Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Xem: 14909|Trả lời: 225
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

Lịch sử Việt Nam

 Đóng [Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Việt Nam thời nguyên thuỷ


Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam

Thời kỳ lịch sử - Thời cổ đại

Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam


Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài người. Người ta đã phát hiện thấy người vượn ở Bình Gia (Lạng Sơn), nhiều công cụ thuộc buổi đầu thời kỳ đồ đá cũ ở núi Đọ, núi Quan Yên (Thanh Hoá). Đó là dấu vết xưa nhất hiện nay ta biết về giai đoạn bầy người nguyên thủy trên đất nước ta.Thời ấy cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm.

Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán đảo Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra, Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả nghiên cứu địa chất và khí hậu học còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là những kỳ mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn bây giờ một chút. Trong rừng rậm, trên thảo nguyên, có nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu, nai, đười ươi, vượn, khỉ, cầy, chồn... sinh sống. Những bầy người nguyên thuỷ sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sông tìm kiếm thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.

Người ta đã phát hiện được ở núi Đọ hàng vạn công cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên những công cụ chặt, rìu tay, nạo... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ, thuật ngữ khảo cổ gọi là mảnh tước. Với những đồ đá đó, người nguyên thủy có thể chặt cây, vót gậy tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được... Loại hình công cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ. Di tích núi Đọ là bằng chứng về sự có mặt của những chủ nhân sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã hội loài người đang hình thành.

Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hơn. Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng với những hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ của sông Hồng với rừng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc đầu thời đại đồ đá giữa tìm thấy ở di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc chắn cho giả thuyết này.

Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa Bình (thuộc thời đại đồ đá giữa) và văn hóa Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thời đại đồ đá mới) cách ngày nay khoảng một vạn năm. Ở các nền văn hoá này, bên cạnh kỹ thuật chẻ đẽo, người nguyên thủy đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc Sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc Sơn là một trong những di chỉ văn hóa có rìu mài sớm trên thế giới. Cũng trong thời kỳ này người ta còn phát hiện được những đồ gốm đầu tiên được nặn bằng tay.

Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa. Tre, nứa đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt Nam sau này. Chúng được dùng làm gậy, lao, cung tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thời gian huỷ hoại nên đến nay không còn chứng tích công cụ tre, nứa của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.

Cùng những thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên đất nước Việt Nam khi ấy, còn có những tập đoàn người nguyên thủy sinh sống ở miền ven biển Đông. Họ là chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Trải qua mấy nghìn năm, đống vỏ sò điệp do họ vứt ra sau những bữa ăn đã chất cao thành gò, rộng hàng trăm mét vuông. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ biển còn khai thác đá gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ chôn người chết trong những mộ huyệt tròn đào giữa đống sò điệp và chôn theo người chết một vài công cụ đá, đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ...

Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị tộc nguyên thủy đi săn và hái lượm có hiệu quả hơn. Ngoài việc mò cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn còn săn được nhiều thú như lợn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê ngưu, voi... Chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn đã biết nuôi chó, trồng một số cây ăn quả, cây cỏ củ, rau đậu, dưa... Từ cuộc sống hái lượm những sản vật sẵn có của tự nhiên, người nguyên thủy Việt Nam sớm bước vào cuộc sống sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh nghề săn, nghề đánh cá phát đạt, nghề nông đã ra đời cùng với việc chăn nuôi gia súc nhất là trên các vùng châu thổ của các con sông lớn.

Nhiều nhà nông học khẳng định bán đảo Đông Dương là quê hương của cây lúa. Ở đây có nhiều loại lúa hoang hiện còn tồn tại ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bà con trong vùng thường gọi là lúa ma hoặc lúa trời. Dấu vết con người thời kỳ nguyên thủy có thể tìm thấy ở mọi miền trên đất nước Việt Nam từ vùng cực Bắc đến cực Nam. Họ để lại những di tích hang động và di tích ngoài trời ở miền núi, đồng bằng kể cả ở những vùng đất thấp sình lầy Nam Bộ trước khi hình thành nhà nước Việt Nam đầu tiên. Như vậy là vào thời đại đồ đá, trên nhiều vùng ở nước ta đã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc, trong đó bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước.

Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Ðặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt Nam.

Văn hoá Sơn Vi

Văn hoá Sơn Vi mang tên xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, do các nhà khảo cổ Việt Nam phát hiện và xác lập danh pháp vào năm 1968. Đến nay, hơn 140 địa điểm văn hoá Sơn Vi được phát hiện, phân bố chủ yếu trên các đồi gò trung du, một số di tích hang động Bắc Việt Nam. Công cụ đều làm từ đá cuội sông suối, ghè đẽo một mặt là chính, vết ghè trên một rìa cạnh tạo ra công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, phần tư viên cuội, hai hoặc ba rìa; cùng với một số công cụ mảnh tước kém định hình. Cư dân văn hoá Sơn Vi chưa biết đến kĩ thuật mài công cụ đá và làm gốm, hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắn và hái lượm, chưa biết trồng trọt và chăn nuôi. Văn hoá Sơn Vi có niên đại cuối Cánh Tân (Late Pleistocene), tồn tại trong khoảng từ 23.000 đến 11.000 năm cách ngày nay. Văn hoá Sơn Vi khác văn hoá Hoà Bình, có trước văn hoá Hoà Bình và phát triển sang văn hoá Hoà Bình, thuộc hậu kì thời đại đá cũ.

Rate

Số người tham gia 6Sức gió +35 Thu lại Lý do
lunamun + 5 Rất thú vị
loveIU93 + 5 Ủng hộ 1 cái!
cotchip2611 + 5 Bài viết hữu ích
thucle + 10 Ủng hộ 1 cái!
nagasaki + 5 Ủng hộ 1 cái!
thanhduongtu9x + 5 mình cũng thích lịch sử :)) đặc b.

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

226#
Đăng lúc 15-8-2013 01:10:34 | Chỉ xem của tác giả
Thread tạm đóng chờ SMod vào giải quyết.

Thân!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

225#
Đăng lúc 15-8-2013 01:09:50 | Chỉ xem của tác giả
Duy Tân (Canh tí 1900 - Ất dậu 1945)


Duy Tân (Canh tí 1900 - Ất dậu 1945). Tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San.

Hoàng đế, tức nhà vua yêu nước Duy Tân, sinh ngày 19-9-1900, con thứ tám nhà vua yêu nước Thành Thái (Nguyễn Phúc Bửu Lân). Khi lên ngôi lấy hiệu năm là Duy Tân nên cũng gọi là vua Duy Tân. Lúc ông làm vua, Phụ chánh đại thần là Trương Như Cương (một tay chân của Pháp) thường ngầm theo giõi ông.

Khi vua cha bị thực dân Pháp đưa đi đày, ông được đưa lên ngôi lúc còn bé. Do gần gũi với các chí sĩ yêu nước, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với quân cướp nước. Bí mật liên lạc với Trần Cao Vân, Thái Phiên, ông tán thành cuộc khởi nghĩa trong năm 1916, việc đại nghĩa thất bại, ông bị bắt ngày 6-5-1916 và đến ngày 3-11-1916 bị đày sang đảo Réunion (Đông Nam Phi châu).

Trong thế chiến thứ hai (1936-1945) ông gia nhập quân đội Đồng Minh chống phát xít Đức. Cuối năm 1945, ông từ trần vì tai nạn máy bay ngày 26-11-1945 tại Bắc Phi, hưởng dương 45 tuổi.

Mãi đến ngày 2-4-1987 hài cốt ông được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, rồi đưa về Huế cải táng bên cạnh vua cha Thành Thái.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=17&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

224#
Đăng lúc 15-8-2013 01:08:39 | Chỉ xem của tác giả
Dương Vân Nga


Dương Vân Nga, sử cũ chép là Dương Hậu (Hoàng hậu họ Dương) Theo truyền ngôn, thân phụ bà là Dương Thế Hiển, quê ở thôn Nga My, xã Gia Thuỷ (huyện nho Quan) quê mẹ ở thôn Vân lung, xã Gia Vân ( huyện gia Viễn) tỉnh Ninh Bình, sinh thời, cha mẹ chỉ gọi bà là Dương Nương ( cô gái họ Dương), sau khi vào cung Hoa Lư, được gọi ghép tên làng cha với tên làng mẹ thành Vân – Nga. Nhân dân địa phương gọi là Dương Vân Nga.


Năm Giáp Tuất (974), Dương Vân Nga sinh Hoàng thứ tử Đinh Toàn. Lên 5 tuổi, Đinh Toàn được vua cha phong là Vệ Vương . Đêm rằm Trung Thu năm 979, Đại Thắng Minh hoàng đế và Nam  Việt Vương Đinh Liễn bị Nội nhân Đỗ Thích giết hại. Triều thần tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu . Đinh Toàn lúc này mới lên 6 tuổi. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn được Dương Thái hậu chọn làm Nhiếp chính, sau lại tự xưng là Phó Vương. Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Tướng quân Phạm Hạp ngờ Lê Hoàn chiếm ngôi nhà Đinh. Mới cùng nhau hội binh, chia hai đường thuỷ bộ từ Ái Châu (Thanh Hoá) kéo về Hoa Lư hỏi tội Lê Hoàn, Dương Thái Hậu thấy vậy, lo ngại bảo Lê Hoàn rằng: “Bọn Bặc dấy quân khởi loạn, làm kinh động nước nhà, vua còn nhỏ yếu, không đương nổi hoạn nạn, bọn ông mưu tính thế nào, chớ để sinh tai hoạ về sau. Lê Hoàn mới chỉnh đốn binh mã, đánh bại Nguyễn Bặc, Đinh Điền. Biết Kinh thành Hoa Lư có biến, phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn hơn một nghìn chiến thuyền quân Chiêm Thành tiến đánh nước ta. ở biên giới phía Bắc. giặc Tống lợi dụng tình hình đại Cồ Việt rối ren, đang chuẩn bị cất binh xâm lược nước ta.

Thái Hậu Dương Vân Nga sai Lê Hoàn chọn tướng sĩ để chống cự, lại cử Phạm Cự Lượng làm Đại tướng tiên Phong. Khi đang chuẩn bị  cất binh , Phạm cự Lượng cùng các tướng mặc đồ nhung phục, đi thẳng vào triều đường, bảo mọi người rằng: “ thưởng ngưòi có công, giết kẻ không theo mệnh lệnh, là kỷ luật hành quân. Nay Chúa Thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài, may lập được chút công thì ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo Tướng quân làm Thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh thì hơn!” Quân sĩ nghe nói thế đều hô “ vạn tuế” thái hậu nghe nói vậy sai hữu Ty đem đủ nghi trượng rước Hoàn vào cung, lấy áo rồng khoác lên mình Hoàn, khuyên Hoàn lên ngôi Hoàng đế”.

Hành động này của Dương thái Hậu bị các đại thần trung thành với nhà Đinh chống lại quyết liệt. Các nhà nho phong kiến và dư luận, kể cả sau này hết sức chỉ trích. Song, trong tình thế đất nước lúc đó hết sức cấp bách bởi nguy cơ xâm lược của nhà Tống đã  hiện ra trước mắt, Dương Thái Hậu đã có cái nhìn vô cùng sáng suốt, đặt lợi ích dân tộc và quốc gia lên trên lợi ích dòng tộc, chọn Lê Hoàn là một thống soái quân đội, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, có khả năng tập hợp và tài năng chỉ huy quân dân ta lúc đó đương đầu với quân xâm lược, loại bỏ được nguy cơ mất nước.

Năm 981, cuộc kháng chiến chống quân Tống thắng lợi, Dương Vân Nga đón Lê Hoàn chiến thắng trở về ở Bến Ngự ( sông Van Sàng, nay thuộc thành phố Ninh Bình).

Năm Nhâm Ngọ (982), Lê đại Hành lập Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng hậu, là một trong năm hoàng hậu của vua Lê.
Năm Canh Tý (1000), Hoàng hậu Dương Vân Nga qua đời.
Hiện nay, đền thờ Lê Hoàn ở Trường Yên (Hoa Lư), đền vua Đinh, vua Lê ở Trung Trữ (Ninh Giang, Hoa Lư) và đền làng Bách Cốc (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) đều có tượng  Dương Vân Nga. Tượng bà ở đền Lê Đại Hành( trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình) gọi là Bảo Quang Hoàng Thái Hậu.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... =1745&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

223#
Đăng lúc 15-8-2013 01:05:57 | Chỉ xem của tác giả
Dương Văn Minh (Bính thìn 1916 – Tân tị 2001)


Dương Văn Minh (Bính thìn 1916 – Tân tị 2001). Tướng lãnh (Đại tướng) Quân đội Sài Gòn, tổng thống cuối cùng của “Việt Nam cộng hòa”, sinh năm 1916 (có tài liệu ghi năm 1911) tại Mĩ Tho, Tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Tiền Giang).

Thuở nhỏ học ở Mĩ Tho, Sài Gòn sau du học Pháp, tốt nghiệp trường Cao đẳng chiến tranh Paris năm 1953. Hồi năm 1939 là nhân viên dân sự tại dinh Thống đốc Nam Kì, rồi nhập ngũ vào quân đội Pháp, ra trường với cấp bậc chuẩn úy từng tham gia các trận đánh ở biên giới Miên Thái trong thế chiến thứ hai.

Đến năm 1954 phục vụ trong quân đội liên hiệp Pháp, sau năm 1954 là phó tư lệnh Quân khu I dưới chế độ Ngô Đình Diệm (1955-1963). Năm 1955 chỉ huy trưởng phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn trấn áp lực lượng Bình Xuyên, ở Rừng Sát (nay là huyện Cần Giờ), Hòa Hảo ở Long Xuyên, nhưng không được Ngô Đình Diệm tin dùng lâu.

Năm 1963 nhân phong trào Phật giáo nổi lên chống Ngô Đình Diệm khắp miền Nam. Đến ngày 1-11-1963 được Mĩ giúp đỡ, ông đứng đầu “Hội đồng quân nhân cách mạng” (gồm các tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim…) đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Dư luận đương thời ở Sài Gòn cho rằng chính ông là người ra lệnh cho Đại úy Nguyễn Văn Nhung (…-1964) giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu trên xe thiết giáp từ Chợ Lớn về Sài Gòn.

Đến ngày 30-1-1964 ông và đồng bạn bị tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lí” lật đổ, bắt giam ở Đà Lạt một thời gian rồi buộc ông sống lưu vong ở Thái mãi đến các năm 1965, 1966 mới về nước.

Ngày 28-4-1975 sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống, Trần Văn Hương thay Thiệu rồi Trần văn Hương giao quyền Tổng thống lại cho ông với hy vọng thương lượng với chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam.

Ngày 30-4-1975 ông tuyên bố đầu hàng chính quuyền cách mạng. Ngay hôm đó ông bị bắt cùng toàn bộ thành viên chính phủ Việt Nam cộng hòa tại dinh Độc lập.

Sau năm 1975 ông sang sống ở Pháp và mất tại Pháp trong năm 2001, thọ 85 tuổi.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=16&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

222#
Đăng lúc 15-8-2013 01:04:09 | Chỉ xem của tác giả
Dương Thị Xuân


Học hết lớp 7, Xuân xin cha mẹ cho đi làm trên nhà máy đường Sông Lam gần Rú Thành. sống cuộc đời công nhan, Xuân phổng phao và đẹp hẳn lên. Xuân chăm làm, chịu khoá học hành và công tác nên được nhà máy thưởng nhiều lần. Năm 1965-1966, Xuân được thưởng chiếc áo lụa hoa rất đẹp, thỉnh thoảng mới diện đôi chút. Sau đó nhà máy đường Sông Lam bị giặc Mỹ tàn phá, công nhân phải tạm chuyển đi làm việc khác. Xuân đi vào TNXP. Ra đi Xuân vẫn nhớ ngọn núi Thành cao chot vót bên nhà máy, nhớ Ngã ba Sông Lam và Sông La, nhớ khu nhà tập thể bên sườn núi đất.

Ông Quý - bố Xuân rất chiều con. Những lúc rảnh rỗi trước đây, ông thường xuống đơn vị thăm con. Nhiều bạn Xuân thầm ước ao có một người cha như thế, nhất là Nhỏ, Cúc và Hường.

Trước khi đi TNXP Xuân có quen anh Tân người cùng xã. Gia đình anh rất quý Xuân nhưng anh Tân chưa dám ngỏ lời với cha mẹ Xuân. Xuân mến anh Tan nhưng chưa muốn vấn vương chuyện gia đình, chuyện chồng con. Xuân hẹn anh khi nào thống nhất đất nước thì hẵng liệu. Anh Tân nghĩ vậy là đúng. Trước khi Xuân lên đường, anh trao cho xuân một quển điều lệ Đảng mà anh vẫn dùng. Anh nói với Xuân:

- Anh cũng đi bộ đội. Sau này trở về chúng ta sẽ la hạnh phúc riêng. Anh lấy sợi ni lông xanh, đỏ buộc vào cổ tay Xuân rồi nói:
- Màu đỏ là của anh, màu xanh lam này là của em. Khi nào nhớ đến anh, em hãy nhìn chiếc vòng này.

Cũng như mối tình Tần – Hông, Xuân và anh Tân đã không thực hiện được lời hẹ ước vì đất nước còn có giặc, chuyện riêng tư đành gác lại. Và ngày toàn thắng thì đã đến nhưng Xuân, chị Tần và 8 chị em trong A4 cùng bao nữ TNXP khác đx mãi mãi không trở về, gửi lại tuổi trẻ và tình yêu trên những tuyến đường.


http://www.lichsuvietnam.vn/home ... =1909&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

221#
Đăng lúc 15-8-2013 00:52:09 | Chỉ xem của tác giả
Dương Tam Kha


Con Dương Diên Nghệ, anh Dương Hậu (vợ Ngô Vương Quyền) không rõ năm sinh, năm mất. Người làng Dương Xá, huyện Đông Sơn.

Năm Giáp Thìn 944, Ngô Vương Quyền mất, ông được Ngô Vương ủy thác phù dực con lớn là Ngô Xương Ngập, nhưng ông thừa dịp đoạt lấy quyền của cháu, tự xưng Bình Vương.

“Tam Kha là đứa gian hồi

Lấy bề thích lý chịu lời thác cô

Cành Dương đè lấn chồi Ngô

Bình vương tiếm hiệu quốc đô tranh quyền”

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Ngô Xương Ngập trốn sang Nam Sách, thuộc tỉnh Hải Dương, được Phạm Lịnh Công ở Trà Hương huyện Kim Thành nuôi giấu. Không tìm được Xương Ngập, Dương Tam Kha lập em Xương Ngập là Xương Văn làm con nuôi.

Năm Canh Tuất 950, có biến ở hai thôn Thái Bình, Đường Nguyễn, Dương Tam Kha sai hai tướng Dương Khiết Lợi và Đỗ Cảnh Thạc cùng Xương Văn đi đánh dẹp. Đi đến Từ Liêm, Xương Văn ướm ý hai tướng Dương, Đỗ, được cả hai tình nguyện quay về đảo chính.

Dương Tam Kha bị bắt và bị giáng làm Trương vương công. Hai anh em Xương Ngập và Xương Văn nối nghiệp nhà Ngô như cũ.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=414&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

220#
Đăng lúc 15-8-2013 00:50:49 | Chỉ xem của tác giả
Dương Quốc Chính (Lê Hiến Mai) (1918 - 1992)


Lê Hiến Mai (Mậu ngọ 1918 – Nhâm thân 1992). Tướng lãnh QĐNDVN, Thứ trưởng bộ Quốc phòng, quê xã Trạch Mĩ Lộc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tây.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1939 bị Pháp bắt mấy lần. Sau cách mạng tháng 8-1945 nhập ngũ đến năm 1974 được thăng quân hàm Trung tướng. Từng giữ những chức vụ quan trọng về quân sự, chính trị và chính quyền từ chính trị viên trung Đoàn đến phó bí thư xứ ủy, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và điện lực, Bí thư đảng ủy Quân khu 4, Ủy viên Quân ủy trung ương, Bộ ttrưởng Bộ Thương binh và xã hội kiêm chủ nhiệm ủy ban điều tra tội ác chiến tranh xâm lược của Mĩ.

Năm 1982 làm chủ nhiệm ủy ban y tế xã hội của Quốc hội , Ủy viên Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN khóa III, IV…

Ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Ông mất năm 1992, thọ 74 tuổi.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=18&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

219#
Đăng lúc 15-8-2013 00:38:46 | Chỉ xem của tác giả
Dương Quảng Hàm


Dương Quảng Hàm (Sinh 14/07/1898)
(Sinh 14/07/1898) Dương Quảng Hàm hiệu là Hải Lượng, quê làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang. Ông sinh ngày 14 tháng 7 năm 1898 trong một gia đình có truyền thống nho học. Cụ nội là Dương Duy Thanh (1804-1861), từng làm đốc học Hà Nội. Thân phụ là Dương Trọng Phổ, anh cả là Dương Bá Trạc, một trong những người sáng lập lên Đông Kinh nghĩa thục, trường học cách mạng đầu tiên của thành phố Hà Nội, em là Dương Tụ Quán, đều là những danh sĩ có tiếng đương thời.

Ngay từ nhỏ Dương Quảng Hàm đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, đĩnh ngộ. Tuy chuyển sang Tây học sớm, song ông đã kịp tiếp thu một số vốn nho học của cha, anh, cái vốn ban đầu đó chính là nền tảng để sau này ông trở thành một người uyên bác về Hán học. Năm 1920 ông tốt nghiệp thủ khoa trường Cao đẳng Sư phạm với tiểu luận “Khổng Tử và học thuyết Khổng Mạnh trong nền giáo dục cũ”. Sau khi tốt nghiệp ông về làm giáo viên trường Bưởi (tiền thân của trường Chu Văn An ngày nay, là trường trung học nổi tiếng thời Pháp) và ở đó cho đến ngày toàn quốc kháng chiến (1946).

Thời gian đầu ông dạy sử - địa, tiếng Việt, tiếng Pháp bậc cao đẳng tiểu học. Cách mạng Tháng Tám thành công ông được bổ nhiệm làm thanh tra trung học rồi hiệu trưởng trường Chu Văn An. Cùng với nhiều giáo viên, giáo sư khác, giáo sư Dương Quảng Hàm đã đem hết nhiệt tình, tài đức để góp phần xây dựng một nhà trường cách mạng mới, một nền giáo dục dân chủ mới. Là lớp giáo sư đầu tiên được đào tạo có hệ thống và cũng là lớp người đầu tiên tiếp cận với khoa học giáo dục Pháp, với cách giảng dạy mới, cho nên, ngoài giờ giảng dạy ông còn vận dụng vốn tri thức nho học và tân học đi sâu nghiên cứu kho tàng văn học Việt Nam theo phương pháp khoa học.

Khi sưu tầm, nghiên cứu văn học, ông quan tâm đến nhiều vấn đề văn hóa, lịch sử, học thuật có liên quan. Hơn 20 năm (từ 1920 - 1945) Dương Quảng Hàm đã làm việc không mệt mỏi, vừa giảng dạy, vừa viết sách giáo khoa cho nhà trường từ bậc tiểu học đến bậc trung học, vừa bằng tiếng Pháp vừa bằng tiếng Việt như các sách: Leccons d’ histoire d’ An Nam (1927), Tập bài thi bằng sơ học yếu lược (1926 soạn cùng Dương Tụ Quán), Quốc văn trích diễm (1927), Việt văn giáo khoa thư (1940), Việt Nam văn học sử yếu (1941), Việt Nam thi văn hợp tuyển (1942), cùng nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như Hữu Thanh, Nam Phong, Tri Tân, Văn học tạp chí, với các bút danh Hải Lượng, Uyên Toàn. Song có giá trị nghiên cứu rõ rệt là hai cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” và “Việt Nam thi văn hợp tuyển”.

“Việt Nam văn học sử yếu” là quyển văn học sử đầu tiên của nước ta bằng chữ quốc ngữ có 48 chương, 11 thiên. Đây là một giáo khoa thư dùng cho học sinh 3 năm trung học song là một công trình khoa học lớn, có giá trị về nhiều phương diện, cả học thuật và tư tưởng, cả tư liệu lẫn phương pháp nghiên cứu. Nó vừa là mở đường, vừa là khẳng định giá trị của một nền văn học trước đó còn chưa được nhiều người biết đến, lại vừa đặt nền móng cho việc xây dựng bộ môn lịch sử văn học nước ta. Dương Quảng Hàm là một trong những người đầu tiên phân chia các giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam và đề cập khá đầy đủ đến cơ sở và ảnh hưởng của sự phát triển: Ngôn ngữ, văn tự, chế độ học tập, thi cử, ảnh hưởng của nước Pháp, Trung Hoa.

Nhiều thế hệ học sinh đã nhờ sách đó mà hiểu được tính chất phong phú và đa dạng của nền văn học nước nhà. Còn các nhà nghiên cứu coi đó là cuốn cẩm nang trong việc nghiên cứu văn học sử. Cho đến nay “Việt Nam văn học sử yếu” đã được tái bản trên 10 lần.

Để ghi nhớ công ơn của người thầy giáo mẫu mực, người viết sách giáo khoa văn học, cũng đồng thời là người nghiên cứu lịch sử văn học uyên bác, ngày 14 tháng 7 năm 1993 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Khoa học giáo dục và Viện Văn học đã tổ chức lễ kỷ niệm và hội thảo khoa học về Dương Quảng Hàm nhân 95 năm ngày sinh của ông.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=15&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

218#
Đăng lúc 15-8-2013 00:29:28 | Chỉ xem của tác giả
Dương Mạc Thạch


Dương Mạc Thạch, người chính trị viên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Đồng chí Dương Mạc Thạch, sinh năm 1915, quê ở xã Gia Bằng (nay là xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là người Đảng viên, Bí thư Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Nguyên Bình và là người chính trị viên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ).
Đồng chí Dương Mạc Thạch vốn là người sáng dạ, thông minh, nhanh nhẹn, có hoài bão và chí hướng, năm 1934 đồng chí tham gia cách mạng và được kết nạp vào Đảng. Đồng chí là người cán bộ nhiệt tình với phong trào ở Nguyên Bình, vận động nhiều người theo cách mạng và cũng là một trong những hạt nhân lãnh đạo, là Bí thư Chi bộ đầu tiên của huyện Nguyên Bình. Năm 1940, đồng chí Dương Mạc Thạch là Ủy viên Ban chấp hành lâm thời tỉnh Cao Bằng, vốn là người am hiểu địa bàn, nắm chắc phong trào cách mạng và là người có uy tín ở địa phương, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc, do vậy sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí Dương Mạc Thạch được tổ chức phân công bám trụ hoạt động ở Nguyên Bình và vùng giáp ranh với Bắc Kạn. Tại những vùng này, đồng chí đã tích cực xây dựng và phát triển cơ sở, vận động đồng bào Tày, Nùng, Mông, Dao vào Hội cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh ở các xã, tổng. Tháng 12/1942, các ban Việt Minh tổng đã họp tại Lũng Dẻ (châu Nguyên Bình) bầu ra Ban Việt Minh châu do đồng chí Dương Mạc Thạch làm chủ nhiệm. Đồng thời, đồng chí còn được Tỉnh uỷ phân công trực tiếp cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp “Nam tiến” xuống vùng Bắc Kạn để phát triển phong trào, tổ chức các đội tự vệ. Nhờ vậy, sau một thời gian các Chi bộ Đảng ở Ngân Sơn, Chợ Rã lần lượt được thành lập. Thời kỳ này, đồng chí Dương Mạc Thạch là Tỉnh uỷ viên Cao - Bắc - Lạng và là người cán bộ chủ chốt chỉ đạo xây dựng và phát triển phong trào khu vực này, vì vậy đồng chí là một đối tượng luôn bị địch săn lùng, truy bắt. Tháng 02/1944, trên đường xuống núi Phja Boóc gặp địch khủng bố gắt gao, đồng chí đã phải ở lại hoạt động ở các xã phía Bắc huyện Ngân Sơn và cũng tại đây, đồng chí đã 2 lần bị địch phục kích nhưng may mắn thoát được.
Ngày 22/12/1944, tại buổi lễ thành lập Đội VNTTGPQ, đồng chí Dương Mạc Thạch được cử làm chính trị viên của đội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đã cùng với đội trưởng Hoàng Sâm chỉ huy Đội VNTTGPQ làm nên chiến thắng ngay từ trận đầu. Buổi đầu, đội VNTTGPQ gặp rất nhiều khó khăn về tài chính (chỉ được cấp 50 đồng bạc Đông Dương), đồng chí đã vận động một số người quyên góp ủng hộ và bàn bạc, vận động gia đình mình ủng hộ Đội 500 đồng.
Sau khi đánh đồn Đồng Mu trở về, đầu năm 1945 khi Đội VNTTGPQ đã phát triển thành nhiều đại đội, đồng chí Dương Mạc Thạch được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy một đại đội hoạt động dọc đường 3b, vừa vũ trang tuyên ruyền, vừa chặn đánh quân Nhật ở Nà Phặc, Hà Hiệu, Đèo Giàng… Trong cách mạng tháng Tám năm 1945, đã cùng đơn vị tham gia giải phóng Thị xã Bắc Kạn, đến năm 1948 có thời kỳ làm Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến Bắc Kạn,… Giữa năm 1948, đồng chí được điều về Bộ Tư lệnh làm đặc phái viên các tỉnh miền núi, đầu năm 1949 được bổ nhiệm làm Trưởng phòng quốc dân Miền núi của Liên khu I.
Từ năm 1950, đồng chí Dương Mạc Thạch được cử đi học trường Chính trị Hà Nam (Trung Quốc), cuối năm 1951 về nước được bổ sung vào Tỉnh uỷ tỉnh Yên Bái sau đó được Trung ương điều lên Hà Giang. Gần 20 năm, đồng chí đã trải qua các chức vụ: Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Giang. Tên tuổi của đồng chí đã gắn bó với quê hương nơi đây, đã góp phần xây dựng và phát triển đối với tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn này. Đầu năm 1970 đồng chí Dương Mạc Thạch được điều về làm Bí thư Đảng uỷ Trường Đại học Nông nghiệp 3 Bắc Thái, cho đến tháng 8/1978 được nghỉ hưu, trở về sống tại quê hương Cao Bằng và mất một năm sau đó.
Sau hơn 40 năm tham gia hoạt động cách mạng, đồng chí Dương Mạc Thạch được giao trọng trách trên nhiều cương vị, nhiều vùng quê khác nhau. Trong buổi đầu cách mạng còn nhiều khó khăn, song đồng chí luôn tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, sự quyết đoán của người chỉ huy quân đội, của người lãnh đạo, xứng đáng là một trong những người con ưu tú trên quê hương cách mạng Cao Bằng. Với những công lao to lớn đó, đồng chí Dương Mạc Thạch đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh, huân chương kháng Pháp hạng nhất và nhiều huân chương khác. Để gìn giữ và phát huy những truyền thống tốt đẹp mà cha ông để lại, mọi cán bộ, Đảng viên và nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng luôn không ngừng nỗ lực, phấn đấu xây dựng quê hương Cao Bằng ngày càng giàu đẹp xứng đáng là nơi thành lập Đội VNTTGPQ, là cái nôi của cách mạng Việt Nam.
Nam Tuấn (Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng)

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... =1954&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách