Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Tôtem Sói | Khương Nhung

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:49:01 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15 (tiếp)

Đúng lúc ấy, Batu hét to xuống ngựa, rồi gò cương.  Phàm là ngựa săn, con nào cũng có tuyệt kỹ: Dừng đột ngột.  Đây là bản lĩnh rèn luyện được trong quá trình bắt ngựa bằng thòng lọng, đem dùng lúc này rất hợp.  Hai con ngựa dừng đột ngột khiến hai người suýt văng khỏi yên theo quán tính.  Batu nhân đà nhảy xuống đất, nhanh nhẹn nằm xuống giương súng, nín thở nhằm chuẩn đỉnh dốc.  Trương Kế Nguyên cũng nằm xuống giơ súng lên.
Con sói đang chạy như điên, chợt không còn nghe tiếng chân ngựa phía sau, liền cảnh giác dừng lại nghe ngóng.  Sói thảo nguyên cổ ngắn, muốn nhìn lại phải xoay hẳn người, với lại bình thường lên dốc phải dừng lại lấy hơi và quan sát lần cuối đường chạy và vị trí kẻ đuổi theo để đối phó.  LÚc này trên đỉnh dốc, nơi tiếp giáp giữa trời và đất, hình thù con sói quay ngang hiện lên sắc nét như tranh trổ, to gấp ba lần so với hình dọc theo thân, y hệt tấm bia vẽ con sói trong trường bắn.  Đây là thời cơ duy  nhất cho thợ săn nổ súng, nhưng phần nhiều sói  không cho thợ săn có thời cơ ấy.  Nhưng Batu đã lừa cho sói sinh nghi, quay lại xem thợ săn giở trò gì.
Lúc này con sói đã trúng kế.  Batu nổ súng, chỉ thấy nó gục xuống rồi không còn thấy trên đỉnh dốc.  Batu nói: Rất tiếc!  Xa quá không trúng chỗ hiểm.  Nhưng nó không thoát đâu, đuổi mau!  Hai người phóng ngựa lên đỉnh dốc, chỉ thấy máu vương trên cỏ và đá vụn, không thấy bóng dáng con sói.  Dùng ống nhòm cũng không thấy, hai người đành cho ngựa chạy chậm theo vết máu.  Trương Kế Nguyên than thở: Giá cho chó đi theo thì hay biết mấy.  Nhưng hai người từ đàn, xưa nay trên thảo nguyên, chó lều trại không theo đàn ngựa, chỉ theo dương quan, ngưu quan, không theo mã quan, trừ phi dắt theo.
Hai người ngồi trên ngựa cúi xuống xem xét, đi rất chậm.  Được một đoạn, Batu nói: Mình đã bắn gãy một chân trước của nó, cậu xem, một bước của nó chỉ có ba dấu chana, cái chân bị thương không chạm đất.  Trương Kế Nguyên nói: Lần này thì nó chạy không thoát, sói ba chân chạy sao bằng ngựa bốn chân?  Batu nhìn đồng hồ, nói: Khó nói lắm.  Nó là con đầu đàn, giờ mà nó rúc vào một cái hang nào đấy thì sao?   Phải đuổi gấp.
Vết máu lúc có lúc không, hai người đuổi theo đã hơn một tiếng đồng hồ.  Tới một trảng cỏ, hai người đứng sững: Một bàn chân sói xương trắng hếu trên mặt đất, trên đó còn lưu nhiều vết răng sói.  Batu nói: Cậu xem, con sói vướng cái chân bị thương, liền cắn bỏ.  Trương Kế Nguyên thót tim như bị sói đớp.  Cậu nói: Từng nghe tráng sĩ chặt đứt cánh tay khi trúng tên độc, nghe nhưng chưa nhìn thấy.  Nhưng sói tự cắn đứt chân thì tôi đã chứng kiến hai lần, lần này là thứ ba.  Batu nói: Người có người thế này người thế khác, sói thì con nào cũng tiếc...
Hai người tiếp tục tìm kiếm.  Dần dà phát hiện ra, sau khi cắn đứt chân, bước chạy con sói dài hơn.  Điều đáng ngại là hình như con sói chạy về phía đường biên phòng, mà phía bắc đường biên là khu vực cấm.  Batu nói: Con này lợi hại thật, chúng mình không thể đuổi theo từ phía sau.  Hai người chạy tắt lên đường biên phòng.
Càng lên phía bắc cỏ càng cao.  Những trảng cỏ màu vàng rơm như những tấm da sói lớn.  Trương Kế Nguyên cảm thấy tìm sói trong cái đám "vàng rơm" còn khó hơn tìm cừu non trong đống lông cừu.  Trời và người rất khó hợp nhất.  Nhưng sói và thảo nguyên thì hòa vào nhau như sữa với nước.  Một con sói thọt có thể chạy ngay dưới mũi mà anh không nhìn thấy.  Trương Kế Nguyên một lần nữa nhận ra mối quan hệ sâu xa giưa sói và thảo nguyên, giữa sói và đức chúa trời: Mỗi khi gặp nạn nguy hiểm đến tính mạng, con sói lại dựa vào thảo nguyên mà thoát hiểm.  Mỗi khi gặp nguy hiểm, thảo nguyên như gà mẹ, xoè cánh ra che chở cho sói.  Thảo nguyên và sói như một cặp vợ chồng già khăng khít bên nahu, suốt đời chung thủy.  Người Mông Cổ rất mong trung thành với thảo nguyên hơn sói mà vẫn chưa thay thế được vị trí của sói.  Vậy mà người Mông Cổ ở mạn nam khai phá thảo nguyên thành ruộng, chuyển đổi chăn nuôi thành trồng trọt ngày càng nhiều.  Trương Kế Nguyên không ngờ con sói bị mất một chân mà còn có thể chạy xa và lâu đến thế, bỏ lại người và ngựa phía sau.  Cậu không muốn đuổi nữa, cậu cảm thấy có một ông thầy nữa như ông thầy Batu bên cạnh.
Hai con ngựa lúc chạy lúc dừng, dần đã lại sức, lại bắt đầu truy kích.  Dãy núi lớn phía bắc ngày càng gần, mà trảng cỏ này chạy dài mãi tới chân núi.  Nghe mục dân nói, núi này có nhiều hang động to và sâu, lạnh thấu xương, là căn cứ địa cuối cùng của sói mà không ai làm gì nổi.  Nhưng con sói thọt vào đấy rồi sẽ sống như thế nào?  Cậu lấy mình để đánh giá sói.  Người ta có thể giết hết sói, nhưng không bao giờ hủy diệt được ý chí và tính cách kiên cường của sói.
Cuối cùng, hai con ngựa đã đặt chân lên đường biên phòng. Gọi là đường, thực ra chỉ là một loại đường rất đất để lính biên phòng đi tuần, chính xác hơn là con đường cát.  Xe com măng ca và xe tải chuyên chở vật tư xẻ một cái rãnh sâu một mét, toàn bộ con đường là một cái máng chỗ cao chỗ thấp, quanh co khúc khuỷu, xa trông như một con rồng màu vàng đáng sợ chỉ chực bay lên.  Vó ngựa tung cát bụi, người và ngựa như biến vào trong sa mạc Gôbi mịt mùng.
Hai người men theo con đường biên phòng chạy về hướng đông, trên đường không thấy dấu chân sói.  Vượt qua quả đồi nhỏ, chợt trông thấy nó cách ba chục mét.  Nó đang bên rìa đường phía bắc, khó nhọc trèo lên gờ đường.  Bình thường chỉ một bước nhảy là qua, vậy mà giờ đây gờ đường trở thành cái ngưỡng cuối cùng không thể vượt của cuộc đời!  Con sói trèo không qua, nó co rúm khi ngã xuống, chỗ chân đau đụng cát.
Xuống ngựa!  Batu vừa nói vừa nhảy xuống mặt đường.  Trương Kế Nguyên cũng xuống ngựa.  Cậu sốt ruột quan sát từng động tác của Batu và cây gậy sắt nặng trịch bên yên ngựa.  Nhưng Batu không gỡ cây gậy, cũng không tiến lên.  Anh thả cương cho con ngựa đi ăn cỏ, còn anh thì ngồi xuống gờ đường lấy ra bao thuốc rút một điếu đưa lên miệng, lặng lẽ châm lửa hút.  Qua làn khói, Trương Kế Nguyên thấy mắt anh có vẻ đăm chiêu.  Cậu cũng xuống ngựa tới ngồi bên Batu, hỏi xin một điếu thuốc, hút chậm rãi.
Con sói mệt nhọc lật nghiêng người ngồi dậy, đám máu trước ngực dính đầy cát.  Nó nhìn hai kẻ đuổi theo bằng ánh mắt điên dại.  Nó chưa quên đẳng cấp và thói quen, rùng mình mấy cái để giũ cát và cỏ rác bám trên người, sạch sẽ và oai vệ như cũ.  Nhưng  nó không kìm được cái chân đau co lên trước ngực, chốc lại run lên bần bật, nhưng cặp mắt thì hung hãn lạ thường.  Nó thở dốc, gắng thu gom sức lực cuối cùng để liều mạng.  Trương Kế Nguyên cảm thấy cậu không dám nhìn thẳng vào mắt con sói.  Trên thảo nguyên cổ kính, đứng trên lập trường thảo nguyên, chính nghĩa hình như đã thuộc về sói!
Batu ngừng hút thuốc, đăm chiêu nhìn con sói, ánh mắt đầy vẻ hối lỗi của một học sinh đã lỡ làm tàn phế thầy giáo của mình.  Con sói thấy rất lâu không hạ thủ, liền dùng một chân bới gờ đất.  Đất mặt không dày, chỉ ba mươi phân là tới cát và đá cuội.  Rồi thì nó bưới được một chỗ, mảng cỏ lăn xuống, gờ đường sụt một đoạn nhỏ, con sói trườn lên rồi cà nhắc cà nhót chạy về phía con đường phòng hỏa và mốc giới.
Phía bên này đường phòng hỏa, trạm phòng cháy dùng xe ủi một dải dài theo đường biên giới, rộng khoảng trăm mét.  Dải này năm nào cũng cày xới, nhưng đã bị xa mạc hóa, không mọc được bất cứ cây gì, chỉ có tác dụng ngăn lửa từ phía bên kia biên giới cháy sang hoặc những đám cháy từ phía bên này.  Dân du mục chỉ chấp nhận con đường này.  Người già ở thảo nguyên Ơlon nói, đây là mặt tốt duy nhất của nông khẩn.
Bụi đỏ trên đường bốc lên trong gió tây trông còn đáng sợ hơn lửa đồng, may mà nó chỉ là một dải.
Con sói vừa chạy vừa nghỉ một hồi rồi chui vào đám cỏ cao, tiếp tục tiến lên, trước mặt nó, không còn gờ đất nào nữa.
Batu đứng dậy lặng lẽ nhìn theo hồi lâu rồi cúi xuống nhặt mẩu thuốc lá trên cát tắt đi bằng nước bọt, lại dùng ngón tay chọc một lỗ trên cát chôn hai mẩu thuốc, nén chặt, bảo Trương Kế Nguyên: Phải tập thành thói quen.  Dứt khoát không được ẩu trên thảo nguyên.  Rồi anh đứng lên: Về thôi, về tìm con sói bị bắn chết!
Hai người lên ngựa chạy gấp về Ơlon.  Tuyết tan, chân ngựa nhẹ tênh, hai người không nói gì trên đường về.

________Hết chương 15________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:49:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16

Thái tử Thừa Càn (con trai Đường Thái Tôn) thích gái đẹp và  săn bắn... lại rất thích ngôn ngữ và trang phục Đột Quyết, chọn trong đám tả hữu những người có khuôn mặt giống Đột Quyết, năm người thành một nhóm, bện tóc mặc áo cầu chăn dê, may cờ phướn có 5 đầu sói, đắp bếp lò, Thái tử trong đó nướng cừu, dùng dao găm xẻo thịt ăn.  Lại bảo tả hữu: Ta giả làm Khan (vua) chết, các ngươi tổ chức cúng bái theo nghi lễ.  Bèn nằm thẳng cẳng trên mặt đất, mọi người gào khóc, dắt ngựa đi quanh... Thái tử nói: Một ngày nào đó ta có thiên hạ, dẫn vài vạn quân kỵ đi săn ở Kim Thành Tây, sau đó xõa tóc làm dân Đột Quyết...
                                                                                                  Tư Mã Quang "Tư trị thông giám.  Quyển thứ 198"

Sau trận mưa xuân, dưới nắng ấm, khu lều trại gần núi và đồng cỏ sặc mùi thối.  Qua một mùa đông dài, những con vật chết rét vì yếu, những con gia súc bị sói cắn chết ăn không hết, đều thối rữa, xác chết chảy nước màu đen, cỏ thu bị vùi thối chảy nước, tất cả thấm vào cỏ.  Rồi thì phân cừu, phân bò, phân chó, phân sói, phân thỏ, phân chuột đều chảy nước đen tưới cho thảo nguyên.
Trần Trận không vì mùi thối ấy mà cụt hứng.  Thảo nguyên già nua cần nước thối, những chất bài tiết của gia súc trong cả mùa đông, thịt thối vương vãi trong cuộc chiến giữa người và sói, máu và xương phân hủy, tất cả đem lại chất bổ dưỡng đạm, kali và lân cho thảm cỏ mỏng tang.  Ulichi nói: Cán bộ thành phố và các nhà thơ thích về đây ngửi hương thơm của hoa xuân, còn tôi, rất thích ngửi mùi thối của mùa xuân.  Một con cừu một năm cho gần 1500 cân phân, bón cho cỏ, hỏi được bao nhiêu cỏ?  "Phân bò lạnh, phân ngựa nóng, phân cừu bằng công sức hai năm". Nếu như điều chỉnh tốt số lượng gia súc, bò cừu sẽ không phá hoại, mà còn nuôi dưỡng đồng cỏ.  Trước đây các đầu mục giỏi còn biến trảng cát thành trảng cỏ nữa kia.
Thảo nguyên Ơlon mùa xuân nước phân đầy đủ, cỏ lớn như thổi, nắng ấm liên tục trong nửa tháng, mặt đất phủ màu xanh, đồng cỏ sườn dốc đã lục hóa hoàn toàn.  Cỏ xuân, hoa xuân cắm rễ trong đất màu, gia cố tầng đất mỏng trên mặt khiến sa mạc và Gôbi phía dưới vĩnh viễn không thể trồi lên.  Trần Trận cưỡi con ngựa to lớn lông vàng của ông Pilich chạy nước kiêu, dọc đường thưởng thức màu xanh mới của thảo nguyên.  Cậu cảm thấy  cuộc cạnh tranh tàn khốc giữa người và sói trene vũ đài thảo nguyên, cuối cùng chuyển hóa thành tình cảm ấm áp cho mẹ thảo nguyên.
Bầu sữa cừu mẹ đã căng, màu lông cừu con đã trắng, tiếng  rống của bò đã tròn vạnh, ngựa bắt đầu thay lông, súc vật trên thảo nguyên sống lại vì cỏ chăn nuôi đã trở lại màu xanh.  Thảo nguyên Ơlon lại có một vụ thu hoạch hiếm có.  Đợt rét đầu xuân chết rất nhiều cừu non, nhưng tỉ lệ sống của cừu non là 101% không ai nghĩ rằng cừu đẻ sinh đôi lại nhiều đến thế, mỗi đàn cừu tăng chí ít trên một nghìn con cừu non, bãi chăn vốn được coi là bất tận, nay trở nên căng thẳng.
Cừu non tăng đột ngột, bãi chăn thả bốn mùa của mục trường Baolico vùng Olon bị quá tải.  Nếu như để cân bằng sức chứa mà bán bớt hoặc giao nộp lên trên, mục trường sẽ không hoàn thành chỉ tiêu đã ấn định của cấp trên.  Đội đã triệu tập mấy cuộc họp, Ulichi cho rằng, lối thoát duy nhất là mở một bãi chăn mới trong khu vực mục trường.
Trần Trận cùng Ulichi và ông Pilich đi khảo sát mục trường mới.  Ông già có ý cho cậu cưỡi con ngựa vừa chạy nhanh vừa dai sức của ông.  Ông Ulichi kháoc khẩu bán tự động, ông Pilich đem theo con Balua, Trần Trận thì đem theo con Nhị Lang, để con Vàng ở lại trông nhà.  Dân du mục đi đâu thường không quên đem theo vũ khí và chó săn.  Hai con chó săn rất háo hức, dọc đường ra sức đánh hơi, phấn chấn không khác Trần Trận.  Ông Pilich cười, nói; Dương quan và chó canh cừu bị đàn cừu níu chân hơn một tháng, mệt bã.  Trần Trận nói: Cảm ơn bố cho con một dịp xả hơi.  Ông già nói: Tôi sợ cậu cứ dán mắt vào mấy quyển sách đến mù mắt!
Tận cuối mạn đông bắc nông trường bộ có một quả núi hoang diện tích chừng bảy tám chục dặm mà theo lời ông Ulichi thì xưa nay chưa hề khai phá, cỏ dày, cao hơn một mét, có đầm nước rất to, cỏ lụi trên mặt đất dày hàng thước.  Nước nhiều cỏ dày, nên ruồi muỗi ở đây cũng kinh người.  Đến hè và thu, muỗi ở đây cắn chết bò.  Mỗi bước chân có hàng ngàn con muỗi bay lên, sợ như đi trên đất cỏ gài mìn.  Người và gia súc vật không dám bén mảng đến quả núi này. Cỏ già dày quá, cỏ non phải vươn cao mới đón được ánh sáng mặt trời nên vừa dài vừa mảnh, súc vật không thích ăn, cỏ ăn cũng không béo.
Ông Ulichi với tư cách một trưởng bãi lâu năm, rất muốn khai phá bãi chăn thả mới này.  Từ lâu ông đã tiên đoán, chính sách trọnng số lượng hơn chất lượng sớm muộn bãi chăn ở Ơlon sẽ quá tải, nhiều năm nay ông đã để ý quả núi hoang, mong một cuộc cháy đồng thiêu trụi hết cỏ già, để rồi sang xuân, ông lùa hàng vạn gia súc lên núi giẫm tơi đất, ăn sạch cỏ non, khống chế chiều cao của cỏ.  Và như vậy là  đất thì xốp, nhiều màu, cỏ mọc thấp, muỗi cũng không còn.  Chỉ vài năm sau, nơi đây trở thành bãi chăn thả mùa hạ chất lượng cao, thêm một bãi chăn nữa cho cả mùa hè của mục trường.  Tiếp đó, sẽ cải tạo bãi chăn mùa hạ thành bãi chăn mùa xuân và mùa thu, tính ra gia súc của mục trường có thể tăng gấp đôi mà không quá tải.
Những năm trước lửa đồng mấy lần chiếu cố bãi chăn Ơlon, đáng tiếc là chưa lần nào lan đến nơi này, mãi đến cuối thu năm ngoái, đám cháy mới lan đến núi hoang.  Sau đó trời mưa, núi hoang đen như dầu.  Ulichi quyết tâm thực thi kế hoạch của ông, Bao Thuận Quý ủng hộ không điều kiện, nhưng bị một số mục  dân phản đối.  Ai cũng sợ muỗi nơi đó.  Ulichi mời ông bạn già Pilich giúp một tay, cùng lên núi hoang khảo sát, chỉ cần ông chấp thuận là đề nghị ông dẫn đại đội Hai đến bãi chăn thả mới.
Ba người đi xuyên bãi cỏ đông của đội bên cạnh.  Trần Trận cảm thấy ngựa vướng chân, liền cúi xuống nhìn, thấy cỏ thu năm ngoái tốt nguyên, cao chừng bốn đốt ngón tay.  Cậu hỏi Ulichi: ông thường kêu thiếu cỏ, ông xem đây, cừu ngựa ăn cả một mùa đông mà cỏ vẫn còn nhiều thế này.
Ulichi cúi xuống nhìn, nói: Toàn là thân cỏ, rất cứng, gia súc bứt không dứt, nhưng nếu dùng sức thì lôi cả rễ lên.  Rễ cỏ không bổ, ăn vào không béo, mà ăn đến vậy thì phải gặm, gặm mãi, bãi cỏ thoái hóa... Người Hán nội địa đẻ nhiều quá, cả nước thiếu thịt, thiếu nước uống, dầu mỡ, thịt bò thịt cừu đều lấy từ Mông Cổ, lấy nữa cầm bằng lấy mạng sống.  Cấp trên vừa giao chỉ tiêu cho Ơlon.  Một số Kỳ ở phía nam đã sa mạc hóa.
Trần Trận nói: Cháu thấy chăn thả khó hơn làm ruộng.
Ông Ulichi nói: Tôi sợ nhất là biến đồng cỏ thành sa mạc.  Thảo nguyên quá mỏng manh, sợ rất nhiều thứ, sợ giày xéo, sợ gặm cả rễ, sợ sơn dương, sợ ngựa đàn, sợ châu chấu, sợ chuột, sợ thỏ đồng, sợ dê vàng, sợ nông dân, sợ vỡ hoang, sợ người nhiều, sợ người quá tham, sợ đồng cỏ quá tải, sợ nhất là sợ người không hiểu thảo nguyên...
Ông Pilich gật đầu: Thảo nguyên là sinh mệnh lớn, nhưng mạng sống của thảo nguyên còn mỏng hơn mi mắt con người, bề mặt thảo nguyên mà bị vỡ thì thảo nguyên coi như bị mù, cát vàng nguy hiểm hơn bạch mao phong.  Thảo nguyên không còn thì những mạng sống nhỏ nhoi như bò, cừu, ngựa, sói và người cũng không còn, ngay cả Trường Thành và thành phố Bắc Kinh cũng không giữ được.
Ulichi lo lắng: Trước kia, cứ cách vài ngày tôi lại lên họp ở Hồi Hột, đồng cỏ ở đó thoái hóa tới mức thảm hại, phía tây Trường Thành mấy trăm dặm đã bị cát vùi.  Nếu trên còn giao nhiệm vụ kiểu áp đặt, thì e rằng đông Trường Thành sẽ gặp nguy.  Nghe nói chính phủ các nước có pháp lệnh nghiêm ngặt về quản lý thảo nguyên, bãi chăn thế nào thì được nuôi bao nhiêu gia súc, một hecta bao nhiêu đầu gia súc quy định rất chặt, người nào vi phạm liền bị phạt tiền phạt tù.  Nhưng như vậy mới chỉ bảo vệ đồng cỏ không thoái hóa, còn những đồng cỏ đã thoái hóa thì khó mà khôi phục.  Đợi đến khi  thảo nguyên đã biến thành sa mạc người ta mới hiểu thảo nguyên thì đã quá muộn.
Ông Pilich nói: Lòng tham thì nhiều, người không hiểu gì cũng lắm, nói chuyện với những con người ngu xuẩn ấy cũng bằng thừa.  Ông trời thế mà minh bạch, để đối phó với loại người ấy, trời giao cho sói bảo vệ đồng cỏ, như vậy mới bảo vệ được thảo nguyên.
Ông Ulichi lắc đầu, nói: Biện pháp ấy của trời đã lỗi thời. Giờ Trung Quốc đã có bom nguyên tử, định tiêu diệt sói chỉ là chuyện vặt.
Trong lòng Trần Trận như nhét đầy cát vàng, cậu nói: Mấy đêm nay không nghe thấy tiếng sói tru.  Bố, có lẽ bố mà sói sợ, chạy hết rồi.  Nếu chúng không quay lại, thảo nguyên không còn sói, con thấy trái khoáy thế nào ấy.
Ông già nói: Ba mươi con thì chỉ bốn năm ổ chứ mấy.  Sói Ơlon còn nhiều, chúng chưa về không phải vì sợ.  Tháng này chúng đang bận việc khác.
Trần Trận bắt đầu hào hứng, hỏi: Chúng đang bận việc gì hả bố?
Ông già chỉ tay về phía những quả đồi xa xa, nói: Cùng tôi tới đó mà xem!  Nói rồi ông vụt một roi vào mông con ngựa của Trần Trận, nói - Cho nó phi nước đại, sang xuân phải cho nó đổ mồ hôi nhiều nhiều một tí, mồ hôi nhiều, lông rụng nhanh, ngựa chóng  béo.
Ba con ngựa phóng nhanh lên đỉnh đồi như chạy đua, vó ngựa có màu xanh vì dẫm nát cỏ non.  Mấy tháng nay, ngựa không qua lại đường này.  Trần Trận chạy sau cùng, cậu bắt đầu hiểu ra ý nghĩa của câu "thảo nguyên sợ ngựa đàn".  Đúng là cuộc sống của người Mông Cổ đầy mâu thuẫn.
Ba con ngựa lên đỉnh dốc.  Khắp nơi vang lên tiếng "khịt khịt", "khụt khụt" của con rái cá cạn.  Rái cá cạn là con vật chỗ  nào cũng gặp trên thảo nguyên, ở Ơlon quá nửa các sườn núi đều có hang rái cá cạn.  Mùa thu nào Trần Trận cũng thấy ông già Pilich đi săn rái cá, thịt rái cá béo và thơm phức.  Chúng là loại động vật tích mỡ qua đông như gấu trong rừng.  Thịt của chúng không giống bất cứ loại thịt nào khác trên đồng cỏ: Giữa da và thịt có một lớp mỡ trắng phân biệt rất rõ với thịt nạc màu hồng, ngon nổi tiếng, hơn cả thịt bò cừu.  Một con rái cá lớn to bằng cái phích hai lít rưỡi, được một chậu đầy thịt, đủ một bữa cho cả nhà.
Trần Trận nhìn thấy thế trận liên hoàn của rái cá cạn mà rùng mình.  Trên mười mấy quả đồi như bát úp, bảy tám chục con to nhỏ đứng im, trông như những cây còn lại đoạn gốc sau khi phá rừng.  Hai rái cá cạn càng nhiều thì nấm cát trước cửa hang càng nhiều, trông như hang vẩy cá dưới xuôi.  Mỗi nấm như thế ba mặt sa thạch đùn ra lấp đầy bãi cỏ trên sườn dốc, y hệt các cửa lò ở mỏ.  Trần Trận có cảm giác như đến Thiểm Bắc, núi đồi đầy hang động, lòng núi gần như bị đào rỗng.  Mỗi nấm to bằng chiếc bàn, đều có một con rái cá đứng hoặtc nằm, nấm to hơn thì một con đực lông màu nâu sẫm độc chiếm.  Đứng trên những hang cụm hoặc hang lẻ là rái cá mẹ thân hình mảnh hơn, lông màu vàng rơm như lông sói.  Đứng bên rái cá mẹ là rất nhiều rái cá con, to bằng con thỏ, có năm bảy tám con.  Thấy người, tất cả những con rái cá không chạy ngay vào hang, đa số chỉ lui lại một bước, hai chân trước khoanh trước ngực, đứng trên hai chân sau, kêu "khịt khịt" loạn xạ, mỗi khi kêu một tiếng, cái đuôi bé tí như bàn chải rửa phích nước lại bật thẳng lên trời một cái như thị uy, như phản đối, như trêu ngươi.
Hai con chó thấy một con rái cá rời hang đã xa bèn xông lên đuổi, nhưng con rái cá chạy tới đứng trên nấm cát của một cái hang gần đó, giương cặp mắt như mắt thỏ mà nhìn, đợi lúc chó chỉ còn cách năm sáu mét liền thủng thẳng chui luôn vào trong hang, khi chó bỏ đi được mươi mét, nó lại ló đầu lên, hướng về phía chó mà kêu ầm ĩ.
Ông Pilich nói: Đây là ngọn núi nổi tiếng, có tên là núi Rái Cá.  Rái cá nhiều đến nỗi không đếm xuể.  Mạn nam của bắc đường biên rái cá còn nhiều hơn ở đây.  Xưa kia quả núi này là cứu tinh của dân nghèo vùng Ơlon.  Sang thu, khi rái cá béo núc ních, dân nghèo lên núi bắt rái cá ăn thịt, còn da và mỡ thì đem bán, đổi bạc trắng hoặc đổi lấy thịt cừu.  Người Hán các cậu rất mê áo khoác ngoài bằng da rái cá.  Hàng năm cửa hàng kinh doanh đồ da Trương Gia Khẩu đều lên thảo nguyên thu mua nấm và da rái cá, đắt gấp ba lần da sói non.  Con rái cá đã cứu không biết bao nhiêu người nghèo.  Gia đình Thành Cát Tư Hãn lúc hàn vi sống được nhờ săn bắt rái cá.
Ulichi nói: Rái cá cạn ngon ở thịt mỡ của nó.  Trên thảo nguyên, những con chuột, thỏ đồng đều trữ lương thực trong hang để sống qua mùa đông, rái cá không tích trữ lương thực, rái cá tiêu thụ mỡ trong người qua đông.
Ông già nói: Rái cá đã qua một mùa đông trong hang, lúc này mỡ không còn bao nhiêu, nhưng thịt thì nhiều.  Cậu trông, nó không nhỏ đấy chứ!  Năm nay cỏ xuân tươi tốt, chỉ ít bữa là chúng béo ngay.
Trần Trận vỡ lẽ: Thảo nào mấy hôm nay sói không đến quấy phá, thì ra chúng đang đổi khẩu vị.  Nhưng mà hang rái cá thì sâu, rái cá lại hoạt động bên ngoài hang, sói bắt bằng cách nào?
Ông già cười, nói: Sói nhiều bùa phép lắm.  Sói lớn có thể mở rộng hang, bố trí những con khác chực sẵn ở tất cả các miệng hang, rồi chui vào bắt cả ổ đem lên ăn thịt.  Nếu không thế thì sai một con sói choai chui vào ngoạm từng con rái cá lên.  Cáo sa mạc cũng chui xuống hang ăn thịt rái cá.  Năm nào tôi cũng bắt được bốn năm con cáo sa mạc ở chỗ hang rái cá, có lần còn bắt được một sói choai.  Dân Mông Cổ cho trẻ em chui vào hang bắt sói con là học từ sói.  Hang nông không chống được lạnh, nên rái cá đào thật sâu, có hang sâu tới mấy trượng.  Ông già chợt hỏi: Cậu có biết, mùa đông sói  không ở trong hang, vậy vì sao hang sói lại sâu đến thế?  Trần Trận lắc đầu.  Ông già nói: Rất nhiều hang rái cá được cải tạo thành hang sói.  Sói mẹ mở rộng hang rái cá cho sói con ở.
Trần Trận sững người: Tàn bạo quá!  Đã ăn thịt cả nhà, lại còn chiếm cả ổ.
Ulichi cười rũ, hình như rất khoái sự tàn bạo của sói.  Ông nghiêng đầu bảo Trần Trận: Sói mà không tàn bạo thì làm sao trị nổi rái cá?  Ăn thịt rái cá, như vậy là sói có công với thảo nguyên.  Rái cá là mối hại lớn của thảo nguyên, sườn núi chỗ nào cũng có hang của chúng.  Cậu xem, cả một vùng đồi núi đầy hang hốc như thế này!  Rái cá mắn đẻ, mỗi năm một lứa, mỗi lứa sáu bảy con, hang nhỏ thì chật, hang lớn thì đùn ra bao nhiêu là cát, hủy hoại bao nhiêu cỏ?  Thảo nguyên có bốn đại họa: Chuột, thỏ đồng, rái cá cạn, dê vàng.  Rái cá cạn xếp thứ ba.  Rái cá cạn chạy chậm, người đuổi kịp.  Vậy vì sao phải đáy bẫy?  Vì rái cá ỷ lại vào hang động, thấy động là chui luôn vào hang.  Rái cá cạn ăn cỏ rất dữ, về mùa thu chuyên ăn hạt cỏ, ăn vài mẫu ruộng hạt cỏ mới béo được  như thế.  Hang sói tác hại càng lớn hơn.  Mã quan sợ nhất hang rái cá, hàng năm rất nhiều ngựa gãy chân, nhiều mã quan bị thương vì thụt hang rái cá.
Trần Trận nói: Nếu vậy đúng là sói có công lớn với thảo nguyên.
Ulichi nói tiếp: Trên thảo nguyên, hang rái cá rất đáng ghét, chúng dung túng cho lũ muỗi qua đông.  Muỗi miền đông thảo nguyên Mông Cổ nổi tiếng thế giới.  Muỗi rừng đông bắt cắn chết người, muỗi miền đông thảo nguyên Mông Cổ cắn chết bò.  Thảo nguyên không nhất thiết năm nào cũng có họa trắng, hoạ đen (mùa đông không có tuyết), nhưng muỗi thì năm nào cũng về.  Người và gia súc sợ muỗi hơn sợ sói.  Trong một năm, muỗi hút ba bốn phần mười mỡ trên mình gia súc.  Lẽ ra nhiệt độ âm ba bốn mươi độ, bò còn chết cóng, không muỗi nào sống nổi, các lều Mông Cổ cũng không có chỗ cho muỗi trú, vậy vì sao muỗi yên ổn sống qua mùa đông?  Đó là nhờ có hang rái cá.  Trời bắt đầu lạnh, rái cá chui xuống hang, muỗi xuống theo. Rái cá khi đã bịt miệng hang thì bên trên bão tuyết mù trời, trong hang vẫn ấm như bếp lò.  Rái cá trong hang không ăn không uống, muỗi cắm vòi trên mình rái cá ăn uống suốt ngày, ung dung sống qua mùa đông.  Sang xuân rái cái chui lên, muỗi lên theo. Thảo nguyên Ơlon nhiều nước, nhiều ao hồ, muỗi sinh sôi nẩy nở, đến mùa hạ thì thiên hạ là của muỗi.  Cậu bảo rái cá có phải là kẻ gieo họa cho nghề chăn nuôi của thảo nguyên không?  Trên thảo nguyên, sói thích ăn thịt rái cá, sói đóng vai trò chủ lực diệt rái cá.  Thảo nguyên có câu: Rái cá chui ra, sói ta lên núi.  Rái cá ra khỏi hang, gia súc chậm tiêu thụ một thời gian.
Trần Trận đã bị muỗi cắn hai mùa hè, nghe nói đến muỗi, cậu thấy người nổi da gà, thanh niên trí thức sợ muỗi hơn sợ sói.  Sau đó nhắn Bắc Kinh gửi màn lên mới ngủ được.  Mục dân rất thích cái màn, qua mùa hè, cái màn đã trở nên phổ cập trong các lều Mông Cổ.  Dân du mục đặt cho nó cái tên "Ilacualua" - buồng muỗi.
Trần Trận không ngờ đàn muỗi kinh hoàng trên thảo nguyên lại từ hang rái cá bay ra.  Cậu bảo Ulichi: Hai ông là chuyên gia của thảo nguyên.  Té ra muỗi và rái cá quan hệ khăng khít, hang rái cá trở thành sào huyệtn của muỗi, còn sói lại là khắc tinh của rái cá.  Cháu chưa bao giờ thấy những điều này trong sách.
Ulichi nói: Thảo nguyên rất phức tạp, mọi chuyện móc xích với nhau, sói là mắt xích lớn nhất, mất mắt nào đều là m hỏng mắt xích lớn nhất này, nghề chăn nuôi trên thảo nguyên sẽ khó mà duy trì.  Cái lợi của sói đối với thảo nguyên không thể kể hết, tóm lại một câu, công nhiều hơn tội.
Ông già Pilich cười, nói: Nhưng mà rái cá cạn cũng không hoàn toàn xấu.  Da thịt, mỡ đều quý.  Da rái cá là thu nhập phụ quan trọng của mục dân.  Nhà nước dùng nó để đổi lấy xe hơi, đại bác.  Sói rất thông minh, không bao giờ giết hết rái cá, chừa lại hàng năm có cái ăn.  Mục dân cũng không giết hết rái cá, chỉ bắt con to không bắt con nhỏ.
Ba con ngựa chạy nhanh, lũ rái cá không biết sợ, tiếp tục đùa rỡn.  Đại bàng thảo nguyên liên tục bổ nhào, nhưng mười lần nhào xuống chín lần hụt.  Càng đi về phía đông bắc càng vắng, càng ít dấu vết con người, giếng ăn biến mất, cuối cùng phân ngựa cũng không thấy.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:50:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16 (tiếp)

Ba người trèo lên một con dốc cao.  Dãy núi lớn xuất hiện phía xa xanh đến nỗi như không có thực.  Quả núi mà ba người vừa đi qua tuy đã khoác lên màu xanh mới, nhưng là xanh pha vàng cùng với màu vàng xỉn của cỏ thu năm ngoái.  Còn màu xanh của dãy núi xa, xanh như phẩm vẽ trên tấm phông nhà hát, như cảnh thần tiên trong tranh liên hoàn.  Ulichi giơ roi trỏ dãy núi, nói: Mùa thu năm ngoái đến đây, dãy núi một màu đen kịt.  Giờ toàn là màu xanh của cỏ, y như được khoác lên chiếc áo dài bằng lụa.  Ba con ngựa trông thấy núi xanh liền chạy nhanh hơn.  Ulihi chọn trảng cỏ độ dốc không lớn, dẫn hai người chạy vào.
Ba con ngựa chạy qua hai cái dốc đến một sườn núi xanh mượt, cỏ non xanh như lúa mạch, thuần chủng không một ngọn tạp, mùi thơm ngày càng đậm.  Vài bận đánh hơi, ông Pilich cảm thấy có gì không ổn, liền cúi xuống quan sát kỹ.  Hai con chó hình như đánh hơi thấy con mồi liền cắm đầu mà hít, chạy vòng quanh loạn cả lên.  Ông già nghiêng hẳn người xuống nhìn cỏ non cao nửa thước dưới chân ngựa.  Ông ngửng lên nói: Hai người ngửi xem nào!  Trần Trận hít một hơi thật sâu, liền ngửi thấy mùi nhựa cỏ thơm thơm như mùi cỏ tiết ra khi ngồi trên máy cắt cỏ vụ thu năm ngoái, lưỡi dao phạt cỏ chảy nhựa.  Trần Trận hỏi: Chẳng lẽ có người cắt cỏ ở đây?  Ai đến đây nhỉ?
Ông già xuống ngựa, dùng gậy vạch cỏ, tìm kỹ.  Lát sau, ông tìm thấy một cục màu vàng chanh trong bụi cây.  Ông bóp nhẹ một cái, lại đưa lên mũi ngửi, nói: Đây là phân dê vàng.  Dê vàng vừa qua đây.  Ulichi và Trần Trận đều xuống ngựa nhìn cục phân dê vàng trên tay ông già.  Mùa xuân phân dê vàng ẩm ướt, không thành nhón.  Hai người giật mình, tiến lên mấy bước, trảng cỏ xanh trước mặt như bị lưỡi hái phạt ngang, dõng một cọng, tây một cọng.  Chẳng lẽ có người đến tận đây cắt cỏ?
Trần Trận nói: Xuân này đỡ đẻ cho cừu, con không trông thấy con dê vàng nào, thì ra chúng đến đây ăn cỏ.  Chúng bứt mới khiếp chứ, hơn cả máy cắt cỏ.
Ulichi đẩy đạn lên nòng, gạt chót bảo hiểm, nói khẽ: Hàng năm vào mùa xuân, dê vàng thường về bãi chăn ăn tranh cỏ với đàn cừu đẻ, năm nay không về, chứng tỏ bãi cỏ ở đây tốt hơn nhiều so với bãi cừu đẻ.  Dê vàng cũng nghĩ như chúng ta.
Ông Pilich cười tít mắt, bảo ông Ulichi: Dê vàng kén cỏ rất ghê.  Chúng đã chọn trảng cỏ này mà ta không cho gia súc đến thì tiếc quá, xem ra lần này thì ông đúng rồi.
Ulichi nói: Chưa phán vội, còn xem nước uống ra sao đã!
Trần Trận đâm lo: Nhưng lúc này cừu còn non chưa thể đi xa.  Đợi chúng cứng cáp có thể lên đường cũng phải một tháng, khi ấy dê vàng đã ăn sạch cỏ.  Ông già nói: Đừng ngại, sói tinh hơn người, đàn dê vàng đã về đây, làm sao sói không về?  Lúc này cừu chưa đẻ xong, cừu mẹ, cừu con chưa đi đâu, đây là lúc sói bắt dê vàng tốt nhất, chỉ vài hôm sói sẽ đuổi sạch dê vàng.
Ulichi nói: Thảo nào tỉ lệ sống của cừu con năm nay cao thế.  Thì ra dê vàng và sói đều kéo về trảng cỏ này.  Dê vàng không về tranh ăn cỏ, sói cũng không về bắt cừu non, tỉ lệ sống cao là phải.
Nhắc đến sói, Trần Trận giục hai người lên ngựa.  Ba người lại vượt một con dốc.  Ulichi nhắc hai người qua một dốc lớn nữa là trảng cỏ lớn.  Ông đoán lúc này dê vàng và sói đều ở đó.
Sắp lên tới đỉnh dốc, cả ba xuống ngựa, khom người dắt ngựa đi lên, một tay ôm cổ chó.  Hai con chó biết có chuyện, liền bò theo chủ.  Tới chỗ hòn nham thạch, họ lấy thừng buộc chân trước của ngựa, rồi nấp sau tảng đá và trong bụi cây, dùng ống nhòm quan sát toàn cảnh trảng cỏ mới.
Rốt cuộc Trần Trận nhìn thấy mảnh đất còn trinh nguyên của vùng biên ải.  Có lẽ đây là đồng cỏ cuối cùng ở Trung Quốc, đẹp đến nghẹt thở, khiến cậu bất giác nhích lên một bước, trong đầu không còn nhớ đến vùng Cadac sông Đông.  Trần Trận mê mẩn quên cả sói.
Trước mặt là một bồn địa dọc ngang mấy chục dặm chưa hề lưu dấu chân người.  Phía đông là những dãy núi trùng điệp, chồng lên nhau như sóng biển, chạy dài mãi tận dãy Đại Hưng An.  Núi biếc núc xanh, núi nâu núi vàng, núi lam núi tía, xanh nâu vàng tía đuổi nhau, nối tiếp những cụm mây hồng phía chân trời.  Các phía bắc tây nam địa thế như lòng dĩa, chạy thoai thoải về giữa lòng chảo, trảng cỏ như một tấm thảm qua bàn tay ông trời xén tỉa, có đủ các màu xanh, trắng, vàng, hồng, như một bức tranh, xen giữa những vệt màu là những bông hoa dại, gắn kết các mảng màu, đẹp một cách hồn nhiên.
Một con sông tiêu chuẩn của thảo nguyên Mông Cổ từ khe núi phía đông nam chảy ra, gặp đất bằng liền uốn khúc, mỗi khúc là một hình móng ngựa to hoặc nhỏ, trông như những chiếc khuyên tai, vòng cổ hoặc xuyến cổ tay.  Hoặc như một cô dâu Mông Cổ trong ngày cưới, mải chơi quên mất mình là ai, hái hoa trên một đoạn đường rất dài trong một cự li ngắn.  Con sông càng gấp nhiều khúc càng dài, cuối cùng chui tụt vào một cái hồ chính giữa trảng cỏ nước trong vắt, mặt nước chảy trắng bồng bềnh trôi.
Giữa trảng cỏ là hồ thiên nga như trong mơ.  Nhìn qua ống nhòm từ xa, mười mấy con thiên nga trắng đẹp mắt, nhẹ nhàng bơi trên mặt hồ rộng, thụ hưởng cảnh yên bình nơi thiên quốc.  Xung quanh đám thiên nga là hàng ngàn vạn con nhạn, vịt  trời và những con chim không rõ tên.  Năm sáu con thiên nga đột nhiên bay lên kéo theo cả đám thủy cầm lượn thấp trên mặt hồ, vừa lượn vừa kêu vang như một giàn đồng ca.  Nước lặng, những chiếc lông vũ màu trắng bồng bềnh trôi.  Phía tây bắc hồ thiên nga có một cửa thoát, dẫn nước hồ tới bãi sậy rộng hàng vạn mẫu xa xa.
Có lẽ đây là cái hồ thiên nga còn ở dạng nguyên thủy, con người chưa hề động tới ở Trung Quốc.  Và cũng là cảnh đẹp thiên nhiên cuối cùng của Trung Quốc trên vùng biên phía bắc.  Trần Trận như mê đi, trong lòng vừa thích vừa lo.  Một khi người ngựa vào đây, cảnh đẹp sẽ mất biến, nhân dân Trung Quốc sẽ không còn được thấy cảnh đẹp nguyên sơ của thảo nguyên.  Cậu nghĩ, giá như con đường biên phòng chạy qua đây thì hay, nơi này mới đúng là khu cấm.
Ông Pilich và ông Ulichi dùng ống nhòm rà quét kỹ mục tiêu.  Ông già dùng mũi giày đụng nhẹ chân Trần Trận, bảo anh chú ý khúc sông thứ ba bên phải. Trần Trận sực tỉnh, hỏi lại vị trí cần để ý rồi mới giương ống nhòm lên.  Ở một khúc rộng có hai con dê vàng bị sa lầy đang cố sức trèo lên bờ, nửa thân sau vẫn chìm trong nước, hai chân sau hình như thụt trong bùn, hai chân trước gác lên bờ, nhưng không còn sức để nhảy lên.  Trên bãi cỏ bên cạnh nằm la liệt mười mấy con dê lớn, bụng rách toác... Trần Trận dịch ông nhòm lên chỗ cỏ cao.  Cậu giật mình khi thấy mấy con sói lớn đã lâu không gặp, nằm ngủ gật bên cạnh mấy cái xác dê.  Cỏ chỗ này hơi cao, cậu không biết sói có bao nhiêu con.
Ulichi và ông già sục sạo khắp các xó xỉnh, chĩa ống nhòm về dốc núi đông nam.  Nơi có dê vàng phân tán, từng nhóm hai ba con một hối hả gặm cỏ, bên cạnh dê mẹ thường có dê con... Trần Trận trông thấy một con dê mẹ vừa đẻ xong, đang liếm nhớt cho con, vừa liếm vừa nhìn quanh, con dê mới đẻ đang cố sức đứng dậy.  Chỉ cần đứng vững là dê chạy được ngay, và chạy nhanh, chó đuổi không kịp.  Nhưng mấy phút để đứng lên này có tính chất sống còn.  Trần Trận không biết nên như thế nào, hạ thủ sói trước hay hạ thủ dê vàng trước?
Ông già nói: Cậu thấy đấy, sói dám nằm ngủ thì biết người chẳng làm gì nổi chúng?  Xa quá, bắn k hông trúng.  Chúng ta ló mặt ra là cả dê lẫn sói chạy biến.  Ông Ulichi nói: Nhưng những con chạy không nổi thì thuộc về chúng ta, vừa đúng bữa trưa.
Ba người nhằm phía bờ sông chạy tới.  Người ngựa vừa ló dạng, đàn sói đã nhanh như tên bắn chia nhiều ngả chạy về phía núi cao phía đông, lát sau đã khuất sau bãi sậy.  Dê vàng cũng nhanh như chớp vọt lên núi, chỉ còn lại mấy con sa lầy và một con mới sinh.
Ba người tới bên khúc song, từ cửa khẩu rộng năm sáu mét bước vào mảnh đất bên trong vòng cung uốn lượn của dòng sông rộng chừng một mẫu ta, ba mặt là nước, lòng sông rộng chừng ba bốn mét, sâu một mét, nước trong suốt nhìn thấy đáy. Đáy sông có chỗ là cát, chỗ đất bùn.  Bờ sông cao một mét, thẳng đứng.  Khúc sông có bãi cát thì bờ thoai thoải, trên bãi cỏ có hơn chục xác dê vàng, phần lớn nội tạng đã bị sói ăn mất.  Một con dê vàng bị sa lầy không cựa quậy được, có mấy con chân vẫn đang giật, vết cắn trên cổ đang chảy máu. Ông già Pilich nói: Sáng sớm dê vàng đến uống nước bị sói bủa vây.
Trần Trận từng nhiều lần chứng kiến chiến thuật bủa vây của sói, nhưng lợi dụng ba mặt là nước để bao vây thì đây là lần thứ nhất.  Cậu ngồi trên ngựa nghiền ngẫm chiến thuật này của sói.
Ulichi nói: Cậu xem, đàn sói tinh vinh đấy chứ!  Bọn chúng nấp  trong cỏ rậm từ đêm trước, khi đàn dê tới uống nước, chúng bịt chặt cửa khẩu là đàn dê bị nhốt bên trong.  Mỗi vòng lượn của sông là một cái túi, sói bịt miệng túi là có một túi thịt.
Ông già cười, hỏi: Lần này thì cậu thấy rồi đấy, ông trời ủng hộ sói.  Cậu thấy dòng sông lượn đi lượn lại, bao nhiêu khúc là bây nhiêu bãi vây.  Tôi bảo, sói là con cưng của trời, đúng chưa nào?
Trần Trận nói: Bãi vây kiểu này có muốn cũng tìm không ra, vậy mà xuất hiện một lúc hơn chục bãi, đúng là trời rất ưu ái sói.  Mà sói cũng rất thông mình, sử dụng ngay những bẫy này mà lại rất hiểu quả.
Ông Ulichi nói: về mặt lợi dụng thời tiết và địa hình thì sói hơn người nhiều.
Hai con chó thấy chỗ nào cũng có thịt vương vãi thì không vội ăn.  Balua không thèm ăn thừa của sói, nhảy sổ vào một con dê chưa chết hẳn, chẹn cổ con vật rồi nhìn ông Pilich.  Ông già gật đầu, bảo: Ăn đi!  Balua cắn cho con dê chết hẳn rồi xé một miếng bắp to, nhai ngấu nghiến.  Nhị Lang thấy con mồi máu me đầy mình thì nổi máu sát sinh, lông dựng lên như sói.  Nó chạy tới chỗ hai con dê sa lầy.  Trần Trận và ông Pilich quát nó quay lại.  Nhị Lang không chịu thôi.  Nó chồm lên xác một con dê nhìn quanh, cuối cùng thấy một con dê còn sống dưới sông, liền nhào xuống nước bơi tới.  Ông già không ngăn Trần Trận, bảo: Con này thú tính còn nhiều, để nó giết con mồi thì sẽ không ăn thịt cừu nhà.
Ba người đi tới bờ sông.  Ông già tháo cuộn dây da dưới yên ngựa, tết một cái thòng lọng.  Trần Trận tháo ủng, xắn quần lội ra cầm thòng lọng tròng cổ con mồi, ông Pilich và Ulichi kéo nó lên bờ quật ngã rồi trói chặt bốn chân.  Hai người còn lôi một con khác ra khỏi bãi cỏ đầy máu me, chọn chỗ sạch ăn trưa.  Ông già bảo, ăn một con, đem về một con.  Ông Ulichi cầm dao làm thịt dê.  Ông Pilich nhìn quanh rồi dẫn Trần Trận đi kiếm củi.
Hai người cưỡi ngựa đến một khe sâu ở mạn tây bắc quả núi, mọc đầy những cây hạnh rừng, phần lớn còn sống, thân cao khoảng một mét, có rất nhiều cành khô.  Hoa hạnh vừa tàn, cánh hoa rơi trắng đất, không khí trong khe núi có vị đắng.  Hạt hạnh xếp lớp dưới đáy khe.  Trần Trận và ông Pilich bẻ đầy hai ôm củi dùng dây da bó chặt rồi cho ngựa kéo về chỗ ăn trưa.  Ulichi đã lột da con dê, thái miếng quá nửa chỗ thịt, còn kiếm được ít hành dại và rau phỉ ở bờ sông.  Trần Trận thấy những cọng rau phỉ to bằng chiếc đũa.
Ba người tháo hàm thiết, gỡ yên cho ngựa.  Ba con ngựa rùng mình rồi hối hả lao tới chỗ dốc thấp, xuống hồ uống ngon lành.  Ông Pilich cả mừng, nói: Nước lành!  Nưới lành!  Chọn bãi chăn mùa hạ, trước hết chọn nước uống.  Ba con ngựa uống căng bụng mới ngửng lên, chậm rãi đi lên bãi cỏ xanh non, vừa gặm vừa khịt mũi.
Lửa đã được nhen lên, lần đầu tiên mùi thịt dê nướng bay trong không khí tinh khiết hồ thiên nga, kèm theo mùi hành dại, mùi rau phỉ, mùi tương ớt và mùi mỡ.  Gần hố quá, lớp sậy già chưa bị cháy hết và lớp sậy mới mọc cao hơn đầu người che khuất mặt hồ, khiến Trần Trận không  thể vừa ăn thịt uống rượu, vừa ngắm thiên nga và mặt hồ.  Cậu liên tục lật xiên thịt.  Thịt dê tươi đến mức tưởng như đang cựa quậy trên bếp lửa.  Ba người ra đi từ lúc trời chưa sáng, giờ đã đói ngấu.  Ăn kèm muối ớt và hành dại, Trần Trận ngốn hết xâu này đến xâu khác, uống từng ngụm rượu trong chiếc bi đông của ông già.  Cậu nói: Đây là lần thứ hai cháu ăn thức ăn của sói.  Thức ăn của sói ngon nhất thiên hạ, ăn đúng nơi săn bắt lại càng ngon. Thảo này ngày xưa các vị hoàng đế cứ thích đi săn trên thảo nguyên Mông Cổ.
Ulichi và ông già Pilich cầm đùi dê trực tiếp nước trên than hồng, nướng chín lớp nào, cùng dao lạng ra lớp ấy để ăn, rồi lại khía từng nhát, rắc muối tiêu nướng tiếp.  Ông già ngon miệng, ăn hết lớp nọ đến lớp kia.  Ngửa cổ tớp một ngụm rượu, ông nói: Có thêm bãi chăn mới này, tôi yên tâm.  Đợi hai mươi hôm nữa, lũ cừu non có thể đi xa, cả đội sẽ dọn đến đây.  Vậy nhé.
Ulichi quấn thịt xung quanh cọng hàng cắn một miếng, hỏi: Cả đội đến cùng ông?  Ông già nói: Dê vàng và sói đã đến, người không đến sao được?  Cỏ không ngon thì dê vàng có đến không?  Dê vàng không nhiều thì sói có đến không?  Tôi đem con dê này về, mai họp hội nghị cán bộ, mời mọi người ăn bữa nem cuốn thịt dê vàng.  Họ mà biết nơi đây cỏ ngon, nước lành, tranh nhau đến cho mà xem.  Bãi chăn mùa hạ chỉ cỏ tốt không đủ, mà nước cũng phải ngon, mùa hè sợ nhất nước tù, thiếu nước hoặc nước bẩn, gia súc uống vào bị bệnh.  Mùa hề vỗ béo gia súc, nước không tốt thì vỗ béo thế nào?
Ulichi nói: Nếu như còn bất đồng ý kiến, tôi sẽ dẫn họ lên đây.
Ông già cười khà, nói: Khỏi cần, tôi là sói đầu đàn, tôi mà đi thì sói lớn sói nhỏ đi theo.  Xưa nay đi theo tôi chưa bao giờ bị thiệt.  Ông già ngó Trần Trận, hỏi: Cậu đi cùng tôi nhiều đợt, đã bị thiệt bao giờ chưa?
Trần Trận cười: Đi theo sói đại vương toàn ăn no uống say.  Bọn Dương Khắc rất muốn đi theo bố.
Ulichi nói: Vậy thì nhất trí.  Tôi về mục trường họp bàn chuyện di dời.  Những năm gần đây, cấp trên giao chỉ tiêu nặng quá, thở không ra hơi.  Mở thêm bãi chăn này, ta ung dung được bốn năm năm.
Trần Trận hỏi: Nếu như sau bốn năm năm, mục trường ta có phát triển bãi chăn mới nữa không?
Ulichi thoáng buồn: Phía bắc là đường biên, tây và nam đều của công xã khác, phía đông bắc núi quá cao lại toàn là núi đá, tôi đã đi hai lần, không còn chỗ nào cho chăn nuôi.
Trần Trận hỏi: Vậy sau này sẽ ra sao?
Ulichi nói: Chỉ còn cách khống chế số lượng, nâng cao chất lượng.  Thí dự, phát triển giống cừu Tân Cương chất lượng cao.  Giống cừu này cho len gấp ba, giá cả gấp bốn cừu bản địa, một cân len cừu bản địa giá một tệ, len chất lượng cao giá bốn tệ.  Cậu thử tính hơn kém nhau bao nhiêu?  Lông cừu là nguồn thu nhập chính của ta.  Trần Trận tán thành biện pháp này.  Nhưng Ulichi thở dài, nói: Trung Quốc người đông, tôi cho rằng chỉ vài năm nữa sẽ lại thiếu bãi chăn.  Chẳng hiểu những  thằng già này về hưu, cánh trẻ các cậu xoay xở ra sao?
Ông Pilich lừ mắt: Ông phải tích cực phản ánh lên trên, không nên áp dụng chỉ tiêu cao quá.  Trời vàng lên rồi, đất lộn tùng phèo lên rồi, cát vàng sắp chôn vùi người rồi.
Ulichi lắc đầu: Ai nghe ông, bây giờ cán bộ khẩn hoang nắm quyền.  Cán bộ nông nghieiejp văn hóa cao hơn cán bộ du mục, tiếng Hán cũng nói trôi chảy.  Vả lại hiện giờ cán bộ du mục đang tranh nhau đi săn bắt sói, đang tăng số đầu gia súc.  Những cán bộ không biết gì về thảo nguyên lại được đề bạt nhanh.
Ba con ngựa no căng đang nhắm mắt ngủ gật.  Con Nhị Lang đã về, ướt như chuột lột, đầu đầy máu, bụng to như cái thùng tô nô, cách người mười mấy bước thì dừng lại.  Balua hình như biết Nhị Lang đi làm những gì, trợn mắt giận dữ.  Lát sau hai con xông vào nhau, Trần Trận và ông già phải gỡ chúng ra.
Ulichi lại dẫn hai người dạo một nửa vòng bãi chăn, vừa đi vừa bàn với ông già địa điểm dựng lều của toàn đội.  Trần Trận tranh thủ tận hưởng cảnh đẹp.  Cậu không hiểu cậu về thảo nguyên hay chốn bồng lai.  Cậu rất muốn ở lại, không về nữa.
Trở lại chỗ cũ, ba người bắt tay lột da, xẻ thịt con dê.  Trần Trận bất giác sinh lòng thương cảm.  Cái không khí lãng mạn bị hai bàn tay đầy máu tanh tưởi đẩy lùi.  Trần Trận buồn rầu hỏi ông già: Mùa đông đàn sói giết dê vàng là để sang xuân có thức ăn.  Nhưng mùa hè chúng giết nhiều dê vàng như thế để làm gì?  Mấy khúc sông hình như có rất nhiều xác dê vàng, vài hôm nữa thối rữa còn uống sao được?  Sói thích giết bừa bãi.
Ông già nói: Đàn sói giết bấy nhiêu dê vàng không để chơi, cũng không để ra oai.  Chúng phải dành thức ăn cho những con già yếu.  Hổ báo vì sao không trụ lại được trên thảo nguyên?  Sói vfi sao bá chủ thảo nguyên?  Bởi vì sói đồng lòng hơn hổ báo.  Hổ báo bắt được mồi ăn một mình không thèm đoái hoài đến vợ con, già trẻ lớn bé.  Sói thì không thế, sói săn mồi vì bản thân cũng vì bầy đàn, vì những con già yếu, thọt chân, mù dở, ốm đau và sói mẹ vừa sinh nở không theo kịp đàn.  Cậu đừng nghĩ dê vàng bị hạ sát hàng loạt, đêm nay con sói đầu đàn chỉ tru lên một tiếng là toàn bộ sói vùng Ơlon và cả những họ hàng thân thích nhà sói sẽ kéo về đây chén sạch trong một đêm, một con nghĩ đến đàn, cả đàn nghỉ đến một con, sói mới thành đàn, sói đàn chiến đấu mới khiếp.  Có khi sói chúa chỉ gọi một tiếng là hàng trăm con sói ùa đến đánh đòn hội đồng.  Nghe người già nói, thảo nguyên vốn có hổ nhưng đã bị sói đuổi đi.  Sói chăm sóc gia đình sói hơn người, đoàn kết hơn người.
Ông già thở dài, nói: Người Mông Cổ học sói đến nơi đến chốn là thời Thành Cát Tư Hãn.  Các bộ lạc Mông Cổ là những bánh xe sắt, là bó tên, người tuy ít nhưng sức mạnh thì lớn, ai cũng sẵn sàng hi sinh vì bà mẹ thảo nguyên.  Nếu không làm sao chiếm được nửa thế giới?  Sau đó Mông Cổ vì mất đoàn kết mà thua.  Các bộ lạc anh em, các gia tộc vàng tàn sát lẫn nhau.  Mỗi bộ lạc như mũi tên tách khỏi bó tên, bị người ta bẻ gãy từng chiếc một.  Con người không đồng lòng bằng sói.  Tài trận mạc của sói có thể học, nhưng tài đoàn kết của sói thì khó học.  Người Mông Cổ học đã mấy trăm năm mà vẫn chưa thành tài.  Thôi chẳng nói nữa, nói ra càng đau lòng...
Trần Trận ngắm trảng cỏ đẹp đến nao lòng, suy nghĩ miên man.
Ông già dùng da dê gói thịt rồi nhét vào bao tải.  Trần Trận chuẩn bị yên cương cho ông.  Ông già cùng ông Ulichi mỗi người chất một bao tải lên sau yên, dùng dây da buộc chặt.
Ba con ngựa phóng như bay về khu lều trại.

________Hết chương16________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:51:19 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17

Họ giống con sói - Tôtem của người Hung Nô  (Tôtem - nguyên chú)
....Chúng ta biết Đột Quyết tổ tiên người Mông Cổ cổ đại trong truyền thuyết là một con sói.  Theo "Mông Cổ bí sử", tổ thần của người Mông Cổ là con sói xanh.  Theo "Ucuxu sử ký", tổ thần của người Đột Quyết là con sói xám: "một sói đực to lớn xuất hiện trong ánh sáng chói lòa."
                                                                                                   (Pháp) Pierre Renouvin "Đế quốc thảo nguyên"

Phán quyết của cơ quan cấp trên về vụ sự cố đàn ngựa chiến đã về tới mục trường Baolico vùng Ơlon.  Phán quyết, tuyên bố Ulichi, người phụ trách sản xuất của mục trường đã có sai phạm lớn, cách chức ủy viên ban lãnh đạo Ba Kết Hơp của mục trường, đưa xuống cơ sở rèn luyện lao động.  Hai mã quan Batu và Saxuleng đều có sai phạm lớn, cách chức đội trưởng dân quân của Batu.  Văn bản bổ nhiệm cũng đã về tới mục trường: Bao Thuận Quý đã làm xong thủ tục chuyển ngành, giữ vai trò chủ chốt trong ban lãnh đạo mục trường, phụ trách toàn diện cách mạng và sản xuất.
Ulichi rời mục trường bộ, Bao Thuận Quý và Trương Kế Nguyên đi cùng ông về đại đội chăn nuôi.  Hành lý của Ulichi là cái bạc đà nhỏ xíu, nhỏ hơn bạc cả đà của thợ săn.  Trước cách mạng văn hóa, Ulichi thích đặt văn phòng tại đội hoặc tổ chăn nuôi.  Ở đó, ông có áo dài và ủng gửi các bà giữ hộ, vá víu khi bị rách.  Nhiều năm nay, lên hay xuống thì ông vẫ ở cơ sở; có chức vụ hay không thì ông vẫn làm hết sức mình, uy tín và ảnh hưởng của ông vẫn thế.  Nhưng lần này thì tốc độ của ông giảm một nửa: Con ngựa bạch già ông cưỡi đã cuối xuân mà còn sợ lạnh, trên mình lông chưa rụng hết, chẳng khác một ông lão khoác áo đụp trong mùa hè.
Trương Kế Nguyên muốn đổi ngựa cho Ulichi, nhưng ông không chịu, ông giục cậu đi nhanh, khỏi cần mất thì giờ đi cùng ông.  Trương Kế Nguyên lên đại đội lĩnh pin cho mã quan, vừa ra về thì bắt gặp tân và cựu lãnh đạo, liền tháp tùng hai ông đi đường.  Khi biết tin ông Ulichi về ở cùng gia đình ông Pilich, cậu có phần yên tâm.
Bao Thuận Quý cưỡi con ngựa vốn là ngựa chuyên dùng trước đó của Ulichi, lông màu vàng, cao to khoẻ mạnh, lớp lông mới mượt như nhung, Bao Thuận Quý luôn phải gò cương cho chạy chậm lại mới sóng đôi với con ngựa của Ulichi.  Nó không ngừng nhai hàm thiếc chưa quen cách cưỡi của chủ mới, đôi lúc cố ý đi chậm, dùng mõm cà vào đầu gối ông chủ cũ Ulichi và khe khẽ cất tiếng hí buồn bã.
Bao Thuận Quý nói: Ông U, tôi đã cố hết sức giữ ông lại mà không được.  Tôi không hiểu về chăn nuôi, từ nhỏ đến lớn sống ở nông thôn.  Trên giao cho tôi cái mục trường lớn như thế này, tôi không biết xoay sở thế nào.
Ulichi luôn dùng gót ủng thúc ngựa, trán ông đã lấm tấm mồ hôi.  Cưỡi ngựa già mệt cả người lẫn ngựa.  Trương Kế Nguyên giúp ông vụt con ngựa già một roi.  Ulichi xoa đầu an ủi ngựa vàng, nói với Bao Thuận Quý: xử lý như vậy là có chiếu cố rồi, chỉ quy sự cố sản xuất, không quy động cơ chính trị.  Sự cố đàn ngựa có ảnh hưởng quá lớn, không cách chức tôi thì nói với trên thế nào!
Bao Thuận Quý nét mặt thành khẩn, nói: Ông U này, tôi về đây đã sắp được một năm, thấy lãnh đạo chăn nuôi khó hơn lãnh đạo nông nghiệp.  Nếu để xảy một hai sự cố, chắc cái chức chủ nhiệm của tôi cũng không còn.  Một số người cứ muốn đưa ông về đội xây dựng cơ bản, nhưng tôi kiên trì đề nghị đưa ông về đội Hai.  Tôi thấy ông rành nghề chăn nuôi, ở cùng ông Pilich tôi yên tâm, có chuyện gì cũng dễ gặp hỏi ý kiến ông.
Ông Ulichi tươi tỉnh ra một chút, hỏi: Chuyện đội Hai chuyển đến bãi chăn mới, ủy ban cách mạng đã quyết chưa?
Quyết rồi - Bao Thuận Quý nói - ban lãnh đạo quyết định tôi phụ trách chung, ông Pilich phụ trách cụ thể.  Khi nào chuyển, lều trại bố trí như thế nào, bãi chăn phân phối ra sao, đều do ông Pilich quyết.  Ý kiến phản đối cũng nhiều, đường xa, sói nhiều, muỗi nhieuef, trang thiết bị chẳng có gì, lỡ xảy ra chuyện, tôi chịu trách nhiệm chính.  Vì vậy tôi quyết định đi cùng các ông về đấy xem sao, và đem theo đội xây dựng cơ bản xây bể ngâm thuốc để chữa bệnh, kho chứa lông cừu, trụ sở đôi lâm thời và trạn thú ý, lại còn mấy đoạn đường cần sửa chữa...
Ulichi à lên một tiếng, thẳn người suy nghĩ chuyện gì đó.
Bao Thuận Quý nói: Chuyện này là công của ông.  Ông có tầm nhìn xa.  Cả nước thiếu thịt.  Năm nay trên lại giao thêm chỉ tiêu, bốn đại đội đều kêu thiếu bãi chăn, nếu không mở thêm bãi chăn mới, năm nay chắc không hoàn thành nhiệm vụ.
Ulichi nói: Cừu còn non, phải ít ngày nữa mới chuyển trại được.  Ông định làm gì trong những ngày này?
Bao Thuận Quý nói dứt khoát: Điều động thợ săn, tổ chức đội săn sói, tập trung huấn luyện xạ kích.  Tôi đã xin được rất nhiều đạn, dứt khót phải thanh toán nạn sói ở Ơlon.  Mới đây tôi được xem bản thống kê thiệt hại của mục trường trong 10 năm, quá nửa là do sói gây ra, hơn cả bão tuyết, hạn hán và dịch bệnh.  Muốn tăng số đầu gia súc, phải nắm hai việc, một là diệt sói; hai là khai thác bãi chăn mới.  Bãi chăn mới có nhiều sói, nếu không diệt được sói thì mở bãi chăn cũng không ích gì.
Ulichi ngắt lời ông ta: Không xong đâu ông ơi.  Sói gây thiệt hại, nhưng nếu diệt sói, mục trường không chỉ thiệt hại, mà là tai hoạ, sau đó bù đắp gì cũng không lại.
Bao Thuận Quý ngẩng nhìn trời, nói: Từ lâu tôi đã nghe nói ông và ông Pilich ra sức bảo vệ sói.  Hôm nay ông nói hết ra, đừng lấn cấn nữa...
Ông Ulichi dắng một tiếng, nói: Tôi lấn cấn là vì bãi chăn.  Ông cha để lại những bãi chăn tốt như thế, đừng phá đi.  Chuyện sói, tôi nói đã mười mấy năm nay, vẫn cứ phải nói nữa.  Tôi tiếp quản mục trường trên chục năm, số đầu gia súc chỉ tăng gấp đôi, nhưng số bò cừu nộp lên trên gấp hơn ba lần so với các mục trường khác.  Kinh nghiệm quan trọng nhất là bảo vệ bãi chăn.  Điều cốt yếu là khống chế được đầu gia súc, không quá tải nhất là số đầu ngựa.  Bò và cừu nhai lại, đêm không ăn cỏ.  Nhưng ngựa thì ruột thẳng, rất tốn cỏ, không ăn đêm, ngựa không béo.  Ngựa ăn suốt ngày, cả ban ngày lẫn ban đêm.  Một con cừu một năm cần hai mươi mẫu cỏ (1,3 hecta), một ngựa chí ít xài 200 mẫu, vó ngựa hủy hoại cỏ tệ hại.  Một đàn ngựa trú mươi mười lăm ngày ở một chỗ, chỗ ấy thành bãi cát.  Mùa hè mưa nhiều, cỏ mọc nhanh, trừ mùa hè ra, mỗi điểm chăn nuôi phải di chuyển mỗi tháng một lần, phải chịu khó chuyển chỗ, không được bám dính một nơi mà gặm.  Đàn bò cũng hủy hoại bãi chăn.  Chúng có cái tật là khi trở về không đi lẻ tẻ, mà xếp hàng rồng rắn đi về.  Thân nặng, móng cứng, chỉ vài ngày là chúng đi thành từng vệt, nếu không thường xuyên chuyển nhà thì xung quanh lều một hai dậm đầy rãnh lớn rãnh nhỏ.  Thêm vào đó ngày nào cừu cũng giẫm lên, chỉ trong một tháng, một hai dặm vuông quanh lều, không còn cỏ mọc.  Du mục là để cho bãi chăn dễ thở, thật ra bãi chăn rất sợ xéo nát, rất sợ quá tải, quá tải alf sói đến phá phách.
Thấy Bao Thuận Quý chú ý nghe, ông Ulichi nói tiếp: Còn nữa, kinh nghiệm xương máu là không được tận diệt sói.  Có nhiều kẻ hủy hoại cỏ trên thảo nguyên: Dữ dằn nhất là chuột, thỏ đồng, rái cá cạn và dê vàng.  Bốn loài hoang dã này phá hoại đồng cỏ tai hại nhất.  Nếu không có sói thì riêng chuột và thỏ đồng cũng đủ khả năng đào bới toàn bộ diện tích thảo nguyên.  Chỉ sói là thiên địch trị nổi chúng.  Có sói nên chúng không làm nổi chuyện tày trời nói trên.  Bãi chăn được bảo vệ, khả năng chống thiên tai của mục trường được tăng cường.  Thí dụ như chống rét.  Mục trường ta bị tuyết lớn nhiều hơn, các mục trường khác chỉ một trận, gia súc đã thiệt hại quá nửa, nhưng mục trường ta không thiệt hại nhiều.  Vì sao?  Vì cỏ nơi ta mọc khoẻ, sang thu là ta đã tích đủ cỏ khô.  Mấy năm gần đây ta còn có máy cắt cỏ do gia súc kéo, chưa đầy một tháng đã trữ đủ cỏ khô cho mùa đông.  Cỏ mọc khoẻ thường thân cao, nói chung tuyết không phủ kín; bãi chăn tốt thì nước không thất thoát, suối khe không cạn, gặp hạn lớn vẫn có nước uống.  Cỏ ngon bò cừu mới béo.  Những năm gần đây mục trường chúng ta không có dịch bệnh, sản xuất phát triển nên có điều kiện sắm sanh thiết bị, đào giếng đào ao, tăng cường sức chống hạn.
Bao Thuận Quý gật đầu lia lịa, nói: Có lý đấy!  Tôi nhớ rồi, bảo vệ bãi chăn là căn bản của chăn nuôi.  Tôi sẽ thường xuyên cùng cán bộ xuống các đội bắt họ phải định kỳ di chuyển, bắt mã quan theo đàn ngựa 24/24 liên tục di chuyển, không ở lì một chỗ.  Tôi sẽ kiểm tra bãi chăn hàng tháng, đội nào để gia súc gặm quá mức, tôi sẽ trừ công điểm.  Bãi chăn nào bảo vệ tốt, tôi sẽ thưởng hậu, bầu danh hiệu lao động tiên tiến.  Còn như dựa vào sói để bảo vệ bãi chăn thì tôi chưa rõ lắm.  Sói có vai trò lớn như vậy sao?
Ông Ulichi thấy Bao Thuận Quý có vẻ chịu nghe, liền mỉm cười, nói tiếp: Ông không biết đấy thôi, một năm một con chuột ăn nhiều cỏ hơn một con cừu.  Sang thu, con chuột khuân cỏ vào hang dự trữ thức ăn cho mùa đông thường là dài hơn nửa năm.  Tôi đào hang chuột thấy nhiều bó cỏ lớn, đều là cỏ ngon và hạt cỏ.  Chuột đẻ khoẻ, mỗi năm đẻ bốn năm lứa, mỗi lứa mười mấy con, một năm một lứa thành mười lứa, ông thử tính coi, một lứa chuột cộng với lứa mẹ đẻ lứa con, một năm ăn hết bao nhiêu cỏ của cừu?  Thỏ đồng cũng vậy, một năm đẻ mấy lứa, mỗi lứa một đống con.  Hang rái cá ông cũng thấy rồi đấy.  Rái cá cạn có thể đào rỗng núi.  Tôi đã tính thử, bốn con này ăn trong một năm nhiều gấp mấy lần 10 vạn gia súc ăn trong cùng kỳ.  Mục trường ta lớn, diện tích tương đương một huyện trong nội địa, nhưng dân số chưa đến một nghìn người, nếu không có số thanh niên trí thức thì còn ít hơn.  Một nhúm người làm sao diệt nổi mấy triệu con chuột, thỏ đồng, rái cá cạn và dê vàng?
Bao Thuận Quý nói: Nhưng mấy năm nay tôi chỉ thấy lác đác vài con chuột.  Ngoại trừ chuột ở gần trụ sở mục trường hơi nhiều, những nơi khác tôi ít thấy chuột.  Rái cá thì thấy nhiều.  Riêng dê vàng thì quá đông, đàn lớn trên vạn con tôi thấy mấy bận, còn bắn chết bốn năm con nữa kia.  Dê vàng quả là đại họa, thấy chúng ăn cỏ mà xót ruột!
Ông Ulichi nói: Cỏ Ơlon mọc cao và rậm, che khuất bọn chúng, không quan sát kỹ không thấy.  Sang thu ông sẽ thấy những đống cỏ bé tí khắp nơi.  Đó là cỏ của chuột, phơi khô kéo vào hang.  Dê vàng chưa phải nguy hiểm nhất, chúng chỉ ăn cỏ, không đào hang đùn cát lên.  Nhưng chuột, thỏ đồng, thì vừa ăn cỏ vừa đào hang và lại đặc biệt mắn đẻ, nếu không có sói thì chỉ trong vài năm chúng ăn sạch cỏ, khoét rỗng núi trên thảo nguyên Ơlon, biến tất cả thành sa mạc.  Nếu ông cứ nhất định diệt sói thì chỉ vài năm thôi, chức chủ nhiệm của ông sẽ đi đứt.
Bao Thuận Quý cười hề hề: Tôi chỉ thấy méo bắt chuột, chim ưng bắt chuột, rắn nuốt chuột, chưa hề nghe nói sói bắt chuột.  Ngay chó bắt chuột nhắt cũng chỉ là chuyện đùa.  Sói mà làm những chuyện vặt như vậy sao?  Sói bắt cừu bắt ngựa để ăn, một tí thịt chuột chả bỏ dính răng!  Tôi không tin là sói ăn thịt chuột!
Ông Ulichi thở dài: Dân nông nghiệp các ông không hiểu được chuyện này.  Không điều tra nghiên cứu, các ông sẽ hỏng việc lớn.  Tôi lớn lên trên thảo nguyên, tôi hiểu sói.  Sói thích ăn thịt bò, cừu, ngựa, dê vàng, nhưng những con này đều có người trông coi, ăn được đâu có dễ, không khéo lại mất mạng ấy chứ.  Dê vàng chạy nhanh cũng khó bắt lắm, xem ra bắt chuột là hay hơn cả.  Xưa kia người nghèo ở Ơlon những năm mất mùa đều phải ăn thịt chuột mà sống qua ngày.  Tôi hồi nhỏ là nô lệ, lúc đói quá tôi bắt chuột ăn.  Chuột thảo nguyên, nhỏ thì một chẹt tay, nặng hai ba lạng, lớn dài gần thước, nặng hơn một cân, ăn ba bốn con là no.  Nhiều nữa ăn không hết thì lột da làm khô thịt, cũng rất ngon, để dành được.  Nếu ông không tin, đợi lúc rảnh rỗi, tôi đi bắt mấy con đem nướng để ông thưởng thức, thịt nó nhỏ thớ và mềm.  Xưa kia Tô Vũ, và Thành Cát Tư Hãn đều đã từng ăn thịt chuột.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:51:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17 (tiếp)

Bao Thuận Quý tỏ vẻ lúng túng.  Ulichi không nhìn ông ta, cứ nói tiếp: Một bận, có vị lãnh đạo người Quảng Đông xuống thịt sát trạm biên phòng.  Hôm ấy tôi cũng có mặt để bàn về công tác liên phòng.  Ông ta hỏi tôi chuột thảo nguyên có ăn được không?  Tôi nói ăn rất ngon.  Ông bảo, trưa nay các đồng chí đừng làm món khác, chiêu đãi tôi một bữa thịt chuột.  Tôi cùng một dân quân ra đồng tìm mấy hang chuột, đem theo một thùng nước đổ vào hang.  Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã bắt được hơn chục con chuột to.  Lột da xong, thịt trắng hếu, vị lãnh đạo khen được.  Trưa hôm ấy ba người chúng tôi ăn một bữa thịt chuột nướng no căng bụng.  Cán bộ chiến sĩ cứ ngẩn ra mà nhìn.  Thịt thơm nhưng họ không dám ăn.  Vị lãnh đạo nói: Thảo nguyên sạch, cỏ càng sạch, chuột ăn cỏ non và hạt cỏ lại càng sạch.  Ông còn bảo, chưa bao giờ ông ăn một bữa thịt chuột thơm và ngon đến thế, ngon hơn thịt chuột Quảng Đông.  Thịt này mà đưa về Quảng Đông cứ gọi là tranh nhau mà mua.  Chỉ tiếc Quảng Đông xa quá, tàu hỏa không cho chuyên chở chuột sống.  Nếu không, hàng năm Nội Mông cung cấp chuột sống cho Quảng Đông, thảo nguyên vừa diệt chuột vừa được một khoản tiền lớn, còn giúp Quảng Đông thêm một món ăn cao cấp...
Bao Thuận Quý bật cười: Hay lắm, mục trường chúng ta cung cấp thịt chuột cao cấp cho Quảng Đông, rất có thể kim ngạch lớn hơn cung cấp len, thịt bò cừu.  Vậy, chuột khó bắt không?
Ông Ulichi nói: Rất dễ bắt, đổ nước, dùng thòng lọng, đào bằng xẻng, đơn giản nhất là huấn luyện mấy con chó săn chuột.  Chó thảo nguyên thích bắt chuột đem về cho con chơi, chó mẹ dạy con săn mồi, trước tiên dạy bắt chuột.  Chó thảo nguyên ăn thịt bò thịt cừu, không ăn thịt chuột.  Nhưng sói thì không kén chọn như chó về mặt ăn uống.  Chuột thảo nguyên vừa béo vừa to lại dễ bắt, nên trong ba vụ xuân hè thu, chuột là thức ăn chính của sói.  Có năm chúng tôi kiểm soát rất chặt, ý thức trách nhiệm của mục dân cũng cao, nên sói không còn dịp nào bắt ngựa cừu non của chúng tôi.  Sau đó chúng tôi chộp được mấy con sói thấy con nào cũng béo khoẻ thì rất băn khoăn, mổ bụng một con toàn là chuột, thịt nát hết, đầu và đuôi thì chưa.  Tôi đếm được tất cả 20 con chuột, 20 cái đầu, 20 cái đuôi và một cái đầu rái cá cạn.  Ông bảo, một năm một con sói ăn bao nhiêu con chuột?  Mỗi lần lạnh đạo Kỳ về, tôi đều trao đổi vấn đề này, giới thiệu sói là dũng sĩ diệt chuột trên thảo nguyên, nhưng các vị ấy không tin, thay đổi nhận thức của người làm ruộng về sói quả là khó.
Trương Kế Nguyên càng nghe càng hào hứng, không nhịn được nói chen vào: Hai năm là mã quan, cháu nhiều lần thấy sói bắt chuột, đuổi chuột tung lên từng đám bụi.  Sói bắt chuột giỏi hơn chó.  Bắt chuột sói nhằm chỗ nào nhiều chuột nhất mà chạy xiên ngang xiên dọc, gặp chuột liền vả ngã quay lơ khiến con chuột không thể chui vào hang rồi sói quay lại đớp từng con một, nuốt tởm.  Chạy vài lượt là bụng lưng lửng.  Hai là đào hang.  Sói là cao thủ đào hang trên thảo nguyên.  Trông thấy chuột chui vào hang, sói hè nhau con đào hang, con bịt các cửa, chỉ một lát đã lôi ra ổ chuột lên ăn thịt.
Ông Ulichi nói: Sói mẹ và sói con rất thích ăn thịt chuột.  Trước khi cai sữa, sói mẹ dạy sói con bắt chuột mồi sống, cũng bắt đầu từ chuột. Sói mẹ khi còn nuôi con, nói chung không theo sói lớn đi săn.  Sói con lớn chừng một thước, vừa biết chạy rất sợ người.  Phát hiện sói mẹ dẫn đàn con đi ăn, thợ săn chỉ cần bắn chết sói mẹ là sói con không biết đằng nào mà chạy, có thể tóm từng con như bắt cừu non.  Vì vậy khi sói con còn nhỏ, sói mẹ thường dẫn đến nơi rất xa người và gia súc để sói con được an toàn, có điều không được ăn thịt, sói con sống như thế nào? Ngoại trừ sói bố đem về một ít thịt gia súc lớn, sói mẹ sói con chủ yếu sống bằng thịt chuột và rái cá cạn.
Ulichi ngoảnh nhìn Bao Thuận Quý, thấy ông ta không tỏ vẻ sốt ruột, liền nói tiếp: Thời gian này, sói mẹ dẫn con đến nơi an toàn không người, bắt chuột ăn, một là dạy con tập săn mồi, hai là cho con ăn no.  Sói con lớn chừng hai thước vẫn chưa thể đi xa vài chục dặm theo sói lớn săn mồi, mà vẫn phải ăn chuột.  Tôi từng trông thấy một đàn sói con săn chuột, sói con vừa đuổi theo vừa chơi, bụi bay mù trời, còn hấp dẫn hơn mèo đuổi chuột, khắp nơi nghe thấy chuột kêu khụt khịt.  Vào hè là lúc thỏ con biết chạy nhưng không chạy nhanh bằng sói, nên sói lại là cao thủ bắt thỏ.  Đàn sói bảy tám con, hơn chục con, cần ăn bao nhiêu chuột và thỏ mới thành sói lớn?
Còn nữa - Ông Ulichi nhấn mạn - không có sói, người và gia súc trên thảo nguyên sẽ rắc rối khi gặp đại họa.  Hoạ trắng (đại hàn) trăm năm, vài trăm năm mới gặp một lần, gia súc chết hàng loạt, sau khi tuyết tan, thảo nguyên chỗ nào cũng có xác gia súc, mùi thối xông lên nồng nặc, nếu không chôn lấp kịp thời, rất dễ xảy ra dịch bệnh, một nửa số người và gia súc khó sống sót.  Nếu như đàn sói đông, chúng sẽ xử lý gọn những xác chết, dịch bệnh không xảy ra.  Vì vậy từ lâu Ơlon không có dịch.  Thời xưa, thảo nguyên chiến tranh liên miên, sau mỗi trận đánh lớn, hàng ngàn hàng vạn xác người ngựa do ai xử lý?  Phải nhờ sói.  Người già bảo, thảo nguyên không sói thì người Mông Cổ chết vì dịch bệnh từ lâu.  Thảo nguyên Ơlon cỏ mượt nước trong là nhờ sói.  Không có sói, thảo nguyên Ơlon không thể phát triển chăn nuôi như ngày nay.  Một số công xã phía nam diệt hết sói, đồng cỏ cũng đi tong, chăn nuôi không thể khởi sắc...
Bao Thuận Quý trầm ngâm.  Ba con ngựa lên đỉnh dốc, trảng cỏ dưới chân dốc xanh mượt, hương cỏ hương hoa và cả mùi cỏ mục theo gió bay tới.  Con bách linh như đứng im giữa trời, bỗng rơi thẳng đứng xuống trảng cỏ, rất nhiều con bách linh khác lại từ trảng cỏ bay lên tận trời xanh, xoè cánh dừng lại giữa trời đối đáp véo von.
Ulichi hít một hơi dài, nói: Xem kìa, trảng cỏ đẹp quá, y hệt nghìn năm về trước.  Đây là trảng cỏ thiên nhiên đẹp nhất Trung Quốc.  Cuộc chiến bảo vệ đồng cỏ giữa người và sói hàng nghìn năm, mới để lại cho chúng ta trảng cỏ nguyên sơ như thế này, nó không được biến mất trong tay chúng ta.
Trương Kế Nguyên nói: Bác nên mở lớp cho số thanh niên trí thức, dạy cho họ thảo nguyên học và sói học.
Ông Ulichi buồn rầu, nói: Tôi là cán bộ về vườn, tư cách đâu mà mở lớp!  Các cậu hãy học dân du mục, họ hiểu biết hơn tôi nhiều.
Lại qua một con đèo nữa, cuối cùng Bao Thuận Quý mở miệng: Lão U này, không thể phủ nhận tình cảm của ông đối với thảo nguyên, càng không thể phủ nhận thành tích mười mấy năm nay của ông.  Nhưng tư tưởng ông đã lỗi thời, ông kể toàn chuyện cũ.  Thời buổi bây giờ khác rồi, thời Trung Quốc có bom nguyên tử mà còn dừng lại ở những vấn đề của thời đại nguyên thủy là rách việc rồi.  Tôi cũng suy nghĩ nhiều khi về mục trường này.  Mục trường chúng ta rộng hơn một huyện nội địa, nhưng dân số thì chưa đầy một nghìn, chưa đông bằng một thôn.  Lãng phí quá!  Muốn làm ra của cải cho đảng và nhà nước, dứt khoát phải kết thúc cuộc sống du mục nguyên thủy lạc hậu này.  Cách đây ít hôm tôi có làm một cuộc điều tra, phía nam mục trường ta có một số khoảnh đất đen, khoảnh vài nghìn mẫu, khoảnh trên vạn mẫu.  Tôi dùng xẻng đào thử, đất ở đó rất dày, chừng hai thước.  Đất thế mà để chăn nuôi thì phí quá.  Khi lên Minh (huyện) họp, tôi có tranh thủ ý kiến của một chuyên gia về nông nghiệp, ông ta bảo đất ấy hoàn toàn có thể trồng lúa mạch, chỉ cần diện tích không rộng, khai khẩn quy mô chỉ vài trăm mẫu, vài nghìn mẫu thì không bị sa mạc hóa.
Bao Thuận Quý thấy Ulichi không nói gì, lại nói tiếp: Tôi đã điều tra nguồn nước.  Nước ở đó không có vấn đề, đào một con mương nhỏ là có nước tưới ruộng.  Mục trường ta có bao nhiêu là phân bò phân cừu, đều là phân cao cấp.  Tôi dám nói rằng, nếu ta trông tiểu mạch ở đó, ngay năm đầu tiên sản lượng sẽ trên trung bình.  Không quá vài năm, giá trị sản phẩm nông nghiệp của mục trường ta sẽ vượt giá trị chăn nuôi.  Khi ấy, không những có thể tự túc lương thực và thức ăn gia súc, mà còn có thể chi viện cho đất nước.  Hiện nay lương thực trong nước căng thẳng, quê tôi nhà nào cũng thiếu ăn ba tháng.  Về mục trường, tôi thấy đất đen bỏ hoang, một năm gia súc chỉ ăn ở đấy có hơn một tháng cỏ thì tôi xót ruột lắm.  Thoạt tiên tôi định vỡ mấy mảnh để thí nghiệm, thành công thì làm tới.  Nghe nói mấy công xã phía nam thiếu bãi chăn, không duy trì được chăn nuôi, họ quyết định tách ra một phần đất làm nông nghiệp.  Tôi nghĩ, đó mới là lối thoát của thảo nguyên Mông Cổ.
Ông Ulichi biến sắc mặt, thở dài: Tôi đã biết từ lâu sẽ có ngày như thế.  Người quê ông không quan tâm sức tải của đồng cỏ, ra sức tăng số đầu gia súc, giết sói vô tội vạ, đến nỗi bãi chăn cỏ không mọc, biến thành ruộng lúa.  Tôi biết, mấy chục năm trước quê ông là vùng chăn nuôi, chuyển thành vùng nông nghiệp mới chỉ mười mấy năm nay, nhưng nhà nào cũng thiếu ăn.  Đây đã là vùng biên, tôi hỏi ông, mở theo hướng nào để biến cái mục trường đẹp đẽ này thành vùng nông nghiệp như quê ông?  Diện tích bị sa mạc hoá ở Tân Cương lớn hơn một tỉnh dưới xuôi, Gôbi hoàn toàn không một bóng người, ông bảo có lãng phí đất không?
Bao Thuận Quý nói: Điều này xin ông yên tâm.  Tôi sẽ rút kinh nghiệm quê tôi, phân biệt rạch ròi chỗ nào nên chỗ nào không nên khai khẩn.  Nông nghiệp tất không được, chăn nuôi tất cũng không được.  Nửa làm ruộng nửa chăn thả là tốt nhất.  Tôi sẽ gắng sức bảo vệ bãi chăn, phát triển chăn nuôi.  Không có chăn nuôi, nông nghiệp sẽ thiếu phân bón.  Lúa tốt vì phân, không có phân, làm sao có sản lượng?
Ulichi nổi cáu: Nông dân mà thấy đất này thì có trời ngăn.  Cứ cho là đời ông ngăn được, nhưng đời sau có ngăn nổi không?
Bao Thuận Quý nói: Đời nào có việc đời ấy, đời sau tôi không quản nổi.
Ulichi hỏi: Vậy ông vẫn diệt sói chứ?
Bao Thuận Quý nói: Chính vì ông không kiên quyết nên mới sai lầm lớn.  Tôi không thể đi theo vết chân ông.  Nếu như lại để sói hạ sát đàn ngựa nữa, tôi cũng về vườn như ông.
Đã nhìn thấy khói bếp trên các nóc lều.  Bao Thuận Quý nói: Mấy người trên mục trường bộ cũng bụng dạ hẹp hòi, cho ông con ngựa già, mất hết thì giờ.  Rồi quay lại bảo Trương Kế Nguyên: Chú Nguyên, chú đổi cho ông U một con ngựa tốt, nói với Batu là tôi bảo thế.
Trương Kế Nguyên nói: Về tới đại đội không ai để ông trưởng bãi cưỡi con ngựa tồi!
Ba Thuận Quý nói: Tôi nhiều việc quá, xin đi trước.  Tôi đợi ông ở nhà ông Pilich, ông cứ tà tà không vội.  Nói xong, ông ta lỏng dây cương, con ngựa lao đi.
Trương Kế Nguyên gò cương đi bên con ngựa bước thủng thẳng, nói với Ulichi: Ông Quý đối xử với ông tốt đấy.  Cháu nghe một ông trên mục trường bộ nói, ông ấy mấy lần điện thoại lên trên, đề nghị vẫn để ông trong ban lãnh đạo mục trường.  Có điều ông ấy là con nhà lính, tác phong ít nhiều nhiễm thói quân phiệt, ông đừng giận ông ấy.
Ông Ulichi nói: Ông Quý nhiệt tình công tác, đã nói là làm, luôn đứng trên tuyến đầu, nếu như ở vùng nông nghiệp thì ông ta là cán bộ giỏi.  Nhưng về vùng chăn nuôi thì ông ấy càng hăng hái, thảo nguyên càng nguy hiểm.
Trương Kế Nguyên nói: Nếu như lúc cháu mới lên thảo nguyên, nhất định cháu ủng hộ quan điểm của ông Quý.  Nông thôn dưới xuôi rất nhiều người chết đói, còn thảo nguyên thì bấy nhiêu đất bỏ không.  Rất nhiều người trong đám thanh niên trí thức ủng hộ ông Quý.  Nay thì cháu không nhìn vấn đề như thế nữa.  Cháu cũng cho rằng ông có tầm nhìn xa.  Tộc nông canh không hiểu sức tải gia súc của thảo nguyên, không hiểu sức tải về người của đất đai, càng không hiểu quan hệ giữa sinh mạng lớn và sinh mạng bé.  Trần Trận nói, hàng trăm năm nay thảo nguyên có một logic đơn giản, phù hợp với quy luật phát triển khách quan.  Cậu ta cho rằng chính sách thảo nguyên của nhà Mãn Thanh thời kỳ đầu và giữa rất sáng suốt, không cho nhiều người thâm nhập thảo nguyên, nếu không sẽ phải trả với cái giá rất đắt.
Ulichi rất khoái cái từ "lôgic thảo nguyên", nhẩm mấy lượt cho thuộc.  Ông nói tiếp - Thời kỳ cuối, chính sách thảo nguyên không cản nổi áp lực dân số, việc thực hiện bị lơ là, thảo nguyên co dần lại, sau đó lại co về phía tây bắc, tiếp nối với sa mạc Gôbi.  Nếu như bắc Trường Thành trở thành sa mạc thì Bắc Kinh sẽ ra sao, người Mông Cổ cũng sốt ruột.  Xưa kia Bắc Kinh là thủ đô của người Mông Cổ, cũng là thủ đô của thế giới ấy...
Trương Kế Nguyên thấy đàn ngựa đang uống nước ở một cái giếng liền cho ngựa chạy tới.  Cậu muốn đổi cho ông Ulichi một con ngựa tốt.

________Hết chương 17________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:52:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18

Giấc mộng thống trị toàn chấu Á của hai triều Hán Đương đã được Hốt Tất Liệt và Thiết Mộc Nhĩ Hoàn Dịch Đốc - Hoàng đế triều thế kỷ XIII - XIV vì lợi ích của Trung Quốc cổ xưa, thực hiện, biến Bắc Kinh thành thủ đô mẫu quốc Nga La Tư, Tueckixtan, Ba Tư, Tiểu Á, Cao Ly, Tây Tạng, Đông Dương.
....
Một chủng tộc thống trị người khác, một dân tộc dựng nên đế quốc, không nhiều.  Người Đột Quyết - Mông Cổ có thể sánh vai với người La Mã.

                                                                                                      (Pháp) Pierre Renouvin "Đế quốc thảo nguyên"

Trần Trận luôn tay khuấy nồi cháo thịt đặc quánh, mùi sữa, mùi thịt và mùi kê ngào ngạt, khiến đàn chó lớn chó nhỏ ngoài cửa rên ư ử.  Trần Trận nấu nồi cháo này cho sói con.  Cách nấu cậu học từ Caxumai, chuyên bồi dưỡng chó con.  Trên thảo nguyên, chó con trước và sau khi cai sữa đều phải lập tức cho ăn cháo thịt nấu với sữa.  Caxumai bảo đó là bí quyết khiến chó mau lớn.  Con chó khoẻ mạnh to cao hay không là ở chỗ trước và sau khi cai sữa trong khoảng ba bốn tháng, phải cho ăn thịt tốt, thời gian này con chó phát triển bộ xương, sau đó ăn tốt đến mấy cũng không lớn nữa.  Con nào được nuôi dưỡng đặc biệt tốt, lớn gấp đôi con được nuôi bình thường.  Chó khi còn nhỏ nuôi không tốt, sau này không đánh nổi sói.
Một bận trong khi cả nhóm khuân đá xây chuồng, Caxumai trỏ một con chó vừa gầy vừa thấp, lông xơ xác, bảo Trần Trận: Nó với con Balua cùng một mẹ sinh ra, giờ khác nhau một trời một vực.  Quả Trần Trận không dám tin chó cùng một mẹ mà tầm vóc lại có sự khác biệt như Võ Tòng và Võ Đại Lang.  Trên thảo nguyên sói từng đàn, chó chỉ tốt giống chưa đủ, mà còn phải chăm sóc nuôi nấng tốt.  Vì vậy, ngay từ đầu cậu đã rất cẩn thận tiếp thu toàn bộ kinh nghiệm nuôi chó của Caxumai để nuôi con sói con.
Cậu vẫn còn nhớ Caxumai nói thế này: Sau khi cai sữa, phụ nữ thảo nguyên và sói thảo nguyên đua nhau nuôi con.  Sói mẹ ra sức bắt chuột, rái cá cho sói con ăn, lại còn ra sức dạy sói con bắt chuột lớn.  Sói mẹ là những bà mẹ tuyệt vời.  Không bếp, không nước, không nồi niêu để nấu cháo thịt cho con, nhưng cái miệng sói mẹ còn siêu hơn nồi gang của người.  Răng, dạ dày và nước bọt sói mẹ đã biến thịt chuột, thịt rái cá thành một thứ cháo dừ, nóng hôi hổi nuôi sói con.  Sói con rất thích loại cháo này, ăn vào, chúng lớn nhanh như cỏ xuân.
Phụ nữ thảo nguyên phải nhờ vào chó để lấy công điểm gác đêm, phải tận tâm cần mẫn hơn sói mẹ mới ổn.  Trên thảo nguyên, phụ nữ nào lười thì chó gầy, phụ nữ nào chăm thì chó béo khoẻ.  Lên thảo nguyên, chỉ nhìn chó béo gầy là biết phụ nữ nhà ấy lười hay đảm.  Trần Trận luôn miệng khen con Balua khiến Caxumai phổng mũi.  Cậu thích nuôi một con chó to khoẻ như con Balua.  Giờ đây cậu lại muốn nuôi một con sói to lớn hơn  chính mẹ nó nuôi.
Từ khi nuôi con sói con, Trần Trận đã thay đổi rất nhiều thói quen.  Trương Kế Nguyên nói kháy rằng Trần Trận tự dưng chăm chỉ hơn, chi li chẳng kém các bà phụ nữ.  Trần Trận cũng cảm thấy cậu cẩn thận chu đáo hơn sói mẹ và Caxumai.  Với điều kiện phải làm hết việc nhà, Cao Kiện Trung đồng ý cho cậu vắt sữa bò.  Ngày nào cậu cũng thái thịt cho sói con, dù đã có sữa bò nhưng như thế chưa đủ, còn phải bổ sung cãni cho nó phát triển xương.  Hồi nhỏ cậu được mẹ cho ăn cốm cãni nên có đôi chút kinh nghiệm.  Cậu trộn thịt với xương sụn của bò hoặc cừu.  Có lần cậu lên phòng y tế mục trường kiếm được một lọ cốm canxi, mỗi ngày dùng chày gỗ tán nhỏ một viên trộn vào thịt.  Chuyện này thì sói mẹ và Caxumai không thể nghĩ tới.  Sợ không đủ chất, Trần Trận còn cho vào cháo một ít dầu thực vật và muối ăn.  Cháo thơm đến nỗi cậu cũng muốn ăn một bát, nhưng còn ba con chó, cậu đành nuốt nước bọt.
Con sói con lớn rất nhanh, bụng lúc nào cũng tròn căng, bóng nhẫy, tươi tỉnh như ông Di Lặc, lớn phổng như nấm Trương Gia Khẩu.  Nó đã dài hơn lũ chó con nửa cái mũi.
Lần đầu tiên nuôi sói bằng cháo thịt, Trần Trận sợ ăn toàn thịt, con sói sẽ không ăn lương thực.  Gọi là cháo thịt nhưng thành phần chính vẫn là kê.  Kết quả đáng ngạc nhiên, khi cậu đưa chậu cháo âm ấm đến trước mặt con sói, nó vục đầu ăn như rồng cuốn, vừa ăn vừa thở phì phò, vừa rên ư ử khoái trá, cho đến khi ăn hết liếm sạch mới ngửng đầu lên.  Trần Trận không ngờ con sói lại ăn lương thực, nhưng cậu phát hiện những hạt kê không thấm nước thịt và sữa bò, con sói không đụng tới.
Món cháo thịt bát bửu đã chín, Trần Trận cất trên chạn kề bên mép cửa trong lều.  Cậu khẽ hé cửa lách ra thật nhanh rồi sập lại.  Trừ Nhị Lang, đàn chó kể cả con sói, ùa tới.  Con Vàng và con Ilua chồm hai chân trước lên ngực cậu, con Vàng còn liếm mặt cậu, há rộng miệng tỏ ra thân thiện, ba con cún thì ra sức giằng xé gấu quần cậu.   Còn sói con thì xông thẳng tới khe cửa mà hít lấy hít để mùi cháo thơm, còn địhh cạy cửa để chui vào.
Trần Trận cảm tháy cậu như một ông bố độc thân, nhưng rất nhiều con.  Đứng trước những đứa con trai có gái có, cậu không biết nên như thế nào để chiếu cố đứa này mà không tủi thân đứa khác.  Cậu thích con sói, nhưng cậu cũng yêu tất cả những cục cưng do chính cậu nuôi dưỡng, con nào bị thua thiệt cậu đều thương.  Cậu không thể cho con sói ăn trước.  Phải vỗ yên đàn chó mới được việc.
Trần Trận kẹp nách hai con Ilua và con Vàng quay tròn mấy vòng.  Đây là phần thưởng thân thiết nhất về tình cảm cậu dành cho hai con chó.  Chúng sướng quá liếm mặt cậu bóng loáng. Tiếp theo, hai tay luồn dưới nách, cậu giơ từng con cún lên cao rồi đặt xuống đất, vuốt đầu vuốt lưng vuốt lông một hồi.  Cách vỗ về này cậu mới bổ sung từ khi nuôi con sói.  Trước khi có con sói, không cần quá mức như thế.  Trước đây chỉ khi nào muốn đùa với chúng thì cậu mới tới.  Từ sau khi có con sói, cậu phải tỏ ra luôn yêu thích lũ chó để chúng không tị nạnh mà cắn chết con sói. Trần Trận không ngờ nuôi một con sói trên thảo nguyên mà lúc nào cũng như bên thùng thuốc nổ, ngày nào cũng nơm nớp.  Những ngày này, bận bịu công việc đỡ đẻ và chăm sóc cừu non, mục dân rất ít la cà chuyện gẫu, phần lớn chưa biết cậu đang nuôi một con sói, mà dù đã biết nhưng chưa ai đến xem.  Nhưng sau này thì sao?  Cưỡi hổ xuống được đã khó, cưỡi sói xuống được càng khó hơn.
Thời tiết ấm dần lên.  Thịt đông lạnh qua mùa đông đã được thái miếng hong khô, xương chưa ăn hết cũng được lọc thịt, phơi khô.  Những xương lẫn thịt còn lại, phần thịt bên ngoài đã khô, tuy ngửi có mùi thum thủm như lạc thối, nhưng vẫn là thức ăn của chó lúc cuối xuân.  Trần Trận đi về phía sọt để thịt, đàn chó theo sau, lúc này con Nhị Lang đi đầu, Trần Trận kẹp cái đầu to bự của nó vào bên sườn cậu.  Con Nhị Lang đã hiểu đôi chút tính tình của người, biết là sắp được ăn, liền gãi đầu vào sườn cậu cảm ơn.  Trần Trận lấy ra chỗ thịt lẫn xương, chia cho từng con theo khẩu phần, xong xuôi, cậu chạy ù tới chỗ con sói.
Con sói vẫn đang chạy quanh, còn dùng mõm cạy cửa.  Sau một tháng, nó đã dài hơn một thước, bốn chân cứng cáp ra vẻ sói thực thụ.  Nổi bật là màng xanh trên mắt đã rút hết, để lộ cặp mắt đen với con ngươi màu vàng, mõm dài ra, tai không còn giống tai mèo, cũng bắt đầu dài ra như hai chiếc môi hình tam giác dựng trên đầu, đầu vẫn tròn xoay như nửa quả bóng úp lên.  Con sói sống chung với đàn chó đã mười mấy ngày hoàn toàn tự do, nó chơi đùa cùng đàn chó, nhưng đến đêm khi không có người trông coi, Trần Trận vẫn nhốt riêng con sói dưới hố, phòng nó bỏ đi.  Con Vàng và Con Ilua cũng đành chấp nhận kẻ hoang dã, nhưng không gần gũi.  Con sói lại gần bập vào vú để ti sữa, con Ilua liền dùng mõm hất nó lộn mấy vòng.  Chỉ con Nhị Lang là tỏ ra hữu nghị với con sói.  Mặc cho con sói trèo lên bụng, cắn tai, nhảy nhót lung tung  trên lưng trên đầu, thậm chí phóng uế bừa bãi, cũng không thèm để ý.  Nhị Lang còn thường xuyên liếm con sói, thi thoảng còn dùng cái mũi dài đẩy con sói ngã mà liếm bụng y như một ông bố.  Con sói như sống trong gia đình nhà sói nhưng Trần Trận nhận thấy trước khi mở mắt, nó đã đánh hơi thấy đây không phải nhà của nó.  Mũi sói tinh hơn mũi người.
Trần Trận bế con sói lên, nhưng khi con sói đang thèm ăn, tốt nhất không nên gần gũi nó.  Cậu mở cửa bế con sói vào đặt xuống đất trước lò.  Con sói nhanh chóng thích ứng ánh sáng trong lều Mông Cổ, nhìn chằm chằm vào cái chậu nhôm trên chạn bát.  Trần Trận lấy ngón tay thử độ nóng của cháo. Sói alf con vật sợ nóng nhất.  Có lần con sói bị bỏng cháo, nó cụp đuôi, người run bắn, vội chạy ra ăn tuyết.  Mấy ngày liền nó sợ cái chậu, sau đó Trần Trận thay một cái chậu khác, nó mới chịu ăn.
Để tăng cường khả năng phản xạ có điều kiện, Trần Trận gọi rành rẽ từng tiếng: Sói con ăn cơm nào!  Tiếng gọi vừa dứt, sói con bật dậy khi nghe các tiếng "ăn cơm", nhạy hơn phản ứng của chó săn khi nghe khẩu lệnh.  Trần Trận vội đặt chậu cơm xuống đất rồi ngồi cách khoảng hai bước, dùng xẻng giữ miệng chậu, đề phòng con sói làm lật.  Con sói cắm đầu ăn ngốn ngấu.
Trên đời, sói mơi thực là coi miếng ăn bằng trời.  So với sói, câu "coi miếng ăn bằng trời" của người chỉ là ngoa ngôn.  Con người gặp năm mất mừa mới có cái kiểu ăn dữ dằn như sói.  Vậy mà con sói này bữa nào cũng ăn đủ ăn ngon mà nó vẫn hung hãn như sói đói, làm như không ăn lấy được như thế thì trời sập không bằng.  Sói khi ăn, bố mẹ anh em nội ngoại nhà sói đừng có lại gần.  Con sói này không hề có chút cảm tình với cậu, dù rằng ngày nào cậu cũng cần mẫn lo liệu bữa ăn cho nó.  Nó coi cậu là kẻ thù chỉ  rình cướp cơm hoặc cướp tính mạng nó.
Một tháng nay có tiến triển đôi chút trong việc tiếp cận con sói.  Cậu đã có thể sờ mó, bế ẵm, đội nó trên đầu, cho đưng trên vai hoặc mũi cụng mũi, thọc ngón tay vào miệng nó.  Nhưng khi nó ăn thì tuyệt đối không được đụng vào, chỉ ngồi một chỗ rất xa mà nhìn.  Chỉ cần cậu cựa quậy là nó nổi nóng, bộ dạng cực kỳ hung dữ, lông dựng lên, tiếng gừ khằn khàn uy hiếp, rồi nhìn nhún thấp hai chân sau, bất kể ất giáp, chuẩn bị vồ.  Để sửa dần cho nó những tập tính ấy, Trần Trận từng dùng chổi tết bằng thân cao lương chải lông cho nó, nhưng con sói đã ngoạm lấy cây chổi mà giằng xé.  Cái chổi bật khỏi tay, Trần Trận sợ quá lùi mấy bước.  Con sói làm như bắt được cừu non, ngoạm chặt sống chổi mà lắc, mà điên cuồng cắn xé lòi cả thân cây cao lương.  Trần Trận chưa bỏ cuộc, cậu thử đi thử lại mấy lần, lần nào cũng vậy, con sói coi cây chổi như kẻ thù không đợi trời chung, cắn xé tan tành.  Cái chổi Cao Kiện Trung mới mua chỉ còn lại trơ trọi cái cán, khiến cậu ta ức quá vụt con sói một gậy ngã lăn chiêng.  Từ đó, Trần Trận đành từ bỏ ý định xoa đầu con sói khi nó ăn.
Lượng cháo lần này gấp đôi những lần trước.  Trần Trận hi vọng con sói ăn không hết, cậu sẽ trộn chỗ ăn thừa với sữa và thịt vụn cho lũ cún, nhưng thấy con sói ăn như điên, cậu nghĩ chắc chẳng còn mấy tí.  Từ cách ăn của con sói, cậu thấy nó kế thừa hoàn toàn tập tính của sói thảo nguyên.  Sói có tác phong lính chiến, ăn uống như đánh giặc.   Hoặc giả người lính thực thụ có tác phong sói, nếu không ăn ngốn ngấu, rất có thể miếng sau đã ăn ở thế giới bên kia vì tình hình xoay chuyển đột ngột.  Trần Trận nhìn con sói ăn mà trong lòng xót xa.  Cậu như trông thấy một kẻ lang thang đầu bù tóc rối ăn như rồng cuốn lối ăn ấy mách bảo cậu thân thế và cảnh ngộ người ấy như thế nào.  Nếu không phải đổi mạng lấy cái ăn, thì trên thảo nguyên Mông Cổ khắc nghiệt hổ báo còn không sống nổi, loài sói làm sao trụ lại?
Do vậy Trần Trận nhìn thấy một khía cạnh khác của cuộc sống gian nan của sói thảo nguyên.  Khả năng mắn đẻ của sói thảo nguyên chỉ chiếm chưa đầy một phần mười đảm bảo sự tồn tại của loài sói.  Ông già Pilich nói, đôi khi trời trừng phạt sói, bố mẹ anh em nội ngoại không nhận nhau, một trận tuyết xuống bất thình lình sâu ngập gối là sói chết rét chết đói phần lớn; một trận cuồng phong liệt hỏa cũng đủ chết cả đàn.  Đàn sói đông đúc đói khát từ nơi khác đến cũng giết chết quá nửa đàn sói bản địa.  Lại còn mùa xuân đào bắt sói con, mùa thu đánh bẫy, đầu đông vây bắt, cuối đông săn bắn, may mắn thoát chết chỉ là số ít.  Người già nói, sói thảo nguyên đều là hậu duệ của sói đói.  Đàn sói no đủ ban đầu đã bị đàn sói đói đánh bại sau đó.  Thảo nguyên Mông Cổ xưa nay là chiến trường, chỉ có những con sói khoẻ mạnh nhất, thông minh nhất, khi no biết nhớ lức đói, mới có thể sống sót.
Con sói nhào vô chậu thức ăn, Trần Trận càng nhìn càng thấy ý nghĩa sống còn của thực phẩm đối với loài sói.  Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, dù nòi giống tốt, nhưng không giành giật được cái ăn, không thấm vào xương tủy sự uy hiếp của cái đói, thì con sói chỉ như Võ Đại Lang, bị đào thải không thương tiếc.
Trần Trận dần dà phát hiện sói Mông Cổ có nhiều tín điều thiêng liêng về sinh tồn, mà đổi mạng lấy ăn, tự trọng, độc lập là căn bản nhất.  Khi cho con sói ăn, Trần Trận không bao giờ có ý nghĩ ban ơn như khi cho chó ăn.  Con sói không tiếp nhận tình cảm đó.  Nó hoàn toàn không có ý thức được nuôi dưỡng.  Nó không  như lũ chó vẫy đuôi rối rít khi chủ bê chậu thức ăn tới.  Con sói không hề biết ơn Trần Trận đã nuôi dưỡng nó, cũng không thừa nhận chậu thức ăn là của cho.  Nó cho rằng, chậu thức ăn là do nó giành được, cướp được nên sống chết bảo vệ, thậm chí vì thế mà bỏ mạng.  Trong mối quan hệ giữa Trần Trận và con sói, không hề có chuyện dạy dỗ.  Con sói chỉ là nhất thời bị giam cầm mà không phải là được nuôi nấng.  Trong tính cách đổi mạng lấy cái ăn, con sói như được tinh thần độc lập tự chủ nâng đỡ.  Trần Trận cảm thấy gai sống lưng, cậu không biết còn khả năng giữ con sói lại để nuôi lớn hay không?
Cuối cùng, Trần Trận quyết định từ bỏ ý muốn vỗ về con sói khi nó đang ăn, cậu tôn trọng thiên tính cao quý của con sói.  Từ đó mỗi khi cho sói ăn, cậu ngồi yên cách nó ba bước, để con sói khi ăn không bị quấy nhiễu.  Cậu lặng nhìn con sói ăn, chân thành thụ giáo thiên tính của loài sói.
Chỉ một loáng, cái bụng con sói căng phồng chỉ chực nứt, tốc độ ăn giảm mạnh, nhưng nó vẫn cắm đầu ăn.  Trần Trận phát hiện con sói lúc đã no thì bắt đầu chọn thức ăn, trước tiên là thịt vụn, sau đến những mẩu thịt li ti.  Cái lưỡi của nó như một chiếc thìa, khéo léo xúc từng mẫu thịt nhỏ đưa lên miệng,  lát sau, chỗ cháo thịt màu tạp đã trở lại màu vàng nhạt của cháo gạo.  Trần Trận nhìn kỹ, con sói vẫn dùng đầu lưỡi xúc thức ăn.  Nhìn kỹ hơn nữa, cậu rất mừng.  Con sói vẫn chén nốt những ti thịt mỡ, ti sụn trong cháo gạo.  Con sói vừa chọn vừa dùng mõm cày đáy chậu như lợn, cho vào miệng tất cả những mẫu thịt vụn, không sót mẫu nào, nhưng vẫn chưa ngẩng đầu lên.  Trần Trận vươn cổ ra xem con sói còn có ý gì và suýt nữa cậu reo lên: Nó dùng lưỡi dằn cháo xuống cho sữa nổi lên chảy vào miệng.  Sữa cũng là món sói ưa thích.  Khi con sói ngẩng lên, món cháo thịt bát bửu thơm phức đã không còn thịt, không còn sữa, ép cạn nước chỉ còn bã, mùi thơm biến mất.  Trần Trận cười phá lên vì tức, cậu không ngờ con sói tham lam và thông minh đến thế.
Không còn cách nào khác, Trần Trận thêm vào chậu một ít thịt vụn, ít sữa để lại hồi nãy, đổ vào một ít nước ấm, hi vọng được món cháo loãng, nhưng cậu khuấy đến mấy cũng không thành cháo mà chỉ như cơm nát chan canh.  Cậu bê châuj cơm nát ra khỏi lều, đổ vào chậu thức ăn của lũ chó.  Lũ chó ùa tới nhưng lập tức rên rỉ không bằng lòng.  Trần Trận thấy nghề chăn nuôi cũng lắm gian nan, nuôi chó là công việc khổ sai trong cái nghề này, thêm con sói, công việc càng vất vả.  Mà tất cả đều do cậu tự nguyện.
Con sói bước không nổi vì no.  Nó nằm phục trên mặt đất nhìn lũ chó ăn chỗ cháo thừa.  Con sói khi đã no thì rất dễ bảo. Trần Trận bước lại gần, cất tiếng gọi thân thiết: Sói, sói.  Con sói lật mình nằm ngửa, bốn chân co lại, phơi cái bụng ra, tinh nghịch nhìn lên.  Cậu bế nó lên, hai tay luồn dưới nách giơ nó lên thật cao bốn năm lượt.  Con sói vừa sợ vừa thích, miệng gừ gừ, nhưng hai chân sau kẹp chặt đuôi, vẫn còn run nhưng nó đã quen với cử chỉ này của cậu.  Hình như nó biết đó là biểu thị tình bạn.  Trần Trận còn đặt nó lên đỉnh đầu, lên vai, nhưng con sói sợ, chân bám chặt cổ áo cậu.
Trở về chỗ cũ, Trần Trận ngồi duỗi hai chân, đặt con sói lên rồi matxa da bụng cho nó.  Chó mẹ và sói mẹ thường làm như vậy giúp con tiêu hóa sau bữa ăn, giờ là công việc của cậu.  Trần Trận cảm thấy công việc này rất vui, dùng lòng bàn tay day nhẹ da bụng con sói, nghe tiếng rên khoan khoái cùng vwosi tiếng ợ hơi của nó.  Con sói lúc ăn thì dữ dằn, giờ dễ bảo như con cún.  Một chân trước của nó túm một ngón tay Trần Trận mà liếm, còn cắn nhẹ bằng những chiếc răng bé tí.  Ánh mắt con sói cũng rất dịu dàng, dễ chịu, ánh mắt như cười, coi Trần Trận như người mẹ kế.
Vất vả có thừa, nhưng sói đem lại cho Trần Trận niềm vui.  Lúc này, cậu bỗng nghĩ đến thời xa xưa hoặc một nơi nào đó của hiện tại, sói mẹ dịu dàng liếm bụng cho "thằng sói con", còn "thằng sói con" đang vui vẻ ngậm ngón chân của nó.  Một đàn sói lớn nhỏ đứng vây quanh thản nhiên nhìn thằng sói béo tốt, lại còng đem thịt đén cho nó ăn.  Xưa nay có biết bao sói mẹ nuôi trẻ em, còn con người thì đã nuôi bao nhiêu sói con?  Truyền thuyết lạ lùng về sói bao năm nay, bây giờ cậu mới là người trong cuộc, tận mắt chứng kiến khía cạnh lương thiện ôn hòa của loài sói.  Xúc động sâu sắc, cậu mong được thay mặt những người con của sói, bất kể đó là cổ Hung Nô, Cao Xa, Đột Quyết hoặc cổ La Mã, Ấn Độ và Liên Xô, báo cho họ biết sự kính nể của nhân loại.  Cậu cúi xuống dùng mũi cụng vào cái mũi ẩm ướt của con sói.  Con sói liếm má cậu như chó khiến cậu rất vui và cảm động.  Đây là lần đầu tiên con sói tỏ vẻ tín nhiệm cậu.  Tình cảm giữa cậu và sói đã tiến thêm một bước.  Cậu từ từ hưởng thụ tình hữu nghị thuần khiết này, cảm thấy sính mạng của cậu vươn dài dài mãi tới thời xưa, vì vậy trong khoảnh khắc cậu thấy mình già đi nhiều nhưng vẫn giữ được tính trẻ con của nhân loại thuở ban sơ.
Chỉ mỗi chuyện khiến cậu chưa yên tâm, con sói này không nhặt từ ngoài đồng đem về, cũng không phải một con sói mồ côi, mẹ nó đã chết vì bệnh tật hay trong chiến đấu.  Nếu là con sói mồ côi thì việc nuôi dưỡng nó là xuất phát từ tình thương.  Đằng này cậu nuôi nó hoàn toàn có tính cưỡng bức, là một ý đồ của con người.  Vì mục đích tìm hiểu và nghiên cứu, cậu đã làm ngược lại câu chuyện đẹp đẽ giữa người và sói lưu truyền hco tới bây giờ.  Cậu lúc nào cũng lo con sói mẹ trả thù.  Đây có lẽ là sự khắc nghiệt và bất khả kháng trong tiến trình khoa học và văn minh?  Hãy để cho ông trời giải quyết những chuyện đó.  Ý cậu là từ đó mà xâm nhập lĩnh vực bái vật của các dân tộc thảo nguyên.
Nhị Lang đã ăn hết xuất của nó.  Nó chậm rãi đi về phía Trần Trận.  Nhị Lang mỗi khi trông thấy Trần Trận mát xa cho con sói, liền tới thật gần nhìn cả hai bằng ánh mắt tò mò.  Có khi nó còn liếm bụng con sói.  Trần Trận giơ tay xoa đầu nó, hình như nó cười.  Từ khi nuôi con sói, khoảng cách giữa Trần Trận và nó đột nhiên rút ngắn, chẳng lẽ trong cậu cũng có tính hoang dã và tính sói?  Nó đã ngửi thấy rồi đấy thôi.  Nếu mà như thế thì hay thật; Một người có tính sói hoang dã, một con chó có tính sói hoang dã, cộng với một con sói thuần chủng, cùng sống trên thảo nguyên hoang dã và đầy sói tính.  Vậy độ tuổi về tình cảm của cậu đột nhiên cao chồng chất.  Cậu càng có cảm giác chân thực từ viễn cổ tới hiện đại, cảm giác viễn cổ càng chân thực, cậu càng cảm thấy sinh mệnh của mình là bất tử.  Chẳng lẽ con người hiện đại cứ thích xông vào hoàn cảnh nguyên thủy để khám phá những điều kỳ lạ, chẳng lẽ trong tiềm thức "kéo dài" tuổi thọ từ hướng ngược lại?  Cuộc sống của cậu bỗng trở nên kỳ lạ hơn cả câu chuyện về những đứa con của sói.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:53:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18 (tiếp)

Trần Trận thấy từ khi cậu mê thảo nguyên, những uỷ mị ươn hèn trong người cậu hình như đang giảm đi.  Cậu cảm thấy một dòng máu lạ mang sói tính bắt đầu chảy trong huyết quản.  Sinh mạng trở nên khoẻ khoắn, cuộc sống vô vị trước đây bỗng đầy ý nghĩa.  Cậu thấy mình đã nhận thức lại về sinh mạng và cuộc sống, bắt đầu yêu quý sinh mạng và cuộc sống.  Dần dà cậu hiểu ra rằng vì sao "yêu quý sinh mạng" lại gắn với con sói sắp chết, vì sao Lênin trước phút lâm chung, yêu cầu bà Corupxcaia đọc cho nghe truyệng "tình yêu cuộc sống" của Giác London.  Lênin đi vào giấc ngủ vĩnh hằng khi nghe câu chuyện về cuộc quyết đấu giữa người và sói.  Linh hồn ông có thể được một sói tổ dị tộc dẫn đến chỗ ông Mac.  Ngay cả những bậc vĩ nhân sức sống dồi dào trên thế giới còn phải đến thảo nguyên và sói để tìm sức sống mới, huống chi cậu là một con người bình thường.
Trần Trận dần dà tư duy xa hơn, cậu bỗng nhận ra, chân tướng của sinh mạng không phải ở vận động mà là ở chiến đấu.  Khởi thủy sinh mạng của động vật có vú là hàng triệu con tinh trùng với tinh thần quyết tử vây quanh cái trứng, kẻ trước ngã kẻ sau tiên lên, thây chất đầy tử cung.  Những con chỉ vận động mà không chiến đấu, di chuyển mà không đánh  thì bị đào thải không thương tiếc, bị bài tiết ra ngoài cơ thể cùng với nước tiểu.  Chỉ có một dũng sĩ tinh trùng chiến đấu ngoan cường bước lên xác triệu triệu anh em đồng bào, mới lọt vào trong trứng, cùng trứng kết thành phôi thai - một sinh mạng mới của con người.  Thời gian này, trứng không ngừng tiết dịch, loại bỏ những tinh trùng yếu đuối mất sức chiến đấu.  Sinh mạng do chiến đấu mà có, chiến đấu là bản chất của sinh mạng.  Rất nhiều nền văn minh vĩ đại của các dân tộc nông canh trên thế giới bị tiêu diệt, chính là vì về cơ bản nông nghiệp là lao động trong hòa bình, còn các nghề săn bắn chăn thả, hàng hải, công thương nghiệp từng giờ từng phút chiến đấu quyết liệt trên các mặt trận.  Các dân tộc phát triển nhất trên thế giới hiện nay đều là hậu duệ của các dân tộc du mục, hàng hải và công thương.  Ngay dân tộc Mông Cổ bị hai nước lớn kìm cặp ở Bắc Á, ở sâu trong đại lục nghèo khổ bần hàn, cư dân thưa thớt, nhưng vẫn không bị tiêu diệt, rõ ràng là dân tộc Mông Cổ có sức chiến đấu và sức sống mạnh hơn các dân tộc cổ Ai Cập, cổ Babilon và cổ Ẩn Độ trong lịch sử thế giới.
Con sói bắt đầu cào chân Trần Trận, cậu biết nó sắp phóng uế.  Nó cũng trông thấy Nhị Lang, muốn chơi đùa với Nhị Lang.  Trần Trận buông tay, con sói nhảy xuống đất tè một bãi rồi chạy ra chơi với Nhị Lang.  Nhị Lang vui vẻ nằm uỵch xuống, tình nguyện làm "núi giả" cho sói leo trèo.  Lũ cún cũng muốn trèo lên, nhưng Nhị Lang gạt xuống hết.  Con sói gầm gừ ra vẻ vị chúa tể.  Hai con cún đực đột nhiên giả vờ tấn công con sói, con cắn tai con cắn đuôi.  Cả ba con chó cùng xông lên, đè rập con sói xuống mà cắn xé.  Con sói nổi giận chống lại quyết liệt, một trận ẩu đả diễn ra, bụi bay mù mịt.  Nhưng chỉ lát sau, Trần Trận nghe thấy một con cún đực kêu thảm thiết, chân trước của nó đã toé máu.  Con sói trong lúc vui đùa đã lộ bản chất sói của nó.
Trần Trận quyết định đóng vai trò quan tòa.  Cậu xách gáy con sói đặt xuống trước cái chân bị thương của con cún, giúi mũi nó vào chỗ bị thương, nhưng con sói nhất định không nhận lỗi, tiếp tục nhe răng gầm gào khiến lũ chó sợ quá, nấp sau con Ilua.  Con Ilua nổi giận, liếm qua loa vết thương rồi vừa sủa vừa xông tới cắn con sói.  Trần Trận vội bế con sói lên, cậu sợ, tim đập thình thịch, không biết khi nào hai con chó lớn này cắn chết con sói?  Không lồng không chuồng, nuôi tiểu bá vương này gay go quá.  Cậu vội xoa cổ vỗ về con Ilua cho nó nguôi giận.  Cậu đặt con sói xuống đất, con Ilua không thèm để ý, dẫn ba con cún đi chỗ khác.  Con sói lại trèo lên lưng con Nhị Lang, kỳ lạ là con Nhị Lang lại có phần yêu con sói hơn.
Mãi cho chó ăn, đến bây giờ Trần Trận mới sửa soạn xe bò, chuẩn bị dọn nhà.  Chợt cậu trông thấy ông Pilich kéo cỗ xe bò trên có ít củi đi về phía lều cậu.  Trần Trận vội nhảy xuống xe, đem con sói thả xuống hang, đậy nắp, chèn hòn đá lên.  Tim cậu đập mạnh đến nỗi ước gì có một hòn đá để nén xuống.
Con Vàng và con Ilua dẫn lũ chó cún ra đón ông già.  Trần Trận vội giúp ông dỡ các thứ trên xe, cột bò, đỡ lấy túi đồ nghề thợ mộc trên tay ông.  Mỗi khi chuyển nhà, ông già thường sửa chữa xe cộ giúp đám thanh niên trí thức.  Trần Trận bảo: Bố ơi, từ nay bố không cần sửa xe giúp anh em chúng con.  Công việc này chúng con làm lấy được rồi...
Ông già nói: Sửa qua loa là không xong, lần này đi rất xa, hai ba ngày, đường cho xe bò cũng không có, chỉ một hàn hỏng xe cũng chậm trễ cho cả đội.
Trần Trận nói: Bố vào trong lều uống trà để con dỡ hết các thứ trên những xe cần sửa.
Ông già nói: Trà của các cậu đen ngòm, tôi không uống đâu.  Nói xong, ông già phăm phăm đi tới cái hối nhốt con sói, nói - Để tôi xem con sói cậu nuôi đã.
Trần Trận sợ mất vía, vội ngăn ông già: Bố uống trà đi.  Đừng xem làm gì.
Ông già trợn mắt nạt: Gần một tháng rồi, sao không cho tôi xem?
Trần Trận một liều ba bảy cũng liều, nói: Bố, con định nuôi con này lớn, lai lấy một đàn bec giê.
Ông già lửa giận bừng bừng, nói: Bậy bạ, bậy bạ hết!  Sói nước ngoài có thể cho phối giống với chó nhà, nhưng sói Mông Cổ thì không.  Sói Mông Cổ không bao giờ nhìn nhận chó nhà.  Giờ lại bảo phối giống? Có mà nằm mơ!  Đợi đấy, sói sẽ ăn thịt chó nhà cho mà xem.  Ông già càng nói càng cáu, bộ râu dê rung lên từng sợi: các cậu ngày càng chẳng ra làm sao.  Tôi sống trên thảo nguyên đã hơn 60 năm chưa nghe nói người nuôi sói.  Sói có nuôi được không?  Sói có chịu sống chung với chó không?  So với sói thì chó là cái thứ gì?  Chó ăn phân người, sói ăn xác người.  Chó sực phân người nên là nô lệ của người, sói ăn xác người, là thần linh dẫn linh hồn người lên trời.  Sói và chó khác nhau một trời một vực.  Vậy mà lại ghép đôi?  Nếu như người Mông Cổ ta ghép cho Long Vương người Hán một con lợn nái thì người Hán các cậu sẽ làm gì?  Mạo phạm thần linh, mạo phạm tổ tông người Mông Cổ!  Mạo phạm trời!  Các người rồi sẽ gặp báo ứng, ngay cả lão già ngày rồi cũng gặp báo ứng...
Trần Trận chưa khi nào thấy ông già giận dữ đến thế.  Con sói - thùng thuốc súng nổ rồi.  Tim cậu vỡ ra từng mảnh.  Ông già đã bộc lộ tính cánh sói..  Cậu sợ ông già đá tung hòn đá thì chân bị thương, giận nữa liền đập chết con sói.  Ông già miệng có gang có thép, càng nói càng dữ dằn, không cho ai ngắt lời: Lúc đầu tôi tưởng dám học sinh người Hán các cậu không hiểu luật lệ thảo nguyên, không biết những điều cấm kỵ, muốn có cái gì mới, chơi đùa vài hôm rồi thôi.  Sau đó nghe nói Đanchi cũng nuôi một con, lại còn định cho phối giống với chó nhà, vậy là nuôi đứt đuôi rồi còn gì.  Không được, hôm nay cậu phải xử lý nó trước mặt tôi...
Trần Trận biết mình đã đụng vào chuyện tày trời.  Hàng ngàn năm nay chưa bao giờ thảo nguyên nuôi sói.  Kẻ sĩ thà chịu chết chứ không chịu nhục.  Sói có thể giết có thể thờ nhưng không thể nuôi.  Ở nơi gan ruột của thảo nguyên, đất tổ của người Mông Cổ, nơi thờ phụng trời, thánh địa thờ phụng vật tổ, tông sư, chiến thần, hộ thần của người Mông Cổ, mà một thanh niên người Hán lại nuôi một con sói, thì quả là đại nghịch vô đạo!  Nếu như chuyện này xảy ra vào thời cổ đại, Trần Trận sẽ bị coi là kẻ dị giáo, chắc chắn bị tội bốn ngựa phanh thây rồi cho chó ăn.  Ngay thời bây giờ cũng bị coi là vi phạm chính sách của nhà nước đối với dân tộc thiểu số, tổn thương tình cảm dân tộc của dân thảo nguyên.  Nhưng điều mà Trần Trận sợ nhất là đã làm cho ông Pilich nổi giận, làm tổn thương tình cảm của ông, một ông già Mông Cổ đã dẫn dắt cậu đi sâu vào lĩnh vực tinh thần "tôtem sói" thần bí của người Mông Cổ, và ngay cả cái ổ sói cũng là do ông già chỉ vẽ từng tí mới đào được.  Cậu không còn cách nào bảo vệ quan điểm của mình.  Cậu ấp úng: Bố!  Ông già gạt phắt: Đừng gọi tôi là bố nữa!  Trần Trận van nài: Bố, con sai rồi, đó là con khong hiểu luật lệ Mông Cổ, xúc phạm đến bố... Bố, bố cho con biết phải xử lý với con sói đáng thương như thế nào.  Cậu khóc, nước mắt lã chã, ướt cả con sói và đám cỏ dưới chân.
Ông già sững người, nhìn Trần Trận chăm chú, nhất thời chưa biết nên xử lý như thế nào đối với con sói.  Ông biết rõ Trần Trận nuôi con sói không phải để phối giống, mà vì quá mê thảo nguyên.  Trần Trận là đứa con người Hán do ông chỉ bảo từng li từng tí, cậu ta say mê thảo nguyên hơn cả lớp thanh niên Mông Cổ bây giờ.  Vậy mà chính Trần Trận đã phạm một tội mà ông không thể tha thứ, một việc mà ông chưa từng gặp, chưa từng xử lý.
Ông già ngửa mặt lên trời, than thở: Tôi biết thanh niên người Hán các cậu  không tin thần thánh, không quan tâm tới hồn phách của mình.  Tuy hơn hai năm nay cậu ngày càng thích thảo nguyên và sói, nhưng cậu chưa hiểu tôi.  Tôi già rồi, mỗi năm một yếu.  Thảo nguyên gian khổ, rét buốt.  Người Mông Cổ suốt đời đánh nhau như người rừng, người già Mông Cổ bệnh tật đầy mình, không sống nổi.  Tôi cũng chỉ vài năm nữa là lên chầu trời.  Sao cậu lại nuôi người sẽ dẫn ta lên trời trong một cái ổ chó?  Cậu làm vậy là tôi có tội, trời có thể không nhận linh hồn tôi, mà quảng tôi xuống địa ngục phía dưới sa mạc Gôbi.  Trên thảo nguyên mà ai cũng như cậu đối xử với sói như nô tài thì linh hồn người Mông Cổ đi đâu về đâu?
Trần Trận khẽ khàng giải thích: Bố, con đối xử với sói như nô tài ở chỗ nào? Chính con đã trở thành nô tài thì có.  Con hàng ngày hầu hạ sói chẳng khác hầu hạ các vương công Mông Cổ, vắt sữa cho ăn sữa, nấu cháo cho ăn cháo, ninh thịt cho ăn thịt.  Sợ sói lạnh, sợ sói ốm, sợ sói bị  chó cắn, bị người đánh, sợ bị  đại bàng cắp đi, sợ sói mẹ tha đi, ngủ cũng không ngon giấc.  Ngay cả Cao Kiện Trung cũng bảo con là nô lệ.  Bố biết đấy, con là người Hán sùng bái sói nhất.  Ông trời sẽ thấy, ông trời rất công bằng sẽ không bắt tội bố.
Ông già lại hơi sững.  Ông biết những lời Trần Trận đều rất thật.  Nếu như cậu cung phụng sói như cung phụng thần linh hoặc vương công Mông Cổ, thì như vậy là mạo phạm thần linh hay tôn kính thần linh?  Ông rất khó nói sao cho phải.  Dù cách thức không phù hợp với quy củ người Mông Cổ, nhưng tấm lòng của cậu ta là chân thành.  Người Mông Cổ rất coi trọng tấm lòng.  Ánh mắt như sói dịu lại, Trần Trận hi vọng tranh thủ được ông già thông mình phá lệ cho cậu thanh niên người Hán mà tha mạng cho một sinh linh bé nhỏ mới được hơn hai tháng.
Thoáng chút hi vọng, Trần Trận gạt nước mắt thở ra một hơi, cố nén tâm trạng bấn loạn, nói: Bố, con nuôi sói là để tìm hiểu tính cách và phẩm hạnh của sói thảo nguyên, muốn biết vì sao sói lợi hại, thông minh, vì sao dân tộc thảo nguyên sùng bái sói đến thế.  Bố không biết người Hán ghét sói ghê gớm, gọi kẻ ác nhất, thâm độc nhất là sói, kẻ tàn bạo nhất là dữ như sói, gọi kẻ chà đạp phụ nữ nhất là quân háo sắc như sói, gọi kẻ có dã tâm nhất là lòng lang dạ sói.  Người lớn còn doạ trẻ con: Sói đến đấy!
Trần Trận thấy ông già không dễ sợ như lúc nãy, mạnh dạn nói tiếp: Trong con mắt người Hán, sói là con vật xấu xa nhất, hung dữ nhất, tàn ác nhất.  Nhưng người Mông Cổ thì lại thờ sói như thần, sống học tập sói, chết cho sói ăn thịt.  Lúc đầu cũng không hiểu vì sao.  Hơn hai năm trên thảo nguyên, nếu không có bố thường xuyên dạy dỗ, kể chuyện và giới thiệu đạo lý về sói, thường xuyên dẫn con đi quan sát sói, săn bắt sói, thì con đã không mê sói đến như thế, không hiểu được nhiều điều như thế.  Nhưng con cho rằng, quan sát sói từ xa thì không hiểu hết sói.  Tốt nhất là nuôi một con sói nhỏ, quan sát gần, hàng ngày đánh bạn với nó.  Hơn một tháng nuôi con sói, quả là con biết được rất nhiều thứ mà trước kia không biết.  Con ngày càng thấy rằng sói là loài động vật đáng nể, đáng cho con người sùng bái.  Nhưng hiện nay có quá nửa số thanh niên trí thức chưa chịu thay đổi cách nhìn về sói.  Họ ở trên thảo nguyên mà vẫn không hiểu sói thì hàng trăm triệu người dưới xuôi chưa từng lên thảo nguyên làm sao hiểu được?  Sau này người Hán lên thảo nguyên càng nhiều, diệt hết sói thì thảo nguyên sẽ như thế nào?  Người Mông Cổ gặp hoạ, người Hán gặp càng lớn hơn.  Con không thể để thảo nguyên đẹp đẽ này bị hủy hoại...
Ông già thôi không nhìn Trần Trận bằng ánh mắt u uất, ông nói, giọng trầm trầm: Với lại, cậu nuôi sói con, thế nào cũng dụ sói mẹ tới cùng với đàn sói.  Sói thảo nguyên Ơlon nổi tiếng về bảo vệ sói con.  Mũi chúng rất thính.  Tôi đoán nó thể nào cũng về đây để báo thù.  Sói Ơlon chuyện gì cũng dám làm.  chuyện đã xảy ra với đội ta có ít đâu.  Nếu như xảy sự cố lần nữa, lão U và các cán bộ làm sao ngóc đầu lên nổi?  Nếu đàn sói nhắm vào đàn cừu của cậu, thừa dịp giết chết quá nửa, vậy cái tội nuôi sói gọi sói về hủy hoại tài sản tập thể, cậu ngồi tù là cái chắc.
Trần Trận vừa nhẹ nhõm được phân nửa tâm tư, giờ lại nặng trĩu.  Bản thân chuyện nuôi sói trong vùng dân tộc thiểu số đã vi phạm chính sách, giờ lại nuôi sói bên cạnh đàn cừu, chẳng phải cố  ý phá hoại sản xuất thì là gì?  Nếu liên hệ với cậu vấn đề "đi theo con đường tư bản chủ nghĩa" của bố cậu, dứt khoát lại trở thành chuyện lập trường tư tưởng, và lại liên can đến nhiều người.  Trần Trận bất giác tay run bắn, xem ra hôm nay cậu  không tránh khỏi đích thân đưa con sói về trời.
Ông già giọng đã dịu: Bao Thuận Quý lên chức.  Ông ta là người Mông Cổ nhưng đã mất gốc từ lâu.  Ông ta ghét sói còn hơn người Hán, không diệt sói thì không giữ được chức.  Cậu xem, liệu ông ta có cho cậu nuôi không?
Trần Trận cố vwost vát lần cuối, cậu nói: Bố có thể nói với ông ta một câu được không? Nói là nuôi sói để diệt sói tốt hơn, đây là thực nghiệm khoa học.
Ông già nói: Chuyện này thì cậu phải gặp ông ta mà nói.  Hôm nay ông ta đến ở trong nhà tôi, mai cậu gặp.  Ông già đứng lên ngoảnh lại nhìn hòn đá, nói: Cậu nuôi sói không sợ lớn lên nó cắn cừu, cắn cậu, cắn những người khác/  Răng sói rất độc, bị cắn rất dễ chết.  Hôm nay tôi không xem con sói nữa, thấy nó tôi không chịu được.  Nào, đi sửa xe.
Lúc sửa xe, ông già không nói một câu.  Trần Trận chưa chuẩn bị về mặt tâm lý nếu phải hành quyết con sói, nhưng cậu không muốn làm phiền thêm ông già và ông Ulichi vốn đã không ít khó khăn...
Ông già Pilich và Trần Trận sửa xong hai cỗ xe bò kéo, lúc sang cỗ thức ba bỗng ba con chó sủa ầm lên.  Bao Thuận Quý và Ulichi một trước một sau phóng ngựa tới.  Trần Trận vội nạt lũ chó.  Bao Thuận Quý nói với ông Pilich: Nhà bảo tôi ông đến đây, tôi đang muốn xem con sói của cậu Trận, ủy ban quyết định lão U ở cùng ông.  Đám trên ủy ban suýt nữa đưa lão U về đội xây dựng cơ bản làm lao động chân tay.
Trần Trận tim đập như trống làng, trên thảo nguyên tin đồn nhanh hơn ngựa.
Bao Thuận Quý nói: Chuyện tìm ra bãi chăn mới rúng động lãnh đạo huyện, trên ấy rất quan tâm chuyện này, chỉ thị chúng ta phải hoàn thành trong năm nay.  Thêm một bãi chăn lớn bằng ngần ấy, chắc chắn tăng gấp đôi đầu gia súc, quả là chuyện tốt lành.  Chuyện này do hai ông khởi xướng, nên để lão U ở cùng ông, có gì hai người tiện bàn bạc, nghiên cứu.
Ông già nói: Chuyện này do lão U khơi ra, lúc nào lão U cũng nghĩ tới mục trường.
Bao Thuận Quý nói: cái đó thì đã hẳn.  Tôi đã hỏi ý với lãnh đạo, mọi người mong lão lấy công chuộc tội.
Ulichi cười nhạt: Bàn công với tội làm gì.  Vào sự việc cụ thể đi.  Đường xa, di chuyển khó khăn, ủy ban nên điều ô tô và hai máy kéo đến giúp đội.  Điều cho một số lao động sửa đường...
Bao Thuận Quý nói: Tôi đã triệu tập cán bộ đội tối nay họp, khi ấy ta sẽ bàn.  Bao Thuận Quý ngoảnh lại bảo Trần Trận: Hai bộ da cậu đưa lên tôi đã cho thợ thuộc, gửi biếu lãnh đạo cũ của tôi rồi.  Ông vui lắm, không ngờ thanh niên trí thức Bắc Kinh lại diệt được hai con sói to như thế, khá lắm, ông nhờ tôi chuyển lời cám ơn cậu.
Trần Trận nói: Sao ông lại bảo là cháu bắt được, chó bắt đấy chứ.  Cháu không dám cướp công của chó.
Bao Thuận Quý vỗ vai Trần Trận, nói; Chó của cậu bắt tức cậu bắt.  Xưa nay công lao của cấp dưới vẫn được ghi cho cấp trên, đó là truyền thống vẻ vang của quan đội ta.  Nào, cho tôi xem con sói của cậu!
Trần Trận đưa mắt nhìn ông già Pilich, ông già không nói gì.  Cậu vội nói: Cháu không định nuôi nó nữa.  Nuôi sói là vi phạm phong tục tập quán của dân du mục, và cũng rất nguy hiểm, nếu đàn sói kéo đến thì trách nhiệm này cháu chịu sao nổi.  Cậu vừa nói vừa bê hòn đá và cái thớt ra chỗ khác.  Dưới hố, con sói béo mũm mĩm đang trèo lên, thấy phía trên có nhiều người, nó nép vào một góc gầm gào nhưng bốn chân thì run bần bật.  Bao Thuận Quý mắt sáng lên, lớn tiếng khen: Chà, con sói mới to chứ!  mới nuôi có hơn tháng mà đã lớn gấp đôi những con cậu nộp lên, biết thế để các cậu nuôi tất, lớn lên hãy lấy da có tốt không, chỉ hơn chục con đã được một áo khoác ngoài.  Các vị coi, bộ lông con này mới đẹp làm sao, mượt như nhung, dày hơn những con chưa cai sữa...
Trần Trận mặt buồn rười rượi: Có lẽ cháu không nuôi nổi.  Nó ăn kinh lắm, mỗi ngày một chậu to cháo thịt, lại còn một bát sữa.
Bao Thuận Quý nói: Sao cậu tính không ra nhỉ? Sang năm các đội không được giết ngay, lớn gấp hai gấp ba hãy giết.
Ông Pilich cười nhạt: Đâu ngon ăn thế.  Trước khi cai phải cho  nó tí sữa chó.  Sói nhiều thế kiếm đâu ra chó cái để cho bú?  Bao Thuận Quý nghĩ lại, nói: ừ nhỉ, có chuyện thế thật.
Trần Trận thò tay xách cổ con sói lên.  Nó quẫy đạp, cào cấu lung tung trong khoảng không.  Quả thực sói sợ người từ trong máu, cùng lắm mới cắn trả.
Trần Trận đặt con sói xuống đất.  Bao Thuận Quý tay nắn nắn con sói: Đây là lần đầu tiên tôi sờ vào một con sói sống, béo ra béo, tuyệt!
Ulichi nói: Cậu Trận này, xem ra hơn một tháng nay công sức của cậu bỏ ra không uổng.  Sói con trên núi chưa lớn bằng sói cậu nuôi.  Cậu nuôi tốt hơn sói mẹ. Từ lâu đã nghe nói cậu mê sói, gặp ai cũng gạ kể về sói.  Không ngờ cậu còn nuôi sói, này, cậu có tẩu hỏa nhập ma không đấy?
Ông Pilich nhìn mê mẩn con sói con. Ông cất tẩu thuốc, dùng bàn tay quạt cho khói ở miệng hang bay đi, nói: Tôi ngần này tuổi đầu lần đầu tiên thấy sói nuôi, mà lại béo tốt.  Cậu Trận này quả có chí, khi nãy cứ xin tôi mãi.  Nhưng mà nuôi sói bên cạnh đàn cừu thì có trái khoáy không?  Nếu hỏi mục dân trong đội, chẳng ai đồng ý cho cậu ấy nuôi.  Nhân có hai ông ở đây, tôi nghĩ, cậu ấy đã có chủ ý nghiên cứu khoa học, ý kiến hai ông ra sao?
Bao Thuận Quý vốn rất khoái chuyện nuôi sói, suy nghĩ một thoáng, nói; Giết con sói này cũng tiếc, chỉ một bộ da nó thì chưa được việc.  Nuôi từ khi chưa cai sữa mà lớn như thế đâu có dễ.  Theo tôi thì cứ để cho cậu ấy nuôi thử, giải thích là làm thực nghiệm khoa học thì cũng xuôi.  Mao chủ tịch nói: Nghiên cứu kẻ thù để đánh thắng kẻ thù.  Tôi cũng đang suy ngẫm về sói, sau này còn phải đến thăm con sói này nhiều lần.  Nghe nói cậu còn định cho phối giống để lai tạo giống chó bec giê phải không?
Trần Trận gật: Vâng, nhưng bố Pilich nói không được.
Bao Thuận Quý hỏi Ulichi: Chuyện này đã làm bao giờ chưa?
Ulichi nói: Dân thảo nguyên sùng bái sói, làm gì có chuyện cho sói phối giống với chó.
Bao Thuận Quý nói: Cũng để thử coi, thực nghiệm khoa học mà lại!  Nếu như lai được giống bec giê Mông Cổ, chưa chừng lại tốt hơn bec giê Liên Xô.  Sói Mông Cổ lợi hại nhất so với các loài sói trên thế giới, nếu lai tạo được chắc chắn là tốt.  Chuyện này chắc quân đội rất khoái, nếu thành công, khỏi mất ngoại tệ mua của nước ngoài.  Mục dân Mông Cổ có bec giê sói trông cừu, chắc sói không dám bén mảng tới.  Thế này nhé, từ nay nếu mục dân có nói gì, các ông cứ bảo là đang thực nghiệm khoa học.  Có điều cậu Trận phải nhớ bảo đảm an toàn.
Ulichi nói: Ông Quý cho nuôi thì cậu nuôi thử.  Có điều, tôi cảnh báo cậu, lỡ xảy ra chuyện gì cậu phải chịu trách nhiệm.  Đừng để liên lụy đến ông Quý.  Tôi thấy như vầy quá nguy hiểm, phải kiếm cái xích xích nó lại, không cho nó cắn người và cừu.
Bao Thuận Quý nói: Đúng, không được để cắn người, cắn người  là tôi bắn chết.
Trần Trận bối rối tới mức tim cậu suýt nhảy ra khỏi lồng ngực, luôn miệng hứa: Nhất định là như thế!  Nhưng còn một chuyện mong các ông giúp: cháu biết mục dân phản đối nuôi sói, các ông nói hộ cháu một câu.
Ulichi nói: Ông bố cậu nói hơn bọn tôi, ông nói một câu bằng bọn tôi nói trăm câu!
Ông già lắc đầu, nói: Tôi dạy chệch mất rồi, đây là lỗi tại tôi, để tôi dàn xếp vậy.
Ông già bỏ lại túi đồ nghề cho Trần Trận, dong xe trở về.  Bao Thuận Quý và Ulichi cũng lên ngựa kéo theo xe bò, đi luôn.
Trần Trận vui mừng như người vừa ốm khỏi, đến nỗi thần kinh chùng lại, chân tay rã rời như lúc ngồi  bên hang sói.  Cậu ôm  chặt con sói chặt đến nỗi nó nhe răng định cắn.  Cậu vội gãi tai cho nó.  Gãi đúng chỗ ngứa, con sói xử nhũn ngay lập tức.  Nó nhắm mắt, miệng hé mở, vươn đầu vươn vai đón Trần Trận, toàn thân run lẩy bẩy như bị chứng liệt rung.

________Hết chương 18________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:53:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19

Thượng hoàng (Hán Vũ Đế - người dẫn chú) xuống chiếu viết rằng: "... Người Hung Nô thường nói: Hán cực mạnh nhưng không chịu được đói khát, mất một sói, đuổi ngàn cừu.  Vậy là hai lần đem quân đánh đều thua, quân sĩ tan tác, Trẫm rất đau lòng."
                                                      Tư Mã Quang "Tư trị thông giám Hán Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế hạ chi hạ"

Bao Thuận Quý dẫn Batu, Saxuleng tất cả năm thợ săn và Dương Khắc, cùng bảy tám con chó lớn đến bãi chăn mới, hai cỗ xe bánh lốp chở lều bạt, đạn dược và nồi niêu bát đũa theo sau.
Bước lên đầu phía tây bãi chăn, Bao Thuận Quý và các thợ săn dùng ống nhòm quan sát từng quả đồi con suối, từng khúc quanh của con sông trong thung lũng lòng chảo, nhưng không hề thấy một con sói hoặc một con dê nào, chỉ thấy từng đàn vịt trời, nhạn và mười mấy con thiên nga.
Mấy tay thợ săn thấy nói săn sói vào đầu hạ thì không hào hứng, nhưng họ mê mẩn trước cảnh đẹp thiên nhiên nước xanh cỏ biếc ở nơi này.  Dương Khắc cảm thấy mắt cậu như biến thành màu xanh, liền nhìn mắt những người khác, cũng thấy xanh biếc như mắt con sói bắt đèn đêm đông, đẹp dễ sợ.  Từ trên núi đi xuống, màu xanh bát ngát, hương thơm sực nức không khí trong lành, bụi bặm ở đây hiếm như vàng sa khoáng trong cát.  Vó ngựa và bánh xe nhuốm mùa xanh của cỏ, ngay cả thanh dóng ngang đoạn tiếp đất cũng màu xanh.  Ngựa ra sức lắc hàm thiết, cố bứt vài cọng cỏ non.  Dương Khắc hơi tiếc là đám hoa dại mà Trần Trận giới thiệu đã tàn lụi, thuần một màu xanh kê cũng đơn điệu.
Bao Thuận Quý như phát hiện ra mỏ vàng, reo ầm lên: Đúng là phong thủy bảo địa, tập trung báu vật trong thiên hạ, trước tiên nên mời các thủ trưởng quân khu về chơi vài hôm săn ngỗng, săn vịt trời, rồi thì nướng thịt trên đồng cỏ.  Dương Khắc nghe chối tai quá, trước mắt cậu hiện ra con quỉ với đôi cánh màu đen trong vẻ bale "Hồ thiên nga".
Đoàn ngựa nhẹ nhàng đi xuống, qua một con dốc thoai thoải, Bao Thuận Quý nói khẽ: Nhìn bên trái, một đàn thiên nga đang ăn cỏ chỗ con suối, ta sang bên đó bắn lấy một con.  Nói xong, ông ta dẫn hai thợ săn chạy đi.  Dương Khắc ngăn không kịp đành chạy theo, vừa chạy vừa dụi mắt.  Quả nhiên khe suối phía trước có một mảng lớn màu trắng nhức mắt, trắng như đám cừu non đầu hạ, như đám thiên nga nhìn qua ống nhòm hồi nảy.  Dương Khắc giận đến nghẹt thở, cậu không có súng trong tay, nếu có cậu sẽ cho súng cướp cò, để đàn thiên nga sợ bay đi.  Chạy như điên một đoạn, cái chấm trắng vẫn không động cựa.  Dương Khắc gần như muốn hét lên.  Đúng khi ấy, cánh thợ săn đột nhiên gò cương hạ súng, giảm tốc độ và nói to câu gì đó.  Bao Thuận Quý cũng kìm ngựa lấy ống nhòm ra.  Dương Khắc cũng lấy ống nhòm ra nhìn.  Khi thấy rõ cái vật trắng tinh ấy toàn là hoa thược dược dại.  Đầu hạ năm trước, Dương Khắc từng trông thấy hoa thược dược dại, cứ vài cây một bụi rải rác đây đó, chưa bao giờ thấy cả mảng lớn như thế này.  Cậu cảm thấy đám bạch dược là do những con thiên nga lắc mình một cái biến thành.
Bao Thuận Quý không cụt hứng, trái lại hét váng lên: Trời ạ, tôi chưa bao giờ thấy bạch thược đẹp như thế này, đẹp hơn bạch thược trong công viên thành phố.  Mau đến đó xem.  Mấy con ngựa lại phi nước đại.
Đến nơi, Dương Khắc choáng váng, tưởng như gặp hoa thần tiên.  Dưới đáy một con suối đầy đất bùn, ba bốn mươi khóm bạch thược đang nở rộ, mỗi khóm cao một mét, to một ôm, những cành thô bằng ngón tay út, thẳng đuột từ dưới đất chui lên khỏi mặt đất chừng một thước là lá rậm, trên đó nở chục bông hoa trắng lớn như hoa mẫu đơn, che khuất hết lá phía dưới.  Khóm hoa như một lẳng hoa do một bàn tay thần cắm chi chít, chỉ trông thấy hoa không trông thấy lá, chả trách trông xa tưởng thiên nga.  Dương Khắc lại gần, bông nào bông ấy tâm hoa rực rỡ, cánh hoa mịn màng, thanh thoát hơn mẫu đơn, thung dung hơn nguyệt thế.  Cậu chưa bao giờ trông thấy cảnh tráng lệ đến thế nơi đồng nội, tinh tươm hoàn mĩ hơn sự tô điểm của bàn tay con người, như bầy tiên trong cảnh ảo hồ thiên nga...
Bao Thuận Quý cũng ngây ra nhìn.  Ông ta sững sờ kêu: Cái của này hiếm đây, đem về thành phố hỏi bán được bao nhiêu tiền?  Mình phải bứng mấy khóm biếu thủ trưởng quân khu, các vị chắc khoái.  Cán bộ lão thành không thích tiền, chỉ thích hoa quý.  Biếu thứ hoa này là để nói rằng mình rất hiểu các vị.  Cậu Khắc này, cậu thấy nhà khách chính phủ có loại thược dược mê hồn như vầy không?
Dương Khắc nói: Nói gì nhà khách chính phủ, ngay cả công viên hoàng gia nước ngoài cũng không thấy loại hoa này.
Bao Thuận Quý cả mừng, quay lại bảo cánh thợ săn: Các cậu nghe rõ chưa?  Đây là loại hoa quý, phải trông nom cẩn thận.  Lúc về, chặt ít cành hạnh rào đám hoa này lại.
Dương Khắc nói: Sau này ta lại dọn nhà thì sao, cháu sợ có kẻ đánh cắp.
Bao Thuận Quý nghĩ một lúc, nói: Ta sẽ có cách, cậu đừng lo.
Dương Khắc tỏ vẻ lo âu: Xin ông đừng bứng nó đi, bứng đi là nó chết đấy.
Đoàn ngựa và xe đến khúc quanh của dòng sông, cánh thợ ăn tìm ra ngay bãi săn của lũ sói, xác dê vàng đã bị chén sạch chỉ còn lại sừng, móng guốc và những mẩu da vụn.  Batu nói: Bọn sói đã đến đây bủa vây mấy lần nữa, nhiều đàn. Cậu xem những đống phân sói này, mình đoán các sói chúa đều đã kéo đến.  Bao Thuận Quý hỏi: Đàn sói giờ ở đâu?
Batu nói: Chắc là đuổi theo dê vàng vào trong núi, cũng có thể chúng đi bắt rái cá cạn, hoặc đuổi theo dê vàng lên vùng biên.  Dê vàng con giờ đã chạy nhanh như dê mẹ, sói khó bắt, nếu không chúng chẳng phải ăn sạch những con ở đây.
Bao Thuận Quý nói: Ông U và ông Pi rõ ràng là trông thấy mấy trăm con dê vàng, mấy chục con sói, vậy mà chỉ mới hai mươi hôm, chúng biến đi đâu?
Batu nói: Sói về bấy nhiêu, dê vàng dám ở lại không?
Saxuleng cười: Chắc chắn là sói sợ ông, ông đến là chúng biến mất.  Người nào quá dữ dằn với sói đều không bắt được sói.  Ông xem, ông Pilich rất ưu ái sói, vì vậy mà ông đã bắt là cả đàn.
Batu nói: Ông đã thấy cái hay của sói chưa?  Không có sói thì bãi chăn đẹp đẽ này bị dê vàng xơi sạch từ đời tám hoánh rồi!  Đàn cừu của ta đến đây ngửi thấy mùi phân dê vàng là chúng không chịu ăn cỏ.  Bãi chăn đẹp quá, ngựa cũng không muốn đi.  Theo cháu, nên dựng lều ở đây cho ngựa, chó nghỉ ngơi, mai lên núi quan sát.
Bao Thuận Quý đành ra lệnh qua sông.  Batu chọn nơi bờ không quá dốc và đáy sông là cát, rồi cùng với các thợ săn dùng xẻng bạt thấp bờ sông.  Batu cưỡi ngựa, dắt con ngựa kéo cỗ xe qua sông, chọn nơi bằng phẳng ở sườn núi phía đông dựng lều.  Batu cắt đặt hai thợ săn đào bếp đun nước pha trà, rồi nói với Bao Thuận Quý: Cháu ra chỗ khe nam xem có còn con dê bị thương nào không?  Đã đến đây ai lại ăn thịt khô đem theo?  Bao Thuận Quý vui vẻ nói phải.  Batu đem theo hai thợ săn và tất cả chó lớn đi khe nam.  Balua và Nhị Lang nhận ra nơi vây bắt dê vàng, máu săn nổi lên, chạy vọt lên hàng đầu.
Dương Khắc quan tâm nhất là cái hồ thiên nga, bấm bụng ở lại không đi theo Batu để ngắm cái hồ.  Để được ngắm cái hồ này, cậu hai ngày liền năn nỉ Bao Thuận Quý và ông Pilich cho cậu đặt chân lên trước khi đại đội nhân mã tiến vào bãi chăn mới, để cậu có dịp tận hưởng phong cảnh nguyên sơ của cái hồ này.  Lúc này, cậu thấy cái hồ đẹp hơn những gì Trần Trận đã tả.  Trần Trận chưa sang mạn đông của con sông.  Chỗ này địa thế cao, có thể đi qua cánh rừng lau rậm rạp, thu gọn hồ trong tầm mắt.  Cậu ngồi xuống sườn dốc, lấy ống nhòm xem mê mải.  Đang trầm tư cảnh tĩnh mịch, chợt tiếng vó ngựa từ phía sau dội tới.
Bao Thuận Quý gọi váng lên: Chà, cậu đang ngắm thiên nga đấy hả?  Đi, ta sang bên bãi lầy bắn mấy con cho đỡ thèm.  Mục dân ở đây không ăn thịt chim, ngay vịt trời cũng không ăn.  Tôi gọi, họ không đi.  Họ không ăn, ta ăn.  Dương Khắc ngoảnh lại nhìn, Bao Thuận Quý tay cầm khẩu bán tự động.
Dương Khắc suýt vỡ mật vì sợ.  Cậu xua tay rối rít: Thiên nga là loài động vật quý hiếm, dứt khoát không được giết.  Cháu xin ông đấy, từ nhỏ cháu đã thích vở bale "Hồ thiên nga". Thời kỳ ba năm khó khăn, muốn được xem một nghệ sĩ công huân trẻ Liên Xô diễn chung với diễn viên Trung Quốc, cháu đã trốn học, đêm đông rét mướt là thế mà xếp hàng tới tận nửa đêm mới mua được vé.  Vở Hồ thiên nga quá hay, các vĩ nhân và những nhà văn hóa thế giới đều mê, vậy mà ở đây lại có một hồ thiên nga thật.  Ăn thịt thiên nga sao?  Ông hãy giết cháu đi đã rồi hãy ăn!
Bao Thuận Quý không dè gặp ngay một anh ất ơ.  Bị giội gáo nước lạnh, ông ta cụt hứng.  Ông vằn mắt, nói: Thiên nga với chả thiên nghiếc, trong đầu cậu đặc sệt tư tưởng tư sản, học sinh cấp III chứ gì?  Trình độ văn hóa tôi không kém cậu đâu, không gạt "Hồ thiên nga khỏi sân khấu thì làm sao đưa được "Hồng sắc nương tử quân" lên?
Saxuleng trông thấy Bao Thuận Quý xách súng về phía bãi lầy, vội chạy đến ngăn, nói: Thiên nga là thần điểu người Mông Cổ thờ cúng, không được bắn!  Ông định săn sói cơ mà!  Bây giờ ông nổ súng là sói trong núi chạy hết, mình về tay không à?
Bao Thuận Quý ngớ ra.  Vội ghìm ngựa quay lại bảo Saxuleng: May mà cậu nhắc, nếu không, lỡ mất việc lớn.  Bao Thuận Quý đưa súng cho Saxuleng rồi bảo Dương Khắc: Vậy thì cùng tôi đi trinh sát bãi lầy.
Dương Khắc miễn cưỡng chỉnh yên cương rồi lên ngựa đi theo Bao Thuận Quý.  Gần tới hồ, một đàn vịt trời, dại nhạn và các loại chim màu sắc sặc sỡ bay qua, rớt xuống những giọt nước li ti trên đầu hai người.  Bao Thuận Quý đứng thẳng trene bàn đạp, tay vịn cọc yên, rướn người nhìn qua bãi lau vào trong hồ.  Đúng lúc ấy, hai con thiên nga cổ vươn dài, giang đôi cánh lớn, từ trên ngọn lau lướt trên đầu Bao Thuận Quý chỉ cách khoảng ba mét, khiến ông ta sợ quá ngồi phịch xuống yên.  Con ngựa giật mình suýt hất ông ta xuống đất.  Thiên nga hình như không sợ người, lượn mấy vòng trên không rồi lại sà xuống hồ, mất hút trong đám lau sậy.
Bao Thuận Quý kìm ngựa, chỉnh lại yên cho khớp với sống lưng ngựa.  Ông ta cười: Ở đây thiên nga quá dễ, bắn cung cũng trúng, thiên nga là vua của loài chim, ăn được một miếng thịt thiên nga, coi như không uổng một đời. Nhưng mà diệt xong sói mới thanh toán bọn này.
Dương Khắc thận trọng hỏi: Hồi nãy ông bảo thược dược là hoa quý cần phải bảo vệ.  Giờ đây thiên nga là quốc bảo, là vật báu của thế giới, sao ông không bảo vệ chúng?  Bao Thuận Quý nói: Tôi xuất thân nông dân, trọng thực tế.  Lấy được mới cho là bảo bối, không lấy được thì bảo bối cái gì?  Thược dược không có chân, không chạy đi đâu được.  Thiên nga có cánh, người và gia súc đến ở đây thì chúng bay lên phương bắc, thành bảo bối của xét lại Liên Xô...
Dương Khắc nói: Người ta thật sự coi là bảo bối mới không ăn thịt!
Bao Thuận Quý nổi cáu: Nếu biết cậu chẳng hiểu gì như thế, tôi chẳng dẫn cậu đến đây làm gì!  Hãy đợi đấy, tôi sẽ cải tạo hồ thiên nga của cậu thành hồ nước cho ngựa uống, bãi lầy cho bò đầm.
Dương Khắc cố nhịn.  Cậu rất muốn nổ súng loạn xạ xua đàn thiên nga bay đi, bay khỏi thảo nguyên, bay khỏi Trung Quốc, tới quê hương của vở bale "hồ thiên nga".  Ở đó có những người dân yêu quý thiên nga.  Còn như cái đất nước mà chim sẻ sắp bị ăn sạch này, chỉ còn lại có cóc nhái này, làm gì có đất cho thiên nga dung thân?
Saxuleng khoát tay vẽ một vòng tròn, lớn tiếng gọi hai người trở về.  Hai người vội trở về lều.  Tang Kiệt từ mạn đông nam núi cũng đã trở lại, đang chuẩn bị xe.  Cậu nói: Batu bắn được mấy con lợn con ở khe đông nam, sai tôi về lấy xe để chở, còn mời chủ nhiệm Quý đến xem.  Bao Thuận Quý cười tít mắt, vỗ đùi, nói: Thảo nguyên mà có lợn cỏ?  Thật không ngờ, thịt lợn cỏ ngon hơn thịt lợn nhà.  Cậu Khắc, ta đi thôi.  Dương Khắc có nghe nói thợ săn bắn được lợn cỏ, nhưng từ khi lên thảo nguyên chưa thấy lần nào.  Cậu lên ngựa phóng theo Bao Thuận Quý và Tang Kiệt.
Chưa đến chỗ Batu, hai người đã trông thấy mảnh đất bị lợn dũi.  Bên sông, sườn dốc, trong khe... mấy chục mẫu đất đen màu mỡ bị cày xơi nham nhở, rễ cỏ lá rộng bản bị vặt trụi, chỏng trơ như ruộng khoai tây bị lợn nhà tàn phá.  Bao Thuận Quý cáu tiết, chửi vung lên: Lũ lợn đáng ghét!  Sau này trồng cây lương thực, chắc bị lũ lợn này ăn sạch.
Ngựa của hai người không dám chạy nhanh, đành đi chậm tới chỗ Batu.  Batu ngồi dưới chân núi hút thuốc, lũ chó bâu quanh xác con lợn, xé thịt ăn.  Hai người xuống ngựa, thấy bên cạnh Batu hai con lợn còn nguyên vẹn, hai con nữa lũ chó tranh nhau xả thịt, ăn ngon lành.  Nhị Lang và Balua mỗi con một đùi lợn, hai con này nhỏ hơn lợn khi xuất chuồng wor nhà, chỉ dài hơn mết, lông thô mọc thưa thớt cùng mình.  Mõm lợn rừng dài gấp đôi lợn nhà, thịt rất chắc, nhìn bên ngoài không thấy xương bên trong, răng nanh cũng không dài lắm, không đáng sợ như ta tưởng.  Hai con lợn đều bị chó cắn sau gáy.
Batu trỏ khe núi phía xa, nói: Hai con chó lớn đánh hơi thấy mùi sói liền đuổi đến con suối thì thấy đất đá ngổn ngang, lại thấy ba bốn con lợn bị sói ăn thịt, xương vung vãi.  Chúng liền bỏ đàn sói, quay ra đuổi theo đàn lợn đến tận cái khe này vồ được một con nhỏ từ trong chạy ra.  Lợn lớn răng nanh dài, chạy nhanh, chó không dám đuổi.  Cháu không dám nổ súng, sợ đánh động lũ sói.   Lũ chó cắn chết mấy con lợn choai này, hai con bị xé nát thì cho chó ăn luôn, hai con còn nguyên vẹn cháu lôi về đây.
Bao Thuận Quý dận chân lên con lợn béo núc, cười: Các cậu khá lắm.  Lợn choai thịt mềm, càng ngon.  Tôi mời mọi người uống rượu.  Xem ra nơi này rất nhiều sói.  Ngày mai các cậu hạ thủ được vài con sói thì tuyệt.
Batu nói: Những con lợn cỏ này đến từ khu rừng cách đây ba trăm dặm, ở đó lợn cỏ rất nhiều, chúng xuôi dòng về đây.  Nếu Ơlon không nhiều sói thì đàn lợn này đã phá sạch bãi chăn.
Bao Thuận Quý nói: Thịt lợn cỏ rất ngon.  Sau này người nhiều lene, ta tổ chức săn lợn cỏ về ăn thịt lợn, tiết kiệm vô khối thịt bò, cừu.  Dân nông nghiệp quen ăn thịt lợn, không thích ăn thịt bò, thị cừu.
Tang Kiệt đẩy xe tới, mấy người khiêng lợn lên xe.  Batu ra hiệu cho những con chó tiếp tục ăn, các thợ săn và cỗ xe về trước.  Khu lều đã có đủ củi, xe về đến nơi, mọi người chọn con to nhất mổ bụng, moi ruột, lọc thịt.  Mục dân trên thảo nguyên mổ lợn, mổ cừu đều lột bỏ da không ăn.  Lát sau, mùi thịt lợn nướng thơm phức.  Thịt lợn cỏ ít mỡ phần nhưng mỡ chài thì rất nhiều.  Dương Khắc bắt chước Bao Thuận Quý, quấn mỡ chài xung quanh thịt nạc rồi nướng, mỡ chảy xèo xèo, lại càng thơm.  Trong khi các thợ săn pha thịt, Dương Khắc kiếm được rất nhiều hành dại và rau phỉ.  Lần này cậu được thưởng thức mùi vị nguyên thủy của món thịt nướng thảo nguyên ăn với hành cay, hết ý!  Cậu đã được thấy thiên nga và hoa bạch thược, còn Trần Trận thì chưa.  Cậu đã ăn no thịt lợn cỏ, loại thịt quý hiếm trên thảo nguyên.  Khi về nhà, cậu còn kể những điều mắt thấy tai nghe kỳ lạ mà cậu có diễm phúc được hưởng.
Bên đống lửa, Bao Thuận Quý mời rượu các thợ săn, kể về thịt thiên nga trên bàn tiệc của các bậc vương giả.  Cánh thợ săn lắc đầu không hưởng ứng khiến ông ta cụt hứng.  Dân du mục Ơlon chỉ săn thú chạy, không săn những con biết bay.  Họ kính nể những sinh linh bay trên trời.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:54:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19 (tiếp)

Lũ chó đi thành đàn trở về.  Bảy người ăn no uống say mới đứng lên, gom tất cả chỗ thịt thừa vào chậu tôn.  Trừ tim gan, phần lớn nội tạng bỏ lại trên bãi cỏ, đây là bữa thứ hai của lũ chó.
Buổi chiều, Dương Khắc lặng lẽ rời đoàn người, một mình ra chỗ có thể nhìn thấy toàn cảnh hồ thiên nga.  Cậu dùng kính viễn vọng ngắm cái hồ mà có lẽ chỉ ít lâu sau biến mất.
Hồ thiên nga gợn sóng, mặt hồ phía tây phản chiếu những tảng mây dày phía đông; mặt hồ phía đông phản chiếu ráng chiều đỏ rực phía tây.  Sóng lăn tăn nhẹ nhàng lan xa, lấp lánh màu hồng của mã não, màu xanh của cánh trả, màu vàng của thợ sơn.  Từng gợn sóng màu tím thủy tinh, màu trắng ngà ngọc trai, màu lạnh và máu ấm hòa vào nhau, một kểu đẹp quý phái.  Trước mắt Dương Khắc hiện ra mơ hồ cái chết của thiên nga, ánh sáng chói lòa của châu báu từ trên trời rắc trên mình thiên nga, trên hồ thiên nga trong vắt.
Từng gợn sóng đuổi nhau chậm rãi như khúc dạo đầu của vở kịch khi người ta không đang tâm nhìn vai chính của vở kịch phía sau.  Dương Khắc mong sao màn này chỉ lấy trời làm phông, đừng xuất hiện nhân vật chính.  Nhưng trong đám lau sậy màu xanh dương, từng con thiên nga bơi ra, một... hai... ba... mười hai con tất cả.  Mặt hồ rạng rỡ và nền trời phía sau dựng lên cho chúng một sân khấu khổng lồ.  Lũ thiên nga đã thay bộ lễ phục màu xanh, khiến màu vàng trên đầu chuyển sang tím.  Con thiên nga cong cổ như một dấu hỏi, hỏi trời, hỏi nước, hỏi người, truy vấn vạn vật trên thế gian, những dấu hỏi lặng lẽ di chuyển trên mặt hồ, im lặng đợi câu trả lời.  Nhưng đất trời lặng im, những hình ảnh lộn ngược run rẩy trên mặt sóng biến thành mấy chục câu hỏi lại.  Một cơn gió thổi tới, những câu hỏi vỡ tan trong bước sóng.
Dương Khắc nghĩ đến bầy sói.  Lúc này, những con sói thảo nguyên hung dữ lại đặc biệt dễ gần và rất đáng nể trọng.  Chúng dùng răng, loại vũ khí nguyên thuỷ, ngoan cường chống trả lời nguyên tử, cho cậu được thấy cảnh đẹp nguyên sơ hồ thiên nga.  Cậu và Trần Trận là những kẻ gặp may trong số người Hán.  Nếu sói dũng mãnh và khôn ngoan hơn, chưa chừng sự bành trướng và xâm lược đối với thảo nguyên vẫn tiếp tục kéo dài, mà chính là sự bùng nổ dân số của tộc Hoa Hạ, khiến dân du mục thảo nguyên buộc phải bành trướng.  Dương Khắc trong lòng xúc động, và cậu biết ơn sói.  Đàn sói bị tuyệt diệt là điềm báo trước thảo nguyên sẽ tàn lụi, sự tàn lụi của cái đẹp trong con mắt nhân loại.  Nước mắt nhoè ống kính, hồ thiên nga trinh trắng lùi xa...
                                o0o
Ngày hôm sau đội săn rà soát từng khe núi, sục sạo một ngày chẵn mà không thu hoạch được gì.  Ngày thứ ba, đội săn vào sâu trong núi.  Giữa trưa người mệt ngựa mỏi, Bao Thuận Quý, Batu và Dương Khắc bỗng nghe phía xa súng nổ dồn dập.  Ba người nhìn về phía ấy, thấy hai con sói xuất hiện ở sườn núi phía đông loạng choạng chạy lên đầu dốc.  Thấy phía bên này cũng có người và chó, thế là chúng liều mạng bò lên một mỏm đá cheo leo.  Batu giương ống nhòm quan sát một thoáng nói: Đàn sói đã bỏ chạy từ lâu, đây là hai con sói già không theo kịp đàn.  Bao Thuận Quý phấn khỏi, nói: Bất kể già hay trẻ, vớ được hai bộ da này là thắng lợi rồi.  Batu vừa đuổi vừa lẩm bẩm: Không phải đâu.  Ông  thấy không, nửa thân sau của hai con này chưa rụng hết lông, đáng thương quá!  Thợ săn và chó từ hai bên dồn lên đỉnh dốc, hai con sói một lớn một nhỏ, con lớn chân trước bên trái không thể duỗi thẳng, có lẽ nó bị đứt gân chân trong một cuộc chiến nào đó; con nhỏ hơn là một con sói cái, gầy nhom, màu lông rất xỉn.  Balua, Nhị Lang và những con chó khác thấy hai con sói, con thì thọt, con thì già, chúng không những không tăng tốc, trái lại còn chạy chậm lại, chỉ mỗi một con choai choai tưởng bở, bất kể lành dữ, xông lên.
Hai con sói chạy đến đoạn núi đá lởm chởm do phong hoá, địa thế phức tạp, những mỏm đột ngột nhô ra, đá cuội rải khắp, mỗi bước, dưới chân con sói phát ra tiếng lạo xạo.  Ngựa không thể đi tiếp, mọi người nhất loạt nhảy xuống, súng ống gậy gộc bao vây ba mặt.  Già dặn trong nghề săn, Batu cùng con Nhị Lang tiến chậm nhưng hò rất to.  Chỉ mỗi con chó choai ngựa non háu đá là vẫn băng băng phóng tới, gọi cũng không quay lại.  Chỉ thấy con sói đực già nhảy lên phiến đá bàn cờ rồi dùng hai chân sau làm trụ, toàn thân quét ngang 180 độ, hất con choai chưa tiếp đất, bắn vào kẽ giữa hai tảng đá.  Con chó bị kẹt kêu thảm thiết.  Nó không bị thương nặng, nhưng phải mất nhiều thời gian mới kéo lên được.  Đàn chó căng thẳng, lông dựng đứng.  Con sói cái thừa cơ chui luôn vào một cái hang gần đấy.
Con sói đực già nhảy lên một phiến đá chỉ to bằng chiếc bàn ăn cơm, ba mặt đông nam bắc là vách núi dựng đứng, còn một mặt tiếp nối với quả núi bằng ghềnh đá cheo leo.  Con sói già quay lưng về phía vực, ánh mắt đỏ ngầu đằng đằng sát khí.  Nó khịt mũi, chuẩn bị chống trả.  Lũ chó săn vây thành hình vòng cung sủa ầm ĩ nhưng không con nào dám xông lên vì sợ hụt chân rớt xuống vực.  Mọi người bao vây chặt con sói.  Bao Thuận Quý nhìn thế trận vui vẻ reo lên: Không ai được hành động, trông tôi đây!  Nói xong, ông ta gập lưỡi lê, đẩy đạn lên nòng, chuẩn bị tư thế bắn gần.
Bao Thuận Quý vừa lùi lại phía sau lũ chó, con sói già đã úp mặt trườn xuống một cái dốc dựng đứng toàn đá sỏi, bốn chân bám trên sỏi đá trượt theo.  Đất đá tới tấp phủ kín mình nó.  Bụi bay mù mịt.
Mọi người vội ra sát mép vực nhìn xuống cho đến khi bụi tan cũng không tháy con sói đâu.  Bao Thuận Quý hỏi: Chuyện gì thế này?  Con sói ngã chết, bị đập chết hay đã chạy mất?  Batu buồn rầu, nói: Chết hay sống không biết, có điều ông không có bộ da ấy rồi.  Bao Thuận Quý ngẩn ra hồi lâu không nói câu nào.
Dương Khắc đứng như phỗng, cậu nhớ lại bộ phim "Năm dũng sĩ trên núi Răng Sói".
Hai con chó gác miệng hang cất tiếng sủa.  Bao Thuận Quý chợt  tỉnh, ông ta bảo: Còn một con nữa, mau lên!  Hôm nay phải tóm bằng được một con.
Saxuleng và Tang Kiệt bước tới chỗ con chó bị kẹt giữa khe đá, mỗi người cầm hai chân nhấc ra.  Con chó bị đứt lông chỗ khuỷu chân, da rớm máu.  Con chó cùng trong một nhà bước tới liếm vết thương cho nó.
Đàn chó đến bên miẹng hang.  Đây là một cái hang thiên nhiên do đá phong hóa mà hình thành, chỗ ẩn nấp tạm thời của động vật trên thảo nguyên.  Trên phiến đá có những bãi phân của chim ưng màu xám như vừa xây nhà.  Bao Thuận Quý nhìn cái hang, gãi đầu: Con bà nó, đào không được, đào là sập, hun không được, hun thì khói tạt đi hết.  Batu cậu xem có cách gì không?  Batu lấy đốc roi chọc thử.  Có tiếng đá lăn phía sau.  Anh lắc đầu, nói: Đừng phí công vô ích.  Đống đá mà sập thì bị thương cả người lẫn chó, không xong đâu.  Bao Thuận Quý nói: Theo tôi hun khói là tốt nhất.  Các cậu đi rẫy cỏ về đây.  Khi hun, chỗ nào lọt khói ra là ta bịt lại.  Tôi có đem theo ớt đây.  Mau lên, đi làm đi!  Tôi cùng Dương Khắc giữ cửa hang.  Đem theo toàn là những chiến tướng, vậy mà ba ngày ròng không bắt được con sói nào.  Mục trường cười cho thối mũi.
Các thợ săn chia nhau đi kiếm củi và cỏ khô.  Bao Thuận Quý và Dương Khắc gác cửa hang.  Dương Khắc nói: Con này vừa già vừa ốm, gầy như que củi, chắc chẳng sống được mấy bữa, với lại mùa hè lông rụng hết, trạm thu mua sẽ không mua.  Hay là tha cho nó!
Bao Thuận Quý sa sầm nét mặt, nhả một hơi thuốc, nói: Người không bằng sói.  Tôi từng chỉ huy bộ đội đánh giặc, tôi biết.  Không ai dám đảm bảo trong quân đội không có kẻ bỏ trốn hoặc đánh trả.  Vậy mà con sói này thà chết chứ không khuất phục.  Nói đúng lương tâm, sói Ơlon con nào cũng là dũng sĩ, ngay cả thương binh, nữ binh cũng khiến người ta bạt vía kinh hồn... Nhưng mà cậu bảo bộ da mùa hạ không có người mua, vậy là cậu chưa biết đó thôi.  Quê tôi, lông dày quá không ai dám may tất vì nóng quá, mũi chảy máu cam, lông mỏng mới quý.  Cậu không được mềm lòng, đánh giặc là một chết một sống, giặc chạy cùng đường cũng phải giết hết nữa là...
Batu và mọi người dùng dây thừng kéo những bó củi lên.  Bọn Saxuleng bỏ vào túi áo mấy vầng cỏ khô dính đất.  Bao Thuận Quý chất đống cỏ khô cỏ tươi bên miệng hang rồi châm lửa đốt.  Vài thợ săn quì trước miệng hang lấy vạt áo quạt khói.  Làn khói đặc sệt luồn vào trong hang, chỉ lát sau, ba bề bốn bên cái hang chỗ nào cũng rỉ khói, các thợ săn bấn tỉnh lên, hò nhau lấy cỏ bịt lại.  Khói rỉ ra ngày càng ít đi.
Bao Thuận Quý vốc một nắm ớt bỏ vào đống lửa, mùi cay nồng nặc luồn vào trong hang.  Người và chó đứng đầu gió, cái hang ở phía dưới đống đá y như cái cửa bếp.  Khói cay cuồn cuộn vào trong.  Các thợ săn cố ý để lại mấy lỗ thoát khói.  Bỗng có tiếng sói ho rũ rượi, mọi người vội cầm gậy, lũ chó gồng mình chờ đợi.  Tiếng ho trong hang ngày càng dữ dội như một ông lão bị viêm phế quản, ho như móc phổi ra.  Thế nhưng, con sói cái vẫn không chịu ló mặt.  Dương Khắc bị khói thuốc chảy nước mắt.  Cậu quả thực không hiểu vì sao sói chịu đựng giỏi đến như thế, nếu là con người thì chết cũng chui ra.
Đột nhiên đống đá sụt nửa mét, khói xì ra các kẽ đá.  Chỉ lát sau, tất cả những chỗ trám bùn đều xì khói, vài hòn đá lớn lăn xuống, suýt đè phải một thợ săn đang quạt.  Mọi người toát mồ hôi lạnh, Bao Thuận Quý quát: Hang sập đấy, mọi người tránh ra!
Tiếng ho chấm dứt đột ngột, sau đó không có tiếng động gì nữa.  Khói cay bay lên trời, quạt mấy cũng không luồn vào trong hang.  Batu bảo Bao Thuận Quý: Rủi cho ông rồi!  Lại gặp một con sói tự sát.  Nó đánh sập hang, tự chôn sống bên trong, ngay cả bộ da cũng không cho ông.  Bao Thuận Quý nổi giận, hét: Rỡ đá ra!  Tôi phải bắt bằng được con này.
Các thợ săn quá mỏi mệt, không một ai động thủ.  Batu lấy ra bao thuốc lá thơm chia cho mỗi thợ săn một điếu, cài vào miệng Bao Thuận Quý một điếu, nói: Mọi người đều biết ông không vì bộ da mà diệt sói.  Ông muốn trừ hoạ sói.  Giờ con sói chết rồi, như vậy là đạt yêu cầu rồi phải không ông?  Ta có một nhúm người, đào đến sáng mai cũng không xong.  Mọi người có thể làm chứng: Ông đã đuổi được một đàn sói, diệt hai con: buộc một con nhảy xuống vực, một con chết ngạt trong hang.  Với lại, da mùa hè bán không được mấy đồng... Batu quay lại hỏi: Mọi người làm chứng được không?  Tất cả đồng thanh: Đồng ý!  Bao Thuận Quý cũng đã thấm mệt, ông ta hút một hơi thuốc, nói: Nghỉ một lát rồi về!
Dương Khắc đứng lặng trước cửa hang, linh hồn cậu như đã bị đá đè nát, toàn thân rã rời.  Cậu những muốn quì xuống vái đống đá theo nghi thức tôn vinh tráng sĩ của người Mông Cổ, nhưng cậu vẫn đứng yên.  Cậu xin Batu một điếu thuốc, rít mấy hơi rồi hai tay nâng điếu thuốc lên quá đầu, cậu lạy đống đá ba lạy, sau đó cắm điếu thuốc vào kẽ đá.  Đống đá đã trở thành nấm mồ, làn khói nhạt lững lờ bay lên không trung, đem theo linh hồn bất khuất của con sói mẹ lên trời xanh.
Đám thợ săn đứng lên.  Họ  không cắm điếu thuốc vào kẽ đá như Dương Khắc đã làm.  Người Mông Cổ coi điếu thuốc hút dở là không còn tinh khiết để tế thần, nhưng họ cũng không trách cứ Dương Khắc.  Họ tắt thuốc, đứng nghiêm, ngửa mặt nhìn trời, ánh mắt thành kính tiễn linh hồn sói mẹ lên thiên quốc.  Bao Thuận Quý không dám hút tiếp cho đến khi điếu thuốc cháy ta.
Batu nói với Bao Thuận Quý: Như ông đã thấy, kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn ai cũng như hai con sói này, có chết cũng khiến kẻ thù kinh hồn táng đởm.  Là con cháu người Mông Cổ gốc thảo nguyên, ông cũng nên tôn kính thần linh người Mông mới phải.
Dương Khắc trong lòng cảm khái, cậu nghĩ: Chết cũng là chiến đấu, sói tổ đã bồi dưỡng nên biết bao võ  sĩ Mông Cổ.  Thời xưa, người Hán đông gấp mấy trăm lần Mông Cổ, nhưng cung đình cũng như trong dân theo một triết lý chết vinh không bằng sống nhục, lối sống thực dụng của tộc nông canh Hoa Hạ ấy duy trì cho đến bây giờ.  Chết vinh không bằng sống nhục trở thành tinh thần dân tộc, và cái loại tinh thần dân tộc đó đã đẻ ra bao nhiêu là Hán gian, ngụy quân, khiến dân du mục khinh bỉ và e ngại.  Từ cuối đời Đường trở đi, người Hán không ngóc đầu lên nổi, liên tiếp trở thành vong quốc nô.  Thời đại huy hoàng Tần Hoàng Vũ Đế Đường Tôn đi đâu rồi?  Phải chăng là vì những đàn sói ở đại lục đã bị người Hán tiêu diệt sạch từ giữa và cuối đời Đường?  Dương Khắc lại có một vấn đề mới để thảo luận suốt đêm với Trần Trận.
                         0O0
Khi đội săn sắp về tới khu lều, Bao Thuận Quý bảo Batu: Cậu về trước đun nước sôi, tôi đi bắn thiên nga.  Tối nay ta nhậu.  Dương Khắc hốt hoảng kêu: Ông chủ nhiệm, cháu van ông, không được bắn thiên nga!  Bao Thuận Quý không ngoảnh lại: Tôi phải bắn một con thiên nga để giải sui mấy ngày hôm nay.
Dương Khắc đuổi theo can ngăn, nhưng ngựa Bao Thuận Quý chạy nhanh, thoáng cái đã tới bên hồ.  Các loài thủy cầm không đề phòng người có súng, vẫn bay là là trên mặt hồ.  Từ bãi sậy bay lên bảy tám con thiên nga lớn y như những chiếc máy bay rời đường băng, vọt lên cao, từng đôi cánh rộng bay tới trước mặt Bao Thuận Quý.  Dương Khắc đuổi chưa đến nơi, Bao Thuận Quý đã nổ liền ba phát, con thiên nga trắng rơi ngay trước mặt Dương Khắc.  Con ngựa Dương Khắc giật mình hất cậu ngã xuống bãi cỏ ven hồ.
Con thiên nga giãy giụa trên bãi cỏ.  Dương Khắc đã nhiều lần trông thấy cái chết thảm của con thiên nga trong vở kịch, nhưng con thiên nga trước mặt không được ung dung thanh nhã như con thiên nga trong kịch, mà như con ngỗng bị cắt tiết, chân giẫy đạp, đôi cánh đập đập cố đứng lên, bản năng sống khiến nó giãy giụa cho tới khi chết hẳn.  Dương Khắc mấy lần định bế nó lên nhưng đều vồ hụt.  Cậu giương mắt nhìn dòng máu mảnh mai tia xuống cỏ, cho đến giọt cuối cùng.
Cuối cùng, Dương Khắc bế con thiên nga lên, cơ thể mềm mại của nó hãy còn ấm, cái cổ xinh đẹp không thể đánh một dấu hỏi đầy sức mạnh nữa, nó như con bạch xà bị rút xương sống, mềm oặt, những chiếc lông nhuốm máu bay tản mát bên hồ lần đầu tiên in dấu chân người.  Dương Khắc thận trọng nâng đầu con thiên nga, đồng tử trong mắt nó phản chiếu trời xanh, như ông trời đang mở to cặp mắt phẫn nộ.  Cậu ứa nước mắt, cái sinh mệnh cao quý, cánh bằng vạn dặm đem lại cho con người biết bao ước mơ cháy bỏng, giờ bị người ta giết như giết một con gà rừng.
Dương Khắc bi phẫn khó nén, cậu những muốn nhảy xuống hồ bơi vào bãi sậy báo động cho đàn thiên nga.  Ráng chiều vừa tắt, ngồi bên nồi thịt thiên nga chỉ mỗi Bao Thuận Quý, không ai nói chuyện với ông ta.  Đám thợ săn ăn cơm với thịt lợn rừng, Dương Khắc tay càm dao run bắn khi xẻo thịt.
Đàn thiên nga kêu ai oán suốt đêm trên hồ.
                         0O0
Nửa đêm, Dương Khắc bị đàn chó học tiếng sói tru đánh thức.  Chó nhà không tru nữa, cậu mơ hồ nghe có tiếng sói tru thê thảm ngắt quãng.  Tiếng tru yếu ớt của con sói xuyên qua trái tim cậu.  Con sói già chưa bị đá đè chết, mình đầy vết thương, nó bò suốt đêm lên núi. Lúc này, chắc chắn nó đang đứng trước một người vợ quá cố cất tiếng tru thảm thiết, đau xót, không thiết sống.  Có thể nó định bới đất đá cố nhìn lần cuối người bạn đời, nhưng không còn hơi sức.  Tiếng kêu của con thiên nga mất vợ hòa với tiếng tru của con sói già mất bạn đời hợp thành "khúc bi tráng trên thảo nguyên", thê thảm hơn, đau thương hơn "khúc ca bi tráng" của Traicopxki.
Dương Khắc nước mắt đầm đìa cho tới lúc rạng sáng.
Mấy hôm sau, Saxuleng từ trụ sở mục trường trở về, nói Bao Thuận Quý chất đầy nửa xe com măng ca những khóm bạch thược, chở lên thành phố.

________Hết chương 19________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:55:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20

Các kỵ sĩ của cha ta anh dũng như sói,
mà kẻ thù của họ thì dát như cừu.

"Khuyết đặc lặc bi văn" dẫn từ (Pháp)
Pierre Renouvin "đế quốc thảo nguyên"


Những đám mây sáng lên dưới cái nắng đầu hạ trên cao nguyên, sáng nhức mắt, không khí sặc mùi hành tỏ dại do đám cừu non ợ ra.  Mọi người buộc phải chớp liên tục để mắt không bị khô.  Trần Trận căng mắt nhìn bãi chăn và khu lều trại mới, chỉ sợ sói mẹ dẫn đàn sói đến cướp lại con và trả thù lũ cừu.
Hơn ba chục lều của đại đội Hai dựng ở góc tây bắc thung lũng, sát chân núi, cứ hai lều tổ chức một Haotho, khoảng cách giữa hai haotho chưa đến một dặm, các tổ sản xuất cũng rất gần nhau.  Lều trại bố trí như hiện nay co lại đến mấy chục lần so với trước kia.  Trước kia hai haotho cách nhau mấy chục dặm.  Ông Pilich và ông Ulichi ra lệnh dựng lều kiểu này là để đề phòng đàn sói khu cũ và khu mới liên kết hoặc luân phiên công kích người và gia súc.  Trần Trận cảm thấy đàn sói Ơlon dù sao cũng không chọc thủng được phòng tuyến dày đặc người và chó như thế này.  Chỉ cần chúng công kích một chuồng trại, lập tức bị rất nhiều chó dữ bao vây. Cảm thấy đỡ lo, Trần Trận nheo mắt ngắm bãi chăn mơi.
Mấy chục đàn bò và cừu của đại đội Hai đều đã kéo vào bãi chăn mới.  Đất hoang chỉ trong ngày đã biến thành mục trường, khắp nơi vang lên tiếng ca, tiếng ngựa hí, tiềng cừu và tiếng rống của bò.  Thung lũng rộng lớn đầy ắp niềm vui và hơi người, hơi ngựa, hơi cừu và hơi bò.
Đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc đều mỏi mệt sau một chặng đường dài, tản ra gặm cỏ ở một cái dốc gần đấy.  Trần Trận hỉ hả bảo Dương Khắc: Bãi cỏ này so với bãi cỏ cũ khác nhau một trời một vực.  Mình có thể tự hào vì đã tìm ra nó.  Nhiều lúc cứ nghĩ như nằm mơ, đàn cừu như được ăn cỏ trong vườn địa đàng.
Dương Khắc nói: Mình cũng nghĩ vậy, đây là thảo nguyên mà không nơi nào có, thảo nguyên của thiên nga.  Giá như không có Bao Thuận Quý, không có đám thanh niên trí thức, không có các hộ ngụ cư thì hay biết mấy!  Đảm bảo mục dân Ơlon có thể chung sống hòa bình với thiên nga.  Lãng mạn biết bao, chăn cừu dưới bầu trời xanh có thiên nga bay lượn.  Trong vườn địa đàng chưa chắc có thiên nga.  Vài năm nữa lấy một cô vợ Mông Cổ dám bẻ gãy đuôi sói, đẻ ra một thằng con dám chui vào hang bắt sói con, cuộc đời thế là viên mãn.  Rít một hơi thuốc, Dương Khắc nói tiếp: Thái tử Đại Đường còn muốn trở thành dân thảo nguyên huống chi mình.  Thảo nguyên là nơi yêu thích chó và cần đến con chó, không như ở Bắc Kinh, chỗ nào cũng "đập nát cái đầu chó", "thằng chó con" của "phần tử học thuật phản động quyền uy tư sản" như tôi được lên lập nghiệp ở thảo nguyên là may rồi.
Trần Trận hỏi lại: Nếu như không có thanh niên trí thức thì tốt, cậu không phải thanh niên trí thức hay sao?
Dương Khắc nói: Tự đáy lòng, kể từ khi mình thành tâm thờ sói tổ, mình đã trở thành người Mông Cổ.  Người thảo nguyên Mông Cổ quả thực coi thảo nguyên là sinh mạng lớn, quan trọng hơn sinh mạng bản thân.  Đến khu chăn nuôi, mình thấy người Mông Cổ - nông nghiệp đáng ghét, chả trách dân tộc du mục đánh nhau mấy nghìn năm với dân tộc nông canh.  Nếu mình sinh ra vào cái thời ấy, mình cũng xin lên thảo nguyên như Vương Chiêu Quân, dù chỉ làm tùy tùng, vệ binh, mình cũng làm.  Nếu xảy ra chiến tranh, mình đứng về phía sinh mạng lớn thảo nguyên, thay trời hành đạo, thay thảo nguyên hành đạo.
Trần Trận cười: Đừng đánh nữa.  Trong lịch sử hai dân tộc nông canh và thảo nguyên đánh nhau hoài, rồi sau đó lại hòa thân, thông hôn.  Kỳ thực, từ lâu chúng ta đã là hậu duệ của giống lai giữa dân tộc thảo nguyên và dân tộc trung nguyên.  Ông Ulichi bảo rằng, bãi chăn mới có thể thư giãn người và gia súc Ơlon bốn năm năm.  Ông ấy đã có công lớn như thế, phục chức cho ông ấy thì hay quá.  Điều tôi quan tâm là lực lượng thảo nguyên như các ông Pilich và Ulichi, liệu có chống lại thế lực cướp bóc thảo nguyên?
Dương Khắc nói: Cậu ngây thơ quá.  Có lần mình nghe bố mình nói, tương lai của Trung Quốc là giảm dân số xuống dưới năm trăm triệu.  Nhưng sự bùng nổ dân số nông canh không ai có thể ngăn nổi.  Tangcoli (trời) của Mông Cổ và ông trời của Trung Quốc đều chịu.  Hai mươi năm nay chẳng nói biến nông dân thành công nhân, thị dân và thanh niên trí thức thành thị đó sao!  Những muốn đưa hết thanh niên trí thức về nông thôn, làm nông dân loại hai.  Mấy triệu thanh iên trí thức chúng mình chẳng phải bị quét khỏi thành phố đó sao.  Nếu chỉ có lực lượng của ông Pilich và Ulichi thì chẳng khác châu chấu đá xe.
Trần Trận trợn mắt: Xem ra sói tổ vẫn chưa thực sự là sói tổ trong lòng cậu!  Sói tổ là gì?  Sói tổ là sức mạnh tinh thần vĩ đại lấy một chọi mười, chọi trăm, chọi nghìn, chọi vạn.  Sói tổ là ông tổ bảo vệ sinh mạng lớn thảo nguyên.  Thiên hạ xưa nay vốn sinh mạng lớn điều hành sinh mạng nhỏ, mệnh trời quản mệnh người.  Trời đất không còn sinh mệnh nữa thì cái mệnh nhỏ nhoi của ta là cái gì... Nếu như thật sự sùng bái sói tổ thì phải đứng về phía sinh mệnh lớn trời đất, thiên nhiên, thảo nguyên, cho dù chỉ còn một con sói cũng đánh đến cùng.  Hãy tin vào quy luật của tự nhiên: Vật cực tất phản (cái gì đã tới ngưỡng, tất đi ngược lại), trời sẽ giúp thảo nguyên trả thù.  Đứng về phía sinh mạng lớn thì kết quả xấu nhất là chết cùng thế lực phá hoại sinh mệnh lớn, rồi linh hồn bay lên trời.  Đời người kết cục như thế, có chết cũng không ân hận.  Hầu hết sói thảo nguyên chết trong chiến đấu.
Dương Khắc nhất thời không nói gì.
Sói con thấy tầm nhìn được mở rộng thì tò mò và phấn chấn vô cùng.  Có khi nó nhìn không chán đàn bò rồng rắn ra sông uống nước, lúc lại nhìn đàn cừu trắng như tuyết mà ngẫm nghĩ.  Lát sau, nó nhìn chim lớn chim  nhỏ bay lượn trên hồ.  Sói con hoa cả mắt, nó chưa bao giờ cùng lúc nhìn thấy nhiều thứ như thế.  Ở bãi cừu đẻ trước khi chuyển nhà, cái haotho của Trần Trận cách nhà ông Pilich bốn năm dặm, khi ấy sói con chỉ trông thấy một đàn cừu, một cái chuồng xây bằng đá, hai cái lều Mông Cổ và sáu bảy cỗ xe.  Trên đường di chuyển, sói con bị nhốt trong  chiếc thùng vốn đựng phân khô, hai ngày một đêm chẳng nhìn thấy gì.  Khi nó lại nhìn thấy nắng thì cảnh vật đã như thế này.  Sói con phấn khởi nhảy như choi choi, nếu không có sợi xích sắt, nó đã theo đàn chó ra bãi chăn mới đùa nghịch cho đã hoặc vui đùa với lũ chó cún.
Trần Trận buộc phải nghe lời ông Ulichi, dùng xích sắt xích sói con, một đầu sợi xích đấu với còng cổ, đầu kia đấu với một cái khuyên to có thể xoay quanh một cái cọc bằng bắp tay đóng sâu xuống đất hai thước, phần ló trên mặt đất cao gần một mét.  Đầu cọc còn lồng một cái đai giữ cho cái vòng không tụt ra.  Xích này có thể xích bò, kết cấu của nó tránh cho con vật đi vòng quanh cọc, sợi xích cuộn dần lại, cuối cùng bị chết vì nghẹt thở.
Một tuần trước khi dọn nhà, sói con đã mất tự do.  Nó bị xích lại bằng một sợi xích sắt dài một mét rưỡi.  Nó bị tù.  Trần Trận xót ruột nhìn sói con chiến đấu với sợi xích suốt một tuần lễ, nửa đoạn xích ướt nhèm nhưng không đứt, không tuột khỏi cọc, nó đành sống qua ngày trong cái nhà tù lộ thiên đường kính ba mét.  Trần Trận tăng cường giờ giải lao cho con sói để bù lại sự ngược đãi của cậu đối với nó.  Sói con sung sướng nhất là lúc có con cún nào chơi với nó trong nhà giam, nhưng nó không kìm được cắn đau đến mức con cún phải kêu lên rồi bỏ chạy, cuối cùng nó lại chỉ có một mình.  Con Nhị Lang thường đến với nó, đôi khi còn cố ý nằm nghỉ trong cái chuồng ba mét, mặc cho sói con chẳng phân biệt già trẻ, trèo lên lưng lên cổ lên đầu, cắn tai cắn chân cắn đuôi Nhị Lang.
Trong ngày, nội dung quanh trọng nhất của sói con là nhìn chăm chăm cái chậu thức ăn dành cho nó, sốt ruột chờ đợi đổ đầy thức ăn, bê đến trước mặt nó.  Trần Trận không biết sói con có hiểu vì sao nó bị tù, mắt nó lúc nào cũng đỏ ngầu giận dữ: Vì sao lũ chó cún được tự do, còn nó thì không?  Vậy nên, nó thường nổi cáu với lũ chó cún, cắn chảy máu.  Trong điều kiện du mục nguyên thủy nuôi sói bên cạnh đàn cừu đàn chó và người, nếu không đối xử phi nhân với sói thì chỉ một sơ suất là sói cắn cừu cắn người, rốt cuộc không tránh được tội chết.  Trần Trận khẽ nói điều này với sói con không biết bao nhiêu lần, nhưng nó vẫn không thèm nghe.  Trần Trận và Dương Khắc bắt đầu lo cách đối xử rất không công bằng đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển tâm lý của con sói con. Xích lại, sói không có điều kiện tự do phát triển cá tính, vậy thì con sói lớn lên trong điều kiện ấy có còn là sói nữa không?  Nó sẽ khác xa con sói hoang dã mà Trần Trận và Dương Khắc muốn tìm hiểu.  Công việc nghiên cứu khoa học của hai cậu ngay từ đầu đã gặp phải vấn để chí mạng là điều kiện không khoa học.  Nếu như nuôi con sói trong lồng sắt ở một địa điểm nhất định hoặc trong một cái chuồng xây bằng đá, con sói tương đối tự do, cũng đỡ gây nguy hại cho người và gia súc.  Trần Trận và Dương Khắc mơ hồ cảm thấy các cậu bị kẹt trong cái "thế cưỡi sói", có lẽ cuộc thí nghiệm khoa học này thất bại ngay từ trong trứng.  Dương Khắc đã có lần ngỏ ý thả con sói nhưng bị Trần Trận cự tuyệt thẳng thừng.  Thực tình Dương Khắc cũng không muốn thả, cậu ngày càng thích con sói.
Đã vào mùa giao phối tự do của đàn bò trên thảo nguyên.  Thần tự do trên thảo nguyên, những con bò mộng to khoẻ ngửi thấy mùi bò cái, rầm rộ kéo đến bãi chăn mới tìm đám thê thiếp.  Sói con trông thấy con bò mộng thì rất sợ, rúc vào một bụi cỏ.  Khi con bò mộng nhảy lên lưng con bò cái, sói hoảng sợ giật lùi vướng xích ngã lăn chiêng, thè lưỡi trợn mắt.  Sói con thường quên sợi xích cổ.  Khi con bò mộng bỏ đi với con khác, bò cái gật đầu với nó, nó mới trở lại bình tĩnh.
Con sói xem ra cũng vừa sy nơi giam mới.  Nó bắt đầu đùa giỡn trong nhà giam của nó.  Lãnh địa mới cỏ non cao hàng thước, thoải mái hơn nhiều so với cái cũ chỉ toàn là cát.  Sói con nằm phơi bụng, quay đầu bứt những cọng cỏ, chỉ có vậy mà nó có thể chơi với đám cỏ hơn nửa giờ.  Sói con sức sống mãnh liệt, nó tìm ra cách vận động để cháy bùng lên ngọn lửa sinh mạng, lại bắt đầu chạy quanh chuồng, hết tốc lực, hết vòng này đến vòng khác không biết mệt.
Sói con chạy như điên một hồi, đột nhiên chững lại, quay đầu chạy ngược chiều kim đồng hồ.  Chạy mệt, nó nằm sấp như chó, há miệng thở cho đỡ nóng.  Trần Trận nhận ra những ngày này thời gian và số vòng chạy của con sói tăng lên mấy lần. Cậu chợt hiểu ra con sói có ý tăng cường vận động ra mồ hôi để thay lông.  Ông Pilich bảo, sói con thay lông lần đầu muộn hơn sói lớn rất nhiều.
Bãi cõ sợ nhất bị giẫm nát, cỏ non trên đường chạy của sói con chẳng còn ngon vào nguyên vẹn.
Đột nhiên phía đông nam rộ lên tiếng vó ngựa, Trương Kế Nguyên đầu quấn băng trắng phi ngựa tới.  Hai người giật mình chạy ra đón.  Trương Kế Nguyên hét to: Đừng, đừng!  Con ngựa cậu ta cưỡi hung hăng không cho ai lại gần.  Khi ấy hai người mới phát hiện con ngựa cậu ta cưỡi vừa qua kỳ huấn luyện thì vội tránh xa, để cậu ta lựa lúc mà nhảy xuống.
Ngựa Mông Cổ trên thảo nguyên Mông Cổ tính cách bạo liệt, nhất là ngựa vùng Uchumuxin.  Luyện ngựa chỉ tiến hành khi con ngựa được ba tuổi và vào đầu xuân.  Đầu xuân là lúc ngựa gầy nhất, mà vì ngựa ba tuổi đã có thể chở một người.  Nếu như để lỡ thời điểm đó, khi con ngựa bốn tuổi là không thể đóng yên, đóng hàm thiếc, dứt khoát không dạy nổi nữa.  Ngay dù nhờ người phụ giúp, đè đầu vít cổ đóng được yên cương thì con ngựa vẫn không chịu, hất ngã bằng được người cưỡi.  Có dùng phương phát luyện ngựa của Võ Tắc Thiên cũng chịu.  Con ngựa đó rất có thể suốt đời không người cưỡi.
Hàng năm vào mùa xuân, mã quan chọn trong đàn những con ngựa ba tuổi tính nết không quá bạo liệt giao cho các mã quan luyện cưỡi.  Ai luyện được con nào, được cưỡi không con đó một năm.  Nếu như sau một năm cảm thấy không hay bằng những con khác do mình luyện được, có thể trả con ngựa về đàn.  Đương nhiên, những con ngựa sau khi thụ huấn đều có tên.  Thảo nguyên Ơlon có truyền thống đặt tên ngựa như sau: Tên người luyện ngựa cộng với màu lông con ngựa.  Thí dụ: Pilich Hồng, Batu Trắng, Lanmutrac Đen, Tang Kiệt Xám, Saxuleng Vàng, Đanchi Hạt giẻ, Dương Khắc Đốm Hoa, Trần Trận Hoa v..v.. Tên đã đặt dùng hco cả đời.  Tên ngựa vùng Ơlon rất ít khi trùng.  Lấy tên người dạy đặt tên cho ngựa là hình thức khen ngợi người ấy dũng cảm.  Những kỵ sĩ có nhiều ngựa mang tên mình, rất được mọi người quý trọng.  Nếu như người dạy ngựa thấy con ngựa mình dạy là ngựa tốt, anh ta có thể yêu cầu sử dụng con ngựa ấy, nhưng phải đổi một con trong số ngựa do anh ta luyện.  Nói chung một mã quan có thể đổi một con yếu nhất trong bốn năm con, năm sáu con mang tên anh ta, đổi lấy con ngựa mới.  Trên thảo nguyên, ngựa là sinh mạng của người.  Không có ngựa tốt, không đủ ngựa và sức ngựa thì không ra khỏi tuyết dày, lửa dữ hoặc quân địch truy kích, không đưa kịp thầy thuốc và thuốc men, không thông báo kịp tình hình quân sự và thiên tai, không đuổi kịp không bắt được sói, không đuổi kịp đàn bò đàn cừu bị bạch mao phong... Ông già Pilich nói: Thảo nguyên mà không có ngựa thì chẳng khác sói sập bẫy đứt hai chân.
Dương quan (người chăn cừu) muốn có ngựa tốt thì phải tự luyện lấy mà cưỡi.  Người thảo nguyên cho rằng phải cưỡi con ngựa do người khác luyện là đáng xấu hổ.  Dương quan, ngưu quan (người chăn bò) vùng Ơlon người nào có nhiều ngựa tốt nhất là địa vị cao sang nhất, vẻ vang nhất và có nhiều người tình nhất.  Thảo nguyên Mông Cổ khuyến khích con trai chui vào hang bắt sói, luyện ngựa bất kham, đánh nhau với sói dữ, đấu vật, ra trận, trở thành anh hùng.  Thảo nguyên Mông Cổ là thảo nguyên chiến đấu, là thiên hạ của những người dũng cảm.  Các Khan Mông Cổ là do liên minh các bộ tộc bầu ra, mà không phải cha truyền con nối.  Trong lịch sử, người Mông Cổ hoàn toàn không chấp thuận những thái tử bất tài lên ngôi.  Thời Nguyên - Mông, những thái tử bất tài thường bị anh em trong hoàng tộc thay thế.
Trương Kế Nguyên vừa cho ngựa chạy quanh, vừa nhẹ nhàng rút một chân ra khỏi bàn đạp, đúng lúc con ngựa phân tâm, cậu khoát chân gọn gàng nhảy xuống.  Con ngựa giật mình cất mình đá hậu liền mấy cái suýt văng cả yên.  Trương Kế Nguyên vội co dần dây cương kéo đầu con ngựa sát người để tránh đá hậu, mất thêm ít thời gian nữa mới cột được dây cương vào cỗ xe bò, con ngựa giằng dây cương khiến cỗ xe rung lên từng chập.
Trần Trận và Dương Khắc thở một hơi dài nhẹ nhõm.  Dương Khắc nói: Thằng cha này liều thật!  Con ngựa dữ như thế mà cậu dám cưỡi.  Trương Kế Nguyên lau mồ hôi trán, nói: Sáng nay nó vừa hất mình xuống đất, còn đá hậu một cú vào đầu khiến mình ngất đi, may mà có Batu ở bên.  Dạo chưa có cỏ non mình đã luyện hai lần, không xong, sau phải hai lần nữa mới tạm ổn.  Không ngờ sau vụ cỏ xuân nó béo lên, không chịu cho cưỡi.  May mà nó còn nhỏ, vó chưa tròn, nếu là con ngựa trưởng thành thì mình toi mạng rồi.  Đây là một con ngựa tốt, ba năm nữa dứt khoát nổi tiếng.  Ở Ơlon, ai cũng thích ngựa tốt, mình không liều sao được.
Trần Trận nói: Cậu ngày càng khiến bọn mình không yên tâm.  Chừng nào cậu luyện được con ngựa tốt mà không cần đến bông băng thì mới coi là đã thành tài.
Trương Kế Nguyên cười: Phải suýt soát hai năm nữa.  Mùa xuân này mình luyện bốn con, con nào cũng khỏi chê.  Sau này các cậu đi xa thiếu ngựa thì tìm mình.  Mình còn định đổi ngựa tốt cho hai cậu nữa kia.
Dương Khắc cười: Thằng cha này gan to lên thì khẩu khí cũng gớm.  Ăn bánh của người không ngon, tự mình làm bánh ăn.  Tự mình đấy nhé.  Năm nay tất cả cho sói con, không còn thì giờ nữa.  Để sang năm.
Trần Trận cũng vừa cười vừa nói: Hai cậu chất sói hơi nhiều đấy, đúng là gần mực thì đen, gần sói thì cứng đầu.
Đàn ngựa uống nước xong, chậm rãi trở lại trảng cỏ đối diện lều Trần Trận.  Trương Kế Nguyên nói: Chỗ này như một đài quan sát lý tưởng, từ trên nhìn xuống, mọi vật trong tầm mắt, nghe kể nhiều lần hôm nay mới thấy.  Trước đây đại đội không cho đàn ngựa ở gần, các cậu chưa có dịp thấy, hôm nay cho các cậu mở mắt ra, cho biết thế nào là ngựa Mông Cổ.
Bãi chăn mới rất rộng, đủ cỏ đủ nước, mới có gia súc của một đại đội nên đại đội cho phá lệ, ngựa uống nước xong được ăn cỏ ngay tại đây một thời gian. Không người dồn đuổi, đàn ngựa dừng lại ăn cỏ.
Trần Trận và Dương Khắc lập tức bị những con ngựa giống cao to béo khoẻ che khuất tầm nhìn.  Chúng đã thay lông, bóng mượt, bóng hơn sắc gấm Mông Cổ.  Con ngựa rùng mình một cái, những thớ thịt sau làn da bóng loáng rùng rùng chuyển động như từng đàn cá chép lớn đang bơi.  Ngựa giống khác với ngựa thường ở chỗ bờm rậm như bờm sư tử che khuất mắt, cổ và hai chân trước, đoạn tiếp giáp cổ với vai lông dài nhất, quá gối, thậm chí quết đất.  Khi chúng cúi đầu gặm cỏ, bờm che khuất nửa thân như con yêu quái không đầu không mặt xõa tóc.  Khi chúng vươn cổ phi nước đại, lông bờm trên cái cổ dài phần phật trước gió như lá quân kỳ của quân đoàn kỵ binh tinh nhuệ trên thảo nguyên, khiến kẻ thù nhìn mà khiếp đảm.  Ngựa giống hung hãn nóng nảy, bất kham, không ai dám luyện, bắt hoặc cưỡi.  Vai trò của ngựa giống trên thảo nguyên gồm nhân giống và đảm bảo đàn ngựa thuần chủng.  Ngựa giống rất có tinh thần trách nhiệm đối với gia tộc, dám dấn thân khi gặp nguy hiểm, nên chúng càng hung hãn ngoan cường.  Nếu nói bò giống là loại giao phối xong là biến, thì ngựa giống đúng là bậc đại trượng phu.
Chỉ lát sau, kịch chiến trong bầy ngựa bắt đầu.  Tất cả ngựa giống hung thần ác quỉ đều vào cuộc.  Mỗi năm một lần, cuộc săn đuổi giành con cái  trong đàn ngựa Mông Cổ bắt đầu nổ ra dưới chân đài quan sát.
Ba người ngồi trên bãi cỏ bên cạnh chuồng của con sói, lặng lẽ quan sát.  Sói con cũng ngồi ngay trên đường biên chăm chú nhìn đàn ngựa đánh nhau, lông bờm rung rung như sói đói trong tuyết.  Con sói theo bản năng rất sợ những con ngựa giống hung hãn, nhưng nó vẫn nhìn mê mải.
Đàn ngựa đông hơn năm trăm con, có mười mấy dòng họ, mỗi con ngựa giống cai quản một dòng.  Dòng lớn nhất có bảy tám mươi con, nhỏ nhất chưa tới mười bốn con.  Thành viên của dòng họ thê thiếp con cái của con ngựa giống hợp thành.  Trong đàn ngựa cổ xưa ở Mông cổ, về mặt giao phối còn văn minh hơn một số người.  Trong hoàn cảnh khốc liệt của thảo nguyên, để có thể sống còn trước sự bao vây công kích của bầy sói, đàn ngựa kiên quyết loại trừ giao phối trực hệ, nhằm nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đàn ngựa.
Hàng năm vào mùa hạ, khi con ngựa cái tơ ba tuổi động đực, ngựa giống gỡ bỏ bộ mặt hiền từ của người cha, kiên quyết đuổi nó ra khỏi đàn, không cho phép quanh quẩn bên mẹ nó.  Ông bố bờm dài như nổi cơn điên đuổi cắn con gái như cắn sói.  Ngựa con bị cắn xé kêu khóc vang trời, đàn ngựa rối như canh hẹ.  Ngựa con vừa chạy tới bên mẹ chưa kịp thở thì ngựa bố đã lao tới vừa đá vừa cào vừa cắn không cho phép chống lại.  Ngựa con bị đòn tơi tả đành phải chạy khỏi đàn, hí thảm thiết, cầu xin ngựa bố rủ lòng thương.  Nhưng ngựa bố trợn mắt khịt mũi cào cấu không thương tiếc, không cho ngựa con trở lại đàn.  Ngựa mẹ tỏ ý bảo vệ con, liền bị ngựa bố thượng cẳng chân hạ cẳng tay lập tức.  Rút cục, đám ngựa mẹ đành giữ thái độ trung lập, có lẽ chúng hiểu hành vi của  chồng.
Cuộc chiến đuổi con gái trong các đàn ngựa vừa kết thúc, cuộc ác chiến giành con cái quyết liệt hơn giữa các ngựa giống bắt đầu.  Đây mới thực sự bùng phát một hỏa diệm sơn về hùng tính và tính hoang dã.  Những con ngựa cái tơ vừa mới bị đuổi khỏi đàn lập tức trở thành đối tượng tranh cướp của những con đực khác dòng họ.  Tất cả những con ngựa giống đều đứng lên bằng hai chân sau mà cắn xé lẫn nhau, khiến đàn ngựa cao lên gấp đôi.  Chúng dùng hai vó trước nặng chịch làm vũ khí, vung lên như chùy, tung ra như nắm đấm, chém xuống như búa.  Vó chạm nhau, răng chạm nhau, những con ốm yếu chạy dạt ra, những con khoẻ bất phân thắng bại: có con bị vỡ đầu, rách ngực, què chân, nhưng chúng không có ý bỏ cuộc.
Con ngựa cái tơ nhân khi lộn xộn chạy về nhà, lại bị ông bố hung dữ và kẻ cướp vợ truy đuôi. Ngựa giống và kẻ kia bỗng trở thành chiến hữu, đuổi nó đến nơi phải đến.
Một con ngựa bạch tơ trở thành mục tiêu tranh giành của bốn chàng ngựa giống hung hăng.  Con ngựa toàn thân trắng như tuyết, mịn như nhung, cặp mắt lồi như sừng hươu mới nhú, dáng cao mà thanh thoát, khi chạy uyển chuyển như  hươu, Dương Khắc luôn miệng khen: Mình mà là ngựa giống thì sống chết cũng phải chiếm bằng được, cướp vợ hấp dẫn hơn hỏi vợ.  Mẹ kiếp, chế độ hôn nhân của đàn ngựa cũng do sói quyết định.  Sói là kẻ thù tự nhiên và là khắc tinh của đàn ngựa.  Không có sói, chắc ngựa giống không tàn nhẫn đến thế, ngựa cái tơ cũng không bị cưỡng hôn dã man.
Hai chú ngựa giống đánh nhau đang say, y hệt đôi sư tử trên đấu trườn La Mã, nộ khí xung thiên, sống còn chết bỏ.  Trương Kế Nguyên giậm chân than: Vì một con cái tơ mà bốn chàng ngựa giống to đùng đánh nhau đã mấy ngày nay.  Con ngựa này ai thấy mà chẳng yêu, mình đặt tên cho nó là nàng công chúa Tuyết.  Cô công chúa đáng thương quá, hôm nay ở một hôm với đàn ngựa của chàng đực này, ngày mai lại bị chàng đực khác cướp đi, sau đó hai chàng tiếp tục nện nhau, ngày thứ ba công chúa lại bị cướp về.  Đến khi hai chàng này đánh nhau hết hơi, đột nhiên có kẻ cạnh tranh thứ ba gian manh  càng hung hãn hơn, cô công chúa lại vào cửa nhà khác.  Còn gì là công chúa!  Nữ nô lệ trăm phần trăm, mặc cho đám ngựa giống tranh đi tranh lại, suốt ngày chạy đôn chạy đáo, cỏ rất non mà không ăn được mấy miếng.  Các cậu xem, nó gầy đi rồi kìa.  Mấy hôm trước nó đẹp lắm.  Mùa xuân năm nào cũng đánh nhau khiến nhiều con ngựa cái học được cách đối phó.  Về nhà mình thì không được rồi, liền bắt bồ với một chàng đực cực kỳ hung hãn làm chỗ dựa, khỏi phải giành đi giật lại, chịu nỗi khổ về xác thịt.  Ngựa cái tơ rất thông minh, từng chứng kiến cảnh sói ăn thịt ngựa choai hoặc ngựa non máu me vung vãi, hiểu rằng không có sự bảo vệ của ông bố hoặc người chồng lợi hại, có khả năng bị sói ăn thịt.  Tính hoang dã, tinh thần chiến đấu dũng mãnh của ngựa giống Mông Cổ, nói cho cùng, do sói bức bách mà hình thành.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách