục năm mới lai như xưa. Thảo nguyên èo ợt lắm, gia súc tăng quá mức một tí là biến thành sa mạc.
      Một đàn chuột thảo nguyên kêu chí chí chạy tán loạn ngay trước bánh xe. Trần Trận trỏ thảo nguyên nói: Sức tải gia súc phải tính cả chuột trong đó. Chuột thảo nguyên huỷ hoại cỏ nhiều hơn gia súc, mà sói có công lớn trong việc giảm nhẹ sức tải của thảo nguyên. Lát nữa các ông bắn được sói, cháu mổ bụng nó cho các ông xem, mùa này trong bụng sói quá nửa là thịt chuột và chuột đồng.
      Tham mưu Từ nói: Tôi chưa nghe nói sói ăn chuột bao giờ. Chó bắt chuột mà còn coi là chuyện trái khoáy nữa là sói.
      Trần Trận nói: Sói con rất thích ăn thịt chuột, ăn cả đuôi. Thảo nguyên Ơlôn không bao giờ có dịch hạch, chính là vì chúng tôi không giết hết sói. Các vị giết hết sói, chuột sẽ hoành hành, thảo nguyên Ơlôn sẽ phát sinh bệnh dịch...
      Bao Thuận Quý ngắt lời: Tập trung tư tưởng, quan sát kỹ!
                                                                       o0o
      Xe tới gần mỏm núi. Tham mưu Từ tỏ ra căng thẳng. Ông ta xem xét địa hình, rồi kiên quyết cho xe rẽ sang hướng tây, nói: Nếu trảng cát có sói thì không thể xộc thẳng vào, mà phải triệt trạm gác lưu động trước.
      Ô tô chạy vào một khe núi dọc theo hướng đông tây, đường đi ngày càng chật, bên trái là núi, bên phải là trảng cát. Tham mưu Từ dùng ống nhòm phóng đại lớn sục sạo các bụi cỏ hai bên, chợt nói khẽ: Dốc bên trái có hai con sói! Rồi ra hiệu báo tin cho xe sau. Trần Trận cũng trông thấy hai con sói đang chạy chậm theo hướng tây, cách ba bốn dặm.
      Tham mưu Tự bảo tài Lưu: Đừng xộc thẳng vào, cứ chạy theo đường núi cùng chiều với chúng, giữ nguyên tốc độ cũ để bắn vào ức.
      Lão Lưu đáp gọn một tiếng: Rõ! Rồi cho xe chạy cùng hướng với sói và tăng dần tốc độ.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:31:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31 (tiếp)

Trần Trận chợt nhận ra vị xạ thủ đặc biệt này rất có kinh nghiệm thực tiễn. Xe chạy kiểu này vừa rút ngắn được khoảng cách, vừa làm cho sói lầm tưởng là xe qua đường, không săn đuổi chúng. Xe tuần tra đường biên kỷ luật rất nghiêm, để bảo đảm yếu tố kín đáo bất ngờ, cấm nổ súng nếu không phải trường hợp đặc biệt. Cho nên sói thảo nguyên Ơlôn không sợ khi gặp xe gíp. Lúc này xe chạy trên cỏ thấp, phía dưới là cát ẩm nên tiếng động không lớn, hai con sói vẫn chạy thủng thẳng, đôi lúc chúng dừng lại nhìn xe rồi mới chạy tiếp về phía tây, nhưng đường chạy đã bắt đầu chếch so với đường dọc theo chân núi. Trần Trận đoán ra ý đồ của sói: Nếu xe vẫn chạy theo chân núi thì chỉ là xe qua đường, sói vẫn chạy theo đường cũ và nới lỏng giám sát; nhưng nếu xe xộc thẳng vào thì chúng lập tức tăng tốc, vọt qua mỏm núi và biến mất, đừng hòng thấy lại chúng.
      Hai con sói chạy rất đúng bài bản. Sói Ơlôn biết tầm bắn có hiệu quả của súng săn. Ngoài tầm bắn, sói còn cố ý trêu chọc, thậm chí còn dụ người đi săn vào nơi nguy hiểm, xe dễ lật. Nếu gần đó có họ hàng, chũng sẽ dụ anh rẽ sang đường khác để sói bị đuổi thoát hiểm. Trận Trận thấy sói không tăng tốc thì lo, dự cảm có chuyện chẳng lành. Xe này không phải xe tuần tra biên phòng, chỉ là xe đi săn, trên xe có hai xạ thủ đặc biệt mà sói thảo nguyên chưa bao giờ gặp, họ có thể bắn trúng ở tầm bắn mà mục dân cho là không hiệu quả.
      Dần dà chiếc xe gíp chạy song song với hai con sói, khoảng cách từ một nghìn năm trăm mét rút ngắn chỉ còn bảy tám trăm mét. Hai con sói hình như hơi căng thẳng, lặng lẽ tăng tốc. Nhưng chiếc xe chạy bon bon quả thật làm hai con sói mê mẩn, mất sự cảnh giác cần thiết. Trần Trận thậm chí ngờ rằng chúng đang cố ý thu hút và làm chậm tốc độ của xe. Lúc này, hai vị xạ thủ đã gác nòng súng ra phía ngoài chuẩn bị bắn. Tim Trần Trận như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cậu dán mắt vào các động tác của Tham mưu Từ, hi vọng đúng lúc lẩy cò thì xe dừng lại, có thể hai con sói sẽ thoát chết.
      Cuối cùng, xe chạy song song với hai con sói, khoảng cách chừng bốn năm trăm mét. Hai con sói bỗng dừng chạy liếc sang xe, chắc chúng đã trông thấy súng, thế là đột nhiên tăng tốc, con trước con sau nhằm mỏm núi chạy chéo lên. Cùng lúc, hai tiếng súng nổ vang “pằng”, “pằng”, hai con sói đồng thời ngã xuống. Bao Thuận Quý reo lên: Bắn giỏi quá! Giỏi như thần! Trần Trận toát mồ hôi lạnh- xe lắc lư mà hai phát trúng cả hai thì quả thật cậu và sói thảo nguyên không tưởng tượng nổi.
      Hai xạ thủ ngoại hạng chỉ coi đó là rượu khai vị. Hứng lên, Tham mưu Từ lệnh cho tài xế Lưu chạy nhanh vào trảng cát, ông ta giục: Mau lên! Rồi dùng hai tay ra hiệu cho xe sau phối hợp bao vây gọng kìm. Hai chiếc xe mở hết tốc lực rời con đường chạy lên mỏm núi bên phải.
      Tài Lưu theo sự chỉ dẫn của Tham mưu Từ vượt một mỏm núi, chạy xuống một trảng cát rộng, rồi chiếm nhanh một cao điểm. Tham mưu trưởng Từ chống tay đứng dậy nhìn lướt trảng cát thấy hai đàn sói đang chạy hai ngả theo hướng tây bắc và chính bắc. Trần Trận nhìn qua ống nhòm, đàn chính bắc có bốn năm con tương đối lớn; đàn tây bắc có bảy tám con, trừ ba con tương đối lớn, số còn lại tương đối nhỏ, là sói mới sinh hồi đầu năm. Tham mưu Từ bảo tài Lưu: Đuổi đàn chính bắc! Rồi ra hiệu cho xe sau chạy hướng tây bắc. Hai xe chia nhau chạy hai ngả.
      Cánh đồng bằng phẳng nửa cát nửa cỏ là chiến trường lý tưởng cho xe gíp quân sự phóng hết tốc độ. Tài Lưu nói to: Đề nghị nắm chắc tay vịn, tôi không dùng súng, tôi sẽ chẹt chết vài con!
      Xe phóng nhanh như bay, trong đầu Trần Trận loé lên cụm từ “tốc độ tử vong”. Trên thảo nguyên , chỉ dê vàng mới có tốc độ này, ngựa chiến, sói hoang có chạy nhanh hơn cũng không bằng. Xe gíp phóng về phía đàn sói với tốc độ tử thần, đuổi theo 20 phút liền, đàn sói từ bằng hạt vừng to dần lên bằng hạt đậu xanh, rồi bằng hạt đậu nành. Nhưng Tham mưu Từ vẫn chưa nổ súng. Trần Trận nghĩ, vị tham mưu trưởng này có thể bắn rớt chim ưng bằng hạt đậu xanh, sao bây giờ vẫn chưa động thủ?
      Bao Thuận Quý hỏi: Nổ súng được chưa?
      Tham mưu Từ nói: Xa thế này, nổ súng là chúng chạy tản mát. Gần chút nữa có thể bắn được hai con mà không hỏng bộ da.
      Tài Lưu phấn khởi, nói: Hôm nay mỗi người được chia một bộ da lớn thì tốt quá.
      Tham mưu Từ nẹt: Chú ý tay lái, lật xe là làm mồi cho sói.
      Tài Lưu không nói gì, tiếp tục tăng tốc, chiếc xe gíp băng lên. Nhưng vừa vượt một đụn cát, một bộ xương bò đồ sộ sừng sững chắn ngang như vật cản kỵ binh trên chiến trường xưa, đàn sói có thể phi thân vượt qua, nhưng xe gíp thì không thể. Tài Lưu giật mình quặt mạnh tay lái xe  ngoặt gấp về bên trái, hai bánh bên phải bốc khỏi mặt đất, suýt lật. Người trên xe nhổm hết dậy, thiếu chút văng ra ngoài. Ai nấy sợ tái mặt. Trần Trận sợ khiếp vía khi thân xe quẹt ngang bộ xương, khi đã lấy lại thăng bằng mà cậu vẫn không hết run. Cậu hiểu bọn sói bắt đầu lợi dụng địa hình để rút lui. Chỉ một mẹo nhỏ, thiếu chút cả xe lẫn người đi tong. Bao Thuận Quý mặt trắng nhợt, hét: Chạy chậm lại! Tài Lưu vuốt mồ hôi trán, xe chậm lại tí chút, đàn sói lại bứt xa hơn. Tham mưu Từ trái lại, giục: Tăng tốc! Xe chạy vừa tốc độ như ý muốn, trước mặt đã hiện ra những khóm cỏ rối bời. Trần Trận từng chăn cừu ở đây nên rất có ấn tượng về địa hình, cậu hét to: Trước mặt là đầm lầy, toàn những mô đất lởm chởm rất dễ lật xe, giảm tốc ngay!
      Nhưng Tham mưu Từ không thèm để ý lời Trần Trận, hai tay bấu tay vịn, ngả người nhìn phía trước, luôn miệng giục: Tăng tốc! Tăng tốc! Chân ga đã đạp hết cỡ, chiếc xe lao lên như điên, bốn bánh gần như không chạm đất, Trần Trận bám chắc tay vịn, lục phủ ngũ tạng lộn tùn phèo.
      Trần Trận hiểu đàn sói lợi dụng rất khéo địa hình, đang giở ngón cuối cùng để thoát hiểm. Chúng sẽ ào xuống đầm lầy là xe không thể đuổi theo được nữa. Tài Lưu chửi thề: Lũ sói lưu manh chạy vào cái nơi chết tiệt này!
      Tham mưu Từ lạnh lùng, bảo: Đừng cuống. Đây không phải diễn tập, đây là thực tiễn chiến đấu.
      Đuổi thêm bảy tám dặm nữa, có lẽ đã tới đầm lầy, ở đó những thân cỏ cứng dựng tua tủa, nhưng lúc này xe gíp đã vào tới tầm bắn của xạ thủ du mục.Tham mưu Từ quát: Lướt trái! Tài Lưu đánh khẽ tay lái, chiếc xe như một chiến hạm quay ngang, đàn sói phơi trước mũi súng tham mưu Từ. “Pằng!”, một sói lớn trong đàn ngã gục, viên đạn bắn trúng đầu; “pằng!” một phát nữa bắn đi, con sói thứ hai dính đạn cắm đầu xuống đất. Cùng lúc, đàn sói ào ào nhảy xuống đầm lẩn trong những bụi cỏ rậm, không còn trông rõ để nổ súng. Đàn sói chạy khuất trong cỏ về phía đường biên, mất hút. Tiếng súng phía tây bắc cũng đã ngừng. Chiếc xe gíp dừng lại ở chỗ chân dốc giáp đầm lầy.
      Tham mưu Từ lau mồ hôi, nói: Sói ở đây rất ranh ma, nếu không, có thể được mấy con nữa.
      Bao Thuận Quý giơ cả hai ngón tay cái, biểu dương: Đã quá! Chưa đầy 30 phút hạ ba sói lớn. Nửa năm nay tôi chưa bắn được con nào.
      Tham mưu Từ vẫn đang hào hứng, nói: Địa hình nơi này khá phức tạp, rất tốt cho sói đánh du kích, chả trách không thanh toán được nạn sói.
      Xe gíp chạy chậm tới gần con sói bị bắn chết. Cón sói thứ hai bị bắn giữa ức, máu thấm đẫm cỏ. Bao Thuận Quý và Tài Lưu khênh con sói đến sau xe, Tài Lưu đá con sói một cái, nói: Nặng thật, đủ cho mười người ăn một bữa thả cửa. Anh ta mở cốp sau lôi ra tấm vải bạt đem trải lên ghế sau. Lại lấy ra hai cái tải, nhét mỗi tải một con, rồi nhét tất cả vào cốp, nắp không cài lên được, trở thành cái “bàn treo”, hẳn tài Lưu dành chỗ cho con thứ hai.
      Trần Trận rất muốn mổ bụng con sói cho mấy vị quân nhân này xem, nhưng thấy họ không có ý lột da tại chỗ, bèn hỏi: Các ông dám ăn thịt sói? Thịt sói chua, mục dân ở đây không ăn.
      Tài Lưu nói: Nói bậy thịt sói không chua tí nào. Tôi ăn ở quê mấy bận rồi, thịt sói ngon hơn thịt chó. Con sói này béo đây. Làm thịt sói giống như làm thịt chó, xối nước lã một ngày cho hết mùi hoi, sau đó ướp nhiều tỏi ớt, rồi nấu xáo, thơm lừng. Quê tôi, nhà nào nấu xáo thịt sói là cả thôn đều biết, tranh nhau đòi ăn, nói là ăn thịt sói can đảm hẳn lên. Trần Trận hỏi, ngụ ý cay độc: Mục dân ở đây có tục thiên táng, người chết được người nhà chở đễn bãi thiên táng cho sói ăn thịt. Con sói nào đã ăn thịt người, các ông có dám ăn không?
      Tài Lưu tỉnh khô: Chuyện này tôi biết. Không ăn bao tử và ruột non ruột già là được. Chó ăn phân người, vậy thịt chó có bẩn không? Phân người tưới rau, vậy rau có bẩn không? Người Hán chúng ta thích ăn thịt chó, thích rau xanh, đúng không? Binh đoàn bao nhiêu là người, thịt cừu ăn theo định lượng, lên thảo nguyên chưa được miếng thịt nào, thèm chết được. Mấy con này về Đoàn bộ đâu đã đủ chia? Đúng là sói ít cừu nhiều!- Lão cười hềnh hệch.
      Tham mưu Từ cũng cười thoải mái: Khi tôi về đây, Sư bộ đã giao chỉ tiêu, tối nay phải đem thịt lên nộp. Người ta bảo ăn thịt sói chữa được bệnh hen, mấy ông bệnh nặng đã đăng ký, tôi sắp thành bác sĩ điều trị rồi. Săn sói là một công việc dễ chịu, một là trừ hại, hai là mình được bộ da, ba là trị bệnh cứu người, bốn là đáp ứng được lũ quỉ đói, một công bốn việc đấy chứ!
      Trần Trận nghĩ, có mổ bụng sói ra thì cũng không ngăng được những người này bỏ ý định săn sói.
      Tài Lưu đánh xe về chỗ bắn ngã con sói thứ nhất. Con sói đầu vỡ toác, đàn từ sau gáy ra phía trước, mặt nát bét, máu và óc vương vãi trên mặt đất. Trần Trận vội nhìn kỹ, rất may không phải sói chúa cổ trắng ức trắng, nhẹ cả người. Cậu khẳng định đây là con sói đầu đàn. Để bảo vệ cả đàn, nó dẫn đầu mấy con sói nhanh nhẹn đánh lạc hướng kẻ địch. Tiếc rằng nó chưa có kinh nghiệm và chưa chuẩn bị sẵn sàng đối phó với bọn diệt sói xe mới người mới vũ khí mới.
      Bao Thuận Quý và Tài Lưu vặt nắm cỏ lau sạch máu và óc, cho con sói vào bao tải rồi khênh ra “bàn treo” sau xe buộc chặt. Tài Lưu xuýt xoa: Con này đúng bằng một con bê hai tuổi. Hai người lau tay bằng cỏ rồi cho xe chạy đến chỗ tham mưu Bathơ.
      Hai xe gặp nhau thì dừng lại. Ghế sau Bathơ chất một bao tải căng phồng. Bathơ nói to: Bên này toàn những bụi liễu, xe không chạy được. Bắn ba phát mới được một sói con. Đàn này toàn sói cái và sói con, hình như một gia đình.
      Tham mưu Từ thở dài: Sói ở đây cực kỳ ranh mãnh, sói đực dành đường tốt cho sói cái, sói con rút chạy.
      Bao Thuận Quý reo to: Lại một con nữa, thắng to rồi. Hôm nay là ngày vui nhất sau một năm tôi về mục trường, đã quá! Đi, đến chỗ hai con sói ta uống một bữa tuý luý, tôi có đem theo rượu đây.
      Trần Trận vội nhảy xuống xe đến xem con sói con. Cậu đến trước xe cởi dây buộc, thấy con sói con trong tải rất giống con sói cậu nuôi ở nhà, nhưng con này đầu to hơn. Cậu không ngờ sói con được cậu nuôi nuôi uống tốt như thế mà không lớn bằng con sói hoang, chưa đầy năm mà nó đã trưởng thành, tự săn bắt nuôi dưỡng bản thân... Thế mà cuộc sống của nó mới bắt đầu thì đã bị chết trước mũi súng của con người. Trần  Trận đau xót xoa đầu con sói xấu số như đối với sói con ở nhà. Để bảo vệ sói con, một con sói tự do đã mất mạng.
      Hai chiếc xe gíp chạy về phía nam. Trần Trận mặt buồn rười rượi ngoảnh nhìn đồng cỏ vùng biên. Con sói đầu đàn và bộ phận chủ lực đã bị diệt, có lẽ chúng chưa bao giờ bị giáng một đòn chí mạng nhanh đến thế. Những con chạy thoát chắc chắn không quay lại. Nhưng đàn sói mất thủ lĩnh, mất đội quân chủ lực thì làm sao tồn tại? Ông già Pilich từng nói: Sói mất địa bàn còn thê thảm hơn chó nhà có tang.
      Chiếc xe gíp chạy đến chỗ nổ súng đầu tiên, hai thành viên khoẻ mạnh nhà sói nằm trong vũng máu, hai đàn nhặng xanh nhỏ đang hút máu. Không nỡ nhìn, Trần Trận đi ra chỗ khác ngồi xuống bãi cỏ nhìn lên bầu trời biên giới. Ông già mà biết cậu dẫn hai xe gíp đi săn sói thì ông sẽ nghĩ gì. Ông dạy cho cậu bao nhiêu là kiến thức về sói, rốt cuộc cậu dùng những kiến thức ấy giết sói. Tâm trạng nặng nề và trống rỗng, cậu không biết làm sao gặp mặt ông. Đến đêm, sói mẹ và các sói con sẽ về đây tìm kiếm chồng con đã khuất, và chắc chắn tìm thấy các dấu vết. Đêm nay, trên thảo nguyên này đàn sói sẽ tru suốt đêm...
      Tài Lưu và Tài Vương khênh hai con sói ra xe của Tài Vương, trên hàng ghế sau.
      Trên bãi cỏ trải mấy miếng giấy dầu, trên đặt mấy chai rượu trắng thảo nguyên, một gói lạc rang to tướng, hơn chục quả dưa chuột, hai lon thịt bò hộp và một chậu thịt luộc.
      Bao Thuận Quý tay xách chai rượu, cùng Tham mưu Từ đến bên Trần Trận, kéo cậu lại chỗ liên hoan. Bao Thuận Quý vỗ vai Trần Trận nói: Trận này, hôm nay cậu giúp bọn tôi một việc rất lớn, công to rồi, không có cậu thì vị anh hùng này không có đất dụng võ.
      Tham mưu Từ cùng ba quân nhân nâng cốc chúc rượu Trần Trận. Ông ta nói rất chân thành: Uống đi, chén rượu thứ nhất tôi mời cậu. Cậu nuôi sói nghiên cứu sói và đã thành công, pắt một cái, đưa chúng tôi đến tận hang ổ sói. Cậu không biết hôm qua Chủ nhiệm Bao dẫn bọn tôi đi hơn trăm cây số mà không gặp lấy một con. Nào ta cạn chén, cảm ơn cậu.
      Trần Trận mặt tái nhợt, định nói lại thôi, tiếp chén rượu uống cạn. Cậu rất muốn tìm một chỗ nào đó khóc thật to. Nhưng căn cứ vào tiêu chuẩn người Hán hoặc tiêu chuẩn quân nhân, Tham mưu Từ là một hảo hán. Tham mưu Từ vừa đến thảo nguyên, không nên dùng lập trường thảo nguyên mà gây sự với ông ta. Nhưng cuộc sống du mục nguyên thuỷ sẽ kết thúc trước mũi súng ông ta. Từ đây, lập trường của người Hán sẽ bắt rễ ở nơi này, sau đó giương mắt mà nhìn đồng cỏ biến thành sa mạc. Trần Trận bỗng dưng vớ quả dưa chuột nhai rau ráu, đất vỡ hoang của dân công đã thu hoạch dưa chuột. Hai năm rồi cậu chưa được ăn một quả dưa chuột tươi. Rau quả của các gia đình Hán rất ngon. Có thể người Hán thà chết không chịu từ bỏ tính nông canh, đầy mâm thức ăn ngon, sao cậu lại nhón lấy quả dưa chuột? Vị ngọt thơm cả dưa chuột bỗng trở nên đắng ngắt.
      Tham mưu Từ vỗ lưng Trần Trận nói: Cậu Trận, bọn tôi giết mất nhiều sói, cậu đừng buồn... Tôi biết, cậu nuôi sói nên có tình cảm với sói, lại chịu nhiều ảnh hưởng của ông già du mục. Sói bắt thỏ, bắt chuột, dê vàng, rái cá cạn, quả có công lớn với thảo nguyên, có điều, phương pháp ấy rất cổ lỗ. Bây giờ người ta phóng vệ tinh lên trời, chúng ta hoàn toàn có những phương pháp mới bảo vệ thảo nguyên. Binh đoàn sẽ huy động máy bay AN2 rải thuốc độc và bả chuột, tiêu diệt nạn chuột...
      Trần Trận sững người, nhưng cậu lập tức phản ứng, vội can: Đừng, đừng làm thế. Những con chuột trúng độc sẽ bị sói, cáo sa mạc ăn thịt, như vậy động vật trên thảo nguyên sẽ chết hết?
      Bao Thuận Quý nói: Chuột chết hết rồi để sói làm gì?
      Trần Trận cãi: Tác dụng của sói lớn lắm, không thể nói hết với các ông, chí ít có thể hạn chế dê vàng thỏ đồng và rái cá cạn.
      Tài Lưu mặt đỏ gay vì rượu, cười lớn: Dê vàng, thỏ đồng, rái cá cạn là những món cao lương mĩ vị. Khi đại quân chúng tôi kéo về đây, chỉ sợ không đủ cho họ ăn, sói đâu có phần.

________Hết chương 31________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:32:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32

Người + thú tính = người Tây… Tất nhiên không cần nhắc lại thú tính ấy không thấy trên bộ mặt người Trung Quốc, nó vốn không có hay đã biến mất. Vậy dần chỉ còn lại nhân tính, hay chẳng qua là chỉ biết vâng lời. Bò rừng trở thành bò nhà, lợn rừng thành lợn nhà, sói trở thành chó, mất đi tính hoang dã, nhưng chỉ đủ cho người thích, bản thân không tốt đẹp gì. Người là người, đừng kèm thêm cái gì khác, đương nhiên là quá tốt. Nếu như bất đắc dĩ, tôi cho rằng nên có chút thú tính, nếu hợp với công thức dưới đây thì không vui lắm: Người + tính gia súc = loại người nào đó.
                                                                                       Lỗ Tấn “Nhi kỷ tập. Lược luận Trung Quốc nhân chi kiểm”

Bữa ăn dã ngoại đã kết thúc, Bao Thuận Quý rỉ tai Tham mưu Từ mấy câu, hai chiếc xe gíp chạy về phía đông. Trần Trận nói : Sai hướng rồi! Trở lại đường cũ, đường tốt hơn.
Bao Thuận Quý nói: Về đội bộ đường dài 140 cây số chẳng lẽ về tay không.
Tham mưu Từ nói: Ta phải tránh ba địa điểm nổ súng hồi nãy, chạy đường vòng, biết đâu lại gặp sói. Mà dù không gặp sói, gặp cáo cũng không tồi. Nên phát huy truyền thống vẻ vang của quân đội ta, liên tục tác chiến, khuyếch trương chiến quả.
Rất nhanh, xe chạy vào đồng cỏ mùa đông rộng lớn, trước mắt Trần Trận, cỏ trâm mao hút tầm mắt. Trâm mao là loại cỏ nhiều dinh dưỡng hơn các loại cỏ khác, thức ăn rất tốt trong mùa đông, lá dài hơn hai thước, thân cao hơn nửa thước. Về mùa đông, bình thường cỏ không bị tuyết lấp kín, tuyết tó mấy cũng chỉ lấp một nửa, đồng thời là thức ăn tốt cho gia súc, đàn cừu thuận theo ngọn cỏ phía trên mà bới tuyết để ăn lá cỏ phía dưới. Mùa đông ở thảo nguyên Ơlôn dài bảy tháng, đàn gia súc của đại đội tồn tại được qua mùa đông là nhờ đồng cỏ này.
Sóng cỏ dập dờn trước gió thu, lượn từ đường biên phòng tới trước xe gíp. Cỏ lút cả bốn bánh xe. Hai xe như hai ca nô lướt trên biển cỏ. Trần Trận thở ra khoan khoái: Cỏ rậm thế này đừng hòng gặp sói, có dùng kính viễn vọng cũng vô ích.
Trần Trận một lần nữa trào lên tình cảm thân thiết đối với sói thảo nguyên và các mã quan. Cái đẹp tưởng như thuần nguyên thủy, thuần tự nhiên của thảo nguyên, thực tế là do sói thảo nguyên và các mã quan năm này sang năm khác bảo vệ bằng mồ hôi và máu. Vẻ đẹp nguyện thủy của thiên nhiên chứa đựng bao nhiêu sức người sức sói trong đó. Mỗi khi tuyết xuống, mỗi khi mục dân lùa đàn gia súc vào đồng cỏ mùa đông, đều cảm thấy đây là ân trạch của sói ban cho con người. Họ thường hát bài ca thảo nguyên, giọng run rẩy và dài lê thê như tiếng tru của sói.
Hai xe chạy như bay, các xạ thủ có vẻ say nhưng họ vẫn giương ống nhòm tìm kiếm da sói và thịt sói. Trần Trận vẫn suy nghĩ miên man. Cậu ung dung chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguyên thủy của thảo nguyên trước khi người và gia súc đặt chân tới. Lúc này trên đồng cỏ mênh mông không một sợi khói lẻ loi, một con ngựa, một con bò, một con cừu. Đồng cỏ mùa đông được nghỉ ngơi đã hơn nửa năm, tuy xanh tốt bời bời nhưng vắng hơn cả đồng cỏ mùa xuân cho cừu đẻ. Đồng cỏ mùa xuân có rất nhiều chuồng cừu xây bằng đá, chuồng đất, nhà kho, và cần giếng cao cao, vết tích của con người chỗ nào cũng thấy. Còn như đồng cỏ mùa đông, người và gia súc ăn tuyết, không cần nước giếng; đến mùa đông gia súc đã lớn, không cần chuồng trại, chỉ cần xe bò, hàng rào cơ động và những tấm thảm lớn quây hình bán nguyệt che gió cho đàn cừu thay chuồng. Do vậy lúc vào thu, đồng cỏ mùa đông tĩnh tại, không vết chân người, khôg vết chân gia súc, không một công trình xây dựng, chỉ có cỏ trâm mao bạt ngàn nhấp nhô như sóng. Nếu như xuất hiện Gơrigôri với chiếc mũ lông Cadắc màu đen trên đầu thì cậu không nghi ngờ sau lưng anh là thảo nguyên sông Đông đẹp đến mê mẩn. Từ hồi học sơ trung, Trần Trận đã xem ba lần truyện và phim “Sông Đông êm đềm”. Sau đó, khi rời Bắc Kinh, cậu đem theo tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm” và những thứ liên quan lên thảo nguyên Ơlôn.
“Sông Đông êm đềm” là một trong những động lực thúc đẩy Trần Trận lên thảo nguyên Ơlôn. Trần Trận mê thảo nguyên Mông Cổ là do sói và người thảo nguyên Mông Cổ tha thiết yêu tự do, chiến đấu vì tự do. Vì đâu thảo nguyên có sức hút mạnh mẽ đến như thế, khiến la bàn tình cảm của cậu luôn chỉ về phương ấy? Trần Trận thường cảm thấy thảo nguyên đang run rẩy kêu cứu, khiến tự nơi sâu thẳm của tâm hồn cậu vang lên cộng hưởng, thần bí hơn, sâu đậm hơn sự cộng hưởng tâm linh giữa mẹ và con. Đó là sự cảm ứng tâm linh với tổ mẫu, tằng tổ, thái tổ và thủy tổ xa hơn xưa hơn, từ đáy lòng, sự vị cảm tri bỗng bật lên thành tình cảm đối với tổ tiên xa lắc.
Trần Trận nhìn thảo nguyên thanh vắng như kẻ mộng du, cậu như trông thấy tổ tiên nhân loại thời tiền sử mông muội. Các bậc thầy thường dạy: Đứng thẳng và lao động sáng tạo ra loài người. Vậy người vượn đứng thẳng trong rừng hay trên thảo nguyên? Đây là một câu hỏi liên quan rất sâu đến “đất tổ”.
Trần Trận đã hai năm “kết bạn” với thú dữ trên thảo nguyên. Theo cậu, người vượn không thể đứng thẳng trong rừng, vì rằng ở rừng, hai chi trước càng quan trọng, càng phải phát triển. Trong rừng, muốn nhìn xa, phải trèo lên cao; muốn tránh mãnh thú, càng lên cao nữa; muốn hái lượm cũng phải dựa vào chi trước; quan trọng hơn nữa, muốn giải quyết vấn đề tốc độ trong rừng, phải dựa vào hai chi trước để “đi”. Công dụng của chi trước và vai người vượn lớn như thế, nên chi sau không thể phát triển, chi sau chỉ là cơ quan bổ trợ cho chi trước, nó đảm nhiệm công việc nặng nề đi đứng dưới đất. Vì vậy ở trong rừng, người vượn không thể và không cần thiết phải đứng thẳng.
Sau đó, do động vật sinh sôi nảy nở, rừng chật, thức ăn ngày càng ít, hoàn cảnh khốc liệt đẩy một bộ phận người vượn ra khỏi rừng, buộc phải sống trên đồng cỏ, hoàn cảnh sinh sống mới bắt đầu cải tạo công dụng chi trước chi sau của người vượn. Một mặt thảo nguyên đầy nguy hiểm, sói phục hổ rình, mà lại không có điểm cao để trèo lên, người vượn muốn có tầm cao trong bụi cỏ để quan sát kẻ thù và con mồi, buộc phải đứng lên; mặt khác, thảo nguyên không có cây cối để leo trèo, chi trước của người vượn dùng để “đi” nhanh trở nên vô dụng, thảo nguyên buộc chi sau của người vượn phải khỏe, to, rắn chắc lên. Trải qua vài chục vạn năm liên tục sử dụng chi sau, từng tí một, xương sống và xương đùi thẳng ra, bộ ngực và chi sau người vượn thẳng góc so với mặt đất. Đứng thẳng, người vượn mới có chân mang ý nghĩa chân người, mới giải phóng chi trước trở thành “tay” khiến tất cả động vật nể sợ, càng thúc đẩy sự tiến bộ về trí lực, do đó đánh bại tất cả mãnh thú, thành vua của muôn loài, cuối cùng trở thành người.
Người nguyên thủy tay cầm rìu đá, tay cầm đuốc, đứng thắng trong tư thế chiến đấu. Rìu đá trước hết là vũ khí chiến đấu với mãnh thú, sau đó mới là công cụ sản xuất tìm kiếm cái ăn. Chiến đấu để sinh tồn, sinh tồn và sau đó là lao động, không chỉ đứng thẳng và lao động sáng tạo ra con người, hơn nữa, vô số những cuộc chiến thúc đẩy phải đứng thẳng mới thật sự sáng tạo ra con người. Người vượn nào không chấp nhận đứng thẳng, tiếp tục chạy bằng bốn chân, rốt cuộc không chạy nhanh bằng hổ báo sư tử sói, nên bị đào thải. Sau nhiều năm quan sát suy ngẫm, và cả bằng trực giác, Trần Trận rút ra kết luận: Người vượn đứng thẳng trên thảo nguyên, mà sói thảo nguyên là một trong những nhân tố quan trọng buộc người vượn đứng thẳng.
Do vậy, thảo nguyên tàn khốc và đẹp đẽ không chỉ là đất tổ của dân tộc Hoa Hạ, mà còn là đất tổ và là cái nôi của toàn nhân loại. Thảo nguyên là điểm xuất phát của nhân loại đứng thẳng “đi tới” toàn cầu. Thảo nguyên rộng lớn là thủy tổ xa xưa nhất của nhân loại. Trần Trận cảm thấy cậu được bao bọc trong một tình cảm dịu dàng thân thiết từ mỗi lá cỏ, mỗi hạt cát trên thảo nguyên. Đồng thời là nỗi căm giận không nguôi bám riết trái tim cậu. Cậu cho rằng đám người nông canh phóng hỏa khẩn hoang tàn hại thảo nguyên, là những tên tội phạm ngu xuẩn và tàn nhẫn.
***
Xe chạy theo con đường cổ xưa về phía đông. Mặt đường rắn, nhưng có khá nhiều phân và nước tiểu gia súc để lại khi di chuyển bãi chăn, vì vậy cỏ mặt đường tuy thấp nhưng khỏe, màu xanh sẫm, nhìn từ xa, giống một con hào xanh chọc thẳng vào vùng sâu thảo nguyên.
Trần Trận bỗng nhìn thấy ba chấm đen trong búi cỏ phía bên phải không xa. Cậu biết đó là một con cáo lớn, hai chân trước buông xuôi, nó đứng trên hai chân sau, nửa người nhô lên khỏi bụi cỏ nhìn xe gíp từ xa. Quá trưa nắng màu vàng chanh chiếu trên đầu trên cổ và trên ức con cáo, đám lông trắng như tuyết trên cổ cáo biến thành màu vàng nhạt, cùng màu với cỏ trâm mao, còn ba chấm đen trên cổ thì rất nổi bật, đó là hai con mắt và cái chóp mũi của con cáo. Mỗi lần Trần Trận cùng ông già Pilich đi săn cáo, nhất là săn vào mùa đông, ông già bao giờ cũng chỉ cho cậu xem thợ săn có kinh nghiệm bắn phía dưới ba điểm đen. Cáo thảo nguyên ranh ma đến mấy cũng không đánh lừa được thợ săn thảo nguyên, nhưng lại khiến cho xạ thủ tinh như chim ưng có mắt như mù. Trần Trận không hé răng để khỏi nhìn thấy máu, vả lại, cáo thảo nguyên vốn là kiện tướng bắt chuột thảo nguyên. Xe gíp tiến dần tới “ba chấm đen”, “chấm đen” thụt xuống, mất biến trong cỏ rậm.
Chạy thêm đoạn nữa, một con thỏ đồng từ trong bụi rậm đứng lên nhìn xe, nhưng cặp tai đã làm hỏng kế hoạch ngụy trang của nó. Trần Trận nói: Trước mặt có một con thỏ, kẻ phá hoại thảo nguyên lớn nhất đấy, có bắn không?
Bao Thuận Quý tỏ ra thất vọng, nói: Không bắn vội. Đợi hết sói hãy bắn thỏ.
Con thỏ rướn cao mấy tấc nữa, nó không sợ ô tô, chỉ khi còn cách hơn chục mét, nó rụt cổ biến mất. Hương cỏ ngày càng đậm, cánh đồng mênh mông như biển, các xạ thủ cũng nhận thấy không thể phát hiện con mồi trong đồng cỏ mùa đông bèn cho xe chạy vè phương Nam, rời đồng cỏ trâm mao, rẽ sang đồng cỏ mùa thu mọc thấp, lô nhô gò đống. Hàng ngàn năm nay mục dân chọn nơi này làm đồng cỏ mùa thu, chủ yếu do bông cỏ nhiều hạt như lúa mạch, chứa chất béo và anbuymin, sang thu tất cả đều chín tới, cừu dùng miệng tuốt hạt, nhai ngon lành như ăn đậu đen. Sang thu, đàn cừu tích mỡ dày ba đốt ngón tay ở khu đuôi, là nhờ những hạt cỏ này. Những hộ ngụ cư, do không biết môn khoa học kỹ thuật nguyên thủy này nên thiếu mỡ không qua nổi mùa đông, mà nếu sống sót, sang xuân cũng không có sữa, cừu con chết hàng loạt. Qua hai năm thụ giáo ông già Pilich, Trần Trận đã có thể độc lập tác chiến. Cậu giơ tay tuốt một nắm hạt cỏ rồi miết trong lòng bàn tay, sắp chín, đai đội chuẩn bị chuyển vào đồng cỏ thu là vừa.
Đồng cỏ thu thấp xuống còn một nửa, tầm nhìn xa hơn nhiều, xe tăng tốc. Bao Thuận Quý phát hiện có phân sói mới trên đường đất, các xạ thủ phấn khởi, Trần Trận lại lo. Nơi này cách nơi nổ súng chừng sáu bảy chục cây số, nếu như có sói, chắc không đề phòng hai xe từ phía bắc không có người, lặng lẽ trườn tới.
Xe vừa chạy qua một cái dốc ngắn, bỗng ba người trên xe khẽ kêu: Sói! Sói! Trần Trận dụi mắt, thấy một con sói lớn chỉ cách mũi xe hơn ba trăm mét, to như con báo đốm. Sói lớn ở Ơlôn dựa vào cơ thể to lớn thường đi kiếm mồi một mình, coi như giang sơn một cõi mặc sức tung hoành, thực tế đó là lính đặc công của đàn sói, tìm cơ hội cho đàn.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:32:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32 (tiếp)

Con sói hình như vừa ngủ dậy, hoảng hốt thực sự khi nghe tiếng xe, chuồn nhanh về phía khe cỏ rậm. Tài Lưu tăng ga, phấn khởi hét to: Gần thế này, chạy đâu cho thoát! Ô tô cắt đường chạy, sói vội chạy trở lại lên đỉnh dốc với tốc độ dê vàng, nhưng nó đã bị Tham mưu Bathơ bám riết. Hai chiếc xe gíp hung dữ như mãnh thú xông thẳng vào. Sói đã chạy hết tốc lực, nhưng xe thì chưa nhấn hết ga.
Hai vị xạ thủ ngoại hạng nhường lẫn nhau. Tham mưu Từ nói: Anh ở vị trí tốt, bắn đi! Tham mưu Bathơ nói: Anh bắn chuẩn hơn, anh bắn đi!
Bao Thuận Quý khoát tay: Đừng bắn, không ai nổ súng hết. Bắt sống, kiếm bộ da không vết đạn! Lột da khi sói còn sống, lông sáng và mịn, bán đắt nhất.
Đúng rồi, hai vị xạ thủ đồng thanh kêu lên. Tài Lưu còn giơ tay về phía Bao Thuận Quý, nói: Tôi bảo đảm sẽ đuổi nó chạy hộc máu!
Cỏ thấp, dốc thoai thoải là địa hình lý tưởng cho xe gíp, khoảng cách lại rất gần, hai xe kẹp hai bên, sói khó bề chạy thoát. Sói đã chạy sùi bọt mép, hai xe vẫn ung dung như đùa. Trần Trận không nghĩ rằng, con người lại có ưu thế rõ rệt đến thế đối với sói. Sói thảo nguyên Mông Cổ xưng hùng xưng bá hàng vạn năm, lúc này còn đáng thương hơn con thỏ. Trần Trận thoáng nghĩ, “lạc hậu bị đánh, tiên tiến đánh người”, chẳng lẽ Tăngcơli lại tàn nhẫn đến thế?
Hai chiếc xe gíp do hai cao thủ điều khiển bám dính con sói, sói nhanh xe nhanh, sói chậm xe chậm, dùng tiếng còi chối tai buộc sói tăng tốc, luôn giữ khoảng cách năm sáu chục mét, sói tuy có tốc độ lớn, nhưng to xác tốn năng lượng, chạy hơn 20 dặm đã thở dốc, miệng há hết cỡ mà vẫn không thở được. Trần Trận chưa bao giờ chạy theo con sói lâu đến thế. Con sói cũng chưa bao giờ bị đuổi tới mức thở không ra hơi như thế. Trần Trận có lúc nhắm tịt mắt không nỡ nhìn nhưng vẫn phải mở mắt nhìn. Cậu rất mong con sói chạy nhanh hơn nữa hoặc độn thổ, hoặc bay lên trời như trong truyền thuyết. Nhưng con sói không bay được lên trời, không chui được vào hang, vậy là lên trời xuống đất đều không thể. Sói thảo nguyên trong thần thoại hoàn toàn không thể bay khi gặp khoa học kỹ thuật tiên tiến. Nhưng con sói trước mặt vẫn ráng sức chạy như thế. Trần Trận mong sao trước mặt xuất hiện hố sâu, rãnh lớn hoặc bộ xương bò gì đấy, thì dù bị văng khỏi xe, cậu cũng vui lòng…
Gặp con sói dũng mãnh và đẹp như mơ, các thợ săn phấn khích vô cùng, mặt đỏ hơn uống rượu. Bao Thuận Quý nói rất to: Con sói này to hơn bất cứ con nào ta bắn được hồi nãy. Bộ da nó có thể làm chăn đắp, không cần ghép thêm mảnh nào khác.
Tham mưu Từ nói: Bộ này đừng bán, để biếu thủ trưởng binh đoàn.
Tham mưu Bathơ nói: Đúng đấy! Để thủ trưởng binh đoàn biết sói ở đây lớn như thế nào,nạo sói ở đây khùng khiếp như thế nào.
Tài Lưu vỗ tay lái, nói: Đại thảo nguyên Mông Cổ giàu có thật đấy! Chỉ một năm chúng mình sẽ giàu hơn thành phố.
Nắm tay Trần Trận rỉ mồ hôi, cậu muốn quại thằng cha họ Lưu một cú vào sau gáy, nhưng chợt nghĩ đến sói con ở nhà, con sói đang mong cậu như mong mẹ về chợ, vậy là cậu bỏ tay xuống, cảm thấy toàn thân bải hoải, đầu óc mụ đi. Hai chiếc xe đã dồn được con soi lên một dải đất bằng phẳng, không khe suối, không mương rảnh, không núi non, con sói không thể lợi dụng địa hình địa mạo. Hai xe cùng bóp còi ầm ĩ, con sói chạy vãi linh hồn, tai ù đặc. Bốn chân loạng choạng, hồn vía lên mây, cuối cùng không chạy nhanh được nữa, trái lại giảm tốc nhanh chóng, bọt mép cũng không còn. Hai lái xe tha hồ bóp còi, con sói không muốn chạy nữa.
Bao Thuận Quý giằng lấy khẩu súng trong tay Tham mưu Từ, nhằm nửa trên con sói nổ liền hai phát nhưng chỉ là gãi ngứa, đạn sượt qua lông. Nhưng âm thanh mà sói sợ nhất này khiến con sói mất nốt chút hơi sức cuối cùng, nó chạy thêm được nửa dặm, thở như xé phổi rồi dừng lại đột ngột, quay lại ngồi xổm trên mặt đất, phô diễn tư thế cuối cùng của loài sói.
Hai xe gíp phanh lại cách con sói ba bốn mét. Bao Thuận Quý xách súng nhảy xuống đứng yên trong vài phút, thấy con sói bất động bèn bật lưỡi lê, mạnh dạn tiến lại gần. Con sói run bần bật, ánh mắt hoảng loạn, đồng tử nở to. Bao Thuận Quý lại gần hơn nữa thấy nó vẫn bất động liền chọc lưỡi lê vào miệng, nó vẫn ngồi im. Bao Thuận Quý cười lớn: Nó bị ta đuổi đến mất trí. Nói xong ông ta giơ tay xoa đầu con sói khổng lồ như xoa đầu chó. Có lẽ ngàn vạn năm nay trên thảo nguyên Mông Cổ mới có một người xoa đầu con sói khổng lồ trong tư thế ngồi mà con sói không có phản ứng. Thế nhưng khi ông ta vuốt tai thì con sói đổ chổng kềnh như pho tượng bằng đá…
***
Trần Trận đi về nhà như một kẻ phạm tội, thậm chí cậu không dám bước vào trong lều bạt. Bần thần một lúc, cậu lại phải bước vào.
Trương Kế Nguyên đang kể cho Dương Khắc và Cao Kiện Trung về chuyện toàn thể sư đoàn ra quân diệt sói. Cậu càng kể càng tức: Hiện giờ toàn sư đoàn đỏ mắt lên về chuyện diệt sói lấy da. Xe lớn, xe con, xạ thủ, dân quân xuất kích tuốt. Xăng dầu đạn dược cung cấp đủ, bác sĩ sư đoàn cũng ra trận. Họ bơm vào xác cừu thuốc cực độc không mùi vị đem từ Bắc Kinh về, rồi quẳng cừu ra đồng cỏ, giết bao nhiêu là sói. Dã man hơn, số công nhân làm đường về cùng binh đoàn giở hết các loại vũ khí ra. Họ nhét kíp mìn vào xương ống cừu, bôi mỡ cừu lên rồi đặt ở những nơi sói qua lại, sói gặm xương ấy là bay nửa mặt. Dân công đánh bẫy bằng bộc phá dùng xương cừu làm vỏ, chết vô số chó của mục đàn. Đàn sói sa vào biển cả chiến tranh nhân dân, khắp nơi cất tiếng hát: Đời con đời cháu ta đánh tiếp, chưa hết sói là ta chưa về. Nghe nói mục dân đã có đơn kiện lên quân khu.
Cao Kiện Trung nói: Dân công đội ta cũng rất hăng, hạ sát một lúc năm sáu con sói lớn. Loại người từ mục dân biến thành nông dân, giết sói rất mả. Mình mất hai chai rượu trắng mới mò ra cách họ giết sói. Họ cũng đánh bẫy nhưng ranh ma hơn nhiều. Thợ săn ở đây cài bẫy bên cạnh con cừu chết, lâu dần lũ sói cũng mò ra quy luật, chúng thấy cừu chết ngoài trời thì rất cảnh giác, không vội đụng ngay, thường là đợi sói đầu đàn vốn rất thính mũi dò bằng được bẫy lôi lên, chúng mới ăn con cừu. Đám dân công không dùng cách này. Chúng đặt bẫy ở những nơi có nhiều sói, bên cạnh bẫy chẳng có gì hết, không xác cừu, không xương cốt, mặt đất bằng phẳng. Các cậu đoán xem họ lấy gì làm mồi nhử? Đánh chết các cậu cũng không đoán ra…Họ trộn phân ngựa với mỡ cừu nấu chảy, vớt ra phơi khô, rồi tán nhỏ cục phân ngựa sặc mùi mỡ cừu đó rắc nơi đặt bẫy, rắc nhiều lượt, lượt nào cũng dẫn đến bẫy. Mồi nhử đấy! Khi sói đi qua ngửi thấy mùi cừu, lại không thấy con cừu chết nào, xương xẩu cũng không thì rất dễ mất cảnh giác, ngửi trước ngửi sau, ngửi đi ngửi lại, cuối cùng sập bẫy. Các cậu bảo chiêu này độc đấy chứ, ăn trộm gà mà một nhúm gạo cũng không mất! Lão Vương bảo, quê lão dùng cách này, sói không còn một mống.
Trần Trận không nghe tiếp được nữa. Cậu đẩy cửa, bước ra chuồng sói con. Cả ngày không gặp, sói con cũng nhớ cậu. Từ lâu sói con đã hân hoan đứng tận mép chuồng vẫy đuôi đón cậu bước vào chuồng. Trần Trận ngồi xuống ôm cổ con sói, áp mặt vào đầu nó rất lâu không nỡ rời. Đêm thu trên thảo nguyên, trăng lạnh, bãi chăn mới rộng mênh mông, tiếng sói tru ảo não đã rất xa. Trần Trận không còn lo sói mẹ về cướp con, nhưng lúc này cậu rất mong sói  mẹ về đem con đi, lên mãi vùng biên giới phía bắc…
Có tiếng chân dừng phía sau, câu nghe thấy tiếng nói của Dương Khắc: Nghe Lanmutrăc nói, anh ấy trông thấy sói chúa dẫn đàn sói vượt đường biên phòng, chiếc xe Gát của Đoàn bộ không đuổi kịp. Mình nghĩ, chắc sói chúa không bao giờ trở lại Ơlôn nữa.
Trần Trận trằn trọc thâu đêm.

________Hết chương 32________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:33:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33

Với thế giới cơ đốc mà nói, ba thế kỷ tính từ đầu thế kỷ 13 tới thế kỷ 15 là thời kỳ suy thoái. Mấy thế kỷ đó là thời đại của các tộc Mông Cổ. Cuộc sống du mục đến từ Trung Á chi phối thế giới đã biết đương thời. Đỉnh cao của thời kỳ này, thống trị Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Lan, Ai Cập, Bắc Phi, bán đảo Ban căng, Hungari và Nga La Tư là người Mông Cổ hoặc người Thổ Nhĩ Kỳ cùng nguồn gốc người Đột Quyết và truyền thống của họ.
                                                                                                                 (Anh) Herbert J.Wells "Thế giới sử cương"



Gấu, hổ, sư tử, voi có thể tròng dây vào cổ mà dắt, còn sói thảo nguyên Mông Cổ thì không.
Sói con thà bị siết cổ chết mà không chịu dắt theo xe bò khi chuyển nhà.
Đàn bò, cừu của đại đội xuất phát trước khi trời sáng, đoàn xe rầm rộ vượt đèo phía tây, chia tổ tiến vào đồng cỏ mùa thu. Nhưng sáu cổ xe chở nặng của tổ Hai – tổ thanh niên trí thức vẫn chưa khởi động. Ông già Pilich và Caxưmai đã hai lần cho người đến giục.
*        *        *

Mấy hôm nay Trương Kế Nguyên về giúp việc nhà. vậy mà, với con sói cứng đầu cứng cổ, Trần Trận và Trương Kế Nguyên cũng đành bó tay, không thể giải quyết. Trần Trận không ngờ cậu nuôi con sói đã gần nữa năm, đắng cay chua ngọt đã từng, cuối cùng bị kẹt trong chuyện chuyển nhà.
Từ đồng cỏ mùa xuân chuyển về đây, sói con khi ấy mới cai sữa, chỉ dài hơn một thước, khi chuyển nhà, cậu bỏ nó vào trong thùng đựng phân khô. Qua nữa mùa xuân và một mùa hạ đến dầu mùa thu, sói con đã thành một sói lớn vóc dáng trung bình. Trong nhà không có thùng hay lồng sắt chứa được nó, mà dù có vừa nhưng Trần Trận không sao nhét được nó vào. Cậu không có xe chở riêng nó. Các cậu vốn thiếu xe, các hòm sách của cậu và Dương khắc chiếm quá nữa thùng xe, sáu cỗ xe đều quá tải nghiêm trọng, đường dài không khéo bị lật hoặc phát sinh sự cố. Ngày chuyển nhà còn phụ thuộc vào thời tiết, để tránh mưa, đại đội chuyển sớm hơn dự định, Trần Trận nhất thời không biết làm thế nào.
Trương Kế Nguyên mồ hôi đầm đìa, trách: Làm ăn gì thế? Lẽ ra phải luyện dắt nó từ lâu.
Trần Trận không vui: Không dạy là thế nào? Lúc còn nhỏ nó nhẹ, mình lôi nỗi, nhưng về sau lớn lên mình không lôi nổi nữa. Cả mùa hè nói lôi mình không bao giờ cho mình dắt, mình kiên quyết lôi là nó cắn. Sói không như chó, chết bỏ chứ không nghe lời. Sói không dạy được như hổ, sư tử. Cậu trông thấy sói biểu diễn rạp xiếc bao giờ chưa? Người dạy thú giỏi đến mấy cũng không dạy được sói. Có mời nữ tài tử Liên Xô về đây cũng chịu. Cậu trông thấy sói nhiều hơn mình, sao chưa hiểu sói?
Trương Kế Nguyên nghiến răng trèo trẹo, nói: Để mình lôi nữa xem sao, không được mình cưỡng chế. Cậu ta cầm cây bổng đi đến trước mặt sói, đón xích từ tay Trần Trận, bắt đầu lôi. Sói lập tức nhe răng gầm gừ, trằn mình về phía sau. bốn chân tì lên mặt đất, rụt cổ, một tất cũng không nhượng bộ. Như chơi trò kéo co, Trương Kế Nguyên cũng cố sức kéo mà không nỗi. Cậu bèn xoay người rồi như phu kéo thuyền trên sông, vắt xích lên vai, dùng sức mạnh toàn thân mà kéo. Lần này thì kéo được. Bốn chân sói cào thành hai rãnh, đùn lên hai mô đất nhỏ. Con sói nỗi cáu, định cắn. Nó chững lại khiển Trương Kế Nguyên mất đà ngã vập mặt xuống đất. Nó cũng ngã lộn vòng, người và sói kề bên nhau, miệng sói chỉ cách yết hầu Kế Nguyên nữa thước. Trần Trận sợ quá vội ôm cổ con sói. Con sói bị kẹp trong nách Trần Trận. Nhìn Kế Nguyên gầm gừ, tiếc không cắn được cậu.
*        *        *

Hai người sợ tái mặt, thở phì phò. Trương Kế Nguyên nói: Giờ thì phiền đây! Lần di chuyển này phải hai ba ngày. Nếu chỉ một ngày thì ta hãy để sói lại, hôm sau đánh xe không về chở đi. Nhưng nếu lộ trình ba ngày thì cả đi lẫn về năm sáu ngày. Người dữ kho len và đám nhân công vẫn chưa đi, bỏ sói con một mình ở lại, không bị bọn họ giết chết, cũng bị đội diệt sói của Đoàn bộ giết chết. Mình thấy dứt khoát phải đem con sói đi, đúng rồi, buộc vào xe bò mà kéo!
Trần Trận nói: Kéo theo xe bò? Hôm trước mình đã thử, không ăn thua, suýt tắt thở. Giờ mình mới hiểu thế nào là ngang ngạnh, là thà chết chứ không khuất phục. Sói thà chết chứ không chịu nhượng bộ, mình hết cách rồi đấy.
Trương Kế Nguyên không tin, nói: Để nhìn thấy đã. Cậu bắt một con chó cái đi bên cạnh làm thị phạm cho nó bắt chước.
Trần Trận lắc đầu: Mình đã thử, không ăn thua.
*        *        *

Trương Kế Nguyên không tin: Cứ thử lần nữa xem sao. Nói rồi cậu dắt tới chỗ xe bò chở rất nặng lấy đoạn thừng một đầu buộc cổ sói. Đầu kia buộc vào thành gióng ngang phía đuôi xe. Trương Kế Nguyên cho xe đi vòng quanh con sói. Con chó không cần co kéo, ngoan ngoãn theo sau xe. Trương Kế Nguyên vừa đi vừa dỗ con sói: Ta sẽ đến một nơi rất tốt, thế, thế, theo sau xe bắt chước đi, có gì đâu, dễ ợt. Mày thông minh hơn chó, làm sao không biết đi theo? Nào, nhìn đây!
Sói con nhìn chó cái mà không hiểu gì, nó ngẩng mặt, vẻ bất cần. Trần Trận vừa dụ vừa dỗ, kéo sói đi theo chó cái. Sói con miễn cưỡng đi mấy bước, thực tế vẫn là sói kéo Trần Trận đi theo. Nó thích con chó cái, chứ không phải thích đi bộ. Đi một vòng nữa Trần Trận móc cái xích lên gióng thanh ngang đuôi xe, sói con lập tức ra sức co lại, mạnh hơn kéo cọc, cái xe nặng như thế mà chệnh choạng không vững.
Trần Trận nhìn ra cánh đồng mênh mông , không một căn lều, một con cừu. Cậu đâm cuống, chận nữa là đêm nay không đến được chỗ tạm trú, bao nhiêu là đường rẽ, bao nhiêu là tổ nhóm, chẳng may lạc đường, tối đến người mệt, không có chó thì gác đêm làm sao? Nếu đàn cừu xảy ra chuyện, tìm ra nguyên nhân là do nuôi sói, Trần Trận chắc chắn bị phê phán, sói con sẽ bị nguy hiểm.
Trần Trận ý đã quyết, nói: Trả con chó đi thì nó cũng chết; lôi nó đi theo thì nó cũng chết. thôi thì cho nó tìm cái sống trong cái chết vậy. Đi! Lôi nó đi theo! Cậu đánh xe đi trước mình đi sau áp tải, nhân tiện trông nom nó.
*        *        *

Trương Kế Nguyên thở dài, nói: Xem ra trong điều kiện du mục nguyên thuỷ khó mà nuôi được sói.

Trần Trận bố trí cỗ xe cố dắt chó và sói đi cuối đoàn xe, buộc dây mũi con bò cuối cùng vào dóng ngang đuôi xe, xong xuôi, cậu hô to: Lên đường!
Trương Kế Nguyên không dám ngồi trên xe thứ nhất để đánh xe. Cậu dắt bò bước chậm rãi, xe nọ tiếp xe kia lên đường. Khi cỗ xe cuối cùng chuyển bánh, con chó cái lập tức đi theo, nhưng sói con đợi khi chiếc xích dài ba mét sắp căng vẫn chưa nhúc nhích. Sáu con bò thiến trong lần chuyển nhà này là những con khỏe nhất, nhanh nhẹn nhất trong đàn bò. Để dùng vào công việc chuyển nhà, chúng dã được nhốt riêng ăn uống ít đi trong ba ngày xẹp bớt cái bụng bự, giờ là lúc sức vóc lý tưởng nhất. Sáu con bò thiến đi thành chuỗi, sói con làm sao cưỡng nổi, ngay cả chống chân trằn lại cũng chưa kịp, đã bị lôi đi xềnh xệch.
Sói con vừa sợ vừa tức, điên cuồng chống lại, bốn chân quờ quạng chạm đất là bật dậy chạy lên vài bước chuẩn bị tư thế trằn lại không cho lôi đi. Xe bò đã ra đến đường đi của xe, lăn bánh nhanh hơn, sói con chống trả quyết liệt, hơn chục bước lại bị dây thừng xiết ngã. Dây thừng trên xe lôi sói con như lôi chó, gốc cỏ cà đứt từng mảng lông. Sói con mỏi dừ gáy nhưng chịu lực lờn nhất lại là yết hầu. Đai da trên cổ càng thít càng chặt, sói con thè lưỡi, mắt đảo tròng. Chính là vào lúc ấy nó vùng dậy loạng choạng chạy tới phía trước, rồi khi sợi xích sắp căng nó lại chạy lên. Trần Trận phát hiện lần chạy sau nó chạy nhiều hơn trước hai bước, rõ ràng là để có nhiều thời gian hơn để sức trằn có hiệu quả. Khi xích chưa căng nó chuẩn bị tư thế ngả người ra sau, bốn chân cày đất, ngã lăn rồi lại vùng dậy chạy tới trước, lại tì đất chống cự, lại ngã lăn.
Con chó cái nghiêng đầu thông cảm nhìn sói con, rên ư ử. Lại còn giơ chân chạm vào sói con một cái như có ý bảo, hãy đi như tôi đây nếu không muốn bị lôi chết. Nhưng sói con không thèm để ý tới con chó cái, nó dứt khoát không đứng chung hàng ngũ với loài chó, tiếp tục phản kháng theo cách thức của nó. Trần Trận nhận thấy không phải sói con không biết chạy theo hoặc đi theo xe, hoặc không biết cách đi như chó cái bên cạnh. Nó thà chịu cực hình đi theo kiểu của nó, còn hơn bị lôi xềnh xệch như chó.
Bị dắt và không để cho dắt đi, là ranh giới căn bản giữa sói và chó, giữa sói và sư tử, hổ, gấu, voi, giữa sói và rất nhiều người. Không con sói thảo nguyên nào vượt qua ranh giới này: Đầu hàng con người. Cự tuyệt phục tùng, cự tuyệt dắt mũi là tiêu chí tuyệt đối để trở thành sói Mông Cổ chân chính, ngay cả sói con chưa từng được sói mẹ dạy dỗ cũng thế.
Sói con vẫn chống cự quyết liệt, cát sỏi trên mặt đường rắn như tấm giấy ráp cà chân sói tóe máu. Trần Trận đau lòng quá. Sói thảo nguyên, tôtem tinh thần các dân tộc quật cường trên thảo nguyên ngàn vạn năm, có một sức mạnh tinh thần khiến con người hổ thẹn và ngưỡng mộ. Một số người không nhiều dám sống theo ý mình, kiên cường bất khuất, thậm chí dám trả giá bằng sinh mạng cho cuộc sống đó như sói thảo nguyên.
Vì vậy, Trần Trận cảm thấy nhận thức của cậu về sói thảo nguyên trước đây quá nông cạn. Trong một thời gian dài cậu vẫn cho rằng sói coi miếng ăn bằng trời, coi giết chóc bằng trời. Tuy không phải tất cả như thế, nhưng có loại người suy bụng ta ra bụng sói. Sói thảo nguyên bất kể ăn thịt hay cắn chết đều không phải mục đích mà vì tự do, độc lập và sự tôn nghiêm thiêng liêng bất khả xâm phạm của sói. Thiêng liêng tới mức mục dân thật sự sùng bái sói, đều tình nguyện đưa thi thể đến bãi thiên táng thần bí, mong linh hồn được tự do bay bổng như linh hồn sói.
Sói con ngoan cường bị lôi xềnh xệch bốn năm dặm, lông gáy bị cà đứt quá nửa, da rớm máu, bàn chân chắc nịch bị mài trên cát sỏi trơ cả vuốt. Khi sói con lần sau cùng bị cỗ xe lôi ngã, nó không đứng dậy được nữa vì sức cùng lực kiệt, nằm thẳng cẳng như bị thòng lọng xiết cổ trong các cuộc vây ráp, chỉ há miệng mà thở. Tiếp đó, sói con miệng sùi bọt máu, đai cổ đã cứa rách họng. Trần Trận sợ quá quát dừng xe. Cậu nhảy xuống ngựa, bế sói con toàn thân co giật đi tới chừng một mét cho sợi xích chùng lại. Sói con thở hắt ra, máu loang đầy bàn tay Trần Trận, cánh tay cậu cũng dính máu phía sau ót nó. Sói con thoi thóp, miệng đày bọt máu, đau đớn cào tay Trần Trận nhưng móng đã cụt hết, bàn chân chỉ còn là một cục thịt bầy nhầy. Trần Trận ứa nước mắt.
Trương Kế Nguyên chạy tới, xem xét mấy chỗ trên mình sói, giật mình kinh hoảng. Cậu loay hoay bên sói con không biết làm gì, nói: Sao nó lại ngang ngạnh đến thế kia chứ ! Chẳng phải tự tìm cái chết là gì. Làm thế nào bây giờ?
Trần Trận ôm chặt sói con không biết nên làm như thế nào, sói con đau đớn run rẩy khiến cậu càng xót xa.
Trương Kế Nguyên lau mồ hôi mặt, nghĩ một lát rồi nói: Mới hơn nửa năm tuổi mà đã không cho dắt. Mà bây giờ đưa được nó đến đồng cỏ mùa thu, sau đó mỗi tháng chuyển nhà một lần, khi ấy nó đã thành sói lớn, thì làm thế nào với nó? Theo mình thì thả nó ra cho nó tự kiếm sống.
Trần Trận giận tím mặt, cậu quát Trương Kế Nguyên: Cậu không trực tiếp nuôi nó nên cậu không hiểu. Tự kiếm sống? Có khác gì đẩy nó vào chỗ chết! Mình nhất định nuôi nó. Mình dứt khoát nuôi nó thành sói lớn. Hãy cho nó sống. Nói rồi Trần Trận bước tới cỗ xe chở đồ đạc linh tinh và phân khô, giận dữ cởi dây thòng với xe đi đầu, lôi cỗ xe này về cuối đoàn xe, cởi dây buộc, đổ hết phân khô đựng đầy chiếc sọt lớn đan bằng cành liễu xuống đường, biến chiếc sọt thành nhà giam, một cái lồng tạm thời nhốt sói con.
Trương Kế Nguyên không kịp ngăn, phát cáu: Cậu điên rồi! Đường xa, cơm nước trà lá đều trông vào chỗ phân khô này, nếu dọc đường gặp mưa, bốn chúng ta không nấu cơm được mà ăn. Đến nơi ở mới rồi vẫn cần phân khô mấy ngày nữa. Cậu dám vứt phân đi để chở sói, mục dân mà biết chửi thối óc! Cao Kiện Trung thế nào cũng ca cẩm cho mà xem.
Trần Trận nhanh tay bốc xếp, nghiến răng chịu rầy la, cậu nói: Tối nay ở chỗ tạm trú qua đêm, mình sẽ vay Caxưmai ít phân khô, đến nơi ở mới mình sẽ đi kiếm phân khô, không lỡ chuyện ăn uống của các cậu đâu.
Sói con từ nơi giáp ranh giữa sống với chết trở về. Bất chấp bốn chân đau buốt, nó ngoan cố đứng giữa đường, bốn chân vẫn run, miệng rớm máu, cổ vươn ra, tiếp tục tư thế bám trụ, mắt mở to, sẵn sàng chiến đấu bất chấp các móng chân đã mòn vẹt. Trần Trận trong lòng đau xót, cậu cúi xuống bế nó lên đặt nằm trên mặt đất. Cậu không nỡ nhìn nó đứng trên bốn chân. Cậu gọi người mở thùng xe lấy thuốc bạch thược Vân Nam bôi lên vết thương. Miệng sói con vẫn chảy máu. Trần Trận lại lấy ra hai miếng thịt bò luộc hình thoi, bôi một lớp bạch thược lên miếng thịt đút vào miệng cho sói con nuốt tớm. Trần Trận nghĩ bạch thược có thể cầm máu vết thương ở họng sói con.
Trần Trận lại chằng buộc các thứ trên xe chở phân khô, sắp xếp lại các thứ linh tinh, dùng thớt cũ ván cũ chừa ra một khoảng trống quá nửa thùng xe để đặt vừa cái sọt, trải lên đó tấm da sống làm đệm, một mảnh thảm làm nắp đậy, xong xuôi, cậu định nhốt sói con vào đó. Nhưng mà bỏ con sói vào cái "nhà tù" này bằng cách nào? Trần Trận khó nghĩ quá. Sói con đã lãnh đủ sự ghê gớm của cỗ xe nên luôn luôn giữ một khoảng cách bằng chiều dài sợi xích, không bao giờ lại gần. Trần Trận cởi xích cầm trong tay, xắn tay áo bế sói con lên, chuẩn bị thả sói con vào sọt, nhưng vừa đi được một bước, sói con đã điên cuồng chống lại, chưa kịp thả, nó đã ngoạm luôn cánh tay cậu. Trần Trận kêu lên một tiếng, sợ toát mồ hôi, cho đến khi chân chạm đất sói con mới nhả tay cậu ra. Trần Trận đau, vẩy tay lia lịa. Không chảy máu nhưng trên tay có bốn vết bầm tím như bị giầy đá bóng dẫm lên.
Trương Kế Nguyên sợ tái mặt, nói: May mà cậu đã bẻ răng nó, nếu không nó cắn gãy tay cậu. Mình thấy không nên nuôi nó nữa, sau này khi đã trưởng thành, nó có thể cắn đứt cánh tay đấy.
Trần Trận nổi cáu, nói: Đừng nhắc tới chuyện ấy nữa, nếu không vì chuyện ấy mình đã thả nó về đồng cỏ rồi. Bây giờ đã tàn phế, da thịt mình mà cắn không thủng, thả về thảo nguyên nó sống thế nào? Chính là mình đã biến nó thành què quặt, mình phải nuôi dưỡng nó suốt đời. Giờ binh đoàn về đây xây dựng các điểm định cư, sau khi định cư, mình sẽ xây cho nó một cái chuồng, khi ấy có thể bỏ xích…
Trương Kế Nguyên nói: Thôi thôi, ngăn nữa là không xong với cậu. Tính chuyện lên đường đi, nhưng làm sao đưa được nó lên xe? Cậu bị thương rồi, để mình thử xem.
Trần Trận nói: Cứ để mình bế vẫn hơn. Sói con không quen cậu, nó sẽ không khách khí với cậu, chưa chừng nó cắn đứt mũi cậu. Nào, lại gần đây, cầm lấy miếng thảm, mình quẳng nó vào sọt là cậu đậy lên.
Trương Kế Nguyên kêu lên: Thế cậu không sợ nó cắn đứt cánh tay hả? Sói là cái loại trở mặt như trở bàn tay, không khéo nó cắn đứt họng cho mà xem!
Trần Trận nghĩ một lúc, nói: Cắn thì cũng phải bế. Giờ phải hi sinh chiếc áo mưa. Cậu chạy tới bên hộc xe lấy ra chiếc áo mưa quân đội bằng vải cao su, ném cho sói con hai miếng thịt, rồi nhân lúc nó mất cảnh giác, cậu chụp áo mưa lên sói con, nhanh chóng cuộn lại thật chặt, tranh thủ lúc nó chưa kịp trấn tĩnh, ném nó vào trong sọt như ném một quả bộc phá, Trương Kế Nguyên lao tới trùm tấm thảm lên. Khi sói con cắn thủng áo mưa chui ra, nó đã bị giam trong sọt. Hai người chằng buộc tấm thảm rất kỹ, Trần Trận thở một hơi khoan khoái, người ướt đẫm, ngồi thừ trên mặt đất, không còn chút hơi sức. sói con loanh quanh trong sọt một vòng, Trần Trận chuẩn bị đề phòng nó cắn rách thảm chui ra.
Đoàn xe sắp lăn bánh, Trần Trận sợ cái sọt đan bằng cành liễu không thể nhốt con thú khoẻ mạnh, cậu vừa dỗ dành vừa cho thêm mấy miếng thịt luộc, rồi lại ra sức an ủi nó, lại gọi tất cả chó lớn chó con đến chơi với nó. Trương Kế Nguyên ngồi trên xe đầu ra roi cho bò đi nhanh. Trần Trận cầm cây mã bổng liên tục gõ vào thành sọt đề phòng sói con phản kháng. Cậu bám sát xe chở sói không rời nửa bước chỉ sợ sói con mê hoặc cậu, đợi lúc cậu ra chỗ khác, liền xé rách sọt, xông ra khỏi “nhà tù". Lại còn cái dây xích liệu có chắc không? Trần Trận đi sau xe mà trong lòng phấp phỏng.
Nhưng tình hình sau đó nằm ngoài dự kiến: Xe bắt đầu chuyển bánh, con sói trong sọt không hề quậy phá nhưng nó không bình thường. Trần Trận chua bao giờ thấy ánh mắt nó hoảng loạn đến thế. Nó sợ đến nỗi không dám nằm xuống, đầu cúi gằm, đuôi kẹp giữa hai chân, toàn thân run rẩy. Trần Trận nhìn qua kẽ sọt thấy sói con ngày càng sợ, co rúm lại như con nhím. Nó không ăn không uống, không kêu không gào, không cắn không không xé y như một tên tù say xe, mất hết sức phản kháng.
Trần Trận cảm thấy đây là chuyện lạ. Tay cầm gậy, cậu bám sát sau xe sang bên kia đèo. Qua kẽ sọt thấy sói con vẫn đứng yên bất động, nhưng đôi mắt nhớt nhác, đuôi cụp, nhìn Trần Trận bằng ánh mắt xa lạ, đáng thương quá! Sói con đã kiệt sức, chân vẫn đau, miệng vẫn đang chảy máu. Hình như đầu óc nó vẫn đang tỉnh táo, nhưng nó không dám nằm xuống nghỉ, theo bản năng, nó sợ xe lắc, sợ thảo nguyên. Hơn nữa năm nay Trần Trận nghĩ mãi mà không hiểu vì sao sói con có hành vi bất thường như thế, cậu không giải thích được.
*     *      *

Lũ bò thiến ra sức xủa đuổi đàn bò, đội xe tiến nhanh, Trần Trận chỉ việc ngồi trên lưng ngựa nên có thì giờ suy nghĩ. Cậu nghĩ sói con hung dữ là thế bổng chốc trở nên sợ hãi, yếu đuổi, rất không đúng với tính cách sói thảo nguyên mà Trần Trận cho rằng hoàn mĩ nhất cũng có khiếm khuyết về tính cách.
Trần Trận nhìn con sói mà suy nghĩ đau cả đầu, luôn thấy nó giống ai đó hoặc giống vật gì đó. Nghĩ mãi, chợt hình ảnh người anh hùng cái thế Asin trong thần thoại Hi Lạp loé lên trong đầu. Chẳng lẽ sói thảo nguyên cũng có chỗ yếu như gót chân Asin? Trong thần thoại Hi Lạp, Asin dũng mãnh vô song, nhưng có một nhược điểm chí mạng, hể rời mặt đất là cơ thể mất hết sức mạnh. Kẽ thù của Asin là Cái Nhĩ Khô Lý Tư phát hiện ra nhược điểm này, tìm cách nhất bổng Asin lên không trung và bóp chết. Chẳng lẽ sói thảo nguyên cũng thế. Một khi rời mặt đất, rời bà mẹ thảo nguyên sinh ra và nuôi dưỡng, sói mất hết sức mạnh thần kỳ, trở nên yếu đuối, èo ợt. Phải chăng sói nương tựa và lưu luyến đất mẹ thảo nguyên sâu sắc đến thế? Phải chăng sự hung hãn và dũng mãnh của sói là do thảo nguyên ban cho?

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:33:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33 (tiếp)

Trần Trật chợt tỉnh, có lẽ câu chuyện thần kỳ về anh hùng Asin và đất mẹ Cai A, bắt nguồn từ sói? rất có thể là, người Hi Lạp Arian trong thời kỳ đầu của cuộc sống du mục đã từng nuối sói? Trong khi vận chuyển sói phát hiện ra chỗ yếu của sói, điều này gợi cho người ta sáng tác nên thần thoại vĩ đại đó. Còn về mặt triết lý, nó từng ảnh hưởng đến biết bao nhiêu người từ phương Đông và phương Tây, thậm chí "Lịch sử Đảng Cộng sản liên Xô" còn lấy làm đoạn kết cho cuốn sách, nhắc nhở Đảng viên Cộng sản trên toàn thế giới không được xa rời đất mẹ - nhân dân, nếu không, Đảng lớn mạnh đến mấy cũng bị kẻ thù bóp chết. Thần thoại được dẫn trong 2 trang vậy mà Trần Trận không ngờ trên thảo nguyên Mông Cổ, hình như cậu bắt gặp nguồn gốc nảy sinh và nguyên dạng thần thoại đó. Thần thoại Hi Lạp ra đời cách đây hơn hai nghìn năm, vậy mà sói thảo nguyên vẫn duy trì cá tính và nhược điểm cách đây hơn hai nghìn năm. Hoá thạch sống của sói có giá trị cực kỳ giá trị đối với người hiện đại muốn tìm hiểu nguồn gốc tinh thần và sự phát triển của những dân tộc tiên tiến. Trần Trận lại nhớ tới những tấm huy hiệu của thành phố La Mã vẽ sói mẹ đang cho hai sói con bú sữa - về sao hai anh em nhà sói xây dựng nên thành La Mã. Ảnh hưởng tinh thần của sói đối với phương Đông và phương Tây vô cùng lớn. Cho đến bây giờ triết lý tinh thần của sói vẫn chỉ đạo các dân tộc tiên tiến. Vậy mà con sói trong cuộc sống hiện thực, đang bị lũ người ngu ngốc giết hại không thương tiếc...
Vết thương trên cánh tay đau buốt, nhưng Trần Trật không hề có ý trách con sói, trái lại còn cảm ơn sói bất cứ ở đâu và lúc nào cũng gợi mở cho cậu nhiều điều, bất kể tình huống nào cậu vẫn nuôi con sói cho đến trưởng thành, và nó nhất định phải có người nối dõi.
Triết lý xa xôi mãi, Trần Trận không thể không trở về hiện thực trước mắt, vấn đề là từ nay duy chuyển sói như thế nào? Nhất là khi sói trưởng thành, ai dám bế bỏ vào sọt? sọt không vừa với nó nữa, có khả năng dành hẳn một xe chuyên chở nó? đến mùa đông phải dành một xe chở thức ăn, lại càng thiếu xe, không có phân khô khi chuyển nhà, lấy gì đun nấu, sưởi ấm? Chẳng lẽ cứ vay mượn Caxưmai? Dọc đường, Trần Trận suy nghĩ mông lung, trăm mối như tơ vò.
Vừa xuống hết dốc, sáu con bò thiến của đội đánh hơi thấy đàn bò, bắt đầu bước rất nhanh đuổi theo đoàn xe di chuyển phía xa, chỉ còn nhỏ bằng những hạt vừng.
Lúc đội xe sắp ra khỏi cửa núi án ngữ bãi chăn mùa hạ, chiếc xe com măng ca nhãn hiệu "Gát" cuốn theo một đám bụi, xịt tới, không đợi xe bò nhường đường, nó trèo lên lề phóng qua. Khi hai xe chạm trán, Trần Trận trông thấy trên xe hai xạ thủ ngoại hạng, vài cán bộ mục trường và một mục dân Mông Cổ mặc áo dài. Người này vẫy chào cậu, nhìn hoá ra Đanchi. Thấy kiện tướng Đanchi đi cùng hai xạ thủ ngoại hạng, tim Trần Trận lại đập như trống làng. Cậu chạy vọt lên hỏi Trương Kế Nguyên: Có phải Đanchi dẫn người đi bắn sói không?
Trương Kế Nguyên nói: Phía đó toàn là sơn địa, ở giữa là bãi lầy và một con sông nhỏ xe không chạy được vậy không phải đi săn sói, có lẽ đi giúp nhà kho di chuyển.
Vừa tới bãi chăn, một con ngựa từ phía tổ xe phóng tới trước mặt Trần Trận, tới gần hoá ra bố Pilich. Ông già thở dốc, mặt hầm hầm, hỏi: Các con có thấy Đanchi trên chiếc xe vừa đi qua không?
Hai người trả lời có trông thấy. Ông già bảo Trần Trận: Cậu cùng tôi về khu lều bạc. Quay lại, ông bảo Trương Kế Nguyên: Cậu đi trước đi, lát nữa chúng tôi sẽ quay lại.
Trần Trận ghé tai Trương Kế Nguyên nói nhỏ: Cậu phải thường xuyên nhìn lại sói con, chú ý cái xe sau cùng. Nếu sói con phá hỏng xe, cậu cứ để yên đợi mình về, tính sau. Nói rồi cậu chạy trở lại theo đường cũ. Ông già nói: Chắc Đanchi dẫn người đi săn sói. Những ngày này, tài săn bắn của đan chi đã đến tai cấp trên, cậu ta nói thạo tiếng Hán, nên làm tham mưu trên đoàn bộ, đàn bò giao cho cậu em trai, còn cậu ta suốt ngày ngồi xe gíp săn sói, thân với tất cả các quan lớn bé. Cách đây mấy hôm còn còn dẫn một ông cốp bắn hạ mấy con sói. Bây giờ người ta là dũng sĩ diệt sói của đoàn sư.
Trần Trận nói: Nhưng mà đằng ấy toàn nuối với sông có gì mà bắn?
Con không hiểu.
Ông già nói: Có một gã đã mách tôi, Đanchi dẫn người về khu lều trại cũ. Tôi biết anh ta định làm gì rồi.
Trần Trận hỏi: Anh ta về đấy làm gì hở bố?
Ông già định nói: Đánh bả, đặt bẫy ở tất cả các nhà. Những con sói già bị bệnh hoặc què quặt rất đáng thương. Không thể tự kiếm ăn, phải ăn thức ăn thừa của sói lớn. Thường thì chúng ăn thức ăn thừa của người, bữa no bữa đói. Mỗi khi người và gia súc chuyển nhà, chúng đến bới chúng bới trong đống tro, đống rác cũ ăn những mẫu da, mẫu xương, cơm thừa, bã đậu... lại cả chó, cừu, bê chết đã chôn dưới đất, bới lên ăn tất. Mục dân Ơlôn đề biết chuyện này. Những lần chuyển nhà bỏ quên thứ gì đó quay lại thường thấy dấu vết của sói. Mục dân ở Lạcma rất nhân hậu, biết những con sói mò đến đều đáng thương, nên không cài bẫy, đánh bả. Có người còn cố ý bỏ quên vài thứ cho sói ăn.
Ông già thở dài, nói: Từ khi có các hộ ngụ cư, lâu dần họ cũng thấy chuyện này, gia đình Đanchi kể từ khi bố cậu ta mỗi khi chuyển nhà đều cài bẫy đánh bả, sau một hai hôm nay về giết sói lấy da. Vì sao nhà ấy có nhiều da bán hơn những nhà khác? Vì họ không thờ Lạcma, không kính trọng sói, dám dùng độc chiêu để sát hại những con sói đó. Cậu xem, sói đâu độc ác bằng con người!
Ánh mắt buồn thảm, chòm râu run run, ông già nói: Những ngày này họ bắn chết bao nhiêu là sói. Đàn sói không dám đi bắt mồi nữa, tôi đoán ngay cả sói khoẻ mạnh cũng mò về khu lều cũ kiếm cái ăn. Đanchi ranh hơn cáo. Cứ đà này, người thảo nguyên Ơlôn không lên trời được nữa rồi, thảo nguyên Ơlôn sắp đi đứt rồi!
Trần Trận không biết làm sao để ông già diệu bớt nỗi đau. Không sao ngăn những người nông canh xấu thói cướp phá thảo nguyên. Trần Trận không biết an ủi ông già như thế nào, đành bảo: Hôm nay con làm sập bằng hết các bẫy!
Hai người qua đèo tiến về khu lều trại gần nhất. Quả nhiên thấy vết bánh xe cách lều trại không xa. Xe chạy nhanh hơn, đã vượt qua đèo đi rồi. Hai người tiến tới nhưng không dám lại gần vì sợ ngựa dính bẫy, bèn xuống ngựa xem xét một hồi. Ông già trỏ đống tro bếp, nói: Đanchi đặt cái bẫy kia mới giỏi, cậu xem, tro trên mặt đất thoạt trông tưởng gió thổi, thực chất là do người rắc, phía dưới là bẫy, bên cạnh cố ý bỏ lại hai móng guốc cừu. Để lại hai miếng thịt cừu thì sói sẽ nghi, còn móng guốc thường vứt sọt rác, nên dễ đánh lừa hơn. Tôi nghĩ rằng, khi rắc tro thể nào cũng dính hơi tay, nhưng tro bếp khử mùi, chỉ những con sói thính mũi mới nhận ra. Những con sói này đã quá già, mũi không thính không nhận ra được...
Trần Trận ngạc nhiên đến sững sờ, không nói được câu nào.
Ông già lại nữa con cừu chết bên cạnh bãi phân bò, nói: Chắc chắn nữa cừu kia đã tẩm thuốc. Nghe nói họ đem từ Bắt Kinh về thuốc cực độc, không mùi vị, sói ngưởi không ra, ăn vào chỉ tàn điếu thuốc là chết.
Trần Trận nói: Vậy ném tất cả xuống cái giếng bỏ đi.
Ông già nói: Mình làm sao dọn hết được, bao nhiêu là lều chứ ít đâu!
Hai người lên ngựa đến xem bốn khu lều trại nữa, phát hiện không phải khu lều trại nào cũng làm giống nhau, nơi đánh bẫy, nơi đặt bã, nơi có cả hai, lại có nơi không làm gì cả. Toàn bộ bố cục thật giả lẫn lộn, hư hư, thực thực, hơn nữa, cứ cách một khu mới đánh bẫy một khu, hai khu cách nhau một đèo nhỏ, nếu sói dính bẫy không ảnh hưởng đến khu khác.
Hai người thấy Đanchi đánh bả nhiều, đánh bẫy ít, mà thường là lợi dụng đống tro, không cất công đào hố mới, nên anh ta hành động mau lẹ, cứ tốc độ này thì toàn bộ lều trại của đại đội chỉ quá nữa ngày là xong.
Không thể tiến thêm nữa, nếu không, Đanchi sẽ nhìn thấy.
Ông Pilich cho ngựa quay về, lẩm bẩm nói một mình: chỉ cứu được bấy nhiêu thôi. Hai người đi tới khu trại có đặt bẫy, xuống ngựa cẩn thận đến bên nữa chiếc đùi cừu thối, lấy ra trong bọc chiếc túi da để nhỏ, rắc lên đùi cừu ít bột trắng như thuỷ tinh, Trần Trận thấy ngay ý đồ của ông già: Loại thuốc của ông là Hợp cung tiêu bán ra, dùng để đầu độc thú lớn, rất nặng mùi, ít độc, chỉ hại đối với những con sói ngu ngốc hoặc cáo, còn phần lớn sói thì không. Thuốc độc kém phẩm chất rải đè lên thuốc tốt, Đanchi công cốc rồi.
Trần Trận nghĩ, ông già lợi hại hơn Đanchi nhiều. Nghĩ một thoáng, cậu hỏi: Gió thổi bay mất hơi độc thì làm thế nào?
Ông già nói: Không thể đâu, người không ngưởi thấy, nhưng sói vẫn ngưởi thấy. Ông già lại tìm mấy chổ đặt bẫy. Ông bảo Trần Trận ném xương gióng chân cho bẫy xập. Đây cũng là phương pháp những con sói nhiều kinh nghiệm phá bẫy.
Hai người lại tới những góc khác của lều trại cho tới khi dùng hết số độc đem theo mới lên ngựa trở về.
Trần Trận hỏi: Bố, khi về Đoàn bộ họ phát hiện chuyện lật bẫy thì làm thế nào? Ông già nói: Họ đi đường vòng, không thấy đâu. Trần Trận lại hỏi: Vài hôm nữa họ phát hiện có người phá bẫy thì làm thế nào? Đây là hành động phá hoại phong trào diệt sói, chắc lôi thôi to!
Ông già nói: Có bị lôi thôi thì đâu đã lôi thôi bằng sói Ơlôn. Hết sói, đám thỏ đồng chuột đồng cày xới đất lên, thảo nguyên không còn, họ cũng không còn, không ai thoát. Tôi có cứu cũng chỉ được vài con sói, được con nào hay con ấy. Sói Ơlôn, hãy chạy đi, chạy sang phía bên kia!... Bọn Đanchi đến tính sổ với tôi càng hay, tôi đang muốn trút giận vào kẻ nào đây.
Lên đỉnh dốc, trên cao mấy con nhạn đang nháo nhác tìm bầy, tiếng kêu thê thảm. Ông già gò lưng ngựa, ngẫn nhìn, than thở: Ngay cả đại nhạn bay về nam cũng không thành bầy nữa, họ ăn sạch cả rồi. Ông già nhìn bãi chăn mới do chính ông khai thác, khoé mắt ứa ra hai giọt nước đục ngầu.
Trần Trận nhớ lại cảnh đẹp mê hồn khi cùng ông già tới bãi chăn mới này, vậy mà mới qua một mùa hạ, bãi chăn đã biến thành nghĩa địa của thiên nga, đại nhạn, vịt trời và sói. Cậu nói: Bố ơi, ta làm việc tốt mà cứ như ăn cắp ấy? Bố ơi, con muốn khóc quá!
Ông già nói: Khóc đi, khóc được thì khóc.
Tôi cũng đang muốn khóc đây. Sói đã đưa hết lớp này đến lợp khác lên trời mà sao bỏ tôi lại một mình...
Ông già ngước nhìn Tăngcơli nước mắt đầm đìa, cất tiếng khóc hu hu như tiếng tru của sói già. Trần Trận nước mắt như mưa, cùng với nước mắt ông già, tưới lên thảm cỏ Ơlôn...
Sói con nhịn đau, đứng hai ngày liền trên xe. Chiều hôm thứ hai, đội xe của Trần Trận và Trương Kế Nguyên dừng lại ở một khu đồng cỏ mùa thu bằng phẳng, cỏ mọc tươi tốt. Láng giềng Quangbu đang dựng lều. Đàn bò của Cao Kiện Trung đã được dẫn đến cánh đồng của chúng. Cậu ta đang đợi cảnh Trần Trận trước căn lều do ông già Pilich chọn hộ. Đàn cừu của Dương khắc cũng ở gần khu lều trại. Trần Trận, Trương Kế Nguyên và Cao Kiện Trung vội vã dựng lều bạt kiểu Mông Cổ. Casưmai và Bayan chở đến hai sọt phân khô. Ba con người một cuộc hành trình hai ngày một đêm đã có thể nỗi lửa, pha trà, thổi cơm. Trước bữa cơm tối, Dương khắc cũng đã tới. Cậu lôi về một cái trục xe bò nhặt được dọc đường, góp phần vào chỗ chất đốt. Hai ngày nay, Cao Kiện Trung mặt nặng mày nhẹ với Trần Trận việc vứt bớt phân bò dành chỗ chở sói con, giờ đã được hoá giải.

Trần Trận, Trương Kế Nguyên và Dương khắc bước tới bên xe tù, thấy cái sọt đã bị sói con dùng răng cùn và hai chân cào rách một lỗ to bằng quả bóng đá, những nơi khác trên thành sọt đầy vết răng và vết chân cào. Trên áo mưa quân dụng rơi đầy những mãnh dụng của cành liễu. Trần Trận đâm hoảng, chắc chắn con sói làm chuyện này trong đêm qua khi đội xe dừng lại qua đêm. Nếu phát hiện chậm hơn chút nữa, sói con có thể chuôi qua lỗ thủng này bỏ trốn. nhưng cái xích vẫn còn một đầu lồng vào giống ngang, nếu vậy, sói sẽ bị chết treo hoặc bánh xe cán chết. Trần Trận xem kỹ, thấy trên các mãnh gỗ vụn đều có vết máu, vội cùng Trương Kế Nguyên khênh chiếc sọt xuống, sói con chuôi ngay vào bụi cỏ. Trần Trận gõ đầu xích ở dóng ngang, lùa sói con tới trước lều bạt. Dương khắc vội đào lỗ chôn cây cọc, lồng một đầu xích vào cọc, chụp nắp hãm, sau khi nhảy xuống hình như con sói vẫn cảm thấy trời rung đất chuyển, gắng gượng đứng một lúc rồi vội nằm bẹp xuống cỏ, hai chân trước bị thương không còn tiếp xúc với vật cứng, sói con yên tâm nhưng mệt đến nỗi không thể ngẩng đầu lên.
Trần Trận hai tay ôm ót sói con rồi dùng hai ngón tay cái thọc vào hai bên mép bên mở miệng sói ra. Cậu thấy vết thương ở họng đã đỡ, nhưng chiếc răng hỏng chân đang rỉ máu, bèn giữ lấy đầu sói đẻ Dương Khắc sờ, Dương Khắc lay lay, nói: Chiếc răng này hình như hỏng rồi! Nghe vậy Trần Trận đau như chính cậu bị gãy răng. Hài ngày nay, sói con dùng máu và sinh mạng để phản đối việc bị dắt và cầm tù, thương tích đầy mình, cắn sé đến hỏng răng cũng không tiếc. Trần Trận buông tay, sói con liên tục liếm cái răng hỏng, xem ra rất đau. Dương Khắc bôi thuốc cho bốn chân sói.
Sau bữa tối, Trần Trận làm cho sói con món hổ lốn gồm mì sợi, thịt vụn, canh thịt, để nguội rồi bê đến. Sói con quá đói, ăn sạch trong nháy mắt. Nhưng Trần Trận thấy họng sói như bị vướng và liên tục liếm chiếc răng đau. Trần Trận buồn quá, sói con không chỉ hỏng răng mà còn bị thương tích rất nặng ở cổ họng và thực quản, không biết chỗ nào có thú y để mời đến khám cho nó.
Dương Khắc bảo Trần Trận: Giờ mình hiểu, sói sở dĩ kiên cường bất khuất vì trong hàng ngũ sói không có "Hán gian" và bọn yếu bóng vía, vì hoàn cành khách quan khóc liệt đã đào thải tất cả những quân vô dụng.
Trần Trận buồn rầu, nói: Thương thay con sói, phải trả giá quá đắt cho sự ương bướng của nó. Con người thì ba tuổi đã lớn, bảy tuổi đã già, nhưng con sói ba tháng đã lớn, bảy tháng đã già!
Sáng hôm sau, Trần Trận quét dọn cho sói con, thấy phân nó xưa kia màu xám, giờ lại màu đen. Trần Trận hoảng quá, vội vạch miệng sói ra xem, thấy họng vẫn đang rĩ máu. Cậu vội bảo Dương Khắc giữ hộ rồi dùng đũa gắp mẫu thảm có bôi thuốc nhét vào họng sói, nhưng sâu trong họng thì biết sao cho vừa, hai người tìm đủ mọi cách chữa chạy cho sói con, mệt bã, tiếc không học nghề thú y.
Ngày thứ tư sắc phân đã nhạt, con sói trở lại nhanh nhẹn, hai cậu thở phào nhẹ nhõm.

________Hết chương 33________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:35:06 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34

Trong khoảng thời gian dài, tất cả những nền văn minh đều nảy sinh và phát triển trên đường lối chính thể quân chủ, tức là đường lối chính thể quân chủ chuyên chế. Từ mỗi quân chủ và triều đại, ta thấy gần như có một quá trình tất nhiên, tức từ thịnh trị đi tới xa hoa, lười biếng và suy thoái, cuối cùng bị một gia hệ đầy sức sống đến từ sa mạc hoặc thảo nguyên khuất phục.
******
Chúng tôi thấy tất cả dân du mục dù là người Nôtikhơ, người Sanlaithơ hoặc người Môngôlia, về mặt bản tính mà nói, họ hoạt bát hơn, cương nghị hơn tộc định cư.

                                                                                                         (Anh) Herbert J. Wells “Thế giới sử cương”

Ông già Pilich không còn được mời tham gia hội nghị sản xuất trên Đoàn bộ. Trần Trận thường thấy ông ở nhà làm đồ da.
Qua hai vụ hè thu, dàm dây cương hàm thiếc và dây buộc chân ngựa hết đợt này đến đợt khác thấm đẫm nước mưa rồi phơi nắng, thuốc thuộc rã hết, da bị mủn, khô, lão hóa, chất lượng xuống cấp nghiêm trọng. Thường xuyên có chuyện ngựa đứt dây cương, dây buộc chân, chạy về đàn.
Vậy là ông Pilich có thời gian làm đồ da cho người nhà, cho các mã quan trong tổ và đám thanh niên trí thức. Trần Trận, Dương Khắc và Cao Kiện Trung thường tranh thủ thời gian đến nhà ông Pilich học làm đồ da. Sau mười mấy ngày, họ đã làm được dàm, roi da. Dương Khắc còn làm được một thứ rất khó làm: Dây buộc chân ngựa.
Căn lều Mông Cổ rộng rãi của ông già biến thành nơi sản xuất đồ da, chất đống da thuộc và chưa thuộc, mùi lưu huỳnh khét lẹt. Tất cả những sản phẩm đó đều phải qua một công đoạn cuối cùng: quang dầu bằng mỡ rái cá cạn.
Mỡ rái cá cạn là loại mỡ động vật cao cấp kỳ lạ của thảo nguyên. Cao nguyên Mông Cổ rét ghê gớm, mỡ cừu, mỡ bò, dầu mazút đều đông đặc, chỉ mỗi mỡ rái cá cạn là không đông, ngay cả dưới 30 độ C vẫn rót được từ trong chai ra.
Mỡ rái cá cạn là đặc sản của thảo nguyên, là báu vật của mỗi gia đình mục dân, nhà nào cũng cất giữ. Trong những ngày bạch mao phong giá lạnh, các mã quan dương quan chỉ cần bôi lên mặt một lớp mỡ rái cá cạn là mũi không bị chết máu vì lạnh, da mặt không bị tróc vảy trắng. Bánh bột khỏa rán mỡ rái cá, vàng và thơm, mùi vị ngon tuyệt chỉ xuất hiện trong tiệc cưới hoặc trên bàn trà quan khách. Mỡ rái cá cạn còn chữa bỏng, công hiệu không thua mỡ lợn lửng.
Mỡ và da rái cá là một trong những nghề phụ quan trọng của mục dân. Hàng năm, khi rái cá cạn lông dày và béo núc, mục dân lên núi đánh bắt, thịt để ăn, còn mỡ và da đem lên Hợp cung tiêu đổi lấy chè gối, vải vóc, pin đèn, ủng đi ngựa, bánh kẹo. Một tấm da rái cá lớn giá 4 tệ, mỡ hơn 1 tệ một cân. Da rái cá cạn là nguyên liệu cao cấp may áo da nữ, toàn bộ xuất khẩu thu ngoại tệ. Rái cá nếu mỡ dày một đốt ngón tay, có thể được hai cân mỡ nước. Bắt được một con rái cá cạn, ngoài thịt để ăn, mục dân còn kiếm được năm sáu tệ. Một vụ thu bắn được khoảng trăm con là có sáu bảy trăm tệ, nhiều hơn công điểm trong một năm của Dương Quan. Mục dân nửa chăn nuôi nửa săn bắn ở thảo nguyên Ơlôn, tuy nghề chính là chăn nuôi, nhưng thu nhập chính lại từ săn bắn, riêng rái cá đã hơn cừu, nếu tính cả sói, cáo, cáo sa mạc, dê vàng… thì còn nhiều hơn nữa. Hồi đó, mức sống của mục dân Ơlôn bằng cán bộ trung cấp ở thành phố Bắc Kinh. Mục dân có số tiền gửi tại ngân hàng khiến người thành phố giật mình.
Nhưng thu nhập về săn bắn không ổn định, động vật hoang dã trên thảo nguyên giống như cây ăn quả dưới xuôi, năm được năm mất do nhân tố khí hậu, cỏ tốt xấu, thiên tai quyết định. Mục dân Ơlôn biết điều tiết quy mô săn bắn, không định ra chỉ tiêu cứng nhắc mỗi năm phải đạt bao nhiêu phần trăm, động vật hoang dã nhiều săn bắt nhiều, ít săn bắt ít, ít quá thì thôi. Hàng vạn năm như thế, gần như năm nào cũng đi săn.
Mục dân bắt được rái cá cạn, bộ da bán đi, nhưng phần lớn mỡ thì giữ lại. Mỡ rái cá tiêu thụ nhiều, nhất là với các sản phẩm từ da. Bôi mỡ lên, da có màu nâu sẫm, mềm và đẹp. Trong mùa mưa mà thường xuyên bôi mỡ rái cá cho yên cương ngựa thì sẽ không bị mục nát, tuổi thọ kéo dài, giảm bớt sự cố. Mỡ rái cá dùng nhiều, phạm vi sử dụng rất rộng, nên thường là chưa tới vụ sau đã hết.
Ông già nhìn các đồ da la liệt dưới thảm, bảo Trần Trận: Trong nhà chỉ còn nửa chai mỡ rái cá. Lúc này thịt rái cá ngon nhất. Xưa kia vua chúa không ăn thịt cừu vào lúc này, mà ăn thịt rái cá. Ngày mai tôi dẫn cậu đi săn rái cá một bữa.
Caxưmai nói: Hôm nào có mỡ rái cá, tôi làm bữa bánh bột khỏa các cậu nếm thử.
Trần Trận nói: Hay quá! Năm nay em cũng phải trữ nhiều một tí, không thể cứ đến đây ăn chực.
Caxưmai cười: Từ khi cậu nuôi sói con là quên luôn bọn tôi. Mấy tháng nay cậu đến nhà này uống trà mấy lần?
Trần Trận nói: Chị là tổ trưởng, em nuôi sói đã gây bao nhiêu phiền phức cho chị, nên ngại không dám gặp chị.
Caxưmai nói: Nếu tôi không ủng hộ cậu thì con sói của cậu đã bị mã quan tổ khác đập chết từ lâu.
Trần Trận hỏi: Chị nói với họ thế nào?
Caxưmai cười, nói: Tôi bảo họ, người Hán đều ghét sói, thậm chí ăn thịt sói, chỉ có Trần Trận và Dương Khắc là yêu sói. Con sói nhỏ đó gần như là con nuôi của hai cậu ấy. Khi đã làm rõ những chuyện về sói thì hai cậu là người Mông Cổ mình.
Trần Trận rất cảm kích, luôn miệng cảm ơn Caxưmai.
Caxưmai cười khanh khách, nói: Ơn với huệ gì! Cậu cho chúng tôi một bữa “ăn hiệu”, cái món thịt cừu băm viên ấy, tôi rất thích. Caxưmai nháy mắt với Trần Trận về phía ông già, nói: Bố cũng thích món ấy lắm.
Trần Trận mừng quá, lập tức đề nghị: Hành tây Trương Kế Nguyên mua về còn nửa bó. Chiều nay em mang các thứ đến đây làm một bữa cả nhà ăn thoải mái.
Nét mặt ông già đã giãn ra đôi chút, ông nói: Thịt cừu thì không cần đem đến, nhà mới thịt một con. Món viên của Cao Kiện Trung ngon hơn của nhà hàng trên huyện nhiều. Bảo Dương Khắc, Cao Kiện Trung cùng đến uống rượu cho vui.
Buổi chiều, Cao Kiện Trung dạy Caxưmai làm món thịt cừu băm viên, mọi người ăn uống ca hát. Ông già bỗng đặt bát xuống, hỏi: Binh đoàn nói từ nay mục dân sẽ định cư để bớt ốm đau, đỡ vất vả. Các cậu thấy định cư có tốt không? Người Hán các cậu chẳng phải rất thích xây nhà để ở đó sao?
Dương Khắc nói: Chúng cháu cũng không biết đã du mục hàng ngàn năm có thể định cư được không? Cháu thấy hình như không được. Cỏ thảo nguyên mỏng quá, sợ giẫm nát. Một khu lều trại, người và gia súc bất quá chỉ trong vòng hai tháng là đã phải di chuyển. Nếu định cư, trong phạm vi vài dặm chỉ một năm là biến thành bãi cát, nối liền các bãi cát thì thành sa mạc chứ sao? Với lại chọn nơi nào để định cư? Khó đấy!
Ông già gật đầu, nói: Có lẩm cẩm mới tính chuyện định cư trên thảo nguyên Mông Cổ. Người khu vực nông nghiệp không hiểu thảo nguyên, nên thích định cư và bắt người khác cũng định cư như mình. Ai không biết định cư thoải mái, nhưng dân du mục đời đời kiếp kiếp không định cư là do Tăngcơli bảo phải như thế. Trước tiên nói về đồng cỏ, bốn mùa đồng cỏ công dụng khác nhau. Đồng cỏ mùa xuân cho cừu đẻ, cỏ ngon nhưng mọc thấp, nếu định cư tại đấy thì mùa đông bị tuyết phủ kín, cỏ sẽ chết hết, gia súc ăn gì để sống? Bãi cỏ mùa đông cỏ mọc rất cao không sợ tuyết vùi, nhưng nếu định cư tại đấy, ba mùa xuân hè thu gia súc ăn cỏ một chỗ, cỏ cao thế nào được. Đồng cỏ mùa hè dứt khoát phải gần nước, nếu không gia súc sẽ chết khát, nhưng gần nước thì phải ở trong núi, định cư ở đấy thì gia súc chết rét hết. Đồng cỏ mùa thu trông vào hạt cỏ, nhưng nếu định cư ở đấy thì qua mùa xuân và mùa hạ cỏ bị gặm sạch, mùa thu làm sao có hạt? Đồng cỏ mỗi mùa đều có mấy cái dở, chỉ có một cái được. Du mục là tránh cái dở, chọn cái hay của mỗi loại đồng cỏ. Nếu định cư ở một chỗ, tất cả những cái dở ập tới, cái hay cũng chẳng còn, nói gì chăn với thả!
Trần Trận, Dương Khắc, Cao Kiện Trung gật đầu tán thành. Trần Trận thấy định cư chỉ mỗi cái lợi trong việc nuôi sói, nhưng cậu không dám nói ra.
Ông già uống khá nhiều rượu, ăn bốn cái bánh nhân thịt, nhưng hình như tâm trạng càng tồi tệ.
***
Sáng sớm hôm sau, Trần Trận sau khi đổi phiên cho Dương Khắc, liền theo ông già vào trong núi bắt rái cá cạn. Bao tải đay dắt sau yên, trong đó có hơn chục cái thòng lọng cấu tạo đơn giản: Một cái cọc bằng gỗ dài nửa thước, đầu cọc buộc cáp lụa loại tám sợi, đầu kia thắt nút thành cái thòng lọng. Khi đặt thòng, cắm cái cọc bên cạnh, thòng lọng thì đặt trên miệng hang, cao hơn mặt đất hai đốt ngón tay như vậy mới thòng trúng cổ hoặc hông. Trần Trận từng đánh thòng rái cá nhưng chỉ được toàn những con nhỏ. Cậu định lần này học vài mánh ở ông già.
Hai con ngựa phóng nhanh về phía đông bắc. Cỏ thu đã vàng nửa thân trên, nửa dưới vẫn còn xanh. Rái cá tranh thủ tự vỗ béo đợt cuối, ra vào hang như con thoi. Chúng ngủ đông bảy tháng, thiếu mỡ sẽ không sống nổi đến mùa xuân sau. Vì vậy đây là lúc rái cá béo nhất. Trần Trận hỏi: Dây thép con lấy từ chỗ bố, vậy sao chỉ thòng được những con nhỏ?
Ông già cười khì: Tôi chưa bày cho cậu cách đặt thòng. Người thảo nguyên Ơlôn không phổ biến kỹ thuật săn bắn cho người ngoài, sợ họ bắt hết thú hoang. Này con, ta già rồi, ta truyền lại cho con nghề này. Thòng lọng dân ngụ cư là thòng lọng chết, rái cá lớn rất khôn, nó biết thu mình chui qua thòng lọng ra ngoài. Cái thòng lọng của ta co dãn chỉ cần chạm nhẹ là nó thắt lại, không trúng cổ thì trúng hông, chạy không thoát. Khi đặt nhớ cho cái thòng lọng nhỏ hơn miệng hang một chút để căng ra thì vừa.
Trần Trận hỏi: Vậy cố định cái thòng như thế nào?
Ông già nói: Một đầu dậy thắt một cái khuyết, lồng sợi cáp qua phía sau thành cái thòng vừa khít, lỏng quá không được, vì gió thổi thòng lọng co lại; chặt quá cũng không được, vì thòng lọng không xiết lại, phải không lỏng không chặt mới cố định được. Rái cá chui vào một nửa và đụng phải là thòng lọng lập tức thắt lại. Theo cách này, mười thòng được đến sáu bảy con rái cá lớn.
Trần Trận vỗ trán nói: Tuyệt! Tuyệt quá! Chả trách con không thòng được con nào, thì ra thòng của con là thòng chết, rái cá vào ra thoải mái.
Ông già nói: Lát nữa tôi làm cho cậu xem, không dễ đâu, còn phải xem hang lớn hay nhỏ, dấu chân rái cá to hay bé, khi đặt thòng phải đúng mẹo là quan trọng nhất. Lát nữa tôi vừa làm vừa dạy, cậu ngó cái là biết. Có điều chỉ mình cậu biết thôi, đừng phổ biến cho bất cứ ai.
Trần Trận nói: Con xin hứa.
Ông già nói: Con ơi, còn nhớ phải nhớ điều này: Chỉ bắt rái cá đực và rái cá cái không bận con nhỏ. Bắt được rái cá mẹ hoặc rái cá con là phải thả ngay. Người Mông Cổ ta bắt rái cá hàng trăm năm nay mà vẫn có thịt rái cá ăn, có da để bán, có mỡ để dùng, là do không dám phá hoại quy củ của tổ tông. Rái cá cạn hủy hoại thảo nguyên, nhưng chúng rất có ích đối với người Mông Cổ. Xưa kia, mục dân nghèo ăn thịt rái cá sống qua mùa đông. Rái cá cạn đã cứu được bao nhiêu người nghèo, người Hán các cậu đâu có biết!
Hai con ngựa phóng nhanh trong cỏ thu rậm rạp, vó ngựa khua động những con thiêu thân màu trắng, nâu và phấn hồng, những con côn trùng màu xanh lá cây, màu vàng, ba bốn con chim én bay lượn trên đầu hai người, thưởng thức bữa tiệc côn trùng do vó ngựa đem lại. Hai con ngựa chạy vài chục dặm, những con én cũng bay theo vài chục dặm, khi những con này đã no, những con khác lại sung vào đội ngũ những con trước.
Ông già Pilich dùng cây mã bổng trỏ mấy mỏm đồi trước mặt, nói: Đây là Núi Rái Cá của thảo nguyên Ơlôn. Rái cá ở đây nhiều, to con, mỡ dày, bộ da tốt. Đây là núi vàng núi bạc của đại đội ta. Phía nam và phía bắc còn hai quả Núi Rái Cá nhỏ nữa, rái cá ở đây cũng không ít. Mấy hôm nay các gia đình đều đến đây. Rái cá năm nay dễ bắt.
Trần Trận hỏi: Vì sao?
Ông già mắt đượm buồn, thở dài: Sói ít đi thì rái cá rất dễ bị tròng cổ. Sói mùa thu béo được nhờ ăn thịt rái cá, sói không béo không qua nổi mùa đông. Sói bắt rái cá cũng chỉ bắt con to không bắt con nhỏ, do đó năm nào cũng có rái cá ăn. Trên thảo nguyên, chỉ mục dân Mông Cổ và sói Mông Cổ mới hiểu những quy củ trên thảo nguyên là do Tăngcơli định đoạt.
***
Hai người tiếp cận Núi Rái Cá, bỗng phát hiện hai chiếc lều hình cánh buồm bằng vải bạt dựng bên khe suối, bên ngoài lều khói bếp bay lên, bên cạnh có một cỗ xe lớn và một xe chở nước. Tình hình có vẻ nơi tạm trú của công trường nào đó.
Hai con ngựa chưa đến bên lều đã ngửi thấy mùi thơm của thịt và mỡ rái cá. Hai người vội xuống ngựa, trông thấy bên ngoài căn lều, nửa nồi mỡ rái cá màu nâu to tướng đang sôi lăn tăn trên bếp, mấy con rái cá đang nhào lộn trong nồi, mỡ đã chảy ra hết chỉ còn lại thịt, vàng hươm và rất giòn. Một dân công trẻ vớt con rái cá vừa chín tới, đã lập tức bỏ vào nồi một con rái cá đã lột da, bỏ sạch nội tạng, béo núc ních. Lão Vương và một dân công ngồi bên một chiếc hòm gỗ vỡ, trên để bát tương đậu nành, một đĩa muối ớt và một đĩa hành sống. Hai người vừa uống rượu vừa ăn thịt rái cá rán cực kỳ vui vẻ.
Bên cạnh nồi lớn là chiếc chậu giặt cỡ lớn bằng tôn đựng đầy những con rái cá đã lột da, trong đó phần lớn là những con rái cá nhỏ chỉ dài khoảng một thước. Trên mặt đất bày mấy tấm cánh cửa và hơn chục chiếc bàn ăn đan bằng nhành liễu, trên phơi kín da rái cá lớn nhỏ, khoảng hơn trăm bộ. Trần Trận và ông già bước vào trong lều. Trong lều xếp đống da rái cá đã khô, cao ngang thắt lưng, cũng khoảng một trăm bộ. Chính giữa lều là một vỏ thùng xăng cao hơn mét, đựng đầy mỡ rái cá, bên cạnh đó còn có một số thùng nhỏ hoặc chai đựng mỡ rái cá.
Ông già lại ra ngoài lều, đến bên chiếc chậu tôn, dùng mã bổng gạt những con rái cá nhỏ trên mặt chậu, ông phát hiện phía dưới có mấy con rái cá mẹ gầy nhom.
Ông già nổi cáu, gõ gậy cành cạch vào chậu tôn, gầm lên với lão Vương: Ai cho phép ông giết cả rái cá mẹ lẫn rái cá con? Đây là tài sản của đại đội, là những con rái cá mục dân Ơlôn để lại cho đời sau. Các ông to gan thật, chưa có ý kiến đại đội mà giết bao nhiêu là rái cá thế này!
Lão Vương ngà ngà say, tiếp tục ăn uống. Lão thủng thẳng nói: Tôi đâu dám bắt rái cá trên địa bàn của ông. Đại đội của ông đã thuộc về binh đoàn, xin nói để ông biết, chính Đoàn bộ cử tôi xuống đây đấy. Tham mưu Tôn nói: Rái cá hủy đồng cỏ, rái cá còn là thức ăn chủ yếu của sói trước khi sang mùa đông. Diệt rái cá, đàn sói sẽ không qua nổi mùa đông. Lệnh của Đoàn bộ, phải diệt hết rái cá cùng với chiến dịch diệt sói. Bác sĩ quân y sư đoàn nói: Rái cá có thể truyền bệnh dịch hạch, lúc này rất nhiều người tập trung ở một khu vực, nếu xảy ra bệnh dịch thì ông chịu trách nhiệm nhé?
Ông già Pilich lặng đi một lúc rồi lại gầm lên: Chỉ thị của Đoàn bộ cũng thế thôi. Các người giết hết rái cá rồi lấy gì cho mục dân làm nghề. Nếu dàm ngựa đứt, ngựa lạnh, người bị thương thì ai chịu trách nhiệm. Các người là phá hoại sản xuất!
Lão Vương phà hơi rượu, nói: Trên bảo giết chắc là có người chịu trách nhiệm, ông có giỏi thì đi gặp cấp trên, nạt nộ mấy anh em lao động chân tay chúng tôi làm gì! Lão Vương liếc cái bao tải bên yên ngựa, nói: Ông cũng đến bắt rái cá đấy thôi. Ông được bắt, tại sao tôi không được bắt? Động vật hoang dã không phải do nhà ông nuôi, ai đánh bắt được người ấy hưởng.
Ông già cáu, chòm râu rung lên, ông quát: Hãy đợi đấy, lát nữa tôi về gọi mã quan ra. Chỗ da và mỡ này, tôi đem về đại đội.
Lão Vương nói: Chỗ thịt và mỡ này do nhà ăn đoàn bộ đặt hàng, mai phải đem về cho họ. Nếu ông cho người đến cướp thì cứ cướp, rồi sẽ có người nói chuyện phải quấy với ông. Chỗ da này cũng có ông cốp đặt rồi, Chủ nhiệm Quý còn phải đích thân chở đi nữa kia!
Ông già thõng tay, hồi lâu chẳng nói được câu nào.
Trần Trận lạnh như tiền: Các ông giỏi thật! Diệt một lèo bấy nhiêu con rái cá. Rái cá lớn nhỏ diệt cả ổ, để xem sang năm các ông bắt cái gì?
Lão Vương nói: Các ông gọi chúng tôi là quân lưu manh, lưu manh lưu manh, quân manh động. Không cần đợi sang năm, chỗ nào có ăn là chúng tôi mò đến, được năm nào hay năm đó, các ông lo cho lũ rái cá, vậy ai lo cho lũ lưu manh chúng tôi!

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:35:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34 (tiếp)

Trần Trận biết nói lý lẽ với bọn lưu manh này cũng bằng thừa. Cậu chỉ muốn  biết chúng bắt bằng cách nào mà được nhiều rái cá như thế, chẳng lẽ chúng cũng có thòng lọng đàn hồi? Liền đổi giọng, hỏi: Các vị bắt bằng cách nào mà được nhiều đến vậy?
Lão Vương đắc ý, nói: Định học tôi phỏng? Muộn mất rồi. Mỏm này sắp hết rồi. Hôm kia tôi đã cho chở lên Sư một xe tải thịt và mỡ rái cá. Muốn biết tôi bắt như thế nào hả? Lên núi mà xem, chậm nữa là không còn thấy gì nữa đâu.
Trần Trận đỡ ông già lên ngựa, phóng lên núi. Trên một mỏm ở góc đông bắc có bốn năm người đang lúi húi làm gì đó. Hai người vội cho ngựa phi tới. Ông già quát: Dừng tay! Dừng tay! Đám dân công dừng công việc đứng lên ngó. Hai người xuống ngựa, Trần Trận trông thấy trận thế bày trước mắt thì rủn cả người. Trên mỏm có năm sáu cái hang rái cá. Cậu thoạt nhìn đã biết, đây là những cái hang thông với nhau của một ổ rái cá lớn. Bốn cái hang khác đã bị bịt kín bằng đất. Điều khiến cho cậu kinh khủng nhất là một dân công cầm một con rái cá con dài chưa đến một thước, đuôi buộc một tràng pháo tép, cái đuôi còn buộc vào sợi thừng một đầu buộc miếng thảm len to bằng nắm tay tẩm rất nhiều ớt bột và dầu mazút, mùi hôi sặc sụa. Một dân công đứng bên tay cầm bao diêm, chậm chút nữa là họ châm lửa thả con rái cá vào trong hang cho nổ và hun khói từ trong ra.
Ông Pilich vội chạy tới dùng chân bịt một miệng hang, quát đám dân công bỏ tất cả các thứ trên tay xuống. Vài người trong bọn họ thấy ông già quản lý lão Vương suốt cả mùa hè thì không dám cưỡng, vội cởi dây thừng.
Trần Trận chưa bao giờ thấy cách đánh bắt tham lam tàn nhẫn độc địa như thế trên thảo nguyên, tàn nhẫn hơn cả tát cạn bắt lấy cá. Nếu như con rái cá chạy vào trong hang cùng với pháo tép, bột ớt và dầu mazút, thì gia đình rái cá này tai họa tày trời! Hang rái cá là loại hang sâu nhất, dốc nhất, kết cấu bên trong phức tạp nhất trên thảo nguyên, nó có công sự chống khói, một khi bị hun khói, nó đủn đất mau chóng lấp kín chỗ hang hẹp nhất. Nhưng đám dân công đến từ khu vực nông nghiệp này giở độc chiêu, lũ rái cá trở tay không kịp. Con sói được thả vào hang sợ quá chạy tuột xuống chỗ đàn rái cá tập kết, kéo theo pháo đã châm ngòi, sẽ nổ và hun khói từ trung tâm, tiếng nổ liên tục và bột ớt cùng khói cay xè đánh gục lũ rái cá, chỉ còn một con chạy thoát lên mặt đất, đón nó là cây mã bổng và bao tải. Chiêu này rất độc mà dễ thực thi, chỉ cần bẫy được một con làm “kẻ dẫn đường” là xong. Chỉ trong mấy hôm đã hủy hoại quả núi rái cá tồn tại hàng nghìn năm, họ hàng nhà rái cá gần như tuyệt diệt!
Ông già chọc cây mã bổng xuống đất khiến đất đá bay tứ tung, vừa chọc vừa quát: Bỏ tràng pháo ra! Cắt dây buộc ớt ra! Trả con rái cá về hang! Đám dân công chậm rãi cởi dây thừng, nhưng không thả con rái cá.
Lão Vương đánh cỗ xe nhẹ đã lên kịp. Lão hình như đã tỉnh rượu, cười nhăn nhở, liên tục mời thuốc ông già và không ngớt mắng đồng bọn. Lão bước tới giằng lấy con rái cá từ tay dân công, dùng dao cắt đứt đoạn dây rồi trở lại trước mặt ông già, nói: Ông đứng lên để tôi thả nó về ổ.
Ông già chậm rãi đứng lên phủi đất trên người, nói: Dù ông có thả con này, thì từ nay ông đừng hòng làm công việc xây dựng ở đại đội tôi.
Lão Vương cười nịnh: Tôi chẳng qua là làm theo lệnh trên, chứ mình tôi đâu dám. Không triệt rái cá thì không thể cắt đường rút lui của sói. Đây cũng là trừ hại cho dân. Có điều, cụ nói cũng có chỗ đúng, không có mỡ rái cá thì yên cương hỏng hết, vậy nên phải để lại cho mục dân một số…
Con rái cá nhỏ vừa đặt xuống bậc thềm, liền chui luôn vào hang.
Lão Vương thở dài, nói: Thực ra, bắt ổ rái cá cũng không dễ. Sáng nay mãi mới bẫy được một con “dẫn đường”. Những ngày này rái cá sợ pháo không chui lên mặt đất nữa.
Ông già kiên quyết: Chuyện chưa biết! Ông chở ngay những thứ này về đại đội bộ. Chuyện này mà Lanmutrăc và bọn mã quan biết, chúng sẽ đập nát xe và lều của ông.
Lão Vương nói: Chúng tôi thu dọn rồi đi luôn, còn phải báo cáo Chủ nhiệm Quý.
Ông già nhìn đồng hồ, lo cho mỏm phía bắc, bảo lão Vương: Tôi đi tìm người, lát nữa quay lại. Hai người lên ngựa chạy về phía đường biên phòng.
Vừa qua hai khúc rẽ, chợt nghe sau lưng có mấy tiếng pháo nổ, lát sau không nghe thấy gì nữa. Ông già nói: Hỏng rồi! Chúng mình bị lừa rồi. Hai người vội vã quay ngựa trở lại chỗ mỏm núi, thấy lão Vương che khăn ướt nửa mặt đang chỉ huy bọn dân công bắt rái cá. Bên miệng hang xác rái cá la liệt, mùi cay xộc mũi vẫn liên tục từ trong hang bay ra. Mấy con cuối cùng ló đầu lên liền bị đập chết tươi. Ông già Pilich bị sặc khói ho rũ rượi, Trần Trận phải dìu ông ra chỗ đầu gió đấm lưng liên tục.
Đám người bịt khăn ướt như bọn cướp đường, nhét tất cả rái cá vào bao tải quẳng lên xe, vội vàng kéo xuống núi.
Trần Trận nói: Con không hiểu họ lấy đâu ra con rái ca nhanh thế?
Ông già nói: Chắc chắn họ bẫy được hai con, giấu trong tải một con mà ta không nhìn thấy. Cũng có thể họ dùng sào dài đưa pháo xuống sâu trong hang, tác dụng cũng như dùng rái cá dẫn đường. Quân thổ phỉ! Còn đáng ghét hơn bọn trộm ngựa ngày trước. Ông già chống cây mã bổng đứng dậy nhìn cái hang rái cá lâu đời, giọng run rẩy: Ác quá! Tôi biết cái hang này, họ hàng nhà tôi đời nọ tiếp đời kia năm nào cũng bắt rái cá ở hang này nhưng chưa bao giờ để chúng tuyệt tự, năm nào cũng có rái cá lớn nhỏ vui vẻ nô đùa, năm nào cũng no đủ. Không ngờ chưa hút tàn điếu thuốc, cái hang tuổi thọ hàng trăm năm trở thành cái hang rỗng.
Trần Trận buồn rầu, nói: Bố đừng giận, ta phải tính kế mới được.
Ông già nói: Sao không thấy Đanchi? Tôi nghĩ cậu ta dẫn người lên ngọn đồi phía bắc rồi… Họ có xe, chạy nhanh, thường là đến trước mình. Mau lên! Hai con ngựa phóng nhanh về hướng bắc, qua mấy con dốc thoai thoải đã trông thấy dãy núi lớn Ngoại Mông - đường biên giới.
Ông già trỏ một quả đồi xanh phía xa nói: Xưa kia có thể bắt rái cá ở đó, nhưng nay thì không vì tình hình căng thẳng. Giờ muỗi ít, chắc chắn sói bắt rái cá ở đó. Sói đã nghĩ thế thì bọ Đanchi sao lại không nghĩ như sói?
Trần Trận hỏi: Biên phòng để họ tự do à?
Ông già nói: Đằng ấy núi nhiều, biên phòng không dễ phát hiện, mà nếu bắt gặp thì thấy cùng là xe quân đội, chỉ dăm câu là êm chuyện.
Chạy hồi lâu, hai con ngựa tự động giảm tốc độ, thi thoảng lại cúi xuống bứt vài cọng cỏ. Trần Trận thấy cỏ ngựa đang ăn xanh tươi hơn nhiều so với cỏ chăn nuôi trên đồng, hơn nữa thân có rất mập, bông trĩu quả, loại chất lượng cao. Cúi nhìn kỹ hơn, Trần Trận còn thấy trên mặt đất có rất nhiều đống cỏ non to bằng tổ chim khách, rõ ràng đây là lương thực mùa đông của chuột thảo nguyên phơi bên miệng hang, khô rồi thì kéo từng cọng vào trong. Lúc này cỏ thảo nguyên đã vàng nửa thân, nhưng cỏ của lũ chuột thì chúng cắn từ ba bốn hôm trước, còn xanh hoàn toàn. Ngửi thầy mùi cỏ thơm, hai con ngựa không chịu chạy nhanh là phải.
Ông già gò cương trước những đống cỏ dày đặc, nói: Nghỉ lát đã, cho ngựa giành lại ít cỏ từ ổ chuột. Không ngờ sói vừa đi khỏi, chuột đã quậy động trời, những đống cỏ năm nay nhiều gấp mấy lần năm đầu tiên.
Hai người xuống ngựa, tháo hàm thiết cho ngựa ăn một bữa thoải mái. Hai con ngựa dùng mõm gạt cỏ khô trên mặt để ăn cỏ xanh ở dưới, ăn hết đống này đến đống khác, mõm ngựa xanh lét vì nhựa cỏ. Hai con ngựa hắt hơi liên tục. Ông già gạt đống cỏ ra xem: Hang chuột to bằng miệng bát uống trà, con chuột ló đâu nhìn quanh thấy người xâm phạm đống cỏ liền chạy ra đớp luôn mũi ủng ông già một cái rồi chạy vào hang, kêu chi chi loạn xạ. Lát sau thấy có tiếng rũ yên phành phạch, ngoảnh nhìn thấy mũi ngựa bị chuột cắn tóe máu, xung quanh toàn là tiếng chuột kêu.
Ông giá tức quá, chửi: Loạn rồi! Chuột mà dám cắn ngựa! Sói tiếp tục bị diệt, chuột sẽ ăn thịt người. Trần Trận vội chạy tới giữ ngựa lại, quấn dây cương vào chân trước, con ngựa cúi xuống liền biết dùng vó cào đất lấp miệng hang hoặc chận luôn miệng hang rồi mới ăn cỏ.
Ông già đá tung hết đống cỏ này đến đống cỏ khác, nói: Bảy tám bước là một đống, lũ chuột cướp hết cỏ xanh, ngay cả trạm ngựa giống Tân Cương cũng chưa có cỏ này để ăn. Lũ chuột lợi hại hơn máy cắt cỏ, máy cắt cỏ xấu tốt cắt tất, còn chuột chỉ chọn cỏ ngon. Mùa đông này trữ được nhiều cỏ, lũ chuột chết đói chết rét ít, sang xuân chuột mẹ nhiều sữa, nhiều con, cắn trộm nhiều cỏ đem vào, đủn nhiều cát ra bên ngoài. Sang năm chuột sẽ phá dữ! Cậu xem, vắng sói là chuột không còn lén lút mà hung hăng như lũ giặt.
Trần Trận trông thấy đây đó toàn hang chuột, trong lòng vừa buồn vừa sợ. Hàng năm ở thảo nguyên Ơlôn đều triển khai cuộc chiến giữa người và gia súc với chuột. Chuột thảo nguyên dù ranh ma đến mấy cũng có chỗ yếu chí mạng, muốn đào hầm sâu tích trữ thật nhiều lương thực thì phải phơi cỏ, vì cỏ tươi chóng thối không để lâu được. Hành động phơi cỏ lén lút trong mùa thu của chuột chẳng khác lạy ông tôi ở bụi này, hang ổ lộ hết, tạo cơ hội cho người diệt chủng. Mục dân thấy có nhiều đống cỏ liền cảnh báo, tổ sản xuất lập tức điều động tất cả bò cừu, thậm chí cả ngựa đến ăn. Lúc này đồng cỏ đã vàng, nhưng những đống cỏ thì xanh và thơm, gia súc tranh nhau ăn, chỉ vài hôm là ăn sạch số cỏ dự trữ của chuột, không còn gì ăn trong mùa đông, chuột sẽ chết đói chết rét. Đây là biện pháp cổ lỗ nhưng hữu hiệu nhất của mục dân Mông Cổ đối phó với chuột trên thảo nguyên.
Nhưng muốn diệt chuột trong mùa thu, người và gia súc còn phải hiệp đồng tác chiến với sói… Sói phụ trách ăn thịt và khống chế chuột thảo nguyên. Mùa thu hàng năm vào lúc chuột béo nhất, là lúc sói ăn thịt chuột nhiều nhất. Chuột bị vướng nên dễ bị sói vồ, đống cỏ chỉ cho sói biết chỗ nào lắm chuột. Do vậy mùa thu nào chuột cũng bị tổn thất nghiêm trọng, quan trọng hơn, sói khiến chuột không được ăn đủ dự trữ đủ, sẽ chết đói trong mùa đông. Trong khi sói khống chế hoạt động của chuột, người và gia súc phụ trách công việc tiêu diệt những đống cỏ. Hàng ngàn năm nay, người và gia súc phối hợp hài hòa, khắc phục có hiệu quả nạn chuột. Những đồng cỏ mùa đông vì quá xa, nên hoàn toàn phó thác cho sói. Những kẻ đến từ khu vực nông nghiệp làm sao hiểu nổi cuộc chiến kỳ ảo liên can tới số phận đồng cỏ.
Hai con ngựa chỉ ăn trong nửa tiếng đã no căng bụng. Rõ ràng là đại đội không đủ binh lực để triển khai trên một quy mô lớn như thế. Đứng trước cuộc chiến chưa từng chứng kiến, ông già suy nghĩ rất lâu, điều đàn ngựa đến chăng? Không ổn, đây là đồng cỏ của cừu bò, không thích hợp với ngựa, điều ngựa đến sẽ lung tung hết. Nhiều đống cỏ thế này thì chỉ máy gom cỏ mới chưa chắc đã gom hết. Tình hình này chắc chắn nạn chuột sẽ xảy ra.
Trần Trận khẳng định: Đây là tai họa do người gây ra!
Hai người lên ngựa, tiếp tục tiến lên, lòng nặng trĩu. Dọc đường những đống cỏ lúc thưa lúc mau trải dài theo đường biên phòng.
Hai người còn cách mỏm rái cá không xa, đột nhiên trong núi vọng lại tiếng động không ra tiếng súng trường, cũng không phải tiếng pháo nổ, rộ lên một cái rồi tắt ngấm. Ông già tỏ vẻ bất lực, thở dài: Đoàn bộ chọn Đanchi làm tham mưu diệt sói là chọn đúng người đúng việc. Chỗ nào có sói chỗ ấy có nó. Địa bàn cuối cùng của sói nó cũng không bỏ qua.
Hai người thúc ngựa chạy. Một xe com măng ca từ khe núi phóng ra. Hai người ghìm cương, chiếc com măng ca dừng lại trước mặt, trên xe là hai xạ thủ ngoại hạng và Đanchi. Tham mưu Từ cầm lái, Đanchi ngồi ghế sau, dưới chân là một bao tải lớn thấm máu, cốp sau xe không đóng được nắp. Ông già mắt đóng đinh vào khẩu súng nòng dài trong tay tham mưu Bathơ, Trần Trận thoạt nhìn đã nhận ra đó là khẩu súng thể thao nòng nhỏ. Ông già chưa thấy loại súng này bao giờ nên nhìn mãi.
Hai vị tham mưu chào ông già: Tan sai nô! Tan sai nô! (Chào ông, chào ông!) Tham mưu Bathơ hỏi: Các vị cũng đi săn rái cá phải không? Đừng đi nữa, tôi xin biếu hai con.
Ông già trợn mắt hỏi: Sao không đi?
Tham mưu Bathơ nói: Những con ngoài hang chúng tôi bắn hết cả rồi, những con trong hang thì không dám ra nữa.
Ông giả hỏi: Súng gì trong tay ông vậy? Nòng súng dài thế?
Tham mưu Bathơ nói: Đây là súng bắn chim, chuyên bắn vịt trời, đạn lớn bằng đầu đũa, bắn rái cá rất tốt, lỗ đạn nhỏ không hỏng da. Ông xem này…
Ông già đón khẩu súng ngắm nghía hồi lâu, con xem cả đạn.
Tham mưu Bathơ muốn giới thiệu khẩu súng với ông già nên xuống xe, cầm lấy súng ngó quanh, thấy một con rái cá lớn đứng bên đống cỏ trên đỉnh dốc cách 20 mét liền ngắm qua quýt rồi lẩy cò, con rái cá bị bắn bể đầu, ngã xuống bên ngoài miệng hang. Ông già rùng mình.
Tham mưu Từ cười, nói: Toàn bộ sói đã chạy ra Ngoại Mông. Hôm nay Đanchi dẫn bọn tôi lượn mấy vòng không thấy con sói nào. May mà đem theo khẩu súng bắn chim, bắn được vô khối rái cá. Rái cá ở đây rất ngố, người cách 10 mét vẫn không chịu thụt xuống, đợi ăn đạn.
Đanchi tán dương: Hai vị pháo thủ bắn trúng mục tiêu ngoài 50 mét. Trên đường đi trông thấy con nào hạ con ấy, nhanh hơn đánh thòng nhiều.
Tham mưu Bathơ nói: Lát nữa qua đằng nhà, chúng tôi gửi lại hai con biếu cụ. Cụ về đi!
Ông già vẫn chưa định thần từ khi nhìn thấy uy lực của loại vũ khí mới. Chiếc xe đã chạy đi, nhanh như biến. Ông già tâm thần mê mẩn tưởng như vẫn trong đồng cỏ mùa thu mà ông đã quen thuộc, có lẽ ông vẫn đang nghĩ đến khẩu súng nòng dài trong tay Tham mưu Từ. Chỉ một tháng ngắn ngủi mà bấy nhiêu con người, bấy nhiêu loại vũ khí mới, bấy nhiêu thủ đoạn mới đáng sợ tuồn vào thảo nguyên! Ông hoàn toàn suy sụp. Chiếc com măng ca đã đi, ông quay lại không nói nửa câu, đóng qua quýt hàm thiếc rồi để cho con ngựa tự đi về nhà. Trần Trận chậm rãi đi bên cạnh. Cậu nghĩ, người ta bảo ông vua cuối cùng của triều đại rất đau khổ, nhưng lớp dân du mục cuối cùng còn đau khổ hơn. Sự tan rã của vạn năm thảo nguyên nguyên thủy khó chấp nhận hơn sự đổ vỡ của nghìn năm hoàng triều. Ông như bị viên đạn bằng đầu đũa khoan thủng mạch máu, cơ thể teo lại đến một nửa, hai hàng nước mắt ngầu đục theo nếp nhăn chảy sang hai bên, rớt xuống những bông cúc dại màu trắng xanh.
Trần Trận không biết làm gì để giúp đỡ ông già rũ bỏ nỗi đau. Im lặng hồi lâu, cậu lắp bắp: Bố, cỏ năm nay tốt quá, thảo nguyên Ơlôn đẹp quá… có lẽ sang năm…
Ông già như kẻ vô hồn, hỏi lại: Sang năm? Sang năm còn có những chuyện quái quỷ gì nữa? Xưa kia, ngay cả người mù cũng thấy thảo nguyên đẹp… Giờ thì thảo nguyên không đẹp nữa, mắt tôi mù đi thì hơn, sẽ không phải nhìn thấy thảo nguyên bị giày xéo…
Ông già ngật ngưỡng trên yên, mặc cho con ngựa bước đi những bước nặng nề. Ông nhắm mắt, cổ họng phát ra những tiếng ca không rõ lời, nhưng Trần Trận vẫn nghe ra đó là một bài đồng dao:
Bách linh hót, là mùa xuân đến.
Rái cá kêu, là hoa lan nở.
Hạc xám kêu, là trời sắp mưa.
Sói con tru, là trăng sắp lên.

Ông già hát đi hát lại bài đồng dao, càng hát giọng càng trầm lắng, lời ca càng mơ hồ, giống như một dòng sông nhỏ từ đâu chảy tới chảy quanh quẩn trên thảo nguyên rồi mất hút trong một trảng cỏ. Trần Trận nghĩ, có thể con cháu các tộc Khuyển Nhung, Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết, Khiết Đan, và cả con cháu Thành Cát Tư Hãn Mông Cổ, đều hát bài đồng dao này? Nhưng từ nay về sau, đám trẻ trên thảo nguyên còn hiểu được ý nghĩa của lời ca? Có lẽ khi đó chúng sẽ hỏi: Bách linh là con gì? Rái cá là con gì? Hạc xám là con gì? Sói hoang là con gì? Đại nhạn là con gì? Hoa lan là hoa gì? Hoa cúc là hoa gì?
Từ đám cỏ vàng úa, vài con bách linh vỗ cánh bay thẳng lên trời xanh rồi dừng lại giữ không trung, cất tiếng hót lảnh lót...

________Hết chương 34________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:36:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35

Viêm Đế họ Khương… Họ Khương là một chi của tộc Khương - Tây Nhung, tộc du mục đầu tiên từ phía tây tiến vào miền trung.
                                                                             Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên. Đệ nhất biên”

Tây Khương… coi chết trận là chuyện hay, chết bệnh là chuyện dở. Chịu rét giỏi như cầm thú, phụ nữ không kiêng gió tuyết khi sinh nở. Tính tình cương nghị mà dũng mãnh do được hấp thụ hành kim của phương Tây.
                                                                                                             “Hậu Hán thư. Tây Khương liệt truyện”

Trận tuyết đầu mùa khi chớm đông đã lập tức hóa thành hơi ẩm trong không khí. Thảo nguyên lạnh lẽo và tươi mới, cảnh huyên náo trên đồng cỏ mùa hè đã trở thành dĩ vãng, mỗi tổ cách nhau mấy chục dặm, tiếng chó sủa cũng không còn nghe thấy. Đồng cỏ mùa đông rộng và hoang vắng như sa mạc, chỉ bầu trời vẫn xanh biếc như mùa thu. Trời cao mây nhạt, trong như lòng hồ. Chim nhạn thảo nguyên bay càng cao, còn nhỏ hơn vết ố trên mặt gương. Chúng không bắt được những con rái cá cạn hoặc chuột đồng vì miệng hang đã bị bịt kín, đành bay lên thật cao, hi vọng từ tầm cao ấy phát hiện thỏ đồng. Còn thỏ đồng thì thay đổi sắc lông nấp sau bụi cỏ đông cao cao, ngay cả cáo cũng không phát hiện ra. Người già bảo, hàng năm có rất nhiều chim ưng chết đói.
Trần Trận mua từ Hợp cung tiêu một cuộn lưới thép bịt kín lỗ thủng của cái sọt đan bằng cành liễu. Mất một ngày mới lót xong lưới thép bên trong sọt và làm một cái nắp cũng bằng lưới thép. Lưới thép sợi rất thô, gần bằng đầu đũa, kìm đầu cọp bóp mạnh mới cắt đứt. Cậu đồ chừng sói con dù cắn gãy răng cũng không cắn thủng “nhà giam” mới này, với lại lưới thép còn nhiều, thủng chỗ nào vá chỗ ấy. Mùa đông, tuyết phủ quá nửa thân cỏ, gia súc ăn được rất ít, vậy nên mỗi tháng phải di chuyển một lần khi đàn gia súc gặm trơ đất, để lại đồng cỏ cho đàn ngựa vì ngựa biết bới tuyết để ăn cỏ phía dưới. Mùa đông di chuyển cũng không xa, khoảng cách chỉ bằng bãi cỏ cũ là được, nói chung chỉ mất khoảng nửa ngày. Sói con gần như không thể trong thời gian ấy cắn thủng cái sọt. Trần Trận thở ra nhẹ nhõm. Cậu nghĩ suốt nửa tháng mới tìm ra cách khắc phục vấn đề sống còn này.
Du mục buộc người ta phải khôn lên. Dương Khắc và Trần Trận cũng nghĩ ra cách cho sói con vào “nhà giam” : Trước tiên chụp con sói đậy nắp lại, sau đó hạ thùng xe xuống đất khênh “nhà giam” lên thùng, sau đó khênh cả thùng lẫn sọt lên xe đặt đúng chỗ hộc chứa đồ ở đuôi xe, cuối cùng là chỉnh cho bằng phẳng, chằng buộc kỹ. Như vậy, đưa được sói con lên mà người và ngay bản thân con sói vẫn an toàn, không bị thương. Đến địa điểm mới, làm ngược lại trình tự là ổn, con sói xuống xe ngon lành. Hai cậu hi vọng dùng cách này cho đến khi định cư, sẽ xây cho sói con một gian chuồng bằng đá, chỉ một lần là xong, chỉ còn mỗi việc chăm nom. Sau đó cho con chó cái ở cùng sói con, chúng quen nhau từ nhỏ, có thể ngày một ngày hai phát sinh tình cảm, từng ổ béc-giê ra đời, đó chính là hậu duệ của sói thảo nguyên.
Trần Trận và Dương Khắc thường ngồi trò chuyện bên cạnh sói con, vừa vuốt ve nó. Sói con đã biết gác cổ lên người hoặc lên đùi Trần Trận, dỏng tai nghe hóng chuyện hai người. Nghe đã mệt sói con đổi thế nằm, cọ cổ gãi ngứa, hoặc nằm ngửa chổng bốn vó lên trời cho các cậu xoắn tai bẹo má. Hai cậu lo cho tương lai của các cậu và của sói con. Dương Khắc ôm sói con nhẹ nhàng chải lông cho nó, nói : Sau này nếu sói con có con, nó sẽ không bỏ đi. Sói là loại động vật rất quyến luyến gia đình, tất cả sói bố đều là đại trượng phu, nếu không có sói hoang về dụ, ta không cần xích nó nữa, thả ra thảo nguyên nó tự biết đường về.
Trần Trận lắc đầu : Nếu vậy sói không còn là sói nữa. Mình rất không muốn giữ nó lại chỗ này. Mình mơ ước có một người bạn là sói hoang. Giả dụ mình phóng ngựa lên mỏm núi bắc đường biên phòng, gọi to : Sói con ra ăn cơm! Nó sẽ dẫn cả nhà sói ra, một gia đình sói chính cống vừa reo vừa chạy ra đón, trên cổ chúng không có dây xích, răng chúng sắc nhọn, thân thể chúng cường tráng. Chúng nó đùa với mình trên bãi cỏ, liếm mặt mình, ngậm tay mình nhưng không cắn, nhưng từ khi sói con bị hỏng răng, mơ ước của mình trở thành ảo mộng...
Trần Trận thở dài khẽ: Nhưng mình vẫn chưa chịu thôi. Mấy ngày nay mình lại có ảo tưởng mới: Mình mơ trở thành nha sĩ, bọc cho sói con mấy cái răng bằng thép sắc nhọn. Sang xuân, sói con hoàn toàn trưởng thành liền đưa nó đến đường biên phòng thả nó vào dãy Lớn Ngoại Mông, nơi đó có đàn sói, chưa chừng trong đó có bố nó - sói chúa cổ trắng đã mở đường máu xây dựng căn cứ địa mới. Sói con thông minh, chắc chắn tìm thấy vua cha, chỉ cần có dịp ở gần, sói chúa có thể đánh hơi thấy mùi gia tộc mà nhận sói con. Với bốn chiếc răng thép làm vũ khí, sói con sẽ trở thành địch thủ đáng gờm trên thảo nguyên, chư chừng mấy năm nữa sói chúa sẽ nhường ngôi cho sói con cũng nên. Sói con thuộc giống ưu việt trên thảo nguyên, tính khí quật cường, thông minh tuyệt đỉnh, phải là hậu duệ sói chúa mới đúng. Nếu như sói con trở về đất mẹ Mông Cổ, nơi ấy đất rộng người thưa, chỉ hai triệu dân nhưng đấy mới là thiên đường tinh thần của sự sùng bái totem, không có thế lực nông canh ghét sói diệt sói, đại thảo nguyên mênh mông mới là đất dụng võ cho sói con. Mình đã hủy hoại tương lai tươi đẹp của sói con, tội to quá !...
Dương Khắc nhìn say mê dãy núi xa trên phía bắc đường biên. Ánh mắt tối sầm, cậu nói : Mơ ước của cậu giá như sớm mười năm còn có cơ thực hiện, còn mơ ước sau thì không thực hiện nổi. Cậu lấy đâu ra bộ đồ chữa răng quý giá như thế. Trên huyện bệnh viện còn chưa có, mục dân phải đi 800 dặm khám chữa bệnh. Cậu dám ôm con sói lên khám trên bệnh viện huyện không ? Cậu đừng mơ tưởng hão, cứ đà này, cậu sẽ trở thành chị Tường Lâm của thảo nguyên Mông Cổ mất thôi. Cậu có thể ca cẩm về chuyện sói, nhưng hoàn toàn đứng trên lập trường sói thì… Mà cậu nên thực tế một chút!
Trở về thực tế, điều mà Trần Trận và Dương Khắc lo nhất là những vết thương của con sói. Bốn chân đã khỏi, nhưng cái răng thì ngày càng lung lay, lợi tấy đỏ, sói con không dám xé thịt ăn như trước kia. Đôi khi nó quên, đau đến nỗi phải nhả miếng thịt ra rồi há miệng mà hít hà cho dịu cơn đau rồi dùng răng bên kia mà xé.
Trần Trận càng không yên tâm về vết thương trong họng sói con vẫn chưa lành miệng. Cậu liên tục bôi thuốc trên miếng thịt cho sói con nuốt tớm, vết thương không chảy máu nữa, nhưng sói con vẫn nuốt khó khăn và thường xuyên ho. Trần Trận không dám đón thú y, đành mượn mấy cuốn sách thú y mày mò tự chữa cho sói con.
***

Bò cừu dùng trong mùa đông đã giết thịt và đông lạnh xong. Lều Trần Trận có bốn người, theo quy định của mục trường, suốt mùa đông tiêu chuẩn của mỗi người là sáu con cừu lớn, tổng cộng 24 con; bốn người còn được chia một con bò. Lương thực theo định lượng của thanh niên trí thức vẫn chưa bị giảm, vẫn mỗi tháng 30 cân cho một người. Mục dân thực phẩm cũng như thanh niên trí thức, nhưng lương thực ít hơn, chỉ 19 cân. Vậy là về thịt, lều Trần Trận đủ ăn cho người, chó và sói. Hơn nữa, về mùa đông thi thoảng có cừu chết rét hoặc ốm chết, người không ăn, nhưng có thể để nuôi chó và sói. Trần Trận không còn lo cái ăn cho sói con. Cậu và Cao Kiện Trung đem hầu hết số thịt gửi kho của tổ. Kho là ba gian nhà đất xây dựng tại đồng cỏ mùa xuân, lên Đoàn bộ tất phải đi qua. Để lại lều chỉ khoảng một sọt, ăn hết lại lên kho lấy.
Mùa đông ngày ngắn, mỗi ngày chăn thả chừng bảy tám tiếng đồng hồ, chỉ bằng quá nửa ngày mùa hè, trừ những ngày có bạch mao phong thời tiết khắc nghiệt, mùa đông là mùa nghỉ ngơi của các dương quan mã quan. Trần Trận định bụng nhân lúc trông nom sói con, cậu tranh thủ đọc sách, chỉnh lý sổ tay ghi chép. Cậu đợi thưởng thức những trò mới hấp dẫn sói con sẽ biểu diễn dưới tuyết, sói con không để cậu, một kẻ nghiền những màn kịch sói, thất vọng.
Trong mùa đông dài dặc, những con sói vượt biên cuộc sống cực kỳ khó khăn. Vậy mà sói con của Trần Trận rất no đủ, lông đã mọc đều, gần như loáng cái nó loáng cái nó lớn gấp đôi, hoàn toàn là con sói trưởng thành. Trần Trận luồn tay vào mớ lông rậm của sói con: Không trông thấy ngón, ấm như bếp lò, ấm hơn tất cả các loại bao tay. Sói con vẫn chưa chịu chấp nhận cái tên “sói lớn”, gọi “sói lớn” nó làm như không nghe thấy; gọi “sói con” nó vui mừng chạy tới chồm lên đầu gối cậu. Con chó cái thường xuyên đến chơi với sói con, sói con cũng không cắn “cô dâu non” này nữa, trái lại thường phủ lên chó cái theo bản năng, vừa thân mật vừa thô bạo. Dương Khắc cười tít mắt: Kiểu này thì sang năm có cách rồi…
Trận tuyết lớn thứ ba cuối cùng đã chấm dứt. Thảo nguyên Ơlôn mênh mông lấp lóa màu vàng - trắng dưới nắng, ngồi xuống ngắm, lại là mục trường màu vàng kim. Tổ chăn nuôi Caxưmai như một bộ lạc nguyên thủy chậm rãi chuyển sâu vào thảo nguyên hoang dã mênh mông. Trần Trận lại chuyển nhà cùng với sói con, tiến về đồng cỏ kim mao mùa đông không ai lui tới, cách biệt với thế giới bên ngoài.
***
Trần Trận và Cao Kiện Trung đem theo hai chiếc xẻng xúc tuyết, chất đầy một xe phân bò khô và những vật liệu làm hàng rào cơ động cùng một số thảm dùng để quây chuồng, rồi cho xe đi tiền trạm, xúc tuyết quây chuồng. Mất hơn nửa ngày, hai người dọn xong nền chuồng cừu, chuồng bò, chuồng sói con và nền lều bạt. Tuyết được đánh thành bốn đống lớn, các thứ trên xe được dở xuống. Buổi chiều, khi đánh ba xe không trở về, Trần Trận trong lòng rất vui, có thể dành hẳn một xe chở sói con.
Sáng sớm hôm sau, ba người dỡ lều bạt chất lên xe chằng buộc xong xuôi, rồi thì đưa được sói con vào “xe tù” chằng buộc cẩn thận. Sói con giận dữ cắn lưới thép, răng đau đến nỗi không dám cắn tiếp, xe bắt đầu lăn bánh là nó sợ hãi quặp đuôi nửa ngồi nửa đứng, đầu cúi gằm, cổ rụt lại. Nó đứng như thế đến nửa ngày, cho đến khi tới khu lều mới.
Thu xếp cho sói con chỗ ở xong xuôi, Trần Trận chiêu đãi sói con một bữa thịnh soạn giúp sói con tích mỡ chống rét: Khu đuôi cừu luộc. Cậu còn cắt miếng cái khu đuôi để sói con dễ nuốt. Sói con trước sau kiên trì hai nguyên tắc: Một, tuyệt đối không cho ai lại gần khi ăn, kể cả người thân; Hai, khi đi dạo không cho dắt, nếu không, chống cự đến cùng. Trần Trận đáp ứng đến mức tối đa hai nguyên tắc này. Mùa đông lạnh giá, sói con coi trọng thức ăn hơn ba mùa xuân hè thu. Mối khi ăn, sói con mắt tóe lửa, đuổi Trần Trận cách chuồng một bước chân mới yên tâm quay lại ăn, và cũng như họ hàng nhà sói, nó vừa ăn vừa gầm gừ. Sói con tuy bị thương, nhưng nó vẫn khỏe mạnh, nó ăn gấp bội để bù lại chỗ máu bị mất.
Răng và họng bị thương cũng ảnh hưởng đôi chút tính cách sói của sói con. Lẽ ra chỉ hai ba miếng là ăn hết cái đuôi cừu, giờ nó phải ăn bảy tám miếng. Trần Trận hơi lo, không hiểu vết thương của sói con có khỏi hẳn được không?
Đồng cỏ mùa đông trên biên giới ít người lui tới vắng hơn nhiều đồng cỏ mùa thu. Mỗi ngọn cỏ ló ra trên tuyết lắc lư trước gió, đều mang vẻ già nua cằn cỗi. Mùa xanh tươi đã qua, những đàn chim di trú đã bay đi, đàn sói dũng mãnh ngang tàng một đi không trở lại, thảo nguyên hoang vắng đơn điệu càng tỏ ra thiếu sức sống. Trần Trận buồn như trấu cắn. Cậu không hiểu xưa kia Tô Vũ chăn dê làm sao sống được đằng đẵng bấy nhiêu năm ở Bắc Hải? Cậu càng không hiểu, nếu không có sói con và số sách đem về từ Bắc Kinh, liệu cậu có tránh khỏi phát điên hoặc ngớ ngẩn? Dương Khắc cho biết, bố cậu hồi trẻ du học ở Luân Đôn đã phát hiện tỉ lệ tự sát rất cao trong các cư dân vành đai bắc cực, và chứng trầm uất lưu hành trong nhiều thế kỷ trên thảo nguyên Nga La Tư và hoang mạc Sibia, đều liên quan mật thiết tới mùa đông u ám dài dặc trên thảo nguyên. Nhưng vì sao dân tộc Mông Cổ dân số ít ỏi lại sống được hàng ngàn năm trong điều kiện cũng khốc liệt như thế? Chắc chắn là cuộc đấu tranh căng thẳng, tàn khốc và dai dẳng với sói đã hun đúc nên tính cách quật cường của họ.
Sói thảo nguyên là một nửa kẻ thù bằng xương bằng thịt, nhưng lại là bậc thầy chí tôn về tinh thần đối với dân Mông Cổ. Diệt hết sói, mặt trời hồng sẽ không còn chiếu trên thảo nguyên, mà sự yên lặng như nước tù sẽ đem lại sự tàn lụi, khô héo hoang phế và trăm thứ vô vị khác còn đáng sợ hơn kẻ thù tận diệt tinh thần hào mại tính khí sôi nổi của dân tộc thảo nguyên.
Sói biến mất, rượu mạnh tiêu thụ gấp đôi.
Trần Trận bắt đầu tự thuyết phục: chắc hẳn năm xưa Tô Vũ chiến đấu kiên cường với bầy sói mới vượt qua được những năm tháng hiu quạnh và cô độc. Tô Vũ sống giữa vòng vây của sói nên không thể im lặng cũng không thể lười nhác. Hơn nữa, cô gái chăn dê Mông Cổ mà Thuyền Vu gả cho ông chắc cũng dũng cảm, mạnh mẽ và lương thiện như Caxưmai. Cặp vợ chồng gặp nhau trong hoạn nạn nảy sinh một con trai chắc cũng như Bayan dám chui vào hang bắt sói con. Cái gia đình êm ấm và kiên cường đó đã nâng đỡ tinh thần Tô Vũ. Chỉ tiếc là sứ giả nhà Hán chỉ cứu vợ chồng Tô Vũ, còn “Bayan” thì bỏ lại vĩnh viễn trên thảo nguyên Mông Cổ. Trần Trận ngày càng tin chắc, chính là sói thảo nguyên và tinh thần sói đã khiến Tô Vũ trở nên vĩ đại, không làm nhục sứ mệnh, giữ được khí tiết người Hán trước kẻ thù. Một Tô Vũ đã như thế, cả dân tộc thảo nguyên thì sao?
Linh vật sói là linh hồn thảo nguyên, là tự do và ý chí đanh thép của các dân tộc thảo nguyên.
Những năm tháng hiu quạnh của thanh niên trí thức, may mà bên cạnh Trần Trận có sói con tràn đầy sức sống.
Sói con lớn càng nhanh, cái xích ngày càng ngắn.
Sói con rất nhạy bén với chuyện thua thiệt, cảm thấy sợi xích không hợp với chiều dài của thân, lập tức phản đối quyết liệt như một tù phạm cứng cổ bị ngược đãi: Ra sức kéo căng sợi xích đòi nới ra, đòi nhổ bỏ cọc, không đạt mục tiêu thà bị nghẹt thở mà chết. Trần Trận đành phải nối thêm một đoạn ngắn, chừng 20 phân. Trần Trận thừa nhận dây xích hãy còn ngắn nhưng không dám nối dài vì sợ sói con có đà chạy giật đứt xích. Cậu tin rằng sẽ có ngày cái xích bị con sói giằng đứt.
Sói con bắt đầu cuộc đấu tranh trong tù. Nó coi trọng từng tấc xích được kéo dài, chỉ cần thêm một tấc là nó sẽ chạy vòng quanh như điên, vui mừng vì thêm một tấc tự do, dấu chân chạy trên tuyết mới coi như mở thêm lãnh địa mới, sướng hơn hạ sát một con ngựa choai. Không đợi Trần Trận quét dọn, sói con chạy quanh như cò quay hết vòng này đến vòng khác, thở phì phò, như hàng chục con sói xô nhau chạy. Sói con chạy như một cơn lốc, như cỗ máy cắt cỏ, như cỗ máy nghiền, tung bụi mù mịt, khiến Trần Trận gần trong gang tấc mà thấy rùng mình, chỉ sợ sói con đứt xích văng ra khỏi cọc bay lên núi, bay khỏi biên giới.
Trần Trận mỗi khi ngồi xuống bên con sói, cảm giác cô đơn lại biến mất, một sức mạnh hoang dã tràn về, dòng máu sôi sục trong huyết quản, sức sống mạnh mẽ bắt đầu bột phát, tâm tính cậu như cỗ máy phát điện mà sói con là điểm hỏa cho cỗ máy chạy, cậu cảm thấy vui sướng và tự tin.
Trần Trận lại hào hứng nhìn con sói biểu diễn. Nhìn mãi nhìn mãi, cậu phát hiện ra rằng con sói không chỉ chạy vì mừng, mà nó có một ý đồ khác, vì rằng sau khi hết mừng, nó vẫn chạy bạt mạng. Trần Trận cảm thấy hình như nó luyện tốc độ theo bản năng và kĩ năng vượt ngục, khát vọng bứt đứt sợi xích lớn hơn tất cả mọi đam mê khác. Sói con ngày càng cường tráng, ngày càng thành thục, mắt nhìn thảo nguyên rộng lớn trước mặt giơ chân ra là chạm tới tự do, khiến nó không chịu nổi cái gông trên cổ. Trần Trận rất hiểu tâm trạng và khát vọng của sói con, trên thảo nguyên tự do, đàn sói yêu tự do giương mắt nhìn tự do chỉ cách gang tấc, thì đúng là hình phạt tàn nhẫn. Nhưng Trần Trận buộc nó chịu đựng, bởi vì cái rét thảm khốc trên thảo nguyên, ngay cả sói lớn cũng khó bề sống sót, sói con chết là cái chắc. Sói con càng giằng giật, vết thương ở yết hầu càng lâu khỏi. Trần Trận nhìn sói con mà trong lòng đau xót. Cậu chỉ còn mỗi cách tăng cường kiểm tra dây xích, cọc gỗ, không để sói con vượt ngục, chạy đến với cái chết tự do.
Sói con miệng mở hé, vẫn chạy không biết mệt, nhiều khi còn cười khà nhìn Trần Trận, ánh mắt lóe lên như đốm lửa lân tinh rồi vụt tắt. Chính trong khoảnh khắc đó, Trần Trận cảm thấy trong lòng ấm áp và cảm động - cuộc đời của cậu chẳng lẽ ngắn ngủi như vậy sao? Ý chí và ước mơ của cậu chẳng lẽ kết thúc rồi sao? Đứng trước sức sống mãnh liệt của con sói, Trần Trận thẹn thùng tự hỏi. Cậu nhận ra sức sống mạnh mẽ của sói con hong khô đám củi ướt trong sức sống của cậu. Vậy thì hãy để sói con cứ bộc lộ cho hết, cứ cháy bùng lên, cứ để sói con chạy cho đã.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách