Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Một Số Tác Phẩm Khác Của Arthur Conan Doyle | Arthur Conan Doyle

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:05:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5 (tiếp)

Và rồi, đâu đâu cũng thấy xác người chết! Đầu tiên chúng tôi liên tục gặp các nhóm xác chết, khuôn mặt cười nhăn nhúm, khiến chúng tôi rùng mình ghê sợ. Cái hình ảnh rõ ràng, thương tâm mà chúng thấy trên đường đồi, qua khung cửa kính nơi an toàn của chúng tôi, không thể xóa nhòa khỏi tâm trí. Cô bảo mẫu với hai đứa trẻ, con ngựa quỵ giữa hai càng xe, đầu gục xuống tận hai gối, người đánh xe vắt ngang thanh trước xe, cậu thanh niên trong xe, mở cửa như muốn nhảy xuống đường. Thấp hơn một chút, 6 người gặt lúa nằm ôm nhau thành một đống, mắt mở trừng trừng, ngước nhìn trời xanh. Tôi nhìn những cảnh này mà lòng trơ trơ, như nhìn một bức hình vì như thể có dự tính sẵn của thiên nhiên, hệ thần kinh của con người. Khi đã căng thẳng tột độ, nó không phản ứng với hiện thực nữa, và ta trở nên vô cảm. Cái cảnh ghê rợn khủng khiếp rộng lớn quá, sẽ không còn làm cá nhân chú ý nữa. Các cá. nhân tụ lại thành nhóm, những nhóm tụ thành các đám đông. Các đám đông trở thành cảnh chung, cuối cùng ta phải chấp nhận đó là chi tiết chung của mọi cảnh. Chỉ lâu lâu mới có một cảnh thật tàn nhẫn, hoặc một biến cố kỳ quái, chúng tôi mới chú ý tới một xác chết riêng lẻ, tâm hồn như bị một cú xốc, mới để ý tới ý nghĩa nhân tính của nó.

Trên hết là số phận của trẻ em, gây cho tột ý nghĩa trời đất thật bất công, có thể làm chúng tôi rơi nước mắt. Bà Challenger đã khóc thật sự. Một hàng dài học sinh, nằm dọc đường dẫn tới một trường tiểu học lớn. Các em được các thầy cô trong cơn hoảng hốt cho về. Đang trên đường về, các em bị ether độc chụp xuống. Nhà nào cũng có những người chết gục ở cửa sổ, vì họ mở ra khi bị ngộp. Không cửa sổ nào không có cái bộ mặt cười, mắt mở thao láo vắt ngang. Vào lúc thiếu oxy, mọi người đều nhào ra cửa sổ, nhưng chỉ có chúng tôi có oxy chuẩn bị trước. Trên các lối ra khỏi nhà cũng đầy xác người, nhiều người ngã trên đường xe. Cũng may là Đức ông John lái xe rất giỏi, vì không dễ gì qua được, mà không cán phải xác người. Qua các làng hay thị xã, chúng tôi chỉ có thể đi với tốc độ của người đi bộ. Tôi nhớ, hai ba lần trước cổng một trường học ở Tonbridge, chúng tôi đã phải xuống xe, khiêng xác người chắn đường lên hè nhà.

Một vài hình ảnh nhỏ, rõ nét in đậm trong tâm khảm tôi, trong toàn cảnh chết chóc rộng lớn trên xa lộ Sussex - Kent. Một trong những hình ảnh đó là một chiếc xe láng bóng đậu trước quán trọ làng Southborough có lẽ những người trong xe mới đi chơi ở Brighton hay Eastbourne về. Ba phụ nữ trẻ đẹp ăn mặc rất vui nhộn, nhưng thanh lịch. Một bà còn ôm con chó Bắc Kinh trong lòng. Cùng đi trong nhóm là một ông già quạu cọ và một thanh niên lịch lãm, đầu mẩu điếu thuốc tắt ngủm ở chỗ hai ngón tay đeo găng kẹp lại. Chắc họ đã chết tức thời, nên giữ nguyên dáng điệu phút chót của lúc sống. Chỉ ông già giựt cổ áo ra để thở, còn các người khác chết ở tư thế tự nhiên, như đang ngủ vậy. Một bên xe, cậu bồi bàn nằm co quắp trên các bậc thềm vào quán, cạnh cậu là một cái khay và những mảnh cốc vỡ. Ở bên khác của xe, là hai người ăn mày, quần áo rách rưới, nằm ở nơi ngã xuống. Người đàn ông vẫn xòe bàn tay ra ở tư thế xin tiền. Trong phút chốc, ether độc đã đặt những nhà quý phái, cậu bồi và vợ chồng người ăn mày ở tư thế bình đẳng cùng trở thành tiêu bản những xác người bất động.

Tột nhớ một cảnh độc đáo khác, cách Sevenoaks về phía London vài dặm. Có một tu viện lớn trên đồi, phía tay trái, lối lên đồi dốc, viền hai hàng cây xanh rợp bóng. Ở đầu trên của dốc, hàng trăm em bé đang quỳ trong hàng ở tư thế đọc kinh, hàng trên cùng là các nữ tu giáo viên. Trên cao nhất là một nữ tu quay mặt về phía họ, chúng tôi đoán là Mẹ Bề Trên. Khác với những người vừa đi chơi về ở trong xe, nhóm người này chắc chắn đã được báo trước tai họa, nên họ tổ chức chết đẹp, tập thể. Thầy, trò, hiệu trưởng tập hợp lại, cùng nhau học bài học cuối cùng.

Lúc này nghĩ lại cảnh uy nghiêm hãi hùng đó, tìm cách diễn tả cảm tưởng của chúng tôi lúc đó mà không ra, vì cứ nghĩ tới nó, đầu óc tôi lại bàng hoàng xúc động không nghĩ được gì. Nhưng có lẽ tốt hơn hết, là tôi chỉ mô tả lại những sự thực. Thấy cảnh đó, ngay cả Challengel và Summelee cũng chết lặng. Tôi chẳng nghe những người ở băng sau nói gì, lâu lâu chỉ nghe tiếng khóc thổn thức của bà Challenger.

Đức ông John phải tập trung lái xe ngoằn ngoèo giữa những đống xác chết trên xa lộ Lenvisham đi Old Kent. Tại đây, chúng tôi bị một cú xốc vừa bất thần vừa kinh ngạc. Trên cửa sổ một căn nhà ở góc ngã tư, một cánh tay dài khẳng khiu đưa ra, vẫy qua vẫy lại một cái khăn tay. Chẳng có cảnh chết chóc kỳ lạ nào làm chúng tôi đứng tim, rồi lại đập loạn xạ, cho bằng cái dấu hiệu của sự sống bất ngờ này. Đức ông John cho xe lên lề. Nhanh như chớp, chúng tôi xuyên qua tầng trệt, lên lầu hai, nơi có vẫy khăn. Một bà cụ ngồi trên ghế cạnh cửa sổ. Kế bên bà là chiếc ghế thứ hai có một chai oxy, nhỏ hơn, nhưng hình dáng giống hệt những chai oxy đã cứu chúng tôi. Bà cụ quay bộ mặt gầy gò, nhăn nheo, đeo kính lão, khi chúng tôi đang bu quanh cửa.

- Tôi sợ rằng người ta bỏ mặc mình tôi ở đây mãi mãi. Tôi bị phế tật, không cử động được.

Challenger trấn an bà:

- Thưa bà, rất may mà chúng tôi đi qua đây trông thấy.

- Tôi có một câu hỏi quan trọng muốn hỏi các ông xin các ông trả lời thành thật cho. Những biến cố này có ảnh hưởng gì đến cổ phần Hỏa Xa London - Tây Bắc không?

Nếu bà cụ không nghiêm trang đợi câu trả lời của chúng tôi, chúng tôi chắc đã phá ra cười rồi. Cụ Burston là một quả phụ, lợi tức của cụ chỉ gồm cổ tức của vài cổ phiếu mà cụ mua. Đời sống của cụ lên xuống theo giá cổ tức. Cụ cũng chẳng biết nhịp sống bên ngoài ra sao, trừ phi giá cổ phiếu của cụ tăng giảm mạnh. Chúng tôi cố gắng giải nghĩa cho cụ là tất cả tiền bạc trên thế gian này đều là của cụ, nhưng có lấy cũng chẳng dùng để làm gì được. Cụ không thể hiểu, đầu óc cụ không thể hấp thụ những tư tưởng mới, và cụ khóc sướt mướt vì cổ phiếu của cụ đã vô giá trị. Cụ rên rỉ: “Tôi chỉ có bấy nhiêu, nếu mất hết, tôi cũng sẽ chết mất thôi”.

Khi cụ còn đang than vãn, chúng tôi khám phá ra, tại sao một cây cỏ tàn tạ như cụ mà còn sống, trong khi những rừng cây cổ thụ lại chết - cụ là một phế nhân, lại bị bệnh suyễn. Bác sĩ cho cụ thở thường xuyên oxy qua bình. Chắc mỗi khi khó thở, cụ lại hít oxy thêm qua ống hít. Khi ether độc tràn đến, cụ hít thở trực tiếp oxy trong bình nên cụ sống sót. Chắc cụ đang ngủ thiếp đi và choàng thức dậy khi nghe còi xe của chúng tôi. Vì không thể chở cụ theo, và cụ có thể tự lực cánh sinh được vài ngày, nên chúng tôi hứa liên lạc thường xuyên với cụ. Chúng tôi từ giã cụ và cụ vẫn thương tiếc những cổ phiếu.

Chúng tôi đến bờ sông Thames, đường phố lại càng tắc nghẽn, những đống xác người càng kỳ cục, vất vả lắm chúng tôi mới qua được cầu London, lối lên cầu ở phía Midlesex bị kẹt xe, vì ai cũng muốn tiến lên trước. Một chiếc tàu thủy còn thắp đèn sáng choang, đậu dọc cầu cảng không khí đầy bụi khói, mùi cháy khét lẹt. Một cột khói dày đặc còn đang bốc lên ở phía tòa nhà Quốc Hội, nhưng từ đây, chúng tôi khó mà khẳng định là cơ sở nào cháy.

Thình lình, đức ông đậu xe lại và nêu nhận xét:

- Không biết các ông nghĩ sao, chứ tôi thấy đi về miền quê dễ chịu hơn ở trong thành phố. Cái thành phố London chết này ám ảnh tôi, khó chiu quá. Chúng ta đi vòng về Rotherfield đi.

Giáo sư Summelee cũng biểu đồng tình:

- Thú thật, tôi không hy vọng gặp được những gì ở đây.

Challenger cũng còn tiếng bằng một giọng oang oang lạ thường, trong khung cảnh thê lương tĩnh mịch này.

- Đồng thời, ta khó mà chấp nhận được, trong một thành phố 7 triệu dân như London, lại chỉ có một bà cụ, hoặc vì có thể có cấu tạo đặc biệt, hoặc vì ngẫu nhiên của nghề nghiệp, đã xoay sở được để sống còn.

- Nếu còn có người sống sót, làm cách nào liên lạc với họ, anh George? - Vợ ông hỏi rất nhiệt tình. - Và em sẽ không trở về nhà trước khi các ông thử liên lạc với họ.

Chúng tôi ra khỏi xe và bỏ nó trên lề đường, len chân đi bộ giữa những xác người dày đặc lên phố Kinh Wiiliam, bước vào một vân phòng rộng của hãng bảo hiểm. Vì nó ở góc phố, nên hy vọng chúng tôi quan sát được nhiều hướng.

Chúng tôi lên cầu thang, băng qua một phòng rộng, có lẽ là phòng họp, vì có tám người trong tuổi còn ngồi chết gục xung quanh một cái bàn dài. Các cửa sổ cao của phòng đều mở. Chúng tôi bước ra ban công. Từ đây, chúng tôi thấy đường phố rải rác đầy xác chết, tỏa đi 5, 7 hướng. Ngay dưới chúng tôi, một đầu đường đen từ lề bên này sang lề bên kia, vì những mui xe taxi đen, đậu bất động sát bên nhau. Mọi hành khách, hay hầu hết đều thò đầu ra cửa sổ xe, cho thấy, vào phút chót, dân chúng hoảng hốt ai cũng muốn về nhà sớm ở ngoại ô. Lác đác, trong dòng xe taxi và xe nhà rẻ tiền, nổi bật lên những xe sang trọng, bảng đồng trang trí bóng loáng của các tài phiệt, bi chặn lại trong bức tường thành xe cộ kẹt cứng. Ngay trước mặt chúng tôi, có một cái xe sang như thế. Ông chủ nhoài nửa người ra cửa sổ, tay phải đeo đầy nhẫn kim cương, tay trái như đang giang ra, cho lệnh tài xế tìm mọi cách bứt ra khỏi đòng xe kẹt.

Lác đác, những chiếc xe buýt hai tầng, vươn cao như những hòn đảo, nhô lên biển xe bất động. Những khách ở tầng trên, nằm chết ôm nhau thành từng đám hay nằm trong lòng nhau, như những hình người đồ chơi trẻ em trong nhà trẻ. Trên trụ đèn điều khiển giao thông, một cảnh sát to khỏe, đứng dựa vào trụ với dáng vẻ tự nhiên, đến nổi ta khó mà bảo là ông ta không còn sống. Dưới chân ông là một cậu bé bán báo, nằm co quắp với chồng báo bên cạnh. Một chiếc xe ngựa chở báo bị kẹt cứng sát lề đường, chúng tôi còn đọc được cái đầu đề, in chữ lớn đen trên nền vàng “Quang cảnh ở Lord, trận đấu liên quận bị gián đoạn”.

Đây có thể là những tờ báo in gần đây nhất, vì trên những bảng quảng cáo quanh xe, còn có những đầu đề: “phải chăng đã đến ngày tận thế”, “Lời cảnh báo của nhà bác học vĩ đại”, và đề khác: “Liệu ông Challenger có đúng không? Những tin đồn đen tối”.

Challenger chỉ cho bà vợ thấy cái tiêu đề này, vì nó ngang tầm mắt, như một tấm biểu ngữ, căng ngang trước mặt đám đông, tôi thấy ưỡn ngực ra và vuốt ve chòm râu, thích chí và tự mãn, cái đầu óc phức tạp của nhà khoa học này, có thể nghĩ rằng dân London chết, vẫn nghĩ đến tên ông và lời cảnh báo của ông. Cảm xúc ưng ý của ông rõ rệt đến nỗi, đồng nghiệp của ông phải ghen tức lên phê bình.

- Trong ánh hào quang đến phút cuối cùng, giáo sư Challenger.

- Vâng, có vẻ như vậy, - Challenger đắc ý trả lời. Nhìn những ngả đường đầy xác người, im lìm âm đạm, ông tiếp: - Nấn ná ở London thêm cũng chẳng ích gì, tôi đề nghị chúng ta trở về Rotherfield ngay. Chúng ta sẽ bàn chương trình hành động trong những năm trước mắt sao cho có lợi nhất.

Tôi thuật thêm một cảnh mủi lòng trong London thê lương này, vừa trở về trong ký ức tôi. Đi ngang nhà thờ St Mary’s, chúng tôi thoáng thấy cảnh bên trong. Cẩn thận bước tránh những xác phủ phục trên bậc tam cấp, đẩy hai cánh cửa bật, bước vào. Thật là một cảnh lạ! Nhà thờ đông nghẹt người chết, ở mọi tư thế quỳ khiêm nhường cầu khẩn. Và phút kinh hoàng cuối cùng, họ đã phải đối mặt với thực tế của kiếp nhân sinh, cái bất lực vào phút chót. Họ đã tìm vào cái nhà thờ cổ này, lâu nay đă không còn tổ chức lễ hay cầu nguyện gì. Họ quỳ sát vào nhau chặt như nêm cối. Có người hoảng hốt vẫn còn đội mũ. Trên bục giảng là một thanh niên, đứng đối diện với họ. Có lẽ anh đang động viên cộng đoàn hãy vững tin, giọng mình về với Chúa. Rồi cùng chiu chung số phận với mọi người. Anh ấy gục xuống mặt bục, hai tay ôm choàng hai thành bên, trông giống hệt một chai rượu ngâm trong xô đá. Thật là cơn ác mộng kinh hoàng, trong các nhà thờ cổ đá xám, hoang phế bụi bặm, những hàng người tinh thần đau khổ tột cùng, trong bóng tối mờ mờ, tĩnh lặng thinh không. Chúng tôi đi nhón gót lặng lẽ, lâu lâu chỉ dám thì thào với nhau.

Thình lình tôi nảy ra một ý nghĩ. Ở một góc cuối nhà thờ, phía sau chén đá đựng nước phép. Trong một hốc lôm sâu, tôi thấy lủng lẳng cái đầu dây chuông. Tại sao ta không kéo chuông để tập họp những người sống sót ở đây? Tôi bước vào, nắm cái đầu dây quấn vải và kéo. Ngạc nhiên quá! bây giờ tôi mới thấy kéo chuông không phải dễ! Đức ông John vào giúp tôi một tay. Ông hào hứng cởi áo ra, và nói:

- Trời ơi! ông bạn trẻ có một ý tuyệt quá! Để tôi nắm chắc đã, rồi chúng ta sẽ kéo được nó kêu thôi.

Với sức của hai chúng tôi, chuông chỉ hơi nhúc nhích. Mãi tới khi cả Challenger lẫn Summelee cùng đè cả thân mình lên dây với chúng tôi, chuông mới chịu đổ bing boong trên đầu. Bây giờ tôi mới cảm nhận được cái chuông đã lớn, cái lưỡi chuông còn nặng đáng nể hơn. Đó đập vào thành chuông những cú làm rung rinh cả mặt đất, không khí bị âm thanh khuấy động, đến nỗi tối cảm thấy được áp lực lên da.

Tiếng chuông đã vang vọng khắp nơi, như một thông điệp thình liên đới người với người, kêu gọi những người còn sống sót đến đây, cùng với tiếng chuông cầu nguyện cho những vong hồn đi trước. Tiếng chuông vàng rền vang như sấm, làm lòng chúng tôi rộn rã một niềm vui. Chúng tôi để toàn tâm toàn ý đến việc mình làm. Chúng tôi co hai chân lên mỗi khi chuông ở vị trí thẳng đứng, dây chuông được kéo lên cao nhất; ngay sau đó, cùng kéo xuống hết sức mình.

Challenger bám ở vị trí thấp nhất, dùng hết sức lực và toàn thể trọng lượng thân mình. Ông chồm lên, hụp xuống như một con cóc thần dị dạng. Mỗi lần kéo, ông đều hò uôm uôm. Nếu có một nghệ sĩ nhiếp ảnh, chụp giùm một bức 4 nhà thám hiểm này thì ý nghĩa quá. Bốn người đã cùng sát cánh trong biết bao tình huống nguy cấp, nay lại được số phận chọn lựa, để chứng kiến giờ phút nghiêm trọng này.

Sau nửa giờ kéo chuông, thân thể chúng tôi ướt đẫm mồ hôi. Hai cánh tay và lưng mỏi nhừ vì đã gắng sức quá. Chúng tôi bước ra cổng nhà thờ, trông ngóng nhìn cả hai đầu đường đông nghẹt nhưng im lìm, vì chỉ toàn là xác chết. Không một tiếng động, không một di chuyển, đáp ứng những hồi chuông triệu tập của chúng tôi.

Tôi buồn bã lên tiếng:

- Không hy vọng gì đâu. Chẳng còn ai sống cả.

- Chúng ta chẳng làm gì được nữa rồi. Anh George ơi, chúng ta về Rotherfield đi. Còn ở trong cái thành phố tĩnh mịch ma quái này một lúc nữa, chắc em điên lên mất.

Chúng tôi lẳng lặng vào xe, chẳng ai nói một lời. Đức ông John de xe lại, rồi quay đầu về hướng nam. Một chương lịch sử loài người đã gấp lại, chương kế tiếp sẽ mở ra, mà chúng tôi chẳng thể đoán được sẽ có những biến cố nào.



________Hết chương 5________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:06:21 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6 (Chương kết) : CUỘC TỈNH THỨC VĨ ĐẠI

Và đây là đoạn cuối của biến cố phi thường này, có tầm quan trọng bao trùm, chẳng những đến đời sống cá nhân của chúng tôi, mà còn đến lịch sử toàn nhân loại. Cũng như tôi đã nói ở đầu thiên ký sự này, khi biến cố lịch sử này được ghi lại, nó sẽ nổi bật lên như một ngọn núi cao ngất giữa những quả đồi thấp lè tè. Thế hệ chúng ta đă có may mắn đặc biệt, được trải qua biến cố ly kỳ này. Hậu quả của nó - qua vụ kinh hoàng này, con người sẽ còn biết khiêm nhường, tôn kính được bao lâu nữa - chỉ có thời gian mới trả lời được. Có thể nói mọi sự sẽ không còn như trước nữa.

Chưa bao giờ con người cảm thấy được mình bất lực và dốt nát đến như vậy, chưa bao giờ con người cảm thấy được luôn có một bàn tay nâng đỡ họ, chỉ khi bàn tay đó như muốn nắm lại, bóp nát họ, họ mới thấy. Cái chết luôn rình rập chúng ta và đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Chính cái bóng tử thần luôn lảng vảng, khiến ta có ý thức bổn phận, biết điều độ chừng mực và lẽ sống ở trên đời, có ý thức tu thân và thăng tiến. Chính công việc sinh tử của Nam Tào, Bắc Đẩu mới làm cho xã hội loài người văn minh công bằng hơn.

Sự thực này cao hơn mọi tôn giáo, mọi triết thuyết. Nó làm thay đổi nhân sinh quan của chúng ta, mức trung dung quân bình của ta. Nó chứng minh rô ràng chúng ta chả là gì, một sinh vật phù du sinh ký tử quy, luôn sống trong bể khổ và do thiên lý định đoạt.

Nếu ai cũng hiểu được điều này nghiêm túc hơn; thớt chắc chắn thế giới ta đang sống sẽ dễ chịu hơn. Ai cũng đă thấy rằng các cuộc vui giải trí điều độ hơn, tự chế hơn của chúng ta ngày nay, có chiều sâu và ý nhị hơn những cuộc vui ồn ào của một thời gần đây. Họ sống vất vả nhưng trống rỗng, trong những buổi ghé thăm nhau chẳng có mục đích gì làm khổ nhau phải tiếp, trong những bữa tiệc cầu kỳ và kiểu cách rất nhàm chán. Bây giờ ta đă biết tìm những thú vui lành mạnh và thoải mái trong thú đọc sách, nghe nhạc, lâu lâu nghé thăm thân tộc, bạn bè. Càng vui vẻ khỏe mạnh, ta lại càng làm giàu nhanh, dù ta có phải đóng thuế nhiều hơn, nhưng chính phủ đã dùng để tăng mức sống chung của dân đảo quốc này.

Người ta vẫn chưa thống nhất được thời điểm mọi người hồi sinh. Nhưng mọi người đều đồng ý là, ngoài việc các đồng hồ chỉ giờ khác nhau, đặc tính của mỗi địa phương có ảnh hưởng đến tác dụng của ether độc. Nghĩa là ở mỗi khu, người ta tỉnh thức cùng một lúc. Nhiều người nhìn thấy Big Ben trên khắp London lúc đó chỉ 6 giờ 10. Nhà thiên văn Hoàng Gia đặt lại giờ kinh tuyến gốc Greenwich lúc 6 giờ 12. Mặt khác, Laird Johnson, một nhà thiên văn tiếng tăm ở East Anglia, ghi nhận lúc mọi người tỉnh dậy là 6 giờ 20. Ở đảo Hebrides, thức tỉnh muộn hơn: 7 giờ 00. Phần chúng tôi, ngồi trong phòng làm việc của Challenger, cái đồng hồ đo giờ thí nghiệm rất chính xác nằm ngay trước mặt tôi. Lúc đó là 6 giờ 15.

Tâm trạng chán nản đang đè nặng tâm hồn tôi. Ấn tượng chồng chất do các cảnh hãi hùng tôi thấy trong chuyến đi vào London ám ảnh tôi. Tôi khỏe như vâm, thân thể tràn đầy sức sống, thế mà tôi lại lạc vào cơn lạc thần này, đầu óc cứ mụ ra. Tôi có khả năng của dân lreland, có thể nhìn ra những nét hài hước trong bất cứ hoàn cảnh đen tối nào. Cơn hôn ám chụp lấy tôi không lơi lỏng khiến tôi phát hoảng. Tôi ngồi cạnh cửa sổ, hai tay đỡ cằm, chìm đắm trong hoàn cảnh khốn khổ của chúng tôi, trong khi mọi người đang ở tầng dưới bàn chương trình tương lai. Đầu tiên tôi tự hỏi chúng tôi có nên tiếp tục sống lạc loài không? Chúng tôi có thể sinh tồn trong một thế giới chết không. Như trong vật lý, vật thể lớn bao giờ cũng hút vật nhỏ về phía mình, liệu chúng tôi có thể bị cả bộ phận nhân loại đã đi vào cõi vô thức vĩnh hằng thu hút chúng tôi về cõi ấy với họ mà không thể cưỡng lại được không? Chúng tôi về với họ bằng cách nào đây? Ether độc có thể trở lại không? Hoặc chúng tôi sê chết vì chất phân rã của vũ trụ, vô hình nhưng độc hại. sau cùng là chính hoàn cảnh lạc loài, bi đát của chúng tôi sẽ là áp lực lên tâm trí chúng tôi đến độ không chịu nổi và hóa điên.

Tôi đang suy nghĩ về cái tư tưởng chết người này, một tiếng động nhẹ làm tôi ngước nhìn ra con đường đồi: cái xe ngựa cũ đang bò lên dốc! Đồng thời tôi cũng nghe văng vẳng tiếng chim hót, tiếng ái ho dưới nhà và trong cảnh vật đã có sự sống chuyển động, sinh hoạt. Chính cái con ngựa kéo xe già yếu hết sức lực thu hút chú ý của tôi. Tuy chậm chạp, nhưng con ngựa leo dốc nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi liếc sang người đánh xe ngồi chễm chệ trên ghế trước xe, người thanh niên trong xe đang sống động chỉ trỏ hướng đi. Không còn gì nghi ngờ nữa, họ đang sống và linh hoạt.

Mọi người đã sống lại! Tất cả sự việc chúng tội thấy, chỉ là ảo giác thôi sao. Có thể nào quan niệm được chuyện ether gây độc cho địa cầu chỉ là một cơn mơ kỳ lạ? Vào lúc mới bàng hoàng, cái đầu óc thảng thốt của tôi đã sẵn sàng tin như vậy. Tôi cúi xuống, bàn tay tôi còn những mụn phỏng rộp vì kéo chuông. Đúng là đã có ether độc làm cho mọi người mê man. Rồi bây giờ, cả thế giới lại sống lại như cơn triều dâng sự sống. Tôi quét mắt trên toàn cảnh trước mắt, nhìn tứ phía. Và lạ chưa, ngay trong cái lùm cây trong sân golf có người sinh hoạt. Đó là những người chơi golf. Họ lại tiếp tục ván chơi dang dở sao? Vâng, đúng vậy, một người vừa quất một banh qua chướng ngại. Nhóm khác trên sân cỏ đang thận trọng đẩy nhẹ banh vào lỗ. Những người gặt lúa đang từ từ tụ tập lại tiếp tục công việc tạm ngưng. Cô bảo mẫu phủi bụi trên màu áo em lớn rồi tiếp tục đẩy chiếc xe nôi lên đồi. Mọi người như không hề biết mình ngất xỉu mê man, chẳng để ý chuyện gì đã xảy ra, mà chỉ đơn giản là làm tiếp việc mình đang làm.

Tôi chạy xuống tầng trệt, cửa trước nhà đã mở lớn. Tôi nghe tiếng các bạn tôi đầy vẻ ngạc nhiên, đang chúc mừng trong vườn. Cả hai người nữ gia nhân và Austin đều sống lại Chúng tôi bắt tay nhau mà cười hồ hởi làm sao! Bà Challenger vui đến xúc động mạnh ôm hôn mọt người, trước khi ôm chầm lấy chồng sung sướng.

Đức ông John kinh ngạc nói lạc cả giọng:

- Làm sao tin được là họ ngủ thiếp đi! Thế là sao, Challenger, ông có tin là họ ngủ mê man, chân tay cứng đờ, hai mắt trợn trừng, cái miệng méo xệch như cười ngạo vậy không!

- Chỉ có thể nói là họ ở trong tình trạng ngủ rũ giữ nguyên thế - Challenger phát biểu. - Hiện tượng hiếm hoi này đã từng xảy ra trong quá khứ và bác sĩ luôn lầm bệnh nhân đă chết. Khi ngủ rũ, nhiệt độ hạ xuống, hô hấp biến mất, mạch tim không còn nhận ra. Thực sự họ đã chết, nhưng sau một thời gian họ lại sống lại.

Ông nhắm mắt lại như tập trung rồi nói nhỏ:

- Ngay cả những đầu óc uyên bác sâu sắc nhất, cũng không thể quan niệm được một trận dịch ngủ rũ trên toàn cầu như thế này.

Summelee nhận xét:

- Ông có thể gọi nó là ngủ rũ. Nhưng đó chỉ là một tên bệnh. Chúng ta chẳng biết gì về hậu quả của bệnh, nhất là chẳng biết gì về chất ether. Nhiều nhất ta chỉ nói được rằng ether độc có thể gây ra cái chết tạm thời thôi.

Austin đang ngồi bần thần trên bậc cửa xe, hai tay ôm đầu. Chính tiếng ho của ông tôi dã nghe thấy từ trên lầu. Giờ thì ông đang nói gì lẩm bẩm một mình và nhìn khắp xe một lượt.

- Lại cái thằng nhỏ to đầu. Cái gì nó cũng phá được.

- Có chuyện gì đó, Austin?

- Dầu trong xe chảy lênh láng. Đã có ai nghịch phá cái xe. Tôi đoán là thằng nhỏ làm vườn, thưa ông.

Đức ông John trông lấm lét vì lỗi của mình. Austin đứng dậy rồi nói tiếp:

- Không biết tôi bị làm sao ấy, chắc tôi bị lúc đang rửa xe. Dường như tôi ngã xuống bậc lên xe, nhưng tôi nhớ là không làm tuột dây đồng hồ đo dầu.



(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:07:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6 (tiếp)

Bằng vài câu ngắn gọn, tôi kể cho Austin nghe chuyện ông ấy gặp và cả thế giới. Cả chuyện dầu rỉ ra cũng được giải thích cho ông. Ông nghe chuyện có người lái xe ra London mà cả thành phố London ngủ rũ hết ông cũng chẳng tin. Tôi còn nhớ, nghe xong chuyện, ông hỏi:

- Ông có đến Ngân hàng nước Anh không?

- Có ông Austin ạ.

- Vẫn còn hàng triệu triệu trong đó và mọi người ngủ rũ hết?

- Đúng như thế.

- Thế mà tôi không có ở đó! - Ông rên lên tiếc rẻ rồi buồn bã quay về với cái vòi nước rửa xe.

Có tiếng bánh xe nghiến trên sỏi. Chiếc xe ngựa cổ đã đậu ở trước nhà ông Challenger. Người khách trẻ ngồi sau xuống xe. Một lúc sau, người tớ gái quần áo xốc xếch, nét mặt ngơ ngàng như thể cô vừa bị đánh thức dậy, bưng lên một cái đĩa có danh thiếp. Giáo sư Challenger xịt mũi khin khịt khi nhìn thấy danh thiếp, râu tóc như dựng ngược lên vì giận. Ông làu bàu:

- Một nhà báo! - nhưng sau đó ông gượng cười tiếp: - Dẫu sao, cả thế giới này muốn biết ý kiến tôi về biến cố này, cũng là tự nhiên thôi.

Summelee xen vào:

- Không phải ông ta đến hỏi cảm tưởng của ông về biến cố này đâu, vì ông ta đã ngồi trên xe ngựa lên đồi trước khi thảm họa xảy ra.

Tôi ngó tấm danh thiếp: “James Baxter: phóng viên thường trú ở London, báo New York Monitor”.

- Ông nên tiếp ông ta.

- Không.

- Ôi, ông George! Ông nên nhân ái và quan tâm tới người khác một chút. Chắc chắn ông có nhiều ý kiến khi chúng ta thoát được thảm họa.

Challenger tặc lưỡi và lắc lư cái đầu to và bướng bỉnh.

- Ông ấy là giòng đã bị nhiễm độc, đúng không, Malone. Một giống cỏ dại của kỷ nguyên văn minh mới, một công cụ cho bọn chuyên gia rởm trong mọi ngành. Bọn họ có nói tốt cho tôi bao giờ đâu.

Tôi đỡ lời:

- Thế giáo sư có nói tốt về họ bao giờ không? Thôi ông ạ. ông ta là khách đã lặn lội đến đây phỏng vấn ông. Xin ông đừng nặng lời với ông ta.

Ông nói nhấm nhẳng:

- Được, được. Nhưng ông đi với tôi và nói thay tôi. Tôi đã có lập trường từ trước, không để họ xen vào cuộc sống riêng tư của tôi.

Ông vừa Iẩm bẩm vừa bước thình thịch sau tôi, như một con chó giữ nhà bị nạt cho im.

Chàng phóng viên Mỹ bảnh bao lấy sổ tay ra và nhập đề ngay.

- Thưa Ngài, tôi xuống đây, vì đồng bào Mỹ của tôi rất mong mỏi được nghe ý ông về thảm họa sắp chụp lên thế giới.

Challenger nhấm nhẳng trả lời:

- Lúc này tôi chẳng còn thấy hiểm họa nào đang đe dọa thế giới cả.

Ông phóng viên nhìn ông hơi ngạc nhiên.

- Thưa Ngài, tôi muốn hỏi về trái đất có thể quay vào một vành đai ether độc.

- Thật sự lúc này tôi không lo có một hiểm họa như vậy.

Ông phóng viên thật sự bối rối ngỡ ngàng.

- Ngài có phải là giáo sư Challenger không ạ?

- Thưa ông đúng, tôi là Challenger.

- Thật tôi không hiểu, thưa ngài. Sao ngài lại có thể nói là bây giờ trái đất không có hiểm họa nào? Tôi muốn nhắc đến lá thư của giáo sư đăng trên tờ London Times sáng nay ạ.

Bây giờ thì đến lượt Challenger kinh ngạc.

- Sáng nay? Sáng nay không có tờ London Times nào được phát hành cả.

- Thưa Ngài, có ạ. - Ông nhà báo Mỹ nhẹ nhàng đính chính, - nó là một nhật báo mà, thưa Ngài.

Ông lôi một tờ báo ở túi trong ra.

- Thưa Ngài tôi muốn nói tới bức thư này ạ.

Challenger tặc lưỡi, xoa tay rồi nói:

- Tôi bắt đầu hiểu ra rồi Vậy là ông đọc lá thư này sáng nay?

- Thưa Ngài vâng.

- Và xuống phỏng vấn tôi ngay?

- Vâng ạ.

- Ông có thấy gì lạ trên đường xuống đây không?

- Vâng, nói thật, đồng bào của Ngài rất ân cần và nhiều tình người hơn trước đây. Người vác hành lý sáng nay đã kể cho tôi một câu chuyện vui. Và chuyện đó thật mới lạ với tôi ở đất nước này.

- Còn gì lạ nữa không?

- Không ạ. Sao ngài lại hỏi vậy?

- Được, ông rời ga Victoria lúc mấy giờ?

Ông Mỹ mỉm cười:

- Ồ, thật là trái khoáy, tôi đến đây phỏng vấn ngài lại bị ngài phỏng vấn lại.

- Tôi chỉ vô tình thấy lạ thôi. Ông có nhớ giờ không?

- Có ạ. Lúc 12 giờ 30 phút.

-  Và ông đến ga này lúc nào?

- 2 giờ 15 phút ạ.

- Và ông thuê xe ngựa đến nhà tôi?

- Vâng, đúng vậy.

- Ông nghĩ rằng từ đây ra ga bao xa?

- Thưa ngài, nhiều lắm là hai dặm.

- Ông nghĩ là ông đã đi mất bao lâu?

- Dạ, khoảng nửa giờ, với ông xà ích ho hen.

- Tức là lúc 3 giờ?

- Vâng khoảng đó.

- Ông coi đồng hồ đi.

Người Mỹ coi giờ, rồi ngước nhìn chúng tôi kinh ngạc.

- Trời ơi! Kim giờ chỉ địa rồi. Con ngựa này phá kỷ lục chạy chậm rồi. Mặt trời cũng đã rất thấp. Sao vậy kìa. Chắc đã có chuyện gì kỳ cục xảy ra mà tôi không hiểu.

- Ông không nhớ ra chuyện gì bất thường khi ông lên đồi à?

- Thưa ngài, tôi nhớ là có một lúc tôi buồn ngủ kinh khủng. Tôi có bảo người đánh xe cái gì đó, nhưng không làm sao cho ông ta hiểu được. Tôi cho là vì trời nóng, tôi cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc. Vậy thôi.

Challenger nói với tôi:

- Như vậy là cả nhân loại cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc, và rồi chẳng ai ý thức được chuyện gì đã xảy ra. Khi tỉnh dậy mọi người lại thản nhiên làm tiếp công việc đang làm. Giống hệt như Austin lại cầm lấy vòi nước rửa xe và những người chơi golf tiếp tục cho hết vòng. Ông chủ bút của ông, Malone, lại lo sắp xếp bài cho số báo kế tiếp. Rồi ông sẽ rất đỗi ngạc nhiên khi thấy thiếu mất một số báo. Vâng, ông bạn trẻ ạ, - ông thật tình vui vẻ nói với nhà báo Mỹ, - ông sẽ thấy thích thú khi biết rằng trái đất của chúng ta đã trôi nổi qua một dòng ether độc uốn lượn như dòng Gulf Stream trong đại dương ether của vũ trụ. Để đỡ rắc rối sau này, ông cũng nên ghi nhớ hôm nay không còn thứ Sáu, ngày 27 tháng 8, mà là thứ Bảy ngày 28 tháng 8. Và ông đã ngồi bất tỉnh trong xe ngựa hai mươi tám giờ, trên đồi Rotherfield.

Cũng như ông bạn đồng nghiệp Mỹ của tôi nói “xin chấm d ứt cuộc phỏng vấn ở đây,” tôi cũng chấm dứt thiên ký thuật luôn. Và quí vị cũng đã thấy phóng sự của tôi đầy đủ hơn và chi tiết hơn, đăng trên số báo ngày thứ Hai của tờ Dai ly Gazette, một bài tường thuật được mọi người công nhận là bài báo xuất sắc nhất của mọi thời. Tờ báo hôm đó đã bán được không ít hơn ba triệu rưỡi bản. Trên tường văn phòng tôi tôi còn đóng khung những tiêu đề vinh hạnh đó:

Thế giới bị ngất xỉu hai mươi tám giờ.

Biến cố vô tiền khoáng hậu cho loài người.

Một trải nghiệm độc đáo.

Một phóng viên của chúng tôi đã thoát hiểm.

Một phóng sự ly kỳ, hồi hộp.

Một phòng kín được cung cấp oxy.

Chuyến xe lạ lùng.

London, thành phố chết

Bổ sung một trang lịch sử đã thiếu

Đại hỏa hoạn và tổn thất nhân mạng

Liệu có còn bị ngộ độc nữa không?

Dưới danh sách tiêu đề này là chín cột rưỡi ký sự xuất hiện lần đầu tiên và cũng là lần cuối, ghi lại lịch sử trái đất trong một ngày của một người duy nhất. Challenger và Summelee cùng hợp soạn một bài về khía cạnh khoa học của sự kiện, họ để mặc tôi viết tường thuật này. Thế là tôi cứ việc phóng bút. Nhưng thảm thương thay, viết được ký sự nổi tiếng này, là tôi đã lên đến đỉnh điểm sự nghiệp của một ký giả mất rồi!

Để chấm dứt ký thuật này, tôi không dùng lời lẽ gợi hình và thành tích cá nhân nữa, mà trích đoạn kết nổi tiếng, trong bài chính luận về sự kiện này, một bài mà những người đúng đắn, nghiêm túc đều muốn giữ làm tài liệu.

Tờ Times viết: “Nói rằng nhân loại rất yếu đuối trước những sức mạnh ẩn tàng trong tự nhiên quanh ta, là sự thật ai cũng biết rồi. Từ các tiên tân thời cựu ước đến các triết gia hiện đại, đều cũng đã gởi thông điệp này đến ta. Nhưng sự thực được lập đi lập lại nhiều quá, lại mất bớt hiệu quả thực tiễn và hợp thời. Một bài học, một kinh nghiệm cần phải đúng lúc, đúng chỗ. Chính nhờ thử thách khủng khiếp nhưng cứu độ chúng ta vừa trải qua, trí óc còn bàng hoàng vì bất chợt, tâm thần còn ê ẩm vì lại nhận thức được giới hạn và bất lực của chúng ta. Thế giới đã phải trả một giá kinh khủng về tính hiệu quả của giáo dục. Tuy chưa biết hết hậu quả của thảm họa này, những New York, Orleans, Brighton sụp đổ trong ngọn lửa, cũng đủ là một bi kịch trong lịch sử loài người. Khi các báo cáo về tai nạn hỏa xa và tàu bè được đúc kết, chắc ta sê có một tài liệu khủng khiếp. Tuy rằng đa số trưởng máy và lái tàu đã kịp thời tắt máy, ngắt lực kéo trước khi hôn mê. Những tổn thất về của cải và nhân mạng dù có cao đến đâu, chỉ trước đây ta mới quan tâm, ngày nay ta phải quan tâm hàng đầu đến những khả năng của vũ trụ. Phải quan tâm tới tai hại của tính tự mãn, phải hiểu rằng khía cạnh vật chất của con người rất mong manh,

dễ sụp đổ. Nghiêm cẩn và khiêm nhường phải là cơ sở cho các cảm xúc nhân tính ngày nay, ước gì đây là nén tảng mới để con người xây dựng một đền thờ tinh thần mới.



________Hết Vành đai khí độc________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:18:36 | Chỉ xem của tác giả
C. Tập truyện giả tưởng :

                                                                         01. Những hầm mộ mới
                                                                         02. Vị giáo sư của trường Lea House
                                                                         03. Sự việc xảy ra như thế nào ?
                                                                         04. Hồn ma hiện lên từ đáy biển
                                                                         05. Sự khủng khiếp giữa trời cao
                                                                         06. Vụ án B24
                                                                         07. Tên tử tù bất tử
                                                                         08. Câu chuyện về Sannox phu nhân
                                                                         09. Lô số 249
                                                                         10. Cuộc thí nghệm li kì tại Keinplatz
                                                                         11. Chiếc nhẫn giải thoát
                                                                         12. Hang Blue John
                                                                         13. Cái tháng máy
                                                                         14. Chiếc phễu bằng da
                                                                         15. Bàn tay nâu
                                                                         16. Con mèo Brasil
                                                                         17. Chơi với lửa
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:19:32 | Chỉ xem của tác giả
01. Những hầm mộ mới

- Hãy nói đi, anh Burger - Kennedy nói - Tôi rất thích được tiếp nhận những điều bí mật của anh...

Hai nhà khảo cổ trứ danh, cả hai đều là những nhà chuyên môn về thời cổ đại La Mã, đang ngồi trong căn phòng của Kennedy ở đường Corso, buổi tối trời lạnh lẽo. Họ đã kéo ghế bành của họ sát gần lại cái lò sưởi tồi tàn kiểu Ý, là thứ lò phun ra nhiều khói hơn là hơi nóng. Bên ngoài, dưới những vì sao trong sáng của mùa đông là thành phố La Mã hiện đại, dài dặc những cột đèn điện, những tiệm cà phê đèn sáng rực rỡ, những xe cộ chạy qua lại, một đám người đông đặc trên các hè phố. Nhưng ở bên trong căn phòng lộng lẫy của nhà khảo cổ trẻ tuổi và giàu có người Anh, thành phố La Mã cổ xưa đang trưng bày các kho tàng của nó. Trên các bức tường treo lủng lẳng những đồ trang sức đã nứt rạn hư hỏng. Những pho tượng cũ kỹ xám nhạt của những vị nguyên lão và những người lính, với những cái đầu hung bạo của họ được bày trong tất cả mọi xó xỉnh. Họ có vẻ rình rập những điều gì được nói ra trong căn phòng. Trên chiếc bàn kê giữa nhà, ở giữa một đống giấy tờ, những mảnh vỡ, những đồ trang trí linh tinh, người ta thấy nối bật lên sự tái tạo lừng danh của Kennedy về các nhà tắm của Caraculla, một sự tái tạo mà khi trưng bày ở Berlin đã gây nên rất nhiều sự quan tâm và thán phục. Những chiếc bình cổ hai quai được treo trên trần nhà. Nhưng món đồ lạc xoong chính cống được bày ra trên một tấm thảm đỏ Thổ Nhĩ Kỳ rất đẹp. Tất cả những đồ vật được quy tụ lại như vậy đều có một nguồn gốc chính xác không chê trách vào đâu được, đều rất hiếm thấy và đều có một giá trị vô kể. Thật sự thì Kennedy chỉ mới ngoài ba mươi tuổi, nhưng trong lãnh vực sưu khảo về ngành chuyên môn này anh đã đạt được sự lừng danh ở Âu châu. Ta cũng cần nói ngay rằng anh có một túi tiền khá lớn, việc này có thể tạo nên một trở ngại hiểm nghèo hay một lợi thế đáng kể trong cuộc chạy đua tới danh vọng. Thường khi Kennedy tự để mình xao lãng bởi những đam mê khoái lạc. Nhưng anh có một tinh thần sâu sắc, có khả năng thực hiện các nỗ lực lâu dài và tập trung, và các nỗ lực này thường được tiếp nối bởi những phản ứng đột khởi của cơ thể. Gương mặt đẹp đẽ, vầng trán thanh thản và xanh tái, cái mũi dữ dằn của anh có vẻ một nét phóng túng ở miệng anh tất cả đều biểu hiện khá rõ ràng sự dung hòa được thiết lập giữa sức mạnh và sự yếu mềm.

Người bạn của anh là Julius Burger thì lại là một kiếu người rất khác biệt. Người ta thấy một sự trộn lẫn kỳ lạ trong các nguồn gốc của anh. Là con của một người bố Đức và một người mẹ Ý, anh có được những đức tính mạnh mẽ của phương Bắc mà những phong cách sôi nổi hơn của miền Nam đã làm cho dịu bớt đi. Những ánh mắt màu xanh của dân Tenten làm sáng ngời bộ mặt đã hóa ra màu đồng vì sạm nắng. Những lọn tóc nâu bao quanh vầng trán vuông vắn. Không có râu, điều này làm tăng thêm nét mạnh mẽ và vững chắc của quai hàm. Kennedy thường nhận xét rằng nó giống như quai hàm người La Mã ở các pho tượng cùng với sức mạnh thô bạo của giống người Đức, lúc nào cũng nổi lên tính chất tế nhị của người Ý. Nhưng nụ cười chân thật và cái nhìn thẳng thắn đã đế cho mọi người hiểu rằng sự tế nhị đó không ảnh hưởng gì tới tính tình của anh. Về tuổi tác và danh vọng thì anh cũng ngang hàng với anh bạn người Anh, tuy nhiên cuộc sống và công việc của anh đã vấp phải nhiều khó khăn hơn. Mười hai năm trước đây anh đã tới Rome với tư cách một sinh viên nghèo khố, từ đó anh sống ở đó với một số tiền còm cõi mà trường đại học Born đã trợ cấp đế anh theo đuổi công cuộc sưu tầm một cách cực nhọc, chậm chạp, ngoan cường, với một sự bền bỉ và một sức mạnh hiếm có về tinh thần, anh đã từng bước một leo lên các bậc thang danh vọng. Hiện nay anh là hội viên của Viện Hàn lâm Berlin, và người ta có đủ lý lẽ để tin rằng chẳng chóng thì chầy anh sẽ được mời nhận một chân giảng dạy trong trường đại học lớn nhất nước Đức. Nhưng nếu chỉ nhằm vào một mục đích, trên bình diện khảo cổ học, anh có thể đạt tới cùng một trình độ cao như ông bạn người Anh, thì trên mọi mặt khác anh đã bị thua sút rô ràng. Không bao giờ anh xao lãng một phút giây trong việc học hỏi để trau dồi sự hào hoa phong nhã. Chỉ những khi nào nói về nghiệp vụ thì anh mới tỏ ra thực sự linh hoạt và có một tâm hồn. Ngoài ra anh thường trầm lặng, lúng túng, có một ý thức thái quá về những khiếm khuyết của mình, và anh chịu đựng một cách bực bội những chuyện nhỏ nhặt mà những người không có ý kiến gì để phát biếu thường gặp phải.

Tuy nhiên từ một vài năm này giữa hai đối thủ rất khác biệt nhau này, mối quan hệ đã được ráp nối; mối quan hệ có vẻ dần dà tiến tới tình bằng hữu. Không có gì đáng ngạc nhiên về việc đó cả: họ cảm thấy họ là những người duy nhất trong đám thanh niên đã có được đầy đủ các kiến thức và nhiệt tình để hiểu biết giá trị của nhau. Sự tương đồng về các mối quan tâm cũng như về việc nghiên cứu của họ càng làm cho họ gần gũi nhau hơn khi mà mỗi người đều bị lôi cuốn bởi sự hiểu biết của người kia. Rồi còn có một cái gì hơn nữa đã len lỏi vào mối giao tình của họ: Kennedy rất thích thú vì sự thành thực và giản dị của đối thủ trong khi ngược lại, Burger bị mê hoặc vì sự sinh động về tinh thần và sự khinh khoái về trí tuệ là những thứ đã làm cho Kennedy trở thành con người thời thượng của xã hội Rome. Tôi cố ý nói chữ “đã làm”, vì hiện lúc này thì anh thanh niên người Anh đang phải chịu một hình thức phóng trục nào đó. Một chuyện tình mà những chi tiết không bao giờ dược biết tới đầy đủ đã phát lộ ra một sự thiếu can đảm và ngay cả một sự nhẫn tâm mà nhiều bè bạn của anh cho là đáng ghét, nhưng trong các giới nghệ sĩ và sinh viên mà anh thường thích lui tới thì các tiêu chuẩn về danh dự không quá khắc khe đối với những chuyện như vậy: sự tò mò và lòng ghen tị ở nơi đó mạnh hơn là sự chê trách.

- Hãy nói đi, Burger!

Kennedy vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào bộ mặt trầm tĩnh của người bạn.

- Tôi rất thích dược tiếp nhận những điều thầm kín của anh.

Anh vừa nói vừa vung vẩy bàn tay về phía một tấm thảm trên tấm thảm có một trong những cái giỏ mây để đựng hoa quả, những cái giỏ dài và nông lòng, rất thông dụng ở xứ Campanic. Và cái giỏ chứa đầy những hòn đá có chạm trổ, những đồ khảm, những tờ giấy bằng vỏ cây rách nát, những đồ vật kim loại han rỉ. Một người không ở trong nghề chắc sẽ cho rằng những món đồ này vừa từ chợ bán đồ lạc xoong tới. Nhưng một nhà chuyên môn sẽ nhận ra ngay rằng đây là những đồ quý hiếm có một không hai. Trong cái giỏ mây này có những thứ để thay thế một mắt xích bị thiếu trong chuỗi xích tượng trưng cho sự phát triển về mặt xã hội của loài người. Chính là anh chàng người Đức đã mang những món quý hiếm này vào phòng của anh chàng người Anh; cặp mắt của Kennedy sáng lên một cách nôn nóng.

- Tôi không muốn là kẻ trông chuyện, mà cũng không muốn can thiệp vào việc tìm kiếm kho tàng của anh, - anh nói tiếp trong khi Burger châm một điếu xì gà, - thật tình tôi rất thích được nghe anh nói? Chắc là anh đã phát hiện ra một điều gì rất quan trọng anh sẽ làm đảo lộn tất cả Âu châu?

- Mỗi nhà khảo cổ học ở nơi đây đều có hàng triệu các thứ vụn vặt lẻ tẻ này? - Anh chàng người Đức trả lời, - nó có nhiều đến nỗi hàng chục nhà bác học sẽ có thể bỏ ra hết cả cuộc đời họ để nghiên cứu chúng và tạo ra một danh vọng vừng bền như “lâu đài” Saint Ange vậy?

Kennedy đứng lặng mải mê suy nghĩ, những nếp nhăn hằn lên trên trán. Anh lấy ngón tay vuốt ve chòm râu vàng hoe. Sau đó anh nói:

- Anh đã giấu đầu hở đuôi rồi, anh Burger ạ! Những lời nói của anh chỉ thích hợp với một giả thuyết duy nhất? Anh đã khám phá ra những hầm mộ mới.

- Tôi cũng nghĩ là anh sẽ đi tới kết luận này ngay khi vừa nhìn thấy bộ sưu tập của tôi.

- Nghĩa là cái nhìn thoáng qua của tôi đã khiến cho tôi đưa ra giả thuyết; nhưng lời nhận xét của anh đã biến giả thuyết của tôi thành sự xác quyết. Ngoài các hầm mộ ra không có nơi nào lại có thể chứa đựng được một số lượng di chỉ, tàn tích như vậy.

- Đồng ý! Việc này không có gì là bí ẩn cả... Tôi đã tìm thấy những hầm mộ mới.

- Ở chỗ nào vậy?

- À, anh bạn Kennedy thân mến, đó là điều bí mật của tôi! Tôi chỉ cần nói với anh rằng địa điểm của chúng khó tin được đến nỗi không có cơ may trong một phần triệu lần cho một anh chàng hiếu kỳ nào khác dòm ngó tới. Chúng thuộc vào một thời đại khác hẳn mọi thời đại mà ta đã biết; chúng đã được dành làm nơi chôn cất những tín đồ Cơ đốc lừng danh nhất; do đó những tàn tích và di chỉ ở đó tuyệt đối không giống mọi thứ đã được phát hiện cho tới nay. Anh bạn ạ, nếu tôi không biết kiến thức và nghị lực của anh thì tôi đã không ngần ngại gì để nói tất cả với anh, với điều kiện là không được tiết lộ bí mật. Nhưng với cá tính của anh, tôi nghĩ là tốt hơn hết tôi phải soạn thảo bản tường trình của riêng tôi trước khi phải đương đầu với một cuộc ganh đua ghê gớm!

Kennedy yêu quý nghề nghiệp của anh với một nhiệt tình gần như một thứ bệnh hoạn (một lòng yêu thích mà anh luôn luôn tận tụy ngay ở giữa các trò vui nằm trong tầm tay một thanh niên giàu sang và ưa khoái lạc). Anh cũng có nhiều tham vọng; nhưng tham vọng của anh đi theo sau sự thích thú và quan tâm hoàn toàn trừu tượng mà anh dành cho tất cả những gì liên quan tới đời sống và lịch sử thành La Mã cổ xưa. Anh có một khát vọng điên cuồng muốn nhìn thấy cái hầm mộ mà người bạn vừa phát hiện.

Anh nói tiếp một cách rất nghiêm túc:

- Hãy nghe đây, anh bạn Burger! Ttôi bảo đảm với anh rằng anh có thể đặt lòng tin một cách mù quáng vào tôi Tôi sẽ không viết gì về những điều mà tôi thấy mà không có sự cho phép rõ ràng của anh. Tôi hiểu rõ các cảm nghĩ của anh. Chúng cũng hoàn toàn tự nhiên thôi. Nhưng anh sẽ tuyệt đối không có gì phải lo ngại về tôi cả. Ngược lại, nếu anh không tin tôi, tôi sẽ tự mình thực hiện một cuộc tìm tòi có hệ thống, và chắc chắn tôi sẽ tìm ra những hầm mộ mới của anh. Trong trường hợp này chắc chắn là tôi sẽ sử dụng chúng theo ý thích của tôi, vì tôi không phải là người chịu ơn của anh.

Burger cười mỉm với điếu xì gà trên môi. Anh nói:

- Anh bạn Kennedy ạ, tôi đã nhận thấy mỗi khi tôi cần một tin tức nào, anh không luôn luôn sẵn sàng cung cấp nó một cách mau lẹ như thế đâu?

- Có bao giờ tôi từ chối điều gì với anh không? Ngược lại, anh nhớ chứ: chính tôi là người đã trao cho anh tài liệu để viết bài nói về đền thờ các nữ thánh...

- Phải, nhưng việc đó không quan trọng như vậy! Nếu tôi hỏi anh về một vấn đề bí mật tôi phải tự hỏi là liệu anh có trả lời tôi không? Và những hầm mộ mới này đối với tôi là một vấn đề rất hệ trọng, và để trao đổi lại, tôi rất muốn được đón nhận ở anh một vài điều bí mật…

Chàng thanh niên người Anh nói:

- Tôi không hiểu anh muốn nói tới việc gì. Nhưng nếu anh có ngụ ý rằng anh sẽ chỉ trả lời câu hỏi của tôi về các hầm mộ mới đó với điều kiện là chính tôi phải trả lời mọi câu hỏi mà anh thích đặt ra, thì tôi xin nói với anh: đồng ý!

- Được lắm! - Burger nói và ngồi xuống cái ghế bành với sự khoan khoái, miệng nhả ra một vòng khói xanh lớn - Vậy thì hãy kể cho tôi nghe sự thật về các liên hệ của anh với cô Mary Saunderson đi.

Kennedy nhảy chồm lên và nén một cái nhìn giận dữ vào người bạn tàn nhẫn của mình, anh la lên:

- Thế này là nghĩa làm sao? Đó là một câu hỏi à? Có lẽ anh nghĩ là anh nói đùa hả? Chưa bao giờ anh có một câu nói đùa tệ hại hơn thế!

- Không, - Burger đáp lại với một vẻ thản nhiên. - Các chi tiết của vụ này làm tôi quan tâm. Tôi không hiểu biết nhiều về người đời, về phụ nữ, về đời sống thị thành, và về các loại chuyện này; một sự cố như vậy đã gây ra cho tôi sự mê hoặc của cái xa lạ. Anh, thì tôi đã biết anh. Cô ấy, tôi có biết mặt cô ấy... tôi cũng đã nói chuyện với cô ấy vài lần. Đúng thật là tôi rất muốn được nghe chính miệng anh nói ra câu chuyện chính xác về những gì đã xảy ra giữa anh và cô ấy.

- Tôi sẽ không nói với anh một tiếng nào về chuyện đó?

- Tùy ý anh. Ta hãy cho đó là một sự ngẫu hứng thôi. Tôi muốn xem rằng anh có chịu tiết lộ một điều bí mật cũng dễ dàng như tôi không, tùy anh, tôi sẽ nói ra điều bí mật của các hầm mộ của tôi. Anh muốn giữ kín điều bí mật của anh à? Được rồi? Tôi hãy chờ xem. Nhưng tại sao anh lại nghĩ rằng tôi sẽ không giữ điều bí mật của tôi?... Thôi, chuông nhà thờ Saint Jean đã điểm mười giờ: đã tới lúc tôi đi về đây.

- Không, hãy đợi một lát! - Kennedy nằn nì - Về phần anh thì sự ngẫu hứng này làm tôi kinh ngạc đấy, anh Burger ạ? Muốn biết một câu chuyện tình mà sự kết thúc đã xảy ra từ nhiều tháng rồi... Anh có biết người ta thường coi một gã đàn ông đi rêu rao những chuyện trăng hoa của mình là thế nào không? Như là một tên khốn nạn nhất trên đời.

- Tất nhiên là vậy! - anh chàng người Đức đồng ý và cầm lấy cái giỏ của mình. - Khi một người phạm vào lỗi để lộ chuyện riêng tư đối với một phụ nữ mà không ai nghi ngờ, thì con người đó đúng là hạng người mà anh đã nói. Nhưng hẳn anh đã biết là cả thành phố La Mã này đã nói về câu chuyện của anh. Do đó tôi thấy anh không làm điều gì sai trái với cô Mary Saunderson khi kể lại câu chuyện với tôi. Sau hết, tôi kính trọng các nỗi băn khoăn của anh... và xin chúc anh một đêm ngủ ngon.

- Hãy đợi đó ! Hãy đợi một lát!..

Kennedy đặt một bàn tay lên cánh tay Burger và nói thêm.

- Vụ những hầm mộ này làm tôi bị kích động quá; và tôi sẽ không buông tha anh một cách dễ dàng như vậy? Anh không muốn đặt một câu hói khác để trao đổi với tôi à? Một câu hỏi ít kỳ cục hơn có được không?

- Không, không có câu hỏi nào khác nữa! – Burger vừa trả lời vừa khoác cái giỏ vào tay. - Anh đã từ chối rồi; không nói tới chuyện đó nữa? Chắc chắn là anh hoàn toàn có quyền không nói. Và chắc chắn là tôi cũng hoàn toàn có quyền như vậy. Vậy thì một lần nữa, xin chào tạm biệt, anh bạn Kennedy thân mến!

Anh chàng người Anh nhìn theo Burger đi ra khỏi căn phòng. Anh chàng người Đức vừa đặt tay vào chốt cửa thì chủ nhà đã gọi anh ta lại với bộ điệu của một người cố làm vẻ tươi tỉnh trước một việc không thể tránh được.

- Anh bạn, dừng lại đi! Tôi thấy anh hoàn toàn lố bịch, nhưng vì là chuyện chẳng đặng đừng, tôi đành phải chịu theo các điều kiện của anh thôi, có phải không? Tôi rất ghét nói chuyện về một người đàn bà; tuy nhiên anh đã nói có lý; tất cả thành phố La Mã đều biết rồi và tôi tin rằng tôi sẽ không thể cho anh biết được thêm điều gì khi anh đã biết tất cả . Anh muốn biết điều gì nào?

Anh chàng người Đức thong thả đi lại gần lò sưởi, đặt cái giỏ xuống đất và ngồi phịch xuống cái ghế bành.

- Cho tôi xin một điếu xì gà nữa được không? - Anh hỏi - Cám ơn nhiều! Tôi không bao giờ hút thuốc lúc làm việc, nhưng tôi sẽ có lợi nhiều hơn trong một cuộc đàm luận khi tôi chịu ảnh hướng của thuốc lá. Bây giờ ta hãy trở lại chuyện cô thiếu nữ mà anh đã có một cuộc phiêu lưu nhỏ này. Rồi thì cô ta ra làm sao?

- Cô ấy vẫn sống với gia đình.

- À, ừ! Ở bên nước Anh hả

- Phải.

- Ở miền nào của nước Anh? Ở London hả?

- Không, ở Twickenham

- Anh bạn Kennedy thân mến, xin tha lỗi cho tính tò mò của tôi nhé? Xin hãy quy tính hiếu kỳ này vào sự kém hiểu biết của tôi về đời sống xã hội. Chắc chắn người ta vẫn cho là chuyện thường tình khi thuyết phục một cô thiếu nữ đi với bạn trong ba tuần lễ, và sau đó trả cô ta lại với gia đình cô ta ở... Anh đã gọi tên nói đó là gì nhỉ?



(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:20:19 | Chỉ xem của tác giả
01. Những hầm mộ mới (tiếp)

- Twickenham.
- Đúng là tên đó, Twickenham. Nhưng đây là những chuyện hoàn toàn mới lạ với tôi, và tôi không thể hình dung được anh đã hành xử như thế nào. Này nhé, nếu anh thật sự yêu cô thiếu nữ đó thì hẳn là tình yêu của anh đã không bốc thành hơi trong ba tuần lễ: do đó tôi suy diễn ra rằng anh chẳng yêu cô ta một chút nào. Nhưng nếu anh không yêu cô ta, thì gây ra vụ tai tiếng lớn này làm gì, vụ này làm anh phiền phức đôi chút, nhưng cô ấy thì phiền phức rất nhiều.
Kennedy buồn bã nhìn chằm chằm vào cái hốc đỏ lửa của lò sưởi.
- Đây đúng là một cách hợp lý để tóm tắt vấn đề. Tình yêu là một từ lớn để diễn dịch vô số kể các trạng thái của tình cảm. Tôi đã yêu cô ấy, và... Thực ra anh nói là anh đã gặp cô ấy mà. Vậy thì anh đã biết sự quyến rũ của cô ấy. Tuy nhiên, bây giờ nghĩ lại tôi thấy là tôi không bao giờ thật sự yêu cô ấy cả .
- Vậy thì, anh bạn Kennedy thân mến, tại sao anh lại hành xử như thế?
- Tôi nghĩ là vì sự đam mê phiêu lưu...
- Thế nào? Anh có sở thích về các chuyện phiêu lưu đến vậy cơ à?
- Không có những chuyện phiêu lưu thì tình sự biến động trong đời sống ở đâu? Tôi đã bắt đầu để ý tới cô ấy với dụng ý làm một cuộc phiêu lưu. Tôi đã săn bắn đủ mọi loại muông thú, nhưng không một con mồi nào quý bằng những người đàn bà đẹp, cộng thêm vào ý định đó là sự kích thích của nỗi khó khăn, bởi vì cô ta là bạn gái của phu nhân Emily Rood và muốn gặp riêng cô ta là một điều gần như bất khả... nhưng trên hết cả là trong tất cả các trở ngại làm tôi bị kích động, thì điều sau đây đã làm tôi quyết định: ngay từ buổi đầu chúng tôi gặp nhau, tôi đã nghe từ miệng cô ta nói ra là cô ta đã đính hôn.
- Lạy Chúa tôi! Đính hôn với ai?
- Cô ta không nói tên ai cả.
- Tôi tin rằng mọi người đều không biết tên người này? Thế là đối với anh, chính cái chi tiết này đã tô điểm thêm cho cuộc phiêu lưu phải không?
- Một chút hương liệu mà, anh hiểu chứ?
- Ồ, hãy tin tôi đi: tôi rất ngu dốt về nhưng điều đó!
- Anh bạn thân mến ơi, quả táo mà anh hái lén trên cây táo nhà hàng xóm có phải bao giờ cũng thơm ngon hơn quả táo rụng từ cây táo nhà anh xuống không?... Sau đó tôi phát hiện ra rằng tôi đã không hững hờ với cô ấy.
- Sao? Ngay gay là lập tức à?
- Ồ không! Sau ba tháng bao vây với đấy đủ hầm hố, mìn bẫy... nhưng cuối cùng tôi đã chinh phục được cô ấy. Cô ấy hiểu rằng tôi đang ly thân với vợ tôi và tôi không có thể kết thúc một cách bình thường mọi chuyện. Tuy thế cô ấy vẫn đến với tôi, và chúng tôi đã sống qua vài ngày kỳ thú.
- Thế còn người đàn ông kia? - Berger hỏi.
Kennedy nhún vai:
- Tôi nghĩ là chúng ta đang đứng trước kết quả đấu tranh sinh tồn của kẻ mạnh hơn. Nếu anh chàng kia là kẻ mạnh hơn trong hai chúng tôi thì cô ấy đã không bỏ rơi anh ta. Thôi, bây giờ hãy nói chuyện khác; tôi đã chán chuyện này lắm rồi!
- Một câu hỏi nữa thôi. Làm thế nào mà anh đã dứt bỏ được cô ấy trong ba tuần lễ?
- Này, cả hai đứa chúng tôi đều đã thỏa mãn đôi chút nỗi khát khao, anh hiểu chứ? Cô ấy khăng khăng từ chối việc quay lại Rome là nơi mà cô ấy thấy mình buộc lòng phải gặp mặt những người cô ấy quen biết, mà nhất định Rome là tối cần thiết với tôi, và tôi cũng đã nhớ nhung công việc của tôi. Đó là lý do bình thường thứ nhất cua sự tan vỡ. Ngoài ra ông bố già của cô ấy lại thình lình tới khách sạn, và ông cụ đã la cho chúng tôi một trận... Thế là cuộc tình đã có một chiều hướng quá khó chịu khiến tôi thật sự thấy vui vẻ khi thoát khỏi nó, mặc dù tôi đã nhớ cô ấy một cách khủng khiếp trong ít lâu. Bây giờ tôi tin tưởng là anh sê không nhắc lại một chút gì về những chuyện tôi đã nói với anh.
- Bạn Kennedy thân mến, không bao giờ tôi dám làm việc đó đâu? Nhưng tất cả những gì anh kể lại làm tôi rất quan tâm vì tôi đã hiểu rõ được nhân sinh quan của anh. Nó hoàn toàn khác hắn quan niệm của tôi, bởi vì tôi đã biết rất ít sự đời . . . Và bây giờ anh muốn tôi nói cho anh biết về những hầm mộ mới của tôi phải không? Anh có cố gắng bảo tôi mô tả chúng ra cũng vô ích thôi. Không bao giờ anh tìm thấy chúng qua một sự mô tả sơ sài. Việc duy nhất phải làm là tôi phải dẫn anh tới đó.
- Thật là tuyệt diệu!
- Bao giờ anh muốn đến chỗ đó?
- Càng sớm càng tốt. Tôi rất nôn nóng...
- Sự thật là đêm nay rất đẹp, tuy rằng hơi lạnh một chút. Anh có muốn rằng chúng ta sẽ khởi hành trong một giờ nữa không? Phải hết sức thận trọng để khỏi bị theo dõi. Nếu có kẻ nào trông thấy chúng ta cùng đi săn lùng với nhau, hắn sẽ đánh hơi ngay ra một, vụ làm ăn mới.
- Đồng ý về sự thận trọng tối đa, - Kennedy đáp lại, - Có xa không?
- Vài cây số
- Không quá xa đế đi bộ tới chứ?
- Ồ không! Ta có thể dễ dàng đi tới đó.
- Vậy thì tốt nhất là đi bộ. Một anh đánh xe ngựa sẽ nói lung tung nếu anh ta để chúng ta xuống một nơi hoang vắng vào nửa đêm.
- Rất đúng! Chúng ta sẽ gặp lại nhau lúc nửa đêm ở chỗ góc đường Appienne. Tôi phải về qua nhà để lấy diêm, nến và các đồ vật linh tinh.
- Tuyệt hảo, Burger ạ! Tôi nghĩ rằng anh đã rất hào hoa khi cho tôi biết điều bí mật của anh, và tôi xin hứa là sẽ không viết gì trước khi anh công bố bản tường trình. Bây giờ, chào tạm biệt! Anh sẽ gặp tôi lúc nửa đêm ở góc đường Appienne.
Không khí lạnh lẽo và trong trẻo vang vọng những tiếng chuông có nhạc điệu của cái thành phố lắm đồng hồ này khi Burger, quấn mình trong một chiếc măng tô kiểu Ý, tay mang một cây đèn, đi tới chỗ hẹn gặp.
Kennedy từ trong bóng tối đi ra trước mặt anh.
- Hăng hái trong công việc cũng như trong tình yêu! - Anh chàng người Đức kêu lên và cười lớn.
- Đúng. Tôi đã tới đây từ gần nửa tiếng đồng hồ.
- Tôi hy vọng là anh đã không nói với ai một mảy may nào về mục đích cuộc hành trình của chúng ta chứ?
- Không ngu như vậy đâu! Xin thề có trời, tôi bị lạnh buốt thấu xương đây này! Đi thôi , Burger, ta hãy đi bộ một lúc cho ấm người.
Họ đi những bước đều trên mặt đường đá, con đường này là tất cả những gì còn lại của một đại lộ nổi tiếng nhất trên thế giới. Một vài người nông dân từ trong quán nhậu đi ra để trở về nhà; có những chiếc xe đẩy chất đầy nông sản đi về phía thành Rome. Họ không gặp ai khác nữa. Ở bên phải, ở bên trái của họ, những ngôi mộ lớn nổi bật lên trong bóng tối. Cứ như vậy họ đi mãi tới khu hầm mộ Saint Calixte, và ở phía trước mặt, họ nhìn thấy dưới ánh trăng đang lên cao hiện ra rõ ràng cái pháo đài lớn, hình tròn Cecilia-metella. Burger đặt một bàn tay lên hông và dừng lại.
- Chân anh dài hơn chân tôi, và anh là người đi bộ giỏi, - anh nói và cười lớn. - Tôi nghĩ rằng chỗ mà chúng ta phải tách ra làm hai ngả cũng không xa đây. Phải, chúng ta tới nơi rồi, sau cái quán ăn, nhìn kìa, đường không rộng lắm; đế tôi đi trước; anh bước theo tôi.
Anh ta đốt đèn lên, con đường chật hẹp, khúc khuỷu chạy vòng vèo giữa các bãi lầy của miền Campanie. Cái cống nước lớn của thành La Mã cổ xưa nằm yên như một con sâu khổng lồ trên cảnh vật dưới ánh trăng. Hai người đi qua dưới một vòm cao và đi men theo bức tường vòng tròn, tường này đánh dấu vị trí của đấu trường cổ xưa. Sau cùng Burger dừng lại trước một cái chuồng bò nằm chơ vơ giữa đồng quê bát ngát, rồi anh móc trong túi ra một cái chìa khóa.
Kennedy kêu lên:
- Anh không làm cho tôi tưởng rằng các hầm mộ của anh nằm bên trong một căn nhà chứ!
- Có chứ, lối vào. Đây là những thứ bảo vệ cho chúng ta chống lại bọn tò mò.
- Ông chủ nhà có biết chuyện này không?
- Không, ông ta có tìm thấy một hai vật mà tính chất của chúng làm cho tôi nghĩ rằng cái chuồng bò này đã dược xây cất ngay bên trên một lối vào của những hầm mộ. Do đó tôi đã thuê cái chuồng bò và tự tay tôi đã tiến hành việc đào bới. Vào đi, và hãy đóng cửa lại nhé...
Hai người đang ở trong một tòa nhà dài và trống rỗng, những cái chậu và những cái máng treo trên một trong các bức tường. Burger đặt cái đèn xuống đất và lấy áo măng tô che nó lại, trừ một phía đế hở.
Anh nói:
- Nếu có kẻ nào nhìn thấy ánh đèn trong chỗ hẻo lánh này thì những cái miệng tha hồ mà mách lẻo. Chỉ cần anh giúp tôi khiêng các tấm ván này ra...
Những tấm ván ở một góc đã được gỡ đinh ra; hai nhà khảo cổ lần lượt dựng chúng vào tường. Trước mặt họ hiện ra một lỗ vuông, bên trong lỗ đó có một cầu thang với các bậc bằng đá cũ kỹ dẫn xuống phía sâu thẳm của lòng đất.
- Cấn thận? - Burger nói lớn với Kennedy trong khi anh chàng này quá nôn nóng bước ngay xuống mấy bực đầu tiên. - Dưới đó là một cấm địa thật sự đó: nếu anh đi lạc thì có đến một trăm phần trăm rủi ro là không bao giờ anh tìm ra đường về nữa. Hãy đợi tôi mang đèn tới.
- Nếu quả là nó rắc rối như vậy thì làm thế nào mà anh chỉ có một mình tự ra vào được?
- Lúc đầu có nhiều lần suýt nữa tôi đã bị lạc, nhưng rồi tôi học cách nhận ra lối đi. Cái mê cung này đã được kiến tạo theo một sơ đồ khá rõ ràng, nhưng kẻ nào đi lạc mà không có đèn thì không tài nào tìm thấy đường ra. Ngay cả bây giờ tôi còn phải thả một cuộn dây phía sau khi tôi đi sâu xuống. Trông kìa, mỗi hành lang này được phân ra và còn phân ra nhỏ hơn hàng chục lần, mỗi lần hàng trăm thước...
Ở sáu hay bảy thước phía dưới sàn chuồng bò, họ tới một căn phòng vuông khoét vào đá vôi mềm. Ngọn đèn chiếu ra một ánh sáng nhỏ lung linh trên các vách tường màu nâu đã rạn nứt hết. Ở tất cả mọi phía đều hiện ra những hành lang tối om đi từ cái ngã tư này.
- … Anh phải theo sát bên tôi, anh bạn – Burger ra lệnh - Chớ có dừng bước để nhìn một vật gì trên đường đi, vì tôi sẽ dẫn anh tới một nơi mà anh sẽ trông thấy nhiều thứ hơn là tất cá những thứ anh có thể thấy trong các hành lang. Nếu ta đi thắng tới đó thì ta sẽ tiết kiệm được thì giờ.
Anh đi vào một trong các hành lang. Anh chàng người Anh đi theo sát gót. Cứ một lúc là cái hành lang lại tẻ ra làm hai lối, nhưng Burger không dừng chân và cùng không bao giờ ngần ngừ: đúng là anh đã có những dấu bí mật làm tiêu điểm. Suốt dọc các bức tường, chồng chất lên nhau như những giường ngủ trên một con tàu của các dân di cư, những người Cơ đốc giáo của La Mã cổ xưa nằm yên nghỉ. Ánh sáng vàng vọt của cái đèn soi rõ những khuôn mặt nhăn nhúm của những xác ướp, làm óng ánh những cái sọ tròn và những cánh tay dài và trắng bắt chéo trên những bộ ngực trơ xương. Kennedy phóng ra những cái nhìn đầy nuối tiếc và ham muốn về phía những hàng chữ nhiều vô số kể, những bình đựng tro cốt, những tranh ảnh trang trí, những quần áo, những đồ dùng vẫn nằm y nguyên như lúc những bàn tay sùng tín đã đặt chúng ở đó hàng nhiều thế kỷ trước. Ngay lúc vừa nhìn thấy, anh đã nghĩ chắc chắn rằng đây là những hầm mộ của một sự giàu sang hiếm có chứa đựng một số lượng rất lớn những di tích của thời đế quốc La Mã.
- Những cái đèn của anh tắt đi thì làm sao? – Anh hỏi trong khi họ vội vã đi tới nơi mà Burger đã chỉ.
- Tôi có một cây nến để dự phòng và một bao diêm trong túi. À, anh Kennedy, anh có mang theo diêm không?
- Không. Anh phải cho tôi vài que mới được.
- Ồ, có gì đáng kể? Không vì lý do nào mà chúng ta phải rời xa nhau.
- Chúng ta sẽ đi tới đâu? Tôi thấy hình như chúng ta đã đi khoảng bốn trăm thước rồi, phải không?
- Tôi nghĩ rằng nhiều hơn thế. Những dãy mộ này dài vô tận... ít nhất là tôi chưa thấy chỗ tận cùng của nó. Nhưng vì bây giờ chúng ta đi tới một chỗ ngoắt ngoéo tôi phải thả cuộn dây ra.
Anh buộc một đầu sợi dây vào ruột hòn đá nhô ra rồi nhét cuộn dây vào bên trong áo măng tô và cứ bước tới đâu thì nhả nó ra tới đó. Kennedy nhận thấy sự thận trọng này không phải là vô ích, vì các lối đi mỗi lúc càng phức tạp thêm tạo thành một mạng lưới những con đường luôn luôn cắt ngang nhau. Nhưng tất cả mọi con đường đều dẫn tới một cái phòng lớn hình tròn, ở cuối phòng này có một cái bệ vuông mà một bên được che kín bằng một phiến cẩm thạch.
- Chúa ơi! - Kennedy kêu lên trong niềm sảng khoái - Đây là một bàn thờ của người Cơ đốc: không chừng là cái bàn thờ cổ xưa nhất. Cây thánh giá nhỏ của lễ phong thánh được khắc trên góc này. Chắc chắn là cái phòng hình tròn này đã được dùng làm giáo đường!
- Đúng vậy! - Burger đáp lại - Nếu tôi có nhiều thì giờ, tôi sẽ chỉ cho anh thảy tất cả những cái xác được chôn trong các hốc dọc theo dãy tường: đó là xác của các vị giáo hoàng và giám mục đầu tiên của Giáo hội, cùng với các mũ mão, pháp trượng, y phục tôn giáo của các ngài. Này, chẳng hạn hãy nhìn cái xác kia xem...
Kennedy bước tới và ngắm nghía một cái đầu tái nhợt tỳ lên một cây pháp trượng đã nát thành bụi.
- Tuyệt diệu! - Anh thốt lên với một giọng nói vang dội cả những vách của khung vòm - Theo kinh nghiệm riêng của tôi, đây là việc có một không hai. Anh Burger, đem cái đèn gần lại đi: tôi muốn được xem tất cả những cái xác.
Nhưng anh chàng người Đức lại đi tới đầu bên kia của căn phòng và anh ta đứng ở giữa cái vòng ánh sáng vàng vọt.
- Anh có biết từ chỗ này tới cầu thang có bao nhiêu chỗ rẽ làm ta lầm lạc không? - Anh ta hỏi - Hơn hai ngàn chỗ! Chắc chắn đó là một trong các phương tiện mà những người Cơ đốc đã dùng để tự bảo vệ cho họ. Giả dụ là ở chỗ này một người có mang đèn đi nữa thì anh ta cũng chỉ có cơ may một phần trên hai ngàn là sẽ tìm được lối ra. Và nếu không có đèn thì còn khó hơn rất nhiều?
- Đúng vậy!
- Bóng tối thật kinh khủng! Đã có một lần tôi thử nghiệm nó. Ta hãy thử một lần nữa.
Anh ta cúi xuống gần cái đèn và ngay tức thì như có một bàn tay vô hình bưng kín hai mắt của Kennedy. Trước giờ phút này không bao giờ anh biết thế nào là bóng tối. Bây giờ thì anh có cảm tưởng là nó dính chặt vào anh, nó làm anh nghẹt thở, nó là một chướng ngại vững chắc ngăn cản không cho người anh cử động, bước đi. Anh dang hai tay ra để đẩy lui nó.
- Thế là đủ rồi, Burger! Cho lại chút ánh sáng đi.
Nhưng người bạn của anh bật cười lớn. Trong căn phòng hình tròn này, tiếng cười của anh ta giống như đồng thời phát ra từ mọi phía.
- Anh bạn Kennedy à, chắc anh khó chịu lắm phải không?
- Không sao, anh bạn ạ! Hãy đốt đèn lên đi!
- Thật là kỳ cục, Kennedy à. Nghe tiếng động tôi hoàn toàn không định được hướng anh đang đứng. Còn anh, anh có thể đoán được tôi đang ở chỗ nào không?
- Không. Tôi có cảm tưởng là anh đang đứng ở khắp mọi nơi chung quanh tôi.
- Nếu tôi không nắm lấy sợi dây thì tôi sẽ không biết phải làm thế nào để ra khỏi chỗ này.
- Tôi nghi ngờ về chuyện đó. Thôi đi, anh bạn, đánh lên một que diêm đi! Ta phải chấm dứt trò chơi kỳ cục này.
- Anh Kennedy này, hãy nói đi. Tôi nghĩ rằng có hai điều mà anh đặc liệt thích thú: sự mạo hiểm, và một trở ngại để vượt qua. Sự mạo hiếm sẽ là việc anh phải tìm một con đường để ra khỏi những hầm mộ này. Điều trở ngại sẽ là bóng tối và hai ngàn lối rẽ lúc nào cũng làm cho ta lầm lạc. Nhưng anh không cần vội vã; anh còn nhiều thì giờ mà. Khi anh dừng lại nghỉ, tôi mong rằng anh sẽ nghĩ một chút tới cô Mary Saunderson, và anh sẽ duyệt xét lại lương tâm xem anh có hoàn toàn chung thủy với cô ấy không.
Kennedy gầm lên.
- Đồ ác quỷ! Anh muốn nói gì đó?
Anh chàng người Anh chạy vòng quanh, vẽ ra những vòng tròn nhỏ, nhưng với hai bàn tay anh chỉ quờ thấy mà đêm.
- Tạm biệt - tiếng nói mỉa mai của Burger vang lên, lúc này anh ta dã đi một quãng xa, - Kennedy ạ, ngay cả sau khi đã nghe các sự việc anh kể lại, tôi thật sự vẫn không tin là anh đã xử sự đúng đắn với “cô gái trẻ” trong câu chuyện. Và tôi thấy hình như anh còn không biết một chi tiết nhỏ: tôi phải bổ sung vào chỗ thiếu sót dó. Cô Mary Saunderson đã hứa hôn với một gã sinh viên nghèo nàn không có gì xuất sắc lắm; gã ta tên là Julius Burger.
Ở một chỗ nào đó có tiếng sột soạt nghe không rõ ràng là tiếng gì, tiếng động nhẹ của một bàn chân vấp phải một hòn đá, rồi thì sự im lặng trở lại trong cái giáo đường Cơ đốc cũ kỹ này, một sự im lặng bất động và nặng nề bao trùm lên Kennedy như nước bao trùm
lên một kẻ chết chìm vậy.
Hai tháng sau, bài báo ngắn sau đây được lần lượt đăng trên báo chí Âu châu.
“Một trong những sự phát hiện thú vị nhất trong những năm vừa qua có liên quan tới các hầm mộ mới ở La Mã, gần mạn Đông của các khung vòm nổi tiếng Saint Calixte. Sự tìm ra khu mộ địa quan trọng này, nơi cực kỳ phong phú về các dấu tích thời khởi đầu kỷ nguyên Cơ đốc, là nhờ vào nghị lực và sự tinh tế của tiến sĩ Julius Burger, nhà khảo cổ học trẻ tuổi người Đức là người đang chinh phục ngôi vị thứ nhất trong số các nhà bác học chuyên nghiên cứu về La Mã cổ xưa. Mặc dù đã là người trước nhất công bố bản tường trình về sự phát hiện này, hình như tiến sĩ Burger đã bị dẫn trước bởi một nhà sưu khảo kém may mắn hơn. Vài tuần lễ mới đây, ông Kennedy, một nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh đã đột nhiên biến mất khỏi căn hộ của ông tại chung cư Corso. Người ta đặt ra một liên hệ giữa sự mất tích của ông và một vụ tai tiếng mới đây là điều có thể làm cho ông rời khỏi Rome. Bây giờ mới rõ rằng thật sự ông đã là nạn nhân của lòng hăng say về môn khảo cổ. Xác ông đã được phát hiện ở giữa các hầm mộ mới; qua tình trạng các bàn chân và đôi giày của ông, người ta biết chắc là ông đã phải đi bộ ngày này qua ngày khác trong các hành lang quanh co, là những thứ làm cho việc thám hiểm nơi mộ địa rất nguy hiểm. Với một sự khinh suất không thể tưởng tượng được, người quá cố đã đi vào mê cung này không có nến, không có diêm (ít nhất là theo những sự khám nghiệm đầu tiên) và cái chết của ông là hậu quả của sự liều lĩnh của ông. Điều làm cho câu chuyện buồn này thêm đau đớn hơn là việc tiến sĩ Julius Burger là bạn chí thiết của ông Kennedy. Sự vui mừng mà ông được hưởng một cách chính đáng về khám phá phi thường này đã trở thành u ám vì số phận khủng khiếp của người đồng nghiệp và bạn thân của ông.”
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:20:52 | Chỉ xem của tác giả
02. Vị giáo sư của trường Lea House

Ông Lumsden, một trong những vị giám đốc của cơ quan giới thiệu chỗ làm cho các giáo sư, Lumsden và Westmacott là một người nhỏ nhắn ăn mặc chỉnh tề, ông ta có những bộ điệu thô cục, một cái nhìn sắc sảo, một giọng nói sâu sắc.
Ông ấy hỏi tôi
- Thưa ông, tên ông là gì?
Ông ấy nhúng ngòi bút vào lọ mực; một cuốn sổ lớn có những gạch đỏ được mở ra trước mặt ông ấy!
- Harold Weld
- Oxford hay Cambridge?
- Cambridge
- Bằng cấp gì?
- Thưa ông, không có.
- Là vận động viên hả?
- Tôi rất tiếc là không lỗi lạc lắm.
- Chưa bao giờ được tuyển chọn hả?
- Chưa bao giờ.
Ông Lumsden lắc đầu với một vẻ chán nản rồi ông ấy nhún vai một cách làm giảm các hy vọng của tôi xuống tới số không.
Ông ấy nói với tôi.
- Ông Weld này, với các chức giáo sư sự tranh đua rất gay go đó. Ít khi có những chỗ trống, và các ứng viên thì nhiều vô kể. Một vận động viên vào loại nhất, một tay vô địch về chèo thuyền hoặc một hảo thủ về Criket, hoặc một người đã giật được một vài văn bằng một cách lỗi lạc thường kiếm được chỗ làm, một hảo thủ về Criket không bao giờ bị thất nghiệp trong ngành giáo dục, nhưng người trung bình (ông Weid ạ, nếu ông cho phép tôi dùng tính từ này) thì gặp những trở ngại rất lớn, nếu không nói là những trở ngại không thể vượt qua được. Trên các danh sách, chúng tôi đã có tên khoảng trên một trăm người trung bình; nếu ông nghĩ rằng tôi phải ghi thêm tên ông vào, thì tôi hy vọng rằng từ nay tới vài năm nữa chúng tôi sẽ có thể tìm cho ông một việc làm đó...
Ông ấy ngừng lại vì có ai đó gõ cửa, một nhân viên mang tới cho ông ấy một cái thư, ông Lumsden mở phong bì ra.
- À này ông Weld, đây là một sự ngẫu nhiên đặc biệt thú vị. Tôi nghĩ rằng tôi đã biết ngành chuyên môn của ông là tiếng Latin và tiếng Anh, và trong ít lâu nữa ông sẽ chấp nhận một chỗ làm trong một lớp sơ đẳng, nơi đó ông sẽ có thì giờ để làm các công việc
riêng được chứ?
- Thật vậy.
- Lá thư này là lời thỉnh cầu của một trong các thân chủ kỳ cựu của chúng tôi, tiến sĩ Philps McCarthy ở trường học Willow Lea House, West Hampstead. Ông ấy yêu cầu tôi gởi ngay cho ông ấy một thanh niên có đầy đủ khả năng để dạy tiếng Latin và tiếng Anh cho một lớp nhỏ các bé trai dưới mười bốn tuổi. Tôi thấy hình như chức vụ này thích hợp một cách chính xác vớt việc mà ông tìm kiếm. Các điều kiện không có gì là khác thường: 60 bảng, nơi ăn ở đầy đủ, giặt ủi. Nhưng công việc không có gì là quá quắt, do đó ông sẽ có thể sử dụng nhưng buổi tối cho riêng ông.
- Đó là công việc làm được!
Tôi kêu lên với tất cả sự ham thích của một người sau nhiều tháng tìm kiếm hoài công nay cuối cùng đã kiếm được việc làm.
- Tôi tự hỏi liệu tôi có xử sự một cách đúng đắn với những người đã có tên trong sổ của tôi không? – ông Lumsden lẩm bẩm nói trong khi liếc mắt nhìn vào cái danh sách đồ sộ của ông ấy - nhưng sự ngẫu nhiên thật quá kỳ tuyệt khiến cho tôi thấy rằng tôi phải dành sự ưu tiên cho ông.
- Thưa ông, tôi xin chấp nhận và tôi vô cùng biết ơn ông!
- Lá thư của Tiến sĩ McCarthy có chứa đựng một điều kiện. Ông ấy yêu cầu là ứng viên phải có tính nết rất tốt, rất tốt.
- Tôi có tính nết rất tốt! - tôi khẳng định với sự xác tín.
- Này - ông Lumsden nói sau đôi chút ngập ngừng - tôi hy vọng rằng tính nết của ông cũng tốt được như lời ông đã nói, vì tôi có cảm tưởng là ông sẽ cần phải có tính nết tốt!
- Tôi giả thiết rằng bất kỳ một giáo sư nào trong một lớp sơ đẳng cũng phải có tính nết tốt.
- Phải, thưa ông. Nhưng tôi phải báo trước với ông rằng tình thế của ông có rủi ro sẽ gặp phải một vài trạng huống khá kinh khủng. Tiến sĩ McCarthy đã không đặt ra điều kiện này nếu không có một lý do khẩn yếu và quan trọng.
Tiếng nói của ông ấy có một giọng trang nghiêm làm cho sự vui mừng của tôi nguội lạnh đi đôi chút.
Tôi hỏi:
- Tôi có thể xin ông nói cho biết rõ hơn về thực chất của các trạng huống này không?
- Chúng tôi cố sức giữ sự công bằng giữa các thân chủ của chúng tôi, và tuyệt đối trung thành với từng người trong bọn họ. Nếu tôi thấy những trở ngại về phía bản thân ông, chắc chắn là tôi sẽ thông báo cho tiến sĩ McCarthy. Do đó, tôi không cảm thấy sự e ngại nào khi xử sự như vậy đối với ông...
Ông giở từng trang quyển sổ của ông ấy.
- ... Tôi đọc trong đây là trong khoảng 12 tháng qua, chúng tôi đã không cung cấp cho trường học Willow Lea House dưới bảy giáo sư tiếng Latin. Bốn người trong bọn họ đã rời bỏ chức vụ một cách quá đột ngột đến nỗi họ đã không lĩnh lương của những tháng đầu tiên của họ, không một ai đã ở lại quá 8 tuần lễ.
- Còn những giáo sư khác? Họ có ở lại không?
- Chỉ có một giáo sư khác cư ngụ ở phía bên kia. Không có vẻ gì là ông ấy đã đổi chỗ. Ông Weld ạ, ông có thể hiểu rằng những sự ra đi nhanh chóng như vậy không phải là điều đáng khen trong phương diện một ông hiệu trưởng, bất kể những gì mà một người đại diện làm việc ăn tiền hoa hồng có thể nói ra để bênh vực họ. Tôi tuyệt nhiên không biết tại sao các vị đó đã khước từ công việc của họ. Tôi chỉ có thể chỉ cho ông thấy các sự kiện, và khuyên ông đến ngay tức thì để gặp tiến sĩ McCarthy và sau đó tự mình quyết định lấy.
Lớn lao thay là sức mạnh của một người không có gì để mất cả? Thế là với sự hoàn toàn thanh thản, nhưng do sự thúc đẩy của tính hiếu kỳ sôi nổi, vào lúc đầu giờ buổi chiều tôi bấm chuông ở trường học Lea House. Nhà trường là một tòa nhà đồ sộ vuông, xấu xí, được xây dựng ở giữa một khu đất tư, từ ngoài đường lộ có một lối đi rộng dẫn vào tới trường. Trường được xây khá cao, và từ đó ở một phía ta trông thấy những mái nhà xám
và những tháp chuông nhỏ ở mạn Bắc London, ở phía kia là vùng có rừng cây và thoáng đãng viền quanh khu ven đô. Một chú hầu nhỏ ra mở cửa cho tôi, dẫn tôi vào một văn phòng bày biện sang trọng, ở đó vị hiệu trưởng đã mau lẹ tiếp đón tôi.
Những lời cảnh báo và những câu nói bóng gió của người đại điện đã làm cho tôi nghĩ rằng tôi sẽ phải đứng trước một người hay cáu kỉnh và không thể chịu đựng được mà cách cư xử phải là một chuỗi những sự gây gổ không thể dung thứ được đối với các thuộc viên của ông ấy. Nhưng sự thật lại tỏ ra hoàn toàn khác hẳn. Ông hiệu trưởng là một người hiền lành, ốm o, hơi gù một chút, mặt mày nhẵn nhụi, và ông ấy dùng một lối lịch sự gần như thái quá, mái tóc để kiểu bàn chải của ông ấy đã lốm đốm bạc, chắc ông ấy độ sáu mươi tuổi. Ông ấy nói một giọng ngọt ngào và dáng điệu ông ấy không thiếu vẻ cao nhã. Ông ấy hoàn toàn có dáng điệu một vị giáo sư đức độ phần lớn trong công việc về sách vở hơn là trong các khó khăn thực tế của đời sống.
- Ông Weld ạ, chúng tôi sẽ rất sung sướng được sự giúp đỡ của ông. - ông ấy nói với tôi sau vài câu hỏi về nghề nghiệp - Ông Percival Manners đã rời bỏ tôi hôm qua, và tôi nhiệt liệt cầu mong rằng ông sẽ đảm nhận công việc ngay từ ngày mai.
Tôi hỏi thêm:
- Có phải là ông Percival Manners ở Seluryn không?
- Đúng thế! Ông biết ông ấy à?
- Vâng, đó là một trong các người bạn của tôi.
- Một giáo sư tuyệt hảo, nhưng tính hơi nóng nảy, đó là khuyết điểm duy nhất của ông ấy. Bây giờ ta quay lại về chuyện của ông, ông Weld ạ. Ông có giữ vững được sự kiềm chế các dây thần kinh của ông không? Vì lòng tôn trọng sự tranh luận, ta hãy giả thiết rằng có khi tôi quên thân phận của mình đến đỗi thành ra vô lễ với ông, hoặc là nói năng thô lỗ với ông, hoặc là bằng cách này hay cách khác làm thương tổn các tình cảm riêng của ông, liệu chúng ta có thể tin vào sự kiềm chế các phản ứng của ông không?
Tôi mỉm cười nghĩ rằng cái anh chàng nhỏ thó, hiền lành và lịch sự này sẽ có thể làm cho tôi nổi giận.
- Thưa ông, tôi nghĩ là tôi có thể trả lời được câu này.
Ông ấy nói.
- Những cuộc cãi lộn rất cực nhọc đối với tôi. Tôi muốn rằng dưới mái trường của tôi, sự hài hòa phải được toàn diện. Tôi không chối cãi rằng ông Percival Manners đã bị khiêu khích, nhưng tôi muốn rằng ở đây phải có một người nào biết vươn lên bên trên những sự khiêu khích, và khi sự việc xảy ra, có thể hy sinh các tình cảm riêng tư vì lợi ích của sự hòa thuận và sự thân thiện.
- Thưa ông, tôi sẽ cố gắng hết sức mình.
- Ông Weld này, ông không thể nói thêm gì được nữa. Thế là tối nay tôi sẽ đợi ông, nếu khoảng thời gian ngắn ngủi này đủ cho ông chuẩn bị đồ đạc, quần áo.
Không những thời gian đủ cho tôi thu dọn quần áo cho vào va-li, mà nó còn cho phép tôi đi tới câu lạc bộ Benedict ở Piccadilly, nơi mà tôi biết cách tìm thấy Manners nếu ông ta còn ở thủ đô. Quả thật tôi đã phát hiện ra ông ấy ở phòng hút thuốc, và tôi lợi dụng cơ hội này để hỏi ông ấy xem vì lý do nào mà ông ấy đã từ bỏ việc làm.
- Ngay cả anh định không loan báo với tôi là anh tới trường học của tiến sĩ McCarthy à? -ông ấy sửng sốt kêu to lên. - Anh bạn thân ơi, đừng thử nữa, vô ích thôi! Chắc chắn là anh sẽ không thể trú lại ở đó đâu.
- Nhưng tôi đã gặp ông ấy mà! Tôi thấy ông ấy có vẻ thuộc hạng người hiền lành, không làm hại ai. Tôi chưa từng thấy ai cù lần hơn.
- Ông ấy hả? Ồ, ông ấy thì rất tốt! Với ông ấy, không có gì phải sợ cả. Anh có trông thấy Theophilus St.James không?
- Chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó! Y là ai vậy?
- Bạn đồng nghiệp của anh đó, một giáo sư khác.
- Không, tôi không gặp hắn ta.
- Chính hắn mới là sự khủng khiếp! Nếu anh có thể chịu đựng được hắn, thì chỉ có một trong hai trường hợp thôi; hoặc anh là một tín đồ Cơ đốc gương mẫu, hoặc anh là một kẻ nằm dưới cả số không. Không có ai vô giáo dục và kiêu căng hơn hắn nữa.
- Nhưng tại sao McCarthy lại bao dung hắn ta?
Ông bạn tôi suy nghĩ một lát sau làn khói điếu thuốc lá của ông, và ông nhún vai.
- Anh sẽ tự mình đưa ra ý kiến đi. Về phần tôi, tôi đã có ý kiến gần như ngay tức thì, và không gì làm thay đổi được nó.
- Anh đã giúp tôi rất nhiều khi cho tôi biết việc này.
- Khi anh thấy một người ở trong nhà hắn ta mà chịu để cho công việc của mình đi tới chỗ thất bại, chịu để cho sự yên ổn của mình bị hủy, chịu để cho quyền hành của mình luôn luôn bị làm hư hỏng bởi một trong các thuộc viên của mình, mà hắn vẫn lẳng lặng tòng phục tình trạng đó không một lời phản kháng thì ý kiến của anh như thế nào?
- Hẳn là gã thuộc viên đã khống chế được ông hiệu trưởng.
Percival Manners gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
- Anh đoán đúng đấy? Anh đã bắn trúng đích ngay từ phát đạn đầu tiên. Tôi thấy là hình như không còn cách giải thích nào khác. Vào một thời kỳ nào đó trong đời ông ấy, ông tiến sĩ McCarthy nhỏ bé đã phạm một sai lầm. Là con người thì ai mà chẳng có lúc mắc sai lầm. Tất cả chúng ta đều đã làm những điều xằng bậy. Nhưng sai lầm của ông ấy đã rất trầm trọng, và anh chàng kia đã biết chuyện này nên bắt bí ông ấy. Đó là sự thật. Từ cội nguồn câu chuyện, rút lại là một vụ bắt bí. Nhưng vì hắn ta không có một uy quyền nào đối với tôi và vì không có một lý do nào để tôi phải chịu đựng sự láo xược của hắn ta, nên tôi bỏ đi, và tôi trông đợi là anh cũng sẽ làm như vậy trong chẳng bao lâu.
Thế là tôi không thấy tâm trạng vui vẻ lắm khi tôi đứng trước mặt người mà tôi vừa được biết nhiều chuyện xấu xa. Tiến sĩ McCarthy tập hợp chúng tôi trong văn phòng của ông ấy để giới thiệu người này với người nọ ngay trong buổi tối đầu tiên.
Ông ấy nói với một giọng rất nhu hòa.
- Đây bạn đồng nghiệp mới của ông, ông St.James. Tôi hy vọng rằng cả hai ông đều sẽ rất thông cảm nhau và dưới mái trường này tôi sẽ chỉ thấy cảm tình và lòng tôn trọng giữa mọi người với nhau.
Chắc chắn là tôi cùng chia sẻ niềm hy vọng với tiến sĩ McCarthy, nhưng khi tôi tiến hành một cuộc xét nghiệm kỹ càng người bạn đồng nghiệp của tôi thì những viễn tượng không tỏ ra khích lệ chút nào với tôi. Hắn ta chừng 30 tuổi, hắn có cặp mắt và mái tóc đen, một cái cổ của con bò rừng, tất cả đều có vẻ chứng tỏ rằng hắn được trời phú cho một thể lực phi thường. Tuy nhiên hắn có một chiều hướng rõ ràng về sự mập phì, điều này chứng tỏ là nhà thể thao này đang trong thời kỳ tập luyện. Hắn có một bộ mặt phì nộn, cục cằn, thô bạo và cặp mắt đen, nhỏ của hắn nằm sâu trong các hố mắt. Cái quai hàm nặng nề của hắn, đôi tai vểnh lên của hắn, hai cái chân vòng kiềng và vằn đầy bắp thịt của hắn đã làm trọn vẹn một hình ảnh ít được cảm tình cũng như khó gây ấn tượng.
Hắn nói với tôi với một vẻ cục cằn.
- Hình như anh chưa bao giờ dạy học phải không? Hãy tin tôi đi, đó là một nghề buồn nản ! Rất nhiều công việc lương lậu chết đói... Anh sẽ mau chóng hiểu rõ?
Ông hiệu trưởng nói xen vào.
- Nhưng cũng có một vài sự đền bù. Ông đã rất vừa lòng phải không, ông St.James?
- Ông thấy vậy à? Tôi à, tôi không bao giờ có thể phát hiện ra điều đó. Ông gọi những sự đền bù là cái gì?
- Lúc nào cũng thấy mình ở trước mặt lũ trẻ nhỏ là một đặc lợi: nó cho phép ta được trẻ trung mãi, vì ta được hưởng cái phản ánh của sự hăng hái và tính yêu đời của chúng.
- Những con vật nhỏ, ừ! - anh bạn đồng nghiệp của tôi la lớn.
- Này, này, ông St.James! Ông xét đoán chúng quá nghiêm khắc đó.
- Cứ trông thấy chúng là tôi bực bội rồi ? Nếu tôi có thể đốt lên một ngọn lửa ăn mừng bằng chính lũ chúng, bằng những quyển tập mắc dịch của chúng, bằng những quyển sách của chúng và những cái bảng đen bằng đá của chúng, thì tôi sẽ đốt ngay buổi chiều hôm nay !
- Đó là cách nói năng của ông St.James, - ông hiệu trưởng nói với tôi, kèm theo một nụ cười hơi bực bội - xin ông chớ quá chấp nhất vào câu chữ. Ông Weld này, ông đã biết phòng của ông ở đâu rồi chứ? Chắc chắn là ông cũng phải thu xếp một vài việc nhỏ. Ông càng xếp đặt sớm chừng nào thì ông càng nhanh chóng cảm thấy quen ngay mà.
Tôi có cảm tưởng là ông ấy muốn tránh ngay cho tôi khỏi cái uy lực của anh chàng đồng nghiệp kỳ quái nà, và tôi thấy khoan khoái được đi ra. Cuộc nói chuyện đã có một vẻ khó chịu.
Một thời kỳ trong đời tôi đã bắt đầu như vậy, có lẽ là thời kỳ đặc biệt nhất mà tôi phải trải qua. Trong nhiều khía cạnh tôi thấy trường học là rất tốt. Tiến sĩ Philps McCarthy là một ông hiệu trưởng lý tưởng. Ông sử dụng những phương pháp hiện đại, hợp lý. Sự tổ chức thì không chê vào đâu được. Tuy nhiên trong lòng bộ máy hoàn hảo này, cái lão St.James kỳ quái nọ đã đem tới một sự rắc rối không thể mô tả được. Hắn gây ra bởi những điều thất thố chồng chất của hắn ta. Hắn phụ trách việc dạy tiếng Anh và toán, tôi không biết hắn ta dạy dỗ thế nào vì các lớp học của chúng tôi được dạy trong các phòng riêng biệt. Tuy nhiên điều tôi biết chắc chắn là lũ trẻ con sợ hắn ta và ghét hắn ta. Chúng đã có những lý do đúng để làm điều này, vì thường khi lớp tôi dạy bị gián đoạn bởi những tiếng gầm thét giận dữ, và ngay cả bởi tiếng các ngọn roi của hắn đánh. Tiến sĩ McCarthy đã dành phần lớn thì giờ của mình trong lớp của hắn ta, để trông coi thầy giáo nhiều hơn là trông coi học trò, và để trấn tĩnh tính nóng nảy của hắn ta khi nó đe dọa trở thành nguy hiểm.
Cách cư xử của chàng đồng nghiệp này đối với ông hiệu trưởng thì lúc nào cũng đáng ghét. Buổi nói chuyện đầu tiên mà tôi đã kể lại thật sư là điển hình cho việc giao tiếp của họ. Hắn không ngần ngại gì khi thẳng thừng bắt bẻ ông ấy! Không bao giờ hắn bày tỏ một chút lễ độ nào đối với ông ấy, và tôi thú thật là tôi đã phát cáu lên khi nhìn thấy sự phục tùng êm ả của tiến sĩ McCarthy, và sự nhẫn nại mà ông đáp lại cách đối xử hèn hạ này. Tuy nhiên ngay trong lúc đó tôi không thể bảo vệ mình khỏi một nỗi kinh hoàng nào đó khi nghĩ tới cái giả thuyết mà anh bạn tôi đã đưa ra nếu giả thuyết này đúng (và tôi không mường tượng ra một lối giải thích nào khác), phải chăng sự “ngu xuẩn” của ông hiệu trưởng già đã quá bẩn thỉu làm cho ông phải cúi đầu trước thằng cha này, và vì sợ hãi một sự tiết lộ trước công chúng, đã bắt buộc ông phải chịu đựng những sự quỵ lụy thế này! Ông già hiền lành này có thể là một tên giả mạo, một anh giả đạo đức đến tận tâm can, một tên tội phạm, một tên mang tội đầu độc chăng?... chỉ một sự bí mật ở tầm cỡ này mới có thể biện minh được sự tòng phục hoàn toàn của ông ấy trước một gã đàn ông trẻ tuổi. Nếu không thể, tại sao ông ấy lại chấp nhận trong trường học của ông ấy một sự hiện diện đáng căm hận như vậy, và một uy thế độc hại như vậy? Tại sao ông ấy chịu chấp nhận những điều sỉ nhục đã làm nổi lên sự phẫn nộ của những kẻ bàng quan?
Nếu sự việc là đúng như vậy thì tôi phải buộc lòng mà thú nhận rằng ông hiệu trưởng đã đóng vai trò của mình với một sự mập mờ kỳ tuyệt. Không bao giờ ông ấy tỏ ra bằng lời nói hay bằng cử chỉ là sự hiện diện của anh chàng đồng nghiệp của tôi làm cho ông ấy khó chịu. Đúng là tôi có trông thấy ông ấy buồn bực sau một vài chuyện bất như ý này nọ nhưng theo ý tôi thì những chuyện đó phần lớn là có liên quan tới lũ học trò nhỏ hoặc tới chính bản thân tôi, chớ không phải vì hắn ta. Ông ấy nói St.James, hoặc là ông ấy nói với hắn với sự khoan dung; ông ấy mỉm cười với những việc làm tôi giận sôi lên. Trong cung cách ông ấy đối xử với hắn ta không có một chút dấu vết nào của sự hận thù, mà là một thứ thiện chí e dè và khẩn khoản. Ông ấy tự nguyện tìm kiếm sự bầu bạn với hắn, và họ cùng ở bên nhau nhiều giờ đồng hồ trong văn phòng của ông ấy hay ngoài vườn.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:21:26 | Chỉ xem của tác giả
02. Vị giáo sư của trường Lea House (tiếp)

Về phần những sự giao tiếp của tôi với Thesphilus St.James thì tôi đã nhất quyết ngay từ đầu là giữ sự bình tĩnh và tôi kiên quyết làm như vậy: Nếu ông tiến sĩ McCarthy chọn cách để dung thứ sự thiếu tôn trọng này và để tha thứ cho những lời nhục mạ của hắn ta thì đó dù sao cũng là chuyện riêng của ông ấy, chớ không phải là chuyện của tôi. Tất nhiên là ông ấy chỉ muốn một điều: là sự hòa thuận diễn ra giữa chúng tôi; mà sự giúp đỡ to tát nhất mà tôi có thể đem tới cho ông là chấp nhận lời ước nguyện này. Cách tốt nhất để đạt tới ước nguyện này là nên né tránh anh bạn đồng nghiệp của tôi. Khi sự tình cờ làm chúng tôi gặp mặt nhau, tôi giữ vẻ điềm tĩnh, lễ độ xa vắng. Về phần hắn ta, hắn không biểu lộ với tôi một ý muốn xấu xa, cố chấp, nhưng hắn giả bộ một sự vui vẻ thô kệch, một sự thân mật khó chịu như thể hắn muốn cầu thân với tôi. Hắn tới tấp đưa ra những lời ve vãn để buổi tối dẫn dụ tôi vào trong phòng hắn, với mục đích là uống rượu và đánh cờ.
Hắn nói với tôi:
- Chớ quan tâm tới ông già McCarthy ! Đừng sợ ông ta. Chúng ta cứ làm điều gì mà chúng ta thấy muốn làm, tôi đoan chắc với anh rằng ông ấy sẽ không thấy gì bất tiện trong các việc đó đâu.
Tôi chỉ tới phòng hắn có một lần. Một buổi tối buồn bã làm sao! Khi tôi đi ra, ông chủ nhà say như chết, nằm ngáy o o trên giường. Sau đó tôi viện cớ phải học hành, và tôi sống những buổi tối trong phòng của tôi.
Tôi rất muốn biết cái trò xảo quyệt này đã diễn ra từ ngày nào, St.James đã nắm vững sự uy hiếp của hắn lên tiến sĩ McCarthy từ bao giờ? Tôi không tài nào khai thác từ người này hay người kia một mảy may tin tức làm cho tôi tính toán được sự có mặt của anh chàng đồng nghiệp này ở Lea House. Những câu hỏi mà tôi đặt ra về vấn đề này đều được tránh né hay làm lơ đi một cách quá rõ rệt khiến cho tôi đi tới kết luận là cả hai người đều muốn che dấu sự thật về điểm này. Nhưng một buổi tối khi nói chuyện dông dài với bà Corter, nữ quản gia (ông hiệu trưởng goá vợ), tôi đã lấy được thông tin mà tôi đang tìm kiếm. Tôi không cần phải tra hỏi bà ta dò la tin tức, vì tình thế hiện nay làm bà ta phẫn nộ, và bà ta căm ghét anh chàng đồng nghiệp của tôi.
Bà ấy nói với tôi:
- Ông Weld ạ, đã ba năm rồi, hắn ta làm ô uế cái bực cửa này lần đầu tiên. Ôi chà, đối với tôi đó là ba năm trời khủng khiếp. Ông có thể tin lời tôi! Trường học có năm mươi trẻ nhỏ, hôm nay chỉ còn có hai mươi đứa. Đó là kết quả của ba năm trời. Thêm ba năm nữa. chắc sẽ chẳng còn một mống nào. Còn tiến sĩ McCarthy, vị thánh về tính nhẫn nại này! Ông đã thấy ông ấy bị đối xử như thế nào, trong khi gã nọ thật không đáng buộc dây giày cho ông ấy? Nếu không có tiến sĩ McCarthy thì ông có thể tin chắc rằng tôi sẽ không ở lại một giờ dưới cùng một mái nhà với một con người như vậy, ngoài ra tôi đã nói thẳng vào mặt hắn ta, tôi ấy. Ông Weld ạ! Nếu chỉ nguyên một việc tiến sĩ McCarthy cứ khư khư giữ hắn ta trong công việc... nhưng tôi nghĩ là tôi đã nói nhiều hơn những điều mà tôi không nên nói!
Bà ấy cố sức ngừng lại, và không trở lại câu chuyện này nữa. Bà ấy nhớ ra rằng tôi vừa mới đến trường học, và bà ấy lo sợ có sự trống chuyện về phần tôi.
Hai hay ba chi tiết có vẻ kỳ cục đối với tôi. Trước hết tôi nhận thấy anh bạn đồng nghiệp của tôi ít khi tập thể dục. Không bao giờ hắn đi ra khỏi bãi tập thể thao, bãi này nằm trong khuôn viên nhà trường. Nếu lũ trẻ nhỏ đi ra ngoài dạo chơi, thì là tôi hoặc tiến sĩ McCarthy đi kèm bọn chúng, St.James viện cớ là hắn bị đau đầu gối từ mấy năm trước đây và sự đi lại rất vất vả đối với hắn; tôi, thì tôi quy cho sự lười biếng của hắn. Vả chăng đã hai lần từ cửa sổ của tôi, tôi trông thấy hắn lén lút đi ra khỏi trường sở vào một giờ khuya khoắt, lần thứ nhì tôi thấy hắn trở về lúc sáng sớm tinh mơ, và hắn lẻn vào trong nhà qua một cái cửa sổ để ngỏ. Không bao giờ hắn đả động một chút gì tới những cuộc đi chơi lén lút này, những cuộc đi chơi đã phủ nhận câu chuyện bịa đặt về đầu gối hắn, nhưng càng làm tăng thêm sự ghê tởm mà hắn đã gợi ra cho tôi.
Tôi ghi nhận một điểm khác nữa tuy là nhỏ nhặt nhưng cũng đáng lưu ý; gần như hắn không bao giờ nhận được thư từ, những lá thư duy nhất gởi tới cho hắn rõ ràng là những hóa đơn của các hãng buôn. Vì tôi thường hay dậy sớm, tôi có thói quen tự mình ra lấy thư tín trong một đống thư để trên bàn ngoài phòng lớn. Do đó, tôi có thể nhận thấy là hầu hết không bao giờ có một thứ gì cho ông Thesphilus St.James. Tôi thấy tình trạng đặc biệt này có vẻ là những điềm xấu. Vậy thì gã này là hạng người thế nào mà trong quãng đời 30 năm lại không có bạn bè nào? Nhưng dù sao thì ông hiệu trưởng và hắn cũng rất thân mật nhau? Đã hơn một lần, khi vào một căn phòng, tôi thấy họ đang thì thầm nói chuyện với nhau. Rồi họ khoác tay nhau đi ra hóng mát trong vườn nhưng chủ yếu là để tiếp tục câu chuyện. Tôi trở nên quá hiếu kỳ muốn biết thực chất của mối liên hệ đã kết hợp họ với nhau đến nỗi sự hiếu kỳ này đã lấn át tất cả những mục đích khác trong đời tôi. Ở trong trường học, ở ngoài trường học, tôi chỉ còn quan tâm tới việc theo dõi ông tiến sĩ Philps McCarthy và anh chàng Thesphilus St.James, ngõ hầu làm sáng tỏ sự bí ẩn bao trùm họ.
Khốn khổ thay, tính hiếu kỳ của tôi lại có đôi chút quá lộ liễu. Tôi không có tài che giấu các sự nghi ngờ của tôi và tôi đã biểu lộ rất rõ ràng những gì mà tôi căm hận. Một buổi tối tôi bắt gặp Thesphilus St.James đang chăm chú nhìn tôi với một cái nhìn hằn thù và đe dọa. Tôi có linh cảm là một sự cố ghê gớm đang được chuẩn bị thực hiện, và do đó tôi không ngạc nhiên chút nào khi được tiến sĩ McCarthy mời tới văn phòng ông ấy vào buổi sáng ngày hôm sau.
Ông ấy nói với tôi:
- Tôi rất buồn, ông Weld ạ. Nhưng tôi buộc lòng phải khước từ sự giúp đỡ của ông.
- Có lẽ ông sẽ vui lòng chỉ rõ lý do sự sa thải này chứ? - Tôi biết chắc chắn là tôi đã làm tròn nhiệm vụ với sự rất hài lòng của ông ấy, và tôi chỉ muốn thấy ông ấy nêu rõ cái lý do mà tôi đã nghi ngờ.
- Tôi không có lầm lỗi về nghề nghiệp nào để khiển trách ông. - ông ấy trả lời tôi, trong khi mặt trời đỏ hồng lên.
- Ông đuổi tôi theo lời yêu cầu của anh bạn đồng nghiệp của tôi phải không?
Ông ấy nhìn ra chỗ khác.
- Ông Weld này, chúng ta sẽ không bàn về vấn đề này. Tôi không thể bàn về vấn đề đó. Để khỏi làm thiệt hại ông, tôi sẽ cấp cho ông một chứng chỉ tối ưu dành cho chức vụ sau này của ông. Tôi không thể nói nhiều hơn về vấn đề này với ông được. Tôi mong rằng ông cứ tiếp tục công việc ở đây cho tới khi ông tìm được việc làm ở một chỗ khác.
Sự bất công của sự việc làm tôi giận sôi sục lên, thưng làm sao mà tôi chống lại được? Tôi đành chịu khuất phục và ra khỏi văn phòng, lòng nặng trĩu và đắng cay.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là thu dọn hành trang và rời khỏi nhà trường ngay tức thì. Nhưng ông hiệu trưởng đã cho phép tôi ở lại cho tới khi nào tìm được một việc khác, trong khi đó St.James lại muốn tôi đi khỏi càng sớm càng tốt, đó là một lý do tốt để tôi ở lại. À, sự có mặt của tôi làm hắn khó chịu chăng ? Được, tôi sẽ làm cho hắn bực tức càng lâu càng tốt! Tôi bắt đầu căm thù hắn. Tôi nhất quyết trả mối thù. Nếu hắn khống chế được ông hiệu trưởng thì đến lượt tôi, tôi sẽ không thể khống chế được ông ấy hay sao? Để làm cho ông ấy e dè sự hiếu kỳ của tôi chắc là ông ấy phải tự thấy mình rất yếu kém. Tôi ghi tên lại ở sở giới thiệu việc làm, nhưng tôi vẫn tiếp tục giữ công việc tại trường học của tiến sĩ McCarthy, điều này cho phép tôi được tham dự vào kết cục của tình trạng hy hữu này.
Trong tuần lễ đó (vì sự kết thúc xảy ra trong tám ngày tiếp theo), tôi có thói quen đi ra ngoài sau giờ làm việc để kiếm một việc làm mới. Một buổi tối tháng ba, trời lạnh và có gió lớn, tôi vừa bước ra khỏi cửa căn phòng lớn thì tình cờ mắt tôi nhìn thấy một cảnh bất ngờ. Một người đàn ông ngồi thu mình trước một trong những cửa sổ của tòa nhà và mắt y dán vào một vệt ánh sáng nhỏ giữa tấm màn che và khung cửa sổ. Cái cửa sổ này chiếu ra một ô vuông ánh sáng phía trước nó; ở giữa cái ô vuông đó, cái bóng đen của người khách ban đêm này được hiện ra rõ ràng. Tôi chỉ nhìn thấy y trong một thoáng qua, vì y ngẩng đầu lên, trông thấy tôi, và lẩn tránh qua các bụi cây. Tôi nghe thấy tiếng chân y chạy trên đường.
Bổn phận của tôi nhất định là phải quay trở lại và báo cho ông tiến sĩ McCarthy biết. Ông ấy đang ở trong văn phòng. Tôi chờ đợi để nhìn thấy ông ấy bực bội vì sự cố xảy ra, nhưng chắc chắn không phải là sự hoảng hốt mà ông ấy biểu lộ ngay từ những tiếng đầu tiên của câu chuyện của tôi. Ông ấy ngồi lui lại trên cái ghế, mặt tái xanh lại, miệng há hốc ra như thể một người vừa bị đánh một đòn chí tử
- Cửa sổ nào hả ông Weld? – ông ấy hỏi tôi, tay thì chấm mồ hôi trên trán. - Cửa sổ nào,
xin ông nói đi?
- Cái cửa sổ tiếp nối với những cửa sổ phòng ăn cái cửa sổ của ông St.James đó.
- Trời ơi ! A, đúng vậy, thật là khủng khiếp? Một người nhìn vào cửa sổ của ông St.James.!
Ông ấy vặn vẹo hai bàn tay. Ông ấy có vẻ hoàn toàn phát điên lên.
- Thưa ông, tôi phải đi qua trước sở cảnh sát. Ông có muốn tôi vào đó và tôi làm một tờ khai báo không?
- Không, không! - ông ấy kêu lên trong khi kiềm chế một cách khó khăn sự xúc động của ông ấy. - Chắc chắn đây là một tên du thủ. du thực có ý định tới xin bố thí. Tôi không đặt một sự quan trọng nào vào sự cố này. Không một sự quan trọng nào, ông nghe rõ chứ? Ông Weld ạ, nhưng tôi không muốn giữ ông lại, nếu ông cần phải đi ra.
Tôi cáo từ ông ấy. Những lời lẽ để trấn an của ông ấy đã bị phủ nhận bởi vẻ kinh hoàng còn hiện rõ trên nét mặt ông ấy. Khi tôi đi ra, tôi có những linh cảm xấu cho vị hiệu trưởng nhỏ bé của tôi. Khi quay nhìn lại cái ô vuông ánh sáng của cái cửa sổ phòng anh bạn đồng nghiệp của tôi bỗng nhiên tôi nhận thấy hình dáng nhìn nghiêng của tiến sĩ McCarthy đi qua trước cái đèn. Vậy là ông ấy đã vội vã rời khỏi văn phòng để báo động cho St James? Vậy thì tất cả cái không khí bí ẩn này, sự kinh hoàng không thể giải thích được này, những sự mật thiết giữa hai người khác biệt nhau đến thế này là nghĩa làm sao? Tôi suy nghĩ trong khi chân bước về phía trung tâm London, mặc dầu chẳng thế nào đưa ra được một kết luận thích hợp với các sự kiện. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng tôi đã đến rất gần một đáp án.
Tôi trở về nhà rất muộn, trời đã gần nửa đêm. Tất cả các ánh sáng đều đã tắt đi, trừ có ánh sáng trong văn phòng ông hiệu trưởng. Tôi đi vào tòa nhà với cái chìa khóa chung của tôi, và khi sắp vào phòng của tôi thì nghe thấy tiếng kêu nhỏ sắc nhọn của một người đang bị đau đớn. Tôi đứng yên bất động và chờ đợi, một bàn tay đặt lên chốt cửa của tôi.
Trong căn nhà, tất cả đều yên tĩnh, ngoại trừ một tiếng nói thì thào xa xôi vọng tới, tôi biết điều này, từ văn phòng ông hiệu trưởng. Tôi lén bước đi trong hành lang. Tiếng thì thầm được phân ra một cách rõ ràng thành hai giọng: giọng chát chúa và mạnh mẽ của St.James và giọng êm dịu hơn của tiến sĩ McCarthy, anh chàng đồng nghiệp của tôi có vẻ nằn nì, khẩn khoản, ông hiệu trưởng thì tranh luận, biện hộ. Bốn vệt ánh sáng mỏng manh trong bóng tối chỉ rõ cửa lớn của văn phòng. Tôi rón rén bước lại gần cái cửa. Giọng nói của St.James mỗi lúc mỗi mạnh mẽ hơn; những lời nói của hắn nổi bật lên một cách rõ ràng.
- Tôi muốn lấy tất cả tiền bạc! Nếu ông không cho tôi, tôi cũng sẽ lấy. Ông có nghe rõ chưa?
Câu trả lời của tiến sĩ McCarthy không thể nghe thấy, nhưng giọng nói bực bội lại cất lên.
- Không để lại cho ông một xu nào à? Tôi bỏ lại cho ông cái mỏ vàng nhỏ là cái trường học này. Tôi cho rằng chỗ đó là đủ cho một ông già rồi, không được à? Làm thế nào để tôi đi châu Úc mà không có tiền? Ông hãy nói đi!
Giọng nói dàn hòa của tiến sĩ McCarthy nghe không được rõ rệt nhưng câu trả lời của ông ấy chỉ làm tăng thêm sự giận dữ của người bạn ông ấy.
- Những điều ông đã làm cho tôi hả? Ông đã làm những gì, ông không bị bắt buộc phải làm chứ? Ông chỉ quan tâm tới cái thanh danh của ông thôi, không bao giờ ông làm việc gì cho sự an toàn của bản thân tôi. Nói làm nhàm thế là đủ rồi! Tôi phải ra đi trước khi trời sáng. Ông có muốn mở cái két bạc của ông hay không nào?
- Ôi James, làm sao anh có thể đối xử với tôi như thế này? - một giọng rên rỉ kêu lên.
Ngay sau tiếng than van này, tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn nhỏ. Tiếng kêu cứu này làm mất đi sự trầm tĩnh mà tôi từng tự hào. Người ta không còn có thể đứng yên lặng một cách khách quan nếu có kẻ nào dùng tới bạo lực! Trong tay tôi còn cầm cái baton khi đi dạo chơi. Tôi xông vào trong văn phòng. Cũng ngay lúc đó tôi nghe thấy một tiếng giật chuông mạnh mẽ ngoài cửa vào
Tôi quát lớn.
- Đồ kẻ cướp! Đồ vô lại! Hãy để ông ấy bình yên! Buông ông ấy ra!
Hai người đang đứng trước một cái két nhỏ được kê dựa vào một bức tường của văn phòng hiệu trưởng. St.James nắm lấy cổ tay ông già, và hắn bẻ văn cánh tay ông ấy để bắt ông ấy đưa cái chìa khóa cho hắn. Ông hiệu trưởng nhỏ bé của tôi, mặt tái xanh đi nhưng vẫn kiên quyết, dẫy dụa một cách giận dữ dưới sự xiết chặt của tay lực sĩ. Gã này ngoái đầu lại nhìn tôi, tôi thấy trên nét mặt hắn cả vẻ kinh hoàng lẫn sự điên dại. Nhưng khi hắn biết là tôi chỉ có một mình thì hắn buông nạn nhân của hắn ra và nhảy sổ vào người tôi.
Hắn quát lên.
- Tên mật thám khốn kiếp? Trước khi ra đi tao phải thanh toán mày!
Vì tôi không phải là người khỏe mạnh lắm, nên tôi cố giữ hắn ở một khoảng cách. Đã có hai lần tôi quất cho hắn một nhát baton, nhưng hắn đã áp đảo được sự phòng thủ vụng về của tôi, và hắn nắm lấy cổ áo của tôi trong khi phát ra một tiếng gầm lớn. Tôi ngã ngửa về phía sau, lôi hắn ngã theo, hắn tiếp tục xiết chặt cổ họng tôi, tôi cảm thấy sự sống rời bỏ tôi. Cặp mắt hung ác dữ dằn, vàng khè của hắn nhìn trừng trừng vào mắt tôi chỉ cách nhau vài cen-ti-mét, hai màng tang của tôi bắt đầu đập và hai tai bắt đầu kêu o o, đúng lúc tôi mất hết tri giác thì tôi lại nghe thấy cái chuông ở lối vào kêu inh ỏi.
Khi tôi tỉnh lại, thấy mình được đặt nằm trên chiếc ghế dài trong văn phòng của tiến sĩ McCarthy, và ông hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi. Chắc chắn là ông ấy đã canh chừng tôi với sự lo lắng. Khi tôi mở mắt ra, ông ấy kêu lên một tràng lớn khoan khoái.
Ông ấy nói:
- Cám ơn Thượng đế!
- Hắn đâu rồi? - tôi hỏi trong khi nhìn quanh mình.
Lúc đó tôi mới nhìn thấy là các đồ đạc ở tình trạng hết sức lộn xộn và cái văn phòng đã bày ra các vết tích của một cuộc vật lộn dữ dội rất nhiều hơn cuộc vật lộn mà tôi đã là nạn nhân.
Ông tiến sĩ McCarthy úp mặt vào hai bàn tay. Ông rên rỉ nói :
- Họ đã bắt lại nó rồi. Sau những năm gian khổ này, họ đã bắt lại nó. Nhưng tôi xin cám ơn Thượng đế là những bàn tay nó đã không bị vấy máu một lần nữa?
Trong khi ông hiệu trưởng nói, tôi nhận thấy một người đàn ông mặc sắc phục sĩ quan cảnh sát đứng ở bậc cửa và mỉm cười với tôi.
Ông ấy nói với tôi:
- Vâng, thưa ông. Ông đã may mắn thoát khỏi tay nó? Nếu chúng tôi không nhảy chồm lên người nó vào giây phút cuối cùng thì ông đã không còn ở đây để nói ba hoa nữa. Tôi không nghĩ rằng đã từng bao giờ nhìn thấy một người nào đến gần cái chết quá như vậy?
Tôi ngồi dậy, đưa hai bàn tay lên sờ cổ họng. Tôi nói lớn:
- Thưa tiến sĩ McCarthy! Đối với tôi sự bí ẩn vẫn còn nguyên vẹn đó. Tôi sẽ rất sung sướng nếu ông có thể giải thích cho tôi rõ gã đàn ông đó là ai, và tại sao ông đã chịu đựng hắn trong nhà ông lâu đến như vậy.
- Ông Weld ạ, tôi còn nợ ông một lời giải thích. Hơn nữa ông đã gần như hy sinh mạng sống của ông, một cách rất nghĩa hiệp, để bảo vệ cho tôi. Bây giờ tôi không còn gì để giấu diếm nữa. Nói tóm lại, ông Weld ạ, tên thật của thằng khốn nạn đó là James McCarthy, và nó là thằng con trai độc nhất của tôi.
- Con trai ông?
- Than ôi, đúng vậy! Tôi đã làm nên tội tình gì để phải gánh chịu một sự trừng phạt thế này? Từ thuở nó còn rất thơ ấu, nó đã là sự bất hạnh của đời tôi: hung bạo, nóng nảy, ích kỷ, không biết phép tắc là gì. Lúc mười tám tuổi, nó đã là một tên tội phạm. Khi hai mươi tuổi trong một cơn nóng giận, nó đã giết chết một người trong lũ bè bạn trụy lạc của nó và nó đã bị kết án về tội sát nhân. Nó đã thoát được giải đài trong đường tơ kẽ tóc, nhưng một án tù khổ sai chung thân đã được xử phạt cho nó. Ba năm sau đó nó đã đào thoát được và tới được nhà của tôi, qua hàng ngàn trở ngại. Việc nó bị kết án tù đã làm tan nát trái tim của bà vợ tôi. Vì nó đã kiếm được quần áo thường dân nên không có ai đây có thể nhận ra nó. Trong nhiều tháng trời nó ẩn náu trong một cái rầm thượng để chờ đợi khi cảnh sát đến chỉ những cuộc truy tầm ban đầu. Rồi tôi cho nó việc làm ở trường học, mặc dù với sự thô lỗ trong các xử của nó, nó đã làm cho cuộc sống của tôi không chịu được, với tôi và với các bạn đồng nghiệp khác của nó. Ông Weld ạ, ông đã ở đây từ bốn tháng nay. Không một người nào trong các vị tiền nhiệm của ông đã cầm cự được lâu như thế. Bây giờ tôi xin đưa ra tất cả những lời cáo lỗi của tôi về những gì mà ông đã phải chịu đựng, nhưng xin ông hãy đặt mình vào địa vị của tôi: tôi thể làm gì khác được? Vì nhớ đến người mẹ quá cố của nó, tôi không thể để cho sự bất hạnh đến với nó, khi mà tôi còn đủ sức bảo vệ cho nó tránh khỏi bất hạnh. Chỉ có ở nhà tôi là nó mới có một nơi nương náu. Làm thế nào để giữ nó lại mà không gây ra những lời phẩm bình nếu tôi không tìm cho nó một việc làm? Do đó tôi đã làm nó trở thành một giáo sư Anh văn, và tôi đã che chở nó trong ba năm. Chắc chắn ông đã nhận thấy không bao giờ nó đi ra ngoài lúc ban ngày. Hôm nay thì ông đã hiểu lý do của việc đó, nhưng tối hôm nay, khi ông báo cáo với tôi về sự hiện diện của một người đàn ông đang nhìn qua cửa sổ, thì tôi biết rằng nơi lẩn tránh của nó đã bị phát hiện. Tôi bảo nó ra đi ngay tức thì, nhưng nó đã uống rượu, thằng khốn nạn, và nó làm lơ đi. Sau hết, khi nó quyết định bỏ đi, nó muốn lấy tiền của tôi lấy tới đồng xu cuối cùng mà tôi đang có. Sự đột nhập của ông đã cứu được tôi, và sau đó sự xuất hiện của cảnh sát đã cứu được ông khi đến lượt ông bị nạn. Tôi đã vi phạm luật pháp khi chứa chấp một tên tù tại đào. Tôi ở lại đây dưới sự canh chừng của ông thẩm sát viên nhưng nhà tù làm cho tôi ít sự hãi hơn là ba năm mà tôi đã sống ở đây.
Lúc đó ông thẩm sát viên nói chen vào:
- Theo tôi thấy thì nếu ông vi phạm luật pháp thì ông cũng đã bị trừng trị đầy đủ rồi.
- Có Thượng đế biết điều này! - Tiến sĩ McCarthy kêu to lên, nước mắt đầm đìa.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:22:05 | Chỉ xem của tác giả
03. Sự việc xảy ra như thế nào ?

Bà ấy là bà cốt, một chuyên gia về lối chữ viết tự động. Dưới đây là những lời bà ấy viết :
Tôi có thể nhớ lại một vài điều về cái buổi tối hôm đó với rất nhiều sự chính xác, trong khi những điều khác thì giống như những giấc mộng mơ hồ, đứt đoạn. Tôi tuyệt nhiên không biết lý do nào đã đưa tôi tới Luân Đôn, từ nơi này tôi đã trở về nhà rất muộn. Buổi tối hôm đó đã lẫn lộn với tất cả những lần khác tôi lưu ngụ ở Luân Đôn. Nhưng từ lúc tôi xuống xe ở cái nhà ga nhỏ miền quê, tất cả mọi sự đều rõ ràng một cách kỳ diệu. Tôi có thể sống lại từng lúc một của thời gian này.
Tôi nhớ một cách rõ ràng là tôi đã đi dọc theo sân ga và đã nhìn cái đồng hồ được soi sáng của nhà ga : nó chỉ mười một giờ rưỡi. Tôi cũng nhớ là tôi đã tự hỏi liệu tôi có sẽ về nhà trước lúc nửa đêm không. Rồi tôi nhớ tới cái xe đồ sộ với những ngọn đèn pha sáng chói cà sự sáng chói cửa những miềng đồng của nó, đang đợi tôi ở bên ngoài. Đó là cái xe Robur mới 30 mã lực của tôi, vứa mới được giao cho tôi đúng vào ngày hôm đó. Tôi còn nhớ là đã hỏi Perkins người tài xế của tôi, rằng nó chạy ra sao, và đã nghe thấy anh ấy trả lời rằng đó là một cái xe rất tốt.
- Tôi sẽ chạy thử nó, tôi đã nói thế trong khi ngồi vào trước tay lái.
- Những tốc độ không phải cùng một thứ, anh ấy trả lời tôi. Thưa ông, có lẽ tốt nhất là hãy để cho tôi điều khiển nó …
- Không, thật tình tôi muốn chạy thử nó.
Và chúng tôi khởi hành để vượt tám cây số ngăn cách chúng tôi với nhà của tôi.
Cái xe cũ của tôi có những bánh pi-nhông có khấc trên một thanh sắt. Ngược lại trong cái xe này ta phải kéo cái cần qua một hàng song sắt để thay đổi tốc độ. Việc này không khó khăn lắm, và chả mấy chốc tôi tin rằng mình đã nắm vững được sự vận hành của máy móc. Tất nhiên thật là ngu ngốc khi muốn mình thành thạo với một phương pháp mới trong lúc ban đêm, nhưng người ta thường phạm chúng. Mọi việc đều trôi qua một cách tốt đẹp cho tới chân đèo Claystall. Đó là một trong những cái đèo tệ hại nhất của nước Anh, nó dài hai cây số rưỡi, với một tỷ lệ là 17% ở nhiều nơi và ba khúc ngoặt gấp. Hàng rào sắt của cái hoa viên của tôi nằm ngay ở phía bên kia ngọn đèo này; ngay ở dưới chân đèo, trên con đường lớn đi Luân Đôn.
Chúng tôi đã chạy gần tới đỉnh đèo thì những sự bực bội của tôi khởi sự. Tôi đã chạy hết ga, và tôi muốn xuống dốc để thả bật hơi, nhưng bột phận li kết bị kẹt, và tôi đành phải trở lại số ba. Cái xe chạy rất nhanh, tôi tìm cách tác động hai cái thắng, hết cái này tới cái nó, chúng đã phản bội tôi. Khi cái bàn đạp dưới chân tôi vang lên một tiếng khô khan, tôi đã không đến nỗi quá sợ hãi, nhưng khi tôi dùng hết sức lực kéo cái thắng tay, và khi cái cần đã lên mãi trên cao mà thắng vẫn không ăn, thì tôi toát mồ hôi lạnh. Chúng tôi phóng xuống đèo với hết tốc độ. Nhưng ngọn đèn pha chiếu sáng rất tốt. Tôi chạy qua khúc ngoặt thứ nhất một cách không chê trách được. Trong khúc ngoặt thứ hai tôi chạy sát cái hố, nhưng tôi đã lách ra được. Khúc ngoặt thứ hai cách xa khúc ngoặt thứ ba một ngàn năm trăm thước, tính theo đường thẳng; sau khúc ngoặt cuối cùng, tôi chỉ còn phải vượt qua hàng rào sắt của hoa viên nhà tôi. Nếu tôi lái được vào cái bến này thì tất cả mọi việc sẽ tốt đẹp cả, vì có một cái dốc đứng thẳng từ hàng rào sắt tới căn nhà của tôi, chắc chắn là cái xe sẽ tự nó dừng lại.
Perkins đã ứng xử một cách tuyệt diệu. Tôi muốn rằng chi tiết này phải được mọi người biết. Anh ấy hoàn toàn bình tĩnh, và chuẩn bị sẵn sàng cho mọi sự cố. Thoạt tiên tôi đã tính lao xuống bờ dốc, và anh ấy đã đoán được ý định của tôi.
- Thưa ông, nếu tôi thì tôi sẽ không làm như thế, anh ấy nói với tôi. Với tốc độ này chúng ta sẽ ngã đổ nhào
Anh ấy đã hoàn toàn có lý, anh ấy đã cắt đứt công tắc, chúng tôi đã chạy nhanh bằng những bánh xe được thả lỏng, không có động cơ, nhưng vẫn với một tốc độ khủng khiếp. Anh ấy đặt tay lên tay lái.
- Tôi sẽ giữ tay lái, anh ấy đề nghị với tôi, nếu ông muốn nhảy ra. Chúng ta sẽ không còn sống được để ra khỏi khúc ngoặt này. Thưa ông, tốt nhất là ông hãy nhảy ra đi !
- Không, tôi trả lời anh ấy. Tôi ở lại. Perkins à, nếu anh muốn, thì hãy nhảy ra đi.
- Thưa ông, tôi ở lại với ông.
Nếu là chiếc xe cũ thì tôi đã kéo cái cần tốc độ cho xe chạy giật lùi, và tôi đã thấy rõ điều gì sẽ xảy ra. Nhưng với cái xe mới thì thật là vô vọng. Những bánh xe kêu vù vù như một cơn gió lớn. Sườn xe kêu răng rắc và rên rỉ, nhưng các đèn pha vẫn chiếu sáng, và tôi có thể lái một cách chính xác. Tôi còn nhớ là tôi đã tưởng tượng ra cái hình ảnh khủng khiếp là chúng tôi sẽ tông vào người nào tình cờ đi tới từ hướng ngược chiều với chúng tôi. Con đường thì hẹp, người bất hạnh nào muốn gặp chúng tôi sẽ chết một cách khủng khiếp.
Chúng tôi chạy vào khúc ngoặt với một bánh xe nằm cách một thước bên trên bờ dốc. Tôi đã nghĩ rằng chúng tôi sẽ lật nhào, nhưng sau khi bị lắc lư một lúc, chiếc xe đã lấy lại được thăng bằng và lại tiếp tục chạy. Tôi đã vượt qua khúc ngoặt thứ ba, khúc cuối cùng. Bây giờ chỉ còn hàng rào sắt của hao viên. Nó đứng ở trước mắt chúng tôi, nhưng bất hạnh thay, không phải thẳng ngay trước mặt. Nó nằm vào khoảng hai mươi thước về phía bên trái, bên trên con đường. Có thẻ là tôi sẽ thành công, nhưng tôi nghĩ rằng bộ phận tay lái đã bị hư hại trong lúc chúng tôi chạy trên bờ dốc. Tay lái đã không văng lời tôi một cách tốt đẹp. Tôi trông thấy, ở phía bên trái, hàng rào sắt đươc mở ngỏ. Tôi đã nhằm thẳng vào với tất cả sức lực của các cổ tay của tôi. Perkins và tôi, cả hai chúng tôi đều gần như nằm rạp xuống. Trong một giây đồng hồ tiếp theo đó, đang chạy với tốc độ tám mươi cây số một giờ, bánh xe bên phải của tôi đụng vào cái cột của hàng rào sắt. Tôi nghe thấy sự chấn động. Tôi cảm thấy tôi bị bay tung lên không, rồi thì … Rồi thì …
Khi tôi tỉnh lại, tôi thấy mình nằm giữa những bụi cây, dưới bóng những cây sồi ở lối đi, ở mạn nhà của người gác cửa. Một người đàn ông đứng ở gần tôi. Tôi tưởng đó là Perkins, nhưng khi nhìn y một cách chăm chú thì tôi nhận ra là Stanley, một bạn học cũ mà tôi cảm thấy sự quý mến thật sự. Nhân cách của Stansley bao giờ cũng gợi lên trong tôi một cảm tình sôi động, và tôi thấy tự hào khi nghĩ rằng một sự tương ứng đã nảy sinh. Tuy nhiên tôi cũng khá kinh ngạc khi thấy anh ở đó, nhưng tôi giống như một người đang nằm mơ, người choáng váng, đật nát; hoàn toàn sẳn sàng chập nhận không cần bàn cãi mọi sự việc như chúng đã xảy ra.
- Tai nạn mới gớm làm sao ! Tôi nói. Trời ơi, tai họa mới lớn làm sao !
Anh ấy gật đầu đồng ý; trong bóng tối tăm tôi lại nhìn thấy nụ cười khả ái, thông minh của anh ấy.
Tôi đã hoàn toàn bất lực không ngọ nguậy được. Thật ra tôi đã không có một chút ý thích nào để thử ngọc nguậy. Trái lại, các giác quan của tôi vẫn tỉnh táo một cách đặc biệt. Tôi nhìn thấy cái xác xe nát vụn của tôi mà những ngọn đèn lồng đang soi sáng, những ngọn đèn lồng luôn luôn động đậy, tôi nhìn thấy một ít nhóm ít người và tôi nghe thấy những tiếng nói nghẹn ngào. Ở đó có người gác cửa và vợ anh ấy, cộng thêm vài người khác. Họ không bận tâm tới tôi, nhưng họ bu túm chung quanh cái xe. Bỗng nhiên tôi nghe thấy một tiếng kêu đau đớn.
- Sức nặng nghiền nát anh ấy, hãy nâng nó lên một cách nhẹ nhàng ! Một tiếng nói quát lên
- Chỉ có chân tôi thôi, một tiếng nói khác rên rĩ mà tôi nhận ra như là tiếng của Perkins. Ông chủ của tôi đâu rồi ?
- Tôi ở đây này ! Tôi trả lời.
Nhưng không có ai tỏ vẽ nghe thấy tôi nói. Tất cả mọi người đểu cúi xuống trên một vật gì nằm phía trước cái xe.
Stanley đặt một bàn tay lên vai tôi, và sự đụng chạm này là cực kỳ an ủi đối với tôi. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và sung sướng, bất chấp tất cả mọi sự.
- Tất nhiên là anh không đau đớn chứ ? Anh ấy hỏi tôi.
- Không đau đớn chút nào.
- Không bao giờ người ta đau đớn cả
Lúc đó bỗng nhiên sự kinh hoàng tràn ngập lòng tôi. Stanley ! Stanley ! Nhưng kìa, Stanley đã chết vì bệnh thương hàn trong trận chiến tranh của người Boers rồi mà !
- Stanley ! Tôi gào lên, cổ họng nghẹn lại. Stanley, bạn đã chết rồi mà !
Anh ấy nhìn tôi với nụ cười khả ái, thông minh xưa cũ của anh ấy.
- Anh cũng vậy, anh ấy trả lời tôi.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:22:42 | Chỉ xem của tác giả
04. Hồn ma hiện lên từ đáy biển

Khi nào mà các đại dương vẫn còn những lợi gân nối liền các phần khác nhau của Đế quốc Anh thì chúng ta vẫn sẽ không tránh khỏi những chuyện hoang đường. Vì linh hồn người ta tự để cho bị khuấy động bởi nước, cũng giống hệt như nước phải vâng theo mặt trăng và khi những con đường lớn của một đế quốc bị bao quanh bởi nỗi hỉêm nguy muôn thuở, cũng phong phú về những cảnh trí và âm thanh kỳ lạ, người ta phải có một tinh thần khá thâm hậu để giữ được thản nhiên trước những điều ác hại của chúng. Hiện nay nước Anh đang vươn ra rất xa bên ngoài chính quốc, khi mà ba ngàn dặm hải phận của mỗi mạn duyên hải làm thành cương giới mà nó đã đoạt được bởi cái búa, cái khuôn dệt và cái cuốc nhọn hơn là bởi những nghệ thuật của chiến tranh. Quả thật lịch sử đã đoán chắc với chúng ta rằng không một ông vua nào, không một đạo quân nào có thể cản đường của một người chỉ có hai đồng tiền trong két sắt nhưng biết rằng ở nơi nào y sẽ có thể biến hai đồng tiền thành ba đồng, và để hết trí thông minh vào việc đi tới nơi đã định. Và vì cương giới đã mở xa ra, trí thông minh của Anh Quốc cũng được nới rộng và tràn lan ra một cách đầy đủ trên khắp thế giới để cho tất cả mọi người thấy rằng những con đường của hải đảo có tính cách châu lục, giống hệt như những con đường của châu lục đều có tính cách hải đảo.
Nhưng để tới được chỗ đó, người ta đã phải trả một cái giá, và cái giá này cứ tiếp tục tốn kém hơn. Cũng giống như con quái vật thời xưa phải nhận được dưới dạng cống phẩm hàng năm một người trai trẻ, với đế quốc của chúng ta cũng thế, hàng ngày chúng ta phải hy sinh cái tinh hoa của thế hệ thanh niên của chúng ta. Guồng máy thì bao la và dũng mãnh nhưng nhiên liệu duy nhất làm cho nó vận hành là sinh mạng của dân Anh. Đó là lý do tại sao khi ở trong những giáo đường cổ kính màu xám chúng ta nhìn thấy những danh tính xa lạ: những danh tính mà cả những người xây các bức tường này cũng không biết, vì chính ở Peshawar, ở Umbellah, ở Korti, ở Fort Pearson mà những chàng trai trẻ chết, mà chỉ để lại phía sau họ truyền thuyết và một tấm biển. Nếu bên trên mỗi cái xác người Anh có một đài kỷ niệm được dựng lwn thì người ta sẽ không cần vạch ra cương giới, vì một sợi dây thừng của những ngôi mộ sẽ chỉ rõ làn sóng của dân Anh và Celtes đã vờ tới nơi nào.
Cả điều đó nữa, đồng thời với những khối nước nối liền chúng ta với thế giới, đã đóng góp vào những chuyện hoang đường mà chúng ta thấm nhuần. Khi mà bao nhiêu người đàn ông và đàn bà đã có ở phía bên kia đại dương những người mà họ yêu quý và những người này đang tiến lên dưới làn đạn của dân sơn cước hoặc trong những đầm lầy của bệnh sốt rét rừng, thì lúc đó tâm hồn đi vào sự giao cảm với tâm hồn, và những truyện ly kỳ nẩy sinh, những mộng mị, những sự linh cảm, những ảo tưởng trong đó một bà mẹ trông thấy con trai bà đang chết và bà ngất đi trong cơn tuyệt vọng, ngay cả trước khi cái tang của anh ta được loan báo cho bà. Mới gần đây khoa học đã chiếu cố tới vấn đề này và đã ban cho nó một cái nhãn hiệu, nhưng chúng ta đã biêt gì hơn nếu không phải là việc một linh hồn bị hành hạ và tới bước cũng đã có thể phóng qua mặt đất, vào một khoảng cách mươi lăm ngàn cây số, cái hình ảnh của tình cảnh đau buồn của y tới tận tâm trí của người thân cận nhất của y? Tôi không hề phủ nhận cái quyền năng đó, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải khôn ngoan trong những vấn đề như vậy, vì ít nhất đã có một lần tôi biết rằng những điều trong khuôn khổ các định luật tự nhiên có thể hoàn toàn nằm ngoài những vấn đề này.
John Vansittart là hội viên thứ nhì của công ty Hudson et Vansittal, công ty xuất khẩu cà phê ở Ceylan ( Tích Lan). Ông vốn là người gốc Hà Lan, nhưng 100% Ăng-Lê trong lòng các phong độ. Đã nhiều năm tôi làm đại diện cho ông ở Luân Đôn. Khi ông tới Anh quốc để nghỉ ngơi ba tháng, ông nói với tôi để có những sự giới thiệu cho phép ông làm quen với đời sống ở thị thành và ở thôn quê. Ông đã rời khỏi các văn phòng của tôi với bảy bức thư trong túi áo. Trong một vài tuân, những bức thư ngắn từ nhiều nơi khác nhau gửi tới báo tin cho tôi biết là ông đã lấy được cảm tình của các bạn tôi. Rồi tôi được tin là ông đã đính hôn vơi Emily Lawson, thuộc ngành thứ của gia đình nhà Hereford Lawson, và gần như ngay sau đó họ đã thành hôn: sự tán tỉnh của một du khách chỉ có thể chóng vánh thôi, và cái ngay ông phải xuống tàu của công ty, một cái tàu buồn một ngàn tấn: đó sẽ là chuyến đi chơi tuần trăng mật của họ.
Thời đó là thời cực kỳ thuận lợi cho các nhà trồng cà phê ở Ceylan, họ đã chưa từng biết cái mùa khủng khiếp mà chỉ trong vài tháng thôi, nhưng đã làm lụi bại tất cả một cộgn đồng này nhờ ở sự dũng cẩm và kiên trì, sẽ lại dành được một thắng lợi thứ hai: quả thực những cánh đồng trà ở Tích Lan là một đại công trình của lòng dũng cảm của dân Anh, giống hệt như con sư tử ở Waterloo. Nhưng trong năm 1872 chưa có một đám mây nào đe doạ ở chân trời. Những hy vọng của các nhà trồng tỉa thật tràn trề, Vansittart trở lại Luân Đôn cùng với cô vợ trẻ đẹp của ông. Ông giới thiệu cô với tôi, chúng tôi cùng ăn bữa tối với nhau, và cuối cùng thì ông đồng ý rằng, vì các công việc củng đòi hỏi sự có mặt của tôi ở Tích Lan, tôi sẽ là bạn đồng hành của họ trên tau Eastern Star, mà sự nhổ neo rời bến đã được định trước vào ngay thứ hai sắp tới.
Tôi gặp lại ông vào buổi tối ngày chủ nhật. Ông đi vào trong nhà tôi với một vẻ băn khoăng và bực bội. Khi tôi bắt tay ông, tôi nhận thấy bàn tay ông nóng và khô.
- Ông Atkinson ạ, ông nói với tôi, tôi muốn ông bảo người nhà pha cho tôi một chút nước chanh và nước lạnh. Nói theo nghĩa đen, tôi đang chết khát đây, và tôi càng uống bao nhiêu thì tôi càng muốn uống nữa.
Tôi bấm chuông và gọi lấy một bình nước và những cái cốc.
- Ông đang bị sốt nóng lạnh, toi nói với ông, ông có vẻ đang khó ở đó.
- Không, tôi không cảm thấy khoẻ mạnh lắm. Tôi bị đau phong thấp ở lưng, và tôi ăn không ngon. Chính cài thành phố Luân Đôn chết tiệt này làm tôi nghẹt thở. Tôi không quen hít thở cái không khí mà bốn triệu buồng phổi cùng khuấy trộn lên cùng một lúc.
Ông vung vẩy hai bàn tay co quắp trước mặt ông: thật sự ông đã cho người ta một ấn tượng của sự ngột ngạt.
- Một khi ông ở trên mặt biển, ông sẽ cảm thấy khoẻ khoắn ngay.
- Đúng. Về điều đó thì tôi đồng ý với ông, Đó là việc cần thiết của tôi. Tôi không cần tới một vị y sĩ khác. Nếu ngày mai tôi không xuống tàu thì tôi sẽ phát ốm.....
Ông uống một hơi hết cốc nước chanh và ông xoa chỗ sống lưng bằng hai bàn tay ông.
- Người ta nói rằng điều đó sẽ tốt cho tôi, ông nói tiếp trong khi nhìn tôi với một con mắt rầu rỉ. Bây giờ tôi cần có sự giúp đỡ của ông, ông Atkinson ạ, vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh tế nhị.
- Hoàn cảnh thế nào?
- Đây này, bà mẹ vợ tôi bị ngã bệnh và bà ấy đã đánh điện gọi vợ tôi tới bên giường bệnh của bà ấy. Tôi đã không thể đi theo vợ tôi (ông biết rõ hơn ai hết là tôi đã bị cầm chân lại ở đây ) và vợ tôi đành phải đi một mình. Bây giờ tôi lại vừa nhận được một bức điện khác nói là ngày mai vợ tôi không thể tới được, nhưng nàng sẽ bắt kịp con tàu ở Falmouth vào ngày thứ tư. Ông biết đó, chúng tôi sẽ đạu lại ở đó: nhưng Atkinson ạ, tôi thấy thật là khó cho người ta đòi hỏi một người phải tin vào sự huyền bí, và người ta sẽ nguyền rủa, nếu y không thể tin vào điều đó, người ta sẽ nguyền rủa y, ông hãy hiểu tôi đi!
Ông cúi xuống phía trước và khịt mũi làm như thể ông sắp khóc oà lên.
Lúc đó tôi nghĩ tới việc người ta đã nói rất nhiều với tôi về những tập tục ở hải đảo và về cách thức người ta uống rượu không pha ở đó. Chắc hẳn rượu đã là nguyên nhân của những lời nói khó hiểu này và của những bàn tay đang lên cơn sốt này! Tôi cảm thấy một sự lo sợ mạnh mẽ khi trông thấy một người trai trẻ cao quý như vậy nằm trong tay một con quỉ ghê tởm nhất trong số tất cả những con gái.
- Ông phải đi nằm nghỉ! Tôi nói một cách nghiêm nghị.
Ông dụi mắt như thể ông tìm cách tự làm cho mình tỉnh lại, và ông nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.
- Tôi sẽ đi tới đó, ông nói với tôi một cách bình thản, lúc nãy tôi cảm thấy hơi choáng váng, nhưng bây giờ tôi đã hồi phục rôi. Này, tôi đang nói về về việc gì thế? À, dĩ nhiên là về vợ tôi rồi! Nàng sẽ xuống tàu ở Falmouth. Tôi tin rằng sức khoẻ của tôi tuỳ thuộc vào sự đi đường biển. Tôi cần có chút ít không khí trong lành trong phổi tôi để tôi có thể hoàn toàn bình phục. Do đó tôi xin ông hãy làm cho một việc với tư cách bạn bè, ông sẽ đí tới Falmuoth bằng xe lửa, phòng trường hợp mà chúng tôi tới trẻ, và lúc đó ông sẽ trông nom cho vợ tôi. Ông hãy tới khách sạn Royal; tôi sẽ đánh điện cho nàng là ông trú chân ở đó. Em gái của nàng sẽ đi theo nàng tới tận đó, như thế là mọi việc sẽ tốt đẹp.
- Rất vui lòng, tôi trả lời. Thật sự tôi không đòi hỏi gì hơn là được đi tới Falmuoth bằng xe lửa, vì từ đây tới Colombo chúng ta sẽ có nhiều thời gian thưởng thức biển cả. Tôi cũng nghĩ rằng ông có một nhu vầu khẩn thiết về sự thay đổi không khí. Nếu ở địa vị ông tôi sẽ đi nằm nghỉ ngay tức thì.
- Phải. Đêm hôm nay tôi sẽ ngủ trên tàu. Ông thấy đó một thứ sương mù còn lởn vởn trước mắt ông.
- ....Mấy đêm nay tôi không ngủ được nhiều, tôi đã gặp mâu thuẫn với các nhà thần học....nghĩa là.....
Trong một sự cố gắng tuyệt vọng, ông kêu lên :
- ....Bởi những sự hoài nghi có tính cách thần học...Xì! Tôi tự hỏi tại sao đấng tối cao toàn năng lại tạo ra chúng ta, tại sao. Ngài lại làm cho chúng ta ngu độn và gài những sự đau đớn lặt vặt vào sống lưng của chúng ta. Có lẽ là tối nay tôi sẽ khá hơn!
Ông đứng dậy và bám thấy cái lưng ghế của ông.
- Ông Vansittart! Xin ông hãy nghe tôi! Tôi nói với sự nghiêm trọng. Tối nay tôi sẽ mời ông ở đây với tôi, ông không ở trong tình trạng để đi ra ngoài được. Ông không đi ngay ngắn được. Ông đã uống những thứ pha trộn của rượu...
- Rượu hả ?
Ông nhìn thằng vào mắt tôi với một cái nhìn ngớ ngẩn .
- Thường nhật thì ông chịu đựng khá hơn khi uống rượu mà.
- Ông Ankinson này, tôi thề với ông là đã từ hai ngày nay tôi không uống một cốc rượu, tôi không biết là tôi đã uống cái gì. Tôi giả thiết rằng ông nghĩ đó là hiệu ứng của rượu....
Ông nắm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên trán ông.
- Lạy chúa tôi! Tôi kêu phải lên.
Ông có làn da mỏng như một dải nhung, dưới lớp da tôi cảm thấy như một lớp chi chít những miêng chỉ lụn vụn.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách