Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: ichigo_daifuku
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lớp Tự Túc Văn Hóa] Phổ cập Tiếng Thái toàn Box! Khai giảng 08/04/2013! Bài mới

[Lấy địa chỉ]
24#
 Tác giả| Đăng lúc 25-5-2013 21:21:12 | Chỉ xem của tác giả
Nào chúng ta cùng nhau học hát nha.
Hai câu đầu bài Nêe Hŭa Jay: Tạm dịch Nợ Trái Tim.

Dịch sát nghĩa nha. các tình yêu tự xướng ca theo MV ná ^^

nêe keu ná-rók kŏng ter châi măi?

Đây là địa ngục của anh phải không?

nêe keu făn ráai têe rái taang dtèun?

Đây là ác mộng mà thiếu đường tỉnh (dậy)!

Giải thích: Câu trên thôi khỏi dài dòng nhé.

Câu dưới đây

făn: mơ, mộng
ráai: xấu => făn ráai: mộng xấu=> ác mộng
(dee: tốt=> făn dee: mộng tốt=> mộng đẹp. với các girl chúng ta có câu făn dee kha= nice dream= G9{:446:})
tee= that trong tiếng anh, lúc dịch có thể lược đi như trong tiếng anh đó.
rái: thiếu
taang: đường, lối.
dtèun: tỉnh lại, tỉnh dậy

Dịch thoáng và văn hoa một chút: Đây là cơn ác mộng không cách nào tỉnh lại.




Và từ câu trên chúng ta motify đi sẽ ra câu ni.

nêe keu "pee Ken" kŏng ter châi măi?{:404:}
nêe keu "Ken lòr" kŏng khun châi măi?{:430:}
nêe keu "Ken na ruk" kŏng chán châi măi?{:436:}

pêe: anh, chị
lòr: đẹp trai.
na ruk: đáng yêu {:418:}

Nghĩa dư lào các tình yêu tự xướng nha {:438:}  
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 25-5-2013 21:20:01 | Chỉ xem của tác giả
Hồi hôm có nhắc đến Bee mà quên mất tiêu từ này
nám thip: mật hoa (thíp: thiên, trời, hoặc thiêng, nước thiên nhiên, nước trời, nước thiêng=> mật hoa)

Nào từ cuối. hic

Puêng (đọc gần giống phưng bật hơi ra chút nha:))=)))

- Ký tự tiếng thái ผึ้ง
là sự kết hợp của phụ âm đầu ผ  phor pheung (để cho đơn giản hãy cứ nhớ nó là chữ ph thế là được rồi)
và nguyên âm ึึึึึึ (ư) chú ý chữ ư là mỗi cái dấu mũ trên đầu thôi nha, tiếp đó là phụ âm cuối ngor ngoo (cứ nhớ nó là chữ ng là được rồi) còn cái con chim cúc cu kia thì ở đây nó lại thành thanh cao, đọc cao giọng lên một chút nha, giống như khi t nói a với A! đó.

- nghĩa - ong .

- một số từ ghép:

nám pêung: nước ong=> mật ong.
kêe pêung: sáp ong (kêe: phân, chất thải. hic vậy sáp ong là.OMG)
rang pêung: tổ ong (rang: tổ)
sĕe pêung: sáp nẻ ( trong này sĕe chính là từ màu đó, nhưng trong tiếng thái đây ngoài chức năng danh từ còn là một động từ hiếm dùng nữa, mang nghĩa nôm na là thoa)
Cuối cùng bonus thêm 1 từ chả liên quan đây
săai náam pêung: kim ngân hoa. (săai: muộn, kim ngân hoa còn có tên khác là nhẫn đông vì chịu được cái lạnh mùa đông,"Tháng chạp khô héo, hoa kim ngân rưng rưng nở vàng từng búi" )



rồi giờ lại quay về xuất phát điểm:
sĕe nám pêung: màu mật ong

Vậy còn Majurat là giề. là giề nào???
Ai muốn biết thì chơi gêm xô đê, chơi xong t bật mí choa,=)))
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 23-5-2013 15:24:03 | Chỉ xem của tác giả
Nào hôm nay cùng đến với từ gốc tiếp theo nha.

nám (viết sao đọc thế:)), các bạn nữ hãy liên tưởng đến từ nám da để dễ nhớ từ này:)) ko uống "nám" dễ bị nám da=)))

- Ký tự tiếng thái น้ำ  
là sự kết hợp của nor noo (để cho đơn giản hãy cứ nhớ nó là chữ n thế là được rồi) và vần (am) còn cái dấu cuối cùng có hình con như con chim cúc cu gật gù đó, hãy tạm nhớ nó là dấu sắc, ghép lại chúng ta ra từ này đó.

- nghĩa - nước .

- một số từ ghép:

sĕe nám: màu nước.
nám dtaan: đường (dtaan: cọ hay thốt nốt, nói chung hãy nghĩ thoáng 1 chút thì nước từ cây thốt nốt tạo thành đường, liên tưởng đến đường nâu nha.đừng liên tưởng đến đường trắng vì chúng ta còn có)
sĕe nám dtaan: màu đường= màu nâu.
nám cháa: nước chè (cháa: chè, trà)
nám dtaa: nước mắt (dtaa: mắt, duang dtaa: con mắt)
hông nám: phòng vệ sinh (hông: phòng, phòng nào mà đi ngoài ra nước thì gọi tắt cái phòng nước tức phòng vệ sinh)
nám kăeng: đá (kăeng: cứng, nước cứng lại=> đá, đừng ai nhầm thuật ngữ nước cứng trong hóa học nha)
nám tá-lay: nước biển (tá-lay: biển nè, còn ai nhớ bài tá-lay sĕe dam - biển màu đen không ta :))



nám rón: nước nóng.
nám fŏn: nước mưa (ơ hóa ra nhân vật của bee trong dòng máu phượng hoàng tên là nước mưa à:)) vậy dịch ra hán việt chắc là Thủy Vũ:)) ôi tên cũng đẹp phết nhở:))
còn tìm được từ này mà không hiểu tại sao lại nghĩa như vợi nữa.
sĕe nám ngern: màu xanh biển.
nám ngern: xanh biển
(ngern: tiền)
nám nom: sữa (nom: vú)
nám yen: nước lạnh (yen: lạnh, jai yen: bình tĩnh)
nám hŏm: nước thơm (mình hay gọi nước hoa đó)
nám kem: nước mặn
nám pêung: mật ong
nào hãy cùng nhớ đến cái tên phim mới của ken .sĕe nám puêng: .(cái gì đó). màu mật ong. hehe.

Bình luận

vì mình nghe tụi bạn mình đọc như sìi số 4 vậy, chắc đọc nhanh nó thế :)  Đăng lúc 23-5-2013 08:53 PM
vỗ tay cho Bánh, tuy cách đọc vẫn làm khó mình một tí, cơ mà thích mấy dạng bài vầy, ngắn gọn xúc tích thôi, còn cái chữ sìi kia ấy, có lẽ vào hoàn cảnh sẽ hiểu dễ   Đăng lúc 23-5-2013 08:52 PM
hôm nay học vào ghê!!!! Chắc là vừa học vừa có VId đi kèm!!! heehh!!!!  Đăng lúc 23-5-2013 06:55 PM

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
nxuyen91 + 5 thumbs up cho Bánh.

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

21#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 22:52:08 | Chỉ xem của tác giả
Hôm nay giời đổ mưa rào.
Tình hình là mưa ào ạt rơi, lòng dào dạt thứ muốn viết.
Từ bây giờ thay đổi chiến thuật 1 tẹo mỗi ngày chúng ta học 1 đến 2 từ gốc và từ từ đó ghép thành các từ mới

Ngày hôm nay lấy cảm hứng từ bộ phim đánh dấu sự tái xuất giang hồ của bẹc boi KenT
Chúng ta sẽ cùng chặt chém từ gốc sau.

sĕe (đọc là sỉ gần giống như trong bán sỉ bán lẻ)

- Ký tự tiếng thái สี là sự kết hợp của sor seua (phụ âm s lớp cao) và nguyên âm dài ii (cái mũ ở trển đó) còn cái lý do tại sao đọc sỉi chứ ko phải đọc sii thì chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu kỹ ở những bài kế.

- nghĩa - màu nhưng để cho dễ nhớ hãy liên tưởng đến từ sắc chúng ta sẽ nhanh nhớ ra từ này hơn.

- một số từ ghép:

sĕe dam: màu đen.
sĕe daeng: màu đỏ
sĕe fáa: màu trời (xanh da trời - fáa: trời)
sĕe kĭeow: màu xanh lá
sĕe mûang: màu tím
blar . blar.

ngoài ra chúng ta còn có thể ghép thế này nè:

sĕe nám pêung: màu mật ong
nám: nước
pêung: ong
=> nám pêung: mật ong (có ai nhớ cái tên phim mới của Ken ko nhở:))

không thì gần gũi hơn một chút hãy ngóc cổ lên nhìn lại màu trời kìa.

Bình luận

chứ nếu nghe đúng chữ này thì thường là dấu hỏi đó, hoặc nặng một chút xuống chứ m không nghe thành sìi được, nghe sìi là theo phản xạ m luận ra số 4:)  Đăng lúc 23-5-2013 02:42 PM
sìi là số 4 đó nxuyen :)  Đăng lúc 23-5-2013 02:40 PM
phải 'sỉ' như trong sỉ lẻ? Cò gì Bánh cập nhật cho mình biết w nhé.  Đăng lúc 23-5-2013 10:50 AM
hay nè, ngắn mà bổ ích, tuy cái phần kí tự Thái đối w mình ko hữu dụng cho lắm. Cơ mà muốn hỏi, thỉnh thoảng mình nghe đc là 'sì', theo thanh huyền VN mình chứ ko   Đăng lúc 23-5-2013 10:49 AM
Á!!! thì ra Nam Peung là mật ong!! hô hô!! tên N'Ek ngọt ngào quá!!!!!  Đăng lúc 22-5-2013 03:21 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 21:17:45 | Chỉ xem của tác giả
Tiếp theo và Dừng lại...

Bền là cái cách

Còn nhận bà con được là vì đôi bên đều còn mang dấu ấn của tổ tiên. Dấu gì mà bền thế?

Các nhà ngữ học hay nhấn mạnh là từ vựng căn bản sống lâu hơn ngữ pháp. Ðã có xảy ra trường hợp một dân tộc vốn nói "Tôi ăn khoai" mà do tiếp xúc với dân khác lại đổi nói "Tôi khoai ăn", dù vẫn giữ đủ ba tiếng "tôi", "ăn" và "khoai".

Câu bền?

Trường hợp nhóm ngôn ngữ Việt-Thái, cái cách ta ráp từ lại thành câu rõ ràng cũng rất... thọ. Hãy xem:


Mee / kào / arai / mai? Có / tin / gì / không?
Ta-na-kan / yoo / thee / nai? Nhà băng / ở / chỗ / nào?
Hai / phom / pai / duey / dai / mai? Cho / tôi / đi / với / được / không?
Thee / nang / nee / mee / krai / chong / laeo / rue / yang?
Chỗ / ngồi / này / có / ai / giữ / rồi / hay / chưa?


Trong mấy câu Thái này, cũng như trong đại đa số câu khác, về từ chỗ giống chỉ còn lờ mờ, phảng phất, nhìn kỹ mới thấy, nhưng về "ngữ" sự tương đồng lồ lộ: chỉ cần dịch từng chữ Thái thành chữ Việt là có ngay câu Việt tự nhiên!

Cách bền?

Tiếng Việt, tiếng Thái, ngoài những từ "vô cảm" mà bất cứ ngôn ngữ nào cũng có như chân, tay, mặt, mũi v.v. còn chứa rất nhiều từ "hữu cảm" như khép nép, rạng rỡ, ngẩn ngơ v.v. Từ hữu cảm là một nét riêng về từ của "hệ" Bách Việt.

Có phải chính bản thân những "xác" khép nép, rạng rỡ, ngẩn ngơ v.v. đều có thể mất nhưng cái hồn của chúng thì trường tồn, nên mới nảy những hiện thân mới mẻ như lôm côm, lướt phướt, lởm khởm [13] v.v.? "Thác là thể phách còn là tinh anh" [14] !

Nói hồn, nói tinh anh, nghe cầu kỳ. Nói cách. Người Việt, người Thái có cách đặt từ gói luôn vào đấy đủ thứ "cảm" của mình.

Cách đặt từ "hết mình" ấy với cách đặt câu "mềm như nước" kia dường như mới đích thực cái bền.

Ai bền, ai không?

Nói như trên không hẳn là bác bỏ ý kiến bác học.

Chỉ muốn táy máy một chút, muốn bảo rằng "từ" dù căn bản đến đâu cũng chỉ bền hơn thứ "pháp" chưa ổn định.

Pháp, hay cách, không phải hễ cứ bập bẹ thành lời là có chắc chắn được ngay. Nhưng đã "lỡ" "đóng cột" rồi, thì dường như không dễ thay đổi.

Kho từ vựng Việt-Thái cổ vừa thu thập được vẽ nên một cảnh sinh hoạt tuy thiếu máy móc tối tân nhưng không hề man rợ. Người thôi man rợ, tiếng cũng thôi bập bẹ, tiếng mang phong cách, tiếng bền, được chăng?


Ðá nhau một chút

Nhớ tiếng Huế.

Mai, mee, dai, chai v.v. nhắc răng, rứa, mô, tê v.v.

Dường như giữa "trăm con" Bách Việt có hiện tượng nói cùng một cách nhưng lại dùng một số từ căn bản, nhất là những đơn vị ngữ pháp căn bản, khác nhau: chẳng hạn mee, mai, dai chính là có, không, được; răng, rứa, mô chính là sao, thế, đâu. [15]

Cớ sao mà chia dai rẽ được, chia răng rẽ sao thế? Ðể "đánh dấu" từng "đứa" chăng?

Có chia rẽ, rồi lại có chia xẻ. Cái thể thơ nhịp chẵn gieo vần giữa câu độc đáo của người Việt, người Thái, người Chăm là một chia xẻ lớn. Nó liên hệ thế nào với cái cách ăn nói đặc thù của anh em chúng ta? Liệu có thể nêu được gì cụ thể hơn tinh thần Ðề-Thuyết hay không? [16]

Nói lục bát, nhớ Kiều. Cùng làm thơ sáu tám, chỉ riêng ta có Nguyễn Du.

Nghĩ về văn học Ðông Nam Á (không kể Việt Nam), từng có ý kiến: "Người Ðông Nam Á không say mê văn học của mình như người Việt Nam." [17] Dường như là lời tế nhị. Nếu chúng ta không có Kiều, hẳn chúng ta cũng không say mê văn học...

Nói văn học hơi mơ hồ. Trở lại tiếng nói. Ðã tốn công cố chứng tỏ tiếng Thái giống tiếng Việt. Giống là giống vậy. Chứ câu văn Việt vừa mềm vừa gọn, từ Việt phân biệt hết sức tinh tế, nhất là những từ hữu cảm thì vừa đầy sáng tạo vừa phong phú lạ kỳ, "tiếng mà đến thế thì thôi" [18] , thì đâu dễ có hai!

Ðành "gà cùng một bọc", nhưng trăm con rồi đứa ra thế này đứa ra thế khác, có gì lạ.

Nói nhẹ kẻo "hoài". Dù chẳng "khôn ngoan" cũng cứ liều "đối đáp người ngoài"...


Bỏ qua đi... Tây! [19]

Học giả Tây phương, hễ bàn đến nguồn gốc tiếng Việt đa số có khuynh hướng nhất định. Do nước ta ở phía nam của đế quốc Tàu, phía đông của đế quốc Xiêm, phía bắc của đế quốc Miên, mà đầu tiên họ tưởng ta nói tiếng Tàu, xong họ tưởng ta nói tiếng Thái, sau đó họ "nhận ra" ta chính đang nói tiếng Miên [20] . Họ vừa kết luận thế vừa thú thực chưa biết mấy về cả tiếng nói lẫn nguồn gốc của các dân tộc Việt, Thái, Miên! [21]

Bảo ta học của Tàu còn tạm "tha" được. Thấy ta giống Thái, giống Miên, sao không nghĩ theo hướng anh-em mà lại khăng khăng đòi xếp trên, dưới?

Xếp thế là do quen đánh giá văn hóa thông qua thành tích xâm lăng [22] , qui mô kiến trúc. Xếp thế cũng là do tâm lý tức bực đối với một thuộc địa bướng bỉnh, quật cường.

Các ông Tây chủ quan, "tình cảm" đến mức quên bẵng bằng chứng lịch sử (như đã trình bày), nhưng dĩ nhiên vẫn cung cấp được cho ta nhiều dữ kiện quí báu. Ta nên vừa trân trọng dữ kiện vừa cương quyết trao trả lời "bình" nhảm nhí.


Hiểu làm sao?

Bình Nguyên Lộc từng nhận xét: "Ở Âu châu, các dân tộc không (...) bị (...) ngoại chủng xâm lăng (...) tất cả đều thuộc chủng Ấn-Âu, nên ngôn ngữ của họ còn khá đủ sau 5000 năm. Ở Á Ðông, tình thế có khác vì có Hoa chủng xen vào." [23] Nếu xét Á Ðông cộng Ðông Nam Á thì ngoài Hoa còn Trắng Aryan cũng xen mạnh vào nội bộ Bách Việt thông qua Ấn Độ.

Bị quậy dữ dằn, vậy mà ngôn ngữ của chúng ta nhất định không mất. Chẳng những tiếng Thái giống tiếng Việt, nếu nhìn kỹ sẽ thấy tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Miên, tiếng Mã-lai, tiếng In-đô-nê-xi-a v.v. đều ít nhiều giống nhau, thấy một thứ hồn gì đấy cứ còn ẩn hiện trong tiếng nói khắp vùng.

Thấy thế, rồi hiểu làm sao? Câu hỏi cuối cùng chúng ta đang cố gắng cùng nhau tìm câu trả lời đóa ^^

Hẹn gặp lại ở các bài sau nha, từ bài sau chúng ta sẽ lại bắt đầu bới lông tìm vết từng chỗ một của Tiếng Thái nha ^^

Bình luận

hic!! Phần này khó nhai quá Bánh ơi!!!!!!!  Đăng lúc 20-5-2013 07:41 AM
Thanks bạn nhìu lắm lắm! Vậy từ nay ngoài cám ơn, xin lỗi, a iu e mình còn được học thêm nhiều câu nữa rùi, hay vậy mà đến bây giờ mới phát hiện ra ><   Đăng lúc 15-5-2013 11:49 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 21:14:02 | Chỉ xem của tác giả
Hôm nay đi ngân hàng chuyển tiền, gặp mấy người Thái đi chuyển tiền lận...
Họ nói m nghe câu được câu mất... với lại đầu lúc đấy còn đang mải đếm $$$$
Cơ mà vẫn nhớ có 1 anh dùng tiếng Việt cũng có vẻ sõi ...
Chị nhân viên bảo, anh ơi anh viết thế này em không đọc được đâu (chắc viết chữ thái)
Ảnh ý đánh vần lại đúng kiểu đánh vần tiếng Việt luôn...
Trông anh này lúc đầu m còn tưởng người Hàn... trông mặt mũi đặc sệt người Hàn ý
Thế mà lúc chị nhân viên kêu chuyển khoản hết bao nhiêu nhỉ 8.800
Nói ảnh kêu đắt quá...
Chị ý bảo đắt thì thôi không gửi nữa...
Và anh cũng thôi không gửi nữa...
Cơ mà vẫn cứ nói thank you và ra đi vô cùng lịch sự)
M thì đang thắc mắc có 8.800 gì mà đắt
Thì ngợ ra chắc ảnh ý quy nó sang tiền đô or bạt chăng
Vì m nhớ ko nhầm ảnh ý chuyển đô))))))))))))))))))))
Ối giời ơi)))))))))){:436:}

Hôm nay chúng ta sẽ tiếp tục chủ đề so sánh Thái Việt nha {:438:}
Cái nhầm kỳ quặc

So Thái với Việt thấy quá quen. Nếu thử đọ Việt, Thái với Anh, chẳng hạn, sẽ thấy là quá lạ.

Ðể chỉ màu đậm, Thái dùng chữ kae (già); Anh nói dark, chứ không nói old. Cây có trái, Thái nói ork phon (ra quả); Anh nói bear fruits, chứ không nói out fruits. Thái phor shai (đủ xài); Anh well enough (tốt đủ). Thái phoot mai ork (nói không ra); Anh struck dumb (bị đánh đần độn). Thái Kerd rueng arai lah? (Sinh chuyện gì đó?); Anh What is the matter? (Cái gì là vấn đề?). Thái Khun sa-bai dee rue? (Ông mạnh giỏi chứ?); Anh How are you? (Thế nào là ông?).

Rõ ràng Thái, Việt giống nhau cách riêng tư, "cố ý", chứ không phải giống vì cùng là nhân loại!

Học giả Tây phương không phải hoàn toàn không biết đến hiện tượng ấy, nhưng họ diễn dịch nó sai lầm cách tai hại cho công việc tìm hiểu của chính họ.

Gốc-ngọn, trên-dưới?!

Thời Việt Nam còn Pháp thuộc, H. Maspéro đã thấy tiếng Việt giống tiếng Thái và xếp nó vào họ Thái. [7]

Sang thế kỷ 21, chuyên gia ngữ học của Britannica cũng thấy tiếng Việt "chịu ảnh hưởng" hoặc "lấy" món nọ món kia của tiếng Thái. [8]

Vì đinh ninh Việt ngữ thuộc Thái ngữ hoặc Việt ngữ học của Thái ngữ nên các ông Tây mới thấy là tiếng Thái bơ vơ, không có anh em.

Tiếng dĩ nhiên có liên hệ với người. Ðinh ninh như trên về quan hệ giữa tiếng với tiếng không ăn khớp với bằng chứng về chuyện đã xảy ra giữa người với người.

Lịch sử, lịch sử

Từ lúc có nước Thái-lan (cách nay khoảng 700 năm), nước ấy với nước ta không có tiếp xúc đáng kể.

Trước khi lập quốc, người Thái đã có dịp nào "đè đầu cưỡi cổ" ta chăng?

Học giả Việt Nam từ Ðào Duy Anh đến nay đều nhất trí người Việt là hậu duệ của người Lạc, người Thái là hậu duệ của người Âu.

Theo đa số [9] , thời nước ta mới chỉ là Bắc bộ Âu sống sát bên Lạc, Âu rừng Lạc biển, Âu bắc Lạc nam. Lạc lập ra văn minh Ðông Sơn lừng lẫy nhất Ðông Nam Á hàng nửa thiên kỷ. Âu chỉ "oanh liệt" ngắn ngủi một lần khi Thục Phán hạ Hùng Vương thứ 18 mà lập ra nước Âu Lạc vắn số (khoảng 50 năm).

Theo Bình Nguyên Lộc [10] , người Âu chỉ mới xuống Bắc bộ khoảng tám trăm năm nay và thủ phận đến sau mà ở núi ở rừng, sống tách biệt với ta.

Không thấy ai bảo người Lạc thuộc họ Âu.

Dù theo ý kiến của số đông hay của Bình Nguyên Lộc, cũng không thấy được lý do khiến người Lạc phải học tiếng Âu.

Các nhà nghiên cứu Tây phương trước cho rằng các dân tộc Thái từ miền nam nước Tàu mà di cư xuống bắc Ðông Nam Á, nay lại chủ trương họ vốn sinh tụ quanh vùng Ðiện Biên Phủ, rồi khoảng năm 1000 mới bắc tiến lên Hoa Nam, từ đấy tây tiến qua Miến-điện qua Ấn Độ, nam tiến xuống Thái-lan xuống Lào [11] . Dù bảo người Thái tiến xuống hay tiến lên, không thấy ông Tây nào khẳng định điều gì rõ ràng về quan hệ huyết thống giữa người Thái và người Việt. Càng không thấy nói người Thái từng uy hiếp được người Việt trong khoảng thời gian đáng kể.

Ta không phải dòng giống Thái. Ta cũng không từng bị Thái chế ngự lâu dài. Vậy tiếng ta không thể thuộc họ Thái mà cũng không thể vay mượn tiếng Thái như các ông Tây đinh ninh.


Tiếng nghìn năm cũ

Giống nhau mà không phải gốc-ngọn, thì chỉ có thể là cành-cành.

Cành, thế mà hay

Tưởng Việt gốc Thái thì Việt không giúp tìm hiểu Thái.

Biết Việt với Thái cùng là cành thì có thể suy ra được ít nhiều về tuổi tác của gốc.

Nếu hai dân tộc anh em cứ liên tục làm láng giềng thì khó biết một đặc tính chung nào đó là mới hay cũ. Vì hai bên có thể học qua học lại cái mới của nhau mà cùng thay đổi tương tự.

Nhưng nếu ở cách xa mà có những chỗ tương tự thì những chỗ đó phải là vốn chung, của tổ tiên để lại. Vì chẳng lẽ mỗi người một phương cùng thi đua sáng kiến mà ngẫu nhiên những sáng kiến ấy lại giống nhau!

Ðôi ngả bao giờ?

Ai cũng đồng ý người Thái-lan từ Vân Nam mà xuống đất Thái. Vân Nam đã xa Phú Thọ [12] . Trước Vân Nam, họ ở đâu?

Theo thuyết Bình Nguyên Lộc, họ bị Hoa chủng đẩy từ Hoa Bắc xuống đấy đã vài ngàn năm. Khi người Tàu tiếp tục lấn, họ đi thẳng xuống Thái-lan chứ không hề ghé Bắc bộ (người Thái ở Bắc bộ chủ yếu là Âu Quảng Tây). Họ với ta chia tay nhau từ lúc ta còn ở bên Tàu, cách nay đã lâu lắm.

Theo thuyết Ðiện Biên Phủ, Vân Nam chỉ là trạm nghỉ ngắn trên đường "trường chinh" của người Thái. Họ lìa quê, xa ta chỉ mới 1000 năm nay.

Bao nhiêu dâu bể?

Ngay cả nếu "đường ai nấy đi" mới mười thế kỷ, người Thái và người Việt cũng đã có thừa lý do để "ai nói nấy nghe". Phần ta ở lại nhà dù đã thoát ách đô hộ của người Tàu nhưng về văn hóa vẫn tiếp tục bị phương Bắc ảnh hưởng nặng nề. Phần họ bên đất Thái trước bị văn hóa Ấn Ðộ áp đảo tối tăm mặt mũi sau bị hàng triệu người Tàu theo gót Trịnh Chiếu tràn xuống "khai hóa". Kẻ ở người đi đều thay ngang đổi dọc do tiếp xúc với nòi giống khác, lại thêm biến hóa tự nhiên, thế mà còn nhận ra nhau, lạ chứ.

Nếu thực ta với họ chia lìa đã mấy ngàn năm, thì chuyện tới mức quá lạ, tuy cũng còn đường giải thích. Ðể ý rằng cả Vân Nam lẫn Giao Chỉ đều là chỗ "khỉ ho cò gáy" đối với đế quốc Hán. Ngay vùng tương đối gần Trung Nguyên như các nước Việt thời Xuân Thu, Chiến Quốc mà sau khi chiếm xong người Hoa cũng phải mất mười mấy thế kỷ mới đồng hóa được. Vậy ảnh hưởng của họ ở Vân Nam, Giao Chỉ không sâu rộng lắm đâu. Dĩ nhiên Âu, Lạc vẫn phải bản lĩnh mới khỏi mất.

(còn tiếp)

Bình luận

hic!! đọc đạn này loạn hết cả rồi!!!!!!  Đăng lúc 20-5-2013 07:39 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 8-5-2013 20:39:22 | Chỉ xem của tác giả
Hôm nay vẫn tiếp tục với bài so sánh lượm được trên mạng nha...

Liên hệ giữa Tiếng Thái và Tiếng Việt

Âu ơi, Lạc ơi...

Tiếng Thái lạ?
Thử nhìn cho kỹ
Cái nhầm kỳ quặc
Tiếng nghìn năm cũ
Bền là cái cách
Ðá nhau một chút
Bỏ qua đi... tây!
Hiểu làm sao?



Tiếng Thái lạ?


Theo Từ điển bách khoa Britannica (2002), ngữ hệ "Tai-Kadai" - mà thứ tiếng chính là quốc ngữ của nước Thái-lan -, không có liên hệ gì chắc chắn với bất cứ thứ tiếng nào khác xung quanh nó cả.

Thoạt tiên, do thấy Tai-Kadai (T-K) có thanh điệu (tức dấu) và có nhiều từ giống tiếng Tàu, giới chuyên môn bèn xếp nó vào ngữ hệ Hoa-Tạng. Sau khi biết rất nhiều từ vựng căn bản của T-K thực ra không phải gốc Hoa, giả thuyết này bị loại bỏ. Năm 1942, học giả Mỹ Paul Benedict đề xuất T-K có dính líu với ngữ hệ Nam đảo (Austronesian). Giả thuyết Austro-Tai gây xôn xao một thời, nhưng đến nay vẫn chưa được đa số chấp nhận. [1]

Những ngôn ngữ lớn trên thế giới [2] của Ðại học Oxford (1987) khảo về 48 ngữ và ngữ hệ, do nhiều chuyên gia phụ trách. Xem kỹ, từ bài giới thiệu toàn bộ công trình của chủ biên đến bài viết chung về hệ T-K đến bài bàn riêng về tiếng Thái-lan, cũng không thấy giả thuyết nào mới về nguồn gốc tiếng nói của các dân tộc Thái.

T-K quả bí mật đến thế sao?

Dưới đây sẽ đưa ra bằng chứng về liên hệ rất đặc biệt giữa thứ tiếng ấy và tiếng Việt.


Thử nhìn cho kỹ

Ngữ hệ Tai-Kadai phân bố rộng rãi: ngoài hai địa bàn chính là Thái-lan và Lào, nó còn hiện diện ở Trung Quốc (các tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây, Quảng Ðông, Hải Nam), Việt Nam (thượng du phía bắc), Miến Ðiện, và cả Ấn Độ (tỉnh Assam, phía đông bắc).

Vì tiếng Thái-lan được xem là tiếng chính và vì lý do thực tế, việc tìm hiểu sẽ giới hạn trong phạm vi ngôn ngữ ấy, từ đây gọi vắn tắt là tiếng Thái.

Từ vựng

Tiếng Thái cũng đơn âm và có dấu như tiếng Việt [3] . Thanh điệu trong tiếng Thái đại khái tương đương với không, huyền, sắc, nặng, ngã trong tiếng Việt. [4]

Khác hẳn các ngôn ngữ trong hệ Ấn-Âu, từ Thái và từ Việt không bao giờ biến thể vì bất cứ lý do gì. Không bao giờ có chuyện mít thành míts, xanh thành xanhe, chạy thành chạyed, chạying v.v.
Về những từ căn bản, có ít nhất năm sáu trăm trường hợp tiếng Thái rất giống tiếng Việt. [5]

Ðể tiện suy nghĩ, tạm chia số từ "chung" này làm 16 nhóm như sau:

(1) Nhóm Cơ thể. Ví dụ: lang (lưng), khrao (râu), phung (bụng), san (xương), kang (cằm), khar (cẳng), kho (cổ), lai (vai), kho hoi (cổ họng), eo (eo).

(2) Nhóm Cảm giác. Ví dụ: dam (đen, thâm), horm (thơm), nak (nặng), tian (trơn), ot (đói), fart (chát), shuet (hoét-nhạt), yark (khát), nuai (oải).

(3) Nhóm Sinh hoạt căn bản. Ví dụ: thup (thụi), khen (chẹn), op (ôm), kho (khõ), khae (khảy), toi (thoi), kao (cào), yut (giật), khwarng (quăng), thap (đạp), hayeng (kiễng), yorng (dựng-tóc), yam (giẫm), ngoei (ngước), ngok (ngóc), kat (cắn), kharp (cạp), ar (há), om (ngậm), khai (khạc), niyom (nếm), kom (khom), morp (mọp), khot (co), cho (chọt), chorng (chong - mắt).

(4) Nhóm Quan hệ gia đình. Ví dụ: tia (tía), mae (mẹ).

(5) Nhóm Sản phẩm nhân tạo. Ví dụ: naa (ná), krong (lồng), marn (màn), klorng (trống), phat (quạt), rua (rào), khorng (cồng), ple-yuan (võng), khel (kèn), tum (chum), keea (cửi), khrok (cối), moong (mùng), khem (kim), chaeo (chèo), sao (sào), khao (gạo), sin (xiêm), thong (ống).

(6) Nhóm Ý niệm thời gian. Ví dụ: phrorm (rồi), sarng (sáng), warn (qua), duan (tháng), mai (mới), kae (già), nee (nay), khoei (quen).

(7) Nhóm Ý niệm không gian. Ví dụ: to (to), wong (vòng), klom (tròn), kong (cong), luk (lút), lum (lúm), prong (rỗng), yao (dài), tam (thấp), khaep (hẹp), shit (sít), noi (nhỏ), lek (lắt-nhỏ), nit (nhít-nhỏ), khap (chật).

(8) Nhóm Ý thức về trạng thái, chất lượng. Ví dụ: rorn (rôm-sảy), krorp (ròn), sa-art (sạch), prong (trong), rao (rạn), naen (nêm- đông), puai (hoai-phân), mue (mờ), ler (dơ), puan (bẩn), mun (mụ-đờ đẫn), mhod (mỏi), yun (dùn, chùng), rarp (rạp), nieo (dẻo, nếp), ae-at (kẹt), rua (rò), ung (ồn), nao (nẫu), rom (râm), hot (hóp), hieo (héo).

(9) Nhóm Ý thức tổng quát. Ví dụ: taek (tét-bể), ngorn (ngọn), yort (chót), yot (rớt), trong (trúng), phit (phét), du (dữ), loi (nổi), luem (lẫn-quên), phlat (lạc-quên đường), phung (phun), barn (banh-mở), phut (phựt-bật lên), op (ấp), larm (lan-lan tràn), plaek (lạ), sut (sụt), pong (phồng), tarng (đàng), naeo (nẻo), phler (lỡ, nhỡ).

(10) Nhóm Sinh hoạt cao cấp - Cụ thể. Ví dụ: tum (thấm, chặm), cho (trỗ), thak pia (thắt bín), yarng (nướng), hor (bó), phar (pha-cắt thịt), naep (nẹp), ru (rũ), chum (chấm), dap (dập), cheep (chít), chieo (chiên), mo (mài), tham (làm), rot (rót), sheet (xịt), chaek (trét), nung (nung), khuan (khuấy), nen (nén), kwart (quét), khwar (khoác), um (ẵm), bok (bảo), leo (quẹo), pork (gọt), pert (bật).

(11) Nhóm Sinh hoạt cao cấp - Trừu tượng. Ví dụ: term (thêm), khui mo (khoe mẽ), khor (hỏi), thai (thay), luak (lựa), luang (lừa), puan (bạn), tham rai (làm hại), kliat (ghét), chai (trả), thar (thách), yo (đố), phoei (phơi-phơi bày), war (quở-mắng), thorn chai (thở dài), yoo (ở), yua (đùa), shai (xài), yiam (thăm), thoi (thôi).

(12) Nhóm Thiên nhiên - Ðộng vật. Ví dụ: maeo (mèo), kai (gà), kar (quạ), maa (má - chó), plar (cá), mat (mạt), tuk kae (tắc kè), yieo (diều), khao maeo (cú mèo), kaeo (két), plar muk (cá mực), aen (én), ngar (ngà).

(13) Nhóm Thiên nhiên - Thực vật. Ví dụ: phai (pheo-tre), king (cành), pot (bắp), na (na), khing (gừng), muang (muỗm), horm (hành), fin (phiện), tua (đậu), son (thông), wai (mây), shar (trà).

(14) Nhóm Thiên nhiên - Tổng quát. Ví dụ: tharn (than), mek (mây), lok (đất), tok (thác), nern (nổng), dong (rừng), mork (móc), long (ròng-nước), chan (trăng), saeng chan (sáng trăng), lon (lớn-nước).

(15) Nhóm Từ kép. Ví dụ: kham nap (khép nép), rung rot (rạng rỡ), sa-warng sa-wai (sáng sủa), lom leo (lỏng lẻo), lork luang (lọc lừa), ruai ruai (hoài hoài), ngong nguey (ngẩn ngơ), yim yim (lâm râm), lo le (lo le), ruen rerng (rộn ràng), khlum khlua (âm u), nit noi (nhít nhỏ), plao plieo (loi lẻ), war we (quạnh quẽ), tam toi (thấp thỏi), pha som (pha trộn), khap khaep (chật hẹp), rok rark (gốc gác), kroke krark (rột rạt), uet art (uể oải), ot yark (đói khát), long tharng (lang thang), up ip (ấp ứ), on en (ỏn ẻn), khem khaeng (khỏe khoắn).

(16) Nhóm Linh tinh. Ví dụ: mae war (mặc dầu), lam (lắm), ruam kab (gồm cả), thaen (thay), shern (xin), khong lua (còn lại), yang (vẫn), yang khong (vẫn còn), kwar (quá), dai (đã), kum lang (đang), cha (sẽ), nee (này), nai (nào), krai (ai).

Ðây mới chỉ là chút kiến thức nông cạn, ngẫu nhiên. Có thể tìm hiểu kỹ sẽ thấy về từ vựng tiếng Thái còn giống tiếng Việt hơn thế nữa.

Tuy nhiên, giống như trên tưởng cũng đủ gợi vô vàn thắc mắc. Người Việt Nam với người Thái-lan đâu có tiếp xúc gì đáng kể, sao dùng lắm từ giống nhau vậy, giống từ eo, lưng, mèo, cá, na, muỗm, than, mây, kèn, trống, đến đen, nặng, thơm, to, nhỏ, dài, hẹp, đến ôm, gõ, đạp, giẫm, ngậm, nếm, khom, đến mẹ, tía, đến sáng, mới, già, đến sạch, trong, rạn, nẫu, hoai, héo, đến ngọn, chót, lạc, lạ, đường, nẻo, đến ẵm con, quét nhà, thắt bín, pha thịt, nướng thịt, đến lựa, lừa, thách, làm, trả, thăm, thở dài, khoe mẽ? Lạ hơn nữa là giống cả ở những cái "riêng tư" như khép nép, rạng rỡ, ngẩn ngơ, lo le, rộn ràng, ỏn ẻn, lang thang và những cái tuy "thiếu nội dung" nhưng rất cần thiết cho lời ăn tiếng nói như mặc dầu, vẫn còn, còn lại, đã, đang, sẽ!


(Còn nữa..)

Tình hình ai đọc xong bài ni đừng nản nha, cái này là bài so sánh thôi đọc để biết là chính nhớ được cần thời gian và trải nghiệm đừng ai đi học thuộc lòng bài này nha sau loạt bài lượm lặt về so sánh chung chúng t sẽ quay lại học 1 cách từ từ vừa học vừa xem lakorn ná{:414:}

Bình luận

hic!! nhiều từ hem bít đọc làm sao!! chỉ biết vài từ qua lakorn thôi!!! hic!!!!! Sự học là 1 biển cả!! huhuhu!!  Đăng lúc 11-5-2013 07:19 AM
coi RaengPrathana thấy gọi Ba trong khi phim khác gọi Bo???, và từ " bon" ( bón- đút ăn) . Giống nhau kỳ lạ :))  Đăng lúc 9-5-2013 09:25 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 17:58:50 | Chỉ xem của tác giả
Một chút liên quan đến từ Lakorn nha...
Lunamun có hỏi là lakorn bắt nguồn từ đâu...

Thực ra thì t cũng chịu không rõ gốc tích của từ này từ đâu mà tới

Chỉ biết lakorn được hiểu là: vở kịch, vở diễn và hiện giờ chúng ta hay quen dùng với nghĩa là phim truyền hình Thái Lan.

Lakorn theo từ điển tiếng thái viết là [ละ คร] và đọc là là [ละ คอน] đọc là lá-kon.

Và chúng ta hãy cứ dịch trong đầu nó là vở diễn cho nó dễ tiếp thu các từ ngữ liên quan.

dtua lá-kon: nhân vật
rohng lá-kon: nhà hát.
naang lá-kon: nữ diễn viên.
lá-kon tee wee: series phim truyền hình như kiểu Vượt ngục ấy{:180:}
lá-kon toh-rá-tát: vở diễn trên truyền hình. (tối thứ 7 VTV1 hay có này cuối năm có nguyên cả 1 vở ai cũng chờ luôn

Ngoài ra chúng ta nếu nghe các BTS hay nghe thấy từ này
sà-daeng: diễn
nak sà- daeng: diễn viên (nak đôi khi đứng trước 1 từ để biến từ đó thành từ chỉ người chuyên làm việc đó
VD: don tree: âm nhạc => nak don tree: nhà soạn nhạc, rian: học=> nak rian: học sinh, kĭan: viết=> nák kĭan: nhà văn...
Ngoài ra diễn viên còn có:
poo sà daeng: diễn viên (poo trong poo chai: đàn ông và poo ying: đàn bà đó)...
sà-daeng lá-kon: đóng kịch, đóng phim.

Và theo quy tắc biến động từ ngoại động thành danh từ đã đề cập đến ở bài trước chúng ta có.
gaan sà daeng: màn trình diễn.

So sánh Ngữ Pháp Việt Thái phần 3

(11) Cách dùng tiếng xưng, hô:

So với tiếng Anh, chẳng hạn, thì tiếng Thái và tiếng Việt hết sức phong phú nhân xưng đại danh từ. Người Anh xưng I, thì người Thái, người Việt có thể xưng tôi, ông, bác, chú, anh, em v.v., tùy đang nói chuyện với ai.

Từ Thái rao: chúng tôi, chúng ta giống từ Việt ta ở chỗ cũng dùng để nói với người dưới hoặc với chính mình.

(12) Cách trả lời câu hỏi:

Tiếng Anh phải chọn giữa Yes và No. Tiếng Thái linh động y như tiếng Việt.

Ar-harn phaeng mai? Phaeng (Mai phaeng).
Ðồ ăn đắt không? Ðắt (Không đắt).
..., chai mai? Chai (Mai chai).
..., phải không? Phải (Không phải).
Khun pai rue plao? Pai (Plao).
Ông đi hay không? Ði (Không).

(13) Câu mệnh lệnh xác định:

Tiếng Thái cũng thêm chữ ở cuối câu:

Fung see! Nghe đây!
Doo khao see! Nhìn nó kìa!
Pert pra-too si! Mở cửa ra!

(14) Cách nói cho lịch sự:

Tiếng Thái cũng dùng cách thêm chữ ở cuối câu.

Khun ma chark nai krap? Ông đến từ đâu ạ?
Khun pai nai ka? Ông đi đâu ạ?

Ðàn ông dùng krap, đàn bà dùng ka.

(15) Cách cấu tạo từ phức tạp:

Có bốn cách chính, đều phổ thông trong tiếng Việt.

- Thêm chữ phụ phía trước: naa là đáng, rak là yêu, naa rak là đáng yêu.

- Ðặt liền hai chữ ngang hàng: hung là nấu, tom là luộc, hung tom nghĩa giống nấu nướng. Ðặc biệt, phor look (cha con) có thể là “cha và con”, “cha hoặc con”, hay “cha của con”, y như tiếng Việt.

- Lặp lại chữ, hoặc y hệt, hoặc biến đổi chút ít. Dek dek (trẻ trẻ) là nhiều đứa trẻ; tiếng Việt nói nhà nhà, người người. Yung ying là lẫn lộn, soo see là lảo đảo.

- Dùng cả một cụm từ để diễn ý. Mai khit fai là que đánh lửa, tức que diêm; ta nói gậy cời than, móc áo, thuốc đánh răng v.v. Tiin taa tiin cay (mở mắt mở tim) là đầy bỡ ngỡ, hồi hộp; ta nói mở mày mở mặt để diễn ý hãnh diện, chẳng hạn.

(16) Dùng loại từ:

Tiếng Anh chỉ dùng loại từ khi không đếm được trực tiếp: two packs of butter (hai túi bơ), nhưng two cars (hai xe). Thái, giống Việt, dùng loại từ cho mọi trường hợp: không những nói bia see khuat (bia bốn chai), mà còn nói rot saam kun (xe ba cái), maa soong tua (chó hai con), kluay ha bai (chuối năm trái).

(17) Vài chỗ dị biệt:

- Có lẽ chỗ khác đáng kể nhất giữa Thái với Việt là ở vị trí tương đối của danh từ, loại từ và số từ, như vừa thấy trên. Ví dụ nữa: Thái nói dek saam khon (trẻ ba đứa), dek loo saam khon (trẻ xinh ba đứa), dek loo saam khon nee (trẻ xinh ba đứa này), thì Việt nói ba đứa trẻ, ba đứa trẻ xinh, ba đứa trẻ xinh này.(6) Ngoài ra, nếu chỉ có một thì Thái lại nói dek khon neung (trẻ đứa một).

- Thái đôi khi dùng dai (được) “không cần thiết”: Phom cham dai (Tôi nhớ được), Phom cham mai dai (Tôi nhớ không được). Việt nói gọn: Tôi nhớ, Tôi không nhớ. (riêng về chỗ này t không đồng tình lắm, vì theo t "nhớ được' là chỉ khả năng của hành động, còn nhớ là chỉ hành động ngay tức thì ở thời điểm nói, một người có khả năng nhớ được, chưa chắc ngay trong thời điểm nói đã "nhớ'! giống như khi ta đi thi, ngoài phòng thi thì nhớ được nhưng vào phòng thi lại nhớ không ra )

- Vị trí của chữ dai (đã) trong câu phủ định Thái ngược với vị trí trong câu Việt: Phom mai dai tham (Tôi không đã làm), thay vì Tôi đã không làm.

- Tiếng Thái đôi khi dùng chữ cha (sẽ) “không cần thiết”: Phom mai yaak cha rian wichaa nan (Tôi không muốn sẽ học môn ấy), thay vì Tôi không muốn học môn ấy.

Ba chỗ khác cuối dường như chỉ làm tiếng Thái có vẻ hơi “cứng” hay hơi “dông dài”, hơn là làm nó thực sự khác tiếng ta.


(còn tiếp)

Bình luận

hix phức lộn xộn  Đăng lúc 14-5-2013 10:33 PM
hit!!  Đăng lúc 8-5-2013 08:42 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2013 13:59:54 | Chỉ xem của tác giả
Hôm nay tiếp tục màn so sánh ngữ pháp nha {:436:}

So sánh Ngữ Pháp Việt Thái phần 2

(6) Câu so sánh:

Thái đặt loại câu này y như Việt.

Nang-see nee yaak kwa nang-see nan.
Sách này khó hơn sách kia.
Nang-see nee yaak thee-soot.
Sách này khó nhất.

(7) Câu phủ định:

Thái có ít nhất bốn cách đặt câu phủ định. Ba cách giống y Việt, một cách hơi “cứng”.

Phom mai sarb. Tôi không biết.
Mai mee sieng tob rub. Không có tiếng trả lời.
Bai nee mai chai khong khao. Cái này không phải của nó.
Phom kin mai dai. Tôi ăn không được.

Câu sau cùng tiếng Việt nói “Tôi không ăn được”.

(8) Câu hỏi “tổng quát”:

Thái có ít nhất chín cách đặt câu hỏi tổng quát, cách nào cũng y như Việt.

Nếu không đoán được câu trả lời:

Khao ma mai? Nó đến không?
Khun pai rue plao? Ông đi hay không?
Shuay phom noi dai mai? Giúp tôi chút được không?
Mee kon khab mai? Có người lái không?
Khao pai rue yang? Nó đi hay chưa?

Nếu muốn xác minh câu trả lời:

Khun sa-bai dee rue? Ông mạnh giỏi chứ?

Nếu đoán chắc sẽ được xác nhận:

Khun tong-kan pai, chai mai? Ông cần đi, phải không?

Nếu chỉ để lập lại thông tin:

Nam-mun mhod rue? Xăng hết à?

Hỏi mà câu trả lời không phải là không hay có:

Mee pla arai barng? Có cá gì đó?

Ðể ý rằng mai, mee, dai, chai, yang luôn luôn là không, có, được, phải, chưa, bất kể dùng trong câu phủ định hay trong câu hỏi. Chữ plao cũng luôn luôn là không. Chỉ có chữ rue khi là hay, khi là chứ, khi là à.

(9) Câu hỏi dùng Ai, Gì v.v.:

Giống y tiếng Việt, chỉ thỉnh thoảng hơi “dông dài”.

Rao cha long rua mua rai? Ta sẽ lên thuyền lúc nào?
Mua rai khun cha ma eek? Khi nào ông sẽ đến nữa?
Krai rian phaa-saa Thai? Ai học tiếng Thái?
Khun shue arai? Ông tên gì?
Pai nai? Ði đâu?
Hotel nai dee? Khách sạn nào tốt?
Ra-ka thao rai? Giá bao nhiêu?
Koi narn sak thao rai? Ðợi lâu hết bao nhiêu?
Ta-na-kan pert gee mong? Nhà băng mở mấy giờ?
Phom tong tham yarng rai? Tôi phải làm thế nào?
Khun cha pai yarng rai? Ông sẽ đi thế nào?

(10) Cách dùng trợ từ:

Giống tiếng Việt 1 cách kỳ dị, chỉ thỉnh thoảng hơi “dông dài”.

Phaeng kern pai! Ðắt quá đi!
Pai hai phon! Ði cho rảnh!
Phom aan mai ok. Tôi đọc không ra.
Phom mai roo rueng arai loey. Tôi không biết chuyện gì cả.
Mee rot hai shao mai? Có xe cho mướn không?
Khao tham hai phom rop kuan. Nó làm cho tôi khó chịu.
Phom yark dai ra-ka took kwa. Tôi muốn được giá rẻ hơn.
Khao yang rian wichaa nan. Nó vẫn học môn ấy.
Khao yang kong kin. Nó vẫn còn ăn.
Ao sha ma hai phom. Mang trà tới cho tôi.
Phom leum ao ngern ma. Tôi quên mang tiền theo.
Mai hen mee ruang nee. Không hề có chuyện này.
Bok hai phom sarb duey. Nói cho tôi biết với.
Koi narn sak thao rai? Ðợi lâu hết bao nhiêu?
Sha sia laeo! Trễ mất rồi!
Tham ayng rue? Làm lấy à?
Phom mai dai pai eek laeo. Tôi không được đi nữa rồi.

(Còn tiếp)

Bình luận

phát sinh ra nhiều hệ phiên âm đôi khi hơi khác biệt, nhưng khi biết cách đọc của 1 từ và nghĩa của nó n sẽ dễ dàng quy nó về hệ thống phiên âm của riêng mình :)   Đăng lúc 6-5-2013 06:05 PM
với mỗi người học tiếng thái đến từ mỗi nước lại có một cách phiên âm riêng của họ để tiếp cận tiếng thái một cách dễ dàng nhất, vì vậy nên cũng   Đăng lúc 6-5-2013 06:04 PM
trong tiếng thái thấy có ch thôi còn sh với tr ko thấy có:)) nếu n thấy dtree chẳng hạn thì cái đó đọc rời nha: tờ ri, còn nếu có sh thì đọc là sờ:)  Đăng lúc 6-5-2013 06:03 PM
Bánh!! có phải từ sh=ch=tr trong Tiếng việt hem nhể????  Đăng lúc 6-5-2013 08:48 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 4-5-2013 19:39:01 | Chỉ xem của tác giả
Tình cờ lụm được cái ni trên mạng{:404:}
Cơ mà không chơi 1 phát up hết lun đâu{:429:}
Hôm nay thứ 7 rùi chúng ta cùng nhau so sánh sơ bộ một chút về ngữ pháp Việt Thái nha ^^
Để cùng tự xướng về cái lợi của 1 người Việt chính cống khi tiếp cận với giai xênh gái đệp bên Thái
Đảm bảo dễ dàng nhanh chóng hơn nhiều so với việc tiếp cận tiếng Hàn, Nhật hay thậm chí là tiếng Anh{:438:}

So sánh Ngữ Pháp Việt Thái phần 1

Ðể so sánh hai cách đặt câu, không gì bằng dịch sát từng chữ trong mỗi câu. Dịch như thế, rồi để hai câu song song thì có giống nhau hay không, giống nhiều giống ít, sẽ thấy được ngay mà không phải thông qua thuật ngữ rắc rối hay khái niệm ngữ pháp chủ quan của ai ai cả.

Dưới đây là bằng chứng cho thấy về ngữ pháp tiếng Thái giống tiếng Việt một cách lạ lùng, giống từ tinh thần đến tận những chỗ rất đỗi tế nhị.

(1) Cấu trúc Ðề-Thuyết:

Cao Xuân Hạo nhiều lần nhấn mạnh cấu trúc Ðề-Thuyết của tiếng Việt (xem gocnhin.net số 4). Ðề-Thuyết cũng chính là cấu trúc cơ bản của tiếng Thái.

Phổm chư Mai. Tôi tên Mai.
Wan nee wan sao. Hôm nay thứ sáu.
Ruang nee ... phom krot maak. Chuyện này tôi rất giận.

(2) Tính “động” của tính từ:

Tiếng Thái có chữ bpen, tương đương với chữ Việt là. Nhưng cũng như ta, họ nói baan suay (nhà đẹp), chứ không nói baan bpen suay (nhà là đẹp). Ðây cũng chỉ do cách cấu trúc Ðề-Thuyết. Câu baan suay làm người Anh thắc mắc, nhưng với ta thì quá tự nhiên.

(3) Ít “của”:

Tiếng Thái có “của”, nhưng cũng ít dùng như tiếng Việt: mae phom (mẹ tôi) thay vì mae khong phom (mẹ của tôi).

(4) Chia thì:

Thái giống Việt, không tự động chia thìchỉ chia khi cần làm rõ hay nhấn mạnh. Các cách cho biết “thì” của tiếng Thái cũng giống y như trong tiếng Việt.

Khao dai ma. Nó đã đến.
Khao ma laew. Nó đến rồi.
Khao kham-lang ma. Nó đang đến.
Khao cha ma. Nó sẽ đến.

Ðể chỉ quá khứ, tiếng Thái còn dùng chữ khơi, tương đương với chữ từng của ta:

Phom khơi bpai Fa-rang-set. Tôi từng đi Pháp.

(5) Câu “mà”:

Từ Thái tee tương đương với từ Việt mà (tiếng Anh phân biệt thành who, which, where).

Baan tee khao yoo. Nhà mà nó ở.
Rot tee khao sue. Xe mà nó mua.
Ngao tee mee hua jai. Bóng mà có trái tim.

(Còn nữa)

Bình luận

Bánh ơi trong phần cấu trúc đề thuyết, cái vd hôm nay thứ sáu ấy, wan saothứ bảy mà, thứ sáuwan suk chứ nhỉ?  Đăng lúc 19-5-2013 05:38 AM
phục Bánh thật nhá ! nàng yên tâm mục nào box Thái cũng có mặt t,có điều dạo này hơi bận nên chỉ đu theo sau chút ít được thôi  Đăng lúc 4-5-2013 11:50 PM

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
nxuyen91 + 5 Ủng hộ 1 cái!

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách