Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: MinhHạ
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Cuộc Săn Cừu Hoang | Haruki Murakami (Hết)

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:24:47 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37: Những Điều Gương Phản Chiếu, Những Điều Không


Vào buổi sáng ngày thứ mười, tôi quyết định quên đi mọi thứ. Tôi đã quên đi những gì nên quên.

Tôi đang chạy nửa chừng thì tuyết lại rơi. Lần này là một màn tuyết mờ đục, một thứ mưa tuyết nhớt nhớp nháp, ướt nhèm gần như những tinh thể băng. Không giống như thứ tuyết xốp mềm lần đầu tiên, tuyết lần này bẩn khiếp. Nó dính chặt vào người. Tôi bỏ dở không chạy nữa, về nhà mở nước vào bồn tắm. Trong khi nước ấm dần lên, tôi ngồi phịch xuống trước máy sưởi, nhưng vẫn không thấy ấm. Một cơn gió lạnh ẩm ướt đã thấm vào người tôi. Tôi không thể co ngón tay lại, tai tôi nóng rẫy và có cảm giác giòn tan, như thể chúng sẽ gãy ra bất cứ giây nào. Da dẻ toàn thân có cảm giác như thứ giấy bột rẻ tiền.

Ba mươi phút ngâm mình trong bồn tắm cùng trà nóng pha chút brandy cuối cùng khiến cơ thể tôi trở lại bình thường, mặc dù hai tiếng sau đó tôi phải chịu lạnh từng cơn. Vậy ra mùa đông trên núi là thế này đây.

Tuyết tiếp tục rơi mãi cho đến lúc tối, phủ màu trắng lên cả cánh đồng. Tuyết chỉ ngừng rơi khi màn đêm bao trùm thế giới trong bóng tối, và một lần nữa một sự im lặng lan tỏa như sương mù. Một sự im lặng tôi không làm gì để chối bỏ được. Tôi đặt máy hát ở chế độ tự động chơi lại và lắng nghe bản Giáng sinh Trắng hai mươi sáu lần.

Tuyết không lưu lại trên mặt đất lâu. Đúng như Người Cừu dự đoán, phải một thời gian nữa mặt đất mới đóng băng. Ngày hôm sau, ngày thứ mười một của tôi, sáng sủa và rõ ràng. Mặt trời hào phóng chờ đợi cơ hội, để lại trên đồng cỏ những mảng tuyết nằm đây đó, lấp lánh trong nắng. Tuyết tích tụ trên đầu hồi mái nhà rơi xuống thành những tảng băng vỡ tan trên mặt đất kèm những tiếng thình thịch nghe đến là bực bội. Mọi thứ đều lấp lánh. Mỗi một giọt nhỏ bám ở đầu mỗi chiếc lá sồi đều sáng lóa.

Tôi thọc tay vào túi áo đứng cạnh cửa sổ, nhìn chăm chăm ra ngoài. Ngoài kia, mọi thứ trải ra hoàn toàn cách biệt khỏi tôi. Không hề liên quan đến sự tồn tại của tôi – không hề liên quan đến sự tồn tại của bất cứ ai – mọi thứ đến rồi đi. Tuyết rơi, tuyết tan.

Tôi quyết định đi lau dọn nhà đôi chút, nhạc nền là tiếng tuyết rơi và đổ. Lẩn tránh trong nhà vì tuyết, cơ thể tôi cần phải làm gì đó; ngoài ra, chẳng phải tôi là khách trong nhà người khác đó sao? Tôi chưa bao giờ là người không thích lau dọn và nấu nướng.

Tuy vậy, lau dọn một ngôi nhà lớn hóa ra lại là công việc nặng nhọc hơn tôi tưởng nhiều. Chạy bộ mười lăm cây số còn dễ hơn. Tôi phủi bụi mọi ngóc ngách, rồi đẩy máy hút bụi đi vòng quanh. Tôi lau ẩm sàn gỗ, rồi bò ra đánh bóng sàn bằng sáp. Việc này khiến tôi mệt đến gần đứt hơi, nhưng nhờ bỏ thuốc lá, tôi vẫn còn thở được. Không còn tiếng khò khè khọt khẹt kinh khủng trong cổ họng nữa.

Tôi vào bếp uống một ly nước nho lạnh và hoàn thành việc sắp xếp cho ngăn nắp những gì còn lại trong một đợt lau dọn trước buổi trưa. Tôi mở toang cửa chớp, thế là sàn nhà mới đánh sáp sáng bóng lên. Hương đất nồng nơi miền quê quyện với mùi sáp tạo nên sự hòa hợp tuyệt vời và gợi nhắc quá khứ.

Tôi giặt những miếng giẻ dùng để đánh bóng sàn, rồi đun nước. Để nấu món mì ống, tôi trộn trứng cá tuyết, kha khá bơ, rượu vang trắng và nước tương. Một bữa trưa thật ngon, lại có cả tiếng kêu của một con chim gõ kiến từ cánh rừng gần đó.

Tôi ăn nhanh món mì ống, rửa bát đĩa, rồi quay trở lại công việc. Tôi cọ bồn tắm và chậu rửa, lau nhà vệ sinh, đánh bống đồ đạc. Trước hết, nhờ Chuột, không có gì quá bẩn; chỉ cần xịt ít thuốc đánh bóng là đủ. Sau đó lôi ống nước dài ra và rửa qua cửa sổ với cửa chớp. Nhờ vậy, cả ngôi nhà trở nên gọn gàng mát mẻ hơn. Sau khi rửa qua cửa sổ, việc lau dọn của tôi kết thúc. Tôi dành hai tiếng còn lại trước khi trời tối để nghe nhạc.

Khi đi đến phòng Chuột để mượn một cuốn sách khác, tôi để ý đến tấm gương đứng soi được cả người ở chân cầu thang. Tôi đã bỏ sót nó, và nó rất bẩn thỉu. Tôi dùng một miếng vải lau, nhưng có tốn bao nhiêu công lau chùi và nước rửa kính thì cái gương vẫn không sạch. Tôi không thể hiểu tại sao Chuột lại để chiếc gương này bẩn thỉu đến vậy. Tôi xách đến một xô nước ấm và dùng bàn chải bằng ni lông cọ đi hết lớp dầu nhờn đã đóng cứng. Bụi bẩn trên gương biến nước trong xô thành màu đen sì.

Bằng vào chiếc khung gỗ chạm trổ, có thể thấy tấm gương là đồ cổ, có lẽ khá đáng giá, vì thế tôi cẩn thận không lau chùi quá mạnh.

Tấm gương phản chiếu hình ảnh tôi từ đầu đến chân, không hề sai lạc, hầu như nguyên vẹn. Tôi đứng ngắm chính mình. Không có gì mới. Tôi là tôi, với vẻ mặt không có gì đặc biệt xưa nay. Tuy nhiên hình ảnh tôi lại rõ nét một cách không cần thiết. Đó không phải hình phản chiếu phẳng của tôi. Tôi đang không nhìn vào chính mình; trái lại, cứ như thể tôi mới là hình phản chiếu trong gương và cái hình ảnh phẳng của tôi này đang nhìn vào cái thằng tôi thật sự. Tôi đưa tay phải lên trước mặt và lau miệng. Thằng tôi trong tấm gương cũng đưa ra cử động tương tự. Nhưng có lẽ chính tôi đang bắt chước những gì thằng tôi trong gương đã làm. Tôi không thể tin chắc được là mình đã tự ý lau miệng.

Tôi sắp xếp từ “tự ý” trong đầu vào dùng tay trái véo tai mình. Thằng tôi trong gương làm y hệt. Có vẻ như hắn đã sắp xếp từ “tự ý” trong đầu hắn hệt như cách tôi đã sắp xếp.

Tôi ngừng lại rồi bỏ đi. Hắn cũng bỏ đi.

Vào ngày thứ mười hai, tuyết rơi lần thứ ba. Tuyết rơi trước khi tôi tỉnh dậy. Một trận tuyết yên lặng khủng khiếp, lần này không cứng cũng không ướt nhớp nháp. Xoay tròn chậm chạp từ trên trời xuống, tan ra trước khi tạo nên bất cứ cái gì. Loại tuyết rơi lặng lẽ khiến ta nhắm mắt, thật nhẹ nhàng.
Tôi lôi cây ghi ta khỏi phòng chứa đồ và, sau khi mất bao khó khăn lên dây, thử chơi mấy bản nhạc cũ. Tôi tập bản Thư đặc biệt đường hàng không của Benny Goodman, và chẳng mấy chốc đã đến đúng ngọ. Tôi làm món bánh mì gồm những lát thịt lợn hun muối dầy cộp kẹp trong bánh mì tự làm giờ đã cứng như đá, rồi mở một lon bia. Sau khi tôi tập ghi ta thêm ba mươi phút nữa, một người xuất hiện, còn ai vào đây nữa, ngoài Người Cừu.
“Nếu anh thấy phiền thì tôi sẽ đi,” Người Cừu nói với qua cửa ra vào mở toang.

“Không, không phiền chút nào cả. Dù sao thì tôi cũng đang chán đây,” tôi nói, đặt cây ghi ta dưới sàn.

Người Cừu đập cho bùn rơi khỏi ủng hệt như lần trước, rồi bước vào. Cơ thể hắn có vẻ mập ra trong bộ quần áo lông cừu dày cộp. Hắn ngồi trên xô pha đối diện tôi, tay đặt lên thành ghế và chỉnh lại tư thế cho thoải mái.

“Tuyết chưa lưu lại trên mặt đất à?” tôi hỏi.

“Chưa đâu.” Người Cừu trả lời. “Có thứ tuyết lưu lại trên mặt đất và có thứ tuyết không. Đây là loại tuyết không lưu lại trên mặt đất.”

“Hừm.”

“Thứ tuyết lưu lại trên mặt đất sẽ đến vào cuối tuần tới.”

“Anh uống bia không?”

“Cám ơn. Nhưng tôi thật ra muốn uống một ly brandy.”

Tôi vào bếp, lấy cho hắn một ly brandy và mình một lon bia, rồi mang cả vào phòng khách cùng với bánh mì kẹp pho mát.

“Anh đang chơi ghi ta.” Người Cừu Nói thích thứ. “Chúng tôi cũng yêu âm nhạc. Dù vậy tôi không biết chơi nhạc cụ gì.”

“Tôi cũng thế. Chẳng chơi gì đã gần mười năm.”

“Không sao đâu à chơi bản gì cho tôi đi.”

Tôi không muốn làm Người Cừu mất vui, vì thế tôi chơi hết giai điệu bản Thư đặc biệt đường hàng không, chơi ngẫu hứng đoạn đồng ca rồi chơi thêm một đoạn ngẫu hứng, sau đó không đếm kịp nhịp nên bèn dừng lại.

“Anh chơi khá đấy,” Người Cừu nói có vẻ vô cùng nghiêm túc. “Chắc hẳn chơi một loại đàn phải thích lắm nhỉ?”

“Nếu chơi tốt. Nhưng nếu muốn chơi tốt, ta phải luyện tai. Và khi đã luyện tai rồi, ta lại trở nên thất vọng với việc chơi đàn của mình.”

“Thôi nào thật thế sao?” Người Cừu nói.

Người Cừu nhấm nháp từng ngụm rượu nhỏ một cách thanh nhã từ cốc brandy nhỏ, trong khi tôi uống bia lon.

“Tôi không thể chuyển lời nhắn của anh.” Người Cừu nói.

Tôi gật đầu.

“Tôi đến đây chỉ để thông báo thế thôi.”

Tôi liếc nhìn cuốn lịch trên tường. Chỉ còn ba ngày nữa là đến hạn chót, ngày đến hạn đánh dấu mực đỏ. Nhưng điều đó có nghĩa gì nữa đâu?

“Mọi thứ đã thay đổi,” tôi lớn tiếng. “Tôi, giận giận lắm. Chưa bao giờ trong đời tôi lại giận dữ như thế này.”

Người Cừu ngồi đó, cốc rượu nhỏ trong tay, và không nói gì.

Tôi cầm đàn ghi ta lên đập mạnh mặt sau đàn vào những viên gạch lò sưởi. Cùng với cú đập là một tiếng tưng vang to chói tai của dây đàn. Người Cừu bay ra khỏi xô pha, tai hắn vẫn còn run lẩy bẩy.

“Tôi có quyền giận dữ,” tôi nói, nhấn mạnh sự thật ấy với chính mình hơn là với Người Cừu. Thôi nào, tôi đúng là có quyền giận dữ.

“Tôi cảm thấy khó nghĩ khi không thực hiện việc được anh nhờ. Nhưng anh phải hiểu cho. Chúng tôi thật sự quý mến anh.”

Hai chúng tôi đứng đó. Chúng tôi nhìn tuyết. Tuyến mịn mượt như bông nhồi rơm ra từ trong đám mây bị xé rách.

Tôi vào bếp lấy một lon bia nữa. Mỗi lần tôi đi qua cầu thang, chiếc gương vẫn ở đó. Cái thằng tôi kia có vẻ cũng đi lấy một lon bia nữa. Chúng tôi nhìn thẳng vào mặt nhau và thở dài. Sống trong hai thế giới tách biệt, chúng tôi vẫn cùng nghĩ về mọi thứ. Cứ như Groucho và Harpo trong bộ phim Xúp Vịt.
Phòng khách đằng sau tôi được phản chiếu trong gương. Hay là phòng khách đằng sau hắn nhỉ? Phòng khách đằng sau tôi và phòng khách đằng sau hắn là một. Cũng cùng một chiếc xô pha, cùng một tấm thảm, cùng một chiếc đồng hồ và tủ sách, mọi thứ giống hệt nhau. Xét theo nghĩa phòng khách thì không đặc biệt bất tiện, nhưng không thể nói là có gu thẩm mỹ tinh tế nhất. Tuy vậy có gì đó khang khác. Hoặc có thể đơn giản là tôi cảm thấy có điều gì đó khác.

Tôi vơ lấy một lon Löwenbrau xanh khác và trên đường quay lại phòng khách, lon bia trong tay, tôi nhìn thêm lần nữa vào phòng khách trong gương, rồi nhìn lại phòng khách. Người Cừu trên xô pha, lơ đãng nhìn ra ngoài tuyết.

Tôi kiểm tra Người Cừu trong gương. Nhưng không có Người Cừu nào trong gương! Không có ai trong phòng khách cả, chỉ có chiếc xô pha trống không. Trong thế giới trong gương, tôi có một mình. Nỗi khiếp sợ chạy dọc sống lưng tôi.

“Trông anh xanh xao đấy,” Người Cừu nói.

Tôi ngồi thụp xuống xô pha và không nói gì, kéo khoen ở nắp hộp bia và làm một ngụm.

“Có lẽ bị lạnh. Mùa đông nơi này có thể làm ta khó chịu nếu ta không quen. Không khí cũng ẩm ướt. Hôm nay anh nên đi ngủ sớm.”

“Không”, tôi nói. “Hôm nay tôi sẽ không đi ngủ. Tôi sẽ đợi bạn tôi ở đây. Nếu anh gặp cậu ấy, nói với cậu ấy thế. Mặc dù tôi không nghĩ điều đó cần thiết”.

Người Cừu gật đầu một cách hiểu biết. “Chắc chắn sẽ cô đơn khi anh đi rồi. E rằng đành phải chấp nhận thôi. Tiện thể anh cho tôi xin cái bánh mì kẹp pho mát ấy được không?”.

“Chắc chắn rồi”.

Người Cừu bọc cái bánh mì kẹp vào trong khăn giấy, nhét vào trong túi, rồi đem găng vào.

“Hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau”, Người Cừu nói trong lúc ra đi.

“Chúng ta sẽ gặp lại,” tôi nói.

Người Cừu băng qua đồng cỏ về phía Đông. Cuối cùng, màn tuyết nuốt chửng hắn. Sau đó tất cả là yên lặng.

Tôi đổ khoảng một đốt tay rượu brandy vào cốc nhỏ của Người Cừu và uống một hơi hết sạch. Cổ họng tôi bỏng rát, và dần dần dạ dày tôi bỏng rẫy, nhưng sau ba mươi giây cơ thể tôi ngừng run. Chỉ có tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc đang đập trong đầy tôi.


Có lẽ tôi cần ngủ đôi chút.

Tôi lấy chăn trên gác xuống và ngủ trên xô pha. Tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức, như một đứa bé đi lang thang trong rừng đã ba ngày. Tôi nhắm mắt và ngay lập tức thiếp đi.

Tôi có một giấc mơ kinh hoàng. Một giấc mơ quá kinh hoàng để có thể gợi nhớ lại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:27:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38: Và Thế Là Thời Gian Trôi Đi


Bóng tối rón rén bò qua tai tôi như dầu. Ai đó đang cố dùng một cây búa đồ sộ đập vỡ quả cầu trái đất đã bị đóng băng. Chiếc búa bổ lên quả đất đúng tám lần. Nhưng quả đất không chịu vỡ. Nó chỉ bị rạn một chút.

Đã tám giờ, tám giờ tối.

Tôi lắc đầu hốt hoảng thức dậy. Có thể tôi tê dại đi, đầu tôi đau nhức. Liệu có phải ai đó đã đặt tôi vào một cái bình trộn rượu cocktail với đá nghiền rồi lắc qua lắc lại như điên để khiến tôi thức tỉnh?

Không có gì tồi tệ hơn là thức dậy trong bóng tối hoàn toàn. Giống như phải quay lại sống từ đầu. Khi tôi mới mở mắt ra, cứ như thể tôi đang sống cuộc đời của một người khác. Sau một lúc thật lâu, cuộc đời ấy mới bắt đầu khớp với cuộc đời của tôi. Thật là một sự chồng chéo kỳ cục, cuộc đời tôi như cuộc đời của một ai đó. Tôi thậm chí còn không chắc là một người như bản thân tôi lại đang tồn tại.

Tôi đi đến bên chậu rửa trong bếp, vã nước lên mặt, rồi uống nhanh vài ly nước. Nước lạnh như đá, nhưng mặt tôi vẫn nóng rẫy. Tôi ngồi xuống xô pha trong bóng tối, yên lặng, rồi từ từ bắt đầu tập hợp lại những mảnh đời mình. Tôi không thu thập được nhiều lắm, nhưng ít ra đó là cuộc đời tôi. Tôi trở về với chính mình một cách chậm rãi. Thật khó giải thích trở về với chính mình là thế nào, và chắc chắn có giải thích thì rồi cũng sẽ làm người ta mất hết hứng thú.

Tôi có cảm giác ai đó đang quan sát mình, nhưng tôi không thèm để ý. Đó là cảm giác người ta có khi một mình trong căn phòng rộng lớn.

Tôi nghĩ về tế bào. Như vợ cũ tôi nói, rốt cuộc thì mọi tế bào cuối cùng trong ta sẽ mất đi. Thậm chí chính bản thân ta cũng biến mất. Tôi áp lòng bàn tay lên má. Tôi nghĩ khuôn mặt mà bàn tay tôi đang chạm vào trong bóng tối không phải khuôn mặt tôi. Đó là khuôn mặt của một người khác mang hình dáng khuôn mặt tôi. Nhưng tôi không thể nhớ được chi tiết. Mọi thứ – tên, cảm giác nơi chốn – tan biến và bị nuốt chửng vào bóng tối.

Trong bóng tối đồng hồ điểm tám giờ rưỡi. Tuyết đã ngừng, nhưng màn mây dầy đặc vẫn còn bao phủ bầu trời. Không ở đâu có ánh sáng. Một lúc lâu, tôi nằm vùi trong xô pha, miệng ngậm ngón tay. Tôi không thể thấy tay mình. Máy sưởi đã tắt nên căn phòng lạnh giá. Nằm cuộn tròn trong chăn, tôi thẫn thờ nhìn chằm chằm ra ngoài. Tôi đang thu mình dưới đáy giếng sâu.

Thời gian. Những hạt bóng tối sắp xếp nên những mẫu hình bí ẩn trên võng mạc mắt tôi. Những mẫu hình tan biến không một tiếng động, rồi lại được thay thế bằng những mẫu hình mới. Bóng tối và chỉ có bóng tối mà thôi đang chuyển dịch, như thủy ngân trong không gian bất động.

Tôi thôi không nghĩ ngợi gì và để thời gian trôi qua. Hãy để thời gian mang tôi đi. Mang tôi đến nơi mà một bóng tối mới đang sắp xếp nên những mẫu hình mới hơn nữa.

Đồng hồ điểm chín giờ. Khi hồi chuông thứ chín lắng dần, sự yên lặng len vào thế chỗ nó.

“Cho phép tớ nói một lời được không?” Chuột nói.

“Được thôi.” tôi nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:32:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 39: Những Kẻ Sống Trong Bóng Tối


“Được thôi,” tôi nói.

“Tớ đến sớm một tiếng trước giờ hẹn,” Chuột nói như biết lỗi.

“Không sao đâu. Cậu thấy đấy, tớ có đang làm gì đâu.”

Chuột cười lặng lẽ. Hắn ở sau tôi. Như thể chúng tôi hầu như đang quay lưng vào nhau.

“Cứ như ngày xưa nhỉ,” Chuột nói.

“Tớ đoán chúng mình không bao giờ nói chuyện thẳng thắn với nhau trừ phi chúng mình có thời gian,” tôi nói.

“Đúng là có vẻ như thế.” Chuột mỉm cười.

Ngay cả trong bóng tối đen như mực, ngồi quay lưng vào nhau, tôi có thể đoán được hắn đang mỉm cười. Người ta có thể đoán được nhiều thứ chỉ qua thay đổi nhỏ nhất trong không khí. Chúng tôi từng là bạn. Lâu lắm rồi, dù tôi không còn nhớ được là tự bao giờ.

“Có phải ai đó từng nói, “Một người bạn để cùng giết thời gian là một người bạn tuyệt vời”?”

“Chính cậu nói câu đó, đúng không?”

“Giác quan thứ sáu, lúc nào cũng sắc bén. Cậu đúng đó.”

Tôi thờ dài. “Nhưng lần này, với tất cả những gì đang diễn ra, giác quan thứ sáu của tớ đã sai lầm. Sai đến mức đáng hổ thẹn. Dù cậu đã đưa cho tớ không biết bao nhiêu gợi ý.”

“Đành phải chấp nhận thôi. Cậu khá hơn hầu hết mọi người.”

Chúng tôi yên lặng. Chuột dường như đang ngắm tay mình.

“Tớ thật sự bắt cậu phải chịu đựng nhiều quá, đúng không?” Chuột nói. “Tớ không có ai khác để nhờ cả. Như tớ đã nói trong thư.”

“ĐÓ là điều tớ muốn hỏi cậu. Vì tớ không chấp nhận mọi thứ đơn giản như thế được.”

“Tất nhiên là không rồi,” Chuột nói, “không thể được khi tớ chưa tường trình chính xác việc đó. Nhưng trước đó, hãy làm một lon bia đã.”

Chuột ngăn tôi trước khi tôi có thể đứng lên.

“Để tớ đi lấy,” Chuột nói. “Xét cho cùng, đây là nhà tớ mà.”

Tôi nghe thấy tiếng Chuột đi theo lối hắn thường đi đến bếp trong bóng tối hoàn toàn và lôi một ôm bia ra khỏi tủ lạnh, tôi mở rồi nhắm mắt trong suốt lúc ấy. Bóng tối căn phòng chỉ hơi khác đôi chút về sắc độ với bóng tối khi tôi nhắm mắt.

Chuột mang bia quay lại, để lên bàn. Tôi quờ quạng tìm một lon, mở khoen ở nắp hộp rồi uống một nửa.

“Hầu như chả phải là bia nếu không trông thấy nó,” tôi nói.

“Cậu phải tha lỗi cho tớ, nhưng bắt buộc phải trong bóng tối.”

Chúng tôi không nói gì trong khi uống.

“Xem nào,” Chuột nói, hắng giọng. Tôi đặt lon bia rỗng lên bàn và ngồi yên, cuộn trong chăn. Tôi đợi hắn lên tiếng, nhưng không có lời nào sau đó. Tất cả những gì tôi nghe được là tiếng Chuột đang lắc lắc lon bia của hắn để xem còn bao nhiêu. Một thói quen cũ của hắn.

“Xem nào,” Chuột nói lần thứ hai. Rồi uống ực một hơi hết chỗ bia cuối cùng, hắn đặt lon bia lên bàn đánh cách một tiếng. “Trước hết, hãy bắt đầu bằng việc tại sao tớ đến đây. Được không?”

Tôi không trả lời. Chuột tiếp tục nói.

“Ông già tớ mua chỗ này khi tớ năm tuổi. Tớ không biết vì lý do gì ông ấy cất công mua bất động sản tận đây. Có lẽ ông mua được một món hời qua đường quân sự Mỹ nào đó. Như cậu thấy đấy, đến chỗ này cực kì bất tiện, và ngoài mùa hè ra, đường sá vô dụng một khi tuyết kéo đến. Lực lượng chiếm đóng hắn đã có kế hoạch nâng cấp con đường và sử dụng chỗ này để làm trạm ra-đa hay đại loại thế, nhưng thời gian và chi phí liên quan hiển nhiên đã thay đổi quyết định của họ. Còn thị trấn thì quá nghèo nên cũng chẳng thể làm gì với con đường. Họ cũng chẳng được lợi lộc gì khi nâng cấp con đường. Tất cả khiến cái cơ ngơi này như một kế hoạch nhất định thất bại, bị quên lãng từ lâu.”

“Thế còn Giáo sư Cừu thì sao? Chẳng phải ông ấy định sẽ trở về nhà tại đây sao?”

“Giáo sư Cừu đang sống trong hoài niệm. Ông ấy đâu có nhà để mà về.”

“Có lẽ là không.”

“Uống thêm bia đi.” Chuột nói.

“Tớ uống đủ rồi,” tôi nói. Vì máy sưởi đã tắt, tôi gần như lạnh cóng. Chuột mở một lon bia nữa rồi uống một mình.

“Ông già tớ đâm ra thích cái cơ ngơi này, tự mình đứng ra nâng cấp đường sá một chút, sửa sang ngôi nhà. Tớ tin là ông đã bỏ khối tiền vào đó. Nhờ thế, nếu có xe, người ta có thể sống một cuộc sống khá thoải mái ở đây, ít ra là trong mùa hè. Khí đốt, bồn cầu giật, vòi hoa sen, điện thoại, máy phát điện khẩn cấp. Tôi không biết làm thế nào Giáo sư Cừu sống được ở đây trước đó.”

Chuột gây ra một âm thanh không ra ợ cũng không ra thở dài.

“Cho đến năm tớ mười lăm tuổi, hè nào nhà tớ cũng đến đây. Ông và già tớ, chị gái và tớ, rồi cả bà giúp việc trong nhà nữa. Nghĩ mới thấy đó có lẽ là những năm tháng đẹp nhất trong đời tớ. Nhà tớ cho thị trấn thuê đồng cỏ – thực ra đến nay vẫn cho thuê – vậy nên khi mùa hè đến, cả chốn đến này đầy cừu của thị trấn. Cừu ngập đến tận mang tai. Đó là lý do những kỷ niệm mùa hè của tớ luôn gắn liền với cừu.

Sau đó, gia đình tớ hầu như không bao giờ lên đây nữa. Một phần vì chúng tớ có một nhà nghỉ khác gần nhà tớ hơn, phần khác vì chị tớ đi lấy chồng. Tớ không còn coi mình như một phần của gia đình nữa, công ty của ông già tớ gặp khó khăn, và rồi, đủ thứ chuyện xảy ra. Dù sao thì cái cơ ngơi này cũng bị bỏ hoang. Lần cuối cùng tớ lên đây là cách đây mười một năm. Và lần đó tớ lên một mình. Một mình trong một tháng.”

Chuột nấn ná trong một giây, như thể đang nhớ lại.

“Cậu có cô đơn không?” tôi hỏi.

“Tớ ấy à, cô đơn á? Cậu đùa đấy à. Nếu có thể, tớ đã ở lại trên này. Nhưng không đời nào điều ấy xảy ra. Xét cho cùng, đó là nhà của ông già tớ. Cậu sẽ không bao giờ thấy tớ giúp ông già ấy làm gì đâu.”

“Nhưng giờ thì sao?”

“Cũng vậy thôi,” Chuột nói. “Tớ phải nói đây là chỗ sau chót tớ muốn quay trở lại. Tuy nhiên khi trông thấy bức ảnh chỗ này trong Khách sạn Cá Heo, tớ muốn thấy nó một lần nữa. Vì lý do tình cảm. Ngay cả cậu thỉnh thoảng cũng cảm thấy như thế, đúng không?”

“Đúng,” tôi nói. Với tôi thì có cái bờ biển đã bị lấp kia.

“Đó là khi tớ nghe thấy chuyện của Giáo sư Cừu. Về con cừu trong mơ với ngôi sao trên lưng, Theo tớ hiểu thì cậu biết chuyện đó đúng không?”

“Quả thật tớ có biết.”

“Vậy thì nói một cách đơn giản,” Chuột nói. “Tớ nghe chuyện đó và vội vàng đến đây, muốn ở cả mùa đông. Tớ không thể giũ bỏ được thôi thúc đó. Ông già hay không đối với tớ không quan trọng nữa. Tớ thu xếp đồ đạc và lên đây. Giống như tớ bị kéo lên đây vậy.”

“Đó là lúc cậu gặp con cừu à?”

“Đúng vậy,” Chuột nói.

“Những gì xảy ra sau đó khó nói lắm,” Chuột nói.

Chuột cầm chiếc lon rỗng thứ hai vài bóp nó lõm vào.

“Có lẽ cậu có thể hỏi tớ chăng? Cậu đã biết khá nhiều thứ cần biết, đúng không?”

“Được, nhưng nếu điều đó đối với cậu không quan trọng thì không cần bắt đầu từ đầu cũng được.”

“Hỏi đi.”

“Cậu đã chết rồi, đúng không?”

Tôi không biết phải mất bao lâu để Chuột trả lời. Có thể là mấy giây, có thể là… Đó là một yên lặng kéo dài. Bên trong miệng tôi khô ngắt.

“Đúng vậy,” cuối cùng thì Chuột nói. “Tớ đã chết rồi.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:39:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40: Chuột, Người Lên Dây Đồng Hồ


“Tớ treo cổ từ cái xà trong bếp.” Chuột nói. “Người Cừu chôn tớ cạnh ga ra. Bản thân sự chết không đến nỗi đau đớn, nếu cậu lo lắng về những thứ như vậy. Nhưng thật đấy, đau đớn hầu như không thành vấn đề.”

“Khi nào?”

“Một tuần trước khi cậu lên đây.”

“Cậu đã lên dây đồng hồ, đúng không?”

Chuột cười. “Mẹ kiếp, đó chẳng phải là điều bí ẩn sao. Tớ muốn nói là suốt ba mươi năm đời tớ có làm gì thì làm nhưng không phải lên dây một cái đồng hồ. Nào, tại sao một người sắp chết lại đi lên dây đồng hồ? Không có nghĩa gì cả.”

Chuột ngừng nói, và mọi thứ tĩnh lặng, chỉ trừ tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ. Tuyết đã hút hết mọi âm thanh khác. Chúng tôi như hai kẻ bị ruồng bỏ trong vũ trụ.

“Điều gì sẽ xảy ra nếu…”

“Thôi đi,” Chuột cắt ngang lời tôi. “Không có chữ nếu. Cậu biết điều đó, đúng không?”

Tôi lắc đầu. Không, tôi không biết.

“Nếu cậu lên đây sớm hơn một tuần, tớ sẽ vẫn phải chết. Có lẽ chúng mình có thể gặp nhau trong những hoàn cảnh ấm áp, rực rỡ hơn. Nhưng cũng thế cả thôi. Tớ sẽ vẫn phải chết. Nếu không mọi thứ sẽ trở nên khó khăn hơn. Và có lẽ là tớ không muốn chịu đựng cái sự khó khăn ấy.”

“Vậy tại sao cậu phải chết?”

Có tiếng hắn đang xoa lòng bàn tay vào nhau.

“Tớ không muốn nói quá nhiều về chuyện đó. Sẽ thành ra tự tha tội cho mình. Và không gì thiếu đích đáng hơn là một người chết phải tự biện hộ cho mình, cậu có nghĩ thế không?”

“Nhưng nếu cậu không cho tớ biết, tớ sẽ không bao giờ biết.”

“Uống thêm bia đi,”

“Tớ lạnh,” tôi nói.

“Không đến nỗi lạnh lắm.”

Tay run rẩy, tôi mở một lon bia nữa rồi nhấp một ngụm. Và với ngụm bia trong người, thật sự có vẻ không lạnh như trước nữa.

“Được rồi, nếu cậu hứa không kể chuyện này cho ai.”

“Ngay cả nếu tớ có kể, ai thèm tin tớ cơ chứ?”

“Cậu bắn trúng tim đen tớ rồi,” Chuột cười khúc khích. “Tớ nghĩ là có người lại tin chuyện ấy. Chuyện điên khùng thật.”

Đồng hồ điểm chín giờ rưỡi.

“Cậu cho phép tớ ngừng đồng hồ lại được không?” Chuột hỏi. “Nó kêu to quá.”

“Cứ tự nhiên. Đồng hồ của cậu mà.”

Chuột đứng dậy, mở cửa chiếc đồng hồ, giật quả lắc. Âm thanh, thời gian, tất cả tan biến.

“Chuyện xảy ra là thế này,” Chuột nói. “Tớ chết cùng với con cừu trong người mình. Tớ đợi đến khi con cừu ngủ say, rồi tớ tròng dây qua xà bếp và tự treo cổ. Không đủ thời gian để con vật chết tiệt ấy trốn thoát.”

“Cậy có bắt buộc phải xử lý đến mức đó không?”

“Có. Tớ phải xử lý đến mức đó. Nếu tớ đợi thêm, con cừu sẽ kiểm soát tớ hoàn toàn. Đó là cơ hội cuối cùng của tớ.”

Chuột lại xoa lòng bàn tay vào nhau. “Tớ muốn gặp cậu khi tớ là chính mình, với mọi thứ được cất dọn ngăn nắp. Cái tôi của tớ với những ký ức và những nhược điểm của tớ. Nếu tình cờ nó khiến cậu đi theo hướng này, tớ nghĩ cuối cùng tớ sẽ được cứu rỗi.”

“Và cậu đã được cứu rỗi chứ?”

“Có, tớ đã được cứu rỗi.” Chuột khẽ nói.

“Điểm mấu chốt ở đây là điểm yếu,” Chuột nói. “Mọi thứ bắt đầu từ đó. Cậu có hiểu tớ muốn nói gì không?”

“Con người thì yếu đuối.”

“Như một quy luật chung,” Chuột nói, bắt ngón tay tách tách mấy lần. “Nhưng dù có sắp xếp tất cả mọi thứ chung chung cậu thích thì cậu vẫn không đi đến đâu cả. Điều tớ đang nói với cậu là một điều mang tính cá nhân. Nhược điểm là thứ gì đó thối rữa trong cơ thể. Giống như bệnh hoại thư. Tớ cảm thấy điều đó kể từ khi tớ mười mấy tuổi. Đó là lý do tại sao tớ luôn bực bội cáu kỉnh. Có một cái gì đó trong thân ta đang thối rữa và ta lúc nào cũng cảm thấy điều đó. Cậu có hiểu điều đó như thế nào không?”

Tôi ngồi im lặng, trùm chăn kín mít.

“Có lẽ là không,” Chuột tiếp tục, “Ở cậu không có khía cạnh đó. Nhưng mà thôi, đó là nhược điểm. Nhược điểm cũng giống như bệnh di truyền vậy. Cho dù ta có hiểu về nó đến mức nào, ta cũng không thể làm gì để chữa trị cho mình. Nó sẽ không biến mất sau một cái vỗ tay. Nó sẽ chỉ trở nên ngày càng tồi tệ hơn.”

“Nhược điểm về cái gì kia chứ?”

“Mọi thứ. Nhược điểm về đạo đức, nhược điểm về ý thức, rồi còn có nhược điểm về bản thân sự tồn tại.”

Tôi cười. Lần này tiếng cười tự nhiên hơn. “Cậu bắt đầu nói buồn cười quá, với cả không một người nào lại không có nhược điểm.”

“Chung chung như thế là đủ rồi. Như tớ đã nói trước. Tất nhiên, ai cũng đồng ý là người nào mà chẳng có nhược điểm. Nhưng nhược điểm thật sự cũng hiếm hoi như thế mạnh thật sự. Cậu không biết đến cái nhược điểm luôn luôn kéo mình vào trong bóng tối. Cậu không biết rằng có một thứ như thế thật sự tồn tại trong thế giới này. Cậu biết không, những cái thứ chung chung của cậu không bao trùm tất cả mọi thứ.”

Tớ không thể nói gì.

“Đó là lý do tớ rời thị trấn. Tớ không muốn người khác trông thấy tớ bệ rạc đi. Lang thang một mình nơi những vùng đất lạ, ít nhất tớ không gây rắc rối cho ai. Và cuối cùng thì…,” Chuột bỏ dở câu nói một lúc.

“Cuối cùng thì, chính bởi nhược điểm này, tớ không thể thoát được bóng ma của con cừu. Bản thân tớ không thể làm gì khác được. Có lẽ ngay cả khi cậu có mặt lúc đó, tớ cũng không thể làm gì khác. Ngay cả khi tớ quyết định đi xuống núi thì cũng sẽ thế cả thôi. Có lẽ rốt cuộc tớ lại đi lên núi. Đó chính là nhược điểm.”

“Con cừu muốn gì ở cậu?”

“Mọi thứ. Cả khóa nòng, cả súng, rồi nòng súng. Cơ thể tớ, trí nhớ tớ, nhược điểm của tớ, những mâu thuẫn của tớ… Đó là những thứ con cừu thực sự muốn. Con quái vật ấy có đủ các loại vòi. Nó thọc những cái vòi ấy vào trong tai trong mũi người ta như ống rơm và hút kiệt người ta. Đến giờ vẫn làm tớ sởn cả tóc gáy.”

“Và đổi lại lấy gì?”

“Những thứ quá tốt cho những thằng như tớ. Không phải là con cừu đến để cho tớ thấy bất cứ thứ gì có thật. Tất cả những gì tớ thấy chỉ là một lát bánh bé tí tẹo. Và…”

Chuột lại bỏ lửng câu nói giữa chừng.

“Và thế là đủ để kéo tớ vào tròng. Dù tớ không muốn chịu thú nhận điều đó. Đó không phải là thứ tớ có thể giải thích bằng lời. Con cừu giống như, xem nào, một cái lò cao nấu cháy mọi thứ nó chạm vào. Một thứ đẹp đẽ đến nhường ấy, nó làm người ta phát cuồng lên. Nhưng nó là cái xấu xa làm sởn tóc gáy. Trao cơ thể mình cho nó là rồi mọi thứ sẽ không còn. Ý thức, giá trị, tình cảm, nỗi đau, mọi thứ. Biến mất. Nó rất giống với cái máy phát tỏa ra sức sống nơi nguồn gốc của mọi sự sống tại một điểm duy nhất trong vũ trụ.”

“Tuy vậy cậu đã có khả năng chối bỏ nó.”

“Đúng. Mọi thứ bị chôn vùi cùng với tấm thân tớ. Chỉ còn phải làm một việc cuối cùng để thấy nó bị chôn vùi vĩnh viễn.”

“Một việc cuối cùng ư?”

“Một việc cuối cùng. Và tớ phải nhờ cậu làm. Nhưng hãy khoan nói đến việc đó.”

Cả hai chúng tôi nhấp một ngụm bia. Tôi ấm dần lên.

“Cái khối u có tác dụng như một cái roi, đúng vậy không?” Tôi hỏi. “Để con cừu điều khiển người chủ.”

“Chính xác. Một khi khối u được tạo ra, không có cách nào thoát khỏi con cừu.”

“Vậy Ông Chủ làm tất cả những gì ông ta đang làm ấy để theo đuổi cái chết tiệt gì chứ?”

“Ông ta phát điên. Có lẽ ông ta không chịu được nhiệt từ cái lò cao đó. Con cừu lợi dụng ông ta để xây dựng một nền tảng quyền lực tối thượng. Đó là lý do vì sao con cừu nhập vào ông ta. Nói cách khác, ông ta là thứ dùng xong rồi bỏ đi. Rốt cuộc, người đàn ông đó chỉ là con số không với tư cách một nhà tư tưởng.”

“Vậy là sau khi Ông Chủ chết, cậu được chọn mặt gửi vàng để tiếp quản cái nền tảng quyền lực ấy.”

“Tớ e là vậy.”

“Vậy điều gì xảy ra sau đó?”

“Một đất nước hoàn toàn hỗn loạn về mặt nhận thức. Một đế chế mà trong đó tất cả các bên đối lập sẽ được tập trung lại thành một thể thống nhất. Với tớ và con cừu ở trung tâm.”

“Vậy tại sao cậu lại chối bỏ nó?”

Thời gian tan biến rồi chết. Và trong cái thời gian đã chết này, một đợt tuyết lặng lẽ đang rơi.

“Chắc là do tớ thấy gắn bó với nhược điểm của mình. Có những nỗi đau và sự chịu đựng nữa. Ánh sáng mùa hè, mùi gió, tiếng ve kêu – nếu tớ yêu mến tất cả những thứ thế này, tại sai tớ lại phải đi nhận lỗi. Cả uống bia với cậu nữa…” Chuột lại bỏ lửng. “Tớ không biết tại sao.”

Tôi có thể nói gì đây.

“Bằng cách này hay cách khác, chúng ta đã tạo ra hai thực thể hoàn toàn khác nhau từ cùng những nguyên liệu,” Chuột nói. “Cậu có tin thế giới đang trở nên tốt đẹp hơn không?”

“Tốt hơn hay xấu đi, ai biết được?”

Chuột cười. “Tớ thề trong vương quốc của những sự chung chung, cậu có thể là hoàng đế.”

“Không có cừu chứ.”

“Chắc chắn rồi, không có cừu.” Chuột uống ừng ực một hơi hết lon bia thứ ba, rồi quăng lon bia rỗng xuống sàn nhà đánh cách một tiếng.

“Cậu nên xuống núi càng nhanh càng tốt. Trước khi cậu bị tuyết chôn chân tại đây. Cậu không cần ở cả mùa đông trên này đâu. Bốn, năm ngày nữa, tuyết sẽ bắt đầu tích tụ, và nghe này, phải khó lắm mới có thể đi xuống trên những con đường đóng băng.”

“Vậy từ giờ trở đi cậu sẽ làm gì?”

Chuột phá lên cười thích thú, vui vẻ từ trong bóng tối. “Đối với tớ không có khái niệm “từ giở trở đi”. Tớ cứ tan biến dần trong mùa đông thôi. Mất bao lâu là tùy thuộc vào mùa đông này lâu đến mức nào. Tớ không biết. Nhưng một mùa đông là một mùa đông. Tớ mừng đã gặp được cậu. Tất nhiên, nếu ở một chỗ sáng sủa hơn, ấm áp hơn thì sẽ tốt hơn.”

“J gửi lời hỏi thăm.”

“Nhớ chuyển lời hỏi thăm của tớ đến anh ấy nữa nhé, được không?”

“Tớ cũng gặp cô ấy.”

“Cô ấy thế nào?”

“Bình thường. Vẫn làm việc cho công ty đó.”

“Vậy là cô ấy vẫn chưa lấy chồng à?”

“Chưa. Cô ấy muốn nghe trực tiếp từ cậu xem chuyện hai người đã chấm dứt hay chưa.”

“Đã chấm dứt rồi.” Chuột nói, “như cậu biết. Ngay cả nếu tớ không thể tự mình chấm dứt chuyện đó, sự thật là nó đã chấm dứt rồi. Đời tớ chả có nghĩa gì. Tất nhiên, mượn lối nói chung chung đáng kính của cậu nhé, điều đó có nghĩa cuộc đời ai cũng vô nghĩa hết. Tớ nói đúng không?”

“Cứ cho là thế đi,” tôi nói. “Còn hai câu hỏi nữa.”

“Được thôi.”

“Trước hết, về Người Cừu của chúng ta.”

“Người Cừu là người tốt.”

“Nhưng Người Cừu, cái người đến đây, là cậu. Đúng không?”

Chuột xoay cổ và bẻ cổ kêu răng rắc mấy lần. “Đúng. Tớ mang hình hài của hắn. Vậy là cậu có thể nhận ra, đúng không?”

“Mới đây thôi,” tôi nói. “Trước đó, tớ không hề biết.”

“Nói hết sức thành thật nhé, cậu khiến tớ ngạc nhiên đấy, đập vỡ cây ghi ta. Đó là lần đầu tiên tớ thấy cậu giận dữ đến thế, và ngoài ra, đó là cây ghi ta đầu tiên tớ từng mua. Rẻ thôi, nhưng…”

“Xin lỗi vì chuyện đó nhé. Tớ chỉ cố đánh thức cậu đủ để cậu bộc lộ chính mình.”

“Không sao mà. Dù sao thì đến ngày mai, mọi thứ đều sẽ biến mất,” Chuột nói tỉnh khô. “Vậy là giờ câu hỏi kia là về cô bạn gái của cậu, đúng không?”

“Đúng thế.”

Chuột không nói gì một lúc lâu. Tôi có thể nghe hắn xoa lòng bàn tay vào nhau rồi thở dài. “Tớ không muốn phải lo đối phó với cô ta. Cô ta là một nhân tố phụ mà tớ không tính đến.”

“Nhân tố phụ ư?”

“À há. Tớ muốn việc này chỉ giữa tụi mình với nhau. Nhưng cô ta trượt chân vào ngay giữa chuyện này. Lẽ ra ta không bao giờ nên để cô ta dính dáng vào việc này. Như cậu thấy rất rõ, cô ta có khả năng kỳ diệu. Tuy nhiên, cô ta vốn không phải là người nên đến đây. Chỗ này vượt ra ngoài quyền năng của cô ta.”

“Điều gì đã xảy đến với cô ấy?”

“Cô ta không sao. Hoàn toàn khỏe mạnh,” Chuột nói “Chỉ có điều cậu sẽ không tìm thấy gì hấp dẫn từ cô ta nữa. Buồn đấy, nhưng đúng là vậy đó.”

“Sao lại ra nỗi như vậy?”

“Nó đã biến mất. Đã tan biến. Bất cứ thứ gì cô ấy có trước đây, giờ không còn nữa.”

“Tớ biết cậu cảm thấy như thế nào,” Chuột tiếp tục “Nhưng sớm muộn gì nó cũng sẽ biến mất. Tớ với cậu những cô gái có những điều gì đó đặc biệt, vào một lúc nào đó tất cả chúng ta sẽ biến mất.”

Tôi nghĩ về lời nói của hắn.

“Tớ nên đi thôi,” Chuột nói. “Sắp đến giờ rồi. Nhưng chúng ta sẽ gặp lại nhau, tớ biết chắc là như thế.”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói.

“Tốt nhất à một nơi nào đó sáng sủa hơn, có lẽ vào mùa hè,” Chuột nói. “Nhưng ngay lúc này, một đề nghị cuối cùng. Sáng mai vào lúc chín giờ, tớ muốn cậu lên dây đồng hồ, rồi kết nối mấy sợi dây sau đồng hồ. Nối dây xanh với dây xanh và dây đỏ với dây đỏ. Sau đó vào lúc chín giờ rưỡi tớ muốn cậu cuốn xéo ngay khỏi chỗ này và đi xuống núi. Tớ có cuộc hẹn với một người lúc mười hai giờ đúng. Hiểu chưa?”

“Đã rõ.”

“Tớ mừng đã gặp được cậu.”

Một thoáng ngừng giữa hai chúng tôi.

“Tạm biệt cậu,” Chuột nói.

“Hẹn gặp lại cậu,” tôi nói.

Vẫn còn rúc trong chăn, tôi nhắm mắt lắng nghe tiếng giày của Chuột kéo lê qua sàn nhà, cánh cửa mở ra. Không khí lạnh cóng ùa vào căn phòng. Không phải một cơn gió nhẹ, mà là một làn khí lạnh từ từ lan tỏa rồi hạ xuống.

Chuột đứng lại nơi cửa ra vào mở rộng một lúc. Hắn dường như đang nhìn chăm chăm vào một cái gì đó, không phải khung cảnh bên ngoài, không phải bên trong căn phòng, không phải tôi, một cái gì khác hoàn toàn. Nắm đấm cửa hay mũi giày, một cái gì đó. Rồi, như thể đóng cánh cửa thời gian, cánh cửa đóng cách một tiếng.

Sau đó tất cả yên lặng. Không có gì khác ngoài yên lặng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:41:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41: Dây Xanh Với Dây Đỏ; Những Con Mòng Biển Lạnh Cóng


Sau khi Chuột biến mất, một cơn gió lạnh không chịu đựng nổi tràn khắp ngôi nhà. Tôi cố nôn nhưng không nôn ra được, chỉ có hơi thở hổn hển mùi hôi.

Tôi lên gác, cởi áo len ra, chui vào dưới tấm khăn trải giường. Tôi bị những cơn cảm lạnh và sốt luân phiên hành hạ. Cứ từng cơn căn phòng nở ra rồi lại co vào. Chăn và quần áo lót của tôi đẫm mồ hôi, đông lại thành một lớp da lạnh lẽo, co thắt.

“Lên dây đồng hồ vào lúc chín giờ,” ai đó thì thầm vào tai tôi. “Dây xanh với dây xanh… dây đỏ với dây đỏ… cuốn xéo ngay vào lúc chín giờ rưỡi.”

“Đừng lo,” Người Cừu nói. “Mọi sự sẽ ổn thôi.”

“Tế bào sẽ tự thay thế,” vợ cũ tôi nói. Cô ta đang cầm một chiếc váy ngủ đăng ten màu trắng trong tay phải.

Đầu tôi lắc lư.

Dây đỏ với dây đỏ… dây xanh với dây xanh…

“Anh không biết gì hết, đúng không?” bạn gái tôi kết tội.

Không, tôi không hiểu gì hết.

Rồi tiếng sóng dội tới. Sóng lớn mùa đông. Biển màu xám chỉ điểm lốm đốm những bọt sóng. Những con mòng biển lạnh cóng.

Tôi đang ở trong một phòng trưng bày kín gió tại công viên hải dương. Hàng dãy dương vật cá voi được trưng bày. Trời nóng và ngột ngạt. Ai đó phải mở cửa sổ thôi.

Ai đó mở cửa sổ. Lạnh đến thấu xương. Những con mòng biển kêu thất thanh, tiếng cao vút sắc nhọn xé toạc da thịt tôi ra.

“Cậu có nhớ tên con mèo của cậu không?”

“Cá Trích,” tôi đáp.

“Không, nó không phải Cá Trích,” người lái xe nói. “Đổi tên rồi. Tên được thay đổi liên tục. Tôi đoán cậu thậm chí không nhớ nổi tên mình.”

Lạnh đến thấu xương. Rồi mòng biển, cơ man là mòng biển.

“Sự tầm thường đi một con đường dài, khó khăn,” người đàn ông mặc bộ com lê đen nói. “Dây xanh với dây đỏ, dây đỏ với dây xanh.”

“Anh cóng he gì về chiến tranh không?” Người Cừu hỏi.

Dàn nhạc Benny Goodman chơi bản Thư đặc biệt đường hàng không. Charlie Christian hát một đoạn solo dài. Ông ta đang đội một chiếc mũ mềm màu kem.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:43:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 42: Thăm Lại Khúc Ngoặt Không May


Chim hót.

Ánh nắng tràn qua khe cửa chớp đổ thành những đường sọc trên giường. Đồng hồ đeo tay của tôi trên sàn nhà chỉ 7:35. Chăn và áo sơ mi của tôi ướt sũng như ngâm trong chậu nước.

Đầu óc của tôi vẫn còn lờ mờ, nhưng cơn sốt đã qua. Thế giới bên ngoài là một quang cảnh đầy tuyết. Đồng cỏ lấp lánh ánh bạc trong nắng sớm. Tôi đi xuống nhà để tắm. Mặt mũi tôi xanh xao, chỉ qua một đêm mà tôi đã xọp hẳn đi. Tôi bôi lên mặt lượng kem cạo râu gấp ba lần mức cần thiết, rồi tôi cạo thật tỉ mỉ. Sau đó tôi đi đái và đái nhiều tới mức bản thân tôi hầu như không tin nổi.

Tôi mệt lử vì đi tiểu đến mức phải nằm vật xuống chiếc ghế dài trong mười lăm phút. Chim vẫn hót. Tuyết đã bắt đầu tan và chảy nhỏ giọt từ trên mái hiên xuống. Thi thoảng có tiếng cọt kẹt rõ ràng ở phía sau.

Lúc tôi dậy thì đã gần tám giờ rưỡi. Tôi uống hai ly nước nho, ăn nguyên cả quả táo. Rồi tôi chọn ra một chai rượu, một thỏi sô cô la hiệu Hershey và hai quả táo trong hầm rượu.

Tôi sắp xếp đồ đạc. Căn phòng mang một vẻ u buồn. Mọi thứ sắp đến hồi kết.

Kiểm tra đồng hồ, lúc chín giờ tôi lên dây ba quả lắc của chiếc đồng hồ. Rồi tôi đẩy chiếc đồng hồ nặng nề ra để nối dây sau nó. Dây xanh với dây xanh, dây đỏ với dây đỏ.

Những chiếc dây thò từ bốn cái lỗ khoan ở phía sau. Một đôi ở trên, một đôi phía dưới. Những chiếc dây được giữ cho chắc chắn bởi những vòng xoắn kim loại tương tự như loại tôi thấy trong chiếc jeep. Tôi đẩy chiếc đồng hồ quả lắc vào chỗ cũ, rồi đến bên gương và giã từ chính mình.

“Hy vọng mọi chuyện thuận lợi,” tôi nói.

“Hy vọng mọi chuyện thuận lợi,” cái tôi kia nói.

Tôi băng qua giữa đồng cỏ hệt như cách tôi đã đến. Tuyết lạo xạo dưới chân tôi. Đồng cỏ trông giống như một cái hồ núi lửa bằng bạc. Không chỗ nào có dấu chân. Chỉ có dấu chân tôi, khi quay lại tôi thấy chúng làm thành một đường dẫn đến ngôi nhà. Dấu chân tôi ngoằn nghèo khắp cả. Đi theo đường thẳng không dễ dàng gì.

Từ tít tận chỗ này, ngôi nhà trông gần như một sinh vật. Không đủ chỗ và phải đứng khom khom, nó vặn vẹo mình để giũ sạch tuyết rơi từ mái đầu hồi xuống. Một tảng tuyết trượt khỏi nóc nhà và văng mạnh xuống đất đánh uỵch một cái.

Tôi tiếp tục đi qua đồng cỏ. Qua rừng cây bu lô bạt ngàn, qua cầu, vòng qua đáy của đỉnh núi hình nón, đến khúc ngoặt không may trên đường.
Kỳ diệu thay, tuyết ở khúc ngoặt không đóng băng trên đường. Không có gì đáng ngại cả, tôi chắc chắn thế nhưng vẫn cẩn thận bước đi, tôi vẫn có thể bị lôi tuột xuống đáy con dốc dựng đứng. Tôi cố tiếp tục bước đi cho tới khi cách xa khỏi gờ khúc quanh bám vào mặt đá đang vỡ vụn kia. Nách tôi đẫm mồ hôi. Một cơn ác mộng thường gặp thời thơ ấu.

Xa xa bên phải là đồng bằng. Mặt đất dưới đó cũng bao phủ đầy tuyết, sông Junitaki lấp lánh ngay chính giữa. Tôi nghĩ mình có thể nghe thấy xa xa tiếng còi hơi nước. Quả là kỳ diệu.

Tôi hít một hơi và xốc lại ba lô, rồi đi xuống sườn dốc thoai thoải. Tại khúc ngoặt tiếp theo là một chiếc xe jeep mới tinh. Trước xe jeep là gã thư ký mặc bộ com lê đen của Ông Chủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:46:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 43: Cuộc Hẹn Lúc Mười Hai Giờ


Tôi đang đợi cậu,” người đàn ông mặc bộ com lê đen nói. “Mặc dù mới chỉ được hai mươi phút.”

“Làm sao ông biết được.”

“Địa điểm á, hay thời gian?”

“Thời gian,” tôi nói, đặt ba lô xuống.

“Cậu nghĩ làm thế nào tôi được làm thư ký cho Ông Chủ? Sự mẫn cán ư? IQ ư? Sự khéo léo ư? Không. Tôi là thư ký cho Ông Chủ vì khả năng đặc biệt của tôi. Giác quan thứ sáu. Tôi tin đó là cách cậu gọi nó.”

Ông ta mặc áo khoác nhồi lông màu be, quần trượt tuyết và đeo kính hiệu Ray-Ban màu xanh.

“Chúng tôi từng có nhiều điểm giống nhau, Ông Chủ và tôi. Những thứ vượt ra khỏi sự hợp lý, tính logic và giá trị đạo đức.”

“Từng ư?”

“Ông Chủ qua đời cách đây một tuần. Chúng tôi có một lễ tang tuyệt đẹp. Cả Tokyo giờ đang đảo lộn, cố gắng quyết định ai là người kế nhiệm. Cả một lô một lốc những bọn tầm thường đang chạy nháo nhác như là lũ ngốc.”

Tôi thở dài. Người đàn ông lấy chiếc hộp đựng thuốc lá bằng bạc ra khỏi túi áo khoác, rút ra một điếu thuốc cắt nhỏ, châm lửa.

“Cậu dùng thuốc lá không?”

“Không, cảm ơn.” Tôi đáp.

“Nhưng tôi phải nói cậu đã thực hiện việc của mình. Hơn tôi mong đợi. Nói thật là, cậu khiến tôi ngạc nhiên. Lúc đầu tôi nghĩ tôi có thể phải giúp cậu và đưa ra gợi ý cho cậu khi cậu bế tắc. Điều đó khiến việc cậu gặp Giáo sư Cừu còn hơn một sáng kiến thiên tài. Tôi gần như mong cậu cân nhắc chuyện làm cho tôi.”

“Vậy theo tôi hiểu ông nói thế nghĩa là ông biết về nơi này ngay từ đầu phải không?”

“Tất nhiên rồi. Thôi nào, cậu nghĩ tôi là ai kia chứ?”

“Vậy, tôi có thể hỏi ông một điều được không?”

“Dĩ nhiên rồi,” người đàn ông đáp vô cùng phấn chấn. “Nhưng ngắn thôi.”

“Tại sao ông không nói cho tôi biết ngay từ đầu?”

“Tôi muốn cậu lặn lội đến đây một cách tự nguyện. Và tôi muốn cậu dụ anh ta khỏi hang.”

“Hang ư?”

“Cái hang tinh thần của anh ta. Khi một người bị cừu nhập, anh ta tạm thời trở nên mụ mẫm và lui về sống ẩn dật. Giống như, nói ví dụ, chứng bệnh suy nhược thần kinh do chiến tranh gây ra. Vai trò của cậu là dụ anh ta ra khỏi trạng thái đó. Tuy nhiên, để anh ta tìm cậu, cậu phải như một tấm bảng tinh khôi, mà cậu đúng là thế. Thật đơn giản, đúng không?”

“Khá đơn giản.”

“Chỉ cần gieo hạt, thế là mọi thứ đều đơn giản. Xây dựng chương trình mới là phần khó. Xét cho cùng, máy tính không thể tránh giùm cho sai lầm của con người. Làm bằng tay thì lại càng chẳng có gì để nói. À, nhưng thật là vui thú không gì sánh bằng khi quan sát một chương trình được xây dựng kỳ công tiến triển hệt như kế hoạch.”

Tôi nhún vai.

“Vậy thì,” người đàn ông tiếp tục, “cuộc săn cừu hoang của chúng ta đã gần kết thúc. Nhờ vào tính toán của tôi và sự ngây thơ của cậu. Tôi đã bắt
được anh ta ngay nơi tôi mong muốn. Đúng chưa?”

“Có vẻ như vậy,” tôi nói. “Cậu ấy đang đợi ông trên đó. Nói là ông hẹn gặp vào đúng mười hai giờ.”
Người đàn ông và tôi cùng liếc nhìn đồng hồ. Mười giờ bốn mươi.

“Tôi phải đi thôi,” người đàn ông nói. “Không được để anh ta đợi lâu. Cậu có thể đi xe jeep xuống, nếu cậu muốn. Ồ vâng, đây là để thưởng công cho cậu.”

Người đàn ông thò tay vào trong túi rút ra một tấm séc đưa cho tôi. Tôi bỏ túi mà không buồn nhìn.

“Cậu không muốn kiểm tra à?”

“Tôi không nghĩ điều đó cần thiết.”

Người đàn ông cười, rõ ràng là thấy thú vị. “Thật vui được làm ăn với cậu. Mà nhân tiện đây, tay đối tác của cậu đã đóng cửa công ty. Thật đáng tiếc. Công ty có triển vọng thế kia. Có cả một tương lai tươi sáng cho ngành quảng cáo. Cậu nên tự mình đi theo ngành đó.”

“Ông điên đấy hả.” Tôi nói.

“Mong là chúng ta sẽ gặp lại nhau,” người đàn ông nói. Rồi ông ta xuống đi bộ qua khúc quanh tới cao nguyên.

“Cá Trích vẫn khỏe,” người lái xe nói trong lúc lái chiếc jeep xuống. “Đâm béo đẹp ra.”

Tôi ngồi ghế cạnh người lái xe. Bác ta như một người khác so với người đã lái chiếc limo quái vật trước đây. Bác ta kể khá chi tiết cho tôi về đám tang Ông Chủ và việc chăm sóc Cá Trích, nhưng tôi hầu như không nghe thấy gì.

Lúc mười một rưỡi chiếc xe jeep đỗ trước ga tàu. Thị trấn hoàn toàn tĩnh lặng. Chỉ trừ một ông già đang cào tuyết khỏi giao lộ và một con chó gầy nhẳng ngồi vẫy đuôi gần đó.

“Cám ơn bác,” tôi nói với người lái xe.

“Không có gì,” bác ta nói. “Nhân tiện, cậu đã thử số điện thoại của Chúa chưa?”

“Chưa, tôi chưa có thời gian.”


“Kể từ khi Ông Chủ chết, tôi không gọi được. Cậu có biết chuyện gì xảy ra không?”

“Có lẽ chỉ vì Chúa đang bận thôi,” tôi gợi ý.

“Có lẽ vậy.” Người lái xe nói. “Thôi giữ gìn sức khỏe nhé.”

“Cám ơn bác,” tôi đáp.

Có một chuyến tàu rời ga đúng lúc mười hai giờ. Không ma nào trên sân ga. Trên tàu chỉ có bốn hành khách, bao gồm cả tôi. Ngay cả như vậy, thật nhẹ nhõm khi trông thấy mọi người sau một thời gian dài. Bằng cách nào đó, tôi đã quay trở lại được đất của những người sống. Cho dù nó có nhàm chán hay tầm thường đến cỡ nào, đây là thế giới của tôi.

Chuông báo tàu khởi hành rung lên trong khi tôi đang nhai thỏi sô cô la. Rồi, khi chuông dừng lại và tàu kêu lách cách chuẩn bị chuyển bánh, tiếng nổ ở đằng xa vang lên. Tôi mở toang cửa sổ thò đầu ra ngoài. Mười giây sau có một tiếng nổ thứ hai. Tàu bắt đầu chuyển động. Sau ba phút, theo hướng ngọn núi hình nón, một cột khói đen từ từ bốc lên.

Tôi nhìn chằm chằm vào đó cho đến khi đoàn tàu lượn qua khúc quanh bên phải và không còn nhìn thấy khói nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:47:35 | Chỉ xem của tác giả
Phần Kết


“Thế là hết thật rồi,” Giáo sư Cừu nói, “hết thật rồi”

“Đã hoàn toàn chấm dứt.”

“Tôi chắc phải cảm ơn cậu quá.”

“Giờ thì tôi đã mất hầu như tất cả mọi thứ.”

“Không, cậu không mất hết,” Giáo sư Cừu lắc đầu. “Cậu có cuộc đời mình.”

“Nếu ông nói vậy,” tôi nói.

Khi tôi rời phòng. Giáo sư Cừu úp mặt xuống bàn, khóc rưng rức. Tôi đã cướp đi nỗi ám ảnh của ông, mặc dù nó đầy đau khổ, và dù tôi có đúng khi làm chuyện đó, tôi chưa bao giờ thấy không chắc chắn như lúc này.

“Cô ấy đi đến đâu đó,” người chủ khách sạn Cá Heo nói. “Cô ấy không nói là đi đâu. Cô ấy có vẻ ốm.”

“Không sao đâu,” tôi nói.

Tôi nhấc cái túi lên và đăng ký ở căn phòng đã ở lúc trước. Vẫn nhìn ra cái công ty đầy khó hiểu đấy. Không thấy người đàn bà có bộ ngực đồ sộ đâu. Hai nhân viên nam trẻ tuổi làm việc tại bàn, đang hút thuốc. Một người đọc danh sách số liệu, người kia dùng bút chì thảo một biểu đồ có những đường gãy khúc trên một tờ giấy to tướng. Có thể là vì người đàn bà có bộ ngực đồ sộ không ở đó, nhưng văn phòng có vẻ như một chốn khác hẳn. Chỉ có điều dạo trước tôi không hiểu nổi công ty ấy kinh doanh cái gì thì nay vẫn hoàn toàn không hiểu. Lúc sáu giờ, tất cả nhân viên đi về, và tòa nhà chìm tối tăm.

Tôi bật vô tuyến lên và xem tin tức. Không có bản tin về bất cứ vụ nổ nào trên bất cứ ngọn núi nào. Nhưng đợi đã, có phải vụ nổ đó diễn ra ngày hôm qua không? Tôi đã làm cái khỉ gì trong cả một ngày? Tôi đã ở đâu? Đầu óc tôi choáng váng.

Thôi thì, dù sao thì một ngày cũng trôi qua. Cũng theo cách này, từng ngày một, tôi học được cách lánh xa bản thân mình khỏi “ký ức”. Cho tới một ngày kia trong tương lai bất định, khi một tiếng nói xa xăm gọi tôi từ bóng tối đen như mực.

Tôi tắt vô tuyến và nằm vật lên giường trong khi vẫn đi giày. Hoàn toàn một mình, tôi nhìn chăm chăm lên trần nhà nhem nhuốc. Nhớ những người đã chết và bị lãng quên từ lâu.

Căn phòng thay đổi màu sắc theo xung điện của những ngọn đèn neon. Đồng hồ tôi kêu tích tắc bên tai. Tôi tháo dây đeo đồng hồ và quẳng nó xuống sàn. Tiếng xe cộ dội về như những dàn đồng ca nhẹ nhàng, hết lớp này đến lớp khác. Tôi cố ngủ, nhưng không được. Ai có thể ngủ được kia chứ, khi bản thân không thể biểu đạt được thế này?

Tôi mặc áo len rồi đi ra thị trấn, bước vào sàn nhảy đầu tiên tôi trông thấy. Tôi uống ba ly whisky đá trong khi lắng nghe nhạc soul không dứt. Và quay trở lại bình thường là điểm mấu chốt. Mọi người đều tin chắc vào sự bình thường của tôi.

Quay trở lại khách sạn Cá Heo, tôi thấy người chủ khách sạn có ba ngón tay đang ngồi trên ghế dài xem thời sự buổi đêm.

“Sáng mai tôi sẽ đi lúc chín giờ,” tôi nói.

“Anh quay trở lại Tokyo, đúng không?”

“Không.” Tôi nói. “Tôi có một chỗ dừng chân trước đó. Làm ơn đánh thức tôi dậy lúc tám giờ nhé.”

“Được thôi,” ông ta nói.

“Cảm ơn ông vì tất cả.”

“Không có gì.” Rồi người chủ quán khách sạn buông một tiếng thở dài. “Ông cụ nhà tôi không chịu ăn uống gì cả. Cứ kiểu này cụ sẽ chết mất.”

“Ông ấy bị một đòn đau quá mà.”

“Tôi biết,” người chủ khách sạn nói buồn bã. “Nhưng ông cụ có kể gì với tôi đâu.”

“Hãy đợi thêm thời gian nữa.”

Ngày hôm sau tôi đáp máy bay tới Tokyo-Haneda, rồi lại bay tiếp. Biển lấp lánh sáng khi tôi tới nơi.

J đang gọt khoai tây như mọi khi. Một cô gái trẻ làm bán thời gian đang cắm hoa vào lọ và lau bàn. Hokkaido đã đánh mất mùa thu, nhưng mùa thu ở đây vẫn còn. Qua cửa sổ J’s Bar, đồi núi mang sắc màu đẹp đẽ.

Tôi ngồi ở quầy uống một ly bia trước khi quán bar mở cửa. Bóc lạc bằng một tay.

“Khó gặp được loại lạc bóc dễ và giòn đến thế,” J nói.

“Ồ vậy sao?” tôi nói, miệng nhấm nháp.

“Nói anh nghe đi, chú vẫn chưa đi nghỉ à?”

“Em bỏ rồi?”

“Bỏ rồi á?”

“Chuyện dài đấy?”

J gọt xong khoai tây thì liền trút vào một cái rổ cho ráo nước. “Từ giờ trở đi chú sẽ làm gì?”

“Em không biết. Em sắp có ít tiền kết thúc hợp đồng, cộng với nửa số tiền phần em khi bán công ty. Thật ra không nhiều lắm. Và rồi còn cái này.”

Tôi cầm tấm séc trong túi ra đưa cho J, khoản tiền bao nhiêu không biết. J nhìn nó lắc đầu.

“Đây là số tiền không thể tin được, không thể tin được.”

“Chắc chắn rồi.”

“Nhưng là một câu chuyện dài, đúng không?”

Tôi cười. “Em để số tiền này lại cho anh. Cất vào két sắt cửa hàng đi.”

“Làm gì có két sắt ở đây.”

“Hay là chỗ máy tính tiền?”

“Anh sẽ gửi nó vào két sắt nhỏ trong ngân hàng,” J nói đầy lo lắng. “Nhưng chú định làm gì với nó?”

“Anh J này, chuyển đến địa điểm mới này tốn nhiều tiền lắm, đúng không?”

“Quả có thế.”

“Có phải vay tiền không?”

“Vay nhiều.”

“Tấm séc đó có trả hết số nợ không?”

“Vẫn còn thừa tiền. Nhưng…”

“Hay thế này được không? Anh nói sao nếu anh nhận em và Chuột làm đối tác? Không phải lo lắng gì về đoạn lời lãi. Đối tác trên danh nghĩa là được rồi.”

“Nhưng anh không thể làm thế được.”

“Tất nhiên là được rồi. Bù lại tất cả những gì anh cần làm là cho em và Chuột tá túc bất cứ khi nào một trong hai đứa tụi em lâm tình thế khó khăn.”

“Thế thì đâu có khác gì so với việc anh vẫn làm từ bấy đến nay.”

Ly bia trong tay, tôi nhìn thẳng vào J. “Em biết. Nhưng em muốn như thế.”

J cười và nhét tấm séc vào túi. “Anh vẫn còn nhớ lắm lần đầu tiên chú say. Cách đây bao nhiêu năm rồi nhỉ?”

“Mười ba năm.”

“Đã lâu vậy sao?”

Suốt nửa tiếng sau J nói chuyện ngày xưa, một điều anh hiếm khi làm. Khách hàng bắt đầu lục tục đi vào, tôi đứng dậy rời quán.

“Nhưng chú vừa mới đến mà.” J nói.

“Một đứa bé ngoan không ở lại lâu quá,” tôi nói.

“Chú có gặp Chuột không?”

Tôi thở một hơi sâu, cả hai tay trên bàn. “Em có gặp hắn.”

“Đó cũng là chuyện dài à?”

“Dài hơn bất cứ chuyện gì anh từng nghe trong đời.”

“Chú không điểm qua cho anh mấy nét chính à?”

“Nét chính không có nghĩa gì hết.”

“Nó khỏe chứ?”

“Khỏe. Cậu ấy ước gì có thể gặp anh.”

“Cậu có nghĩ là anh sẽ gặp lại nó vào lúc nào đó không?”

“Anh sẽ gặp lại cậu ấy. Xét cho cùng, cậu ấy là đồng đối tác mà. Đó là tiền em và Chuột kiếm được.”

“Vậy thì anh cũng mừng.”

Tôi bước xuống ghế bar và hít một hơi mùi chốn cũ.

“Ồ, và với tư cách là đồng đối tác, anh nghĩ sao về việc trang bị thêm máy lăn bi ghim và máy hát tự động?”

“Lần tới chú ghé là sẽ có tất cả rồi,” J đáp.

Tôi đi dọc theo bờ sông lên tới cửa sông. Tôi ngồi xuống bốn mươi lăm mét bờ biển cuối cùng, rồi khóc. Tôi chưa bao giờ khóc nhiều như thế trong đời.

Tôi phủi cát khỏi quần rồi đứng dậy, như thể tôi có một nơi nào đó để đi.

Ngày đã gần tàn. Tôi có thể nghe thấy tiếng sóng khi cất bước.


Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách