|
Chương 16
Thái tử Thừa Càn (con trai Đường Thái Tôn) thích gái đẹp và săn bắn... lại rất thích ngôn ngữ và trang phục Đột Quyết, chọn trong đám tả hữu những người có khuôn mặt giống Đột Quyết, năm người thành một nhóm, bện tóc mặc áo cầu chăn dê, may cờ phướn có 5 đầu sói, đắp bếp lò, Thái tử trong đó nướng cừu, dùng dao găm xẻo thịt ăn. Lại bảo tả hữu: Ta giả làm Khan (vua) chết, các ngươi tổ chức cúng bái theo nghi lễ. Bèn nằm thẳng cẳng trên mặt đất, mọi người gào khóc, dắt ngựa đi quanh... Thái tử nói: Một ngày nào đó ta có thiên hạ, dẫn vài vạn quân kỵ đi săn ở Kim Thành Tây, sau đó xõa tóc làm dân Đột Quyết...
Tư Mã Quang "Tư trị thông giám. Quyển thứ 198"
Sau trận mưa xuân, dưới nắng ấm, khu lều trại gần núi và đồng cỏ sặc mùi thối. Qua một mùa đông dài, những con vật chết rét vì yếu, những con gia súc bị sói cắn chết ăn không hết, đều thối rữa, xác chết chảy nước màu đen, cỏ thu bị vùi thối chảy nước, tất cả thấm vào cỏ. Rồi thì phân cừu, phân bò, phân chó, phân sói, phân thỏ, phân chuột đều chảy nước đen tưới cho thảo nguyên.
Trần Trận không vì mùi thối ấy mà cụt hứng. Thảo nguyên già nua cần nước thối, những chất bài tiết của gia súc trong cả mùa đông, thịt thối vương vãi trong cuộc chiến giữa người và sói, máu và xương phân hủy, tất cả đem lại chất bổ dưỡng đạm, kali và lân cho thảm cỏ mỏng tang. Ulichi nói: Cán bộ thành phố và các nhà thơ thích về đây ngửi hương thơm của hoa xuân, còn tôi, rất thích ngửi mùi thối của mùa xuân. Một con cừu một năm cho gần 1500 cân phân, bón cho cỏ, hỏi được bao nhiêu cỏ? "Phân bò lạnh, phân ngựa nóng, phân cừu bằng công sức hai năm". Nếu như điều chỉnh tốt số lượng gia súc, bò cừu sẽ không phá hoại, mà còn nuôi dưỡng đồng cỏ. Trước đây các đầu mục giỏi còn biến trảng cát thành trảng cỏ nữa kia.
Thảo nguyên Ơlon mùa xuân nước phân đầy đủ, cỏ lớn như thổi, nắng ấm liên tục trong nửa tháng, mặt đất phủ màu xanh, đồng cỏ sườn dốc đã lục hóa hoàn toàn. Cỏ xuân, hoa xuân cắm rễ trong đất màu, gia cố tầng đất mỏng trên mặt khiến sa mạc và Gôbi phía dưới vĩnh viễn không thể trồi lên. Trần Trận cưỡi con ngựa to lớn lông vàng của ông Pilich chạy nước kiêu, dọc đường thưởng thức màu xanh mới của thảo nguyên. Cậu cảm thấy cuộc cạnh tranh tàn khốc giữa người và sói trene vũ đài thảo nguyên, cuối cùng chuyển hóa thành tình cảm ấm áp cho mẹ thảo nguyên.
Bầu sữa cừu mẹ đã căng, màu lông cừu con đã trắng, tiếng rống của bò đã tròn vạnh, ngựa bắt đầu thay lông, súc vật trên thảo nguyên sống lại vì cỏ chăn nuôi đã trở lại màu xanh. Thảo nguyên Ơlon lại có một vụ thu hoạch hiếm có. Đợt rét đầu xuân chết rất nhiều cừu non, nhưng tỉ lệ sống của cừu non là 101% không ai nghĩ rằng cừu đẻ sinh đôi lại nhiều đến thế, mỗi đàn cừu tăng chí ít trên một nghìn con cừu non, bãi chăn vốn được coi là bất tận, nay trở nên căng thẳng.
Cừu non tăng đột ngột, bãi chăn thả bốn mùa của mục trường Baolico vùng Olon bị quá tải. Nếu như để cân bằng sức chứa mà bán bớt hoặc giao nộp lên trên, mục trường sẽ không hoàn thành chỉ tiêu đã ấn định của cấp trên. Đội đã triệu tập mấy cuộc họp, Ulichi cho rằng, lối thoát duy nhất là mở một bãi chăn mới trong khu vực mục trường.
Trần Trận cùng Ulichi và ông Pilich đi khảo sát mục trường mới. Ông già có ý cho cậu cưỡi con ngựa vừa chạy nhanh vừa dai sức của ông. Ông Ulichi kháoc khẩu bán tự động, ông Pilich đem theo con Balua, Trần Trận thì đem theo con Nhị Lang, để con Vàng ở lại trông nhà. Dân du mục đi đâu thường không quên đem theo vũ khí và chó săn. Hai con chó săn rất háo hức, dọc đường ra sức đánh hơi, phấn chấn không khác Trần Trận. Ông Pilich cười, nói; Dương quan và chó canh cừu bị đàn cừu níu chân hơn một tháng, mệt bã. Trần Trận nói: Cảm ơn bố cho con một dịp xả hơi. Ông già nói: Tôi sợ cậu cứ dán mắt vào mấy quyển sách đến mù mắt!
Tận cuối mạn đông bắc nông trường bộ có một quả núi hoang diện tích chừng bảy tám chục dặm mà theo lời ông Ulichi thì xưa nay chưa hề khai phá, cỏ dày, cao hơn một mét, có đầm nước rất to, cỏ lụi trên mặt đất dày hàng thước. Nước nhiều cỏ dày, nên ruồi muỗi ở đây cũng kinh người. Đến hè và thu, muỗi ở đây cắn chết bò. Mỗi bước chân có hàng ngàn con muỗi bay lên, sợ như đi trên đất cỏ gài mìn. Người và gia súc vật không dám bén mảng đến quả núi này. Cỏ già dày quá, cỏ non phải vươn cao mới đón được ánh sáng mặt trời nên vừa dài vừa mảnh, súc vật không thích ăn, cỏ ăn cũng không béo.
Ông Ulichi với tư cách một trưởng bãi lâu năm, rất muốn khai phá bãi chăn thả mới này. Từ lâu ông đã tiên đoán, chính sách trọnng số lượng hơn chất lượng sớm muộn bãi chăn ở Ơlon sẽ quá tải, nhiều năm nay ông đã để ý quả núi hoang, mong một cuộc cháy đồng thiêu trụi hết cỏ già, để rồi sang xuân, ông lùa hàng vạn gia súc lên núi giẫm tơi đất, ăn sạch cỏ non, khống chế chiều cao của cỏ. Và như vậy là đất thì xốp, nhiều màu, cỏ mọc thấp, muỗi cũng không còn. Chỉ vài năm sau, nơi đây trở thành bãi chăn thả mùa hạ chất lượng cao, thêm một bãi chăn nữa cho cả mùa hè của mục trường. Tiếp đó, sẽ cải tạo bãi chăn mùa hạ thành bãi chăn mùa xuân và mùa thu, tính ra gia súc của mục trường có thể tăng gấp đôi mà không quá tải.
Những năm trước lửa đồng mấy lần chiếu cố bãi chăn Ơlon, đáng tiếc là chưa lần nào lan đến nơi này, mãi đến cuối thu năm ngoái, đám cháy mới lan đến núi hoang. Sau đó trời mưa, núi hoang đen như dầu. Ulichi quyết tâm thực thi kế hoạch của ông, Bao Thuận Quý ủng hộ không điều kiện, nhưng bị một số mục dân phản đối. Ai cũng sợ muỗi nơi đó. Ulichi mời ông bạn già Pilich giúp một tay, cùng lên núi hoang khảo sát, chỉ cần ông chấp thuận là đề nghị ông dẫn đại đội Hai đến bãi chăn thả mới.
Ba người đi xuyên bãi cỏ đông của đội bên cạnh. Trần Trận cảm thấy ngựa vướng chân, liền cúi xuống nhìn, thấy cỏ thu năm ngoái tốt nguyên, cao chừng bốn đốt ngón tay. Cậu hỏi Ulichi: ông thường kêu thiếu cỏ, ông xem đây, cừu ngựa ăn cả một mùa đông mà cỏ vẫn còn nhiều thế này.
Ulichi cúi xuống nhìn, nói: Toàn là thân cỏ, rất cứng, gia súc bứt không dứt, nhưng nếu dùng sức thì lôi cả rễ lên. Rễ cỏ không bổ, ăn vào không béo, mà ăn đến vậy thì phải gặm, gặm mãi, bãi cỏ thoái hóa... Người Hán nội địa đẻ nhiều quá, cả nước thiếu thịt, thiếu nước uống, dầu mỡ, thịt bò thịt cừu đều lấy từ Mông Cổ, lấy nữa cầm bằng lấy mạng sống. Cấp trên vừa giao chỉ tiêu cho Ơlon. Một số Kỳ ở phía nam đã sa mạc hóa.
Trần Trận nói: Cháu thấy chăn thả khó hơn làm ruộng.
Ông Ulichi nói: Tôi sợ nhất là biến đồng cỏ thành sa mạc. Thảo nguyên quá mỏng manh, sợ rất nhiều thứ, sợ giày xéo, sợ gặm cả rễ, sợ sơn dương, sợ ngựa đàn, sợ châu chấu, sợ chuột, sợ thỏ đồng, sợ dê vàng, sợ nông dân, sợ vỡ hoang, sợ người nhiều, sợ người quá tham, sợ đồng cỏ quá tải, sợ nhất là sợ người không hiểu thảo nguyên...
Ông Pilich gật đầu: Thảo nguyên là sinh mệnh lớn, nhưng mạng sống của thảo nguyên còn mỏng hơn mi mắt con người, bề mặt thảo nguyên mà bị vỡ thì thảo nguyên coi như bị mù, cát vàng nguy hiểm hơn bạch mao phong. Thảo nguyên không còn thì những mạng sống nhỏ nhoi như bò, cừu, ngựa, sói và người cũng không còn, ngay cả Trường Thành và thành phố Bắc Kinh cũng không giữ được.
Ulichi lo lắng: Trước kia, cứ cách vài ngày tôi lại lên họp ở Hồi Hột, đồng cỏ ở đó thoái hóa tới mức thảm hại, phía tây Trường Thành mấy trăm dặm đã bị cát vùi. Nếu trên còn giao nhiệm vụ kiểu áp đặt, thì e rằng đông Trường Thành sẽ gặp nguy. Nghe nói chính phủ các nước có pháp lệnh nghiêm ngặt về quản lý thảo nguyên, bãi chăn thế nào thì được nuôi bao nhiêu gia súc, một hecta bao nhiêu đầu gia súc quy định rất chặt, người nào vi phạm liền bị phạt tiền phạt tù. Nhưng như vậy mới chỉ bảo vệ đồng cỏ không thoái hóa, còn những đồng cỏ đã thoái hóa thì khó mà khôi phục. Đợi đến khi thảo nguyên đã biến thành sa mạc người ta mới hiểu thảo nguyên thì đã quá muộn.
Ông Pilich nói: Lòng tham thì nhiều, người không hiểu gì cũng lắm, nói chuyện với những con người ngu xuẩn ấy cũng bằng thừa. Ông trời thế mà minh bạch, để đối phó với loại người ấy, trời giao cho sói bảo vệ đồng cỏ, như vậy mới bảo vệ được thảo nguyên.
Ông Ulichi lắc đầu, nói: Biện pháp ấy của trời đã lỗi thời. Giờ Trung Quốc đã có bom nguyên tử, định tiêu diệt sói chỉ là chuyện vặt.
Trong lòng Trần Trận như nhét đầy cát vàng, cậu nói: Mấy đêm nay không nghe thấy tiếng sói tru. Bố, có lẽ bố mà sói sợ, chạy hết rồi. Nếu chúng không quay lại, thảo nguyên không còn sói, con thấy trái khoáy thế nào ấy.
Ông già nói: Ba mươi con thì chỉ bốn năm ổ chứ mấy. Sói Ơlon còn nhiều, chúng chưa về không phải vì sợ. Tháng này chúng đang bận việc khác.
Trần Trận bắt đầu hào hứng, hỏi: Chúng đang bận việc gì hả bố?
Ông già chỉ tay về phía những quả đồi xa xa, nói: Cùng tôi tới đó mà xem! Nói rồi ông vụt một roi vào mông con ngựa của Trần Trận, nói - Cho nó phi nước đại, sang xuân phải cho nó đổ mồ hôi nhiều nhiều một tí, mồ hôi nhiều, lông rụng nhanh, ngựa chóng béo.
Ba con ngựa phóng nhanh lên đỉnh đồi như chạy đua, vó ngựa có màu xanh vì dẫm nát cỏ non. Mấy tháng nay, ngựa không qua lại đường này. Trần Trận chạy sau cùng, cậu bắt đầu hiểu ra ý nghĩa của câu "thảo nguyên sợ ngựa đàn". Đúng là cuộc sống của người Mông Cổ đầy mâu thuẫn.
Ba con ngựa lên đỉnh dốc. Khắp nơi vang lên tiếng "khịt khịt", "khụt khụt" của con rái cá cạn. Rái cá cạn là con vật chỗ nào cũng gặp trên thảo nguyên, ở Ơlon quá nửa các sườn núi đều có hang rái cá cạn. Mùa thu nào Trần Trận cũng thấy ông già Pilich đi săn rái cá, thịt rái cá béo và thơm phức. Chúng là loại động vật tích mỡ qua đông như gấu trong rừng. Thịt của chúng không giống bất cứ loại thịt nào khác trên đồng cỏ: Giữa da và thịt có một lớp mỡ trắng phân biệt rất rõ với thịt nạc màu hồng, ngon nổi tiếng, hơn cả thịt bò cừu. Một con rái cá lớn to bằng cái phích hai lít rưỡi, được một chậu đầy thịt, đủ một bữa cho cả nhà.
Trần Trận nhìn thấy thế trận liên hoàn của rái cá cạn mà rùng mình. Trên mười mấy quả đồi như bát úp, bảy tám chục con to nhỏ đứng im, trông như những cây còn lại đoạn gốc sau khi phá rừng. Hai rái cá cạn càng nhiều thì nấm cát trước cửa hang càng nhiều, trông như hang vẩy cá dưới xuôi. Mỗi nấm như thế ba mặt sa thạch đùn ra lấp đầy bãi cỏ trên sườn dốc, y hệt các cửa lò ở mỏ. Trần Trận có cảm giác như đến Thiểm Bắc, núi đồi đầy hang động, lòng núi gần như bị đào rỗng. Mỗi nấm to bằng chiếc bàn, đều có một con rái cá đứng hoặtc nằm, nấm to hơn thì một con đực lông màu nâu sẫm độc chiếm. Đứng trên những hang cụm hoặc hang lẻ là rái cá mẹ thân hình mảnh hơn, lông màu vàng rơm như lông sói. Đứng bên rái cá mẹ là rất nhiều rái cá con, to bằng con thỏ, có năm bảy tám con. Thấy người, tất cả những con rái cá không chạy ngay vào hang, đa số chỉ lui lại một bước, hai chân trước khoanh trước ngực, đứng trên hai chân sau, kêu "khịt khịt" loạn xạ, mỗi khi kêu một tiếng, cái đuôi bé tí như bàn chải rửa phích nước lại bật thẳng lên trời một cái như thị uy, như phản đối, như trêu ngươi.
Hai con chó thấy một con rái cá rời hang đã xa bèn xông lên đuổi, nhưng con rái cá chạy tới đứng trên nấm cát của một cái hang gần đó, giương cặp mắt như mắt thỏ mà nhìn, đợi lúc chó chỉ còn cách năm sáu mét liền thủng thẳng chui luôn vào trong hang, khi chó bỏ đi được mươi mét, nó lại ló đầu lên, hướng về phía chó mà kêu ầm ĩ.
Ông Pilich nói: Đây là ngọn núi nổi tiếng, có tên là núi Rái Cá. Rái cá nhiều đến nỗi không đếm xuể. Mạn nam của bắc đường biên rái cá còn nhiều hơn ở đây. Xưa kia quả núi này là cứu tinh của dân nghèo vùng Ơlon. Sang thu, khi rái cá béo núc ních, dân nghèo lên núi bắt rái cá ăn thịt, còn da và mỡ thì đem bán, đổi bạc trắng hoặc đổi lấy thịt cừu. Người Hán các cậu rất mê áo khoác ngoài bằng da rái cá. Hàng năm cửa hàng kinh doanh đồ da Trương Gia Khẩu đều lên thảo nguyên thu mua nấm và da rái cá, đắt gấp ba lần da sói non. Con rái cá đã cứu không biết bao nhiêu người nghèo. Gia đình Thành Cát Tư Hãn lúc hàn vi sống được nhờ săn bắt rái cá.
Ulichi nói: Rái cá cạn ngon ở thịt mỡ của nó. Trên thảo nguyên, những con chuột, thỏ đồng đều trữ lương thực trong hang để sống qua mùa đông, rái cá không tích trữ lương thực, rái cá tiêu thụ mỡ trong người qua đông.
Ông già nói: Rái cá đã qua một mùa đông trong hang, lúc này mỡ không còn bao nhiêu, nhưng thịt thì nhiều. Cậu trông, nó không nhỏ đấy chứ! Năm nay cỏ xuân tươi tốt, chỉ ít bữa là chúng béo ngay.
Trần Trận vỡ lẽ: Thảo nào mấy hôm nay sói không đến quấy phá, thì ra chúng đang đổi khẩu vị. Nhưng mà hang rái cá thì sâu, rái cá lại hoạt động bên ngoài hang, sói bắt bằng cách nào?
Ông già cười, nói: Sói nhiều bùa phép lắm. Sói lớn có thể mở rộng hang, bố trí những con khác chực sẵn ở tất cả các miệng hang, rồi chui vào bắt cả ổ đem lên ăn thịt. Nếu không thế thì sai một con sói choai chui vào ngoạm từng con rái cá lên. Cáo sa mạc cũng chui xuống hang ăn thịt rái cá. Năm nào tôi cũng bắt được bốn năm con cáo sa mạc ở chỗ hang rái cá, có lần còn bắt được một sói choai. Dân Mông Cổ cho trẻ em chui vào hang bắt sói con là học từ sói. Hang nông không chống được lạnh, nên rái cá đào thật sâu, có hang sâu tới mấy trượng. Ông già chợt hỏi: Cậu có biết, mùa đông sói không ở trong hang, vậy vì sao hang sói lại sâu đến thế? Trần Trận lắc đầu. Ông già nói: Rất nhiều hang rái cá được cải tạo thành hang sói. Sói mẹ mở rộng hang rái cá cho sói con ở.
Trần Trận sững người: Tàn bạo quá! Đã ăn thịt cả nhà, lại còn chiếm cả ổ.
Ulichi cười rũ, hình như rất khoái sự tàn bạo của sói. Ông nghiêng đầu bảo Trần Trận: Sói mà không tàn bạo thì làm sao trị nổi rái cá? Ăn thịt rái cá, như vậy là sói có công với thảo nguyên. Rái cá là mối hại lớn của thảo nguyên, sườn núi chỗ nào cũng có hang của chúng. Cậu xem, cả một vùng đồi núi đầy hang hốc như thế này! Rái cá mắn đẻ, mỗi năm một lứa, mỗi lứa sáu bảy con, hang nhỏ thì chật, hang lớn thì đùn ra bao nhiêu là cát, hủy hoại bao nhiêu cỏ? Thảo nguyên có bốn đại họa: Chuột, thỏ đồng, rái cá cạn, dê vàng. Rái cá cạn xếp thứ ba. Rái cá cạn chạy chậm, người đuổi kịp. Vậy vì sao phải đáy bẫy? Vì rái cá ỷ lại vào hang động, thấy động là chui luôn vào hang. Rái cá cạn ăn cỏ rất dữ, về mùa thu chuyên ăn hạt cỏ, ăn vài mẫu ruộng hạt cỏ mới béo được như thế. Hang sói tác hại càng lớn hơn. Mã quan sợ nhất hang rái cá, hàng năm rất nhiều ngựa gãy chân, nhiều mã quan bị thương vì thụt hang rái cá.
Trần Trận nói: Nếu vậy đúng là sói có công lớn với thảo nguyên.
Ulichi nói tiếp: Trên thảo nguyên, hang rái cá rất đáng ghét, chúng dung túng cho lũ muỗi qua đông. Muỗi miền đông thảo nguyên Mông Cổ nổi tiếng thế giới. Muỗi rừng đông bắt cắn chết người, muỗi miền đông thảo nguyên Mông Cổ cắn chết bò. Thảo nguyên không nhất thiết năm nào cũng có họa trắng, hoạ đen (mùa đông không có tuyết), nhưng muỗi thì năm nào cũng về. Người và gia súc sợ muỗi hơn sợ sói. Trong một năm, muỗi hút ba bốn phần mười mỡ trên mình gia súc. Lẽ ra nhiệt độ âm ba bốn mươi độ, bò còn chết cóng, không muỗi nào sống nổi, các lều Mông Cổ cũng không có chỗ cho muỗi trú, vậy vì sao muỗi yên ổn sống qua mùa đông? Đó là nhờ có hang rái cá. Trời bắt đầu lạnh, rái cá chui xuống hang, muỗi xuống theo. Rái cá khi đã bịt miệng hang thì bên trên bão tuyết mù trời, trong hang vẫn ấm như bếp lò. Rái cá trong hang không ăn không uống, muỗi cắm vòi trên mình rái cá ăn uống suốt ngày, ung dung sống qua mùa đông. Sang xuân rái cái chui lên, muỗi lên theo. Thảo nguyên Ơlon nhiều nước, nhiều ao hồ, muỗi sinh sôi nẩy nở, đến mùa hạ thì thiên hạ là của muỗi. Cậu bảo rái cá có phải là kẻ gieo họa cho nghề chăn nuôi của thảo nguyên không? Trên thảo nguyên, sói thích ăn thịt rái cá, sói đóng vai trò chủ lực diệt rái cá. Thảo nguyên có câu: Rái cá chui ra, sói ta lên núi. Rái cá ra khỏi hang, gia súc chậm tiêu thụ một thời gian.
Trần Trận đã bị muỗi cắn hai mùa hè, nghe nói đến muỗi, cậu thấy người nổi da gà, thanh niên trí thức sợ muỗi hơn sợ sói. Sau đó nhắn Bắc Kinh gửi màn lên mới ngủ được. Mục dân rất thích cái màn, qua mùa hè, cái màn đã trở nên phổ cập trong các lều Mông Cổ. Dân du mục đặt cho nó cái tên "Ilacualua" - buồng muỗi.
Trần Trận không ngờ đàn muỗi kinh hoàng trên thảo nguyên lại từ hang rái cá bay ra. Cậu bảo Ulichi: Hai ông là chuyên gia của thảo nguyên. Té ra muỗi và rái cá quan hệ khăng khít, hang rái cá trở thành sào huyệtn của muỗi, còn sói lại là khắc tinh của rái cá. Cháu chưa bao giờ thấy những điều này trong sách.
Ulichi nói: Thảo nguyên rất phức tạp, mọi chuyện móc xích với nhau, sói là mắt xích lớn nhất, mất mắt nào đều là m hỏng mắt xích lớn nhất này, nghề chăn nuôi trên thảo nguyên sẽ khó mà duy trì. Cái lợi của sói đối với thảo nguyên không thể kể hết, tóm lại một câu, công nhiều hơn tội.
Ông già Pilich cười, nói: Nhưng mà rái cá cạn cũng không hoàn toàn xấu. Da thịt, mỡ đều quý. Da rái cá là thu nhập phụ quan trọng của mục dân. Nhà nước dùng nó để đổi lấy xe hơi, đại bác. Sói rất thông minh, không bao giờ giết hết rái cá, chừa lại hàng năm có cái ăn. Mục dân cũng không giết hết rái cá, chỉ bắt con to không bắt con nhỏ.
Ba con ngựa chạy nhanh, lũ rái cá không biết sợ, tiếp tục đùa rỡn. Đại bàng thảo nguyên liên tục bổ nhào, nhưng mười lần nhào xuống chín lần hụt. Càng đi về phía đông bắc càng vắng, càng ít dấu vết con người, giếng ăn biến mất, cuối cùng phân ngựa cũng không thấy.
(Còn nữa) |
|