Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Một Số Tác Phẩm Khác Của Arthur Conan Doyle | Arthur Conan Doyle

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:24:47 | Chỉ xem của tác giả
04. Hồn ma hiện lên từ đáy biển (tiếp)

- Ông chớ lo sợ, ông nói trong lúc cười mỉm. Tôi đã mắc bệnh lở mụn nước rất tệ.
- Nhưng chuyện đó không dính líu gì tới bệnh lở mụn nước mà !
- Không, đó là Luân Đôn. Đó là việc thở hít cái không khí tệ hại đó. Ngày mai tôi sẽ mạnh khoẻ hơn nhiều. Trên tàu có một y sĩ, thế là tôi sẽ được săn sóc chu đáo. Bây giờ tôi sẽ đi đây.
- Không, tôi nói với ông trong khi bắt ông phải ngồi xuống. Việc đó sẽ là đưa sự đùa cợt đi quá xa đấy. Ông sẽ không nhúc nhích khỏi nơi này trước khi gặp một vị y sĩ. Hãy ở yên chỗ ông đang ngồi.
Tôi cầm lấy cái mũ và vội vã đi tới nhà một vị y sĩ ở ngay gần nhà tôi. Tôi đưa ông ấy về nhà tôi ngay lập tức, nhưng phòng khách của tôi trống không và Vansittart đã đi khỏi. Tôi bấm chuông, anh đầy tớ báo với tôi rằng vị quý khách đã sai gọi một cỗ xe. Ông ấy bảo người đánh xe đưa ông ấy đến bến tàu.
- Vị quý khách có vẻ ốm yếu không? Tôi hỏi.
- Ốm yếu à? Anh đầy tớ mỉm cười trả lời. Thưa ông không, ông ấy hát ầm ĩ!
Sự bào tin này đã không làm tôi yên tâm chút nào, nhưng tôi nghĩ rằng ông đi tới tàu Eastem Star, và có một y sĩ ở trên tàu, tôi không thể làm được gì nữa cho ông. Tuy nhiên, khi tôi nhớ tới sự khác nước của ông, nhớ tới hai bầnty nóng bỏng của ông, con mắt nặng chĩu của ông, những lời nói vô ý nghĩa của ông, và cuối cùng là cái trán lở lói bệnh cùi của ông, thì tôi đã mang theo lên giường nằm của tôi một ký ức khó chịu về người khách của tôi và sự tới thăm của ông ấy.
Sáng hôm sau, vào lúc mười một giờ, tôi đi tới bến tàu, nhưng tàu Eastern Star đã bắt đầu chạy xuôi dòng sông và đã fần tới Gravesend. Tôi đi với Gravesend bằng xe lửa, nhưng khi tôi tới nơi thì chỉ còn trông thấy các cột buồm của nó ở một khoảng cách khá xa, được mở đường phía trước bởi một lùm khói của một cái tàu kéo. Thế là tôi không có tin tức nào của ông bạn tôi nữa trước khi tới Falmuoth. Khi tôi trở về văn phòng của tôi, một bức điện tín đã đợi tôi. Bà Vansittart đã tới Falmuoth; buổi tối ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Royal, tại đó chúng tôi phải đợi tàu Eastern Star. Mười ngày đã trôi qua, chúng tôi không nhận được tin tức gì của con tàu.
Tôi sẽ không dễ dàng quên được mười ngày đó! Khi tàu Eastern Star rời khoti sông Tamise, một cơn bão lớn phát khởi; nó thổi trong gần cả một tuần lễ không ngừng nghĩ chút nào. Trên bờ biển miền nam, chưa bao giờ người ta thấy một trận bảo dài như thế và cuồng nộ như thế. Từ các cửa sổ khách sạn của chúng tôi, mặt biển hình như bị bao trùm trong sương mù. Gió đè một cách quá nặng nề lên những đợt sóng khiến cho mặt biển không thể vùng lên được: ngọn của từng đợt sóng đã bị ngắt đi ngay tức thì. Những đám mây, gió, mặt biển đều ùn ùn kéo về hướng tây. Ở giữa những thế lực hung hăng này, tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác với sự bầu bạn duy nhất của một người đàn bà xanh xao và trầm lặng, mà cặp mắt phản ảnh sự kinh hoàng; từ sáng tới chiều, nàng cứ đứng dán mắt vào cửa kính, đăm đăm nhìn vào tấm xịt qua đó một con tàu có thể hiện ra. Nàng không nói gì cả, nhưng nét mặt nàng là một khúc bi ca dài dặc.
Sang tới ngày thứ năm tôi hỏi ý kiến một thủy thủ già. Ý tôi muốn được ngồi một mình với ông ấy, nhưng nàng đã trông thấy tôi mở lời với ông ấy, và nàng tới ngay tức thì, miệng hé mở và đôi mắt khẩn cầu.
- Khởi hành từ Luân Đôn đã bảy ngày rồi à? Ông ấy nói. Vậy là năm ngày trong giông bão. Này, biển Manche đã bị quét sạch bởi cơn gió này! Có ba giả thuyết, trận bão có thể bắt nó phải tìm nơi trú ẩn trong một hải cảng của Pháp. Điều này có thể là đúng.
- Không phải thế đâu! Ông ấy biết rằng chúng tôi đang ở đây. Lẽ ra ông ấy phải đánh điện cho chúng tôi.
- À phải! Vậy thì có thể là nó đã chạy ra khơiđể tránh bão, nếu đúng vậy thì lúc này chắc nó không ở xa Madere. Thưa bà, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra; bà có thể tin lời tôi nói !
- Và giả thuyết thứ ba?
- Tôi có nói với bà về một giả thuyết thứ ba à? Không, tôi nghĩ chỉ có hai thôi. Tôi không tin là tôi đã nói tới một giả thuyết thứ ba. Con tàu của bà đang ở một nơi nào đó ở giữa Đại Tây Dương, và chả mấy chốc bà sẽ có tin tức của nó, vì thời tiết săp thay đổi. Thưa bà, bà chớ lo lắng. Hãy đợi tới ngày mai, ngay từ buổi sáng bà sẽ có một bầu trời xanh, đẹp.
Người thủy thủ già đã tiên đoán đúng: ngày hôm sau trời quang đãng ngoại trừ một đám mây thấp bay ở phía tây, và đó là mảnh cuối cùng của cơn cuồng nộ của trận bão tố. Dù trời đã quang đãng chúng tôi cũng vẫn không có một tin tức nào về chiếc tàu thủy. Ba ngày bực bội, lo âu nữa đã trôi qua, rồi một thủy thủ tới trình diện ở khách sạn với một bức thư, tôi thốt lên một tiếng kêu vui mừng. Bức thư tới từ vị thuyền trưởng của tàu Eastern Star. Khi đọc qua mấy dòng đầu tiên, tôi đã muốn giấu nhẹm là thư đi, nhưng nàng đã giật lấy nó từ tay tôi.
- Tôi đã đọc đoạn đầu, nàng nói với một giọng bình thản. Vậy thì tôi có thể đọc chỗ tiếp theo.
Lá thư viết như sau :
” Kính thư ông, ông Vansittart đang ở trên tàu với bệnh đậu mùa, và chúng tôi đã bị đẩy ra quá xa mũi đất của chúng ta nên chúng tôi không biết phải làm sao: ông ấy đã phát cuồng và ông ấy không còn khả năng để ra lệnh cho chúng tôi. Theo những sự tính toán phỏng chừng của tôi thì chúng tôi chỉ còn cách Fanchal chừng bốn trăm hai mươi cây số thôi. Tôi cũng giả thiết là nên đi tới đó, đưa ông Vansittart vào bệnh viện, và đợi ông tới ở trong vịnh. Người ta nói với tôi là trong vài ngày nữa một tàu buồm sẽ từ Falmuoth đi tới Fanchal. Lá thư này sẽ được mang tới ông bằng sự môi giới của thuyền nhỏ Marian ở Falmuoth, phải trả viên thuyền trưởng của nó năm bảng. Kính chào ông. Jno Hines. ”
Nàng thật là tuyệt diệu, cô thiếu nữ vừa mới rời khỏi đại học này! Cũng trầm tĩnh và cương nghị như một bậc nam nhi vậy. Nàng không nói gì cả. Nàng mím chặt môi và đội mũ lên đầu.
- Cô đi ra ngoài à? Tôi hỏi.
- Vâng.
- Tôi có thể giúp gì cho cô không?
- Không, tôi đến nhà vị y sĩ.
- Sao?
- Phải. Để biết cách người ta điều trị bệnh đậu mùa.
Nàng loay hoay bận rộn súôt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi Madere, trên chiếc tàu Róe ò Shảon. Gió biển thổi mười nút một giờ. Trong năm ngày chúng tôi chạy với tốc độ đều đặn, và chúng tôi đã tới nơi không xa hải đảo. Sang ngày thứ sáu gió nổi lên đột ngột, chúng tôi lâm vào tình trạng không nhúc nhích được như đi trên dầu nhớt.
Lúc mười giờ tối, Emily Vansittart và tôi cùng đứng tựa vào bao lớn bên phải của mạn cuối tàu; mặt trăng sáng rực đằng sau chúng tôi và chiếu xuống chân chúng tôi bóng đen của con tàu và bóng hai cái đầu của chúng tôi trên mặt nước lóng lánh như tấm gương. Từ chỗ bóng tối một con đường của ánh trăng trải dài ta và vừa đi xa, vừa tan rộng cho mãi tới chân trời hiu quạnh. Chúng tôi nói chuyện trong khi cúi thấp đầu xuống, chúng tôi nói dông dài về sự yên tĩnh, về cơ may của một cơn gió thuận lợi, về trạng thái của bầu trời, thì bỗng nhiên có một tiếng bõm trên mặt nước, như thể một con cá hồi vừa nhảy lên, và kìa, dưới ánh sáng trăng vằng vặc John Vansittart nhô lên từ dưới mặt biển và ngẩng đầu lên về phía chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ thấy một vật gì rõ rệt hơn thế. Ánh trăng soi sáng ông ấy rõ mồn một, ông ấy ở cách xa chúng tôi tầm độ ba tầm chèo. Ông ấy có bộ mặt phồng lên lớn hơn là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, da ông có nhiều chỗ lốm đốm những vẫy đen; mặt và miệng ông mở lớn ra như thể một người vủa gặp một sự kinh ngạc lớn lao. Từ hai vai của ông, một chất trắng đục chảy xuống thành những dãi dài; một bàn tay của ông giơ lên gần tai, bàn tay kia thì gặp lại để ngang ngực ông. Tôi trông thấy ông vọt lên khỏi mặt nước, và trên mặt phẳng yên tĩnh của đại dương, những gợn sóng vẽ thành các vòng tròn cho mãi tới hông tàu. Rồi ông lại chìm xuống, và tôi nghe thấy một tiếng rập gẫy, một tiếng xé rách, như thể trong một đêm băng giá một bó củi khô nổ lép bép trong đống lửa bập bùng. Khi tôi nhìn lại tôi không còn trông thấy một chút dấu vết nào của ông đã xuất hiện. Tôi không thể nói là tôi đã đứng ở đó bao lâu cúi khom người trên các đầu ngón chân, một tay vịn chặt lấy cái lan can và tay kia đỡ lấy người đàn bà bất tỉnh. Tôi đã là một kẻ trái ngược hẳn với người hay nhạy cảm, lần này thì ít nhất tôi đạp chân lên boong tàu để biết chắc tôi vẫn còn làm chủ được các cảm giác của chính tôi, và đây không phải là sự sáng tạo điên khùng của một bộ óc hỗn loạn. Emily Vansittart run lẩy bẩy, mở mắt ra, nàng đứng dậy, hai tay tì vào cái lan can, nhìn ra mặt biển long lanh dưới ánh trăng; mặt nàng đã già đi mười năm trong một đêm hè.
- Ông có nhìn thấy ông ấy không? Nàng thì thào nói.
- Tôi đã nhìn thấy một vật gì.
- Đó là ông ấy! Đó là John! Ông ấy đã chết!....
Tôi ấp úng nói một vài lời có tính cách hoài nghi.
- ...Chắc chắn là ông ấy vừa mới chết, nàng nói nhỏ. Ở bệnh viện Madère. Tôi đã đọc qua những truyện vào loại đó. Các yd nghĩ của ông ấy đều nghĩ tới tôi. Thị quan của ông ấy đã tới với tôi. Ôi John, người yêu quý của tôi, người yêu quý đã mất đi mãi mãi của tôi !
Nàng oà lên khóc nức nở: tôi đưa nàng về phòng của nàng và để nàng ở đó với nỗi lo buồn của nàng. Một cơn gió nhỏ bắt đầu thổi trong lúc ban đêm, và buổi tối hôm sau chúng tôi bỏ neo trong vịnh Fanchal. Tàu Eastern Star đang đậu gần đó, lá cờ kiểm dịch được treo cao trên cột buồm lớn và cờ hiệu của nó để rũ xuống.
- Ông trông kìa! Bà Vansittart nói với tôi.
Cặp mắt nàng khô ráo, nàng biết rằng không một giọt lệ nào trả lại được người chồng cho nàng. Trong lúc ban đêm chúng tôi nhận được giấy phép cho lên tàu Eastern Star. Viên thuyền trưởng, ông Hines, đợi chúng tôi trên boong, sẹ lo buồn và bối rối đã hằn lên trên bộ mặt da đồng của ông, và ông tìm những từ để loan báo hung tin: nàng ngắt lời ông.
- Tôi biết rằng chồng tôi đã chết, nàng nói, ông ấy đã chết tối hôm qua, vào lúc mười giờ, ở bệnh viện Madère, có phải vậy không?
Người thủy thủ nhìn nàng, sững sờ.
- Khồn, thưa bà. Ông ấy chết tám ngày rồi, ở trên biển và chúng tôi đã buột lòng phải thủy táng ông ấy ở đó, vì chúng tôi thấy mình đang ở một khu vực yên tĩnh và chúng tôi đã không biết khi nào thì chúng tôi sẽ tới bờ.
Đó là những sự kiện chính yếu liên quan tới cái chết của John Vansittart, cũng như về sự xuất hiện của ông ấy tại một nơi nào đó vào khoảng độ 35 bắc vĩ - tuyến và độ 15 tây kính tuyến. Một hồn mà hiện hình rõ rệt hơn thật ít khi xảy ra, do đó nó đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận, của nhiều bài viết. Nó đã được xác nhận bởi giới bác học và nó đã làm dầy thêm tập hồ sơ mới được mở ra gần đây về sự thần giao cách cảm. Về phần tôi, tôi chủ trương là sự thần giao cách cảm không có gì để nghi ngờ, nhưng tôi muốn rút trường hợp này ra khỏi tập hồ sơ và tôi muốn nói rằng chúng tôi đã không trông thấy sự xuất hiện của hồn ma John Vansittart, mà đúng là John Vansittart bằng xương bằng thịt, vọt lên từ đáy sâu của Đại Tây Dương dưới ánh trăng. Tôi luôn luôn tin rằng một sự ngẫu nhiên phi thường (Một trong các sự ngẫu nhiên rất ít có khả năng xảy ra này, tuy nhiên lại vẫn thường xảy ra ) đã làm cho chúng tôi đứng bất động bên trên chính ngay cái chỗ mà người đàn ông đó đã bị chôn vùi trên biển một tuần lễ trước. Về phần còn lại, vị y sĩ đã nói với tôi là quả tạ bằng chì không được cột chặt, và bảy ngày đã mang tới cho cái xác chết vài sự thay đổi nào đó có thể làm cho nó nổi lên mặt nước. Quả tạ đã làm nó chìm sâu xuống đấy biển. Nếu quả tạ tách rời ra xác chết có thể lại chồi lên mặt nước với sự đột ngột mà chúng tôi đã chứng kiến. Đó là lời giải thích của vị y sĩ. Tới chỗ muốn biết rõ ràng hơn nữa, tôi coi đó là phận sự của tôi, và nếu nhắc lại với bạn về cái tiếng động khô khan của sự rập gẫy, của sự xé rách, cũng như sự xao động trong nước biển. Những con cá mập kiếm ăn trên mặt nước, và chúng đông lúc nhúc trong miền này.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:25:27 | Chỉ xem của tác giả
05. Sự khủng khiếp giữa trời cao

Tất cả những ai đã biết vụ án này đều không chịu tin rằng câu chuyện kỳ lạ mà người ta gọi là ”Một mảnh của Joyce - Amstrong ” là một sự huyền hó thêu dệt bởi một kẻ lạ mặt do sự gợi hứng của một tâm tính sa đọa. Một anh chàng hề cô hồn nhất và lém lỉnh nhất chắc cũng phải nhìn vào sự vật này hai lão lần trước khi dồn cả cái đầu óc tưởng tượng đầy bệnh hoạn của anh vào những việc không thể chối cãi được một cách bi đát đã dựng nên câu chuyện này, mặc dù câu chuyện này đầy rẫy những lời xác quyết rùng rợn và có khi quái đản nữa, nó vẫn không thiếu tính chất đáng tin và nó khiến chúng ta phải xét lại một quan niệm mà ngày nay đã có vẻ lỗi thời. Chỉ có một lằn ranh an toàn mỏng manh để che chở cho con người chống lại một sự nguy hiểm bất ngờ. Trước khi thuật lại câu chuyện nguyên thủy trong cái hình thức không toàn vẹn một cách khốn khổ của nó, tôi xin trình lên các dộc giả cả mọi sự việc mà người ta được biết vào ngày hôm đó. Trước hết tôi xin nói với các bạn có tính đa nghi đã ngờ vực câu chuyện của Joyce - Armstrong rằng các sự việc có dình líu tới đại uý Myrthe trong Hải quân Hoàng gia và ông Hay Connor đã được phối kiểm: Đúng là họ đã chết như người thuật truyện đã mô tả.
” Một mảnh của Joyce – Armstrong ” đã được tìm thấy tại một cánh đồng được gọi tên là Haycock Ha, ở khoảng một cây số rưỡi về phía Tây làng Withyham trên ranh quận Kent và quận Sussex. Ngày 15 tháng chín vừa qua, một anh nông dân là Jamé Flynn, làm công cho trại chủ Mathew Dodd, thuộc Nông Trại Chauntry ở Withyham, trông thấy một cái vố làm bằng rể cây Bruyen ở cạnh con đường chạy dọc theo hàng rào của Haycock Hạ. Cách xa hơn một vài thước nữa, anh ta tìm thấy cặp mắt kính đeo mắt bị bể. Sau rốt, trong những cây gai ở cái hố anh ta phát hiện ra một quyển sách mỏng gáy vải: Đó là một quyển sổ tay, một vài tờ bị long ra và bay tung toé chỗ chân hàng rào. Anh ta nhặt nhanh tất cả: Ba tờ giấy trong đó có hai tờ đầu, đã không thể nào kiếm thấy được. Anh nông dân mang chiến lợi phẩm này về cho ông chủ của anh, rồi ông này đưa cho bác sĩ Atherton ở Hartfield xem. Vị quý nhân này tháy ngay rằng cần có một sự giám định chuyên môn. Vậy là bản thảo được đưa tới câu lạc bộ Hàng không ở London, nơi mà nó vẫn còn tới bây giờ.
Hai trang dầu của bản thảo bị mất. Một trang khác cũng bị rơi mất ở đoạn kết thúc câu chuyện, nhưng sự mạnh lạc của toàn thể không hề hấn gì. Người ta cho rằng đoạn khởi đầu phác hoạ lại giấu tưởng lục của ông Joyce – Armstrong, bằng tưởng lục mà người ta có thể tạo lại một cách dễ dàng và nó vẫn là thứ độc nhất vô nhị trong nghành hàng không Anh quốc. Trong nhiều năm trời Joyce – Armstrong vẫn được coi như một trong những nhân viên phi hành táo bạo nhất và uyên bác nhất. Sự kết hợp các tài năng này đã cho phép ông phát minh và thí nghiệm nhiều phương pháp mà tên tuổi ông vẫn còn được gắn liền. Tất cả bản thảo của ông được viết bằng mực một cách đằng tả, trừ những dòng cuối cùng viết nguệch ngoạc bằng bút chì, gần như không thể đọc được, người ta đoán rằng chúng được viết một cách rất vội vã trên ghế một phi cơ đang bay. Ta cần nói thêm rằng có những vết bẩn làm lem luốc trang cuối cùng và tờ bìa, các giàm định chuyên môn của Bộ Nội vụ tuyên bố rằng đó là những vết máu, có thể là máu người, nhưng chắc chắn là máu của động vật có vú. Sự kiện là việc phân tích chất máu này đã phát hiện một vật gì rất giống con vi khuẩn bệnh sốt rét rừng ( Joyce – Armstrong thường bị những cơn sốt rét ) là một thí dụ đáng kể về những vũ khí mới mà khoa học hiện đại đã đặt vào tay các thám tử của chúng ta.
Bây giờ hãy nói qua tới nhân cách của tác giả một tài liệu sẽ mở ra một kỷ nguyên mới. Nếu ta tin được qua lời một vài người bạn đã biết nhiều về ông, thì Joyce – Armstrong là một người hay mơ mộng và là một thi sĩ, cũng như là một nhà phát minh và một kỹ thuật gia của ngành cơ giới. Ông đã tiêu phầ lớn tài sản đáng kể để thoả mãn sở thích vẻ hàng không trong các xưởng của ông ở gần Devizes. Ông có bốn phi cơ tiêng. Và trong năm ngoái, ông đã bay không dưới 170 lần. Tính nết của ông thường ảm đảm. Trong những dịp này ông tự cách ly và tránh mặt mọi sự tiếp xúc với xã hội. Đại uý Dangerfield, một người bạn đường thân nhất của ông công nhận rằng trong một vài trường hợp tính cổ quái của ông gần đi tới chỗ điên khùng, ông chẳng thường có thói quen mang theo lên ohi cơ một khẩu súng săn đó ư ?
Hơn nữa vụ tai nạn xảy ra với Trung Úy Murtle đã khiến ông xúc động một cách hai hại. Trong khi định phá kỷ lục về độ cao, Myrtle đã bị rơi từ một độ cao chừng mười ngàn mét, một sự việc khủng khiếp! Cái đầu ông ta hoàn toàn biến mất, tuy nhiên chân tay và tất cả phần còn lại của thân thể ông vẫn còn giữ được hình thể nguyên thuỷ, mỗi khi các phi công họp mặt với nhau, Joyce – Armstrong lại hỏi với một nụ cười bid hiểm: ” Các bjan đã tìm thấy cái đầu của Myrtle chưa? ”
Một buổi tối sau bữa ăn tại câu lạc bộ của trường huấn luyện phi công tại Salisbury, ôn đã gây ra một cuộc tranh luận về đề luận sau đây: Trong các sự hiểm nguy đối với các phi hành gia thì cái nào là lớn nhất và thường xảy ra nhất? Sau khi đã nghe các ý kiến được phát biểu về các lỗ hỗng trong không khí, các khiếm khuyết trong việc chế tạo, các trận bảo tố, ông nhún vai từ chối không đưa ra ý kiến riêng của ông. Nhưng ông cho thấy rằng nó hoàn toàn khác với những gì mà ông vừa được nghe.
Thiết tưởng không phải là vô ích để nói rằng một ngày sau khi ông mất tích người ta phát giác ra rằng ông đã thu xếp các công việc của ông đâu vào đó với một sự tỉ mỉ cho phép ta tin rằng ông đã linh cảm được sự cáo chung đang chờ đợi ông.
Nhưng sự chỉ dẫn tiên khởi này rất cần thiết. Bây giờ tôi xin chuyển dịc một cách thật đúng câu chuyện như nó đã được ghi bắt đầu từ trang ba của quyển sổ tay bị dính máu.
”....Tuy nhiên, khi tôi ăn bữa tối ở Reions với Cosetli và Gustave Roymond, tôi phải nhận thấy rằng không có người nào ý thức được sự hiện hữu của một mối nguy hiểm đặc biệt trên những tầng cao của khí quyển, tôi không nói rõ hết với họ những điều tôi suy nghĩ trong đầu óc tôi, nhưng tôi dùng cách nói bóng gió và nếu họ có những ý nghĩ tường đồng với ý nghĩ của thôi thì hẳn họ đã phát biểu chúng ra. Hỡi ôi, hai anh chàng kiêu căng ngu xuẩn này không nghĩ tới điều gì khác hơn là thấy tiên họ được in trên báo. Tôi đã chú tâm ghi nhận rằng cả hai anh chàng đó không người nào đã bay lên cao quá bảy ngàn, bảy ngàn năm trăm mét, chắc chắn là phải ở trên độ cao đó thì phi cơ mới đi vào vùng nguy hiểm ( luôn luôn giả thiết rằng những giả thuyết của tôi là đúng ) ?
Đã hơn hai mươi năm trời con người bay trên phi cơ? Nếu có ai hỏi tôi rằng tại sao mãi cho tơi ngày nay hiểm họa này mới tự phát hiện, câu trả lời sẽ thật đơn giản. Vào thời những động cơ khiêm nhường khi người ta ước tính rằng động cơ 100 mã lực Gnome hay Green là đủ để đáp ứng tất cả mọi nhu cầu, các phi cơ đã không thể vượt quá những gứoi hạn nào đó. Bây giờ, các động cơ 300 mã lực đã là quy luật chớ không phải là ngoài lệ nữa và những chuyến bay trên những tầng cao của khì quyển đã trở nên dễ dàng hơn, thông thường hơn, một vài người trong bạn chúng ta nhờ lại rằng, khi chúng ta còn trẻ trung Garros đã lừng danh khắp thế giới khi đjat tới độ cao sáu ngàn mét và việc bay bên trên núi Alpes được coi là một thành tích hết sức ghê gớm. Từ đó mức trung bình của chúng ta đã cãi tiến một cách đáng kể và đã có hai mươi chuyến bay lên tới độ cao mà xưa kia chỉ có một chuyến. Thật thế,phần lớn các chuyến bay đã được thực hiện với sự an toàn tuyệt hảo và những độc cao mười ngàn mét đã được đạt tới nhiều lần mà không gặp những trở ngại nào khác ngoài cái lạnh và sự nghẹt thở. Nhưng sự kiện này đã chứng tỏ điều gì? Một người khách lạ sẽ có thể xuống hành tinh chúng ta hàng ngàn lần mà không bao giờ nhìn thấy một con cọp. Tuy nhiên, những con cọp vẫn hiện hữu và nếu vì rủi ro vị khách của chúng ta hạ chân xuống trong rừng già, ông có thể bị nhai ngấu nghiến. Ở trên thượng tầng không khí cũng có những rừng già, nơi cư ngụ của những loài còn khủng khiếp hơn là cọp. Tôi tin rằng sẽ có lúc những rừng già này sẽ được thông bào một cách chính xác trên những bản đồ. Cho tới bây giờ có thể định vị được hai khu rừng già đó, một khu ở bên trên vùng Pau-Biarritz nước Pháp. Một vùng khác ở bên trên đầu tôi trong khi tôi đang viết tại phòng tôi trên chiếc Wiltshire. Tôi tin một cách đầy đủ là có một khu rừng thứ ba ở vùng Wiesbaden.
Chính một vài vụ án mất tích của các phi hành gia đã tạo cho tôi ý nghĩ về các khu rừng già này, chắc chắn là người ta thường nói rằng họ bị rớt xuống biển, nhưng sự giải thích này không làm tôi thỏa mãn chút nào. Trước hết đã có Verrier ở Pháp, phi cơ của ông đã được tìm thấy ở gần Bayonne, nhưng không bao giờ người ta phát hiện ra xác ông. Cũng còn có trường hợp của Baxten người đã mất tích, mặc dù động cơ của ông và một vài mảnh sắt vụn đã được nhận dạng trong một cánh rừng ở Laicesternhire. Bác sĩ Middleton ở Ameabury, người đã theo dõi chuyến bay với kính đeo mắt, đã khai rằng ngay trước khi những đám mây làm tối mù mục trường của ông, ông nhìn thấy phi cơ ở một độ cao khá lớn bỗng nhiên lồng lên theo chiều thẳng trong một loạt rung lắc với một sức mạnh cuồng bạo không thể tưởng tượng được. Đó là hình ảnh cuối cùng được ghi nhận về phi cơ của Baxtẻ. Sau đó còn nhiều trường hợp tương tự khác, rồi tới cái chết của Hay Connor. Đã có bao nhiêu lời nói dông dài vô ích về sự bí ẩn không được làm sáng tỏ này. Đã có bao nhiêu cột trong các báo cáo nhưng người ta đã cố tránh không đi sâu vào các sự việc. Ông ta đã xuống bằng lối bay là là từ độ cao không ai biết rỏ. Ông ta đã không thoát khỏi phi cơ, ông ta đã chết trên ghế ngồi. Ông ta chết vì cái gì mới được chứ? ” Đau tim ” các y sĩ trả lời như vậy. Vô lý! Tim của Connor cũng mạnh khoẻ như tim của tôi. Venables đã khai báo thế nào? Venables là người duy nhất ở cạnh ông ta khi ông ta chết. Ông xác nhận rằng Hay Connor bị lắc lư vì những cơn run rẩy và ông ta có vẻ kinh hoàng ” Chết vì sợ hãi ”. Venables nói vậy mà không thể tưởng tượng nổi cái gì đã làm ông ấy sợ hãi. Connor chỉ nói thì thào với Venables có một tiếng. Một tiếng giống như ”quái dị ”trong cuộc điều tra không ai có thể hiểu rõ cái chữ ”quái dị ”này chỉ định vào cái gì. Tôi,tôi có thể sẽ hiểu được nó chỉ định vào cái gì! Những con quái vật! Đó là tiếng nói cuối cùng của Harry Hay Connor xấu số! Và thực tình ông đã chết vì sợ hãi. Venables nói đúng.
Rồi thì lại cái đầu của Myrtle. Bạn có thực sự tin rằng ( Có người nào đó thực sự tin ) một cái đầu người ta lại có thể hoàn toàn thụt vào sâu cái mình sau khi bị rơi từ trên cao xuống không? Tôi, dù thế nào đi nữa, không bao giờ tôi tin vào lời giải thích cho vụ Myrtle. Va vết mỡ trên quần áo ông ấy ” Quần áo dính dầu mỡ ”, một người nào đó đã khai trong cuỗ điều tra, thật lạ lùng khôngcó ai chịu suy nghĩ về chuyện này! Tôi thì tôi đã suy nghĩ quả thực tôi đã suy nghĩ từ lâu rồi. Tôi đã làm thử ba lần ( Và Dagerfield trêu chọc tôi vì tôi đã mang theo súng săn!) nhưng tôi không lên đủ độ cao. Bây giờ, với chiếc Paul Wroner mới, nhẹ và động cơ Rubur 175 mã lực của nó. Ngày mai tôi sẽ phải đạt một cách dễ dàng tới độ cao 10.000 mét. Tôi sẽ làm thử kỷ lục. Có thể là tôi cũng sẽ làm thử với tử thần!...Tôi không phủ phận nguy hiểm, nhưng nếu một người muốn tránh hiểm nguy thì ông ta chỉ có việc thôi đừng bay nữa và sống suốt đời với lối đi giày vải và mặc đồ ngủ thôi- Ngày mai tôi sẽ thám hiểm khu rừng già trên không gian. Nếu có chuyện gì trong đó thì tôi sẽ biết. Nếu tôi trở về được tôi sẽ trở thành một nhân vực lừng danh, một ngôi sao sáng. Nếu tôi không trờ về được, cuốn sổ tay này sẽ chứng nhận những gì tôi định làm và tôi đã chết như thế nào, trong khi thử làm việc đó. Nhưng cầu ơn trên ban phước lành, không có chuyện lẩm cẩm về một ” tai nạn ” hay một sự ” bí ẩn ”.
Tôi đã chọn chiếc phi cơ một tầng cánh Paul Veroner để dùng trong công việc nhỏ mọn này. Chỉ cần chiếc phi cơ một tầng cánh này như thế khi người ta thực sự muốn thành công trong một việc gì. Ông Beaumont đã nhận ra việc này ngay từ lúc đầu. Chẳng hạn sự ẩm ươt không ảnh hưởng gì tới nó, mà thời gian hiện tại cho ta thấy trước rằng ta sẽ luôn luôn bay trong những đám mây. Đây là một loại phi cơ nhỏ, xinh xắn dễ điều khiển như một con ngựa non dưới tay tôi. Động cơ của nó là máy Rubur mười si lanh sức mạnh 175 mã lực. Phi cơ được trang bị những dụng cụ tấn tiến nhất của kỷ thuật; thân máy bọc thép, các bánh xe để hạ canh có vòng cong cao bộ thắng mạnh, những bộ phận ổn định hồi chuyển, ba tốc độ các bình diện theo nguyên tắc những tấm sáo có lá sách di động. Tôi có mang theo một khẩu súng săn và hơn một chục viên đạn chì lớn chắc các bạn đã thấy cái đầu của Perkins, anh thợ máy già của tôi, khi tôi nhờ anh ấy để súng đạn vào trong phi cơ. Tôi mặc quần áo theo kiểu nhà thám hiểm Bắc Cực, với hai áo len dài tay có cổ cao bên trong bộ đồ bay của tôi, những đôi tất dầy bên trong đôi ủng lót lông, một mũ kết có vành và cặp mắt kính bằng mi ca. Ra bên ngoài, gần những xưởng phi cơ, tôi bị nghẹt thở nhưng tôi muốn bay lên vượt khỏi độ cao của đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, nhất định là tôi phải mặc y phục thích hợp, Perkins có vẻ nghi ngại một điều gì và anh năn nỉ tôi cho anh ta theo. Nếu tôi sử dụng phi cơ hai tầng cánh, có thể tôi đã phải ưng thuận lời yêu cầu của anh, nhưng với phi cơ một tầng cánh mà ta muốn có tốc độ tối đa để vọt lên cao thì chỉ là công việc của một người thôi. Dĩ nhiên là tôi mang theo một bong bóng dướng khí, một phi hành gia muốn thử lập một kỷ lục bay cao mà không mang theo dướng khí thì sẽ chết cóng hay chết ngộp hoặc bị cả hai sự tệ hại chồng chất lên.
Trước khi vào chỗ ngồi tôi đã kiểm soát các hành trình. Khi đã hài lòng với sự kiểm tra của tôi, tôi mở máy và cho chạy một cách êm đềm, tôi cất cánh ở số một, tôi bày hai vòng quanh bãi đâu để làm cho động cơ nóng lên đôi chút. Sau khi vẫy tay tôi chào tạm biệt Perkins và những người khác. Tôi vọt đi và xả hết sức máy. Phi cơ trườn đi trong gió như một con nhạn trong khoảng độ mười lăm cây số. Tôi hướng mũi nó lên cao và bắt đầu leo lên, vạch thành một vòng tròn xoáy trên ốc lơn hướng vào những đám mây dầy đặc. Điều tối quan trọng là phải lên cao một cách thong thả để thích ứng với áp lực của không khí.
Thời tiết nặng nề và oi nóng đối với một ngày tháng 9 nước Anh. Trời có vẻ muốn mưa. Từng cơn gió một từ phía tây nam thổi tới; một trong những cơn gió này đã ậo tới lúc tôi không đề phòng và đã đẫy tôi bay trệch đường một cách phủ phàng. Tôi nhớ lại lúc mà những cơn gió và những lỗ hỗng không khí đã trở thành những nguy hiểm nghiêm trọng vì các động cơ của chúng ta không đủ sức mạnh. Ngay lúc tôi bay tới các tầng mây thì trời bắt đầu mưa; đồng hồ đo độ cao của tôi chỉ một ngàn mét. Trời ơi! Trận mưa lớn lắm sao! Mưa đập lốp bốp vào cánh phi cơ, tát vào mặt tôi gần như roi quất làm mờ kính mắt của tôi, tôi gần như không còn thấy gì nữa, mưa làm cản trở tốc độ trung bình của tôi, nhưng biết làm thế nào? Trong lúc tôi vọt lên cao, nó trở thành mưa đá và tôi phải tìm cách đi vòng qua nó, một trong các si lanh của tôi không hoạt động được nữa; chắc chắn là một bu gi đã bị đóng cặn, tuy nhiên tôi vẫn có thể tiếp tục leo lên không mật một chúc sức mạnh nào. Chỉ ít lâu sau đó, sự bực bội về máy móc của tôi đã chấm dứt và tôi lại nghe thấy tiếng nổ đều đặn, ròn rã của mười si lanh cùng háy lên trong một tiếng hài hoà tuyệt diệu. Đây là công việc của phép lạ của máy hãm thanh hiện đại của chúng ta, rút cục ta đã có thể kiểm soát được các động cơ của chúng ta bằng tai. Khi chúng không quay một cách đều đặn, làm như chúng thét lwn, chúng cự nự chúng thổn thức! Thời xưa tất cả những tiếng kêu cứu đó đều mất đi, bị chìm ngập vào tiếng ồn ào dữ dội của động cơ. À, giá mà những bạc tiên phong của ngành hàng không có thể sống lại để nhìn thấy sự hoàng hảo về cơ giới là thứ đã được mua bằng giá mạng sống của họ.
Khoảng chín giờ rưỡi tôi tới sát gần những đấm mây. Bên dưới chân tôi chỗ nào cũng mịt mù trong mưa. Cánh đồng Salíbủy chạy dài bao la: năm sáu chiếc phi cơ chậm dãi bay ở độ cao ba hay bốn trăm mét, người ta có thể nói đó là những con chim sẽ. Tôi có cảm tưởng rằng họ đã tự hỏi tôi đang làm gì trong những đám may. Đột nhiên một tấm màn xám được chắng ra bên dưới tôi buồn bã, nhưng tôi đã thắng được trận mưa đá và thế là đã thắng nhiều rôi, mây cũng u ám và dày đặc như sương mù ở London. Vì mong muốn ra khỏi mây mà tôi kéo cần tốc độ chô tới khi chuông báo nguy tự reo lên. Tôi bắt đầu thấy giật lùi, những cánh đồng ướt sũng làm cho tôi nặng thêm hơn là tôi đã nghĩ, nhưng rồi tôi cũng tới được một vùng mây đỡ dày đặc hơn, rồi tôi lên được một lớp mây thứ hai màu trắng đục, lổng phổng như bông đang chờ tôi ở độ cao bên trên đầu tôi, nó làm thành một cái sàn màu đen nhẵn thín được trãi dài ra, giữa hai cái trần và sàn chiếc phi cơ một tầng hai cánh của tôi đang bay tới giữa trời. Trong khoảng cách không gian bao là này, người ta cảm thấy một đàn thủy điểu bay thẳng hàng về hướng Tây, tôi thú thực rằng sự hiện diện của chúng làm tôi vui thích, tôi nghĩ rằng đó là những con mồng két, nhưng tôi là một nhà động vật học hạng tồi. Bây giờ con người đã hóa thành những con chim, ta phải học để nhận ra những người anh em của chúng ta ngay khi vừa nhìn thấy.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:26:11 | Chỉ xem của tác giả
05. Sự khủng khiếp giữa trời cao (tiếp)

Bên dưới chân tôi, gió khuấy động cái cánh đồng mây rộng lớn. Vào một lúc nào đó, nó gây ra mọt sự xáo trộn dữ dội, khơi ra một cái hố sâu và qua lỗ hổng cái ống khói của nó. Tôi nhìn thấy mặt đất, một chiếc phi cơ lớn màu trắng đang bay rất thấp, chắc chắn đó là chuyến bay thường xuyên buổi sáng Bristol – London. Rồi cơn lốc lại bắc đầu xoay sang hướng khác và tôi lại cảm thấy sự cô quạnh của tôi. Sau lúc mười giờ ít lau, tôi tiếp cận với cái vành phía dưới của tầng mây bên trên, những lớp mây này là hơi nước nhẹ, trong lờ mờ đang thông thả trôi về hướng đông. Sức gió tăng lên một cách đều đặn, nhiệt độ đã rất lạnh, mặc dù cao độ kế của tôi mới chỉ có ba ngàn mét. Động cơ quẫy đều đặn một cách đáng khen, mây đã dày đặc nhiều hơn là điều tôi ước tính, nhưng cuối cùng cũng mỏng manh đi thành một đám sương màu vàng và tôi được tiếp đón bởi một bầu trời hoàn toàn trong trẻo và một vầng mặt trời rực rỡ. Bên trên đầu tôi, chỉ toàn là màu xanh và vàng, ở phía dưới toàn là bạc lóng lánh. Đã mười giờ mười lăm phút, cây kim của khí áp biểu chỉ bốn ngàn hai trăm mét, tôi tiếp tục cuộc lên cao, hai tai lắng nghe tiếng nổ đều đều của động cơ, hai mắt luôn luôn nhìn vào đồng hồ, kim chỉ vòng quay, mức độ ét xăng, bộ phận bơm nhót không có gì đáng ngạc nhiên khi các phi hành gia được coi là những người không sợ hãi điều gì họ phải nghĩ tới quá nhiều việc khiến họ không có thì giờ để nghĩ tới chính mình chính vào lúc đó mà tôi nhận thấy rằng một cái địa bàn ít đáng tin vậy khi người ta vượt qua một độ cao nào đó bên trên mặt đất, may măn thay, mặt trời và gío đã cho tôi những toạ độ chính xác.
Tôi hy vọng tìm thấy một sự yên tĩnh vĩnh hằng trong khi cứ bay trên cao mãi, nhưng càng lên cao thì bão tố càng tăng thêm một cách cuồng bạo. Chiếc phi cơ một tầng cánh của tôi rên rỉ, run lên tới tận mọi con ốc của nó, chao đảo như một tờ giấy khi tôi muốn chuyển hướng. Nó lướt nhanh hơn trong gió, có lẽ không có một con người nào đã từng bay nhanh như vậy. Tôi phải luôn luôn giữ phi cơ cho thẳng và bay vát ngọn gió, vì tôi không chỉ có tham vọng riêng về kỷ lục độ cao: theo cách tính toán của tôi khu rừng già trên không trung toạ lạc ngay bên trên khu tiểu Wiltshire nếu tôi chinh phục các tầng cao của khí quyển ở những nơi khác, tôi sẽ mất hết kết quả cố gắng của tôi.
Vào khoảng giữa trưa tôi đạt tới sáu ngàn mét. Gió quá bạo cuồng khiến tôi phải lo lắng nhìn vào những sợi dây ở cánh phi cơ của tôi. Lúc nào tôi cũng tưởng là sẽ thấy chúng giãn ra hay đứt hẳn. Tôi đã tháo cái dù ở đằng sau và móc nó vào cái khoen ở đây lưng tôi ngõ hầu đề phòng điều tồi tệ nhất! Chính vào những lúc như thế này mà một việc làm vội vã, cẩu thả của một anh thợ máy có thể làm mất mạng một phi công! Nhưng phi cơ đã chống chỏi một cách dũng cảm, những dây và những bộ phận chống đỡ của nó kêu o o và run lên như là những sợi dản vậy. Tuy nhiên, tôi cũng kinh ngạc là bất chấp những sự va đập và lay động của gió đánh vào nó làm thế nào mà nó vẫn theo đuổi được sứ mạng chinh phục bầu trời của nó. Phải có một cái gì thàn thánh trong con người để anh ta lên tới cao như thề này bên trên những giới hạn mà hình như tạo hoá đã ấn định cho con người. Và để cho con người lên cao nhờ vào sự kế tục vô tư lợi, dũng cảm này mà sự chinh phục không gian đã chứng tỏ, người ta nói tơi sự sa đoạ của con người! Đến khi nào một câu chuyện tương tự thế này mới được viết vào sách biên niên của nòi giống chúng ta?
Với những ý nghĩ đó trong đầu tôi cứ luôn luôn thúc đẩy phi cơ của tôi lên cao hơn nữa, những cơn gió lúc thì quất vào mặt lúc thì rít lên sau tai tôi. Giải bình nguyên những đám mây phía dưới tôi đã lùi xa, những chỗ nhấp nhô, phập phồng màu bạc của nó đã rộn lên lộn vào một mặt bằng phẳng sáng rực rỡ, chắc chắn là tôi đã là nạn nhân của một sự thăng trầm chưa bao giờ có, chắc chắn là tôi đã biết người ta bị nguy hiểm thế nào khi ở trong tình trạng mà các ông bạn láng giềng ở phía bên kia biển Manche gọi là một cơn lốc, nhưng tới một mức độ như thế nào thì tôi chưa từng thấy bao giờ. Cái luồng gió khủng khiếp này có thể quét sạch tất cả. Mà hình như ngay trong lòng nó còn có những sự xao động cũng khủng khiếp như chính nó nữa. Không có một điềm báo trước nào, tôi bị cuốn một cách tàn bạo vào một trong hai sức mạnh đó trong một hay hai phút tôi đã quay tròn với một tốc độ làm tôi suýt nữa ngất đi. Rồi tôi bị rơi vào xuống, cạnh bên trái xuống trước, cái lỗ hỗng của ống khói chính khoảng chân không mà tôi rơi xuống mà không bị thứ gì cản trở cả, như một hòn đá, trong gần 300 mét, tôi còn ngồi được trên ghế là chỉ nhờ vào cái dây lưng của tôi thôi. Sự rung chuyển làm tôi nghẹt thở và xỉu đi nửa tỉnh, nửa mê trên thành của thân phi cơ, nhưng ( và đây chính là đức tính của một phi hành gia trong tôi ) bao giờ cũng đủ triển khai những nỗ lực siêu phàm. Tôi nhận thấy rằng tốc độ rơi xuống của tôi là một ống khói viên hình trụ. Và tôi tiến gần tới đỉnh cao của hình chóp này, phải chịu đựng một sức xoắn vặn ghê gớm. Bằng cách dồn tất cả trọng lực của tôi vào một bên, tôi lấy thăng bằng lại cho dôi cánh và giành lại sự điều khiển phi cơ để bay ra khỏi chỗ xáo trộn. Bị te tua nhưng đắc thắng, tôi lại kéo cần lái và lại bắc đầu leo lên cao. Lúc một giờ chiều, tôi đã ở bảy ngàn mét bên trên mức mặt biển, tôi hết sức mãn nguyện là tôi đã tới chỗ bên trên cơn bão tố, tôi càng lên cao thì không gian càng yên tĩnh. Ngược lại, trời rất lạnh và tôi bắt đầu thấy cảm, thấy nôn mửa đặc biệt thường đi kèm với sự loãng không khí của tôi và trong những khoảng cách đều đặn. Tôi hít chất hơi thần diệu này, tôi cảm thây khoan khoái gần như say sưa. Tôi kêu lên, tôi ca hát trong khi vạch ra những quỹ đạo của tôi trong bầu trời băng giá.
Tôi tin chắc rằng sự thất bại mà Glaisher và ở một mức độ thấp hơn, Coxwell đã là nạn nhân khi vào năm 1892 họ dùng kinh khí cầu lên tới độ cao mười ngàn mét bị gây ra bởi sự mau lẹ quá sức mà sự vọt thẳng lên cao bằng khinh khí cầu đã thực hiện. Khi ta lên cao theo một giác độ vừa phải và ta tậo làm quen dần với sự suy giảm của áp suất không khí thì ra sữ tránh được loại khó khăn đó. Về phần tôi ở một dộ cao tương đương, tôi nhận thấy rằng ngay dù không có bình dưỡng khí tôi cũng vẫn có thể thở mà không có sự khó khăn quá quắt. Tuy nhiên csi lạnh trở nên dữ dội, nhiệt kế của tôi chỉ mười tám độ âm. Lúc một giờ rưỡi chiều tôi ở khoảng gần mười một ngàn mét bên trên địa cầu và tôi cứ tiếp tục leo lên một cách đều đặn. Tuy nhiên không khí lỏng loãng nâng đỡ cặp cánh của tôi không được như trước và giao độ cao của tôi bị sút giảm một cách đáng kể. Tôi biết rằng ngay với một phi cơ nhẹ như thế này và một động cơ cực mạnh tôi cũng sẽ sắp sửa đạt tới tột đỉnh của tôi. Lại có sự rủi ro: một bugi dở chứng, động cơ của tôi bắt đầu trục trặc.
Trong lúc tôi đang lo sợ một sự thất bại thì một việc hoàn toàn kỳ dị diễn ra. Một vật bay vược qua tôi, tiếng kêu ù ù và nhả khói ra ở phía sau rồi nổi lên trong một tiếng rít lơn ở giữa một đám may hơi nước. Tôi bị sững sờ trong một lúc. Rồi tôi nhớ lại rằng trái bất đã bị bắn phá một cách liên tục bởi những vân thạch này không hoá thành hơi nước khi chúng chạm tới những tầng cao của khí quyển. Đây là một hiểm hoạ mới cho những tay tài tử của không gian, vì có hai vân thạch khác bay gần tôi khi tôi tới độ cao mười hai ngàn mét. Ở chỗ ranh giới vỏ bọc trái đất, hiểm hoạ chắc phải rất lớn và rất thực tại.
Kim áp kế của tôi chỉ mười hai ngàn ba trăm mét khi tôi biết rằng sẽ không thể bay lên cao hơn nữa. Về thế lực tôi sẽ có thể chịu đựng được một cố gắng nữa, nhưng phi cơ của tôi đã đạt tới giới hạn của nó rồi. Không khí lỏng loãng không còn nâng đỡ một cách đầy đủ cặp cánh của tôi: Khi hơi nghiêng đi một chút phi cơ đã chúc cánh xuống và không chịu theo sự điều khiển nữa. Có lẽ nếu động cơ không lộn xộn thì tôi đã lên thêm được ba bốn trăm mét nữa. Nhưng những tiếng nổ sì hơi mỗi lúc một nhiều thêm và tôi thấy hình như trong mười si lanh thì hai cái đã bị liệt. Nếu tôi chưa ở khu vực mà tôi tìm kiếm thì nhất định lúc này tôi không thể nào bay lên tới nơi được! Nhưng tôi đã chẳng lọt vào khu vực đó rồi sao? Vạch ra những vòng tròn và bay lượn như một mình và với cặp ống nhòm tôi quan sát một cách cẩn thận vùng chung quanh. Bầu trời quang đãng một cách tuyệt mỹ. Không có gì để cho ta dự đoán sự hiện hữu của những hiểm nguy mà tôi e ngại.
Tôi đã nói rằng tôi bay lượng trong khi vạch ra những vòng tròn. Tôi nghĩ rằng tôi đã đạt kết quả mỹ mãn hơn nhiều khi thăm dò một vùng rộng lớn hơn, một người thợ săn vào một trong những rừng già trên trái đất mà lại không đi xuyên từ đầu này tới đầu nọ của khu rừng đó với hy vọng phát hiện ra con mồi hay sao? Mà theo sự suy đóan của tôi, khu rừng già trong không gian mà tôi nhắm tới chắc chẳng phải toạ lạc nơi nào đó bên trên trái đất Wiltshire, nghĩa là phía Tây Nam của tôi. Tôi thực hiện một sự chồm lên theo sau mặt trời, vì địa bàn đã hỏng và tôi không còn phân biệt được trái đất nữa. Tôi lao về hướng đã chọn. Bay thật thẳng, vì tôi đã tính rằng chỉ còn đủ ít xăng cho một giờ nữa thôi. Nhưng tôi muốn chơi ngông là chạy cho tới cạn giọt xăng cuối cùng. Vì một lối bay lượng là là tuyệt diệu sẽ đưa tôi trở lại mặt đất không khó khăn gì.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy một cái gì mới lạ. Trước mặt tôi, không khí đã mất sự trong sáng của pha lê, nó chứa đựng những hình thù dài xoắn xoeo của một chất gì mà tôi chỉ có thể so sánh với luồng khói rất mỏng của thuốc lá, những tràng những vòng của chúng lăn đi một cách chậm chạp trong ánh sáng mặt trời. Khi chiếc phi cơ một tầng cánh xuyên qua cái chết lạ hoắc đó. Tôi thấy trên môi có một vị mơ hồ của dầu nhớt và cái sả của phi cơ phủ đầy một thứ bọt của chất mỡ. Một chất mỡ hữu cơ vô cùng vi tế hình như đang lơ lững trong khí quyển. Có phải đó là đời sống không? Cái chất mỏng manh, thô sơ này kéo dài ra hàng nhiều mẫu tây rồi bươm tua vào khoảng hư không, đó không phải là thuộc về đời sống! Nhưng có thể là những dấu vết của đời sống, món ăn của một đời sống cổ quái? Chất mỡ đơn sơ của đại dương chính là món ăn của con cá voi dũng mãnh. Tôi còn đang nghĩ ngợi việc đó thì khi nhìn lên tôi rất thích thú thấy một điều hoàn toàn độc đáo. Liệu tôi có hy vọng thuật lại với các bạn đúng như nó đã xuất hiện trước tôi hôm thứ ba trước không?
Các bạn hãy tưởng tượng một con sứa như ta từng thấy tại các biển vùng nhiệt đới, có hình thù cái chuông nhưng tầm vóc cực lớn! Theo tôi thấy thì lớn hơn vòm nhà thờ Saint Paul, nó có màu hồng đạm với những vân xanh nhạt, nó có một khí chất rất vì tế khiến nó có vẻ chỉ như một hình thù huyền ảo trên nền trời màu xanh rủ xuống lòng thòng, lúng liếng một cách chậm chạp từ phía sau và từ phía sau ra phía trước, làm trọn vẹn hình thể của nó. Cái ảo ảnh huy hoàng này diễn ra trên đầu tôi với một vẻ uy nghi thầm lặng nhẹ nhàng và mong manh như một cái bọt xà bông. Nó tiếp tục một cách đường bệ con đường của nó.
Tôi đổi hướng phi cơ để nhìn nó rõ hơn, nhưng bổng chốc tôi phát hiện ra rằng tôi đang bị bám quanh bởi toàn những sinh vật như vậy, với những tầm vóc một trái banh cỡ trung bình. Cách cấu tạo sinh đẹp và màu sắc của chúng làm tôi nhớ tới hàng thủy tinh của Venise. Màu hồng và màu xanh lá cây nhạt là những màu chủ yếu, nhưng chúng trở thành lóng lánh đủ màu khi mặt trời nở rộ với những hình thù mảnh mai của chúng. Hàng trăm con đã lướt qua gần tôi như vậy. Hình thù và thể chất của chúng đã hoà hợp một cách quá hoàn hảo với sự tinh khiết của những độ cao này khiến ta không thể nào hình dung được một thứ gì đẹp đẽ hơn.
Nhưng rồi sự chú tâm của tôi lạii bị thu hút bởi một hiện tượng khác: những con rắn của ngoại tầng không gian, các bạn hãy tưởng tượng ra những cái ống dài, mỏng manh, kỳ ảo bằng một chất gì nom giống như hơi nước. Chúng quay lộn vặn vẹo mình với một tốc độ không thể ngờ được, mắt ta khó có thể thưo kịp sự biến hoá của chúng, một vài con trong những con vật ma quái này có thể dài tới tám hay mười mét, nhưng thật là bực bội khi muốn ước lượng đường kính của chúng như sương mù và hình như tan loãng trong không khí. Những con rắn không gian này có một màu xám rất sáng ở phía trong có rạch những đường sậm hơn khiến ta có cảm tưởng rằng chúng là những sinh vật thực tại. Một con trong bọn chúng vờn qua mặt tôi. Tôi cảm thấy chạm phải một vật gì lạnh và ẩm ướt, chúng không có vẻ gì là vật thể cả, khiên tôi tuyệt nhiên không nghĩ tới một nguy hiểm nào về thể chất có thể xảy ra khi quan sát chúng gần như vậy. Hình thù của chúng cũng thiếu sự vững chắc như đám bọt của một ngọn sóng khi tan vỡ.
Một kinh nghiệm khủng khiếp hơn được dành cho tôi. Từ trên một độ rất cao lao xuống, một vệt hơi nước màu tía lúc đầu tôi tưởng là nhỏ, nhưng nó lớn lwn rất mau khi tớigần tôi. Mặc dù được cấu tạo bởi một thứ chất liệu trong vắt nom giống như băng, nó vẫn có một hình thù rất rõ rệt và một sự đông đặc chắc hơn những thứ mà tôi đã nhìn thấy cho tới lúc này, tôi cũng nhận ra những dấu vết rõ hơn một thứ sinh vật có thể chất. Đặc biệt là hai tấm hình trònkhá rộng, có đóng rợp ở mỗi bên, có thể là những con mắt và giữa hai tấm đó có một vật gì màu trắng, rất vững chãi nho hẳn ra ngoài và cũng cong lại nữa, có vẽ cũng hung dữ như cái mỏ của một con diều hâu.
Toàn thể dáng dấp của con quái vật này thật ghê gớm, đáng sợ. Nó luôn luôn thay đổi màu sắc, chuyển từ màu tím nhạt sáng sủa sang màu đỏ tối sẫm ghê người. Tôi không thể phủ nhận khối thể chất của nó vì nó đã giọi ra một cái bóng khi nó len vào giữa mặt trời và phi cơ. Ở khoảng cong phía trên của mình nó có ba cái bướu lớn mà tôi không biết mô tả thế nào hơn là so sánh chúng với những chỗ da phồng cực lớn. Tôi nghĩ rằng chúng chứa đựng một thứ hơi cực nhẹ dùng để chống đỡ cái khối lượng không hình thù gì và nữa đặc loãng này trong bầu không khí loãng lỏng. Di chuyển một cách nhanh nhẹn, con quái vật đi theo tốc lực chiếc phi cơ một tầng của tôi không cần sự cố gắng nào, trong khoảng độ ba chục cây số bay là là bên trên tôi giống như con chim săn mồi đang sửa soạn nhào xuống nạn nhân của nó. Muốn tiến lên, cách thức của nó là tung ra phía trước một vật gì như một cái ống dài loãn xoãn, bày nhầy, để rồi hình như cái ống này lôi kéo phần còn lại của thân mình. Nó rất chun dãn, có rất nhiều chất dính nên không bao giờ nó giữ nguyên một hình dáng trong hai phút liền, nhưng mỗi sự biến đổi hình dạng lại làm cho nó càng đáng sợ hơn, càng khủng khiếp hơn.
Tôi biết nó là kẻ thù của tôi, mỗi bộ phận đỏ ửng của thân mình nó đề nói lên sự thù hận của nó, những con mắt lớn, không rõ ràng của nó không rời khỏi tôi. Nom chúng lạnh lẽo, tàn độc, bị xao động bởi một hận thù xuất tự tâm can. Tôi hạ thấp mũi phi cơ của tôi như một nhát roi. Khi va chạm phải động cơ nóng bỏng, tôi nghe thấy một tiếng rít sắc nhọn và cái vòi vọt trở lại như là do sự đau đớn bất thần. Tôi muốn nhào thẳng xuống, nhưng một cái vòi lại đâm xuống phi cơ. Cánh quạt đã cắt nó với một sự dễ dàng như cắt một cuộn khói vậy. Một cái ống dài dính vào một cái bể mặt nhẵn lì như nhựa, xé rách nó và tôi được giải thoát nạn trong một lát; nhưng ngay tức khắc một cái ống khác lại quấn vào chân tôi với một sự hung hãn phía sau.
Trước sự tấn công này, tôi nhả đạn cả hai nòng súng của tôi. Đúng là tôi cũng giống như một người đi săn và tấn công con mồi mình bằng chiếc ống sì đồng (ống thổi bắn các viên tròn bất để giết loài chim nhỏ ) nhỏ bé. Làm sao tôi có thể hy vọng rằng một thứ vũ khí của con người mà làm tê liệt được một tiếng nổ vang một trong những viên đạn chì của tôi. Tôi đã đoán đúng: các bướu này căng phồng lên hơn vì khí hơi. Thật sự kẻ thù của tôi đã lăn trên phía bên, vặn vẹo một cách tuyệt vọng để lấy lại thăng bằng cho nó, cái mỏ trắng há ra và gõ lộp bộp vì điên dại, nhưng tôi đã thực hiện một lối nhào thẳng xuống liều lĩnh nhất mà tôi có thể làm thả hết ga. Nói một cách khác, tôi đã rơi xuống theo đúng nghĩa đen của từ, như một cục vân thạch. Từ phía xa đằng sau tôi một vệt đỏ từ từ thu nhỏ lại một cách nhanh chóng, rồi tan lẫn vào màu xanh của nền trời. A! Tôi đã hoàn toàn vô sự thoát khỏi khu rừng già khủng khiếp này của ngoại tầng không gian.
Một khi đã ở ngoài tầm nguy hiểm, tôi đóng ga lại, vì không có gì làm hư hỏng một động cơ tệ hơn là bổ nhào xuống với tất cả sức mạnh của nó. Từ độ cao sấp sỉ mười hai ngàn mét tôi thực hiện việc lượn là theo hình xoáy trôn ốc, thoạt đầu cho tới lơp mây màu bạc rồi tới những đám mây đầy bão tố ở phía dưới và sau hết qua một đám mây mưa dồn dập, cho tới mặt đất. Khi trồi ra khỏi những đám mây, tôi nhìn thấy biển Manche bên dưới tôi, vì tôi còn lại được đôi chút ít xăng tôi vượt đi bộ ba chục cây số trong nội địa và tôi đáp xuống một cánh đồng, cách làng Ashcombe nửa cây số. Ở đó, tôi đi mua ba bình ét xăng. Lúc sáu giờ mươi phút buổi chiều tôi đạu xuống bãi Davizé của tôi sau một chuyến du hành mà không một người nào trước tôi trên trái đất đã đi chót lọt để kể truyện về chuyến đi của mình. Tôi đã nhìn thấy vẻ đẹp và sự khủng khiếp ở giữa trời cao! Cái đẹp và sự khủng khiếp vượt khỏi tất cả những gì mà con người đã thấy trên trái đất.
Bây giờ chương trình của tôi là lại bay lên một lần nữa trước khi loan báo những kết quả của tôi với thế giới, phải làm như vậy. Tôi phải màng về một thứ bằng chứng nào trước khi làm bận tâm các đồng bào của tôi về một câu chuyện như vậy! tất nhiên những phi hành gia khác rồi đây sẽ xác nhận những lời nói của tôi, nhưng tôi muốn có ngay lòng tin của công chúng. Những cái bọtkhông khí đẹp đẽ để lóng lánh nhiều màu sắc đó nhất định là phải bắt được; chúng bay đi một cách chậm chạp, một phi cơ một tầng cánh bay nhanh có thể ngăn chặn được chúng. Rất có thể là chúng sẽ tan đi trong lớp khí quyển nặng hơn và tôi sẽ chỉ mang về mặt đất một đống băng nhỏ không có hình dạng gì, việc đó không quan trọng: ít nhất tôi cũng sẽ có một cái gì đó để xác quyết câu chuyện của tôi. Được tôi sẽ lại bay lên, ngay dù tôi có thể gặp những hiểm hoạ lớn hơn! Những con quái vật đỏ đó có vẻ không nhiều, chắc chắn là tôi sẽ không thấy một con nào, nếu tôi nhìn thấy một con, tôi sẽ trêu chọc ngay. Khi cần tới, tôi sẽ dùng tới khẩu súng và sự hiểu biết của tôi về.....”
Tới đây, bất hạnh thay một trang của tập viết tay bị mất. Ở trang tiếp theo, những chữ này được viết nguệch ngoạc: ” Mười ba ngàn một trăm mét. Không bao giờ tôi còn thấy lại trái đaast nữa. Chúng có ba con ở phía dưới tôi. Xin thượng đế phù hộ cho tôi, chết như thế này thật là ác độc!”
Đây là tất cả câu chuyện về Joyce – Armstrong, không bao giờ người ta còn biết một tin tức gì về người phi công ấy nữa, những mạnh vụn của chiếc phi cơ một tầng cánh của ông đã được nhận ra trong khu rừng săn bắn của ông Buddlushington, trên ranh giới hai quận Kent và Susex, cách nơi quyển sổ tay được phát hiện vài cây số. Nếu giả thiết của nhà phi hành gia xấu số là đúng, nếu khu rừng già trên không trung, như ông ấy gọi tên, quả thật hiện hữu bên trên miền Tây Nam nước Anh, thì chắc ông đã phải mở hết tốc lực để chạy trốn. Nhưng ông đã bị bắt kịp và bị nhai nuốt ngấu nghiến bởi những quái vật khủng khiếp đó bên trên nơi mà phi cơ đổ xuống. Hình ảnh chiếc phi cơ một tầng cánh đang từ trên trời lao xuống, với sự khủng khiếp vô kể xông ra cản đường nó về mặt đất và mau chóng xiết vòng vây vào nạn nhân của chúng là những hình ảnh làm cho một người có đầu óc quân bình không ham sống lâu dài nữa. Tôi biết rằng những người có tính hoài nghi sẽ cười chế nhạo trước sự trình bày các sự việc, nhưng rút lại họ cũng sẽ phải nhìn nhận sự mất tích của Joyce – Armstrong! Tôi khuyên họ nên suy ngẵm về hai câu của ông ấy ” Quyển sổ tay này sẽ chứng nhận những điều tôi định làm và tôi đã thiệt mạng ra sao khi thử làm việc đó. Nhưng xin đừng nói chuyện lẩm cẩm, vớ vẩn về một ”tai nạn” hay một sự ” bí ẩn”!
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:26:58 | Chỉ xem của tác giả
06. Vụ án B24

Tôi đã kể câu chuyện khi tôi bị bắt, và không ai muốn nghe tôi nói cả. Rồi tôi đã nhắc lại chuyện đó ở phiên tòa: nói tất cả, đúng hệt như sự việc đã xảy ra, không thêm, không bớt một chữ nào. Tôi đã nói hết sự thật, tôi xin thề đúng vậy? Tất cả những gì mà phu nhân Mannering đã nói, tất cả những gì mà tôi đã nói và đã làm, tôi đã kể lại không thay một dấu phẩy, và tôi đã được lợi lộc gì trong vụ này? “Phạm nhân đã mải mê trong một lời khai lan man và không đúng sự thật, không thể tin được vì các chi tiết của nó, và không dựa trên một sự khởi đầu nào của những bằng chứng hỗ trợ”. Đó là tin mà một nhật báo ở Luân Đôn đã loan đi. Những nhật báo khác thì lại làm như tôi không tự bào chữa cho mình. Tuy là chính mắt tôi đã trông thấy ngài Mannering bị ám sát, và tôi cũng vô tội trong vụ án này như bất cứ một ủy viên nào trong bồi thẩm đoàn đã kết tội tôi.
Thưa ngài, ngài là người tiếp nhận đơn xin ân xá của các phạm nhân. Tất cả tùy thuộc vào ngài. Tôi chỉ xin ngài một điều: đọc lá đơn của tôi, chỉ cần đọc nó thôi, rồi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về tính tình của vị “phu nhân” Mannering này, để xem bà ấy có giữ được cái danh hiệu mà bà ấy đã mang từ ba năm trước, khi tôi gặp bà ấy để chuốc lấy tù tội và sự tan nát của đời tôi. Ngài sẽ có thể giao vụ điều tra này cho một thám tử tư hay một người của tòa án; ngài sẽ mau chóng biết rõ đầy đủ về sự việc để hiểu rằng câu chuyện của tôi là đúng sự thật. Xin ngài hãy nghĩ tới sự vinh quang mà ngài sẽ đạt được nếu tất cả các nhật báo đều loan tin rằng một vụ án bất công không thể dung thứ được chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có lòng kiên trì và sự tinh tế của ngài. Đó sẽ là phần thưởng của ngài, vì tôi nghèo túng và tôi không thể biếu tặng ngài một thứ gì. Nhưng nếu ngài khoanh tay ngồi yên, thì ngài sẽ có thể không bao giờ thấy được một giấc ngủ ngon trên giường! Sẽ chẳng có đêm nào trôi qua mà ngài không thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ về một con người đang chết dần, chết mòn trong nhà tù vì ngài đã không làm tròn nhiệm vụ mà ngài được giao phó! Nhưng thưa ngài, ngài sẽ làm tròn nhiệm vụ đó, tôi tin chắc ở điều này. Ngài chỉ cần làm một hay hai cuộc điều tra nhỏ, và ngài tự nhắc nhở mình rằng kẻ duy nhất được hưởng lợi trong vụ án mạng là phu nhân Mannering, vì vụ án mạng đã làm cho một người đàn bà khốn khổ trở thành một góa phụ giàu sang. Tôi đã đặt vào tay ngài một đầu mối. Ngài chỉ cần đi theo nó; ngài sẽ thấy nó dẫn ngài tới nơi nào.
Thưa ngài, xin ngài lưu ý rõ ràng là tôi không kêu ca gì về các việc liên quan tới vụ trộm. Tôi không ta thán gì về những điều mà tôi đáng phải chịu, và cho tới nay tôi chưa phải nhận hình phạt nào nhiều hơn là hình phạt mà tôi đáng phải chịu. Quả thật là đã có một vụ trộm và ba năm tù của tôi là để đền tội đó. Trong phiên tòa, người ta chỉ ra rằng tôi đã tham dự vào vụ của Merton Cross, và rằng tôi đã ngồi tù một năm vì chuyện đó, đó là lý do tại sao lời khai của tôi đã được tiếp nhận một cách tệ hại như thế. Một kẻ tái phạm thì bao giờ cũng bị tình nghi. Tôi nhìn nhận vụ ăn trộm. Nhưng khi người ta nói với tôi về vụ án mạng đã khiến tôi bị kết án tù chung thân (và bất cứ một vị quan tòa nào ngoài ngài James, đều rất có thể đưa tôi lên đoạn đầu đài) thì tôi trả lời tôi không dính líu gì trong vụ này và tôi vô tội. Bây giờ tôi sẽ trở lại cái đêm hôm 13 tháng 12 năm 1894, và tôi sẽ kể lại một cách chính xác với ngài về những gì đã xảy ra. Nếu tôi nói sai sự thật một chút nào thì xin bàn tay của Thượng Đế hãy giết chết tôi đi.
Vào khoảng giữa mùa hè, tôi đi tới Bristol để tìm việc làm, nhưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tôi sẽ có thể xoay xở được ở Portsmouth, vì tôi là một thợ máy giỏi; vì vậy tôi đi ngang qua miền nam nước Anh, bằng cách nhận các công việc làm trên đường đi mỗi khi mà tôi kiếm được việc làm. Tôi cố gắng để khỏi có những sự phiền muộn, vì tôi đã đền tội một năm trong nhà tù ở Exeter, và điều đó cũng đủ với tôi rồi. Nhưng không có gì khó khăn bằng sự đi tìm việc làm khi mà tên của mình đã bị một dấu chữ thập đen dính vào; suýt nữa thì tôi đã bị chết đói. Sau cùng, sau khi trải qua mười ngày đi chặt củi và đập đá vụn để kiếm một đồng lương chết đói, tôi đã tới gần Salisbury với hai đồng bạc trong túi, và một lòng kiên nhẫn cũng tồi tệ như đôi giày của tôi vậy. Trên đường đi, khoảng giữa Blanford và Salisbury, có một quán rượu với tấm bảng hiệu “Thiện chí”. Tối hôm đó, tôi thuê một cái giường ở quán rượu này. Tôi ngồi có một mình trong tửu quán, một ít lâu trước giờ đóng cửa, khi chủ quán, một người tên là Allen, đi tới ngồi cạnh tôi và bắt đầu nói với tôi về những chuyện tầm phào trong xứ. Đó là một người thích nói và muốn có người nghe hắn nói; tôi là kẻ chẳng có việc gì để làm, tôi ngồi lại đó để hút thuốc trước một bình rượu bia mà hắn đem cho tôi. Tôi đã nghe hắn nói một cách lơ đãng, cho tới lúc hắn bắt đầu nói ba hoa (hình như ma quỷ nhập vào hắn) về những nhà đại phú ở lâu đài Mannering.
Tôi hỏi:
- Đó là cái nhà lớn ở mạn bên phải trước khi tới ngôi làng phải không? Cái nhà nằm giữa một hoa viên tư phải không?
- Đúng thế!
Tôi sẽ nhắc lại hết cuộc nói chuyện của chúng tôi để ngài thấy rằng tôi nói đúng sự thật và tôi không giấu ngài một điều gì.
- Tòa nhà trắng dài với những cây cột. Ở cạnh con đường Blandford.
Vâng, tôi đã để ý tới nó khi đi qua; tôi đã tự nhủ một cách rất ngu xuẩn rằng đó là một căn nhà rất dễ ăn trộm với một dãy dài các cửa sổ lớn và những cửa lớn lồng kính. Tôi đã xua đuổi ý nghĩ này, và nay thì anh chàng chủ quán lại nhắc tới cái nhà đó với câu chuyện những nhà phú hào cư ngụ tại lâu đài Mannering. Tôi không nói gì cả, nhưng tôi lắng tai nghe, và làm như một việc khẩn thiết, hắn ta quay trở lại câu chuyện.
- Lúc còn trẻ, ông ta đã bần tiện rồi. Đó, anh nghĩ là với tuổi tác ông ta vẫn không cải đổi gì cả. Tuy vậy, với tiền bạc của ông ta, ông ta đã làm nhiều việc không đến nỗi tệ lắm.
Tôi hỏi:
- Ông ấy đã có thể làm được việc gì, với tiền bạc mà ông ấy không dám tiêu pha?
- Hà, ông ta đã có thể mua được người đàn bà đẹp nhất nước Anh! Đó không phải là điều quá tệ. Cô ấy tưởng tượng là cô ấy sẽ có tiền bạc tiêu xài; hôm nay thì cô ấy đã vỡ mộng rồi.
- Cô ấy là ai vậy?
Tôi đã đặt những câu hỏi, chỉ là để có chuyện mà nói thôi.
- Một cô gái cầu bơ, cầu bất trước khi được nhà quý tộc già cưới làm vợ. Cô ta từ Luân Đôn tới. Một vài người nói chắc rằng cô ấy là diễn viên, nhưng không ai chứng thực được điều này. Nhà quý tộc già vắng nhà trong một năm. Khi ông ta trở về, ông ta dẫn theo một phụ nữ trẻ, người mà từ đó không ra khỏi tòa lâu đài nữa. Stephens, người đầu bếp, đã có lần kể lại với tôi rằng cô ấy là ánh sáng trong căn nhà khi cô ấy tới đó nhưng với những cung cách bần tiện và kiêu căng của ông chồng, với sự cô độc bao quanh ông ta (vì ông ta ghét tiếp khách) và với lời nói khắc bạc của nhà quý tộc (vì ông ta có một cái lưỡi như nọc ong vò vẽ), tất cả cuộc sống bây giờ hình như đã xa lánh cô ấy: cô ấy trở nên xanh xao, trầm lặng, suốt ngày đi thơ thẩn trên những con đường quê, lòng nặng ưu phiền. Cũng có nhiều người nói rằng cô ấy yêu một người đàn ông khác, rằng cô ấy đã không cầm lòng được trước sự cám dỗ của tiền tài, và bây giờ thì cô ấy trở nên tiều tụy buồn phiền vì cô ấy đã mất người yêu mà cũng chả có giàu sang. Bất kể tiền bạc của chồng, cô ấy là người đàn bà nghèo nhất trong giáo xứ.
Thưa ngài, chắc ngài hiểu rõ rằng những chuyện cãi cọ giữa một nhà quý tộc và một bà phu nhân chẳng ăn nhằm gì đến tôi cả. Việc cô ấy căm ghét tiếng nói của ông chồng hoặc ông ta làm cô ấy bực bội vì những lời mai mỉa, chế giễu với hy vọng là làm hủy hoại tâm hồn cô ấy, hoặc là ông ta nói với cô ấy như chưa từng bao giờ nói như vậy với một người trong bọn tôi tớ của ông ta, có thể làm tôi bận tâm ư? Gã chủ quán đã kể cho tôi nghe hàng lô chuyện ở đó, nhưng chúng đã ra khỏi đầu óc tôi, vì chúng không liên can gì tới tôi. Ngược lại, điều tôi muốn biết là tài sản của nhà quý tộc Mannering gồm những thứ gì? Những chứng khoán, những cổ phần đều chỉ là những giấy tờ và là nguồn gốc của tai họa nhiều hơn là lợi lộc cho kẻ nào chiếm đoạt chúng. Trái lại, quý kim và các đồ nữ trang mới đáng với sự mạo hiểm. Như thể hắn ta đã đoán được tất cả ý nghĩ của tôi, gã chủ quán nói với tôi về bộ sưu tập lớn lao các huy chương bằng vàng của nhà quý tộc Mannering; hắn nói với tôi rằng khắp trên thế giới không có bộ sưu tập nào như vậy; người ta đã tính rằng nếu đem bỏ chúng vào một cái bao thì người lực lưỡng nhất trong giáo xứ cũng không nâng nổi nó. Tới lúc đó thì vợ hắn gọi hắn đi ngủ; chúng tôi chia tay nhau.
Thưa ngài, không phải là tôi đang tự biện hộ cho tôi, nhưng tôi xin ngài suy xét lại các sự việc, và xin hỏi ngài rằng có người nào lại bị cám dỗ một cách tàn bạo hơn tôi nữa. Tôi nhìn nhận rằng rất ít người có thể chống cự lại được. Đêm hôm đó tôi nằm duỗi dài trên giường, không chút hy vọng mà cũng chẳng có công việc làm, với một đồng bạc cuối cùng trong túi. Tôi đã cố sức làm người lương thiện: những người lương thiện đã quay lưng lại với tôi; họ quở trách tôi đã là một tên ăn cắp và đồng thời họ đẩy tôi trở lại thành một kẻ ăn cắp. Tôi đã dấn thân vào dòng nước; tôi không thể ra thoát khỏi nữa. Rồi thì ở nơi đó tôi đã gặp cơ hội như vậy. Một tòa nhà lớn với tất cả những cửa sổ của nó, những huy chương bằng vàng là thứ dễ nấu chảy ra, y như là để một miếng bánh trước một kẻ đang đói mà nghĩ rằng hắn sẽ không nhai ngấu nghiến miếng bánh đó. Tôi đã cưỡng lại được một lúc, nhưng vô hiệu. Tôi ngồi dậy, và tôi thề rằng, ngay tối hôm nay, hoặc là tôi sẽ giàu có và tôi sẽ có được các phương cách để chào vĩnh biệt tội ác, hoặc là những cái còng lại một lần nữa khép lại trên cổ tay tôi. Tôi mặc quần áo vào tôi đặt một đồng bạc trên bàn (vì gã chủ quán đã đối xử tử tế với tôi và tôi không muốn lường gạt hắn). Tôi đi ra bằng ngả cửa sổ và tôi thấy mình đứng trong vườn của quán rượu.
Một bức tường cao bao quanh khu vườn. Tôi phải vất vả lắm để leo lên tường; nhưng khi đã sang tới bên kia tường thì mọi việc đã dễ dàng. Tôi đã không gặp một người nào trên đường đi, và tấm lưới sắt của ngõ vào để mở ngỏ. Không có gì động đậy ở nhà của người gác cổng. Trăng sáng vằng vặc, xuyên qua một vòm cong các cây cối, tôi nhận rõ tòa nhà lớn màu trắng. Tôi đi vào khoảng bốn trăm mét, và tôi đã tới trước cái cửa ở bên cạnh lối đi; nấp mình trong bóng tối, tôi quan sát tòa nhà dài với những cửa sổ lấp lánh dưới ánh sáng trắng như bạc. Tôi tự hỏi tôi sẽ tìm thấy lối vào dễ nhất ở chỗ nào đây, cái cửa sổ ở chỗ góc cho tôi cảm tưởng là nó ở nơi khuất nẻo nhất vì cây trường xuân rủ xuống từng chùm rậm rạp khắp chung quanh. Tôi bước lại phía cái cửa số này trong khi lẩn dưới các cây cối, rồi tôi bò đi dưới bóng của cái nhà. Một con chó sủa lên, co kéo sợi dây xích của nó; tôi đợi cho nó nằm im; tôi lại tiến bước một cách lén lút, và cuối cùng tôi đã đi tới dưới cái cửa sổ mà tôi đã ghi nhớ.
Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy ở miền quê mọi người thường lơ là, vô tâm? Tưởng rằng ở xa thành thị, người ta không bao giờ nghĩ tới những tên ăn trộm. Thật đúng là nhứ một con quỷ khốn khổ khi bàn tay nó đặt lên cánh cửa, mở nó ra không một chút khó khăn.
Trong trường hợp của tôi thì không phải hoàn toàn đơn giản như vậy, nhưng cái cửa sổ (một cái cửa sổ có cánh sập xuống) lại không cài chốt; tôi mở nó bằng cách dùng một lưỡi dao lớn. Tôi nâng nó lên, tôi nhét con dao vào giữa các tấm cánh cửa, tôi đẩy chúng về phía trước và tôi tụt xuống căn phòng.
- Chào ngài! Ngài tới thật đúng lúc - một giọng nói cất lên.
Trong đời tôi, đã có lúc tôi giật mình đến nẩy người lên, nhưng chưa bao giờ tôi bị giật nảy lên đến như vậy. Ở trong tầm các ngón tay của tôi, ngay trước các cánh cửa sổ mở ngỏ, một người đàn bà đứng không nhúc nhích, tay cầm một cây nến nhỏ, người cao lớn, mảnh mai, cô ta đứng thẳng người, cô ta có một khuôn mặt trắng, đẹp trông như được tạc bằng cẩm thạch; nhưng tóc và mắt thì đen sẫm như màn đêm. Cô ta mặc một áo ngủ màu trắng dài tới gót chân. Với cái áo đó và bộ mặt cũng trắng như vậy, cô ta nom giống như một con ma từ trên trời bước xuống đứng trước mặt tôi. Hai đầu gối tôi lẩy bẩy đụng vào nhau, tôi phải vịn vào một cánh cửa sổ để khỏi sụm xuống. Nếu tôi còn đủ sức lực thì tôi đã quay đầu chạy trốn. Nhưng tôi chỉ có thể đứng nhìn cô ta, miệng há hốc ra.
Bất chợt cô ta đã kéo tôi về với thực tế. Cô ta nói với tôi:
- Đừng có sợ...!.
Đó là những lời kỳ lạ để một bà chủ nhà nói với một tên ăm trộm.
- Tôi đã nhìn thấy anh từ cửa sổ phòng của tôi trong lúc anh ẩn nấp dưới các cây cối. Tôi đã đi xuống và đã nghe thấy anh ở phía bên kia cái cửa sổ. Tôi sẽ tự ý mở cửa cho anh nếu anh đợi thêm một lúc, nhưng khi tôi đến nơi thì anh đã tự một mình xoay xở được.
Tay tôi còn cầm con dao dài có khớp hãm mà tôi đã dùng để mở cánh cửa sổ. Tôi đã không cạo mặt, và trên hai má tôi có đầy bụi bặm trong tám ngày đi đường ít người dám nhìn thẳng vào mặt tôi lúc chỉ có hai người, vào một giờ đêm như thế này. Người đàn bà này thì trái lại, nếu cô ta đã có hẹn với tình lang, thì chắc cô ta cũng không nhìn hắn bằng con mắt đáng yêu hơn. Cô ta đặt một bàn tay lên cánh tay tôi, và cô ta kéo tôi vào bên trong căn phòng.
- Thưa bà, thế này là nghĩa làm sao? Xin chớ đem những sự cám dỗ nhỏ nhen mà thử thách tôi.
Tôi đã cất giọng nói lớn, và khi tôi cố sức nói như vậy thì tôi có thể có vẻ rất hung dữ.
- Nếu bà muốn giở trò lừa gạt tôi, thì mặc kệ bà!
Tôi chìa con dao ra với cô ta.
Cô ta trả lời:
- Tôi không muốn lừa gạt anh. Ngược lại, tôi là bạn của anh và tôi muốn giúp đỡ anh.
- Thưa bà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi khó tin được việc này. Tại sao bà lại muốn giúp đỡ tôi?
- Vì những lý do riêng tư...
Bỗng nhiên, với những con mắt đen sáng rực trên khuôn mặt trắng, cô ta gần như gào lên với tôi:
- Vì rằng tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy! Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ?
Tôi nhớ lại những điều mà gã chủ quán đã nói với tôi và rồi tôi đã hiểu. Tôi nhìn vào mặt cô ta: phải, tôi có thể tin ở cô ta? Cô ta muốn trả thù người chồng. Cô ta muốn đánh lão ấy vào chỗ trọng yếu nhất: vào cái túi tiền. Cô ta hận lão đến nỗi chịu hạ mình đặt tin tưởng vào một người như tôi, nếu cô ta có thể đạt được mục đích. Trong đời tôi, tôi đã từng thù hận nhiều người, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đã hiểu được thế nào là hận thù, trước khi nhìn thấy bộ mặt của cô ta dưới ánh sáng của cây nến.
- Bây giờ thì anh tin tôi rồi chứ? - cô ta hỏi tôi trong lúc lại một lần nữa đặt bàn tay dịu dàng lên cánh tay tôi.
- Vâng, thưa phu nhân.
- Thế ra anh biết tôi à?
- Tôi đoán ra cô là ai.
- Tôi biết rằng sự bất hạnh của tôi là câu chuyện được đồn đại trong khắp xứ. Nhưng ông ấy có bận tâm về việc đó không? Ông ấy chỉ bận tâm về một điều trên đời này, và điều đó là thứ mà anh sẽ lấy trộm của ông ấy ngay đêm hôm nay. Anh có một cái túi không?
- Thưa phu nhân, không.
- Hãy đóng các cánh cửa sổ lại. Không ai có thể nhìn thấy ánh sáng. Anh được an toàn triệt để. Bọn đầy tớ ngủ ở chái nhà bên kia. Tôi sẽ chỉ cho anh thấy nơi để những đồ vật quý giá nhất. Anh sẽ không thể mang đi tất cả: anh sẽ chọn lựa những thứ đẹp nhất.
Căn phòng mà tôi lẻn vào thì dài và có cái trần thấp; những tấm thảm, những tấm lông thú nằm rải rác trên một sàn ván đẹp, đánh xi bóng loáng. Có những tủ kính nhỏ. Những bức tường được trang trí với các cây giáo, các thanh gươm, các mái chèo và những đồ vật khác thường được bày trong các viện bảo tàng. Cũng có cả những thứ y phục kỳ lạ đã được mang về từ các nước xa lạ; vị phu nhân cúi mình xuống và nhặt một cái túi bằng da đen.
- Cái túi để nằm ngủ này sẽ được việc - cô ta nói - Hãy theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh rõ nơi cất các huy chương.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:28:24 | Chỉ xem của tác giả
06. Vụ án B24 (tiếp)

Thoạt giống như một giấc mộng: người đàn bà cao lớn mặc toàn màu trắng này, vốn là nữ chủ nhân của tòa nhà, lại tiếp tay cho tôi ăn trộm nhà cô ta?... Tôi đã định cười phá lên, nếu trên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ta tôi không phát hiện ra một điều gì làm giá lạnh nụ cười trên môi tôi. Cô ta đi qua trước mặt tôi như một hồn ma, với cây nến trong tay, và tôi đi theo cô ta với cái túi trong tay tận tới cái cửa lớn ở phía cuối phòng bảo tàng này. Cái cửa được khóa kín, nhưng chìa khóa nằm trong ổ khóa; cô ta mở cửa ra và chúng tôi đi vào.
Căn phòng kế cận thì nhỏ bé, có treo những tấm màn vẽ. Trên một tấm là hình một cuộc săn hươu, tôi nhớ rất rõ về tấm màn này, và dưới ánh sáng của cây nến người ta có thể nghĩ rằng những con chó và những con ngựa từ trong tường xông ra. Vật duy nhất khác trong căn phòng là một dãy tủ kính bằng gỗ hồ đào, với những trang trí bằng đồng và những mặt trên bằng kính. Thoạt vừa nhìn tôi đã nhận thấy rất nhiều huy chương bằng vàng, được xếp thành từng hàng, trong số đó một vài cái lớn bằng những cái đĩa và có bề dày tới ba hay bốn phân tây; chúng được đặt trên nhung đỏ; ánh vàng của chúng lấp lóe trong bóng tối. Tôi thấy các ngón tay ngứa ngáy và tôi luồn con dao vào ổ khóa của một trong các tủ kính để làm bật nó ra.
- Đợi một lát. - cô ta nói với tôi trong khi lại bắt đầu đặt bàn tay lên cánh tay tôi - Anh có thể tìm được thứ quý hơn.
Tôi đáp:
- Chỗ này là quá đủ cho tôi rồi. Và tôi vô vàn cảm ơn phu nhân về sự giúp đỡ tôi.
Nhưng cô ta vẫn khăng khăng:
- Tôi nói với anh là còn nhiều thứ quý giá hơn. Những vị vua chúa bằng vàng sẽ có lợi cho anh nhiều hơn là những tấm huy chương này.
- Vâng, đúng thế! Các vị vua chúa bằng vàng, còn thứ gì quý hơn nữa.
- Được rồi. Ông ấy ngủ ngay bên trên đầu chúng ta. Ta chỉ cần lên một cầu thang nhỏ. Bên dưới giường của ông ấy, ông ấy giấu một cái hòm nhỏ đựng khá nhiều tiền đủ nhét đầy cái túi của anh.
- Nhưng tôi làm thế nào để lấy nó mà không làm ông ấy thức giấc?
- Có gì là quan trọng nếu ông ấy thức giấc?!...
Cô ấy nhìn chằm chằm vào mặt tôi khi nói câu này.
- Anh biết rõ cách ngăn cản không cho ông ấy kêu lên chứ?
- Dạ không, thưa bà! Không có chuyện đó. Tôi không làm được đâu
- Tùy ý anh đó! Lúc mới gặp tôi cứ nghĩ anh là một người cứng cỏi, nhưng tôi thấy là tôi đã lầm. Nếu anh sợ hãi một ông già thì tất nhiên là để mặc xác số vàng bên dưới giường ông ấy. Anh là vị quan tòa tốt hơn tôi về các việc riêng của anh, nhưng tôi nghĩ rằng tốt nhất là anh nên chọn một nghề khác.
- Tôi không muốn có một vụ sát nhân đè nặng lên lương tâm tôi.
- Anh có thể khống chế mà không làm tổn thương ông ấy. Tôi không bao giờ nói tới việc giết người. Tiền để ở dưới giường. Nhưng nếu anh sợ thì tốt nhất là anh đừng mạo hiểm làm việc gì cả.
Đó là cách thức mà cô ta đã tác động tôi: một phần với sự mai mỉa của cô ta, một phần với số vàng mà cô ta đem ra làm lóe mắt tôi. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ nhượng bộ và tôi sẽ trở nên liều lĩnh tại nhà của nhà quý tộc già nua nếu tôi không chú ý tới đôi mắt của cô ta: đôi mắt này đã phụ giúp cho cuộc đấu tranh nội tâm của tôi bằng một sự biểu lộ quá gian xảo, quá hung dữ khiến tôi hiểu ngay rằng cô ta cố gắng làm tôi trở thành công cụ cho sự trả thù của cô ta, và cô ta không để cho tôi một sự chọn lựa nào khác ngoài việc loại trừ ông chồng ra khỏi tình trạng có thể làm hại cô ta hoặc để cho tôi bị ông ấy bắt được. Cô ta đã cảm thấy rõ là ý đồ đã bị phát lộ, và tức thì ban tặng cho tôi một nụ cười thân mật; nhưng đã quá muộn rồi; tôi đã có một sự cảnh giác của tôi.
Tôi bèn nói.
- Tôi không muốn lên lầu. Tôi đã có đủ mọi thứ tôi cần đây rồi.
Cô ta đã làm tôi choáng người vì sự khinh bỉ của cô ta.
- Được lắm. Anh có thể lấy những cái huy chương này đi. Tôi nghĩ rằng anh nên bắt đầu từ phía bên kia. Chắc chắn là khi đã nấu chảy ra rồi thì tất cả chúng đều cùng có một giá trị như nhau thôi, nhưng các huy chương này là những thứ hiếm có hơn do đó là thứ quý báu hơn đối với ông ấy, không cần phải bẻ các ổ khóa. Nhấn mạnh vào cái nút đồng này, anh sẽ chuyển động một cái lò so bí mật. Kia kìa! Hãy lấy cái này trước: đó là con người trong mắt lão ta...
Cô ấy mở một cái tủ kính; tất cả những đồ vật đẹp đẽ được phơi bày ra trước mặt tôi. Tôi đã dặt tay lên tấm huy chương mà cô ta vừa chỉ thì bỗng nhiên tôi thấy nét mặt cô ta thay đổi, và cô ta giơ một ngón tay.
- Suỵt! Cái gì vậy?...
Trong sự im lặng của tòa nhà chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân lê đi rất nhẹ, ngay tức thì cô ta đóng tủ kính lại.
- Đó là chồng tôi! Anh đừng sợ! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Tôi sẽ dàn xếp mọi việc. Chỗ này? Mau lên, đằng sau tấm thảm!...
Cô ta đẩy tôi vào phía sau những tấm màn sơn, tôi và cái túi rỗng không trong tay - rồi cô ta cầm lấy cây nến và nhanh nhẹn đi trở vào phòng bảo tàng, nơi mà chúng tôi vừa ra khỏi. Từ chỗ tôi đứng, tôi có thể nhìn thấy cô ta qua cái cửa mở ngỏ.
Cô ta nói lớn:
- Có phải mình không, Robert?
Ánh sáng của một cây nến lóe lên phía sau cái cửa của phòng bảo tàng; tiếng bước chân tới gần. Rồi tôi thấy hiện ra trên bậc cửa một bộ mặt lớn, nặng nề, đầy những vết nhăn và những nếp da bùng nhùng mỡ, với một cái mũi cong khoằm có mang kính gọng vàng. Ông ta rất cao lớn to. Với cái áo ngủ, ông ta đứng che kín cả cái cửa - ông ta có mái tóc bạc, xoắn lại thành từng cuộn, nhưng ông ta không có râu. Miệng ông ta thì nhỏ, mỏng, chúm lại, bị mờ nhạt đi dưới sự uy hiếp của cái mũi ngạo nghễ. Ông ta đứng yên bất động, quan sát vợ với một cái nhìn xa lạ, hiểm ác mới thoạt nhìn tôi đã hiểu ngay là ông ta biểu lộ với vợ những tình cảm mà cô ta đã dành cho chồng.
Ông ta hỏi vợ:
- Thế này là nghĩa làm sao? Một sự nổi hứng mới à? Tại sao lại có cuộc đi dạo chơi ban đêm này trong nhà? Làm sao mà cô lại không đi ngủ?
- Tôi không thể ngủ được...
Cô ta nói một giọng chán chường, thê thảm. Nếu ngày xưa cô ta đã lên sân khấu, thì hắn cô ta đã không quên nghề nghiệp của mình.
- Tôi có cần gợi ý cho cô là một lương tâm trong sáng sẽ giúp một cách rất hiệu lực cho giấc ngủ không?
Ông ta lại lên tiếng với cũng một giọng chế nhạo như vậy
Cô ta trả lời:
- Tôi không tin điều đó, bởi vì ông vẫn có những giấc ngủ rất ngon mà.
- Trong suốt cuộc đời tôi, tôi chỉ xấu hổ về một chuyện thôi... - Tóc ông ta dựng đứng lên lởm chởm vì tức giận; ông ta nom giống như một con ác điểu. - Cô biết hơn ai hết là tôi nói việc gì. Và sự trừng phạt đã theo sau lỗi lầm.
- Đối với tôi, cũng đúng như thế: chớ quên điều này.
- Cô còn phàn nàn cái gì? Chính tôi đã tự hạ thấp mình xuống; còn cô, cô đã được cao sang.
- Cao sang?
- Đúng vậy! Tôi nghĩ rằng cô sẽ không chối cãi là cô đã được mãn nguyện khi tới đây, tới lâu đài Mannering. Tôi đã phạm sai lầm lớn khi đem cô ta ra khỏi môi trường thật sự của cô.
- Nếu đúng là ông nghĩ như vậy, tại sao chúng ta không chia tay nhau?
- Bởi vì một sự bất hạnh riêng tư còn tốt hơn là một sự nhục nhã trước mọi người. Bởi vì ngấm ngầm đau khổ về một lỗi lầm còn dễ hơn là thú nhận nó. Và cũng bởi vì tôi thích có cô ở trước mắt và biết rằng cô không thể quay trở lại với hắn.
- Đồ vô lại! Đồ hèn nhát?
- Đúng vậy, Milady. Tôi biết tham vọng thầm kín của cô, nhưng khi tôi còn sống, nó sẽ không thực hiện được đâu và rất có thể là tôi sẽ có những cách xếp đặt để sau khi chết rồi tôi vẫn còn canh chừng để khi cô trở về sống với hắn mà không có một đồng xu dính túi. Cô và anh chàng Edward yêu quí của cô, không bao giờ các người được toại nguyện phung phí tiền bạc của tôi, phải nói cho cô biết ý định này, Milady ạ. Tại sao các ô cửa và cửa số lại mở ngỏ thế này?
- Tôi thấy căn phòng có mùi hôi.
- Đó không phải là sự khôn ngoan. Biết đâu lại không có một tên du đãng đi dạo quanh đây? Cô có biết rằng bộ sưu tập huy chương của tôi có giá trị hơn bất cứ bộ sưu tập nào trên thế giới không? Cô cũng để cửa lớn mở ngỏ nữa. Ai sẽ có thể ngăn cản được một tên ăn cắp lấy trộm đồ của tôi?
- Có tôi ở đây mà.
- Tôi biết điều đó. Tôi đã nghe thấy cô đi trong phòng dể huy chương; đó là lý do tại sao tôi đi xuống. Cô đã làm gì ở đó?
- Tôi xem các tấm huy chương. Tôi còn có thể làm gì khác được?
- Sự hiếu kỳ này là mới mẻ đấy!
Ông ta ném cho vợ một cái nhìn nghi ngờ và ông ta đi vào phòng nhỏ chứa các huy chương. Cô ta đi theo chồng.
Ngay vào lúc đó tôi nhìn thấy một vật làm tôi phát run lên. Tôi đã đế con dao có khớp hãm lưỡi mở sẵn trên mặt tủ kính. Nó nằm phơi ra đó, mắt thường cũng nhìn thấy được. Cô ta đã nhìn thấy con dao trước ông ta, và với tất cả sự sắc bén của một người đàn bà, cô ấy nâng cao cây nến lên để ngọn lửa nến len vào khoảng giữa con dao và cặp mắt của nhà quí tộc Mannering. Rồi tay trái cô ta cầm lấy con dao và áp nó sát vào áo ngủ của mình không để ông ta nhìn thấy. Ông ta kiểm soát các tủ kính, lần lượt từng cái một; có một lúc nào đó tôi đã có thể đặt bàn tay tôi lên cái mũi dài của ông ta. Như không có gì chứng tỏ là có người đã đụng chạm tới các tấm huy chương, ông ta đi ra, kéo lê hai chân tới gian phòng lớn..
Và bây giờ tôi phải nói tới một điều mà tôi nghe thấy chớ không phải là nhìn thấy, nhưng tôi xin thề với ngài, cũng đúng thật như một ngày nào mà tôi trình diện trước đấng tối cao, là tôi sẽ nói sự thật với ngài.
Khi họ đi vào phòng bảo tàng, tôi trông thấy ông ta đặt cây nến trên góc bàn, rồi ông ta ngồi xuống, nhưng vừa đúng ngoài tầm nhìn của tôi. Cô ta thì đứng sau lưng ông ta, theo như tôi có thể biết vì cây nến chiếu ra bóng của nhà quí tộc già trên sàn nhà trước mặt ông ta. Lúc đó ông ta lại nói đến gã đàn ông mà ông ta gọi tên là Edward, ông ta nói nhỏ, và tôi không hiểu tất cả nhưng theo những điều tôi nghe được thì giống như cô ta bị những ngọn roi quật vào mình... Thoạt đầu cô ta trả lời bằng những từ ngữ rất bén nhọn, rồi thì cô ta im tiếng; ông ta cứ tiếp tục làm tổn thương vợ, chửi mắng, hành hạ vợ bằng giọng nói lạnh lùng và chế nhạo; tôi tự hỏi tại sao cô ta lại có thể giữ được im lặng khi nghe ông ta nói thế. Bỗng nhiên tôi nghe thấy ông ta nói với một giọng sắc bén:
- Đừng đứng đằng sau tôi nữa! Buông cổ áo tôi ra! Cái gì thế cô muốn đánh tôi à?
Đúng là tôi đã nghe thấy một tiếng động giống như một nhát đánh một thứ tiếng đục và nhẹ, rồi tôi nghe thấy ông ta kêu lớn: “Lạy chúa tôi, nhưng đây là máu mà!” ông ta cựa quậy hai bàn chân như muốn đứng lên. Lúc đó tôi lại nghe thấy một nhát đánh nữa, và ông ta thét lên: “ôi, đồ quỉ cái”. Và sau một tiếng đổ vật trên sàn nhà và tiếng một chất lỏng chảy, sự im lặng lại bao trùm.
Tôi vội vã đi ra khỏi chỗ ẩn nấp và tôi chạy vào gian phòng lớn, tôi run rẩy cả chân tay; tôi bị kinh hoảng. Nhà quí tộc già đã tụt xuống khỏi cái ghế và trên lưng ông ta cái áo ngủ, làm thành một cái bướu khủng khiếp. Cái đầu ông ta vẫn còn đeo kính, lăn sang một bên; cái miệng nhỏ bé của ông ta há hốc ra như một con cá chết. Tôi không trông thấy máu chảy ra từ nơi nào, nhưng tôi nghe thấy nó rơi lộp độp trên sàn nhà. Còn cô ta? Kia kìa, môi cô ta mím chặt, đôi mắt long lanh, và lúc này thì cặp má hồng ửng lên. Cô ta chỉ thiếu một chút sắc hồng nhạt này để trở thành người đàn bà xinh dẹp nhất mà tôi đã
từng thấy.
Tôi ấp úng nói:
- Cô đã giết ông ta?
- Phải, - cô ta trả lời tôi với sự điềm tĩnh cố hữu, - Bây giờ tôi đã giết ông ta.
Tôi hỏi:
- Cô sẽ làm thế nào? Cũng chắc chắn như hai với hai là bốn, cô sẽ bị bắt giữ về tội sát nhân.
- Anh khỏi phải lo sợ cho tôi. Đời sống chẳng có gì làm tôi quan tâm cả; sự sống không quan trọng đối với tôi. Hãy giúp tôi một tay để đặt lại ông ta lên ghế, nhìn như thế này khủng khiếp lắm!
Tôi phụ giúp cô ta. Chỉ chạm vào ông ta mà người tôi đã lạnh giá như băng. Một ít máu chảy lên bàn tay tôi. Tôi buồn nôn.
- Bây giờ thì hoặc là anh hay kẻ nào khác lấy những tấm huy chương này - cô ấy dõng dạc nói - Hãy lấy đi và đi khỏi!
- Tôi không muốn lấy chúng. Tôi muốn đi khỏi, có thế thôi. Chưa bao giờ tôi bị dính vào một vụ như thế này.
- Thật là ngu ngốc. Anh tới đây vì những tấm huy chương; chúng nằm kia, thuộc quyền sử dụng của anh. Tại sao anh không lấy? Không có ai ngăn cản việc anh lấy chúng đi.
Trong tay tôi còn cầm cái túi trống rỗng. Cô ấy mở tủ kính, cả hai chúng tôi bỏ chừng một trăm tấm huy chương vào cái túi. Chúng đều nằm trong cùng một tủ kính; tôi không muốn đợi lâu hơn nữa. Tôi đi về phía cửa sổ vì không khí trong tòa nhà làm tôi ngộ độc sau những gì tôi đã trông thấy và nghe thấy. Tôi quay đầu lại. Tôi thấy cô ta vẫn đứng yên, mảnh mai, cao lớn, đài các, với cây nến trong tay, giống hệt như lúc tôi nhìn thấy cô ta lần đầu tiên Cô ta vẫy tay nói lời tạm biệt với tôi. Tôi đáp lại cô ta cũng bằng dấu hiệu đó. Tôi nhảy qua cửa sổ vào lối đi lát sỏi.
Tôi cảm ơn Thượng đế là tôi có thể đặt tay lên trái tim mà thề rằng tôi đã không bao giờ phạm tội ác; nhưng có lẽ tôi sẽ không có thể thề việc này, nếu tôi đọc được ý nghĩ trong đầu người đàn bà này. Nếu tôi đoán được những gì ẩn nấp sau nụ cười cuối cùng của cô ta, thì lúc đó sẽ có hai xác chết trong gian phòng thay vì chỉ có một xác thôi. Nhưng tôi chỉ nghĩ tới một việc: Tẩu thoát để khỏi bị bắt giữ. Tôi hoàn toàn không nghĩ tới chuyện cô ta đang tròng dây thừng vào cổ tôi. Tôi chưa đi được năm bước ở bên ngoài bằng cách men theo tòa nhà và ẩn mình trong bóng tối thì tôi đã nghe thấy một tiếng la đủ sức làm thức giấc tất cả giáo xứ; rồi một tiếng thứ hai, và còn một tiếng thứ ba nữa.
- Có án mạng! - cô ta kêu lớn - có án mạng! Cấp cứu!
Tiếng cô ta vang lên trong sự yên tĩnh của ban đêm, và tiếng vọng lan ra khắp cả mọi nơi. Tiếng kêu rùng rợn đó, nó đã xuyên thủng đầu. tôi Trong một khoảng khắc, những ánh sáng đã hiện ra, đã chuyển động, và các cửa sổ được mở tung: không phải chỉ trong tòa nhà đằng sau tôi mà cả trong nhà người gác cửa và các chuồng ngựa trên đường đi của tôi. Như một con thỏ hoảng hốt, tôi lao mình trong lối đi và tôi chạy với hết tốc độ của đôi chân, nhưng tấm lưới sắt đã đóng lại trước khi tôi có thể tới chỗ nó. Tôi giấu cái túi đựng huy chương dưới một đống củi và tôi toan chạy trốn qua công viên, nhưng một người nào đó đã trông thấy tôi, và chả mấy lúc dã có năm, sáu người với những con chó đuổi theo tôi. Tôi náu mình sau các bụi cây; nhưng những con chó chồm lên người tôi và tôi đã rất mừng khi mọi người chạy tới, nếu không tôi đã bị chúng nuốt sống.
Họ túm lấy tôi và dẫn tôi trở lại căn phòng mà tôi đã bỏ chạy khỏi đó.
Người lớn tuổi nhất hỏi:
- Có phải người này không, thưa phu nhân?
Từ trước tôi đã biết người này là anh đầu bếp trưởng.
Cô ta cúi mình bên trên xác chết, cô ta chùi mắt bằng một chiếc khăn mùi xoa, rồi quay lại phía tôi, bộ mặt của một mụ đàn bà hung ác, ôi, một nữ diễn viên tài giỏi làm sao!
- Phải, đúng là nó! - Cô ta kêu lên - Ôi, thằng ăn cướp! Thằng tàn ác! Đối xử như vậy với một ông già!
Trong đám người đứng quanh đó, có một người có vẻ là nhân viên cảnh sát trong làng. Ông ta đặt một bàn tay lên vai tôi, ông ta hỏi tôi:
- Anh có gì để trả lời việc này?
- Chính cô ấy đã giết ông ta!- Tôi gào to lên trong khi chỉ tay vào cô ta.
Cô ta vẫn điềm nhiên, tiếp tục nhìn tôi với một cái nhìn tỉnh táo.
Người cảnh sát nói:
- Nào, anh còn, lời bào chữa khác không?
Một tên trong bọn đầy tớ đã đấm tôi một cú đấm rất mạnh.
- Tôi đã nói với ông là tôi nhìn thấy cô ấy giết người! Cô ấy đã đâm ông ta hai nhất bằng một con dao. Thoạt đầu cô ấy đã giúp tôi lấy trộm đồ của ông ta; rồi cô ấy giết ông ta.
Tên đầy tớ muốn đánh tôi một lần nữa, nhưng cô ta đã giữ tay hắn lại. Cô ta nói thì thầm:
- Đừng làm tổn thương hắn. Tôi tin rằng pháp luật sẽ đảm nhiệm việc trừng phạt hắn.
- Thưa phu nhân, tôi sẽ lo việc đó! - người cảnh sát trả lời - Phu nhân đã chứng kiến rõ
ràng vụ án phải không ạ?
- Phải, phải! Tôi đã chính mắt nhìn thấy vụ án. Thật là khủng khiếp. Chúng tôi đã nghe thấy tiếng động và chúng tôi cùng đi xuống. ông chồng xấu số của tôi đi trước. Người này đã mở dược một tủ kính, và hắn ta đang nhét đầy cái túi da đen hắn cầm trong tay. Hắn định chạy trốn, nhưng ông chồng tôi đã bắt hắn lại; hai người đánh nhau, và hắn đã đâm ông ấy hai nhát dao găm. Hãy nhìn xem: hắn còn máu trên hai bàn tay. Nếu tôi không lầm thì con dao vẫn còn nằm trong lưng chồng tôi.
- Các ông trông kìa; cô ấy có những bàn tay đẫm máu. - tôi dã kêu lên.
- Cô ấy đã đỡ cái đầu của ông lớn, đồ dối trá đê tiện - gã đầu bếp cãi lại.
- Và đây là cái túi mà phu nhân nói tới lúc nãy - người cảnh sát nói, ông ta vừa được một tên chăn ngựa đem tới cho cái túi mà tôi đã quẳng đi trong lúc chạy trốn. Và những tấm huy chương nằm ở bên trong. Như thế là quá đủ cho tôi rồi - tối hôm nay chúng ta hãy giừ hắn ở đây và ngày mai sẽ giải hắn tới Salisbary.
Người đàn bà nói:
- Đồ ma quỉ xấu xa! Về phần tôi, tôi tha thứ cho hắn về sự thương tổn hắn đã gây ra cho tôi. Ai biết được sự cám dỗ nào đã đưa đẩy hắn tới tội ác? Lương tâm của hắn và luật pháp sẽ trừng phát hắn một cách thích đáng để tôi khỏi phải nói ra những lời nguyền rủa hắn.
Tôi đã không thể trả lời được câu nào, thưa ngài, tôi xin đoan chắc với ngài là tôi không thể trả lời được câu nào. Tôi bị bối rối vì sự trắng trợn của người đàn bà này. Vì sự im lặng của tôi có vẻ như đã xác nhận tất cả những điều cô ta nói, tôi đã bị người cảnh sát kéo vào trong căn hầm, tại đó tôi bị nhốt qua đêm.
Đấy thưa ngài, tôi đã nói với ngài tất cả chuyện về các biến cố dẫn tới vụ giết chết nhà quí tộc Mannering bởi vợ ông ta trong đêm 14 tháng 9 năm 1894. Có lẽ ngài sẽ bác bỏ sự trình bày các biến cố của tôi, như người cảnh sát ở lâu đài Mannering, như vị quan tòa ở tòa án địa phương hoặc có lẽ ngài sẽ tìm ra một tia chân lý, điều sẽ làm ngài bận tâm, và ngài sẽ mãi mãi giữ vững thanh danh một người không lùi bước trước bất kỳ một trở ngại nào để làm sáng tỏ chân lý và sự công bằng. Thưa ngài, tôi chỉ có thể khẩn cầu với ngài, nếu ngài rửa sạch được tên tuổi tôi khỏi sự cáo buộc gian dối này, tôi sẽ đội ơn ngài cho tới hết đời. Nhưng nếu ngài bỏ rơi tôi, thì tôi xin thề với ngài là trong vòng một tháng kể từ hôm nay tôi sẽ tự treo cổ trên thanh sắt cửa sổ của tôi, và từ ngày này trở đi tôi sẽ trở về đêm nào cũng kéo giật chân ngài và tôi sẽ làm khổ ngài với khả năng một con ma có thể làm được. Điều mà tôi cầu xin ngài rất đơn giản, xin tiến hành một cuộc điều tra về người đàn bà này, canh chừng cô ta, truy tìm quá khứ của cô ta, dò hỏi xem cô ta làm gì với số tiền mà cô ta dược thừa hưởng, phối kiểm xem trong cuộc sống hiện nay của cô ta có người nào tên là Edward như tôi đã chỉ ra không. Nếu cuộc điều tra của ngài phát hiện tính cách thật sự của cô ta, nếu nó tỏ ra hỗ trợ cho câu chuyện mà tôi vừa kể lại với ngài, thì chắc chắn rằng tôi sẽ có thể tin vào lòng tốt của ngài và ngài sẽ cứu được một người vô tội.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:28:59 | Chỉ xem của tác giả
07. Tên tử tù bất tử

Hồi đó tôi là y sĩ trưởng ở Los Amigos. Tất nhiên mọi người đều nghe nói tới nhà máy điện chính là nơi cung cấp điện lực cho thành phố cũng như hàng mấy chục thị trấ và làng xung quanh. Do đó có rất nhiều xưởng máy ở trongkhu vực. Những cư dân ở Los Amigos đều công nhận rằng đó là những xưởng máy lớn nhất trên trái đất. Họ cũng nói rằng đó là những xưởng máy lớn nhất trên trái đất. Họ cũng nói rằng tất cả những thứ gì hiện hữu ở Ló Amigos đều là những thứ vĩ đại nhất trên trái đất, ngoại trừ các nhà tù và tử xuất (tỷ lệ người chết) nếu ta tin vào lời nói của của họ, là những thứ nhỏ nhất trên thế giới.
Với một nhà máy điện trung tâm đồ sộ như thế, chúng tôi suy nghĩ rằng chúng tôi sẽ phạm phải một sự tăng phí đáng tội về dây gai nếu những tên tội phạm của Los Amigos bị đem ra hành quyết như thời cổ xưa tốt đẹp đó. Chúng tôi biết rằng những vụ hành quyết bằng cách cho điện giật đã diễn ra ở phương đông, nhưng dù sao thì các kết quả của chúng cũng đã không mau lẹ ngay tức thì như người ta đã hy vọng, các vị kỹ sư của chúng tôi cau mày lại khi họ được các tờ báo cho biết rằng những diện tích quá yếu đã được sử dụng để làm cho người ta chết; họ xét thấy rằng ở Los Amigos, khi một kẻ bất khả hoàn lương được giao cho họ thì hắn ta sẽ được xử lý một cách lịch sự và được hưởng sự quy tụ của tất cả những máy phát điện cực lớn. Những ông kỹ sư nói rằng ta không nên bủn xỉn trong những trường hợp như thế, và một tên tử tội phải ”lẫnh đủ”, không ai dám liều lĩnh tiên đoán một cách chắc chắn hiệu quả đạt được, nhưng tất cả mọi người nghĩ tằng tất cả mọi người đều đống ý xác nhật là nó sẽ huỷ diệt và gây tử vong, một vài người nghĩ rằng kẻ tử - tội sẽ bị phân hủy, đúng theo nghĩa đen của từ ngữ, nhiều người khác thì nghĩ tới dự tan rã của y. Chỉ có kinh nghiệm mới có thể chấm dứt được cuộc tranh luận. Chính vào lúc đó thì Duncan Warner bị bắt.
Từ nhiều năm nay Warner đã luôn bị luật pháp truy tìm. Một đầu óc cuồng dại, một kẻ sát nhân thủ phạm của vô số kể những vụ hành hung trấn lột trên các tuyến xe lửa, hoặc trên các nẻo đường, y đã tự đạt cho mình ra ngoài tình thương của nhân loại. Y đã có mười hai lần đáng tội chết và những người Los Amigos hứa hẹn với y một cái chết thật hào hoa. Có vẻ như y tự cho là mình không xứng đáng với chiếu cố của họ, nên đã hai lần y vượt ngục. Y người to lớn, khoẻ mạnh, đầy bắp thịt, y có một cái đầu của con sư tử, những bờm tóc đen rối bù, một bộ râu cằm hình rẽ quạt che kín nửa trên của thân mình. Khi y bị đem ra xét sử, không có người đàn ông nào đẹp hơn trong đám đông ngồi chật ních pháp đình. Đôi khi trên ghế các bị cáo người ta thấy người đẹp hơn. Tuy vậy, cái bộ mã đẹp đẽ này không làm sao bù lại được các hành động xấu xa của y. Vị luật sư của y đã cố gắng hết sức mình, nhưng Duncan Warner vẫn bị phó thác cho những cái máy phát điện khổng lồ của Los Amigos.
Khi vụ của y được đem ra thảo luận thì tôi có tham dự cuộc họp của ủy ban. Thực ra hội đồng thành phố đã chỉ định một ủy hội gồm bốn chuyên gia để quyết định vụ hành quyết. Ba vị trong bốn người này là những tay cừ khôi. Joseph M’Connor đã sáng chế và lắp đặt các máy phát điện; Joshua Westmacott chủ trì vận mạng vủa công ty Đieejn lực tại Los Amigos, tôi thì là y sĩ trưởng của thành phố. Người thứ tư là một ông già người Đức tên là Peter Stulpnagel. Ở Los Amigos có rất nhiều người Đức; tất cả bọn họ đều bỏ phiếu cho người đồng bào của họ. Đó là lý do tại sao ông ấy được bầu vào ủy ban. Người ta nói rằng khi còn ở nước Đức, ông ấy đã là một tay thợ điên, những vật cách điện và những bình điện, nhưng vì đã chẳng có gì nảy sinh ra từ những công việc này, vì ông đã không đạt được một thành quả nào đáng được công bố với mọi người, người ta đã đi tới chỗ coi ông như một kẻ cuồng si vô hại đã biến khoa học thành sự đam mê của mình. Bọn ba người chúng tôi, những con người thực tế, chúng tôi mỉm cười khi được biết là ông ấy sẽ ngồi bên cạnh chúng tôi. Trong buổi họp của ủy ban, chúng tôi đã dàn xếp mọi việc với nhau không cần bận tâm tới ông già hiền hậu đang ngồi nghe, với một bàn tay để quanh tai làm cái loa, vì thính giác của ông ấy không được tốt lắm. Ông ấy đã không tham gia vào cuộc tranh luận cũng như các đại diện báo chí là người chỉ ghi chép những điêu cần thiết trên những cái ghế dài ở cuối phòng.
Chúng tôi đã tốn ít thời giờ để quyết định tất cả mọi việc. Ở New York, phải chăng một sự phóng điện hai ngàn volt đã diễn ra mà cái chết của tử tội lại không mau lẹ tức thì? Điện thế đã không đủ, đó là tất cả lý do! Los Amigos sẽ không tái phạm lỗi lầm này. Dòng điện sẽ mạnh hơn sáu lần, như vậy nó sẽ có hiệu lực sáu lần nhiều hơn. Không có gì là hợp lý hơn nữa. Tất cả công suất tập trung của những máy phát điện khổng lồ sẽ được sử dụng trên người Duncan Warner.
Tất cả bọn ba người chúng tôi đã đưa ra những quyết định đầy đủ và chúng tôi đang sắp kết thúc phiên họp thì người bạn thầm lặng của chúng tôi mới hé miệng lần đầu tiên.
- Thưa quí vị, ông nói với chúng tôi, tôi thấy các ông có vẻ dốt nát một cách đặt biệt về các hiệu ứng của điện lực, các ông không biết những nguyên lý đầu tiên của tác động của nó lên một con người.
Ủy ban đang sắp trả lời một cách thẳng thừng cho lời phê bình sống sượng đó, nhưng ông chủ tích công ty điện lực xoa một bàn tay lên trán để yêu cầu sự khoan dung như đối với một người mắc bệnh tâm thần.
- Thưa ông, ông có thể chỉ cho chúng tôi là ông đã thấy chỗ khiếm khuyết nào trong các kết luận của chúng tôi? Ông hỏi với một nụ cười mỉa mai.
- Sự giả định của các ông cho rằng một liều lượng mạnh sẽ làm tăng thêm hiệu ứng của một liều lượng nhỏ hơn. Các ông không tin rằng rất có thể nó sẽ gây ra một hiệu ứng hoàn toàn khác biệt à? Bằng những cuộc thí nghiệm thật sự, các ông có biết một điều gì về các hiện tượng của một sự chấn động thế không?
- Chúng tôi biết điều đó bằng cách loại suy, ông chủ tịch trả lời. Tất cả mọi thứ thuốc đều có một hiệu ứng gia tăng khi ta gia tăng liều lượng. Thí dụ...thí dụ....
- Rượu uýt ki! Joseph M’Connor mách nhỏ.
- Đúng vậy! Rượu uýt ki. Bằng chứng là ở đó.
Peter Stulpnagel lắc đầu và mỉm cười.
- Lập luận của ông không vững, ông ta nói. Khi tôi uống uýt ki, tôi htấy một cốc làm tôi uể oải, nhưng sáu cốc làm cho tôi ngủ gục, điều này đúng là sự trái ngược. Nay hãy giả thiết rằng điện cũng tác động như vậy, với một hiệu năng theo tỷ lệ trái ngược với sức mạnh của nó thì ông sẽ làm gì?....
Bọn ba người chúng tôi những con người thực tế, chúng tôi phá lên, chúng tôi biết rằng ông bạn đồng chức của chúng tôi là người tài hoa, nhưng không bào giờ chúng tôi nghĩ rằng ông ấy lại đưa trí tưởng tượng tới chỗ đó.
- Và sao nữa, Peter Stulpnagel thúc giục.
- Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm về những sự rủi ro, ông chủ tịch trả lời.
- Tôi xin các ông hãy suy nghĩ. Peter nói, là những người thợ chạm vào các dây điện và chỉ nhận được sự phóng điện của vài trăm vôn thôi mà cũng bị chết ngay tại chỗ. Sự kiện này ai cũng biết. Ấy vậy mà khi một lực lớn hơn đã được sử dụng với một tên tội phạm ở New York, tên đó còn giẫy giụa được một lúc lâu, các ông không thấy một cách rõ ràng là một liều lượng nhỏ hơn là thứ làm chết người nhiều hơn à?
- Thưa quí vị, tôi nghĩ rằng cuộc tranh luận này đã kéo dài một cách đầy đủ rồi, ông chủ tịch tuyên bố trong khi đứng lên. Tôi nghĩ rằng điểm này đã được giải quyể bởi đa số uỷ ban và Duncan Warner sẽ bị hành hình trên ghế điện ngày thứ ba bằng sự phóng điện của tất cả luồng điện của những máy phát điện ở Los Amigos. Có đúng vậy không?
- Tôi đồng ý, Joseph M’Connor chấp thuận.
- Tôi cũng vậy, tôi nói.
- Còn tôi, tôi phản đối! Peter Stulpnagel nói lẩm bẩm.
- Vậy là nghị quyết đã được chuẩn nhận, nhưng sự phản kháng của ông sẽ được ghi vào biên bản, ông chủ tịch kết luận.
Và phiên họp bế mạc.
Những người tham dự cuộc hành quyết không đông lắm. Dĩ nhiên là có bốn ủy viên của ủy ban, cũng như tên đao phủ là người phải hành động theo lệnh của họ. Ngoài ra còn có viên tư lệnh Hiến binh của nước Mỹ, viên giám đốc lao thất, cha tuyên úy và ba nhà báo. Căn phòng, một gian nhà nhỏ xây bằng gạch, vốn là một phòng phụ thuộc của trạm điện trung ương, nó đã được dùng làm nơi giặt giũ, ở một góc vẫn còn một cái nồi và củi vụn, nhưng không có đồ vạt nào khác, ngoại trừ một cái ghế lẻ loi và độc đáo dành cho người tử tội. Một tấm kim loại được đặt phía trước cái ghế để dành cho bàn chân của Warner, tấm kim loại này được nối vào một sợi dây cáp lớn có vỏ bọc cách điện. Ở phía trên cái ghế, một sợi dây cáp khác thòng xuống từ trần nhà, sợi cáp này có thể được nối vào một thanh kim loại nhỏ nhô ra từ một thứ mũ nồi được chụp lên đầu hắn ta. Khi sự nối kết này được hoàn tất, lúc đó sẽ là giây phút tử vong của Duncan Warner.
Chúng tôi im lặng đợi chờ người tù tới. Các kỹ sư có vẻ hơi tái mặt đi, và họ loay hoay mọt cách nôn nóng với những sợi dây cáp. Ngay cả viên tư lệnh hiến binh, mặc dù đã chai lỳ cũng thấy khó chịu, vì một sự treo cổ tầm thường là một chuyện, và sự hủy diệt thịt và máu lại là một chuyện khác. Về phần các nhà báo, họ đã trắng bẹch ra hơn là những tờ giấy của họ, người duy nhất tỏ ra không bị một chút ảnh hưởng nào của những sự chuẩn bị độc ác này là anh chàng người Đức nhỏ bé mắc bệnh di cuồng, ông ta đi tới chỗ người này rồi tới chỗ người nọ với một nụ cười trên môi và cặp mắt long lanh đầy vẻ tinh quái. Ông còn quên cả địa vị của mình đến nỗi phá lên cười hai, ba lần, việc này khiến cho ông bị vị tuyên uý nhắc nhỏ phải giữ trật tự.
- Làm thế nào mà ông có thể biểu lộ một sự khinh xuất không đúng chỗ như vậy, thưa ông Stulpnagel? Tôi ngạc nhiên hỏi. Ông cười trước mặt cái chết à!
Nhưng ông già người Đức không lộ ra một vẻ bối rối nào.
- Nếu tôi đứng trước cái chết, tôi sẽ không cười, ông ta nói. Nhưng vì tôi không đứng trước cái chết mà, tôi có quỳen tự do làm những gì tôi thích.
Câu trả lời xác xược này chắc chắn sẽ làm nảy sinh một câu khác, còn nghiêm khắc hơn về phía vị tuyên uý. Nhưng cái cửa đã mở ra và hai viên giám thị đẩy Duncan Warner vào trong phòng. Y nhìn quanh mình y với một vẻ quả cảm, tiến lên với một bước chân vững vàng và người xuống cái ghế điện.
- Ra tay đi! Y nói.
Kéo dài sự chờ đợi của y thật là một điều man rợ. Vị tuyên uý nói thì thào một vài câu vào tai y, tên đao phủ chụp cái mũ nồi lên đầu y, tất cả bọn chúng tôi đều nín thở, sự nối kết đã được thiết lập giữa dây cáp và tấm kim loại.
- Chư vị thánh thần! Duncan Warner kêu lớn.
Y chồm lên trên cái ghế khi sự phóng điện khủng khiếp nổ bung ra trong cơ thể y. Nhưng y không chết. Ngược lại hai mắt y long lanh một tia sáng linh hoạt hơn. Y chỉ trải qua một sự biến đổi thôi, mà sự biến đổi này thật là bất ngờ, màu đen đã mất dạng trên tóc y và râu y giống hệt như một bóng đêm đã rời khỏi một cảnh quan. Tóc và râu y bây giờ đã trắng như tuyết. Ngoài việc đó ra, y không mang một dấu vết nào của sự phân hủy. Y có làn da tươi mát, mịn màng, bóng loáng của một đứa trẻ con.
Viên tư lệnh hiến binh ném sang cho ủy ban một cái nhìn đầy vẻ trách móc.
- Tôi có cảm tưởng rằng đã có một điều gì sai trái đó thưa quí vị! Ông ta nói.
Bọn ba người chúng tôi, những người có đầu óc thực tế lẳng lặng nhìn nhau.
Peter Stulpnagel cười mỉm với vẻ trầm ngâm.
- Tôi nghĩ rằng một lần phóng điện khác sẽ làn xong chuyện, tôi nói.
Luồng điện lại chạy qua. Duncan Warner lại nhảy bật lên trên ghế và kêu lên; nhưng đúng là chỉ vì y vẫn cón ngồi trên cái ghế nên chúng tôi mới nhận ra y. Trong một phần nhỏ của giây đồng hồ, y đã mất hết cả rau và tóc trên đầu, và căn phòng trông giống như một cửa hiệu cắt tóc vào buổi tối thứ bảy. Y vẫn còn ngồi yên, hai mắt vẫn còn sáng ngời, làn da óng ánh của một sức khoẻ hoàn hảo, nhưng y có một cái sọ trọc lóc như một miếng phô ma Hòa Lan và một cái cằm không còn một sợi râu nào. Y bắt đầu vung vẩy một trong hai tay của y, vung một cách thong thả và với sự hoài nghi lúc bắt đầu, nhưng rồi mỗi lúc càng thêm tin tưởng.
- Hồi trước tôi bị nhức nhối ở cái tay này, y nói. Mấy ông thầy thuốc vùng Thái Bidnh Dương chữa trị uổng công. Vậy mà lúc này hình như nó được tân trang lại, và nó cũng mềm mại như một nhánh mai châu vậy.
- Anh cảm thấy khoẻ mạnh chứ? Ông già người Đức hỏi.
- Trong suốt cả đời tôi, chưa bao giờ tôi cảm thấy khoẻ khoắn như thế này. Duncan Warner đáp lại một cách hớn hở.
Tình thế thật là bực bội. Viên tư lệnh hiến binh nhìn thẳng đôi mắt nảy lửa về mạn ủy ban, Peter Stulpnagel nhe răng ra cười và xoa hai bàn tay vào với nhau. Các ông kỹ sư thì gãi đầu. Gã tù nhân bị mất từng mảng da đầu đang vung vẫy cái tay của y và có vẻ khoan khoái.
- Tôi nghĩ rằng một sự phóng điện nữa.... ông chủ tịch đánh liều nói.
- Không, thưa ông! Viên tư lệnh hiến binh chặn lại. Chỉ trong một buổi sáng mà chúng ta đã có khà nhiều sự ngu xuẩn rôi. Chúng ta tới đây để làm một vụ hành quyết, sự hành quyết sẽ diễn ra!
- Ông có ý kiến ra sao?
- Trên trần nhà có một cái khoen có thể dùng được việc. Hãy đi tìm một sợi dây thừng, và công việc sẽ được giải quyết.
Trong lúc mấy anh giám thị đi kiếm dây thừng thì một khoảng thời gian trôi qua trong sự khó chịu mỗi lúc một gia tăng. Peter Stulpnagel nghiêng đầu lại phía Duncan Warner và nói một vài tiếng gì vào tai y. Kẻ tử tội nhìn ông ta một cách ngơ ngác, sửng sốt.
- Không thật vậy chứ? Y hỏi.
Ông già người Đức gật đầu khẳng định
- ....Thế nào! Không có cách nào à?....
Peter lắc đầu, lần này thì một cách phủ định, và hai người cười phá lên như thể họ vừa trao đổi một câu chuyện vui thú vị. Các anh giám thị mang dây thứng tới, và vị tư lệnh hiến binh tự tay mình chòng cái dây thòng lọng vào cổ tên tội phạm. Rồi hai viên giám thị, tên đao phủ và chính cả ông nâng bổng nạn nhân của họ lên trên không, tại đó y đu đưa lơ lửng. Trong một nửa giờ đồng hồ y bị treo thõng trên trần nhà. Đó là một cảnh tượng khủng khiếp. Rồi thì trong một sự im lặng trang nghiêm, họ hạ sợi dây thừng xuống, một viên giám thị đi ra ngoài để kiểm một cái quan tài. Nhưng khi vừa chạm chân xuống tới mặt đất, Duncan Warner đã đưa hai bàn tay lên cổ y, tháo lỏng sợi dây thòng lọng và hít một hơi không khí thật dài và thật sâu.
- Việc buôn bán của Paul Jefferson trôi chảy lắm! Y nói. Từ trên cao tôi trông thấy đám đông chen chúc trong cửa tiệm của ông ta.
Y chỉ vào cái móc ở trên trần nhà.
- Treo lên một lần nữa đi! Viên tư lệnh hiến binh gầm lên. Chúng ta sẽ kết thúc một cách tốt đẹp bằng sự tước bỏ mạng sống của y!
Họ lại treo cổ y lên lần nữa.
Họ để cho y hai chân lủng lẳng trong khoảng không trong một giờ đống hồ. Khi họ lại hạ y xuống, tính ba hoa của y vẫn không cạn kiệt chút nào.
- Ông già Plunket thường tới quán rượu Arcady quá nhiều lần! Y xác nhận. Trong một giờ đồng hồ tôi đã trông thấy ông ta vào đó ba lần. Phải nói rằng ông ta có một gia đình! Ông Plunket nên chừa rượu đi thì phải.
Việc này thật là quái gở, không thể tin được, nhưng đúng thật là thế.
Không có gì để cãi cọ nữa, tên tử tội cứ nói lung tung trong khi lẽ ra y đã phải chết rồi, nhưng vị tư lệnh hiến binh Carpentier không phải là người tự để cho mình bị lừa phỉnh một cách dễ dàng như thế. Ông kéo chúng tôi vào một góc, người tù đứng một mình ở giữa gian phòng.
- Duncan Warner, ông từ tốn nói với y, anh có mặt ở nơi đây để đóng vai trò của anh. Và tôi có mặt ở đây để đóng vai trò của tôi. Vai trò của anh là cố sức sống càng lâu càng tốt, vai trò của tôi là cố gắng làm cho luật pháp được chấp hành. Anh đã đánh bại chúng tôi về điện năng, tôi ghi cho anh một điểm. Anh đã đánh bại chúng tôi về sợi dây thừng, mà tôi thấy hình như không thành công lắm đối với anh. Nhưng bây giờ đến lượt tôi đánh bại anh, vì tôi phải hoàn thành nhiệm vụ của tôi.
Ông lấy từ trong áo ra một khẩu súng ru-lô có sáu viên đạn, và nhả tất cả những viên đạn vào thân thể của người tù. Căn phòng đầy đặc những khói đến nỗi chúng tôi không còn có thể trông thấy gì nữa. Khi khói đã tan đi, người tù không nhúc nhíc trong chỗ đứng, cũng như trong thái độ y chỉ ngắm nhìn với sự chán ngán mặt trước cái áo của y.
- Ở đây thì những quần áo không được tính giá đắt y nói. Cái áo này đã làm tôi tosn mất ba mươi đô-la, và xin ông hãy nhìn những gì ông đã làm cho nó! Sáu lỗ thủng ở phía trước thế cũng là khá tệ rồi! Nhưng có bón viên đạn đã xuyên qua mình tôi, từ bên này tới bên nọ, cái lưng chắc cũng không còn lành lặn.
Viên tư lệnh hiến binh buông khẩu súng ra để nó rơi xuống đất, và ông để thõng tay xuống, đó là một kẻ chiến bại.
- Có lẽ một người nào trong bọn các ông, thưa quý ông sẽ có thể nói cho tôi biết việc này có nghĩa làm sao? Ông hỏi ủy ban với sự tuyệt vọng.
Peter Stulpnagel bước lên một bước về phía trước.
- Tôi sẽ giải thích tất cả với các ông.
- Tôi thấy hình như ông là người duy nhất ở đây biết một điều gì.
- Tôi là người duy nhất ở đây biết được tất cả mọi việc, tôi đã cố cảnh báo các quý vị này. Nhưng các ông ấy đã không muốn nghe lời tôi, thế là tôi đành trông đợi vào những gì mà họ học được bằng kinh nghiệm. Các ông có biết những gì mà các ông đã làm với sức điện lớn lao của cácông không? Một cách đơn giản, các ông đã làm gia tăng sức sống của tên tử tội; hiện nay y có đủ khả năng thách thức cái chết trong nhiều thế kỷ.
- Nhiều thế kỷ!
- Phải. Phải mất nhiều trăm năm để làm cạn kiệt cái năng lượng vô biên về thần kinh mà các ông đã chích vào người y. Điện năng là sự sống, các ông đã cung cấp điện năng tới mức tối đa cho y. Có lẽ là trong vòng năm mươi năm các ông sẽ có thể hành quyết y, nhưng tôi không dám đóan chắc điều đó.
- Trời ơi! Nhưng tôi sẽ làm gì với y? Viên tư lệnh bất hạnh của sở hiến binh kêu lên.
Peter Stulpnagel nhún vai.
- Và nếu chúng ra rút hết điện năng của y ra bằng cách treo ngược y lên bằng hai bàn chân không có được không? Ồn chủ tịch đánh liều hỏi.
- Không, việc đó sẽ vô dụng thôi.
- Dù sao thì y cũng sẽ không làm điều sai quấy ở Los Amigos nữa, viên tư lệnh hiến binh nói tiếp với một sự quyết định. Y sẽ vào lao thất mới. Cái lao thất này sẽ tồn tại lâu hơn y.
- Trái lại, Peter Stulpnagel trả lời. Tôi tin rằng y sẽ tồn tại lâu hơn là cái lao thất.
- Đó là một sự thất bại lớn, và trong nhiều năm trời, đã không bao giờ chúng tôi nói về vụ đó trong bọn chúng tôi. Những ngày này thì sự bí mật đã phơi bày, và tôi nghĩ rằng ông sẽ thích đặt câu chuyện vào bộ sưu tập các án lệ của ông.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:29:36 | Chỉ xem của tác giả
08. Câu chuyện về Sannox phu nhân

Sự liên lạc giữa Douglas Stone và vị phu nhân trứ danh Sannox đã được nhiều người biết tại các phòng khách thính sang trọng mà nàng là một ngôi sao sáng chói cũng như tại các trường đại học khoa học, nơi mà chàng được kể vào hàng những hội viên lỗi lạc nhất. Do đó người ta nhận thức được lòng thương cảm được khuấy động lên một buổi sáng nọ bởi cái tin là bà phu nhân đã vào nhà tu kín, một cách cương quyết và vĩnh viễn và rằng không bao giờ mọi người sê được gặp lại bà nữa. Khi để làm đậm đà thêm tin này, lại có tin đồn được loan truyền rằng nhà phẫu thuật đại tài, người có những giây thần kinh bằng thép, cũng buổi sáng hôm đó được anh em bồi phòng nhìn thấy đang ngồi ở thành giường miệng mỉm cười vu vơ một cách duyên dáng, hai bàn chân cùng xỏ vào một ống quần với bộ óc mềm nhũn như cháo lòng, thì sự việc tỏ ra khá khích động để làm say mê những người không bao giờ tin rằng cảm tính đã bị chai lì của họ còn có thể xúc động được nữa.
Douglas Stone, giữa thuở hoa niên, đã là một trong những người lỗi lạc nhất ở Anh quốc. Nhưng có thật đúng là chàng đã ở độ hoa niên khi nỗi phiền muộn nhỏ nhặt này xảy ra với chàng? Chàng mới chỉ có ba mươi chín tuổi. Các bạn thân thiết nhất của chàng đoan chắc rằng trong hàng chục nghề có thể chàng cũng sẽ đạt được công danh lừng lẫy giống như trong cái nghề giải phẫu vậy. Chàng sẽ có thể chinh phục được vinh quang trên một chiến địa, đạt được vinh quang nhờ những cuộc thám hiểm liều lĩnh, đạt được vinh quang trên một sân quần vợt, hoặc tạo ra vinh quang trong tư cách một kỹ sư với đá và sắt. Chàng được sinh ra với một phần số ngoại hạng, vì chàng có thể trù định những điều mà không ai dám hoàn thành và hoàn thành những diều mà không một ai dám trù định. Về khoa giải phẫu, chàng không có đối thủ. Sự quân bình về thần kinh của chàng, trí phán đoán của chàng, trực giác của chàng đều là ngoại hạng. Đã rất nhiều lần, trong khi khu trừ cái chết, con dao mổ của chàng đã lướt qua ngay những cội nguồn của sự sống và những người phụ tá của chàng mặt mày cũng trở thành trắng bệch như con bệnh vậy. Ký ức về nghị lực của chàng, về sự táo bạo của chàng, về lòng tự tin mãnh liệt của chàng còn lởn vởn tại phía Nam đường Marylanone và phía Bắc phố Oxford.
Những khuyết điểm của chàng cũng quan trong như đức tính của chàng nhưng lại vô cùng thơ mộng hơn. Những lợi tức khá lớn của chàng (trong tất cả thành phố London chỉ có hai đồng nghiệp kiếm nhiều tiền hơn chàng) đã vẫn rất thấp so với sự xa hoa trong nếp sống của chàng. Tại đáy sâu của bản chất phức tạp cua chàng, có sự lưu thông của một luồng nhục cảm mạnh mẽ mà sự tác động đã ban cho cuộc sống của chàng tất cả giá trị của nó. Các vị thầy học của luồng nhục cảm này tên là mắt, tai, bàn tay, khẩu vị. Số vàng ồ ạt đổ vào nhà chàng đã biến thành một mùi rượu vang lâu năm, thành các chai dầu thơm ngoại quốc hiếm có, thành những chén đĩa mà sự tinh vi của nước men và kiểu dáng là thứ có một không hai ở Âu Châu. Và rồi chợt nảy sinh sự say mê điên rồ, đột ngột phu nhân Sannox. Chỉ mới một lần tương kiến mà hai mắt đã cùng liếc, hai lòng cùng ưa, một tiếng thì thầm... thế là chàng đã như lửa cháy bùng. Nàng là người đàn bà kiều diễm nhất London (theo ý chàng thì đó là người đàn bà duy nhất ở London). Chàng là một trong những người đàn ông đẹp nhất London (với nàng thì không có người dàn ông duy nhất nào ở London). Vì nàng có một sở thích thu thập những kinh nghiệm mới lạ nên nàng đã tỏ ra dễ dãi dối với phần lớn những người đàn ông chạy theo tán tỉnh nàng. Phải chăng đó là nguyên nhân, hay là kết quả? Ngài Sannox, người mới có ba mươi sáu tuổi mà nom như đã ngoài năm mươi tuổi.
Ngài Sannox này là một người trầm lặng, ít nói, xuề xòa. Ông có cặp môi mỏng và những mí mắt nặng. Ông rất thích công việc vườn tược và ông thích ở nhà. Ngày xưa ông đã hoạt động kịch trường, ông đã thuê cả một phòng ở London. Chính ở các sân khấu mà lần đầu tiên ông gặp cô Marion Dorson; ông đã dâng cho nàng tên tuổi ông, chức vụ ông và một phần ba lãnh địa của ông. Từ khi lấy vợ ông đã từ bỏ sở thích ngông cuồng này; ông còn cảm thấy chán ghét sở thích đó. Ngay cả trong các câu lạc bộ tư nhân ông cũng từ chối những tràng vỗ tay hoan nghênh một tài năng không thể chối cãi được. Ông thấy sung sướng đứng giữa những cây hoa lan và hoa cúc của ông, với chiếc cuốc dấy cỏ và chiếc bình tưới nước.
Một vấn đề rất quan trọng là mọi người tự hỏi liệu có phải ông hoàn toàn ngốc nghếch hay ông đã thiếu can đảm một cách đáng thương. Phải chăng ông đã biết lối ăn ở của vợ ông và ông đã tha thứ cho bà ấy? Hay ta coi ông là một anh chàng lẩm cẩm mù quáng? Người ta đã bàn tán nhiều về chuyện đó trong các thính phòng tin tức ở London bên trên những chén trà và trên các khung cửa sổ các câu lạc bộ trong khi hút xì gà. Các ông thì nói về ông ta với một vẻ nghiêm khắc chua chát. Trong bọn họ chỉ có một người là không họa theo và ông ta đứng câm như hến: ông ta đã nhìn thấy ông khuất phục một con ngựa tại trường Đại học và về việc đó ông ta đã giữ một kỷ niệm lâu bền.
Khi Douglas Stone trở thành người sủng ái, người ta không được phép nghi ngờ nữa: Stone không biết tới những trí trá của tính đạo đức giả; những cung cách độc đoán và ngạo mạn của chàng đã bất chấp mọi sự dè dặt, coi thường sự thận trọng. Vụ tai tiếng tự hiện ra. Một hiệp hội văn hóa báo cho người tình nhân đang thỏa mãn đó rằng tên chàng đã bị xóa trong danh sách những vị phó chủ tịch. Lấy danh nghĩa vì danh giá trong nghề nghiệp của chàng, hai người bạn đã uổng công nài nỉ chàng. Chàng đuổi những nhà luân lý ra cửa và chàng đi mua một chiếc vòng tay giá năm mươi đồng ghi-nê để tặng vị hoàng hậu của lòng chàng. Tối nào chàng cũng đến nhà nàng. Mỗi buổi chiều chàng cho nàng mượn xe của chàng. Cả chàng và nàng không ai tỏ ra một mảy may cố gắng để che dấu mối giao du của họ, nhưng một sự cố tầm thường đã làm gián đoạn các liên lạc này.
Vào một buổi tối mùa đông ảm đạm, gió thổi từng cơn: gió gầm gào trong các ống khói, gió đập vào các cánh cửa sổ. Mưa rơi rào rào trong các máng xối. Douglas đã ăn xong bữa tối. Chàng ngồi trong phòng làm việc bên lò sưởi, trên một cái bàn bằng đá khổng tước một ly rượu porto hảo hạng đặt dưới tầm tay của chàng; chàng nâng ly rượu lên trước ánh sáng của ngọn đèn và thưởng thức với tư cách một người sành sỏi những váng li ti bập bềnh trong ly rượu vang đỏ ối của chàng. Trong ánh sáng rực rỡ, ngọn lửa đã chiếu sáng khuôn mặt được cạo nhẵn nhụi, táo bạo của chàng. Chàng mỉm cười. Thật ra chàng đã đoạt được cái quyền hài lòng với mình: cưỡng lại ý kiến của 6 bạn đồng nghiệp, chàng vừa mới thành công trong một cuộc giải phẫu mà cuộc giải phẫu này chỉ mới có hai tiền lệ trên thế giới và kết quả đã vượt quá những kỳ vọng. Không một ai ở London có sự táo bạo để trù định và sự khéo léo để hoàn thành một thành tích oai hùng như vậy.
Nhưng chàng đã hứa với phu nhân Sannox là tới thăm bà và đã tám giờ rưỡi rồi. Lúc chàng đang vươn tay về phía cái chuông để gọi xe thì chàng nghe thấy tiếng trầm đục của thanh sắt chặn ngang ở cửa ra vào. Một lát sau có tiếng chân kéo lê ở phòng ngoài, một cách cửa được đóng lại.
- Có một bệnh nhân của ngài trong phòng mạch! - Viên quản gia loan báo.
- Ông ta tới khám bệnh cho chính ông ta à?
- Thưa ngài không. Tôi nghĩ rằng ông ta muốn mời ngài đi vào thành phố.
- Muộn quá rồi! - Douglas Stone kêu lên một cách bực bội. - Tôi không đi.
- Đây là danh thiếp của ông ta, thưa ngài.
Viên quản gia đưa trình tấm danh thiếp đặt trên cái khay bằng vàng mà bà vợ ông Thủ tướng đã biếu ông thầy giáo của bà.
- Hamin Ali Smock... Hừ! Đây là một người Thổ Nhĩ Kỳ, tôi đoán vậy.
- Thưa ngài vâng. Nom ông ta có vẻ từ xa tới. Ông ta có vẻ lo lắng lắm.
- Tặc, tặc! Tôi có cái hẹn. Tôi phải đi. Nhưng trước khi tôi đi tôi sẽ gặp ông ta. Pim, hãy đưa ông ta vào đây.
Thế là viên quản gia đi ra kiếm một người đàn ông nhỏ thó và già yếu. Người này đi vào chỗ Douglas Stone với cái đầu cúi về phía trước và hai mắt nhấp nháy như kiểu những người cận thị thường đi. Ông ta đội cái khăn mút-sơ-lin trắng có sọc đỏ; tay kia là một cái túi nhỏ bằng da linh.
- Chào ông! - Douglas Stone lên tiếng, khi viên quản gia đã thép cửa lại. - Ông nói tiếng Anh được chứ, tôi nghĩ thế.
- Thưa ông vâng. Tôi quê ở Trung Đông, nhưng tôi nói tiếng Anh một cách thong thả được.
- Có phải ông muốn mời tôi đi vào thành phố không?
- Thưa ông vâng. Tôi rất mong ông tới xem cho bà vợ tôi.
- Tôi sẽ có thể thăm bà ấy vào sáng mai. Tối nay tôi có một cuộc hẹn.
Câu trả lời của người Thổ Nhĩ Kỳ thật là bất ngờ. Ông ta kéo sợi giây thắt miệng túi da linh và ông ta đổ ra trên bàn một đống vàng.
- Đây là một trăm bảng Anh, - ông ta giải thích. - Tôi xin đoan chắc với ông rằng công việc sẽ không làm ông mất quá một tiếng đồng hồ. Ở ngoài của tôi đã có sẵn một chiếc xe đang đợi chúng ta.
Douglas Stone nhìn đồng hồ của chàng. Nếu chàng nhận lời, chàng cũng sẽ tới nhà phu nhân Sannox không quá trễ (chàng đã từng tới thăm bà ta vào một giờ còn bất tiện hơn nữa). Và số tiền thù lao này thật đã cao một cách đặc biệt; mới đây các chủ nợ đã quấy rầy chàng đôi chút. Chàng có nên bỏ qua một dịp may như thế không? Chàng không có quyền bỏ qua một dịp may như vậy.
- Bệnh gì vậy?
- Ôi, một chuyện rất buồn! Đây là một chuyện rất buồn! Có lẽ ông không nghe nói tới những con dao găm của người Anmhate?
- Chưa bao giờ.
- Ôi, đó là những con dao găm của người Đông Phương rất cổ xưa và có một hình thù đặc biệt. Cái chuôi của nó giống như cái mà các ông gọi là cái bàn đạp. Tôi là một người buôn những đồ trang trí vặt, ông hiểu chứ? Và vì công việc nên tôi tới nước Anh, nhưng tuần sau tôi trở về Smoch. Tôi có mang theo nhiều món hàng kỳ lạ và nay thì không còn món nào cả; nhưng khốn khổ thay tôi lại giữ lại một trong những con dao găm đó.
- Xin ông nhớ cho rằng tôi đang có một cái hẹn. - Nhà giải phẫu cắt ngang, không giấu giếm thái độ nóng vội. - Xin ông làm ơn giới hạn cho các chi tiết cần thiết.
- Những điều tôi nói với ông đều là thiết yếu cả: ông sẽ phán đoán các điều đó. Hôm nay vợ tôi bị xỉu đi trong phòng nơi mà tôi để các món hàng của tôi và khi té xuống bà ấy bị con dao găm đáng nguyền rủa này của người Anmohate cứa đứt môi dưới.
- Tôi hiểu rồi, - Douglas Stone vừa nói vừa đứng dậy. - Ý ông muốn tôi khâu lại vết thương chứ gì.
- Ồ, không phải! Còn tệ hơn thế nữa.
- Vậy là cái gì?
- Những con dao găm này có tẩm thuốc độc.
- Tẩm thuốc độc ư?
- Vâng. Và không có người nào trên đời này, dù ở Đông phương hay ở Tây phương, có thể xác định tính chất của thuốc độc, cũng không thể chỉ ra một thứ thuốc chống độc. Nhưng tôi biết các hậu quả của thuốc độc đó, vì cha tôi đã làm nghề buôn bán trước tôi và những khí giới có tẩm thuốc độc này đã làm cho chúng tôi rất khổ sở.
- Những triệu chứng của chúng ra sao?
- Một giấc ngủ say, rồi sau ba mươi tiếng đồng hồ là chết.
- Và ông nói rằng không có phương thuốc chữa. Vậy thì tại sao ông lại trả tôi số tiền thù lao lớn như vậy?
- Những gì là một thứ thuốc chống độc không thể làm được thì lưỡi dao mổ sẽ có thể làm được.
- Làm cách nào?
- Thuốc độc chỉ thấm vào cơ thể một cách thong thả. Trong nhiều giờ đồng hồ nó còn đọng lại nơi vết thương.
- Và bằng cách rửa chỗ vết thương...
- Cách đó không công hiệu. Thuốc độc này rất tinh vi và rất tàn bạo.
- Có lẽ nên cắt bỏ chỗ đau đi chăng?
- Đúng đó phải cắt bỏ. Nếu vết thương ở ngón tay, phải cắt ngón tay. Đó vẫn là điều cha tôi đã nói. Nhưng xin ông nghĩ tới chỗ bị vết thương, xin ông nghĩ tới đó là vợ tôi... Thật là khủng khiếp!
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:30:19 | Chỉ xem của tác giả
08. Câu chuyện về Sannox phu nhân (tiếp)

Tình cảm vốn rất dễ chai lì đi ở một người đã quen thuộc với nhiều trường hợp đau đớn. Douglas Stone thấy rằng sự việc không phải là chuyện thường. Chàng đã gạt qua những lời phản đối yếu ớt của người chồng, coi như chúng không phải lúc đưa ra.
- Hình như sự thật là phải làm điều đó hoặc thôi chẳng làm gì cả! - Chàng nói một cách cộc lốc. - Thà chịu mất môi còn hơn là mất đời sống.
- Vâng ông nói đúng! Rút lại, đó là định mệnh: ta phải đương đầu với định mệnh. Tôi có một cỗ xe. Xin ông tới với tôi và xin ông giải phẫu cho.
Douglas Stone lấy từ một ngăn kéo ra một hộp dao mổ và chàng xếp nó vào với một cuốn băng để buộc vết thương và một miếng vải ép, bỏ vào túi của chàng. Nếu chàng muốn tới nhà Phu nhân Sannox cho đúng giờ chàng không còn một phút nào để mất đi nữa.
- Tôi đã sẵn sàng, - chàng vừa nói vừa mặc áo khoác ngoài vào. - Ông có vui lòng uống một ly porto trước khi ra ngoài không khí giá lạnh này chăng?
Người khách lùi lại một bước và giơ một bàn tay lên để phản đối.
- Ông quên rằng tôi là người Hồi giáo và là môn đồ trung thành của đấng tiên tri à! - ông ta trả lời. - Nhưng xin ông nói cho tôi biết cái chai xanh mà ông bỏ vào trong túi của ông là chai gì vậy?
- Thuốc mê Chloroforme đó.
- A, cả thứ đó cũng bị cấm đối với chúng tôi. Chloroforme chứa chất rượu. Không bao giờ chúng tôi uống rượu.
- Thế nào? Ông sẽ chấp nhận việc vợ ông chịu một cuộc giải phẫu mà không được gây mê à?
- Hỡi ôi! Nàng sẽ không còn cảm giác gì cả, cái linh hồn thân yêu khốn hhổ ấy. Giấc ngủ đã đè nặng lên nàng, thuốc độc bắt đầu tác động. Và rồi tôi đã cho nàng một chút thuốc phiện Smock của chúng tôi. Thưa ông, xin ông tới cho, một giờ đã trôi qua kể từ lúc nàng gặp tai nạn.
Khi họ lặng lẽ đi vào bóng tối ngoài phố, những hạt mưa quất vào mặt họ. Tại phòng bên ngoài đèn đã tắt ngủm, dù rằng nó đã được treo trên cánh tay của một cột trụ hình người bằng cẩm thạch. Pim, viên quản gia phải tựa cả hai vai vào để đóng cánh cửa nặng nề lại. Gió càng thổi mạnh dữ dội. Hai người lần mò bước tới chỗ ánh sáng vàng yếu ớt chỉ cho họ thấy chiếc xe. Sau đó chưa đầy một phút, họ ngồi xe đi tới nơi phải đến.
- Có xa không? - Douglas Stone hỏi.
- Ồ, không xa! Chúng tôi ở một chỗ nhỏ bé rất yên tĩnh sau đường Euston.
Nhà giải phẫu ấn vào rét-so của cái đồng hồ có chuông báo hiệu và chàng lắng nghe những tiếng kêu nhỏ dùng để cho chàng biết giờ. Chín giờ mười lăm phút. Chàng tính các khoảng đường, thì giờ mà chàng sẽ phải có cho sự mổ xẻ của chàng. Có thể là chàng sẽ tới nhà Sannox phu nhân lúc mười giờ. Qua những tấm kính phủ đầy hơi nước chàng nhìn thấy những trụ đèn rối rắm nhảy múa trên đường đi của chàng và đâu đó là ánh sáng mạnh hơn của một mặt trước cửa hàng hay một cửa kính. Mưa rơi thình thình trên mui xe, các bánh xe làm tung tóe bùn và đất sét. Trước mặt chàng chiếc khăn trắng của người bạn đường lấp lánh một cách yếu ớt trong bóng tối. Nhà giải phẫu lục soát trong các túi áo của chàng và chuẩn bị kim khâu, móc gài, kẹp. Chàng bắt đầu cáu kỉnh. Trên sàn xe hai chân chàng đập thình thịch một cách mất kiên nhẫn.
Chiếc xe đi chậm lại và dừng hẳn. Douglas Stone bước xuống ngay tức thì, ông nhà buôn người Smock theo chân chàng.
- Đợi tôi nhé!
Ông ra lệnh cho người đánh xe. Họ đứng trước một căn nhà xập xệ trong một phố bẩn thỉu. Nhà giải phẫu biết rõ thành phố London của chàng trên đầu ngón tay. Chàng cố nhìn xuyên qua bóng tối, nhưng không nhìn thấy vật gì cho phép phỏng nhận ra phương hướng; không có cửa tiệm, không có người di dạo, không có gì khác ngoài hai dãy nhà buồn thảm, ngoài hai hàng lối đi lát đá ướt sũng và bóng nhoáng, ngoài hai tia nước từ các máng xối nhỏ giọt xuống các tấm lưới của những lỗ cống. Cái cửa mà họ ngừng lại phía trước có một màu không thể đặt tên được Một ánh sáng còm cõi lọt qua khung cửa sổ nhỏ đặt trên cánh cửa lớn soi sáng phần lớn là bụi rậm và sự bẩn thỉu che phủ cái cửa sổ nhỏ đó. Ở trên cao, phía sau những cửa sổ của phòng ngủ, có ánh sáng của một ngọn đèn vàng. Người lái buôn đập cửa một cách mạnh mẽ. Khi ông ta quay mặt về mạn ánh sáng, Douglas Stone nhận thấy ông ta có những nét căng thảng vì lo âu. Người ta kéo một cái chốt cửa; một người đàn bà có tuổi tay cầm một cây nến hiện ra trong khung cửa; bà ta che ngọn lửa bằng những ngón tay sù sì.
- Mọi việc đều yên lành cả chứ? -Người lái buôn hổn hển nói.
- Bà vẫn ở trong tình trạng như lúc ông để bà nằm đó, thưa ông.
- Bà không nói gì à?
- Không, bà ngủ rất say.
Người lái buôn đóng cánh cửa ra vào; Douglas Stone tiến bước vào trong hành lang chật hẹp và không ít ngạc nhiên về những gì chàng quan sát chung quanh. Trên mặt đất không có vải sơn, cũng không có thảm đay. Không có mắc áo trên tường. Ngược lại mạng nhện hàng tràng nặng trĩu và từng lớp bụi bám đầy ở khắp mọi nơi mà chàng nhìn tới. Khi leo lên một cầu thang hình xoáy tròn, bà lão già đi trước Douglas Stone bước theo bà ta, với người lái buôn già theo bén gót chàng. Tiếng bước chân của họ vang lên một cách ảm đạm trên những bực thang không có lấy một mảnh thảm che phủ. Phòng ngủ ở tầng lầu hai, ít nhất ở đó cũng có đồ vật. Sàn gác bừa bãi những rương nhỏ Thổ Nhĩ Kỳ, những chiếc bàn khảm, những áo lưới sắt, những cái ống kỳ dị và những khí giới quái dị. Những đồ vật kỳ quái này nằm chất đống trong các góc nhà. Trên một cái bàn chân quỳ có một ngọn đèn đang cháy. Douglas Stone chộp lấy nó, tìm một lối đi tới cái giường kê ở một góc và trên giường đó một người đàn bà y phục kiểu Thổ Nhĩ Kỳ đang nằm, với khăn che mặt và tấm mạng mỏng. Phần dưới của bộ mặt đó được để hở, nhà giải phẫu nhìn thấy một vết cắt chặt ngoằn ngoèo dọc theo nếp của môi dưới.
- Xin ông vui lòng thứ lỗi cho chiếc khăn che mặt, - người Thổ Nhĩ Kỳ nói. - Ông đã biết các quy luật của chúng tôi về các phụ nữ.
Nhưng nhà giải phẫu không nghĩ tới khăn che mặt. Trước mặt chàng không có người phụ nữ mà là một vụ giải phẫu. Chàng cúi xuống để xem xét cẩn thận vết thương.
- Không có một dấu hiệu nào về sự sưng phù cả, - chàng lẩm bẩm. - Ta có thể hoãn sự mổ cắt cho tới khi các triệu chứng xuất hiện rõ ràng.
Người chồng vặn vẹo hai bàn tay trong một tình trạng dao động điên cuồng.
- Ồ không, thưa ông! Xin ông đùng nói đùa. Ông biết đấy. Đây là một trường hợp chết người. Tôi thì tôi biết! Và tôi đoan chắc với ông rằng một cuộc giải phẫu là tuyệt đối cần thiết. Chỉ có con dao mổ là có thể cứu được bà ấy.
- Tuy nhiên tôi vẫn muốn chờ đợi! - Douglas Stone trả lời.
- Thế là đủ rồi! - Người Thổ Nhĩ Kỳ phản đối một cách giận dữ. - Tôi phải tính từng phút một. Và tôi không muốn ngồi đây và để cho vợ tôi chìm dần vào cái chết. Thưa ông, tôi muốn cám ơn ông đã tới đây; tôi sẽ đi tìm một nhà giải phẫu khác trước khi quá muộn.
Douglas Stone ngần ngừ. Phải trả lại một trăm bảng Anh thật chẳng có gì là dễ chịu. Và nếu chàng từ chối việc cắt mổ thì bắt buộc chàng phải hoàn trả lại số tiền thù lao. Ngoài ra nếu người Thổ Nhĩ Kỳ nói đúng và nếu bà vợ ông ta chết thì chàng sẽ có thể bị truy tố trước một vị quan tòa và tên tuổi của chàng sẽ bị tai tiếng thế nào! Chàng hỏi:
- Ông đã có kinh niệm bản thân về thứ thuốc độc này chưa?
- Có.
- Và ông xác nhận với tôi rằng một cuộc giải phẫu là cần thiết phải không?
- Tôi xin thề về điều này với tất cả những gì thiêng liêng nhất.
- Mặt của bà vợ ông sẽ bị hủy hoại một cách tội nghiệp.
- Tôi nghĩ rằng miệng bà ấy sẽ không còn được ngon lành lắm để hôn...
Douglas Stone giận dữ quay lại nhìn kẻ đối thoại với mình. Ý kiến này làm chàng bực bội. Nhưng chàng nghĩ rằng người Thổ Nhĩ Kỳ có những lối suy nghĩ và phát biểu riêng của họ. Và giờ này không phải là giờ để cãi nhau. Douglas Stone lấy một con dao mổ từ trong cái hộp ra, chàng mở con dao ra và thử lưỡi dao vào ngón tay trỏ của chàng. Chàng nhấc cái đèn lại gần giường. Từ kẽ hở của khăn che mặt hai con mắt đen láy đang nhìn chàng chằm chằm. Chàng chỉ phân biệt được những lòng đen của cặp mắt và mãi mới nhận ra được con ngươi.
- Ông đã cho bà ấy uống một liều thuốc phiến rất mạnh.
- Vâng, bà ấy đã uống một liều mạnh!
Chàng ngắm nghía một lúe cặp mắt đen này đang nhìn thẳng vào mắt chàng. Chúng lờ đờ không có tia sáng; tuy nhiên cái nhìn của chàng làm nảy ra một tia sáng nhỏ chao đảo và cặp môi rung động. Chàng nói:
- Bà ấy không hoàn toàn mất hết tri giác.
- Làm việc cắt xẻo khi bà ấy không cảm biết gì cả chẳng tốt hơn à?
Nhà giải phẫu cũng có một ý nghĩa như vậy nên chàng dùng một cái kẹp chặt cái môi bị thương. Với hai nhát dao mổ thần tốc chàng cắt xẻo một miếng thịt lớn hình chữ V. Người đàn bà chồm lên thốt ra một tiếng thét rùng rợn. Bà giật miếng mải che mặt ra. Đó là một khuôn mặt chàng quen biết. Mặc dù làn môi trên bị vêu lên và đống bọt dãi lẫn máu đỏ ngầu ở dưới, đúng, đó là một bộ mặt mà chàng quen biết. Bà ta giữ nguyên bàn tay đặt lên chỗ đau và hét lên hoài. Douglas Stone ngồi chỗ cuối giường với cái kẹp và con dao mổ của chàng. Căn phòng quay cuồng xung quanh chàng. Chàng cảm thấy phía sau tai một cái gì như tiếng quần áo bị xé rách. Một người dự khán chắc sẽ nói rằng giữa nàng và chàng thì chàng là người bị tái nhợt hơn. Như là trong một giấc mộng, hoặc như là đang dự một màn kịch, chàng chợt thấy mái tóc và bộ râu của người Thổ Nhĩ Kỳ đặt trên bàn và ngài Sannox đứng tựa vào tường, tay ôm bụng và cười. Ông ta cười không thành tiếng. Những tiếng la hét yếu dần, rồi ngừng hẳn. Lúc này thì bộ mặt Douglas Stone không nhúc nhích; ngài Sannox còn cười sằng sặc trong cổ họng.
- Thật ra cuộc cắt xẻo nhỏ nhặt này rất cần thiết cho Marion (tên bà Sannox); - cuối cùng ông ta nói. - Không phải về mặt thể xác, nhưng về mặt tinh thần, ông hiểu chứ? Về mặt tinh thần!...
Douglas Stone cúi mình về phía trước và tay mân mê cái mép của tấm khăn trải giường. Con dao mổ tuột khỏi bàn tay chàng, nó rơi keng một tiếng lớn trên nền nhà.
- Đã từ lâu rồi tôi có ý định nêu một tấm gương nhỏ, - ngài Sannox nói một cách ngọt ngào. - Mảnh giấy của ông hôm thứ tư đã đưa lầm người nhận và tôi đang giữ nó trong ví đây. Để thi hành ý định này tôi cũng phải đôi chút cực nhọc... Nói về vết thương: tôi đã gây ra vết thương đó với nhà nữ hiệp sĩ của tôi. Không có gì nguy hiểm cả, như ông đã thấy...
Ông ta ném một cái nhìn bén nhọn vào người bạn vẫn ngồi yên lặng của ông, rồi ông ta nạp đạn khẩu súng lục nhỏ mà ông có trong túi áo ngoài của ông. Nhưng Douglas Stone đang nhai tấm khăn trải giường.
- Tóm lại ông đã trung thành với buổi hẹn! - Ngài Sannox lẩm bẩm.
Chính câu nói này đã làm bật thành tiếng cười của Douglas Stone. Chàng đi ra với một tiếng cười vang dội, không chấn dứt được. Ngài Sannox thì không cười nữa. Một thứ kinh hoàng đã làm rắn rỏi và rõ rệt dáng điệu của ông. Ông rón rén đi ra khỏi phòng. Người đàn bà già đợi ở ngoài cửa.
- Hãy săn sóc bà chủ của bà khi bà ấy thức dậy! - Ngài Sannox ra lệnh.
Rồi ông đi ra ngoài phố. Chiếc xe vẫn còn ở đó. Người đánh xe đưa một bàn tay lên ngang mũ của anh ta. Ngài Sannox nói:
- John! Trước hết anh hãy đưa bác sĩ về nhà ông ấy. Ông ấy sẽ cần có người đỡ khi đi xuống cầu thang, tôi nghĩ vậy. Anh nói với viên quản gia của ông ấy rằng ông ấy bị khó chịu trong một cuộc giải phẫu.
- Thưa ngài, vâng.
- Rồi anh sẽ đưa phu nhân Sannox về nhà.
- Còn ngài...
- À, trong một vài tháng địa chỉ của tôi sẽ là Khách sạn Di Roma ở Venise! Hãy bảo họ gửi thư từ theo tôi. Và nói với Steven là thứ hai sau phải tổ chức cuộc triển lãm các hoa cúc đỏ. Hắn sẽ đánh điện cho tôi rõ về kết quả cuộc triển lãm nhé.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:30:55 | Chỉ xem của tác giả
09. Lô số 249

Về những hành động của Edward Bellingham chống lại William Monkhouse Lee, và về lý do của sự hoảng sợ lớn lao của Abercrombie Smith, thật là khó mà đưa ra một sự phán đoán dứt khoát, chắc chắn là chúng ta đã có được sự tường thuật rõ ràng và đầy đủ của chính ông Smith, điều mà Thomas Styles, tên đầy tớ cha bề trên Plumptree Peterson hội viên của nghiệp đoàn trường Đại học, và nhiều nhân chứng khác của vụ này, vụ nọ đã làm cho vững chắc thêm. Tuy nhiên câu chuyện chỉ dựa trên một mình Smith thôi, và hình như nhiều người lại muốn nghĩ rằng một bộ óc mặc dù bề ngoài thì có vẻ lành mạnh cũng sẽ thấy bực bội về một sự phiền nhiễu nhỏ nhặt, hơn là chịu chấp nhận rằng tiến trình bình thường của tạo hóa có thể bị đảo lộn tại một trung tâm của khoa học và ánh sáng như Đại học Oxford này. Nhưng khi ta ngẫm nghĩ về những khúc quanh co và về sự hẹp hòi của cái tiến trình bình thường ấy của tạo hóa, về nỗi khó khăn mà ta trải qua để truy tìm nó bất kể mọi sự soi sáng của khoa học, và về các khá năng lớn lao, khủng khiếp phát sinh một cách hỗn độn từ các khoảng tối tăm bao quanh nó, người ta phải rất dũng cảm, ngay cả rất liều lĩnh nữa, để đặt ra một giới hạn ở những con đường quanh co mà trí tuệ của nhân loại có thể đi qua.
Trong một chái nhà ở nơi mà chúng ta sẽ gọi là Vieux College tại Oxford, có một cái tháp rất cũ kỹ. Cái vòm nặng nề nằm trên cái cửa mở ngỏ đã oằn xuống ở quãng giữa dưới sức nặng của những tháng năm. Những tảng đá xám, bám đầy rêu được ghép lại với nhau bởi những cây trường xuân và những nhánh liễu giống như có một bà mẹ già đã thận trọng đưa chúng ra thử thách với gió, mưa. Phía sau cái cửa là một cầu thang bằng đá leo cuốn vòng tròn lên tới tầng thứ ba; những phiến đá lát của nó đã bị khoét trũng xuống và trở thành xấu xí dưới những bước chân của nhiều thế hệ những người đi tìm kiến thức. Cuộc sống đã lan tràn ra như nước chảy dọc theo cái cầu thang xoáy trôn ốc này, và cũng như nước, nó đã để lại những rãnh mòn nhẵn nhụi. Từ những cậu học sinh đóng bộ chỉnh tề với chiếc áo dài lệt bệt thời Plantagenet cho tới những chàng sinh viên mặc đồng phục trong những năm vừa qua, một làn sóng mạnh mẽ của tuổi trẻ nước Anh đã chảy qua nơi đây. Và bây giờ còn lại những gì của tất cả những hy vọng dó, những cố gắng đó những nghị lực kinh khủng đó, nếu không phải là một vài dòng chữ trên tấm mộ bia hoặc một nắm bụi trong một quan tài nằm lây lất nơi nghĩa địa? Nhưng cái cầu thang thầm lặng và bức tường già nua xám xịt còn được trang hoàng bằng các huy hiệu thì vẫn tồn tại mãi;
Vào tháng 5 năm 1884, có ba chàng thanh niên chiếm ngụ ba căn hộ nằm trên ba đầu cầu thang. Mỗi căn chỉ có một phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Ở tầng trệt, những phòng nằm dưới ba căn hộ đó được sử dụng theo cách một phòng như là hầm đựng than củi, một phòng khác làm chỗ ở cho đầy tớ. Thomas Styles đã làm việc cho ba chàng sinh viên cư ngụ ở bên trên đầu y. Ở bên phải và bên trái là một dãy phòng lớp học và văn phòng, quá tốt để cho những người ở thuê cái tháp cũ kỹ tận dụng được một sự cô quạnh, rất quý giá cho những chàng trai chăm chỉ học hành. Mà ba người cư ngụ hồi đó là những người rất chăm chỉ học hành: Abercrombie Smith ở tầng thứ ba, Edward Bellingham ở dưới, và William Monkhouse Lee ở tầng thứ nhất.
Đã mười giờ tối. Trời đêm sáng sủa Abercrombie Smith ngồi lọt thỏm trong ghế bành, hai chân để lên khung che lò sưởi miệng ngậm ống píp. Trong cái ghế bành thứ hai, cũng được kê một cách không kém phần thoải mái, người bạn lâu năm Jephro Hastie của anh ngồi uể oải ở phía bên kia lò sưởi. Cả hai người đều mặc quần áo nỉ, vì họ đã chơi cả buổi tối trên sông; tuy nhiên chỉ cần nhìn bộ mặt tỉnh táo với những nét cứng cỏi của họ cũng đoán được rằng họ yêu thích không khí bao la với tất cả những gì là khang kiện và cường tráng. Hastie là trưởng nhóm bơi lội ở trường cao đẳng của anh; Smith là người chèo thuyền còn giỏi hơn, nhưng viễn ảnh đen tối của một kỳ thi sắp tới đã tạm thời cầm chân anh ở nhà, ngoại trừ mỗi tuần vài giờ do sự đòi hỏi của sức khỏe. Một đống sách y khoa trên bàn, những mẩu xương rải rác, những cái khuôn đúc, những bản khắc mô hình cơ thể cho thấy tính chất các môn học của anh. Phía trên lò sưởi một cặp gậy và những găng đánh bốc chỉ rõ bằng cách nào, với sự trợ giúp của Hastie, anh đã giữ được thân hình khỏe mạnh. Họ đã hiểu biết nhau rất nhiều: nhiều đến nỗi họ có thể ngồi yên một cách thanh thản không nói năng gì với nhau, đây là một mức độ cao trong tình bạn bè.
- Một chút whisky nhé! - Sau cùng, Abercrombie Smith đưa đề nghị ra giữa hai làn khói thuốc lá - Rượu scoth thì ở trong bình, còn rượu Irland thì ở trong chai.
- Không, cảm ơn. Tôi đang tập chèo thuyền. Tôi không uống rượu khi tập luyện. Còn anh?
- Tôi làm việc cực nhọc. Tôi nghĩ không nên gây ra những sự hỗn tạp.
Hastie gật đầu đồng ý. Họ lại chìm vào một sự yên lặng thoải mái.
Sau đó một lát, Hastie hỏi:
- Smith này, hãy nói đi, anh có quen với hai anh chàng ở phía dưới cầu thang của anh không?
- Khi chúng tôi gặp nhau thì chỉ gật đầu chào. Khô ng nói gì hơn cả.
- Hừ! Ở địa vị anh tôi sẽ ngừng lại ở đó! Tôi có biết đôi chút về cả hai người đó. Không biết nhiều lắm, nhưng cũng đủ đối với sở thích của tôi; tôi không nghĩ rằng nếu tôi ở đây tôi sẽ thân thiết ngay với họ. Không phải vì cái tính xấu ở anh chàng Monkhouse Lee.
- Anh chàng gầy còm hả?
- Phải. Một anh chàng bé nhỏ có vẻ khá lịch sự. Tôi không nghĩ rằng chính bản thân anh ta xấu. Chỉ cố một điều là anh không thể lui tới nhà anh ấy mà đồng thời không lui tới nhà Bellingham.
- Anh chàng to lớn hả?
- Phả. Anh chàng to lớn đó. Và hắn ta là loại người mà tôi không thích giao du.
Abercrombie Smith nhướng cặp lông mày lên và ném một cái nhìn chăm chú vào người bạn.
- Tại sao vậy? - Anh hỏi - Hắn uống rượu à? Hắn chơi bài bạc à? Hắn có máu vô lại à? Thường khi anh không hay phán xét nghiêm khắc cơ mà!
- A, tôi thấy rõ là anh không biết hắn rồi. Nếu anh biết rõ hắn, thì anh đã không hỏi tôi tại sao. Ở hắn có đủ những gì gớm ghiếc; những gì đê tiện làm cho tôi ghê tởm. Tôi coi hắn như một kẻ có những tật xấu được che giấu, một kẻ trụy lạc. Tuy nhiên, hắn không ngu ngốc. Người ta nói rằng trong bộ môn của hắn thì hắn là một trong những phần tử tài giỏi nhất mà trường cao đẳng đã từng biết tới.
- Y khoa hay văn học cổ điển?
- Ngôn ngữ Đông phương. Hắn thật đáng sợ! Mới đây Chilling Worth đã gặp hắn tại một nơi nào đó bên trên thác nước số hai; anh ấy kể lại với tôi rằng hắn đã nói chuyện con cà con kê với những người Ả Rập như thể hắn đã được sinh ra ở vùng đó. Hắn nói tiếng Coptes với người Coptes, tiếng Héfreux với người Héfreux, tiếng Ả Rập với người Bédouins, họ sẵn sàng cúi hôn vạt áo dài của hắn. Có một vài nhà ẩn sĩ ngồi trên các mỏm đá, họ thường có thói cười ngạo đời, gắt gỏng và nhổ nước bọt xuống đất khi nhìn thấy một người lạ mặt. Vậy mà khi Bellingham chưa nói với họ hết năm tiếng, họ đã nằm sấp xuống và xun xoe trước mặt hắn! Chilling Worth xác nhận với tôi rằng, anh ấy chưa từng thấy một chuyện như vậy bao giờ. Bellingham có vẻ rất thoải mái; hắn có dáng điệu một người đang hành xử một quyền lực tự nhiên của mình; hắn ung dung đi lại ở giữa bọn họ và giảng huấn lý cho họ. Không có gì là tệ hại cho một sinh viên Oxford phải không?
- Tại sao anh lại nói rằng người ta không thể tới thăm Lee mà không tới thăm Bellingham được?
- Bởi vì Bellingham đã đính hôn với em gái của Lee. Smith này, phải nói rằng Eveline là một thiếu nữ rất xinh đẹp Tôi biết rất rõ tất cả gia đình này. Thật là đáng chán khi nhìn thấy cô ấy đi với anh chàng thô lỗ ấy? Một con cóc và một con bồ câu, họ giống hệt như vậy đó.
Abercrombie cười mỉm và gõ cái píp vào lò sưởi để đổ ra hết tro ở trong.
- Anh bạn già ơi, anh bày thêm chuyện rồi đó! - anh nói với người bạn. - Anh là một vị quan tòa mới thiên vị làm sao! Thực tình anh đâu có gì thù ghét thằng cha đó, ngoại trừ việc này.
- Anh muốn nói gì? Tôi biết cô ấy từ khi cô ấy chưa lớn bằng cái píp của anh, và tôi không muốn thấy cô ấy gặp những sự rủi ro, và cô ấy đang gặp rủi ro đó. Hắn có điệu bộ một con thú hoang dã. Và hắn có một tính tình man rợ, một tính cách độc địa. Anh có nhớ vụ cãi cọ của hắn với Long Norton không?
- Không. Anh luôn luôn quên rằng tôi là một người mới tới đây.
- Đúng vậy. Câu chuyện trở ngược lại mùa đông năm ngoái. Chắc chắn thế! Anh biết con đường để kéo thuyền ở gần sông không? Có nhiều cậu trai dạo chơi ở đó. Dẫn đầu là Bellingham. Họ gặp một bà già hiền lành bán hàng ở chợ. Trời thì mưa, và hẳn anh đã biết khi trời mưa thì những cánh đồng trông giống cái gì rồi. Con đường chạy ở giữa con sông và một cái ao lớn cũng rộng gần bằng con sông. Này, anh có biết cái thằng con lợn đó làm gì không? Hắn không cần bận tâm hắn cứ tiếp tục đi thẳng, và hắn đã đẩy bà già hiền lành xuống bùn làm bà ấy bị bẩn bê bết, cả hàng hóa của bà. Đó là cách cư xử của cầm thú! Tuy nhiên Long Norton là người hiền lành nhất trong đám đó, đã nói thẳng với hắn những điều anh ấy nghĩ. Lời qua tiếng lại một lát, và kết cục là Norton đã quật cho hắn một gậy rất đau vào giữa hai bả vai. Vụ này được loan truyền khắp nơi, và không có gì buồn cười hơn là nhìn cái đầu của Bellingham khi hắn gặp Norton. Trời ơi, anh Smith, sắp mười một giờ rồi...
- Không có gì phải vội vã! Hãy châm một píp nữa đi
- Không. Theo nguyên tắc thì tôi đang ở thời kỳ tập luyện. Vậy mà tôi còn ngồi đây nói lung tung thay vì đã nằm trên giường rồi Tôi muốn mượn cái sọ người của anh, nếu anh chưa dùng tới. Williams đã lấy cái của tôi từ một tháng nay. Và tôi cũng sẽ mang đi những mẩu xương con ở tai, nếu anh đoan chắc với tôi là anh không cần đến chúng. Cám ơn. Không, lại không có túi xách? Tôi sẽ dư sức cắt chúng trong cánh tay. Ngủ ngon nhé cậu trai của tôi? Và hãy theo lời khuyên của tôi về vấn đề gã hàng xóm của anh.
Khi Hastie đã có đủ chiến lợi phẩm về giải phẫu học, bước ra khỏi phòng, Abercrombie Smith ném cái píp vào giỏ giấy vụn; kéo ghế bành lại gần ngọn đèn, rồi chúi đầu vào một quyển sách đồ sộ bìa xanh, có in những họa đồ lớn tô màu trưng ra cái vương quốc, xa lạ và thân cận mà chúng ta là những nhà vua bất hạnh. Anh đúng là một người mới ở Oxford, anh không phải là người mới bước chân vào ngành y; trong bốn năm, anh đã làm việc ở Glasgow và ở Berlin, và kỳ thi sắp tới phải cho phép anh giật được mảnh bằng. Với đôi môi cương nghị, vầng trán cao, dáng điệu cẩn trọng, anh tự chứng tỏ là phải trở thành một người, dù không có các tài năng lỗi lạc, thì cũng có đầy đủ sự bền bỉ, sự kiên nhẫn và sức mạnh để có thể vượt trội người khác. Người nào đã biết chút ít về anh giữa những sinh viên Tô Cách Lan và sinh viên miền bắc Đức đều hiểu, tất cả bọn họ không phải là những kẻ coi thường được! Smith đã để lại ở Glasgow và ở Berlin một danh tiếng tuyệt hảo; anh biết rất rõ rằng anh cũng đáng được tiếng tăm như vậy ở Oxford vì sự tận lực làm việc và tôn trọng kỷ luật.
Anh đã đọc từ khoảng một giờ đồng hồ, khi bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng kỳ quái; một tiếng động chói tai, chát chúa; một tiếng gì giống như tiếng hít vào rít lên của một người đang thở khi bị xúc động mạnh. Smith để sách xuống và lắng tai nghe. Vì không có một ai ở bên cạnh hay ở phía trên anh, chắc chắn là tiếng động đã tới từ người láng giềng phía dưới của anh, chàng sinh viên mà Hastie đã phác họa một hình ảnh chẳng tốt đẹp chút nào. Smith chỉ biết anh ta dưới bộ mặt một chàng trai xanh xao, yếu đuối có thói quen sống yên lặng và chăm chỉ làm việc, và ngọn đèn của anh ta thường chiếu ra một vạch vàng trên cái tháp cổ xưa ngay cả sau khỉ anh đã tắt ngọn đèn của anh. Sự cảm thông trong những đêm thức khuya kéo dài này đã tạo ra giữa họ một thứ liên hệ bí mật. Khi những giờ đã trôi qua gần tới rạng đông, Smith thích cảm thấy rằng ngay ở gần bên, một sinh viên khác cũng coi khinh giấc ngủ như anh. Và đúng vào lúc đó, khi mà các ý nghĩ của anh đều hướng về người bạn láng giềng một cách ngoài ý muốn, anh chỉ cảm thấy những tình cảm tốt đẹp. Hastie là một chàng trai dũng cảm, nhưng thô lỗ, rất khỏe mạnh và không có óc tưởng tượng cũng như sự thông cảm. Anh ta không thể chịu đựng được một người không được đào tạo theo cái mẫu mực cường tráng mà anh ta đã dứt khoát chọn lựa. Nếu người nào không thể được đo lường theo các tiêu chuẩn này, thì nhất định là người đó sẽ chuốc lấy sự ác cảm của Hastie. Giống như nhiều chàng trai khỏe mạnh về thể chất, anh ta tỏ ra lầm lẫn cấu trúc của cơ thể với tính tình, anh ta không ngần ngại gì để gán tội vô nguyên tắc cho một việc khi việc đó chỉ là một lỗi nhỏ. Smith có tinh thần cởi mở hơn: anh biết cái bệnh của bạn anh và anh thể tất nó.
Vì tiếng động kỳ quái đó không tiếp diễn nữa, Smith đang sắp cầm lấy quyển sách, thì bỗng nhiên lại một tiếng rên rỉ khô khan một tiếng kêu thực sự chọc thủng sự yên tĩnh của màn đêm. Đó là tiếng gọi của một người bị khích động và đau đớn vượt khỏi sự kiềm chế. Smith chồm ra khỏi ghế bành bỏ quyển sách xuống. Mặc dù anh có bộ thần kinh vững vàng, tiếng kêu khủng khiếp đột ngột đó cũng làm máu anh lạnh toát như băng và làm anh nổi da gà. Được phát ra trong một nơi như thế này? Và sao một giờ như thế này? Nó đã gieo vào đầu óc anh hàng ngàn giả thuyết kỳ quái. Anh có nên chạy ngay xuống bên dưới không, hay là hãy đợi xem sao? Cũng như tất cả các đồng bào của anh, anh ghét việc làm cho mọi người chú ý hay tự đề cao mình, và anh biết rất ít về người hàng xóm nên anh không có ý định xen lấn vào công việc của hắn một cách khinh suất. Anh đắn đo trong một khoảnh khắc; nhưng những bước chân mau lẹ đã vang lên trong cầu thang, và chàng thanh niên Monkhouse Lee, nửa mình để trần, mặt mày tái mét, chạy xộc vào phòng anh.
“Xuống đi?” anh ta lắp bắp nói. “Bellingham bị bệnh!” Abercrombic Smith đi theo anh ta tới tận căn phòng khách nhỏ nằm ngay phía dưới phòng khách của anh, dù dã dồn hết tâm trí vào sự việc xảy ra, anh cũng không thể kiềm chế được việc ném một cái nhìn kinh ngạc quanh mình khi anh bước qua bậc cửa. Đó là một căn phòng hình như chưa bao giờ anh nhìn thấy trước đây: một viện bảo tàng hơn là một phòng làm việc. Các bác tường và trần nhà gần như được toàn bộ che phủ bằng hằng hà sa số những thành tích kỳ lạ xuất xứ từ Ai Cập và Đông phương. Những bóng ma cao lớn mang những gánh nặng hay những khí giới treo một cách ngạo nghễ trên một tấm vải thô chạy vòng quanh căn phòng. Phía. trên, được chạm vào trong đá là những cái đầu bò rừng, đầu hạc, đầu cú mèo, cùng với các pho tượng những vua chúa có những con mắt hạt hạch nhân, trên đầu quấn những con rắn độc và những vị thần kỳ quái trông giống như những con giáp trùng đẽo bằng ngọc bích Ai Cập. Horus, Isis và Osins đang ngồi ngắm nghía căn phòng khách có nhiều hốc trong tường và tất cả những cái kệ, ngang trần nhà, một đứa con chính thống của sông Nu cổ đại, con cá sấu lớn với cái miệng há rộng, được treo lủng lẳng bằng một nút dây kép.
Ở giữa căn phòng không tầm thường này, có một cái bàn vuông lớn rải rác những giấy tờ, chai lọ và những lá khô của một loại cây cọ rất đẹp, những vật linh tinh này đã bị đẩy ra thành từng đống lộn xộn để lấy chỗ đặt một cái thùng xác ướp được lấy ra từ trong bức tường (đúng như khoảng trống nó để lại trong tường đã chứng thực điều này), và nó được đặt nằm ngang qua cái bàn. Về phần cái xác ướp, thì nó là một vật khủng khiếp, đen xì và khô héo, chìa ra một cái đầu xám như than trên một cái cây nhỏ đầy mấu đốt, một nửa thân hình nó thòi ra bên ngoài cái thùng; một cái bàn tay trong giống như một cái kìm và một cánh tay xương xấu nằm trên bàn. Một cuộn giấy bằng lá chỉ thảo được dựng tựa vào cái quan tài; phía trước cuộn giấy, người chủ căn phòng dang ngồi trong một cái ghế bành gỗ, đầu anh ta ngả về phía sau; hai mắt mở lớn nhìn dán chặt vào con cá sấu; cặp môi xanh tái và run rẩy một cách nặng nề theo từng hơi thở.
- Trời ơi! Anh ấy chết mất! - Monkhouse sợ hãi kêu lên.
Monkhouse Lee là một chàng trai mảnh khảnh có cặp mắt đen và nước da xanh tái; anh ta có cốt cách Tây Ban Nha hơn là cốt cách Anh Cát Lợi; tính tình cởi mở của người Celtes ở anh trái nghịch lại với tính lạnh lùng của dân Saxon ở Abercrombie Smith.
- Tôi nghĩ rằng đây chỉ là sự ngất xỉu đi thôi - anh sinh viên y khoa trả lời - Hãy giúp tôi một tay. Nắm lấy hai chân anh ấy. Bây giờ chúng ta hãy đặt anh ấy nằm lên trên ghế dài. Anh có thể dẹp hết những dỗ quỷ quái lắt nhắt bằng gỗ ra khỏi cái ghế dài được không? Thật là bừa bãi! Kia kìa? Nêu ta cởi cúc áo ở cổ anh ấy ra và cho anh ấy uống một ít nước thì sẽ rất tốt đó Điều gì xảy ra cho anh ấy thế?
- Tôi không biết một tý gì cả. Tôi nghe tiếng anh ấy kêu to, tôi chạy ngay lên. Tôi quen biết anh ấy lắm, anh hiểu chứ? Anh thật quá tốt bụng khi đi xuống đây.
- Tim anh ấy đập như một cái lục lạc ấy - Smith nói sau khi để tay lên ngực Bellingham khi anh này vẫn còn bất tỉnh - Người ta sẽ nói rằng anh ấy bị quá hoảng sợ. Giội nước lên người anh ấy đi. Bộ mặt anh ấy trông mới kỳ cục làm sao!...
Thực sự vẻ mặt Bellingham trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ, cả về thần sắc lần về dáng điệu. Nó trắng bệch, không phải sự tái xanh thông thường do sự sợ hãi gây ra, mà là sự trắng bệch, hoàn toàn không có màu sắc ở bụng một vài loại cá. Anh ta khá mập, nhưng cho ta ấn tượng là trước đây anh ta còn mập hơn nhiều, vì da anh ta lõng thõng thành những nếp và vết hằn ngang dọc. Mái tóc nâu để kiểu bàn chải dựng đứng lởm chởm trên đầu, trong đôi mắt màu xám vẫn mở trừng trừng, các đồng tử giãn căng ra, sự chăm chú của cái nhìn trông thật khủng khiếp. Smith cúi xuống trên người anh ta, tự nhủ thầm là anh chưa bao giờ nhìn thấy rõ ràng như thế này những tín hiệu của sự khủng khiếp trên diện mạo một con người; ngay tức thì anh nhớ lại với ít hoài nghi hơn lời cảnh báo của Hastie.
Anh hỏi:
- Vậy thì điều gì đã làm cho anh ấy kinh hoàng tới mức độ này?
- Cái xác ướp
- Xác ướp à? Tại sao như vậy?
- Tôi không biết. Nó hôi thối và gây bệnh hoạn, lẽ ra tôi đã muốn cho anh ấy quăng nó đi. Đây là lần thứ nhì anh ta làm cho tôi kinh sợ. Mùa đông năm ngoái cũng một lần như thế này. Tôi đã thấy anh ta đúng hệt như hôm nay, với cái vật đáng ghét này để trước mặt anh ta.
- Vậy anh ấy tìm kiếm cái gì ở cái xác ướp?
- Ồ, thật là một kẻ cuồng dại Một kẻ cuồng dại về xác ướp. Anh ấy hiểu biết về các xác ướp nhiều hơn là bất kỳ một người dân Anh nào hiện đang còn sống. Nhưng tôi thì tôi mong rằng anh ấy nên biết ít hơn về những thứ đó. A, anh ấy tỉnh lại rồi kìa!
Những màu sắc mờ nhạt bắt đầu nhuốm ứng đôi gò má tái mét của Bellingham; mí mắt anh ta nhấp nháy; anh ta nắm chặt bàn tay lại và lại duỗi bàn tay ra, hít một hơi dài không khí qua kẽ răng, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên và đưa mắt nhìn quanh một cái nhìn dò xét Khi mắt anh nhìn tới cái xác ướp, anh đứng phắt dậy, cầm lấy cuộn chỉ thảo, quẳng nó vào một ngăn kéo và khóa nó lại, rồi lảo đảo quay trở lại cái ghế dài.
Anh ta hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra? Các bạn muốn gì ở tôi vậy?
- Anh đã kêu lớn và làm ồn ào quá - Monkhouse Lee đáp lại - Nếu ông bạn hàng xóm của chúng ta ở tầng trên không đi xuống, thì tôi tự hỏi là một mình tôi sẽ làm được việc gì đây.
- À, đây là Abercrombie Smith! - Bellingham nhìn anh và nói - Thật là anh đã tử tế quá khi tới đây! Tôi là một thằng ngốc thật! Trời ơi, sao mà tôi ngu ngốc thế!
Anh ta gục đầu vào hai bàn tay và bật lên mọt tiếng cười điên dại không còn ngưng được nữa.
- Coi chừng đó! Dừng lại! - Smith quát to và nắm lấy vai anh ta lắc mạnh - Các dây thần kinh của anh bị hoàn toàn rối loạn rồi. Anh phải vứt bỏ những trò chơi nhỏ nhặt về nửa đêm với những cái xác ướp đi nếu không anh sẽ mất trí đó. Lúc này anh là một cục pin điện đó.
Bellingham trả lời:
- Tôi không nghĩ rằng anh cũng sẽ bình tĩnh được như tôi nếu anh trông thấy...
- Cái gì vậy?
- À, không có gì cả! Tôi chỉ muốn nói rằng tôi không tin là anh có thể ngồi suốt một buổi tối với một cái xác ướp mà các dây thần kinh không bị nôn nao. Anh nói rất đúng, trong thời gian gần đây tôi đã làm việc quá nhiều. Nhưng tôi cảm thấy đã hoàn toàn bình phục. Xin hãy đợi vài phút, và tôi sẽ trở lại như thường.
- Căn phòng có mùi khó chịu quá - Lee đưa ra nhận xét và anh đi mở cửa sổ để cho không khí mát mẻ ban đêm lùa vào.
- Đó là chất nhựa thơm...
Bellingham giơ lên một chiếc lá khô và làm nó quăn lại trên miệng cái đèn. Nó biến thành những cuộn khói dày đặc; một mùi hăng khó chịu tràn ngập căn phòng.
- Đó là thứ cây linh không thứ cây của các vị thầy tu - anh ta giải thích - Anh Smith, anh có biết gì về các ngôn ngữ Đông phương không?
- Không biết gì hết. Không biết một chữ.
Câu trả lời có vẻ làm cho nhà Ai Cập học thấy nhẹ nhõm. Anh hỏi:
- Về chuyện này, từ lúc cái anh chạy vào tới lúc tôi tỉnh lại có lâu không?
- Không lâu. Khoảng bốn hay năm phút
- Hình như tôi thấy rằng tôi đã không bị bất tỉnh lâu hơn! - anh vừa nói vừa hít vào một hơi dài - nhưng sự ngất xỉu thật là một điều kỳ lạ! Không có cách nào để đo lường thời gian của nó. Theo các cảm giác của riêng tôi, tôi không tài nào nói chắc được là tôi đã bị ngất đi trong vài giây hay vài tuần lễ. Cái ông khách nằm trên bàn kia đã được tẩm liệm đã bốn mươi thế kỷ rồi; nếu ông ấy lại nói được, ông ấy sẽ bảo chúng ta rằng cái khoảng thời gian này chỉ thoảng qua như thời gian mà ta cần có để nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra. Đó là mộ t xác ướp tuyệt đẹp, anh Smith ạ!...
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:31:49 | Chỉ xem của tác giả
09. Lô số 249 (tiếp)

Smith lại gần cái bàn và nhìn cái hình thù đen đúa và cong queo bằng con mắt của nhà chuyên môn. Bộ mặt tuy đã bị mất màu sắc một cách khủng khiếp nhưng vẫn còn nguyên vẹn; hai nhãn cầu nhỏ bé còn nằm trong hốc sâu của những lỗ mắt đen ngòm. Cái cằm có vân như cẩm thạch bị kéo vẹo sang một bên, và những sợi tóc to và đen rủ xuống hai tai. Hai chiếc răng nhỏ như răng chuột phủ lên cái môi dưới đã teo lại. Trong tư thế ngồi xổm, với những khớp xương cong lại và cái đầu nghểnh về phía trước, cái vật khủng khiếp này tỏa ra một cảm giác về khí lực làm đảo lộn tinh thần của Smith. Những cái xương sườn hằn rõ như dược bọc bởi một cái vỏ bằng da thuộc, cũng như cái bụng màu xám chì, bị rạch theo chiều dài bởi người ướp xác; nhưng hai chân thì vẫn còn được quấn các băng vải vàng. Những lá đinh hương, những mảnh vụn nhựa mật nhi lạp và trái ba đậu còn rải rác trên cái xác hoặc vương vãi bên trong cái hòm.
- Tôi không biết tên hắn, - Bellingham nói trong lúc đưa bàn tay lên cái trán nhăn nheo của anh - Các anh nhìn đấy: tôi thiếu mất cỗ quách bên ngoài cùng với những chữ ghi chép của nó. Lô số 249, đó là tất cả danh hiệu của hắn hiện nay. Hãy dọc chữ này trên cái hòm. Đó là con số hắn mang trong cuộc bán đấu giá mà tôi đã mua được.
Abercrombie Smith nói:
- Lúc sinh thời, chắc chắn hắn là một người đàn ông đẹp trai.
- Một anh khổng lồ. Cái xác ướp của hắn đo được hai mét chiều dài; ở nơi đó, hắn phải là một anh khổng lồ vì giống người ở đó đã không được phát triển mấy. Hãy thử sờ vào mấy cái xương lớn quăn queo xem. Không ai dại dột mà trêu chọc hắn.
- Có thể là những bàn tay này đã góp sức vào việc xây dựng các ngôi Kim tự Tháp chăng? - Monkhouse Lee góp ý trong khi ngắm nghía những bàn tay với sự kinh tởm.
- Chớ nên tin gì vào việc đó! Anh chàng nay đã được ướp một cách kỹ càng trong một kiểu cách tốt nhất. Người ta không đối xử tử tế như vậy với những anh thợ nề tập sự đâu. Muối hoặc dầu hắc cũng là quá tốt rồi. Người ta đã tính là cái thứ công việc vớ vẩn phải tốn vào khoảng 730 bảng tiền của chúng ta. Ít nhất anh bạn của chúng ta cũng là một nhà quý tộc. Anh Smith, anh nghì thế nào về cái dòng chữ nhỏ ở gần hai bàn chân hắn?
- Tôi đã nói với anh là tôi không biết một thứ ngôn ngữ Đông phương nào mà.
- À phải! Đó là tên của người ướp ít nhất tôi cũng giả thiết là vậy. Ông ta phải là một nghệ nhân rất có lương tâm nghề nghiệp. Tôi đã tự hỏi rằng liệu có bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật hiện dại sẽ tồn tại được bốn ngàn năm!...
Anh ta tiếp tục nói với vẻ giễu cợt, nhưng Abercrombne Smith nhận thấy anh ta vẫn còn run rẩy vì sợ hãi. Tay anh ta có những cử động thiếu tự chủ, môi dưới của anh ta run run và mắt anh ta lúc nào. cũng nhìn vào người bạn gớm ghiếc của mình! Tuy nhiên, bất kể nỗi sợ sệt anh ta vẫn có một vẻ đắc thắng trong giọng nói và trong thái độ. Mắt anh ta sáng ngời, bước chân nhanh nhẹn và khinh khoái khi đi đi, lại lại trong eăn phòng. Người ta có thể nói đó là một người vừa trải qua một cuộc thử thách phũ phàng, còn mang các dấu vết của cuộc thử thách, nhưng đã đạt được mục đích của mình.
- Anh không bỏ đi đấy chứ? - anh ta kêu lên khi Smith từ ghế dài đứng lên.
Trước viễn ảnh đơn độc, những mối lo sợ hình như lại tấn công anh ba và anh ta vươn tay ra như thể giữ Smith ở lại.
- Đúng, tôi phải đi đây. Công việc đang đợi tôi. Anh đã hồi phục rất khá rồi. Tôi nghĩ rằng với hệ thần kinh của anh, anh nên chuyên tâm vào những môn học ít bệnh hoạn hơn. – Ô, thông thường tôi không bao giờ bị suy yếu cả? Và tôi đã từng tháo vải bọc cho nhiều xác ướp mà.
- Lần trước anh cũng đã bị ngất xỉu - Monkhouse Lee đưa ra lời lưu ý.
- À, phải! Này, tôi sẽ phải dùng một liều thuốc bổ cho các dây thần kinh. Anh không bỏ đi chứ, anh Lee?
- Tôi sẽ làm theo ý anh muốn, Ned ạ.
- Vậy thì tôi sẽ xuống phòng anh, và tôi sẽ ngủ trên cái ghế dài của anh. Chúc ngủ ngon nhé Smith. Tôi rất buồn vì đã làm phiền anh với những trò ngu ngốc của tôi.
Họ bắt tay nhau; chàng sinh viên y khoa leo mỗi bước bốn bậc thang để trở về phòng của mình, anh nghe thấy tiếng hai người bạn đi xuống phía căn hộ ở tầng thứ nhất.
Đó là lý do tại sao Edward Bellingham và Abercrombie đã làm quen với nhau, chàng sinh viên y khoa không có ý định gắn bó xa hơn nữa, nhưng Bellingham có vẻ như say mê anh hàng xóm; anh ta đã có những cử chỉ mở đầu một cách thân thiện quá đến nỗi chỉ một kẻ thật sự thô lỗ mới dám khước từ. Đã hai lần anh ta tới phòng Smith để cảm ơn về sự giúp đỡ; rồi sau đó anh ta gõ cửa để mang tới cho anh các sách, báo và mọi thứ lặt vặt mà hai anh hàng xóm độc thân có thể tặng, biếu cho nhau. Smith đã phát hiện ra ngay là anh ta đọc rất nhiều, anh ta có một trí nhớ phi thường. Lối cư xử của anh ta rất khả ái, rất dịu dàng khiến cho sau một thời gian nào đó người ta quên đi cái diện mạo thể chất ít gây được cảm tình của anh ta. Phải làm việc quá sức như Smith, mà anh cũng không thấy anh ta gây khó chịu chút nào; anh đã mau chóng có thói quen về các cuộc thăm viếng của anh ta, và khi có cơ hội anh cũng tới thăm anh ta.
Bellingham đúng là một người thông minh không ai chối cãi được tuy nhiên Smith đã phát hiện ở anh ta một đôi chút khùng điên, ít nhất cũng ở bề ngoài. Đôi khi anh ta có những lúc nói năng lưu loát, khoa trương trái ngược hẳn với sự giản dị trong lối sống.
Anh ta kêu lên:
- Thật là một điều kỳ thú khi cảm thấy rằng ta có thể sai khiến được các quyền lực của điều thiện và điều ác rằng ta có thể là một ông thánh cứu nhân, độ thế hay một ác quỷ của sự hận thù!...
Và đối với Monkhouse thì anh ta nói:
-... Lee là một anh chàng dũng cảm, một người lương thiện nhưng anh ấy không có nghị lực, mà cũng không có tham vọng. Anh ấy sẽ không phải là người cộng tác tốt cho người nào muốn lập một sự nghiệp lớn lao. Anh ấy không phải là một người cộng tác tốt với tôi.
Khi nghe những lời như vậy, anh chàng Smith khỏe mạnh chỉ rít ống píp một cách nghiêm trang và nhường cặp chân mày lên và lắc đầu.
Bellingham đã mắc phải một thói quen mà Smith biết là nó biểu lộ một tinh thần suy nhược; anh ta nói liên miên, nói lớn tiếng. Lúc đêm đã khuya, khi không có thể còn khách khứa nào trong phòng anh ta, Smith nghe thấy anh ta nói một mình với một giọng tắc nghẹn trầm xuống gần như tiếng thì thầm, nhưng sự yên lặng ở chung quanh làm cho nghe rõ mồn một. Sự lảm nhảm một mình này làm chàng sinh viên y bực bội quá dện nỗi chàng phải cự nự anh hàng xóm. Bellingham ngượng đỏ mặt trước lời buộc tội và chối phăng là anh ta đã không nói một tiếng nào; thực sự anh ta có vẻ như đang bực bội điều gì đó.
Nếu Abercrombie Smith có những nghi ngờ về thính giác của mình thì anh đã không cần phải đi xa hơn nữa để được xác nhận về sự phát hiện của anh. Tom Styles, gã đầy tớ nhỏ bé nhăn nheo là người đã làm việc từ lâu cho ba người khách trọ của cái tháp, cũng thấy bực bội về cùng một vấn đề này.
- Thưa ông, - một buổi sáng khi đang quét dọn căn phòng phía trên, hắn hỏi - ông có nghĩ rằng ông Bellingham là khỏe mạnh không ạ?
- Khỏe mạnh hả, Styles?
- Vâng, thưa ông. Là đầu óc ông ấy ở tình trạng tốt
- Và tại sao đầu óc ông ấy lại không ở tình trạng tốt hả?
- Thưa ông, tôi thề là tôi không biết gì cả. Từ ít lâu nay ông ấy đã có những chứng cuồng mới. Ông ấy không phải là cùng một con người như ngày trước nữa mặc dù tôi xin được mạn phép nói với ông rằng chưa bao giờ ông ấy hoàn toàn giống như người lịch sự như ông Hastic hoặc như ông vậy. Ông ấy cứ nói chuyện một mình, đó là một điều gì có vẻ đáng sợ. Tôi tự hỏi liệu chuyện đó có làm phiền cho ông không? Thưa ông, tôi không biết nghĩ về ông ấy thế nào đây.
- Anh Styles này, tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì tới anh cả.
- Vâng, thưa ông Smith, đó là vì tôi quan tâm tới thôi! Có lẽ đó là một thiên kiến của tô , nhưng tôi không thể tự ngăn cản để khỏi nghĩ tới việc đó. Đôi khi tôi cảm thấy như tôi là cha mẹ của những vị công tử trẻ trung của tôi. Mọi trách nhiệm đều đổ lên đầu tôi khi có các sự việc chẳng tốt lành và khi các vị phụ mẫu tới thăm, nhưng thưa ông Bellingham, ông... Tôi rất muốn biết một đôi khi có ai đó đi trong phòng của ông ấy - lúc ông ấy ra khỏi và lúc cửa được khóa ở phía bên ngoài.
- Vậy hả? Anh nói nhảm nhí rồi Styles ạ!
- Có lẽ là thế, thưa ông. Nhưng chính tai tôi đã nghe tiếng động đó hơn một lần nữa.
- Chuyện tầm phào, Styles ạ!
- Được rồi, thưa ông khi nào ông cần xin bấm chuông gọi tôi.
Abercrombie Smith không mấy để ý tới những lời nói của gã đầy tớ lâu năm, nhưng vài ngày sau đó một sự cố nhỏ đã dể lại cho anh một ấn tượng khó chịu và nhắc nhở với anh những lời nói đó một cách mãnh liệt.
Bellingham đi lên gặp anh vào một giờ đã muộn, anh ta đang kể cho anh nghe những điều rất thú vị về các ngôi mộ của dòng họ Beni Hassan ở Bắc Ai Cập, thì Smith, vốn là người có cặp tai rất thính, nghe thấy rõ ràng tiếng một cánh cửa mở ra ở tầng dưới. Anh nói với Bellingham:
- Có người đi vào hay đi ra khỏi phòng anh.
Anh chàng này đứng phắt dậy và cứ chứng yên hoàn toàn bị bối rối trong vài giây; anh ta có vẻ nửa không tin, nửa kinh hãi.
- Chắc chắn là tôi đã đóng cửa rồi mà. Tôi hoàn toàn tin chắc là tôi đã đóng cửa - anh ta hổn hển nói - không ai có thể mở được nó.
- Này, bây giờ tôi nghe thấy tiếng một người đi lên các bậc thang.
Bellingham chạy vội ra cửa, mở cửa, đóng đánh sầm một tiếng sau lưng anh ta và nhẩy xuống cầu thang. Khoảng giữa chừng, Smith nghe thấy anh ta đứng lại, và anh tưởng như bất chợt nghe thấy tiếng nói thì thầm. Một lát sau cánh cửa của tầng dưới đóng lại, một cái chìa khóa cọt kẹt trong ổ khóa, và Bellingham trán đẫm mồ hôi nhỏ giọt, lại lên cầu thang và đi vào trong phòng.
- Không có chuyện gì cả - anh ta nói và ngồi phịch xuống một cái ghế - Đó là cái con chó ngốc nghếch. Nó đã đẩy cửa ra. Tôi không biết tại sao tôi lại quên không khóa cửa lại.
- Tôi không biết là anh có một con chó, - Smith nói trong khi ngắm nhìn một cách đầy tư lự nét mặt bối rối của người bạn.
- Phải. Tôi đã không nuôi chó từ lâu rồi. Tôi sẽ phải vất nó đi, nó làm tôi phiền phức quá.
- Tôi thấy hình như đóng cửa mà không khóa lại là chưa đủ, phải không?
- Tôi muốn ngăn cản không cho lão Styles để nó chạy ra. Đó là một con vật đắt giá, anh hiểu chứ? Và để mất thì thật là ngốc.
- Tôi là một tay chơi tài tử về chó - Smith nói trong khi tiếp tục vẫn liếc mắt quan sát người bạn của mình - Anh có thể vui lòng cho tôi xem con chó đó được không?
- Dĩ nhiên là được rồi! Nhưng không phải tối nay, xin anh vui lòng. Tôi có một buổi hẹn. Đồng hồ treo của anh chạy có đúng không? Trời ơi, tôi đã bị trễ mất mười lăm phút rồi! Xin anh tha lỗi cho nhé được không?
Anh ta chộp lấy cái mũ và vội vã rời khỏi phòng. Một buổi hẹn à? Smith nghe thấy anh ta trở về phòng và khóa cửa lại ở phía bên trong.
Cuộc nói chuyện này đã gây một cảm tưởng không vui cho chàng sinh viên y khoa. Bellingham đã nói dối anh; và nói dối một cách quá vụng về khiến người ta phải nghĩ rằng có những nguyên do rất cấp thiết để che giấu sự thật. Smith biết chắc chắn là anh hàng xóm này không có chó. Anh cũng biết rằng tiếng bước chân trong cầu thang không phải là tiếng bước chân của một con vật. Trong trường hợp này thì là tiếng bước chân của ai? Smith nhớ lại những diều mà lão Styles đã nói với anh về những tiếng động mà hắn bất chợt nghe thấy trong khi người chủ căn phòng vắng mặt. Có thể là một người đàn bà chăng? Smith nghĩ tới giả thuyết này. Nếu sự hiện diện của một người dàn bà bị các giới chức nhà trường phát hiện thì Bellingham sẽ bị đuổi học ngay lập tức; sự cố có thể xảy ra này có thể giải thích được sự lo lắng và sự dối trá của anh ta. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng một sinh viên lại giữ được một người đàn bà trong phòng mình mà không bị phát giác ngay tức thì. Dù cho sự giải thích là thế nào đi nữa, chắc chắn nó cũng không tốt đẹp gì. Smith trở lại với các tập sách của anh, quyết định sẽ làm nản lòng tất cá mọi ý định kết thân mới cua người hàng xóm, một người nói thì rất hay mà hành động thì rất tệ.
Nhưng số trời đã định là anh không thể làm việc một cách yên tĩnh buổi tối hôm đó. Anh vừa mới nối xong sợi dây đứt đoạn thì một bước chân nặng nề và chắc chắn leo lên từng ba bậc một trong cầu thang, và Hastie, với áo vét và quần bằng nỉ, chạy xộc vào phòng anh.
- Còn làm việc à! - anh ta có kêu lên tuột cách kinh ngạc và ngồi phịch ngay xuống chiếc ghế bành ưa thích của anh ta - người đâu mà chăm học thế? Tôi nghĩ rằng nếu có một trận động đất làm nát bấy thành phố Oxford này, thì anh cũng sẽ chồi lên hoàn toàn bình thản trên những đổ nát, với quyển sách cầm trong tay. Yên tâm đi, tôi sẽ không ngồi lại lâu đâu. Ba hơi thuốc lá thôi, rồi tôi sẽ chuồn đi.
- Có tin tức gì không? - Smith vừa hỏi vừa lấy ngón tay trỏ nhấn một chút thuốc lá trong cái píp.
- Không có gì quan trọng. À, có đấy! Anh có biết tin Long Norton bị tấn công không?
- Không. Bị tấn công à?
- Phải. Ngay ở góc đường High Street, cách hàng rào song sắt của trường cao đẳng một trăm mét.
- Nhưng bởi ai?...
- À, xem đó! Nếu anh nói bởi cái gì và không nói bởi ai, thì anh đã tỏ sự tôn kính hơn đối với ngữ pháp đó. Norton đoan quyết rằng anh ấy không bị tấn công bởi một con người; nhìn những vết xây xước ở cổ họng anh ấy, thú thực là tôi cũng gần tin lời anh ấy nói.
- Tóm lại, hãy nói rõ ràng đi! Trò ma quỉ à? Abeciombie Smith phà khói ra với vẻ khinh khỉnh của nhà khoa học.
- Không, đúng vậy. Tôi nghĩ rằng một lái buôn nào đó đã bị mất một con khỉ lớn, và con vật này đi lang thang. Norton tối nào cũng đi qua nơi đó, anh biết việc đó chứ gì, và gần như vào cùng một giờ đó, một cái cây có những cành thấp xòa xuống mặt đường: cây du to lớn ở vườn Rainy, Norton tin rằng con vật đã giấu mình và tụt xuống từ trên cây để chồm lên người anh ấy. Anh ấy nói thật sự anh ấy đã bị xiết gần nghẹt thở bởi hai cánh tay cũng mạnh mẽ và cũng mảnh mai như những thanh thép vậy. Anh ấy không trông thấy gì cả. Chỉ có những cánh tay tàn bạo này xiết chặt lấy anh mỗi lúc một mạnh hơn. Anh ấy đã hét lên gần tới nổ cuống họng, và có hai người bạn chạy tới, tới đó thì con vật chạy qua phía bên kia tường như một con mèo. Anh ấy đã không bao giờ nhìn rõ ràng được nó. Dù sao thì anh chàng Norton khốn khổ này cũng bị kinh động một cách kỳ lạ! Tôi đã nói với anh ấy rằng muốn cho khuây khỏa tâm hồn thì cần đi nghỉ tám ngày ở bờ biển.
- Một kẻ siết cổ người ta, đúng hệt như vậy? - Smith góp ý - chắc chắn là vậy rồi. Norton đoan chắc là không phải, nhưng mặc kệ những gì anh ấy nói. Kẻ siết cổ đó có những móng tay dài và nó biết nhẩy tường rất giỏi. Hãy nói đi anh hàng xóm hay mê hoặc người khác của anh sẽ thích thú nếu hắn ta biết được chuyện này. Hắn ta có mối hận với Norton, và tôi không tin rằng hắn ta là người quên được những món nợ ấy. Nhưng này, này! Ành bạn già, cái gì chạy qua đầu anh thế?
- Không có gì cả... - Smith trả lời với giọng thô lỗ. Anh giật nẩy người lên trên ghế bành, hai mắt mở to ra làm như đầu óc anh đang có một ý nghĩ khó chịu chạy ngang.
- Người ta có thể nói rằng mẩu chuyện nhỏ của tôi đã làm anh nổi nóng phải không? Tiện thể đây tôi hỏi, anh đã quen ông B. từ khi tôi gặp anh phải không? Gã thanh mền Monkhouse Lee đã nói một cách mơ hồ về chuyện đó với tôi.
- Phải. Tôi biết anh ấy nhiều hơn đôi chút. Anh ấy đã lên đây hai hay ba lần.
- Hà, anh cũng khá to con và khá nhanh nhẹn để tự lo liệu cho mình Hắn không phải thứ người mà tôi gọi là thanh niên lành mạnh, nhưng tóm lại thì hắn rất thông minh, và phần còn lại. Đó, anh sẽ tự mình phát hiện ra tất cả. Lúc là một anh chàng tốt một thanh niên rất dũng cảm. Tạm biệt, anh bạn thân. Thứ Tư sau tôi sẽ chèo thuyền thi với Mullins để tranh giải thưởng của ông phó viên trưởng, nếu anh tới được thì điều này làm tôi vui thích.
Với sự bướng bỉnh đầu bò, đầu bướu, Smith chặt píp xuống và cầm lại những quyển sách. Nhưng dù với ý chí mạnh nhất trong đời, anh vân cảm thấy thật khó mà nghĩ tới những điều anh đang đọc, lúc nào tâm trí anh cũng lãng đãng về phía anh hàng xóm ở tầng dưới và về sự bí ẩn tại căn hộ của anh ta. Rồi anh lại nghĩ tới vụ tấn công mà Hastie vừa kể lại với anh, và về mối hận thù mà hình như Bellingham đã nhằm vào nạn nhân. Hai ý nghĩ này không ngừng trộn lộn với nhau trong đầu óc anh, như có một sợi dây chặt chẽ kết nối chúng lại với nhau. Tuy nhiên, sự nghi ngờ thật quá mơ hồ, quá mù mờ khiến nó không thể diễn tả bằng lời nói được.
- Quỉ bắt thằng cha Billingham ấy đi? - Smith kêu lên và ném quyển sách về bệnh lý của anh sang góc phòng bên kia - Hắn đã làm mất buổi tối làm việc của tôi; đây đã là một lý do đầy đủ để cho tôi không còn vướng víu với con người của hắn nữa?
Trong mười ngày, chàng sinh viên y khoa đã đắm mình một cách quá trọn vẹn vào việc học hành đến nỗi anh không nhìn thấy và cũng không nghe thấy một anh hàng xóm nào. Vào những giờ mà Bellingham có thói quen tới thăm anh thì anh đã thận trọng khóa cửa lại, và ngay cả khi nghe thấy tiếng gõ anh cũng không mở cửa. Tuy nhiên, một buổi nhiều, anh bước xuống cầu thang, và ngay lúc anh đi qua cửa phòng của Bellingham, thì thấy cánh cửa mở toang, chàng thanh niên Monkhouse Lee ở trong đi ra, mắt tóe lửa và hai má đỏ ửng vì giận dữ. Bellingham chạy theo sau; cái mặt to bè nhưng ốm yếu của anh ta run run vì nóng giận.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách