Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: bichvan.jj
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Ảo Ảnh Quyền Lực │ Sidney Sheldon (Hết)

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 18-8-2013 17:13:28 | Chỉ xem của tác giả
  “Làm sao mà tôi biết được nơi chết tiệt ấy”.

  Bà Talley nhìn đứa trẻ bé xíu đang bế trên tay, tiếng quát tháo đã làm nó tỉnh giấc và bật khóc. Ở Klipdrift này, chẳng có trại mồ côi nào hết. Bà bắt đầu ru nó ngủ, nhưng đứa bé bắt đầu khóc to hơn. “Phải có người chăm sóc nó chứ?”

  Jamie đưa tay lên vuốt tóc trong sự thất vọng. “Quỷ tha ma bắt. Được rồi, bà chính là người đã rộng lòng nận đứa bé, vậy thì hãy tự trông nom nó” – anh quả quyết.

  “Vâng, thưa ông”.

  “Và hãy làm im bặt cái tiếng khóc khó chịu kia đi, hiểu không bà Talley? Tôi muốn bà đưa nó khuất mắt đi, đừng để tôi thấy sự có mặt của nó trong ngôi nhà này. Khi mẹ nó quay lại vào tuần tới, tôi không muốn thấy mặt cô ta. Rõ chưa?”

  “Tôi hiểu, ngài McGregor” – bà quản gia nói rồi bước vội.

  Jamie McGregor ngồi lặng một mình, nhâm nhi vài hớp rượu, châm một điếu thuốc. “Thật là một người đàn bà ngu ngốc. Cô định lấy hình ảnh của đứa con để làm rung động, tan chảy trái tim ta, buộc ta phải lao tới cô và nói anh yêu em, anh yêu con, anh muốn cưới em làm vợ”. Được thôi, anh thậm chí đã không để ý tới đứa bé, nó chẳng lien quan gì tới anh hết. Nó được sinh ra không phải bởi tình yêu, thậm chí cũng không phải là để thỏa mãn nhu cầu tình dục. Nó là sản phẩm của sự báo thù, Jamie sẽ cong nhớ như in vẻ mặt của lão Salomon Vander Merwe khi anh báo cho lão ta biết tin Margaret đang có mang. Đó là đòn khởi đầu, còn điểm kết thúc là khi những viên đất được lấp xuống chiếc quan tài. Anh phải tìm Banda và kể cho anh ta biết nhiệm vụ của họ đã hoàn tất.

  Jamie cảm thấy trống rỗng. “Mình cần đễ ra những mục tiêu mới” – Jamie nghĩ thầm. Anh đã giàu có vượt khỏi mọi sự tưởng tượng, có cả trăm hec-ta đất khai mỏ. Anh đã mua vì nghĩ rằng có thể tìm thấy kim cương ở đó nhưng kết cục là tìm thấy vàng, platin và một số kim loại quý hiếm khác. Ngân hàng của anh nắm giữ tới một nửa số tài sản cầm cố của cả thị trấn này, còn đất đai của anh thì trải dài từ Namib tới Cape Town. Anh cảm thấy hứng thú vì điều đó, nhưng từng đó vẫn là chưa đủ. Anh đã mời cha mẹ tới sống cùng nhưng họ đều từ chối vì không muốn rời xa vùng đất Xcốt-len. Các anh chị em thì cũng đã lập gia đình. Jamie gửi một khoản tiền lớn về cho cha mẹ và điều này làm anh cảm thấy sung sướng, thế nhưng cuộc sống của anh thì lại chán ngắt. Vài năm trước, những thăng trầm, lên thác xuống ghềnh làm anh cảm nhận thấy mình đang sống thực sự. Anh đã sống thật khi cùng với Banda và chiếc bè vượt qua những dãy đá lởm chởm ngoài biển. Anh cũng đã sống thật khi bò qua được bãi mìn ở vùng sa mạc Namib. Thế nhưng,  trong một quãng thời gian dài vừa qua, Jamie không cảm nhận thấy sự tồn tại của mình. Anh không giám thú nhận với bản thân một thực tế là anh đang đơn độc.

  Anh quờ tay với bình rượu và nhận thấy rằng nó đã cạn trơ. Hoặc là anh đã uống quá nhiều, hoặc là bà Talley đã vô ý. Anh vươn người lên khỏi ghế, với lấy cái bình rượu và ngất ngưởng đi vào căn phòng kho chứa rượu. Anh đang mở chai thì nghe thấy tiếng ê a của đứa trẻ. “Ồ, bà Talley chắc hẳn sẽ phải để đứa bé sống tại khu vực của quản gia, gần phía dưới nhà bếp”. Bà Talley đã chấp hành mệnh lệnh của anh một cách nghiêm túc. Anh đã không hề nhìn hoặc nghe thấy tiếng đứa trẻ trong suốt hai ngày qua. Lúc này, Jamie có thể nghe thấy tiếng bà quản gia đang nựng đứa bé, bằng cái giọng à ơi mà phụ nữ vẫn thường dung để dỗ trẻ sơ sinh.

  “Cháu là một cậu nhóc xinh trai đấy chứ, phải không nào? Cháu là một thiên thần nhỏ bé, đúng thế, một thiên thần” – giọng bà cất lên.

  Thằng bé lại ê a, Jamie bước đến cánh cửa phòng ngủ còn hé mở của bà Talley và ngó vào trong. Không biết bà quản gia kiếm đâu được một chiếc giường cũi mà đứa trẻ đang nằm trong đó. Nắm tay nhỏ xíu của cu cậu đang nắm lấy ngón tay bà Talley.

  “Cháu như một con quỷ nhỏ oai hùng đấy, Jamie. Cháu lớn lên sẽ trở thành một….”, bà chợt im bặt khi nhận thấy ông chủ đang đứng trước ngưỡng cửa.

  “Ôi, tôi có thể lấy gì cho ông ạ, ông McGregor?” – bà bối rối.

  “Không” –anh bước đến bên cái giường cũi – “Chỉ là do tôi chợt nghe thấy tiếng động ở trong này mà thôi” và Jamie lần đầu tiên nhìn con trai mình. Thằng bé to con hơn là anh nghĩ, rất cân đối. Nó dường như đang cười với Jamie.

  “Ồ, xin lỗi ông McGregor. Đó thực sự là một đứa trẻ đáng yêu, ông chỉ cần giơ ngón tay ra và sẽ thấy ngay là nó khỏe khoắn đến mức nào”.

  Jamie ngoảnh đi và bước ra, không nói một lời nào.


  Jamie McGregor có một đội ngũ nhân viên hơn năm mươi người, làm việc trong nhiều cơ sở kinh doanh của anh. Không một nhân viên nào, từ chú bé đưa thư cho tới viên quản lí cao cấp nhất, lại không biết tới công ty Kruger-Brent.Ltd, sự ra đời của cái tên này và ai cũng cảm thấy hãnh diện vì được làm việc cho Jamie. Anh mới tuyển dụng David Blackwell, một thanh niên mười sáu tuổi là con trai của một người quản đốc dưới quyền, một nguowifMyx, từ bang Oregon tới Nam Phi để tìm kiếm kim cương. Khi Blackwell cháy túi, Jamie đã thuê ông làm giám sát viên tại một trong sooss các mỏ đang khai thác. Một dịp hè, cậu con trai của ông đi làm cho công ty và Jamie thấy cậu ta là một nhân công giỏi liền nhận cậu ta vào làm việc lâu dài. David Blackwell còn là một chàng trai thông minh, có óc sáng tạo và một vẻ mặt dễ thương. Jamie còn nhận thấy rằng, đó là một người biết giữ mồm, giữ miệng và vì thế anh đã chọn David Blackwell vào vị trí công việc đặc biệt này.

  “David, tôi muốn cậu đi đến ngôi nhà trọ của bà Owens, có một phụ nữ sống ở đó tên là Margaret Vander Merwe”.

  Giả dụ David Blackwell có biết cái tên đó hay là hoàn cảnh của cô ta, anh cũng không có biểu hiện gì mà chỉ đáp: “Vâng, thưa ông”

  “Cậu chỉ được phép nói với cô ta. Cô ấy để con ở chỗ bà quản gia của tôi, bảo với cô ấy là tôi muốn cô ta đến đón nó hôm nay và mang nó ra khỏi nhà tôi”.

  “Vâng, thưa ông McGregor”.

  Nửa giờ sau, David Blackwell quay lại. Jamie ngước nhìn lên.

  “Thưa ông, tôi e là không thể làm được việc mà ông đã yêu cầu”.

  Jamie đứng dậy. “Tại sao không, đó là một việc quá đơn giản” – anh vặn hỏi.

  “Cô Vander Merwe không có ở đó, thưa ông”.

  “Vậy thì hãy đi kiếm cô ta”.

  “Cô ấy đã rời Klipdrift cách đây hai ngày, chắc cô ta sẽ quay trở về sau độ năm ngày nữa. Nếu như ông muốn tôi tìm hiểu kĩ thì…”

  “Không” – đó là điều mà Jamie chẳng muốn tẹo nào – “Đừng bận tâm, ổn rồi, David”.

  “Vâng, thưa ông” – chàng trai trẻ đáp và rời khỏi văn phòng.

  Jamie lẩm bẩm: “Con đàn bà quỷ quái! Khi trở về, cô ta sẽ đón nhận một sự ngạc nhiên. Cô ta sẽ phải nhận lại đứa con của mình”.

  Tối đó, Jamie ở nhà một mình. Anh đang uống rượu suy tư thì bà Talley bước vào để xin ý kiến về việc trong nhà. Đang dở câu chuyện, bà ta đột ngột im bặt, lắng nghe và nói: “Xin lỗi ông, McGregor. Tôi nghe thấy tiếng cháu Jamie khóc” và bà ta hấp tấp chạy ra khỏi phòng.

  Jamie đặt mạnh cái ly xuống bàn, làm tràn cả rượu ra ngoài. “Thằng nhóc quỷ quái! Và cô ta giám cả gan đặt tên nó là Jamie. Trông nó nào có giống một Jamie, nó chẳng giống cái gì hết”.

  Mười phút sau, bà Talley quay lại. Thấy rượu tràn ra bàn, bà lên tiếng: “Tôi sẽ mang cho ông một ly khác được không ạ?”

  “Không cần!” – Jamie đáp lạnh lùng – “Điều cần thiết là bà phải ghi nhớ mình đang làm việc cho ai. Tôi không muốn mình bị quấy rầy bới cái đứa con hoang ấy, bà rõ chưa, Talley?”

  “Vâng, thưa ông”.

  “Cái thằng nhỏ mà bà nhận vào đó biến khỏi nơi đây sớm bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu cho chúng ta, bà có hiểu không?”

  Miệng bà mím chặt: “Thưa ông, vâng ạ. Ông còn dặn gì nữa không?”

  “Không”

  Bà quay người, bước đi.

  “Bà Talley….”

  “Dạ có, thưa ông McGregor”

  “Bà vừa nói là nó khóc, nó không ốm đấy chứ?”

  “Không, thưa ông. Chie ướt quần thôi, nó cần được thay tã”.

  Jamie cảm thấy ghê ghê: “Vậy thì được”.

  Jamie chắc hẳn sẽ giận điên lên khi nhận thấy đám gia nhan trong nhà đã dành cả tiếng đồng hồ xì xào về anh và đứa con của anh. Tất cả đều cho rằng ông chủ của mình hành xử vô lý, nhưng họ cũng biết rằng chỉ nội nhắc đến chuyện đó thôi là họ sẽ bị đuổi việc ngay tức khắc. Jamiw McGregor không phải là mẫu người biết lắng nghe lời khuyên của người khác.


  Tối hôm sau, Jamie có một phiên họp bàn công việc khá muộn. Anh quyết định bỏ một khoản đầu tư vào việc xây dựng một tuyến đường nhỏ, chạy từ các mỏ của anh ở vùng Namib tới De Aar, nối liền tuyến đường với tuyến Cape Town-Kimberley, nhưng nhờ đó mà việc vận chuyển vàng và kim cương của Jamie sẽ trở nên dễ dàng và tốn ít chi phí hơn. Tuyến đường sắt đầu tiên ở Nam Phi được khánh thành vào năm 1860, chạy từ Dunbar tới Poit, và có nhiều tuyến đường sắt được mở sau mốc thời gian này, trải dài từ Cape Town tới Wellington. Các tuyến đường này là mạch máu giao thong, cho phép dễ dàng vận chuyển người và hành hóa qua khu vự trung tâm Nam Phi, và Jamie có ý định tham gia một phần vào kế hoạch đó. Đó chỉ là điểm khởi đầu trong kế hoạch của anh. “Sau đó sẽ là tàu thủy, những con tàu của riêng mình chở quặng vượt đại dương” – Jamie nghĩ thầm.

  Anh về nhà vào lúc quá nửa đêm, cởi quần áo và lên giường. Anh đã đưa một chuyên gia trang trí từ Luân Đôn tới để thiết kế căn phòng ngủ cho đàn ông, rộng rãi, với một chiếc giường được chặm khắc ở Cape Town. Ở một góc phòng có kê một chiếc tủ nhỏ kiểu Tây Ban Nha và hai chiếc tủ áo to, trong có khoảng năm mươi bộ quần áo và ba mươi đôi giày. Jamie không mấy quan tâm đến quần áo, nhưng chúng hiện diện ở đó cũng là một điều nhắc nhở quan trọng, có ý nghĩa. Đã một thời gian dài anh chỉ mang những quần áo rách rưới, tả tơi.

  Jamie vừa mới chợp mắt thì chợt nghe như có tiếng khóc của trẻ con. Anh ngồi dậy, lắng nghe. Không thấy gì hết. Có phải là thằng bé không nhỉ? Liệu nó có ngã khỏi giường cũi hay không? Jamie biết rằng bà Talley là người ngủ say như chết. Sẽ thật là phiền nếu như có chuyện gì đó không hay xảy ra với đứa bé trong ngôi nhà của Jamie. Có thể anh sẽ phải chịu trách nhiệm về chuyện đó. “Khốn nạn” – Jamie lẩm bẩm một mình.

  Anh khoác chiếc áo choàng, xỏ chân vào đôi dép đi trong nhà và hướng về phòng ngủ của bà Talley. Anh đứng sát cửa, lắng tai nghe, nhưng chẳng thấy gì hết, Jamie lặng lẽ đẩy cửa bước vào. Bà Talley đang ngủ say, thu mình trong tấm chăn, ngáy đều đều. Jamie bước tới bên cũi. Thằng bé đang nằm xoay lưng, hai mắt mở to. Jamie nhích gần hơn và cúi xuống nhìn. Thật là giống! Lạy Chúa! Thằng bé có cái miệng và cằm giống Jamie McGregor như đúc. Nó có cặp mắt màu xanh, nhưng đứa bé nào mới sinh mà chả như vậy. Nhìn đứa bé, Jamie có thể phỏng đoán rằng lớn lên nó sẽ có đôi mắt màu xám. Nó huơ hai bàn tay bé xíu, mồm ê a và cười với Jamie. “Được, một chú nhóc dũng cảm đây. Nằm một mình mà chẳng quấy khóc như những đứa trẻ khác” – Jamie thầm nghĩ – “Hừm, nó đúng là một McGregor thực sự”.

  Jamie cúi xuống và thử đưa một ngón tay ra, thằng nhỏ giơ hai bàn tay túm lấy và nắm chặt. “Chú nhóc khỏe như một con bò vậy” – Jamie thầm nghĩ. Đúng lúc đó vẻ mặt thằng bé ngây ra và Jamie ngửi thấy mùi thôi thối.

  “Bà Talley!”

  Bà quản gia chồm dậy, hốt hoảng: “Cái gì vậy?”

  “Cần để mắt tới thằng nhỏ, liệu tôi có phải làm gì ở quanh đây không đấy?” – và Jamie McGregor bước ra ngoài.


  “David, cậu có biết gì về trẻ con không?”

  “Cụ thể là như thế nào cơ ạ?” – David hỏi lại.

  “Ồ, cậu biết đấy. Chúng thích chơi những thứ đồ chơi gì nhỉ?”

  Cậu người Mỹ trẻ măng trả lời: “Tôi nghĩ là khi còn quá nhỏ thì chúng rất thích xúc xắc, thưa ông McGregor”.

  “Kiếm lấy một đống về” – Jamie ra lệnh.

  “Vâng, thưa ông”

  Không có một câu hỏi thừa nào, Jamie thích điều đó. David Blackwell sẽ còn tiến xa hơn nữa.

  Tối hôm đó, khi Jamie trở về nhà với một gói nhỏ màu nâu, bà Talley nói với anh.

  “Tôi muốn xin lỗi ông vì sự việc ngày hôm qua. Tôi không hiểu sao mình lại có thể ngủ say như vậy, thằng nhỏ hẳn phải khóc to lắm thì ông ở tận phòng bên mới nghe thấy”.

  “Đừng bận tâm tới chuyện đó nữa, cả tôi và bà đừng bao giờ nhắc lại” – Jamie nói với vẻ độ lượng. Anh đưa cho bà cái gói và nói: “Đưa cho nó cái này, mấy cái xúc xác để nó chơi. Bị cầm tù trong cái giường cũi ấy cả ngày đối với nó chắc cũng chẳng vui vẻ gì”.

  “Ồ, nó có bị cầm tù đâu ông, tôi có đưa nó ra ngoài mà”.

  “Bà đưa nó tới đâu?”

  “Chỉ ra vườn thôi, ở đó tôi có thể để mắt tới nó”.

  Jamie nhíu mày: “Đêm qua tôi thấy nó có vẻ không được khỏe, nhớ là không được để nó ốm trước khi mẹ nó đến”.

  “Tất nhiên là như vậy rồi, thưa ông”.

  “Có lẽ tôi nên nhìn lại nó một lần nữa thì tốt hơn”.

  “Vâng, tôi mang nó ra đây ạ?”

  “Đúng vaayj, bà Talley”

  “Xin chờ một chút, ông McGregor”.

  Ít phút sau, bà Talley trở lại, bế bé Jamie bé bỏng trên tay. Tay cậu nhóc nắm chặt một chiếc xúc xắc. “Trông da dẻ nó hồng hào đấy chứ ạ?”

  “Ồ, có thể tôi đã nhìn nhầm, đưa nó cho tôi nào”.

  Bà quản gia trịnh trọng trao thằng bé sang Jamie và lần đầu tiên anh bế con trai mình. Cái cảm giác trào lên trong anh khiến anh hoàn toàn sững sờ. Có vẻ  như anh đã khao khát chờ mong giây phút này, sống vì giây phút này mà không hề biết. Anh đang ôm trong tay giọt  máu của mình, con trai anh – Jamie McGregor Con. Việc gây dựng một đế chế, một vương triều và sở hữu vô số kim cương, vàng và mạng lưới đường sắt liệu có ý nghĩa gì nếu như anh không có một ai đó để thừa kế chúng? “Mình thật là một thằng ngốc” – Jamie nghĩ. Cho đến tận bây giờ anh mới nhận thấy mình đánh mất cái gì, anh đã bị lòng căm thù làm mù quáng. Nhìn xuống gương mặt bé bỏng trong tay mình, nỗi cực nhọc sâu kín đâu đó trong anh biến mất.

  “Bà Talley, chuyển cái cũi của Jamie vào phòng ngủ của tôi nhé!”

  Ba ngày sau, khi Margaret xuất hiện trước cửa nhà Jamie, bà Talley lên tiếng: “Ông McGregor hiện vẫn ở văn phòng, thưa cô Vander Merwe. Nhưng ông ấy dặn tôi gọi ông ấy khi cô đến đón cháu bé, ông ấy muốn nói chuyện với cô”.

  Margaret bế Jamie trong tay, ngồi đợi trong phòng khách. Trong tuần qua, đã mấy lần cô suýt mất đi lòng kiên nhẫn và định quay trở lại Klipdrift vì lo sợ có chuyện gì đó xảy ra với nhóc Jamie, rằng nó có thể ốm đau hay gặp một tai nạn nào đó. Song cô đã tự buộc mình phải lánh mặt nơi xa và kế hoạch của cô đã phát huy hiệu quả. Jamie muốn nói chuyện với cô rồi, mọi chuện rồi sẽ tốt đẹp, giờ đây cả ba lại có thể quay quần bên nhau.

  Khi Jamie bước vào phòng, Margaret lại thấy cảm giác chợt trào dâng những cảm xúc quen thuộc. “Ôi, lạy Chúa. Con yêu anh ấy quá đi mất” – cô nghĩ thầm.

  “Chào Maggie”.

  Cô mỉm cười, một nụ cười ấm áp, vui sướng: “Chào anh, Jamie”.

  “Tôi muốn giữ lại đứa con trai của mình”.

  Trái tim Margaret thổn thức: “Tất nhiên anh muốn giữ con trai của anh, Jamie. Em chưa bao giờ nghi ngờ về điều đó”.

  “Tôi sẽ để ý để nó có được những điều kiện nuôi dưỡng tốt. Nó sẽ có mọi điều kiện thuận lợi mà tôi có thể dành cho nó, tất nhiên là như vậy rồi. Tôi sẽ lo để cô cũng được chăm sóc chu đáo”.

  Margaret nhìn Jamie vẻ bối rối: “Em….em không hiểu?”

  “Tôi muốn nói là tôi giữ lại con trai của tôi”.

  “Em nghĩ, ý em là cả…….anh… và em”

  “Không, tôi chỉ muốn có thằng bé thôi”.

  Margaret đột nhiên cảm thấy căm giận: “Em hiểu rồi. Được, em sẽ không để anh cướp nó khỏi tay của em đâu”.

  Jamie nhìn cô vẻ thăm dò trong giây lát. “Được lắm, chúng ta sẽ đi tới một thỏa hiệp. Cô có thể ở lại đây với Jamie. Cô có thể là….người bảo mẫu của nó”. Anh hìn thấy vẻ mặt của cô như dại đi: “Cô muốn gì nào?”

  “Em muốn con em có một cái tên, tên theo cha nó” – Margaret quả quyết.

  Margaret nhìn Jamie đầy vẻ khinh miệt: “Nhận nuôi con tôi à? Ồ, không. Anh sẽ không có đứa con của tôi, tôi lấy làm buồn cho anh, anh Jamie Lớn ạ. Anh có tất cả tiền bạc, quyền lực của mình, nhưng anh vẫn không có gì cả. Anh là một người đáng thương hại”.

  Jamie đứng nhìn Margaret quay đi, bước ra khỏi nhà và bế theo đứa con trai của anh trên tay.

  Sáng hôm sau, Margaret bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi sang Mỹ.

  “Trốn chạy chẳng giải quyết được gì hết!” – bà Owens phân tích.

  “Tôi không trốn chạy, tôi tìm đến một nơi mà ở đó tôi và con trai tôi có thể làm lại một cuộc đời mới”.

  Cô không còn để bản thân mình và con chịu khuất phục trước sự xúc phạm của Jamie đối với hai mẹ con.

  “Khi nào thì cô đi?”

  “Ngay khi có thể được. Chúng tôi sẽ đến Worcester và từ đó bắt xe lửa đi Cape Town, tôi đã dành dụm đủ tiền để đi tới New York”

  “Đó là một hành trình đà đấy”.

  “Cũng đáng thôi. Người ta gọi nước Mỹ là miền đất của những cơ hội, có phải không? Đó là tất cả những gì hai mẹ con tôi cần”.

  Jamie vẫn luôn tự hào rằng mình là người giữ được vẻ điềm đạm trước mọi sức ép. Giờ đây thì anh lại phải đi loanh quanh, nổi nóng với bất kì ai mà anh gặp. Công việc ở văn phòng như rối tung lên, không có ai làm Jamie vừa ý. Anh nổi giận và phàn nàn về mọi thứ, không còn kiềm chế bản thân được nữa. Suốt ba đêm liền, anh không thể ngủ yên được, cứ nghĩ ngợi lung tung về chuyện mà Margaret gây ra. “Quỷ tha ma bắt cô ta”, lẽ ra anh phải nhận ra rằng cô ta có ý đồ cột anh vào sợi dây hôn nhân, thủ đoạn y hệt lão cha cô ta. Anh đã không thể kiểm soát được cuộc thương thuyết đó, anh nói sẽ chăm sóc cô ta nhưng không nói rõ cụ thể là như thế nào. Dĩ nhiên – “tiền” – đáng ra anh phải đưa tiền ra để mặc cả. Một nghìn bảng, mười nghìn bảng hoặc là hơn thế nữa.

  “Tôi có một việc tế nhị muốn nhờ cậu” – Jmaie nói với David McGregor.

  “Dạ được, thưa ông”.

  “Tôi muốn anh tới gặp cô Vander Merwe. Bảo là tôi sẽ đưa cho cô ta hai mươi nghìn bảng, tự cô ta sẽ biết tôi muốn nhận lại thứ gì” – Jamie ghi một tấm séc. Từ lâu, anh đã biết rõ sức mạnh của đồng tiền. “Đưa cái này cho cô ta”.

  “Vâng, thưa ông” – David đáp và bước đi.

  Mười lăm phút sau, cậu ta trở về và trả lại tấm séc cho ông chủ. Nó đã bị xé làm hai mảnh, Jamie cảm thấy giận dữ nóng cả mặt. “Vậy thì thôi, cảm ơn David”.

  Vậy là Margaret đang cù nhầy để đòi thêm tiền đây. Được lắm, anh sẽ cho cô ta. Nhưng lần này chính anh sẽ đến gặp.

  Cuối buổi chiều hôm đó, Jamie McGregor đến nhà trọ của bà Owens: “Tôi muốn gặp cô Vander Merwe”.

  “Tôi e là không thể được, cô ấy đã đi Mỹ rồi” – bà Owens đáp.

  Jamie cảm thấy như có ai đó đánh vào bụng mình: “Cô ta không thể, cô ta đi lúc nào vậy?”

  “Cô ấy và thằng nhỏ đi Worcester, trên chuyến xe khởi hành lúc trưa”.

  
  Chuyến tàu xuất phát từ ga xe lửa Worcester chật cứng, các chỗ ngồi và lối đi trên các toa đều đông đặc khách nói năng ồn ã, tất cả đều đi tới Cape Town. Đó là những thương nhân cùng với vợ con, là những người bán hàng, những người đi tìm vàng, những thổ dân Bantu, đám binh lính và thủy thủ trở về sau kì nghỉ phép. Với phần lớn bọn họ, đây là lần đầu tiên được đi xe lửa, vì thế không khí hồ hởi hiện rõ trên vẻ mặt của họ. Margaret tìm được một chỗ ngồi cạnh cửa sổ, nơi nhóc Jamie không bị đám đông chen lấn xô đẩy. Cô ngồi đó, ôm con trong lòng, không để ý tới hành khách xung quanh, mải mê nghĩ về một cuộc sống mới đang chờ đón hai mẹ con ở phía trước. Cuộc sống mới không hề dễ dàng, ở đâu người ta cũng coi cô là một phụ nữ có con nhưng không chồng, một điều xấu trong xã hội. Nhưng nhất định cô sẽ tìm mọi cách để đứa con của mình có một cuộc sống tốt đẹp. Cô nghe thấy người phụ trách to axe hô lớn: “Lên tàu”.

  Margaret ngước lên và thấy Jamie đứng trước mặt. “Lấy đồ đi, cô sẽ xuống tàu” – Anh nói giọng như ra lệnh.

  “Anh ta vẫn nghĩ có thể mua được mình bằng tiền” – cô thầm nghĩ. “Lần này anh định ra giá bao nhiêu?”

  Jamie nhìn cậu con trai đang ngủ yên trong vòng tay Margaret và nói: “Tôi đề nghị cưới cô”.





Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 24-8-2013 19:32:54 | Chỉ xem của tác giả
CHÍN




  Ba ngày sau, họ tổ chức đám cưới với nghi thức đơn giản và nhanh chóng. Người duy nhất có mặt trong lễ thành hôn là David Blackwell.

  Jamie McGregor đang ở trong trạng thái buồn vui lẫn lôn. Anh đã quen với việc khống chế và ép buộc người khác vậy mà lần này anh lại là người bị ép buộc. Anh liếc nhìn Margarer đứng bên anh, cô ta trông cũng khá đẹp. Anh nhớ lại những ham muốn và vẻ lẳng lơ của cô, nhưng đó chỉ là những kỉ niệm, không gì khác. Anh dung Margaret như một phương tiện để báo thù và cô ta đã sinh cho anh một đứa con thừa tự.

  Vị linh mục nói: “Giờ đây, Cha tuyên bố các con là vợ chồng. Con có thể hôn vợ”.

  Jamie cúi xuống hôn nhẹ lên má Margaret.

  “Chúng ta về nhà nào” – Jamie lên tiếng, con trai anh đang chờ anh ở nhà.

  Về đến nhà, Jamie đưa Margaret tới một căn phòng ngủ ở dãy nhà ngang.

  “Đây là phòng của cô”.

  “Em biết rồi”.

  “Tôi sẽ thuê một người quản gia khác, bà Talley sẽ chăm sóc thằng nhỏ. Nếu có nhu cầu gì cô cứ nói với David Blackwell”

  Margaret cảm thấy anh như vừa mới tát vào mặt cô, anh đối xử với cô chẳng khác gì một người hầu. Nhưng điều đó không quan trọng. “Con trai mình đã có một cái tên, với mình như vậy là đủ”.

  Jamie không về nhà ăn cơm tối, Margaret đã đợi anh và đành phải ăn cơm một mình. Đêm đó, cô nằm trên giường, lắng nghe mọi âm thanh trong nhà. Sau cùng, cô ngủ thiếp đi vào tầm bốn giờ sáng. Ý nghĩ cuối cùng trước khi chợp mắt là liệu Jamie đã chọn ả nào ở chỗ nhà chứa của Madam Agnes.


  Nếu như quan hệ của Jamie và Margaret chẳng có biến chuyển gì kể từ khi họ làm đám cưới thì quan hệ của cô với dân chúng trong thị trấn này đã thay đổi hoàn toàn một cách kì lạ. Chỉ qua một đêm, từ chỗ là một kẻ bị xã hội xa lánh, Margaret đã trở thành một người có địa vị cao ở Klipdrift. Cuộc sống của dân cư trong cái thị trấn này ít nhiều đều có phụ thuộc vào Jamie McGregor và công ty Kruger-Brent.Ltd, họ cho rằng nếu Jamie chấp nhận Margaret thì cô cũng đủ tốt  để họ chấp nhận. Giờ đây, khi Margaret mang nhóc Jamie ra đường là đón nhận ngay những nụ cười, những lời chào hỏi vui vẻ. Những lời mời mọc liên tục bay tới cô, cô được mời đến để dùng trà, tham gia vào những buổi làm từ thiện, dự những bữa ăn tối và còn được đề nghị đứng đầu các Ủy ban của công dân trong thị trấn. Khi Margaret để một kiểu tóc mới, lập tức có hàng tá phụ nữ trong thị trấn làm theo. Nếu cô có mua một bộ váy màu hoàng yến, lập tức kiểu váy này trở nên phổ biến. Margaret đón nhận sự ngưỡng mộ của những con người này cũng bằng một phong thái như cô từng phải đối mặt với sự thù địch của họ - chỉ với lòng tự trọng kín đáo.

  Jamie trở về nhà chỉ là để có thời gian vui đùa với con trai. Thái độ của anh với Margaret là xa lánh, nhưng lịch sự. Mỗi bữa ăn sáng, cô làm nhiệm vụ của một người vợ hạnh phúc thay cho mấy người hầu, bấp chấp thái độ hờ hững của người đàn ông đang ngồi trước mặt cô. Nhưng khi Jamie đi khỏi và cô có thể lẩn trốn vào căn phòng riieng của mình thì bản thân lại luôn dày vò. Cô tự trách mình, lòng kiêu hãnh của cô đâu rồi? Margaret biết rằng mình vẫn còn rất yêu Jamie. “Mình sẽ mãi yêu anh ấy, Chúa sẽ giúp mình” – cô thầm nghĩ.


  Jamie đi Cape Town để giải quyết công chuyện làm ăn, anh vừa bước ra khỏi khách sạn Hoàng Gia thì một người đánh xe da đen chào mời: “Đi xe không, thưa ông?”

  “Không, tôi đi bộ” – Jamie đáp.

  “Banda ngĩ là ông có thể sẽ muốn đi xe đấy”.

  Jamie dừng lại, nhìn người da đen và hỏi: “Banda à?”

  “Vâng, thưa ông McGregor”.

  Jamie lên xe, người đánh xe vung roi và chiếc xe lao vút đi. Jamie ngồi ngả ra phía sau, nghĩ về Banda, lòng dũng cảm và tình bạn của anh ấy. Anh đã tìm Banda trong suốt hai năm qua, nhưng chưa gặp được. Giờ thì anh đang chuẩn bị gặp lại người bạn cũ.

Chiếc xa rẽ ra bến tàu và Jamie biết ngay là họ đang ở đâu. Mười lăm phút sau, chiếc xe dừng lại trước ngôi nhà kho bỏ hoang – nơi Jamie và Banda từng ngồi vạch kế hoạch cho chuyến phưu lưu đến Namib.

  “Thật là hai anh chàng trẻ tuổi, liều mình đến ngu ngốc” – Jamie nghĩ. Anh xuống xe và tiến đến ngôi nhà kho. Banda đang đợi anh, trông Banda vẫn như hồi xưa, ngoại trừ một điều là giờ đây nh ta ăn mặc đàng hoàng hơn trong một bộ comple có thắt cà-vạt nghiêm chỉnh.

  Họ đứng đó, lặng nhìn nhau và lao tới ôm chầm lấy nhau.

  “Trông anh có vẻ khá giả đấy” – Jamie tươi cười nói.

  Banda gật đầu: “Tôi làm ăn cũng được. Tôi mua một trang trại, đúng như tôi đã nói với anh. Tôi đã có vợ và hai con, tôi trồng lúa mì và nuôi đà điểu”.

  “Đà điểu?”

  “Lông của nó bán cũng được kha khá tiền”.

  “Ồ, tôi muốn gặp gia đình anh, Banda”.

  Jamie nhớ tới gia đình mình ở Xcốt-len, choẹt cảm thấy nhớ nhà đến nao lòng, anh đã rời xa quê hương những bốn năm rồi.

  “Tôi đã cố tìm anh mãi”.

  “Tôi bận quá, Jamie” – Banda tiến lại gần – “Tôi phải gặp anh để báo trước cho anh một điều, sắp tới có rắc rối xảy ra với anh đấy”.

  Jamie nhìn Banda: “Là gì vậy?”

  “Tay phụ trách việc khai thác bãi Namib, Hans Zimmerman là một thằng tồi. Công nhân ghét hắn ta, họ đang tính chuyện bỏ về. Nếu họ làm vậy, lính gác của anh sẽ chặn lại và sẽ có một cuộc nổi dậy”.

  Jamie nhìn Banda không rời mắt.

  “Anh có nhớ là tôi có lần đã nhắc tới một người tên là John Tengo Javabu?”

  “Có”.

  “Ông ta là một thủ lĩnh chính trị, tôi đang nghiên cứu về ông này, ông ta đang định gây ra một cơn chấn động. Tôi là một người đi theo ông ta.”

  Jamie gật đầu: “Tôi biết, tôi sẽ phải giải quyết chuyện này”.

  “Tốt. Anh đã trở thành một người có thế lực, tôi rất vui mừng”.

  “Cảm ơn anh, Banda”

  “Và anh còn có một thằng cu thật khôi ngô nữa, đúng không?”

  “LÀm sao anh biết được?” – Jamie lộ vẻ ngạc nhiên.

  “Tôi thích để ý tới đường đi nước bước của bạn bè” – Banda đứng dậy – “Tô phải tới tham dự cuộc họp, Jamie. Tôi sẽ nói với bọn họ là mọi việc ở Namib sẽ được giải quyết ổn thỏa”.

  “Đúng thế, tôi sẽ để ý tới chuyện này” – Jamie nói và đi theo ông bạn da đen cao lớn ra cửa: “Bao giờ thì tôi lại có dịp được gặp anh?”

  Banda mỉm cười: “Tôi sẽ ở quanh đây thôi, anh không thể dứt bỏ tôi một cách dễ dàng đâu”

  Và Banda khuất xa dần.


  Trở lại Klipdrift, Jamie cho gọi David Blackwell: “Có chuyện gì rắc rối ở Namib thế David?”

  “Không, thưa ông McGregor. Nhưng tôi nghe xì xào rằng có thể có” – David Blackwell đáp vẻ dè dặt.

  “Tay quản lý tại đó là Hans Zimmerman, điều tra xem hắn có đối xử tệ với công nhân hay không. Nếu có, chặn hắn lại ngay, tôi muốn cậu đích thân tới đó”.


  Đến bãi kim cương Namib, David bỏ ra hai giờ để nói chuyện với đám lính gác và những người công nhân. Những điều nghe được khiến cậu giận dữ, nhưng kìm nén được. Khi đã nắm được những thông tin cần thiết, David Blackwell đến gặp Hans Zimmerman.

  Hans Zimmerman là một gã khổng lồ, lão nặng đến một trăm hai mươi kilogram và cao khoảng một met chin mươi. Lão có cái mặt núc ních thịt, lúc nào cũng đầy mồ hôi và đôi mắt vằn đỏ - một người đàn ông có vẻ bề ngoài khó coi nhất mà David từng gặp. Nhưng hắn ta cũng là một tay quản đốc có hiệu quả nhất trong mạng lưới của công ty Kruger-Brent Ltd. Lão đang ngồi làm việc trong một căn phòng nhỏ, vóc dáng to lớn choán ngợp cả căn phòng.

  David bước vào, Zimmerman đứng dậy bắt tay: “Lẽ ra anh nên báo trước với tôi là anh sẽ đến”.

  David tin rằng anh tới Namib chắc đã bay đến tai Zimmerman.

  “Dùng một ly uýt-xki nhé?”

  “Không, cảm ơn ông”.

  Zimmerman ngồi ngả người trên ghế và mỉm cười.

  “Tôi có thể giúp anh điều gì chăng? Số kim cương chúng tôi đào được không đủ để làm hài lòng sếp à?”

  Cả hai đều biết rằng sản lượng kim cương khai thác được ở Namib là rất cao. “Tôi đã bắt bọn người Ikaffir của tôi làm việc nhiều hơn bất kì ai khác trong công ty” – Zimmerman khoe khoang.

  “Chúng tôi nhận được những lời phàn nàn về điều kiện làm việc ở đây” – David nói.

  Nụ cười chợt tắt ngấm trên vẻ mặt Zimmerman: “Phàn nàn về cái gì cơ?”

“Rằng công nhân bị đối xử tệ bạc và….”

  Zimmerman nhảy dựng lên, đi đi lại lại với vẻ nhanh nhẹn đáng kinh ngạc. Khuôn mặt lão đỏ bừng vì nóng giận: “Cái đám thổ dân đó, chúng không phải là người. Các anh chỉ ngồi ì ở công ty và…”

  “Hãy nghe tôi nói. Không có…” – David vẫn ôn tồn.

  “Anh hãy nghe nhé! Tôi kiếm được nhiều kim cương hơn bất kì một quản đốc nào trong công ty này, anh có biết là nhờ đâu không? Là vì tôi đã nhồi nhét lòng sợ Chúa vào đầu óc lũ con hoang đó”.

  “Ở các mỏ khác của công ty, chúng ta trả cho nhân công năm chin xi-linh một tháng, còn anh chỉ trả họ năm mươi xi-linh” – David đốp lại.

  “Các anh định phàn nàn về việc tôi làm lợi hơn cho công ty nữa sao? Điều duy nhất có ý nghĩa là lợi nhuận”.

  “Ông McGregor không chấp nhận, hãy nâng lương cho họ” – David nói.

  Zimmerman đáp với vẻ tức tối: “Được thôi, đó là tiền của ông chủ mà”.

  “Tôi nghe nói là ở đây thường xuyên xảy ra việc đánh đập nhân công”.

  Zimmerman khịt mũi: “Lạy Chúa! Anh không thể làm cho một tên thổ dân cảm thấy đau đớn, da của chúng dày tới mức đòn roi chẳng ăn nhằm gì, việc đánh đập chỉ đe nẹt được chúng đôi chút thôi”.

  “Chính vì vậy mà ông suýt làm chết ba người”.

  Zimmerman nhún vai: “Cái ngữ như bọn chúng thì có cả đống, lo gì chuyện thiếu nhân công”.

  David thầm nghĩ: “Hắn là một con thú khát máu. Một kẻ nguy hiểm”. Cậu đưa mắt nhìn lão quản đốc và nói: “Nếu ở đây còn xảy ra rắc rối thì ông sẽ bị thay thế” – cậu nói và đứng dậy. “Ông hãy bắt đầu học cách đối xử với họ như những con người đi, cần phải chấm dứt ngay việc đánh đập. Tôi đã xem qua khu nhà trọ của công nhân, thật chẳng khác gì cái chuồng lợn, hãy dọn dẹp sạch sẽ”.

  Hans Zimmerman nhìn David Blackwell chằm chằm, cố kiềm chế bản thân. Sau cùng, hắn thốt lên: “Còn gì nữa không?”

  “Còn đấy, trong vòng ba tháng nữa tôi sẽ quay trở lại, nếu tôi còn thấy điều gì đó bất ổn ông sẽ buộc phải tìm kiếm một chỗ làm mới ở công ty khác. Chào ông” – David nói và quay người bước đi.

  Hans Zimmerman đứng lặng một lúc, nổi giận đùng đùng: “Lũ ngốc, đúng là bọn ngoại bang” – lão thầm nghĩ. Zimmerman là một người Boer, cha lão cũng là một người Boer. Vùng đất này là của người Boer và Chúa đã bắt những kẻ da đen kia phải phục vụ họ. Nếu Chúa muốn bọn họ được đối xử như những con người thì Chúa đã không tạo ra cho chúng một màu da đen đúa. Nhưng hy vọng gì ở gã chủ ngoại bang ki chứ? Mọi người bản địa ở đây đều yêu quý hắn, Hans Zimmerman biết rằng lão cần phải cẩn trọng hơn trong thời gian tới. Nhưng lão sẽ phải chứng minh cho người ta thấy ai là người cai trị vùng Namib này.

  Công ty Kruger-Brent đang trên đà phát triển mạnh và Jamie thường phải dành nhiều thời gian để đi công tác xa. Anh mua một nhà máy giấy ở Canada, một xưởng đóng tàu ở Ốt-xtrây-lia. Những lúc ở nhà, Jamie dành toàn bộ thời gian để chơi với con trai. Cậu nhóc ngày một giống anh như đúc và anh cảm thấy rất tự hào về thằng bé. Anh muốn mang theo con đi trong những chuyến đi xa nhưng Margaret không đồng ý.

  “Nó còn quá nhỏ, khi nào lớn thì anh có thể mang nó theo, nếu anh muốn gần con thì hãy ở nhà”.

  Jamie còn chưa kịp nhận ra thì đã là sinh nhật đầu tiên của con, tiếp đó là sinh nhật thứ hai và Jamie cảm thấy kinh ngạc trước sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Đó đã là năm 1887.

  Đối với Margaret thì hai năm là quãng thời gian quá dài. Mỗi tuần một lần, Jamie mời khách tới ăn cơm tối và Margaret đóng vai bà chủ nhà hiếu khách. Những người đàn ông khác thấy cô là một phụ nữ tinh tê, thong minh và họ thích được nói chuyện với cô. Một vài người khác thấy cô là một phụ nữ đẹp, quyến rũ nhưng tất nhiên là họ không bao giờ có một biểu hiện lộ liễu, lẽ đơn giản là vì Margaret là vợ của Jamie McGregor.

  Khi người khách cuối cùng ra về, câu mà Margaret thường nói với Jamie là: “Buổi tối hôm nay anh cảm thấy vui vẻ chứ?”

  Câu trả lời của Jamie bao giờ cúng là: “Vui vẻ, chúc ngủ ngon” và rồi anh sang với nhóc Jamie. Ít phút sau, Margaret lại nghe thấy tiếng đóng cửa khi Jamie rời khỏi nhà.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 24-8-2013 19:34:02 | Chỉ xem của tác giả
Đêm này tới đêm khác, Margaret nằm trằn trọc suy ngẫm về cuộc đời mình. Cô biết là có rất nhiều phụ nữ ở cái thị trấn này ghen tị với cô và điều đó làm cô đau đớn biết chừng nào, vì cô biết rằng bản thân mình chẳng có gì đáng để họ ghen tị. Cô đang sống như trong một trò chơi đó chữ với một người chồng đối xử với cô tệ bạc hơn là với một người xa lạ. Giá như anh để ý tới cô một chút! Cô không hiểu liệu anh sẽ phản ứng như thế nào nếu như trong một bữa sáng nào đó, cô cầm lấy bát súp yến mạch nhập khẩu từ Xcốt-len và đổ ụp lên cái đầu ngu ngốc của anh. Cô có thể hình dung ra vẻ mặt của anh và sự liên tưởng này buồn cười đến mức nó làm cô bật cười khanh khách: “Mình không muốn yêu anh ấy nữa, mình sẽ phải dừng lại trước khi bản thân bị hủy hoại”.


  Năm 1890, Klipdrift đã phát triển vượt ra khỏi mọi phán đoán của Jamie. Sau bảy năm trời định cư ở đây, Klipdrift đã phát triển thành một thành phố với tốc độ nhanh chóng, với những người đi tìm kiếm vận may tiếp tục từ mọi nơi trên thế giới đổ xô đến. Họ cần lương thực, dụng cụ, chỗ ở, một chút tiền bạc và Jamie McGregor là người cung ứng toàn bộ. Anh nắm cổ phần của hàng chục mỏ kim cương và vàng, tên tuổi và tiếng tăm của anh ngày càng nổi. Một buổi sáng, Jamie tiếp tay luật sư của De Beers – một tổ hợp khổng lồ nắm quyền kiểm soát những mỏ kim cương lớn ở vùng Kimberley.

  “Tôi có thể giúp gì ông?” – Jamie hỏi.

  “Tôi được cử đến đây để đưa ra một lời đề nghị với ông, thưa ông McGregor. De Beers muốn mua lại toàn bộ công ty của ông, xin ông hãy đặt giá”.

  Sau một giây lát, Jamie mỉm cười và nói: “Hãy nói giá công ty của các ông để tôi mua lại”

  David Blackwell ngày càng trở nên quan trọng đối với Jamie. McGregor nhận ra ở chàng thanh niên người Mỹ này hình ảnh một thời của chính mình. Cậu ta trung thực, thông minh và trung thành. Jamie cho David Blackwell làm thư kí của mình, rồi làm trợ lí riêng và sau cùng cất nhắc cậu ta lên chức giám đốc công ty khi mới ở tuổi hai mốt.

  Với David Blackwell, Jamie McGregor là một người cha đỡ đầu thay cho người cha đích thực của cậu. Khi cha David bị một cơn đau tim, chính Jamie là người đã chi trả mọi khoản phí cho bệnh viện và bác sĩ. Khi ông chết, cũng chính Jamie là người lo chu tất việc tang gia. Sau năm năm làm việc tại công ty Kruger-Brent, David ngưỡng mộ Jamie hơn bất kì một người nào khác mà cậu từng biết. Cậu biết rõ những rạn nứt giữa Jamie và Margaret và lấy làm tiếc vì chuyện đó, bởi lẽ cậu yêu quý cả hai người. “Nhưng đó không phải là việc của mình, điều mình phải làm là giúp đỡ Jamie bằng mọi khả năng có thể” – cậu thầm nghĩ.

  Jamie ngày càng dành nhiều thời gian cho con trai. Thằng bé giờ đã năm tuổi, và sau lần đầu tiên được theo bố ra khu mỏ, nó luôn miệng nói về chuyến đi này trong suốt cả tuần. Hai cha con Jamie thường có những chuyến đi cắm trại và ngủ lại qua đêm trong lều, dưới bầu trời đầy sao. Jamie đã từng quen với vòm trời của xứ Xcốt-len, nơi đó các vì sao dường như biết rõ vị trí đích thực của mình trên không gian. Còn tại đây, đất nước Nam Phi, các chòm sao lại không có được vẻ sắp đặt chuẩn mực. Vào tháng Giêng, vòm sao sáng rực ngay phía trên đầu, trong khi vào tháng Năm thì chòm sao Bắc Đẩu lại tỏa sáng cực điểm. Váo tháng Sáu, thời điểm mùa Đông ở Nam Phi thì chòm sao thuộc cung Hổ Cáp chính là luồng sáng chói lòa của dải Thiên Hà. Nói chung là mỗi thời điểm thì chòm sáng của các sao là khác nhau. Nhưng thế nào đi nữa, Jamie vẫn có cảm giác đặc biệt thú vị khi được nằm trên mặt đất ấm áp và ngắm nhìn bầu trời vĩnh hằng cùng với con trai và hiểu rằng họ cũng là một phần của sự vĩnh hằng ấy.

  Hai cha con tỉnh dậy lúc bình minh và xách sung đi săn để có được một bữa ngon: gà gô, gà Nhật, nai, hoẵng. Nhóc Jamie được sắm riêng một con ngựa và hai cha con cùng cưỡi ngựa, cẩn trọng đi dọc theo thảo nguyên để tránh những nốt chân sáu ngón, dấu vết của những con lợn đất, sâu đủ để nhấn chìm một con ngựa cùng người chủ và tránh cả những vết chân nhỏ hơn, dấu vết chứng tỏ có con cáo vừa đi qua.

  Có một mối hiểm nguy tại vùng thảo nguyên. Trong một chuyến đi, hai cha con Jamie đóng trại tại gần bờ song, tại đó họ suýt nữa mất mạng do bị một đàn linh dương Nam Phi đang trên đường di cư tràn qua. Khi đó, dấu hiệu bất ổn đầu tiên chính là một dải bụi mù mịt từ tít đằng chân trời. Jamie nhìn lại một lần nữa, nhưng dải bụi ngày một tiến lại gần.

  “Háy đi khỏi đây thôi” – Jamie hô lớn – “Ra khỏi lều ngay, đi ngay”.

  Hai cha con cắm đầu cắm cổ chạy lên phía đỉnh đồi cao. Họ nghe rõ tiếng móng vó đàn linh dương đập xuống đất vang như sấm rền, cả đàn kéo dài cỡ khoảng ba dặm, số lượng lên tới khoảng năm trăm ngàn con, nó quấn đi tất cả những gì trên đường di chuyển. Cây cối, bụi rậm đổ rạp xuống, các loài như rắn, thỏ rừng hay gà gô đều bị đè bẹp dí. Không gian bị bao trùm bởi bụi và những âm thanh vang rền. Khi mọi việc kết thúc, Jamie nhẩm tính rằng đàn linh dương này di chuyển hết khoảng ba tiếng.

  Vào dịp sinh nhật lần thứ sau của con trai, Jamie tuyên bố: “Tuần tới, bố sẽ đưa con đi Cape Town để con có thể cảm nhận được một thành phố thực sự là như thế nào!”

  “Mẹ có thể đi cùng hai cha con ta không ạ? Mẹ không thích săn bắn nhưng mẹ thích những thành phố mà” – nhóc Jamie hỏi.

  Anh xoa nhẹ đầu con và nói: “Mẹ bận bịu việc nhà rồi, con ạ. Chỉ hai người đàn ông chúng ta thôi, được không cưng?”

  Cậu bé không vui trước việc xa cách giữa cha và mẹ, nhưng khi đó cậu chưa hiểu chuyện gì cả.


  Hai cha con đi Cape Town bằng chiếc ôtô ray riêng của Jamie. Thời điểm năm 1891, tàu hỏa đang là phương tiện giao thông đi lại chiếm ưu thế nhất ở Nam Phi, do giá rẻ, tiện nghi và nhanh chóng. Chiếc ôtô ray của Jamie dài khoảng ba mươi met và có bốn khoang nhỏ, có thể đủ chỗ cho khoảng mười hai người. Ngoài ra, còn có một phòng ăn, một phòng tắm và một bếp đầy đủ đồ dùng tiện nghi. Các khoang phòng ngủ có kê những giường làm bằng đồng, có đèn đốt chạy bằng hơi gas và có các cửa sổ lớn.

  “Tất cả hành khách đâu rồi cha?” – cậu bé hỏi.

  Jamie cười: “Chúng ta là tất cả hành khách, đây là đoàn tàu của con, con trai ạ”.

  Cậu bé dành phần lớn thời gian trên đường đi để ngắm phong cảnh hai bên đường, thích thú với sự bao la của đất đai đang vùn vụt tụt lại phía sau.

  “Đây là đất đai của Chúa, Người đặ trong đó rất nhiều mỏ khoáng sản quý hiếm cho chúng ta. Tất cả đều nằm trong lòng đất, chỉ chờ được khai thác lên. Những gì đã khai phá chỉ mới là điểm khởi đầu thôi con ạ” – Jamie giảng giải cho đứa con trai của mình.

  Khi tới Cape Town, nhóc Jamie cảm thấy ngơ ngác trước đám đông và những tòa nhà lớn. Jamie đưa con trai tới công ty hàng hải McGregor, đưa tay chỉ về hướng Nam, sáu con tàu đang cất hàng, dỡ hàng trong cảng: “Con có thấy không? Nó là của chúng ta đấy”.

  Khi họ trở về Klipdrift, cậu nhóc Jamie kể liến thoắng cho mẹ nghe những gì mà cậu được chứng kiến: “Bố có cả một thành phố mẹ ạ. Nếu mẹ muốn, lần sau hai mẹ con ta cùng đi xem nhé!”

  Margaret ôm con vào lòng: “Ừ, con yêu ạ”.

  Jamie vắng nhà nhiều đêm và Margaret biết rằng anh đến nhà chứa của Madam Agnes. Cô nghe nói là Jamie đã mua tặng một trong đám gái làng chơi đó một căn nhà để anh có thể ghé qua một cách kín đáo. Cô không thể chắc chắn về chuyện này, chỉ biết rằng cô muốn giết mụ đàn bà kia, cho dù ả là ai.


  Để giải tỏa bức bối, Margaret tự gắn bản thân mình vào những mối quan tâm lớn của thị trấn. Cô vận động gây quỹ để xây dựng một nhà thờ mới, khởi xướng phong trào giúp đỡ gia đình những người đi tìm kim cương đang lâm vào tình cảnh đói kém. Cô yêu cầu Jamie sử dụng một toa xe lửa của anh để chuyên chở miễn phí cho những người đi tìm kiếm vàng và kim cương trở về Cape Town khi họ đã nhẵn túi và hết hy vọng.

  “Cô đang đòi hỏi tôi phải làm một việc ném tiền qua cửa sổ đấy. Cứ để họ đi bộ quay lại như cách họ đến đây” – Jamie nói giọng cáu bẳn.

  “Họ không có sức lực để đi nữa” – Margaret đáp lai – “Và nếu họ ở lại thì thị trấn này sẽ phải chịu chi phí về quần áo cho họ mặc, thực phẩm cho họ ăn chứ”

  “Thôi được, nhưng đó thực sự là một ý kiến ngu xuẩn” – Jamie cuối cùng cũng đồng ý với vẻ khó chịu.

  “Cảm ơn anh, Jamie”

  Anh nhìn Margaret sải bước và trong anh có rộn lên một cảm xúc không thể cưỡng lại được về cô ấy. “Cô ta sẽ là một người vợ tuyệt vời với một người nào đó” – Jamie thầm nghĩ.


  Cô gái mà Jamie lui tới trong căn phòng riêng kia là Meggie, cô gái điếm xinh đẹp ngồi bên cạnh Margaret trong bữa ăn chiêu đãi đón chào thằng nhỏ hôm nào. Thật là cay đắng, khi cô ta lại có cái tên trùng với tên của vợ Jamie. Họ không có điểm nào giống nhau. Maggie kia là một ả tóc vàng hai mươi mốt tuổi, với một gương mặt hoạt bát và một cơ thể ngùn ngụt sức sống – một con hổ cái trên giường. Jamie đã trả cho Madam Agnes một khoản tiền khá lớn để sở hữu riêng Maggie, anh chu cấp cho cô ta một khoản tài chính khá hào phóng. Jamie rất kín đáo khi mò tới ngôi nhà nhỏ này, thường là vào lúc nửa đêm khi đã chắc rằng không ai để ý tới mình. Thực sự thì cũng có nhiều người trông thấy anh, nhưng chẳng ai đề cập tới chuyện này. Đây là thị trấn của McGregor và anh có quyền làm mọi điều mà anh cảm thấy thỏa mãn.

  Vào buổi tối nay, Jamie không có được niềm vui. Anh mò đến ngôi nhà này để thư giãn, giải khuây về mặt xác thịt. Nhưng Maggie đang ở trong tâm trạng cáu bẳn. Cô ta nằm ềnh trên giường, chiếc áo ngủ màu hồng không che được hết bầu vú căng tròn, cũng như cái đám lông óng mượt ở giữa hai đùi ả. “Em phát điên lên với việc bị nhốt trong căn phòng chết tiệt này, em thấy mình cứ như một nô lệ hay một thứ gì đó. Ít nhất ở chỗ chị Madam Agnes em cũng có chuyện này hay chuyện nọ, tại sao khi đi xa đâu đó, anh không bao giờ cho em theo cùng?”

  “Tôi đã giải thích điều này rồi. Tôi không thể….” – Jamie đáp.

  Cô ả chồm ra khỏi giường, đứng trước Jamie đầy vẻ thách thức, hai tà áo phanh ra: “Hừm, anh mang con trai đi khắp nơi thì được, em không bằng con anh sao?”

  “Không, cô không bằng” – Jamie nói với giọng trầm xuống một cách đáng sợ. Anh bước lại tủ rượu và tự rót cho mình một ly. Đây là ly thứ tư, như vậy là anh đã uống nhiều hơn mức bình thường.

  “Em chẳng có ý nghĩa gì với anh cả, em chỉ là một cái đệm” - Ả hét lên và ngả người ra phía sau, cười to vẻ nhạo bang: “Một cái đệm, anh chàng người Xcốt-len đáng kính kia”.

  “Anh chàng Xcôt-len, chứ không phải là anh chàng người Xcốt-len”.

  “Vì Chúa. Anh không thể thôi việc chỉ trích tôi được à, mọi thứ em làm đều chưa tốt hay sao? Anh nghĩ mình là cái quái gì thế, là cha em chắc?”

  Với Jamie, như vậy là quá đà: “Cô có thể quay trở về chỗ Agnes vào ngày mai. Tôi sẽ nói chuyện này với cô ta”. Anh lấy mũ và bước đi thẳng.

  “Anh không thể ruồng bỏ tôi như thế này được, đồ con hoang” - Ả lao theo Jamie với vẻ giận dữ ngút trời.

  Jamie dừng chân ở cửa. “Tôi đã làm vậy đấy” – và anh biến mất vào bóng đêm.

  Anh ngạc nhiên khi thấy mình đi không vững nữa, đầu óc anh như đang quay cuồng. Có lẽ anh đã uống nhiều hơn bốn ly rượu mạnh, anh không biết nữa. Anh nghĩ tới thân thể trần truồng của Maggie buổi tối hôm nay, cách cô ta phơi bày nó, khiêu khích anh và rồi lại cự lại. Cô ta mơn trớn anh, vuốt ve anh và dùng lưỡi mềm dụ nhẹ trên khắp cơ thể anh, kích thích anh tới điểm cao trào. Rồi thì cô ta lại kiếm chuyện, làm anh nổi cáu, bực bội và khó chịu.

  Về tới nhà, khi đi về phía phòng mình, Jamie đi qua cánh cửa đóng kín tại căn phòng ngủ của Margaret. Dưới ánh sáng lọt qua khe cửa nhỏ, Jamie nhận thấy cô ta vẫn đang thức. Anh chợt tưởng tượng tới cảnh Margaret ở trên giường, khoác trên người một chiếc váy ngủ mỏng hoặc là khỏa thân hoàn toàn. Anh nhớ lại tấm thân đầy sức sống của cô quấn riết lấy anh như thế nào dưới bong cây bên bờ con song Orange. Do hơi men dẫn đường, Jamie đẩy cửa và bước vào phòng Margaret. Cô đang đọc sách dưới ánh sáng của một ngọn đèn dầu. Cô ngước nhìn lên vẻ ngạc nhiên. “Jamie…có chuyện gì xảy ra hay sao?”

  “Chỉ là quyết định ghé thăm vợ mình một chút thôi” – giọng anh líu nhíu.

  Cô đang mặc trên người một chiếc váy ngủ làm bằng vải lụa bong và Jamie có thể nhìn thấy rõ hai bầu vú tròn mẩy của cô đang căng lên sau lớp lụa mỏng. “Lạy Chúa, cô ấy có một htaan thể cuốn hút thật!” – anh bắt đầu cởi bỏ quần áo.

  Margaret nhổm dậy, hai mắt mở to: “Anh đang làm gì thế?”

  Jamie đá cánh cửa đóng lại phía sau lưng và tiến sát đến phía Margaret. Chỉ trong có tích tắc, anh đã ôm thốc cô lên giường, áp sát cơ thể cô, lột trần. “Chúa ơi! Tôi muốn em, Maggie”

  Trong trangjt hái say xỉn, anh cũng không biết chắc là anh muốn cô Meggie nào. Làm sao cô ta có thể cự lại anh. Đúng, đây là một con mèo hoang bé nhỏ của anh. Anh cất tiếng cười khi sau cùng anh cũng khuất phục được đôi tay và hai chân mềm yếu của cô. Và cô đột nhiên để mặc anh lần mò tự nhiên, ôm cứng lấy anh và nói: “Ôi, anh yêu, Jamie yêu quý của em, em cần anh biết chừng nào!”. Còn anh thì nghĩ: “Lẽ ra tôi không nên khắt khe với em như thế. Sáng ra, tôi sẽ bảo em không phải trở lại chỗ mụ Madam Agnes nữa….”

  Sáng hôm sau, Margaret tỉnh dậy và thấy mình trần truồng một mình trên giường. Cô vẫn còn có cảm giác thân thể cường tráng của Jamie đang áp chặt lên người cô và cô vẫn như đang nghe thấy lời anh. “Chúa ơi! Tôi muốn em, Meggie”. Trong cô trào dâng một niềm vui sướng cuồng nhiệt trọn vẹn, cuối cùng thì cô cũng đã hành xử chuẩn xác, anh đã yêu cô. Thật bõ công cho sự chờ đợi, cho những năm tháng đau khổ, cô đơn và tủi nhục.

  Margaret suốt hôm đó sống trong một tâm trạng vui sướng. Cô tắm gội sạch sẽ, thơm tho, cân nhắc chọn lựa tới cả chục bộ váy áo để mặc nhằm làm cho Jamie thấy hài lòng nhất. Cô cho người đầu bếp nghỉ việc để tự mình chuẩn bị các móm ăn mà Jamie ưa thích. Cô bày đi bày lại các món ăn cho đến khi vừa ý, với những cây nến và hoa tươi. Cô muốn có một bữa tối hoàn hảo.

  Jamie không về nhà ăn tối, suốt cả đêm cũng không thấy anh về. Margaret ngồi trong thư viện chờ anh, mãi tới tận bốn giờ sáng rồi lủi thủi đi ngủ một mình.

  Tối hôm sau Jamie mới trở về nhà. Anh gật đầu chào Margaret một cách lịch sự và rảo bước tới phòng của con trai. Margaret đứng nhìn theo mà bang hoàng, đau đớn và sau đó cô chậm rãi đứng soi mình trước tấm gương. Hình ảnh trong gương cho thấy chưa bao giờ cô lại xinh đẹp như bây giờ, nhưng khi cô ngắm nhìn kĩ hơn thì cô không còn nhận ra đôi mắt của mình – đó là đôi mắt của một người xa lạ.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:07:59 | Chỉ xem của tác giả
MƯỜI




“Ồ, tôi có một tin tuyệt vời cho cô đấy, thưa cô McGregor. Cô sắp có một đứa con” – bác sĩ Teeger mỉm cười nói.

  Margaret cảm thấy bị sốc, không biết nên cười hay nên khóc nữa. “Tuyệt vời ư?”. Việc sinh hạ thêm một đứa con trong cuộc hôn nhân không tình yêu này là điều không thể được. Margaret không thể chịu thêm sự xúc phạm nào nữa. Cô sẽ phải tìm một lối thoát nào đó và trong khi suy nghĩ mới chỉ thoáng qua thì cô chợt cảm thấy một cơn buồn nôn làm cô toát mồ hôi.

  “Ói mửa buổi sáng hả?” – bác sĩ Teeger hỏi.

  “Một chút xíu” – Margaret đáp.

  Ông bác sĩ đưa cho cô mấy viên thuốc. “Uống mấy viên này cô sẽ cảm thấy đỡ hơn. Cô đang ở trong một tình trạng sức khỏe rất tốt, không có gì đáng lo hết. Cô nên về thẳng nhà và báo tin mừng cho ông Jamie”.

  “Vâng, tôi sẽ làm như vậy” – cô đáp vẻ miễn cưỡng.

  “Em đến khám bác sĩ hôm nay, em đang có mang” – Margaret nói với Jamie khi họ ngồi ăn bữa tối.

  Jamie ném cái khăn ăn xuống đất, đứng dậy khỏi ghế và đùng đùng bỏ ra ngoài, không nói một lời nào. Đó là giây phút làm Margaret hiểu rằng cô cũng căm thù Jamie McGregor nhiều như cô từng yêu anh.

  Lần mang thai này thật vật vả, Margaret phải nằm trên giường hầu như cả ngày, người yếu ớt và mệt mỏi. Cô cứ nằm yên giờ này qua giờ khác, mường tượng ra cảnh Jamie quỳ dưới chân cô nài nỉ xin tha thứ, và rồi anh lại cuồng nhiệt làm tình với cô. Nhưng đó chỉ là tưởng tượng, thực tế là cô bị kẹt. Cô không có nơi nào để đi tới, mà có thể đi chăng nữa thì anh ta cũng không đời nào để cô mang con trai của cô đi cùng.

  Jamie đã bảy tuổi – một chú bé khỏe mạnh, đẹp trai với đầu óc nhanh nhẹn và hóm hỉnh. Cậu đã gần gũi hơn với mẹ, như thể là đã cảm nhận được nỗi bất hạnh của Margaret. Trong lúc ở trường, cậu ta làm đủ các thứ quà nhỏ để mang về tặng mẹ, và cô thường mỉm cười cảm ơn con, cố gắng thoát ra khỏi sự sầu não. Khi nhỏ Jamie hỏi tại sao cha hay vắng nhà vào ban đêm và chẳng bao giờ đưa cô đi cùng, Margaret đã giải thích: “Cha con là một người rất quan trọng, Jamie à. Cha làm những việc quan trọng và rất bận”.

  “Chuyện giữa cha nó và mình là vấn đề của riêng mình thôi, mình sẽ không để nhóc Jamie ghét cha nó vì chuyện đó”.


  Cái bụng của Margaret ngày một nổi rõ hơn. Khi đi ngoài phố, những người quen biết thường chào và hỏi: “Chẳng còn lâu nữa đâu, đúng không bà McGregor. Tôi tin sẽ lại là một thằng bé kháu khỉnh như cậu Jamie Con cho mà xem. Chồng bà thật là hạnh phúc”.

  Sau lưng cô, họ lại nói: “Tội nghiệp, đáng nhẽ ra cô ta phải biết con điếm mà ông ấy bao làm bồ chứ?”

  Margaret cố gắng làm cho nhóc Jamie quen với việc có em bé. “Này con, con sắp có một em bé trai hoặc em gái đấy. Khi đó, con sẽ có người để chơi cùng suốt ngày, có thích không nào?”

  Cậu bé ôm chầm lấy Margaret và nói: “Như vậy mẹ cũng sẽ đỡ buồn hơn”.

  Và Margaret phải cố kìm nén những giọt nước mắt đang chực ứa ra.

  Cơn đau đẻ bắt đầu lúc bốn giờ sáng. Bà Talley cho mời bà đỡ Hannah tới và Margaret sinh hạ vào tầm buổi trưa. Đó là một bé gái khỏe mạnh, có cái miệng giống mẹ, cái cằm giống cha và những lọn tóc đen ôm lấy khuôn mặt nhỏ xíu, ửng hồng. Margaret đặt tên cho con là Kate. “Đó là một cái tên đẹp và mạnh mẽ. Và nó sẽ cần phải có sức mạnh. Tất cả chúng ta đều thế. Chưa biết bằng cách nào nhưng phải tìm ra thôi” – cô thầm nghĩ.

  David Blackwell lao vào phòng làm việc của Jamie McGregor mà không hề gõ cửa. Jamie ngước nhìn vẻ ngạc nhiên: “Xảy ra cái quái gì vậy?”

  “Họ đang bạo động ở Namib”.

  Jamie vụt đứng dậy: “Cái gì cơ, chuyện gì đang xảy ra vậy?”

  “Một thằng bé da đen bị bắt vì bị phát hiện định ăn cắp một viên kim cương. Chú nhóc này đã tự khoét một lỗ dưới cánh tay, giả bị thương và nhét viên kim cương vào đó. Để làm bài học răn đe người khác, Hans Zimmerman đã đánh đập thằng bé trước mặt những người công nhân khác. Nó đã chết, khi đó mới chỉ mười hai tuổi”.

  Mặt Jamie đầy giận dữ: “Lạy Chúa nhân từ. Tôi đã ra lệnh chầm dứt việc đánh đập công nhân ở các mỏ rồi cơ mà”.

  “Tôi đã cảnh cáo Zimmerman”.

  “Xử lí cái thằng chó đẻ đó đi”.

  “Chúng tôi không thể tìm thấy lão ta”.

  “Sao lại không thể?”

  “Những người da đen giữ hắn rồi, tình hình lúc này thực sự không còn kiểm soát được nữa”.

  Jamie vơ lấy chiếc mũ: “Ở đây giải quyết công việc cho đến khi tôi trở về”.

  “Thưa ông McGregor. Nhưng tôi nghĩ sẽ không thật an toàn nếu ông đi tới đó đâu ạ, thằng nhỏ bị Zimmerman đánh chết là người thuộc bộ tộc Borolong. Họ không tha thứ và không quên. Tôi không thể….”

  Nhưng Jamie đã mất hút.


  Cách bãi kim cương chừng mười dặm, Jamie đã có thể nhìn thấy các cột khói bốc cao. Tất cả nhà cửa ở Namib đã bị thiêu rụi. “Thật là những kẻ dốt nát, ai lại đi đốt nhà của chính mình” – Jamie nghĩ. Khi xe đến gần hơn, anh nghe thấy tiếng sung nổ và tiếng la hét. Giữa đám đông lộn xộn, hỗn loạn đó, những tay cảnh sát mặc đồng phục đang nổ sung và những người da đen, da màu đang cố chạy trốn một cách tuyệt vọng. Những đám người da trắng đông hơn, mười chọi một và họ còn có cả vũ khí.

  Thấy Jamie McGregor, viên cảnh sát trưởng Bernard Sothey vội chạy lại và thong báo: “Ông không cần phải lo lắng, ông McGregor. Chúng tôi sẽ tiêu diệt đến những thằng cuối cùng”.

  “Quỷ tha ma bắt anh đi. Ra lệnh cho người của anh dừng bắn ngay”. – Jamie nói.

  “Cái gì cơ a? Nếu chúng tôi….”

  “Làm theo lời tôi!” – Jamie nhìn thấy một phụ nữ da đen bị một loạt đạn quật ngã mà lòng giận dữ tột độ: “Ra lệnh cho binh lính dừng ngay đi!”

  “Vâng, xin làm theo ý ông”. Viên cảnh sát trưởng ra lệnh cho gã trợ lý và ba phút sau tiếng súng ngừng hẳn.

  Xác người nằm khắp nơi trên mặt đất. “Nếu ông cần một lời khuyên, tôi sẽ nói….” – Sothey lên tiếng.

  “Tôi không cần lời khuyên của anh, đưa người thủ lính của họ tới đây gặp tôi”.

Hai viên cảnh sát đưa một người da đen còn trẻ đến chỗ Jamie đang đứng. Anh ta bị còng tay và khắp người bê bết máu, nhưng chẳng tỏ ra chút gì là sợ hãi. Anh ta đứng thẳng, đôi mắt rực lửa và Jamie nhớ đến từ mà Banda dùng để chỉ niềm kiêu hãnh của người Bantu. Isiko – Cội rễ.

  “Tôi là Jamie McGregor”.

  Người đàn ông nhổ nước bọt.

  “Chuyện xảy ra ở đây thực sự không phải là chủ ý của tôi, tôi muốn đền bù lại cho người của anh”.

  “Hãy nói với những người vợ góa bụa của họ ấy”.

  Jamie quay sang Sothey: “Hans Zimmerman đâu rồi?”

  “Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm. thưa ông”

  Jamie nhận thấy ánh mắt của người da đen kia và anh biết rằng không bao giờ tìm được Zimmerman nữa.

  Người da đen nhìn anh thăm dò, lộ rõ vẻ hoài nghi.

  “Sẽ có một người quản đốc mới ở đây và điều kiện làm việc sẽ được cải thiện tốt hơn. Nhưng tôi mong người của anh sẽ trở lại làm việc sau ba ngày nữa”.

  Viên cảnh sát trưởng nói với vẻ ngờ vực: “Ông định để cho hắn đi hay sao? Hắn đã giết chết mấy người của tôi…..”

  “Sẽ có một cuộc điều tra kĩ lưỡng và….”

  Có tiếng vó ngựa phi nước đại về phía họ và Jamie nhận ra David Blackwell, sự xuất hiện đầy bất ngờ của cậu làm Jamie lo lắng.

  David xuống ngựa và nói: “Con trai ông đã mất tích, thưa ông McGregor”.

  Tất cả thế giới đột nhiên lạnh giá.


  Một nửa dân số ở Klipdrift tham gia vào cuộc tìm kiếm. Họ lùng sục cả một vùng ngoại ô rộng lớn, vạch tìm từng lùm cây, bụi cỏ nhưng chẳng thấy một dấu tích nào của thằng bé.

  Jamie bị ám ảnh với ý nghĩ: “Nó đi lang thang đâu đó thôi, nó sẽ về”.

  Anh đi vào phòng ngủ của Margaret, cô đang nằm trên giường và cho con bú.

  “có tin tức gì mới không?” – Cô gặng hỏi.

  “chưa, nhưng tôi sẽ tìm ra nó”. Jamie nhìn con gái giây lát rồi quay người bước đi, không nói một lời.

  Bà Talley bước vào, hai tay xoa cái tạp dề: “Xin đừng âu phiền, bà McGregor. Nhỏ Jamie đã lớn rồi, nó biết tự lo cho bản thân”.

  Cặp mắt Margaret đãm lệ: “Thằng nhóc chắc sẽ không bị ai đó làm hại đúng không? Tất nhiên là không rồi”.

  Bà Talley cúi xuống, bế Kate từ tay Margaret.

  “Cô cố gắng ngủ đi”.

  Bà bế Kate sang phòng trẻ con và đặt con nhỏ vào trong chiếc giường cũi. Kate ngước nhìn lên, mỉm cười.

  “Tốt nhất hãy nhắm mắt ngủ đi nào, bé cưng. Con còn có cả một cuộc sống bận rộn ở phía trước đó”.

  Bà Talley bước ra khỏi phòng, khép cánh cửa lại.

  Vào lúc nửa đêm, cánh cửa sổ phòng ngủ lặng lẽ mở ra. Một người đàn ông trèo vào bên trong. Hắn bước tới chiếc giường cũi, lấy một tấm khăn trùm kín đầu đứa trẻ và cắp nó đi.

  Banda biến đi nhanh chóng, hệt như lúc anh ta đến.

  Chính bà Talley là người phát hiện ra sự biến mất của Kate. Lúc đầu, bà cho là Margaret đã trở dậy vào lúc nửa đêm và mang con trở về phòng với cô. Bà ta bước vào phòng ngủ của Margaret và hỏi: “Con bé đâu rồi ạ?”

  Và với biến chuyển trên sắc mặt của Margaret, bà biết ngay chuyện gì đã xảy ra.


  Lại một ngày nữa trôi qua mà không có thong tin gì về cậu con trai. Jamie đã ở trên bờ vực của sự suy sụp. Anh tới gặp David Blackwell. “Cậu không nghĩ là có chuyện gì xấu xảy ra với nó chứ?” – giọng anh lộ rõ vẻ mất tự chủ dù đã cố kìm nén.

  “Tôi chắc là không, thưa ông McGregor” – David nói, cố tỏ vẻ tin tưởng chắc chắn.

  Thế nhưng thực sự thì cậu đâu có tin vậy. Cậu đã khuyến cáo Jamie McGregor rằng người Bantu không tha thứ và cũng không quên. Một người Bantu đã bị giết hại dã man, David tin rằng: Nếu một người Bantu bắt nhỏ Jamie thì cậu bé ắt phải chịu một cái chết đau đớn khủng khiếp, bởi lẽ tộc người này sẽ trả thù tương ứng.

  Jamie trở về nhà vào lúc trời mờ sáng. Anh đã tổ chức một đội tìm kiếm, bao gồm dân nghèo, những người đi tìm vàng, kim cương và họ đã lục soát mọi nơi suốt cả đêm mà không lần ra được manh mối nào.

  David đã đợi sẵn, đứng dậy khi Jamie bước vào: “Ông McGregor, con gái ông cũng đã bị bắt cóc”.

  Jamie nhìn cậu lặng ngắt, mặt tái nhợt đi. Rồi anh quay người đi về phía phòng ngủ của mình.

  Đã bốn mươi tám giờ liền, Jamie chưa hè đặt lưng, giờ thì anh ngã gục xuống giường, hoàn toàn kiệt sức và thiếp đi. Anh mơ thấy mình đang ở dưới một bong cây baobap lớn và phía xa xa, trên thảo nguyên hoang vắng, một con sư tử đang tiến lại gần. Nhóc Jamie lay người đánh thức anh: Dậy, đậy đi cha ơi. Một con sư tử đang tiến đến đấy, cont hú lao nhanh về phía họ, mỗi lúc một nhanh hơn, con trai anh lay anh mạnh hơn. “Dậy!” Jamie bừng tỉnh. Banda đứng bên giường, Jamie định lên tiếng thì Banda đưa tay che mirngj anh lại.

  “Yên nào” – anh ta nói và để Jamie gượng dậy.

  “Con trai tôi đâu rồi?” – Jamie hỏi dồn.

  “Nó chết rồi”.

  Căn phòng như đang chao đảo, quay cuồng.

  “Tôi xin lỗi, tôi đến quá muộn nên không kịp ngăn họ lại. Người của anh đã làm cho người Bantu đổ máu và người của bộ tộc chúng tôi trả thù”.

  Jamie đưa tay ôm lấy mặt: “Ôi, lạy Chúa. Bọn người đó đã làm gì thằng bé vậy?”

  Banda đáp lời, vẻ buồn thảm: “Họ đã bỏ thằng bé trong hoang mạc. Tôi…tôi đã tìm thấy xác nó và đã chon cất”.

  “Ôi không, xin đừng”.

  “Jamie, tôi đã cố hết sức để cứu thằng bé”.

  Jamie chậm rãi gật đầu vẻ chấp nhận. Rồi anh u sầu hỏi tiếp: “Thế còn con gái tôi thì sao?”

  “Tôi đã kịp mang nó đi lánh tạm trước khi họ có thể tóm lấy nó, cháu bé sẽ được bình an nếu như anh làm đúng những gì đã hứa”.

Jamie nhìn lên, vẻ mặt lộ rõ sự căm hận. “Tôi sẽ giữ lời hứa nhưng tôi muốn biết những kẻ nào đã giết chết con mình, bọn chúng phải trả giá”.

  Banda ra điều suy tư: “Vậy thì anh sẽ phải giết toàn bộ bộ tộc của chúng tôi mất, Jamie ạ”.

  Banda bỏ đi xa.


  Đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng cô vẫn nhắm mắt lại vì biết rằng nếu mở mắt ra thì cơn ác mộng kia sẽ là sự thật và các con cô sẽ chết. Bởi vậy cô đã chơi một trò láu cá, cô nhắm nghiền hai mắt lại cho đến khi cảm nhận thấy bàn tay bé bỏng của nhóc Jamie lăn trên người cô và nói: ‘Ổn cả rồi mẹ ơi, chúng con ở đây mà, chúng con vẫn bình an”.

  Cô nằm liệt ba ngày trên giường, từ chối chuyện trò hay gặp bất kì ai. Bác sĩ Teeger đã đến rồi đi mà Margaret không hay biết gì. Tầm nửa đêm, Margaret đang nằm trên giường, nhắm nghiền mắt thì bỗng nghe thấy một tiếng động mạnh phát ra từ phía phòng của con trai cô. Cô mở mắt và lắng nghe, một tiếng động nữa, Jamie bé bỏng đã trở về.

  Margaret vội bước ra khỏi giường, chạy dọc theo hành lang dẫn đến phòng của con trai có cánh cửa vẫn đóng kín. Qua cánh cửa, cô có thể nghe thấy tiếng kêu như của một sinh vật lạ. Tim đạp loạn xạ, Margaret đẩy tung cánh cửa, bước vào phòng. Chồng cô đang nằm trên sàn nhà, mặt mũi, thân thể rúm ró. Một mắt anh nhắm nghiền còn mắt kia nhìn cô với một vẻ mặt kì lạ. Anh cố nói, nhưng chỉ phát ra những âm thanh như của một con vật.

  Margaret nhào tới, miệng thì thầm: “Ôi, Jamie, anh Jamie!”


  Bác sĩ Teeger nói: “Tôi sợ là tình trạng của ông nhà không được tốt lắm, thưa bà McGregor. Ông ấy đã bị một cơn đột quỵ nghiêm trọng. Khả năng sống sót, qua khỏi chỉ là năm mươi phần trăm nhưng dù có sống được thì ông ấy cũng sẽ bị tàn tật. Tôi sẽ lo liệu để có thể đưa ông ấy vào một trại điều dưỡng nào đó, thuận tiện cho việc chăm sóc”.

  “Không”.

  Ông bác sĩ nhìn cô ngạc nhiên: “Không….cái gì cơ ạ…”

  “Không viện nào hết, tôi muốn được ở bên anh ấy, tại đây”.

  Ông Teeger lưỡng lự trong giây lát: “Vaayjt hì bà cần một người y tá, tôi sẽ lo chuyện này”.

  “Tôi không cần y tá, tôi sẽ tự chăm sóc cho Jamie”.

  Ông bác sĩ lắc đầu: “Điều đó là không thể được, thưa bà McGregor. Bà chưa hiểu được hết các công đoạn chăm sóc người bệnh, chồng bà không còn là một người bình thường về chức năng nữa. Ông ấy đã hoàn toàn bị liệt và sẽ suốt như vậy chừng nào ông ấy còn sống”.

  “Tôi sẽ chăm sóc anh ấy” – Margaret đáp.

  Sau bao năm tháng qua, giờ thì Jamie thực sự thuộc về cô.
  

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:10:05 | Chỉ xem của tác giả
MƯỜI MỘT





Jamie sống thêm được một năm nữa kể từ ngày lâm bệnh và đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Margaret. Jamie hoàn toàn bất lực, không thể nói hay cử động di chuyển được. Margaret chăm sóc anh, thỏa mãn mọi nhu cầu của anh và giữ anh bên mình suốt đêm. Ban ngày, cô để Jamie vào trong một chiếc xe đẩy và đưa anh vào phòng may vá. Trong khi đan áo và thêu may, cô vừa làm vừa trò chuyện với anh. Cô kể đủ mọi thứ chuyện vặt vãnh trong nhà mà trước đây anh không bao giờ dành ra chút thời gian để lắng nghe. Cô kể với anh về Kate bé bỏng đang khôn lớn, khỏe mạnh như thế nào. Ban đêm, cô mang tấm thân chỉ còn da bọc xương của Jamie vào phòng ngủ của mình và nhẹ nhàng đặt anh nằm xuống giường, bên cạnh cô. Margaret ủ ấm cho anh và một mình tâm sự với anh cho đến khi ngủ thiếp đi.

  David Blackwell điều hành mọi công việc tại công ty Kruger-Brent Ltd. Thi thoảng, anh mang giấy tờ, tài liệu đến để Margaret kí và David thật đau đớn khi chứng kiến tình trạng bệnh tật của Jamie. “Mình chịu ơn con người này về tất cả những gì có được như hôm nay” – cậu thầm nghĩ.

  “Anh chọn người đúng thật đấy, Jamie” – Margaret nói với chồng. “David là một chàng trai cừ đó” – cô đặt đồ khâu vá xuống và mỉm cười – “Cậu ta làm em nhớ đến anh, tất nhiên chẳng có ai thông minh như anh, anh yêu ạ và cũng không có một Jamie thứ hai nữa đâu. Anh thật dễ mến, tốt bụng và cường tráng nữa, anh yêu. Và anh giám mơ ước. Giờ đây thì mọi điều mơ ước của anh đã trở thành sự thật, công ty ngày càng phát triển đi lên”. Cô lại nhặt đồ khâu lên và nói tiếp: “Kate bé bỏng đang bi bô tập nói đấy, em thề với anh là sáng nay nó đã gọi mẹ..mẹ..”

  Jamie ngồi đó, trong chiếc xe đẩy, một mắt nhìn vô cảm về phía trước.

  “Con bé có cặp mắt đẹp và cái miệng giống anh lắm, nó sẽ là một thiếu nữ đẹp khi trưởng thành”.

  Sáng sớm hôm sau, khi Margaret tỉnh dậy Jamie McGregor đã chết. Cô ôm anh, ghì chặt anh vào lòng.

  “Hãy yên nghỉ, anh yêu ơi. Hãy yên nghỉ. Em đã luôn yêu anh mạnh mẽ đến nhường nào, em hy vọng là anh hiểu điều đó. Tạm biệt, chồng yêu dấu của em”.

  Giờ đây, cô ở vậy một mình, chồng và con trai cô đã rời xa cô. Chỉ còn lại cô và đứa con gái, Margaret bước vào căn phòng dành cho trẻ em và nhìn xuống, Kate đang ngủ ngon lành. “Katherine” – “Kate”, cái tên gốc Hy Lạp đó có nghĩa là trong sáng hay thanh cao. Đó là tên được dùng để đặt cho các vị thánh, các nữ tu sĩ và các hoàng hậu.

  “Con sẽ trở thành gì nào, Kate?” – cô thốt leent hành tiếng.

  Đây đang là quãng thời gian của sự mở mang, phát triển nhanh chóng ở Nam Phi nhưng cũng là thời kì của các xung đột nghiêm trọng. Đã có tranh chấp dai dẳng về chủ quyền dọc theo con song Vaal giữa người Boer và người Anh. Sau cùng, sự việc lên tới đỉnh điểm: Vào ngày thứ Năm, 12 tháng 10 năm 1899, đúng vào dịp sinh nhật lần thứ bảy của Kate, người Anh đã tuyên bố chiến tranh với người Boer và ba ngày sau đó, Nhà nước Tự do Orange bị tấn công. David đã cố gắng thuyết phục Margaret rời khỏi Nam Phi, nhưng Margaret đều từ chối không đi, cô bảo: “Chồng tôi ở đây mà”.

  Không còn cách nào để thuyết phục được Margaret, David đành tuyên bố: “Tôi sẽ tham gia cuộc chiến, đứng về phía những người Boer. Bà sẽ cố gắng xoay sở ổn thỏa chứ?”

  “Đúng, tất nhiên là ổn. Tôi sẽ cố duy trì hoạt động của công ty” – cô đáp.

  Sáng hôm sau, David lên đường.

  Người Anh đã hy vọng rằng đó là một cuộc chiến tranh chớp nhoáng và dễ dàng, tựa như một cuộc hành quân càn quét. Họ bắt đầu cuộc chiến với một tâm lí nhẹ nhõm, tin tưởng chắc thắng. Thậm chí, người ta đã tổ chức một bữa tiệc khá long trọng để tiễn đưa binh lính tại bản doanh Hyde Park ở Luân Đôn.

  Thế nhưng, người Anh đã bị bất ngờ. Người Boer chiến đấu trên mảnh đất quê hương mình một cách kiến quyết và dũng cảm. Trận chiến đầu tiên diễn ra ở Mafeking – một vùng có diện tích gần bằng một cái làng, và lần đầu tiên quân Anh nhận ra sức mạnh của đối phương. Từ đảo quốc sương mù, quân chi viện nhanh chóng được gửi tới, quân Anh đã sa lầy ở Kimberley và chỉ sau những trận đánh đầy ác liệt họ mới đánh chiếm được Ladysmith. Đại bác của người Boer có tầm bắn xa hơn của quân Anh và vì thế quân Anh cho thuyền chở tới những loại pháo có tầm bắn tương tự, mang sâu vào trong nội địa và do lính thủy Anh sử dụng ở những điểm cách tàu chiến của họ hàng trăm dặm.

  Tại Klipdrift, Margaret háo hức nghe tin tức về từng trận đánh. Cô và những người xung quanh chỉ biết được những tin đồn, tâm trạng của họ lúc thì hân hoan, lúc thì thất vọng, tùy thuộc vào những gì nghe được. Vào một buổi sáng, một nhân viên dưới quyền Margaret chạy vào phòng làm việc của Margaret và thông báo: “Tôi mới nghe thấy thong tin cho rằng người anh đang tiến gần tới Klipdrift, họ sẽ giết tất cả chúng ta”.

  “Vớ vẩn, họ sẽ không dám động tới chúng ta đâu”.

  Năm giờ đồng hồ sau, bà Margaret McGregor đã trở thành một tù binh chiến tranh.

  Margaret và Kate bị đưa đến vùng Paardeberg, một trong những trại tập trung được mọc lên như nấm khắp Nam Phi. Tù nhân bị nhốt trong một khu đất lớn, được bao quanh bởi hàng rào dây thép gai, có lính Anh canh gác. Tình trạng ăn ở, sinh hoạt trong nhà tù thật tồi tệ.

  Margaret ôm con vào lòng và nói: “Đừng lo, con yêu quý, không có gì xấu xảy ra với con đâu”.

  Nhưng cả hai mẹ con đâu dám tin chắc vào điều đó. Mỗi ngày qua đi là một chuỗi những ngày khủng khiếp. Họ thấy số người bên cạnh bị chết lên tới hang chục, hàng trăm và rồi tới cả ngàn người do dịch sốt lan tràn khắp khu trại. Không có bác sĩ khám bệnh và thuốc men dành cho những người bị thương, thực phẩm thì thiếu, khan hiếm. Cơn ác mộng này kéo dài trong suốt ba năm trời đằng đẵng, điều tồi tệ nhất chính là cảm giác bất lực hoàn toàn trước thực tại. Margaret và Kate sống được hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào lòng thương hại của những kẻ giam giữ họ. Hai mẹ con họ phụ thuộc vào đám người này từ miếng ăn, nơi ở và ngay cả mạng sống của họ cũng khi nào còn, khi nào mất. Kate đã sống thường trực trong nỗi sợ hãi, cô bé nhìn thấy cảnh những đứa trẻ xung quanh chết dần chết mòn và sợ rằng mình sẽ là đứa xấu số tiếp theo. Con bé không thể làm gì để bảo vệ mẹ và ngay chính bản thân mình nữa, và đó là bài học đầu đời mà nó không bao giờ quên được: Phải có quyền lực. Nếu có quyền lực là có thức ăn, có thuốc chữa bệnh và có tự do. Cô bé thấy những người xung quanh lâm bệnh và chết. “Một ngày nào đó, mình sẽ có quyền lực, không kẻ nào có thể đối xử với mình như thế này nữa” – Kate nghĩ.


  Các trận đánh tiếp tục diễn ra ở Belmont, ở Graspan, Storwberg và Spioenkop. Nhưng cuối cùng, những chiến binh Bỏe dũng cảm đã không thể choonhs chọi được với sức mạnh của đế chế Anh. Năm 1902, sau gần ba năm chiến tranh đẫm máu, người Boer đã đầu hàng. Năm mươi nghìn người Boeer đã tham chiến, ba mươi tư nghìn binh sĩ, phụ nữ và trẻ em của họ đã thiệt mạng. Nhưng điều làm cho những người còn sống cảm thấy cay đắng, uất hận nhất chính là việc: Trong tổng số mất mát quá lớn về người này, có tới hai mươi tám ngàn người bị chết trong các trại tập trung mà quân Anh lập nên.

  Đó là ngày mà cánh cửa trại tập trung được mở toang và hai mẹ con nhà Margaret trở về ngay Klipdrift. Vài tuần sau, vào một ngày Chủ Nhật, David Blackwell cũng trở về. Chiến tranh đã tôi luyện con người anh nhưng đó vẫn là một David trầm tư, chin chắn mà Margaret từng luôn tin cậy. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, David Blackwell vừa chiến đấu nhưng vẫn luôn lo lắng không biết Margaret và Kate còn sống hay đã chết. Khi thấy hai mẹ con họ bình an trở về nhà, trong anh rộn lên một niềm vui.

  “Giá như tôi có thể bảo vệ được cho hai người” – David nói với Margaret.

  “Tất cả đã qua rồi, David. Chúng ta chỉ được phép nhìn về tương lai thôi”.

  Và tương lai của họ chính là công ty Kruger-Brent Ltd.

  Đối với thế giới thì năm 1900 là một mốc thời điểm đánh dấu sự sang trang mới của lịch sử nhân loại, nó mở ra một kỉ nguyên mới hứa hẹn hòa bình và niềm lạc quan hy vọng vô bờ bến cho tất cả mọi người. Một thế kỉ mới bắt đầu, cùng với đó là một loạt các phát minh kì diệu, có vai trò định hình lại cuộc sống của con người. Các đầu máy chạy bằng hơi nước được thay thế dần bằng các loại động cơ đốt trong, đã xuất hiện tàu ngầm và máy bay. Dân số thế giớ đã đạt tới một tỉ rưỡi người. Đó là thời kì của sự phát triển mở rộng, và trong sáu năm kế tiếp đó, Margaret và David đã tận dụng mọi cơ hội.

  Trong quãng thời gian đó, Kate lớn lên trong một hoàn cảnh không có một sự giám sát nào. Mẹ cô bận túi bụi, suốt ngày vùi đầu vào công việc, cùng với David điều hành công ty và không thể để mắt nhiều tới cô. Giờ đây, Kate đã là một đứa trẻ tự do, bướng bỉnh, ngoan cố và không thể thay đổi được. Một buổi chiều, sau khi tan cuộc họp bàn công việc ở công ty, Margaret trở về nhà và bà thấy cô con gái mười bốn tuổi của mình đang đánh nhau với hai đứa nhỏ khác trong một vũng bùn. Margaret nhìn con một cách kinh hãi.

  “Thật là quỷ quái, kia lẽ nào lại là đứa bé sẽ trở thành chủ nhân của Kruger-Brent Ltd trong tương lai. Xin Chúa hãy giúp chúng con”.
  

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:12:05 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN HAI

KATE VÀ DAVID
1906 – 1914


MƯỜI HAI




  Đó là một buổi tối mù hè nóng nực năm 1914, trong lúc đang làm việc một mình trong văn phòng của mình tại trụ sở của Kruger-Brent Ltd ở Johanesburg, Kate McGregor bỗng nghe thấy tiếng ô tô dang lao đến. Đặt mớ giấy tờ đang xem xuống bàn, cô đến bên cửa sổ, nhìn xuống. Hai cảnh sát và một chiếc xe tải đang dừng trước tòa nhà xông ty, cô chau mày. Đám cảnh sát mặc đồng phục nhảy ào từ trên xe xuống và phong tỏa hai cổng ra vào. Đêm đã khuya và đường phố thì vắng ngắt, Kate loáng thoáng thấy bóng mình trong khuôn kính. Cô là một phụ nữ xinh đẹp, với cặp mắt màu xám bạc của cha và thân hình đầy đặn của mẹ.

  Có tiếng gõ cửa. “Vào đi” – Kate lên tiếng.

  Cánh cửa mở ra và hai viên cảnh sát bước vào, một trong hai người mang biển cấp bậc sĩ quan thanh tra cảnh sát.

  “Xảy ra vụ động trời gì vậy?” – Kate hỏi ngay.

  “Tôi xin lỗi đã làm phiền cô vào lúc đêm hôm khuya khoắt như thế này, cô McGregor. Tôi là sĩ quan cảnh sát Cominsky”.

  “Có vấn đề gì thế, anh cảnh sát?”

  “Chúng tôi nhận được một nguồn tin cho biết cách đây không lâu đã có một kẻ sát nhân vừa đào tẩu vào ngôi nhà này”.

  “Vào tòa nhà này?” – Kate tỏ vẻ lo lắng.

  “Đúng vậy, thưa cô. Hắn ta có vũ khí và là một gã rất nguy hiểm”.

  Kate sợ hãi nói: “Vậy thì thưa ông thanh tra, tôi sẽ biết ơn ông rất nhiều nếu người của ông tìm được hắn ta và lôi hắn ra khỏi đây”.

  “Đó là điều chúng tôi đang định làm, cô có nghe thấy hoặc cảm nhận được điều gì nghi vấn không?”

  “Không, nhưng tôi ở đây có một nình và có rất nhiều chỗ mà kẻ đào tẩu có thể ẩn náu được. Tôi muốn người của ông lục soát kĩ lưỡng khu vực này”.

  Viên sĩ quan cảnh sát  quay đi và ra lệnh cho đám quân dưới quyền đang chờ ở ngoài. “Dàn đội hình, lục soát từ tầng hầm lên tận mái” – ông ta quay lại hỏi Kate – “Có căn phòng nào bị khóa không, thưa cô?”

  “Tôi nghĩ là không, nhưng nếu có tôi sẽ mở cho các ông” – Kate trả lời.

  Cảnh sát Cominsky nhận thấy là cô sợ hãi đến nhường nào và ông ta không trách cô vì điều đó. Cô sẽ còn lo sợ hơn nữa nếu biết rằng tên tội phạm mà họ đang tìm kiếm là một kẻ liều lĩnh đến tuyệt vọng. “Chúng tôi sẽ tìm ra hắn thôi” – viên cảnh sát trấn an Kate.

  Kate cầm bản tài liệu mà cô đang nghiên cứu lên nhưng đầu óc cô không tài nào mà tập trung tư tưởng được. Cô nghe thấy tiếng bước chân chạy rập rập của toán cảnh sát, lục soát từ phòng này ssang phòng khác trong tòa nhà. “Không biết họ có tìm thấy bác ấy không?” – cô chợt rùng mình.

  Đám cảnh sát lục soát tỉ mỉ và tuần tự mọi nơi có thể ẩn náu được, từ tầng hầm cho tới trên mái. Bốn mươi lăm phút sau, thanh tra Cominsky trở lại văn phòng của Kate.

  Cô nhìn vào ông ta và hỏi: “Ông chưa tìm thấy hắn à?”

  “Chưa, thưa cô. Nhưng xin cô đừng lo”.

  “Tôi lo chứ, ông thanh tra. Nếu có một tên sát nhân núp ở đây, tôi muốn ông tìm ra hắn”.

  “Chúng tôi sẽ tìm ra mà, cô McGregor. Chúng tôi có chó nghiệp vụ”.

  Tiếng chó sủa vang lên ngoài hành lang. Một lát sau, hai con chó Béc-giê Đức to lớn được cảnh sát dắt vào phòng.

  “Thưa sếp, chó nghiệp vụ đã lùng sục khắp cả tòa nhà, chỉ trừ mỗi căn phòng này là chưa”.

  Viên thanh tra quay sang hỏi Kate: “Cô có ra khỏi phòng trong vòng một tiếng vừa qua không?”

  “Có, tôi đi lấy một số tài liệu ở phòng hồ sơ, ông cho là hắn đã…..”.

  Cô rùng mình: “Tôi muốn ông kiểm tra căn phòng này”.

  Viên thanh tra ra lệnh và tay cảnh sát thả chùng dây xích con chó, miệng hô lớn: “Tìm đi nào”.

  Hai con chó lao tới, chúng hộc tốc xông tới một cánh cửa đóng kín và sủa toáng lên.

  “Ôi lạy Chúa! Hắn ta ở trong đó”.

  Viên thanh tra rút súng và ra lệnh: “Mở cửa”.

  Hai tay cảnh sát, sung lăm lăm trong tay tiến đến và giật tung cánh cửa ra. Căn buồng vệ sinh trống không, con chó lại chồm lên, lao tới một cánh cửa khác.

  “Cánh cửa đó dẫn tới đâu?” – Cominsky hỏi.

  “Dấn tới một phòng rửa mặt” – Kate đáp.

  Hai cảnh sát dứng áp sát cánh cửa và đẩy tung ra. Không có ai trong đó cả, tay cảnh sát dẫn chó nói lắp bắp: “Trước đây chúng chưa bao giờ như thế cả, chúng đã ngửi thấy mùi nhưng không biết kẻ tội phạm kia trốn ở đâu”.

  Hai con chó lại chạy ngay tới ngăn kéo bàn làm việc của Kate và tiếp tục sủa.

  “Đó là câu trả lời của ông, hắn núp trong ngăn kéo này” – Kate cười lớn.

  Thanh tra Cominsky tỏ vẻ bối rối. “Tôi xin lỗi vì đã làm phiền cô, cô McGregor” – ông ta quay sang tay nhân viên của mình và quát – “Mang ngay lũ chó ra khỏi đây”.

  “Ông chưa bỏ đi đấy chứ?” – Kate hỏi tỏ vẻ lo lắng.

  “Thưa cô McGregor, tôi có thể bảo đảm với cô rằng nơi đây hoàn toàn bình an. Người của tôi đã lục soát từng li từng tí ở ngôi nhà này, tôi lấy đầu để cam kết rằng hắn không ở đây. Tôi e là đã có sự nhầm lẫn, rất xin lỗi”.

  Kate nuốt nước bọt: “Ông thật giỏi giang trong việc mang đến hồi hộp của một buổi tối cho một người phụ nữ”.


  Kate đứng nhìn xuống từ cửa sổ, cho đến khi chiếc xe cảnh sát cuối cùng rời khỏi ngôi nhà. Khi chúng đã đi khuất hẳn, cô mở ngăn kéo bàn và lôi ra một đôi giầy vải ướt máu. Cô cầm đôi giày, đi dọc hành lang đến trước một cánh cửa có ghi dòng chữ: Phòng riêng. Chỉ người có thẩm quyền mới được vào và bước vào trong. Căn phòng hoàn toàn trống trải, chỉ có một cái két sắt lớn được kê sát tường. Đó là két sắt mà công ty Kruger-Brent dùng để đựng kim cương trước khi chuyển đi. Kate nhanh nhẹn mở mã khóa và kéo cánh cửa lớn. Có đến hàng chục hộp thép được gắn dọc hai bên thành két, tất cả đều đựng đầy kim cương. Ở khoảng trống giữa căn phòng, Banda nằm ngay dưới sàn, ở trong trangjt hái nửa tỉnh nửa mê.

  Kate quỳ xuống bên cạnh ông: “Chúng đã đi rồi”.

  Banda từ từ  mở mắt và cố nở một nụ cười: “Nếu tôi tìm được cách thoát khỏi két này, cô có thể tưởng tượng tôi giàu đến mức nào không, Kate?”

  Kate thận trọng đỡ ông đứng dậy, ông nhăn nhó khi cô động vào cánh tay. Cô đã băng bó vết thương cho ông, nhưng máu vẫn chảy ra.

  “Bác đi giầy vào được không?”. Lúc trước, chính cô đã cởi đôi giày khỏi chân ông và để đánh lừa  lũ chó Béc-giê mà cô biết trước là sẽ được cảnh sát đưa tới. Kate đã đi đôi giày này quanh văn phòng của mình rồi đưa bỏ vào ngăn kéo bàn làm việc.

  Kate nói: “Nào, chúng ta còn phải đưa bác ra khỏi chỗ này chứ?”

  Banda lắc đầu: “Bác sẽ tự lo liệu. Nếu cảnh sát bắt được cháu đang giúp bác, cháu sẽ gặp rắc rối không thể giải quyết được đâu”.

  “Bác cứ để cháu lo việc đó”.

  Banda quay lại và nhìn cái két sắt lần cuối.

  “Bác có muốn lấy một chút ít không?” – Kate hỏi – “Bác cần bao nhiêu thì cứ lấy”.

  Banda nhìn cô gái và thấy cô hoàn toàn nghiêm túc: “Cha cháu từng nói với bác như thế, cách đây lâu rồi”.

  Kate cố mỉm cười: “Cháu biết”.

  “Bác không cần tiền, điều bác cần làm là phải rời khỏi nơi đây một thời gian”.

  “Cháu sẽ tìm cách.  Bác hãy nghe cháu, bây giờ cảnh sát chắc đã thiết lập các trạm gác kiểm soát. Mọi phương tiện đi ra khỏi thành phố sẽ bị kiểm tra chặt chẽ, bác sẽ không có cơ hội đâu”.

  Banda nói vẻ ngang tang: “Cháu giúp bác thế là đủ rồi”. Ông đã xỏ được giày vào chân, dáng hình ông thật  thảm hại, áo sơ mi và áo khoác rách toác, bê bết máu. Gương mặt ông đầy sẹo và mái tóc đã điểm bạc. Thế nhưng khi nhìn ông, Kate vẫn chỉ thấy mỗi hình ảnh một chàng thanh niên cao lớn của ông mà cô từng gặp lần đầu khi còn là một đứa trẻ.

  “Banda, chúng mà bắt được bác thì chúng sẽ giết ngay. Bác sẽ đi cùng với cháu” – Kate nói vẻ duy tư.

  Cô biết là mình đã đúng khi đoán trước về sự xuất hiện của các trạm gác. Mọi con đường ra khỏi Johannesburg đều sẽ bị kiểm soát bởi các đội tuaafnt ra của cảnh sát. Bắt giữ Banda là ưu tiên hàng đầu và giới chức trách trong thành phố dã ra lệnh bằng mọi giá phải túm được Banda, bất kể là ông còn sống hay đã chết. Các nhà ga và các nẻo đường đều bị giám sát chặt.

  “Bác hy vọng là cháu sẽ có một kế hoạch hay hơn cái kế hoạch mà bố cháu đề ra khi xưa” – Banda nói giọng yếu ớt. Kate lo ngại rằng ông đã mất khá nhiều máu.

  “Bác đừng nói nữa, háy giữ sức khỏe. Mọi việc cứ để cháu lo liệu” – giọng của cô cố tỏ ra vẻ điềm tĩnh. Sinh mạng của Banda đang nằm trong tay cô và cô khó có thể chịu được nếu như có chuyện gì đó không hay xảy ra với ông. Giờ này, cô đã ước hàng trăm lần, rằng giá mà David có mặt ở đây. Hừm, bây giờ thì đơn giản là cô sẽ pjair lo liệu một mình, không có anh.

  “Cháu lái x era ngoài sân trước, mười phút sau thì bác đi ra nhé. Cháu sẽ để cửa sau của xe mở, bác leo lên và nằm xuống sàn. Sẽ có một tấm chăn ở đó và bác phủ kín lên người”.

  “Kate, cảnh sát sẽ khám xét kĩ tất cả các x era khỏi thành phố. Nếu….”

  “Chúng ta sẽ không đi bằng ô tô. Có một chuyến tàu hỏa khởi hành đi Cape Town vào lúc tám giờ sáng, cháu đã cho nối toa xe ray riêng của mình vào rồi”.

  Cháu định sẽ đưa bác ra khỏi nơi đây bằng xe riêng của cháu à?”

  “Đúng vậy đấy ạ”.

  Banda gượng cười và nói: “Họ nhà McGregor quả là thích thú với những chuyện mạo hiểm”.


  Ba mươi phút sau, Kate đưa xe chạy thẳng vào sân ga. Banda nằm trên sàn xe, thân phủ kín một tấm chăn. Họ không gặp phiền toái nào khi đi ngang qua các chốt kiểm soát. Nhưng lúc này, khi xe của Kate quay đầu về hướng sân ga thì một ánh đèn lóe lên, cô thấy năm sáu cảnh sát đang đứng chặn ở phía trước. Một người có dáng vẻ quen thuộc tiến về phía Kate.

  “Cảnh sát Cominsky”.

  Anh ta lộ vẻ ngạc nhiên: “Cô McGregor, cô đang làm gì ở đây vậy?”

  Cô nở một nụ cười lướt nhanh thoáng chút lo âu: “Ông nghĩ tôi là một phụ nữ ngốc nghếch và yếu đuối, ông thanh tra, nhưng thú thật với ông là việc xảy ra hôm rồi ở văn phòng làm tôi sợ chết khiếp. Tôi đã quyết định sẽ tạm rời xa thành phố cho đến khi nào ông bắt được kẻ sát nhân mà các ông đang truy tìm. Hay là các ông đã tìm ra hắn?”

  “Chưa, thưa cô. Nhưng chúng tôi sẽ tìm ra, tôi có linh cảm là hắn sẽ mò tới các nhà g axe lửa này. Dù hắn có chạy bằng đường nào đi nữa thì chúng tôi cũng chộp được hắn”.

  “Tôi chắc chắn hy vọng như vậy”.

  “Cô đi đâu bây giờ?”

  “Chiếc xe ray của tôi ở trước mặt kìa, tôi sẽ dùng nó để đi tới Cape Town”.

  “Cô có muốn người của chúng tôi hộ tống không?”

  “Ồ, cảm ơn ông nhưng điều đó không cần thiết. Bây giờ ông và người của ông ở đây, tôi bớt lo đi nhiều, thật đấy”.

  Năm phút sau, Kate và Banda đã an toàn trong chiếc xe ray. Khoang xe tối mịt.

  “Xin lỗi, tối quá phải không bác, cháu không muốn có chút ánh đèn nào lộ ra hết”. Cô đỡ Banda lên một chiếc giường. “Bác sẽ an toàn ở đây cho tới lúc sáng, khi chúng ta bắt đầu khởi hành thì bác sẽ trốn tạm vào phòng vệ sinh”.

  Banda gật đầu: “Cảm ơn cháu”.

  Kate kéo tấm rèm che: “Bác có thầy thuốc chăm sóc vết thương khi chúng ta tới Cape Town hay không?”

  Banda nhìn vào mắt cô: “Chúng ta nghĩa là sao?”

  “Bác nghĩ là cháu sẽ để bác đi một mình, còn cháu thì bỏ lỡ cơ hội được chứng kiến các giây phút hồi hộp sao?”

  Banda ngả đầu ra và phì cười: “Đúng là cha nào con nấy”.

  Mờ sáng, một đầu máy kéo chiếc xe ray riêng sang đường ray chính, gắn vào phía sau đoàn tàu sắp khởi hành đi Cape Town. Chiếc xe lắc giật khi nó ddowcj nối vào đoàn tàu chính.

  Đúng tám giờ, đoàn tàu rời bánh. Kate đã dặn trước đám nhân viên là cô không muốn bị làm phiền. Vết thương của Banda lại rỉ máu và Kate chăm sóc cho ông. Cô đã không có dịp để nói chuyện với Banda kể từ chập tối hôm trước, khi ông trong trangjt hái nửa sống nửa chết loạng choạng bước vào văn phòng của cô. Lúc này cô mới nói: “Kể cho cháu nghe chuyện gì đã xảy ra với bác vậy, bác Banda?”

  Banda nhìn cô và nghĩ: “Mình nên bắt đầu kể từ đâu nhỉ?”. Ông có thể giải thích với cô như thế nào về việc những người Trekboer đã dồn những người Bantu ra  khỏi mảnh đất của tổ tiên họ. Có phải rắc rối bắt đầu từ đó hay không? Hay khởi đầu chính là bài diễn văn lớn do Tổng thống vùng Transvaal Oom Paul Kruger đọc trước Quốc hội Nam Phi, rằng “Chúng ta phải là lãnh chúa của người da đen và để bọn mọi này trở thành một giống người hạ đẳng”. Hay câu chuyện bắt đầu từ một khẩu hiệu của Cecil Rhodes, người tạo lập một đế chế mới “Châu Phi là của người da trắng?”. Làm sao ông có thể tóm tắt lịch sử của dân tộc mình chỉ bằng một câu. Ông nghĩ ra một lối thoát. “Cảnh sát đã giết hại hai đứa con trai nhà bác” – Banda nói.

  Và thế là câu chuyện tuôn trào một cách tự nhiên. Con trai cả của Banda, Ntombenthle, tham gia vào một cuộc biểu tình chính trị, cảnh sát tới đàn áp. Một vài loạt sung vang lên và cuộc bạo động nổ ra. Ntombenthle bị bắt và sáng hôm sau người ta thấy anh chết treo cổ trong phòng giam. “Bọn họ nói đó là một vụ tự sát, nhưng bác hiểu con trai mình chứ. Đó là một vụ giết người” – Banda kể.

  “Lạy Chúa, anh ấy còn quá trẻ mà”. Kate thở dốc. Cô nhớ lại quãng thời gian họ nô đùa và vui cười cùng nhau. Ntombanthle vốn là một cậu bé rất khôi ngô “Cháu rất lấy làm buồn, bác Banda. Cháu rất buồn, nhưng mà làm sao tụi nó lại săn tìm bác?”

  “Sau khi chúng giết chết Ntombanthle, bác bắt đầu tập hợp những người da đen, bác phải chống lại bọn chúng, Kate ạ. Bác không thể ngồi im, khoanh tay nhìn. Bọn cảnh sát gọi bác là kẻ thù của Nhà nước, chúng bắt bác vì một vụ cướp mà bác chẳng  có chút liên quan gì và kết tội bác hai mươi năm tù giam. Bốn người bọn bác đã vượt ngục, một tên lính gác bị bắn chết và bọn họ đôt tội cho bác. Đời bác đã bao giờ cầm một khẩu sung trong tay đâu”.

  “Cháu tin bác” – Kate nói – “Việc đầu tiên chúng ta phải làm là đưa bác tới một nơi an toàn”.

  “Bác xin lỗi và đã kéo cháu vào chuyện này”.

  “Bác không kéo cháu vào chuyện gì hết, bác là bạn của cha cháu mà”.

  Banda mỉm cười. “Cháu có biết người da trắng đầu tiên kêu bác bằng bạn là ai không? Cha cháu đấy” – ông thở dài – “Bằng cách nào mà cháu có thể đưa bác xuoongstauf ở Cape Town được đây?”

  “Bác cháu ta sẽ không tới Cape Town”.

  “Nhưng cháu đã nói với bác là…”

  “Cháu là phụ nữ, và vì thế có quyền thay đổi ý kiến”.

  Vào nửa đêm, khi đoàn tàu dừng lại ở Wrchester, Kate đã bố trí để to axe ray của cô bị cắt rời khỏi đoàn tàu và kéo sang một đường ray phụ. Sáng ra, tỉnh dậy, Kate tới bên giường của Banda. Không có Banda trên đó, ông đã bỏ đi. Ông không thể chịu được việc thỏa thuận với cô hơn nữa. Kate thấy buồn, nhưng cô tin rằng Banda sẽ được an toàn. Ông có rất nhiều bạn bè và họ sẽ giúp đỡ ông”.

  “David chắc hẳn sẽ rất tự hào về mình” – Kate thầm nghĩ.

  Khi Kate trở về Johannesburg và kể cho David mọi chuyện, khác với dự đoán của cô, David gầm lên giận dữ: “Tôi không thể tin được rằng cô lại ngốc đến thế là cùng. Việc làm của cô không chỉ làm hại mạng sống bản thân mà còn đẩy cả công ty vào chỗ bị đe dọa. Nếu cảnh sát tìm ra Banda ẩn náu ở đây, cô biết họ sẽ làm gì không?”

  Kate đáp với vẻ thách thức: “Có chứ, họ sẽ giết oongta”.

  David vò đầu vẻ thất vọng: “Cô chẳng hiểu gì cả”.

  “Anh thì chắc luôn chuẩn mực đấy. Tôi biết! Tôi rõ anh là một kẻ lạnh lùng và chẳng có chút tình cảm gì hết” – Ánh mắt cô rực lên vẻ giận dữ.

  “Cô vẫn là một đứa trẻ”.

  Kate vung tay lên định tát vào mặt David nhưng anh ta đã tóm lấy được tay cô: Kate, cô phải biết tự kiềm chế sự nóng nảy”.

  Kate nhớ lại những từ như….”Kate, em phải biết kiềm chế sự nóng nảy”

  Chuyện xảy ra lâu rồi. Hồi đó cô mới bốn tuổi, đánh nhau với một cậu bé vì dám trêu chọc cô. Khi David xuất hiện, thằng bé bỏ chạy, Kate định đuổi thao thì David giữ lại: “Bình tĩnh nào Kate, em phải biết kiềm chế tính nóng nảy. Các tiểu thư trẻ không bao giờ dính vào những chuyện ẩu đả như thế này đâu”.

  “Em không phải là một tiểu thư trẻ, buông em ra” – Kate hét lên. David buông tay ra.

  Bộ váy hồng cô mặc trên người lấm bê bết, rách toác và mặt mũi cô thì xây xát hết.

  “Tốt nhất là chúng ta nên rửa sạch trước khi mẹ thấy em trong bộ dạng như thế này” – David nói. Kate nhìn thằng nhỏ chạy khuất xa, nói giọng tiếc nuối: “Em đã có thể đè bẹp thằng đó nếu anh không giữ em”.

  David nhìn xuống gương mặt nhỏ bé đang bừng bừng giận dữ và cười to: “Đúng là em đã có thể làm như vậy thật”.

  Nguôi giận, Kate để anh bế lên và đưa vào nhà. Cô thích được David bế bổng, cô thích mọi thứ ở David. Anh là người duy nhất hiểu được cô. Bất kể khi nào anh ở trong thị trấn, David đều dành thời gian cho cô. Trong những  lúc thư thái, Jamie đã kể cho David nghe về cuộc phưu lưu của ông với Banda, và rồi đến lượt David kể lại cho Kate, cô nghe không biết chán.

  “Kể cho em về chiếc bè mà bố em và bác ấy làm ra đi”.

  Và David lại kể cho cô nghe.

  “Kể cho em về những con cá mập…..Kể cho em nghe về những cơn lốc biển….về cái ngày…..”

  Và David lại kể.

  Kate không được gặp mẹ nhiều, Margaret quá bận, giành phần lớn thời gian vào việc điều hành hoạt độngc ủa công ty Kruger-Brent Ltd. Bà làm việc đó vì Jamie. Trong suốt một năm trời trước khi Jamie qua đời đêm nào Margaret cũng nói với anh: “ David thực sự rất hữu ích, Jamie à. Và anh ta sẽ còn trụ lại công ty chừng nào đến lượt Kate điều hành công ty, em không muốn làm cho anh lo nhưng thật tình em không biết mình phải làm gì với con nhỏ nữa….”

  Kate bướng bỉnh, ngang ngạnh và không thể dạy bảo được. Cô không chịu nghe lowig mẹ hoặc bà Talley. Khi họ chọn một cái váy để mặc cho cô, Kate thường cầm lấy, ném đi và tự lấy cho mình một cái khác. Cô ăn uống chểnh mảng, tùy tiện và dọa dẫm hay dỗ đanh cũng không làm cô thay đổi. Khi buộc phải đi dự một buổi tiệc sinh nhật nào đó, Kate thường tìm cách quấy rối. Cô không có bạn gái và từ chối đi tới các lớp học khiêu vũ. Thay vào đó, cô thường đi chơi bong đá với đám con trai lớn tuổi hơn. Khi đến tuổi tới trường, Kate đã là một học sinh cá biệt. Margaret nhận ra rằng mỗi tháng bà phải tới gặp cô hiệu trưởng ít nhất một lần để thuyết phục nhà trường tha lỗi cho Kate, để cô tiếp tục được học tập.

  “Tôi không thể hiểu được con bé, thưa bà McGregor. Con bé rất thong minh nhưng nó chống lại mọi thứ, tôi không biết phải làm gì với nó nữa” – bà hiệu trưởng nói, giọng phân trần.

  Margaret cũng vậy.


  Người duy nhất thu phục được Kate là David. “Anh biết là em được mời tới dự một buổi lễ sinh nhật tối nay”.

  “Các buổi sinh nhật làm em phát ngấy”.

  David cúi xuống ngang đầu cô bé. “Anh biết vậy, nhưng cha cô bé có sinh nhật hôm nay là một người bạn của anh. Và người ta sẽ nhìn anh thật tệ hại nếu như không có em tới dự và cư xử như một tiểu thư không có học”.

  Kate nhìn anh chăm chú: “Ông ta có phải là một người bạn tốt không?”

  “Đúng thế”.

  “Vậy thì em sẽ đi”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:13:34 | Chỉ xem của tác giả
Và thái độ của cô bé tối hôm đó thật không có thể chê trách được điều gì.

  “Tôi không biết làm sao mà cậu lại có thể bảo được nó, cứ như một phép màu vậy”.

  “Đơn giản là Kate có một tinh thần dễ bị kích động, lớn lên cái đó sẽ mất đi. Điều quan trọng là không được ép buộc cô bé” – David cười lớn và nói.

  “Tôi nói thật với anh nhé. Tôi chỉ muốn bẻ quách cổ nó đi cho rảnh” – Margaret thốt lên.


  Khi mười tuổi, Kate nói với David: “Em muốn được gặp bác Banda!”

  David ngạc nhiên nhìn cô bé: “Anh e là không được đâu, nhóc ạ. Trại của Banda cách đây rất xa”.

  “Anh sẽ đưa em tới đó chứ? Hay là anh muốn em tự đến đó một mình”.

  Tuần lễ sau đó, David đưa Kate đến chỗ Banda. Đó là một nông trại khá lớn và ở đó Banda trồng lúa mì, nuôi cừu và đà điểu. Banda đứng trước nhà, chào đón David và Kate vừa bước xuống xe. Banda chào cô bé có gương mặt nghiêm nghị, lung túng đang đứng cạnh David: “Bác biết cháu là con gái của Jamie McGregor”.

  “Và cháu cũng biết bác là Banda, cháu đến đây để cảm ơn bác vì đã cứu mạng cha cháu” – Kate đáp với vẻ kính trọng.

  Banda cười lớn: “Chắc là có ai đó đã kể cho cháu nghe chuyện rồi, xin mời vào và gặp các thành viên trong gia đình bác nào”.

  Vợ Banda là một phụ nữ người Bantu xinh đẹp, tên là Ntame. Banda có hai con trai: Ntombanthle, hơn Kate bảy tuổi và Magana, hơn cô sáu tuổi. Ntombanthle là một hình ảnh thu nhỏ của bác Banda. Dáng đẹp, đầy vẻ kiêu hãnh và tự trọng.

  Sau buổi chiều hôm đó, Kate chơi đùa cùng với hai con trai Banda. Họ ăn tối cùng nhau trong căn bếp nhỏ, ngăn nắp. David cảm thấy không khí khá thoải mái khi ngồi ăn cùng với một gia đình người da đen. Anh kính trọng Banda, nhưng việc không giao lưu qua lại giữa hai chủng tộc da đen và da trắng đã thành một thứ thông lệ rồi. Thêm vào đó, David có lo ngại về những hoạt động chính trị của Banda. Người ta nói rằng ông là một tín đồ của John Tengo Javabu, người đang đấu tranh cho những thay đổi sâu sắc trong xã hội. Lý do là vì các chủ mỏ không kiếm đủ nhân công là người bản xứ, và chính phủ đã áp đặt một mức thuế mười xi-linh đối với những người bản địa nào không đi làm phu đào mỏ. Và các cuộc nổi dậy nổ ra trên khắp cả nước.

  Chập tối, David lên tiếng: “Đã đến lúc chúng ta phải về rồi Kate, đường khá xa đấy”.

  “Chưa đâu” – Kate quay sang bác Banda và nói tiếp – “Bác kể cho cháu nghe về những con cá mập đi….”

  Từ lần đó trở đi, hễ khi nào David có mặt trong thành phố là Kate đòi anh phải đưa cô đến thăm Banda và gia đình ông.

  Lời cam đoan của David, rằng các tật xấu của Kate sẽ biến mất đi theo thời gian, vẫn chưa có biểu hiện gì trở thành hiện thực. Mỗi ngày qua đi, cô bé càng trở nên bướng bỉnh. Cô thường từ chối tham gia vào các hoạt động chung với các bạn gái cùng trang lứa. Cô nằng nặc đòi David đưa tới các mỏ khai thác của công ty, và anh đem cô đi săn, đi câu, đi cắm trại. Kate rất thích. Một hôm, khi đi câu cá trên song Vaal, Kate tỏ ra hân hoan khi giật được một con cá hồi còn to hơn cả con mà David câu được. Anh nói: “Đáng nhẽ ra em phải là con trai mới đúng”.

  Cô quay sang phía anh, tỏ vẻ hờn dỗi: “Đừng có ngốc vậy, David. Nếu vậy thì em làm sao có thể lấy anh được”.

  David cười phá lên.

  “Chúng mình sẽ cưới nhau, anh biết đấy…”

  “Anh e là không như vậy đâu. Anh lớn hơn em hai mươi mốt tuổi, đáng bậc cha chú của em đấy. Em sẽ gặp một cậu nào đó, một chàng trai….”

  “Em không muốn một chàng trai, em muốn có anh cơ” – Kate nói vẻ tinh ranh.

  “Nếu em thực sự nghiêm túc, anh sẽ nói cho em biết điều bí mật trong trái tim của một người đàn ông” – David nói.

  “Anh nói đi” – Kate tỏ vẻ sốt ruột.

  “Vì cái dạ dày của anh ta. Háy làm thịt con cá hồi kia đi và an hem mình cùng thưởng thức bữa trưa”.

  Trong đầu Kate, cô không có một sự nghi ngờ nào về việc cô sẽ cưới David Blackweel. Anh là người đàn ông duy nhất với cô trên thế gian này”.


  Mỗi tuần một lần, Margaret mời David tới dự ăn tối ở ngôi nhà lớn. Đã thành thói quen, Kate thích ăn tối trong gian bếp với đám người hầu, nơi đó cô chẳng phải để ý nhiều tới các nghi lễ. Nhưng vào buổi tối thứ Sáu, Kate luôn có mặt ở phòng ăn lơn: David sẽ tới. Thường thì David đi một mình, nhưng đôi khi anh cũng đi cùng một người phụ nữ. Và Kate sẽ ghét cô tan gay tức khắc.

  Kate sẽ tìm cách gặp riêng David và nói với một vẻ mặt ngây thơ, kiểu như: “Em chưa bao giờ thấy một người nào để kiểu tóc như vậy”; “Chị ta có cách ăn mặc kì dị, có đúng vậy không?” hoặc “Có phải chị ta đã từng một thời đầu quân ở chỗ Madam Agnes không?”


  Khi Kate mười bốn tuổi, một bữa bà hiệu trưởng mời Margaret tới gặp. “Thưa bà McGregor, tôi điều hành một trường học có uy tín. Tôi e là Kate nhà bà có gây ảnh hưởng xấu cho nhà trường”.

  “Nó đã gây ra vụ gì vậy?” – Margaret thở dài ngao ngán.

  “Nó đã dạy những đứa trẻ khác những thứ ngôn ngữ mà lũ trẻ và ngay cả bản thân tôi chưa bao giờ nghe thấy” – gương mặt bà hiệu trưởng đanh lại – “Tôi không thể hiểu được là con bé học những từ đó ở đâu ra nữa”.

  Margaret thì biết, Kate đã học từ đám bạn bè đường phố của nó. “Được rồi, đến lúc phải chấm dứt mọi chuyện này thôi” – Margaret thầm quả quyết.

  Bà hiệu trưởng nói tiếp: “Tôi mong là bà sẽ dạy bảo cháu, chúng tôi sẽ cho cháu một cơ hội nữa nhưng…”

  “Không. Tôi đã có một ý kiến tốt hơn, tôi sẽ gửi Kate đi học xa”.

  Khi Margaret nói ý định này với David, anh cười và nói: “Cô ấy sẽ không thích chuyện này đâu”.

  “Tôi không thể làm gì hơn nữa, bà hiệu trưởng phàn nàn về thứ ngôn ngữ mà Kate sử dụng. Nó học thứ ngôn từ đó ở những người đàn ông đi đào vàng, kim cương mà nó hay bám theo. Con gái tôi bắt đầu nói năng giống như họ, ăn mặc giống họ, vẻ ngoài giống họ và cả cái mùi cũng giống họ nữa. David, nói thật với anh là tôi chẳng hiểu nó gì cả, tôi không biết tại sao nó lại cư xử như vậy, nó xinh xăn, thông minh, nó….”

  “Có thể là con nhỏ đã quá thông minh’.

  “Được, quá thong minh hay không không cần biết, nó sẽ phải đi học xa”.

  Margaret thong báo quyết định của mình cho Kate khi cô vừa trở về nhà vào buổi chiều hôm đó.

  Kate khùng lên: “Mẹ đang định vứt bỏ con đi”.

  “Tất nhiên là không phải thế, con gái yêu quý. Mẹ chỉ nghĩ là con nên….”

  “Con nên rời khỏi đây chứ gì? Tất cả bạn bè con đều ở đây, mẹ định tách con ra khỏi bạn bè chứ có gì đâu”.

  “Nếu như con nói tới đám hạ lưu ấy, con….”

  “Họ không phải là hạ lưu, họ cũng tốt bụng như bất kì ai khác”.

  “Kate, mẹ không tranh luận với con nữa. Con sẽ học ở một trường nội trú dành cho nữ. Có cậy thôi”.

  “Con sẽ tự vẫn” – Kate nói quả quyết.

  “Được thôi con gái. Có một con dao ở trên bàn đó, và nếu nhìn quanh thì mẹ chắc rằng con sẽ tìm thấy nhiều thứ khác có độc tố để làm việc đó đấy”.

  Kate òa khóc: “Xin mẹ đừng làm vậy với con”.

  Margaret ôm lấy con gái. “Điều đó chỉ tốt cho con thôi, Kate ạ. Con sắp trở thành một thiếu nữ rồi còn gì, sắp đến tuổi lấy chồng đấy. Không có một người đàn ông nào lại đi cưới một cô gái nói năng, ăn mặc và cư xử như con cả”.

  “Không đúng vậy đâu” – Kate vừa nói vừa khóc sụt sùi – “David không để ý những điều đó mà”.

  “David thì liên quan gì tới chuyện này cơ chứ?”

  “Con sẽ lấy anh ấy”.

  Margaret thở dài: “Mẹ đã bảo bà Talley sắp sẵn đồ đạc cho con rồi”.

  Ở Anh, có một số trường nữ sinh nội trú khá danh tiếng. Margaret quyết định để Kate học ở trường Cheltenham ở Gloucesterhire, đó là trường phù hợp với Kate nhất. Ngôi trường nổi tiếng về kỉ luật thép, tọa lạc trong một khu  đất lớn có tường rào bao quanh. Và theo như hiến chương của nó, ngôi trường này được lập ra để dành cho con gái của các gia đình quý tộc, các hiệp sĩ. David có quan hệ làm ăn với chồng bà hiệu trưởng – bà Keaton. Và việc thu xếp cho Kate học ở trường này chẳng mấy chút khó khăn.

  Kai nghe thong baos, Kate lại nổi khùng lên. “Con đã nghe về cái trường đó rồi, thật kinh khủng. con sẽ trở về nhà với hình ảnh như một con búp bê nhồi theo kiểu Anh, mẹ thích thú điều đó sao?”

  “Điều mẹ muốn là con học được chút gì đó về văn hóa ứng xử” – Margaret đáp.

  “Can không cần cái thứ phong cách đó, con có cái đầu”.

  “Đó không phải là thứ đầu tiên mà một người đàn ông tìm kiếm ở một người phụ nữ và con sắp trở thành thiếu nữ rồi” – Margaret nói dứt khoát.

  “Con không muốn trở thành thiếu nữ gì hết. Quỉ thật! Mẹ không để con tự xoay sở được hay sao?”

  Không khí căng thẳng kéo dài cả buổi sáng, cho đến khi Kate lên đường. Do David cũng có việc tới Luân Đôn nên Margaret đề nghị: “Cậu có thể đưa Kate đến nhập trường an toàn được không? Chúa mới biết con bé sẽ ra sao nếu nó đi một mình”.

  “Tôi rất sẵn lòng” – David đáp.

  “Cả anh nữa, anh cũng tệ như mẹ thôi. Anh sốt ruột đến mức chỉ muốn tống khứ em khỏi nơi đây thôi”.

  David mỉm vười: “Em sai rồi, anh có thể đợi”.

  Từ Klipdrift, hai người đi bằng xe ray riêng tới Cape Town và từ đây họ lên tàu thủy để tới cảng Southamton. Chuyến đi kéo dài bốn ngày, lòng kiêu hãnh đã ngăn cản Kate thú nhận rằng cô đang trong tâm trạng rất vui sướng khi được đi cùng với David. “Cứ như là một chuyến đi của tuần trăng mật ấy, chỉ trừ việc là hai ta chưa cưới nhau mà thôi, chưa cưới chứ không phải là không cưới”.

  Trên tàu, David dành phần lớn thời gian làm việc trong phòng riêng, Kate ngồi trên ghế đi-văng, lặng lẽ nhìn và hài long vì được ở bên anh.

  Một lần, cô hỏi anh: “Anh không chán với việc cứ chúi đầu mãi vào những con số ấy à, David?”

  Anh đặt bút xuống và nhìn cô: “Chúng không đơn thuần chỉ là những con số, Kate ạ. Chúng là những câu chuyện đấy”.

  “Loại chuyện gì vậy?”

  “Nếu như em biết cách cảm nhận, chúng sẽ là chuyện về những công ty mà chúng ta đang mua, đang bán, về những người đang làm việc cho chúng ta. Hàng ngìn người rải rác trên thế giới này đang sống nhờ vào công ty mà cha em lập ra đấy”.

  “Em có giống cha chút gì không?”

  “Có, ở góc độ nào đó. Ông là một người đàn ông bướng bỉnh và độc lập”.

  “Thế thì em là một người phụ nữ bướng bỉnh và độc lập à?”

  “Em là một cô bé hư hỏng, người đàn ông nào mà lấy em sẽ phải chịu một cuộc sống nơi địa ngục trần gian”.

  Kate mỉm cười: “Tội nghiệp David rồi”.

  Đêm cuối cùng, khi ở trong phòng ăn, David hỏi: “Sao em lại hư vậy, Kate?”

  “Vậy sao?”

  “Em biết rõ điều đó, em đã làm cho bà mẹ tội nghiệp của em phát điên lên”.

  Kate đặt tay cô lên tay anh: “Thế em có làm anh phát điên lên không?”

  David đỏ bừng mặt: “Thôi ngay đi, anh thật không hiểu nổi em”.

  “Có, anh hiểu em đấy”.

  “Sao em không thể giống những bạn gái cùng trang lứa nhỉ?”

  “Em thà chết còn hơn, em chẳng muốn giống ai cả”.

  “Có Chúa mới hiểu em tôi”.

  “Anh sẽ không lấy bất cứ một cô gái nào khác cho đến khi em đủ lớn để làm vợ anh chứ, David? Em sẽ cố lớn thật nhanh, em xin hứa. Xin đừng có ai đó gặp anh và yêu anh”.

  David cảm động trước lòng nhiệt thành của cô, anh nắm chặt tay cô và nói: “Kate, khi nào anh cưới vợ, anh muốn có một đứa con gái giống hệt em”.

  Kate nhổm dậy, hét toáng lên vang khắp cả phòng ăn: ‘Đồ chết tiệt. Quỉ tha ma bắt anh đi, David Blackweel”. Và cô hầm hầm lao ra khỏi phòng trong lúc mọi người đang tò mò nhìn theo.

  Họ đã có ba ngày ở bên nhau tại Luân Đôn và Kate thích thú từng giây từng phút.

  “Anh có một niềm vui cho em đây, anh kiếm được hai vé đi xem vở Cây bắp cải và Bộ tóc giả” – David nói với cô.

  “Cám ơn anh, nhưng em muốn tới xem ở nhà hát Gaiety cơ”.

  “Không thể được. Đó là một….nhà hát kịch. Đó đâu phải là chỗ dành cho em”.

  “Em phải xem xong ở đó rồi mới biết được là nó có hợp với em hay không chứ, đúng không nào?” – cô vặn lại vẻ ương ngạnh.

  Và họ tới nhà hát Gaiety.


  Kate yêu thích phong cảnh ở Luân Đôn. Thật là một thành phố náo nhiệt, đông vui với đủ cả xe ô tô, xe ngựa, các tiểu thư ăn vận lộng lẫy, những quý ông ăn mặc sang trọng. Cô và David đã ăn tối ở tiệm Ritz và ăn khuya ở nhà hàng Savoy. Và khi đến lúc phải rời khỏi, Katr thầm nghĩ: “Chúng ta sẽ trở lại nơi này, David và mình sẽ còn trở lại đây nữa”.

  Khi tới Cheltenham, hai người được đưa vào phòng của bà Keaton.

  “Tôi muốn cảm ơn bà vì đã nhận Kate vào học” – David lên tiếng.

  “Tôi tin là chúng tôi vui mừng được nhận cô bé. Vả lại, đó cũng là niềm vui đối với tôi khi được giúp đỡ một người là bạn của chồng mình”.

  Đến đây thì Kate biết là mình đã bị đánh lừa. Chính David là người đã muốn gửi cô đi xa và thu xếp để cô tới học ở ngôi trường này.

  Cô tức giận, đau khổ tới mức không them chào từ biệt anh nữa.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:15:20 | Chỉ xem của tác giả
MƯỜI BA





Cheltenham là một trường nội trú với chế độ thật nghẹt thở. Mọi việc đều được thực hiện rõ theo điều lệ và nội qui. Các nữ sinh phải mặc dồng phục giống nhau, kể cả quần lót. Thời gian học thường kéo dài mười mấy tiếng mõi ngày, mỗi giờ học đều có nội dung được xếp kín mít. Bà Keaton quản lý đám nữ sinh và nhân viên của mình bằng một chiếc roi sắt. Các nữ sinh được học về thuật giao tiếp, kỉ luật, các lễ nghi và phép lịch sự để sau này các cô có sức hút mạnh với các ông chồng.

  Kate viết thư cho mẹ: “Nó là một nhà tù thật tồi tệ, lũ con gái thật kinh khủng. Những gì mà chúng nói với nhau chỉ là về quần áo hoặc là lũ con trai chết tiệt. Các giáo viên ở đây là những con quái vật, họ sẽ không bao giờ có thể giữ con ở đây đâu. Con sẽ bỏ trốn”.

  Kate đã cố gắng ba lần bỏ trốn, nhưng lần nào cũng bị bắt. Tuy nhiên, cô chẳng tỏ vẻ gì là ăn năn hối lỗi cả.

  Trong một buổi họp thường kì của Hôi đồng giáo viên, khi nhắc tới tên Kate, một cô đã phát biểu: “Con bé này thật là bất trị, tôi nghĩ chúng ta phải trả nó về xứ Nam Phi thôi”.

  Bà Keaton đáp lại: “Tôi không đồng ý. Chúng ta hãy tạm coi đây là một trở ngại, nếu chúng ta thành công trong việc thuần phục Kate thì chúng ta có thể thành công với bất kì một con bé nào khác”.

  Và Kate lại tiếp tục theo học.

  Các giáo viên rất ngạc nhiên khi thấy Kate bỗng chốc tỏ ra quan tâm tới khu trại của trường. Khu trại này có vườn rau, gà, bò, lợn và ngựa. Bất cứ khi nào có thể, Kate đều có mặt ở đó và khi biết tin này thie bà Keaton rất hài lòng.

  “Mọi người thấy đấy, đơn giản là chúng ta chỉ cần có một chút kiên nhẫn. Rốt cuộc thì Kate cũng đã tìm được niềm vui trong cuộc sống. Một mai đây thôi, con bé sẽ lấy một ông chủ nông trang và sẽ đỡ đần được ông ta nhiều thứ” – Bà Keaton nói với các giáo viên dưới quyền.

  Sáng hôm sau, Oscan Denker, người phụ trách trông nom khu trại tới gặp bà hiệu trưởng. “Một trong số các em nữ sinh ở đây, chính xác là McGregor. Tôi mong là bà sẽ không để con bé tới chỗ tôi nữa” – Ông ta nói.

  “Anh nói gì vậy? Tôi được biết là con bé rất thích khu vườn tược mà” – Bà gặng hỏi.

  “Đúng vậy, nhưng có điều là con bé không thích chuyện vườn tược, nó chỉ thích xem mấy con vật giao phối với nhau mà thôi. Xin lỗi bà bỏ quá cho, nếu tôi nói hơi thô lỗ”.

  “Vậy sao?”

  “Đúng là như vậy, con bé quanh quẩn suốt ngày chỉ để xem mấy con vật làm cái việc đó thôi”.

  “Khồn kiếp” – Bà Keaton kêu lên.

  Kate vẫn chưa chịu tha thứ cho David vì chuyện đã sắp xếp gửi cô tới đây. Nhưng cô nhớ anh khủng khiếp. “Số phận mình chắc là vậy rồi, đem lòng yêu một người đàn ông mà mình cảm thấy căm ghét” – cô buồn rầu nghĩ. Cô đếm từng ngày phải xa anh, giống như một người tù đếm thời gian để mong tới ngày được tự do. Kate lo sợ là anh sẽ làm một việc điên khùng nào đó, ví dụ như cưới một cô ả nào khác trong lúc cô bị giam cầm ở ngôi trường tồi tệ này. Kate tự nhủ: “Nếu anh ta mà làm vậy, mình sẽ giết chết cả hai người. Không, chỉ giết cô ta thôi. Người ta sẽ bắt mình và treo cổ lên, và khi mình ở trên giá treo cổ, anh ta sẽ nhận ra là đã phải lòng mình. Nhưng đã quá muộn, anh sẽ cầu xin tha thứ. Được, anh yêu, em sẽ tha thứ cho anh, David. Anh thật là ngốc khi không nhận ra mình có được một tình yêu trong tay. Anh để nó bay đi mất, như một con chim nhỏ vậy. Bây giờ con chim nhỏ ấy sắp bị treo cổ rồi. Vĩnh biệt anh, David. Nhưng đến phút chót, cô lại thấy mình được khoan hồng và David sẽ ôm lấy cô, đem cô tới một vùng đất tươi đẹp, với đồ ăn ở đó ngon lành gấp tỉ lần thứ thức ăn ở cái trường Cheltenhan khốn nạn này”.


  Kate nhận được thư của David, thong báo là anh chuẩn bị tới Luân Đôn và sẽ tới thăm cô. Trí tưởng tượng của Kate lại được dịp bay bổng, cô tìm ra cả chục ẩn ý trong thong điệp của anh. “Vì sao anh ấy lại nói là tới Luân Đôn nhỉ? Tất nhiên là để được gần cô rồi. Sao anh ấy lại tới thăm mình nhỉ? Bởi vì sau cùng thì anh cũng hiểu anh yêu cô biết nhường nào và không thể chịu đựng hơn nữa việc cứ phải xa cách cô. Anh sẽ nhấc bổng cô lên và đem cô đi ra khỏi cái nơi chết tiệt này”. Cô đã không thể che dấu niềm vui sướng của mình. Đi xa hơn, sự tưởng tượng của cô còn tới mức hôm David tới, cô đã chạy chào từ biệt các bạn học của mình và nói: “Người yêu tớ đấy, anh đến đưa tớ đi khỏi đây….”

  Tất cả đám bạn gái nhìn cô với sự nghi ngờ, chỉ có một mình Georgina Christy là nói trắng ra: “Mày lại bốc phét rồi, Kate Gregor”.

  “Hãy chờ xem, anh ấy cao to và đẹp trai, anh ấy yêu tao đến phát điên”.

  Khi tới nơi, David tỏ ra lung túng trước việc nữ sinh trong trường dường như cứ nhìn anh chằm chằm. Chúng nhìn anh, thì thầm bàn tán rồi lại cười khúc khích. Khi gặp ánh mắt anh thì mặt chúng đỏ bừng.

  “Bọn bạn em nhìn anh cứ như thể chưa bao giờ nhìn thấy một người đàn ông vậy, em có nói gì về anh không vậy?” – David nói với Kate.

  “Tất nhiên là không, hơi đau mà em đi làm chuyện đó” – Kate đáp tỉnh queo.

  Họ cùng ăn trong phòng ăn lớn của nhà trường và David kể cho cô nghe tất cả những gì mới nhất đang diễn ra ở nhà. “Mẹ gửi lời hỏi thăm em đấy, bà đang mong em trở về nhà trong kì nghỉ hae này….”

  “Mẹc ó khỏe không anh?”

  “Khỏe. Bà làm việc rất hăng say, rất cần mẫ”.

  “Công việc của công ty vẫn chạy tốt chứ, anh David?”

  Anh ngạc nhiên trước sự quan tâm đầy bất ngờ này. “Công ty hoạt động rất tốt, nhưng sao em lại hỏi vậy?”

  “Bởi vì một ngày nào đó nó sẽ thuộc về em, em và anh cùng san sẻ điều hành” – cô nghĩ và nói tảng lờ - “Em chỉ hỏi vậy thôi”.

  Anh đẩy đĩa thức ăn cô chưa hề dùng chút gì. “Nhìn kìa, em không ăn à?”

  Kate chẳng muốn ăn tẹo nào, cô chờ đợi thời khắc David lên tiếng. “Đi thôi Kate, em bây giờ đã ra dáng cô gái rồi. Anh muốn có em, chúng mình sẽ làm đám cưới nhé”.

  Món tráng miệng được mang tới và dọn đi, rồi lại đến cả cà-phê nữa nhưng vẫn chưa thấy David cất lên những lời kì diệu kia.

  Anh nhìn đồng hồ trên tay và nói: “Ồ, anh phải đi thôi, kẻo lỡ tàu mất”. Tới lúc này, Kate mới nhận ra rằng anh không hề đến đây để đưa cô đi. Anh chàng khốn kiếp này sẽ để mình chết mòn mỏi ở đây thôi.

  David hoàn toàn hài lòng về cuộc viếng thăm này, Kate là một cô gái thong minh và lém lỉnh, tính khí thất thường của cô trước đây đã được kìm nén. David âu yếm vỗ nhẹ lên tay Kate và hỏi: “Anh có thể làm việc gì đó giúp em trước khi anh đi khỏi không, Kate?”

  Cô nhìn thẳng vào mặt anh và đáp: “Có đấy David, anh có thể giúp em một việc lớn. Háy đi khỏi cuộc đời khốn khổ khốn nạn của tôi”. Và cô bước ra khỏi phòng, đầu ngẩng cao đầy kiêu hãnh, để mặc anh ngồi lại, há hốc mồm vì kinh ngạc và chẳng hiểu gì cả.


  Margaret nhớ Kate nhiều, con bé thật không được ngăn nắp, lại ngỗ nghịch nữa nhưng Margaret thấy rõ rang rằng đó là người duy nhất còn sống mà bà yêu quý. “Rồi con bé sẽ trở thành một phụ nữ vĩ đại” – Margaret tự hào nghĩ thầm – “Nhưng mình muốn nó có phong thái của một người phụ nữ quí tộc”.

  Kì nghỉ hè, Kate trở về nhà. Margaret hỏi: “Ở trường có cảm giác như thế nào con?”

  “Con ghét ở trường đó lắm, cứ như là luôn bị bao bọc bởi cả trăm bà bảo mẫu vậy”.

  Margaret ngắm con gái: “Bạn bè có cảm giác như con không, Kate?”

  “Chúng nó thì biết gì” – cô nói giọng khinh bỉ - “Mẹ phải gặp bọn con gái ở trường đấy thì mới thấy, chúng nó được che chở cả đời, chúng chẳng biết tí gì về cuộc sống cả”.

  “Ôi, con gái. Điều đó hẳn là khủng khiếp với con lắm nhỉ”

  “Xin mẹ đừng cười con, chúng nó chưa bao giờ tới Nam Phi cả. Những con vật duy nhất mà chúng nhìn thấy là ở các vườn thú, không đứa nào từng nhìn thấy mỏ kim cương hay mỏ vàng nào hết”.

  “Thật là thiệt thòi”.

  “Đúng vậy, nếu con được đào tạo giống kiểu bọn này thì chắc mẹ sẽ buồn phiền đây” – Kate nói.

  “Con có nghĩ là con sẽ trở nên giống bọn họ không?”

  “Tất nhiên là không rồi, mẹ không định đùa con đấy chứ?” – Kate mỉm cười tinh quái.


  Về nhà mới được vài tiếng, Kate đã lao ra sân và chơi bong đá với con cái của đám người hầu. Qua cửa sổ, Margaret nhìn con và thầm nghĩ: “Sẽ là phung phí tiền bạc cho việc nuôi nó ăn học, con bé sẽ chẳng bao giờ thay đổi”.

  Trong bữa ăn tối hôm đó, Kate hỏi mẹ vẻ thản nhiên: “Anh David có ở trong thị trấn không ạ?”

  “Cậu ta đang ở Austalia, mẹ nghĩ là mai cậu ấy sẽ quay về”.

  “Anh ấy sẽ tới dự bữa ăn tối ngày thứ Sáu chứ ạ?”

  “Có thể. Con có cảm tình với David phải không?” – Margaret hỏi dò con gái.

  “Con nghĩ anh ấy cũng được” – Kate nhún vai.

  “Mẹ biết”, bà nói và chợt mỉm cười khi chợt nhớ tới chuyện hồi trowcs, Kate cứ khăng khăng đòi lấy David.

  “Con không phải là không thích lấy anh ấy, ý con muốn nói là với tư cách một con người nói chung. Con chỉ không thể chịu được anh ấy dưới góc độ là một người đàn ông”.

  Khi David đến dự bữa cơm tối thứ Sáu, Kate lao ra cửa chào đón anh. Cô ôm chặt anh và thì thầm vào tai anh: “Em tha thứ cho anh rồi. Ôi, em nhớ anh nhiều quá đi mất, David. Anh có nhớ em không?”

  David buột miệng: “Có”. Và rồi anh ngạc nhiên nghĩ thầm: “Lạy Chúa! Mình đã nhớ cô bé này thực sự”. Anh chưa bao giờ thấy một đứa trẻ nào như Kate. Anh đã chứng kiến cô lớn lên, và trong mỡi một giai đoạn đó, anh lại khám phá ra một điều mới lạ nào đó ở cô. Cô đã cập ke tuổi mười sáu, người một đẫy đà ra. Mái tóc đên, suôn dài mềm mại phủ lên đôi bờ vai, dáng vẻ đang tuổi dậy thì và ở cô đã tạo ra vẻ quyến rũ về mặt thể xác trong con người anh, một cảm giác mà anh chưa từng thấy trước đó. Cô là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh và có ý chí mạnh mẽ. “Cô ấy sẽ là một người không mấy dễ chịu đối với một số người đàn ông nào đó” – David nghĩ thầm.

  Trong bữa ăn, David hỏi: “Việc học hành của em ở trường thế nào, Kate?”

  “Ồ, em rất thích thú. Thực sự là em đã học được rất nhiều. Các cô giáo thật là tuyệt vời, em có rất nhiều bạn” – Kate đáp vẻ hồ hởi.

  Margaret ngồi yên lặng, choàng váng trước câu trả lời của Kate.

  “David, anh sẽ đưa em đi thăm các khu mỏ với anh chứ?”

  “Đó là cách em muốn tiêu phí kì nghỉ hè của mình à?”

  “Vâng, cho em đi nhé”.

  Một chuyến đi xuống mỏ sẽ mất khoảng một ngày và điều đớ có nghĩa là cô sẽ được bên cạnh David trong toàn bộ quãng thời gian đó.

  “Nếu mẹ em bằng lòng, cho phép…”

  “Con xin mẹ, mẹ đồng ý nhé!”

  “Được thôi, con gái. Có David bên cạnh thì mẹ yên tâm con sẽ luôn được an toàn”.


  Mỏ kim cương của công ty Kruger-Brent gần Bloemfontrin là một đại công trường, với hàng trăm công nhân làm các công đoạn như đào, điều khiển máy móc, sàng lọc và phân loại.

  “Đây là một trong những mỏ đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho công ty” – David nói với Kate. Họ đang ở trong văn phòng của người quản lý mỏ. Có một tủ kính trưng bày những viên kim cương đủ màu sắc, kích cỡ được kê ở sát tường.

  “Mỗi một viên kim cương đều có đặc điểm riêng biệt. Những viên khởi thủy khai thác được ở vùng đất nằm dọc hai bờ sông Vaal là loại kim cương sa khoáng, sắc cạnh của chúng được bào mòn qua nhiều thế kỉ” – David giải thích.

  “Anh ấy đẹp trai hơn bao giờ hết, mình thích cặp lông mày của anh ấy” – Kate thầm nghĩ.

  “Những viên kim cương ở đây được thu thập từ nhiều mỏ khác nhau, nhưng chỉ nhìn qua cũng đủ để xác định được nguồn gốc mỏ. Em nhìn viên này xem, màu vàng ánh và kích thước của nó cho thấy được lấy từ mỏ Paardspan. Kim cương khai thác ở mỏ Debeers là loại có hình khối mười hai mặt và có bề mặt bóng” – David tiếp tục giới thiệu.

  “Anh ấy thật thông minh, biết hết mọi thứ”.

  “Em sẽ nhận thấy những viên kim cương ở đây hoàn toàn khác so với kim cương được lấy rừ mỏ ở Kimberley – những viên kim cương có hình dáng tám mặt”.

  “Không biết ông giám đốc điều hành kia có nghĩ David là người yêu của mình không nhỉ? Mình hy vọng là vậy” – Kate lấm nhẩm.

  “Màu sắc của kim cương giúp ta xác định được giá trị của chúng. Thang màu sắc được chia làm mười cung bậc, đầu bảng là màu xanh trắng, còn đứng cuối bảng là màu nâu sẫm”.

  “Mùi mồ hôi của anh ấy thật cuốn hút, nó…..nó rất đàn ông. Mình yêu bờ vai và cánh tay của anh ấy, mình ước….”

  “Kate!”

  “Dạ, vâng, anh David” – cô đáp vẻ lung túng.

  “Em có nghe anh nói không vậy?”

  “Tất nhiên là có chứ ạ, em nghe rõ từng lời ấy chứ” – Kate đáp ra vẻ thành thực.

  Họ ở dưới mỏ hai tiếng và sau đó cùng ăn trưa. Với Kate, đó là một ngày tuyệt vời.

  Khi Kate trở về vào buổi chiều, Margaret hỏi: “Con đi có vui không?”

  “Thật là tuyệt vời, khai thác mỏ là điều thật lôi cuốn”.

  Nửa tiếng sau, Margaret vô tình nhìn qua cửa sổ: Kate đang vật lộn với một thằng nhỏ là con người làm vườn.

  Năm học mới, những lá thư mà Kate gửi về đầy vẻ lạc quan. Cô được cử làm đội trưởng đội khúc côn cầu và là lớp trưởng của lớp. Trong thư cô viết: Ngôi trường thật ra không hẳn tồi tệ, có một vài bạn gái trong lớp cũng khá dễ mến. Kate xin phép mẹ được đưa hai cô bạn gái về nhà trong dịp nghỉ hè, và Margaret thực sự lấy làm vui mừng. Ngôi nhà sẽ sống lại với tiếng cười của bọn trẻ, bà nóng lòng ngóng đợi ngày trở về của con gái. Giờ đây, mọi ước mơ của bà đều dành cho Kate, vì Kate. “Mình và Jamie là quá khứ, Kate là tương lai. Đó sẽ là một tương lai thật tươi sáng và kì diệu”.

  Khi Kate trở về nhà, tất cả đám con trai ưu tú ở Klipdrift đều vây kín lấy cô, đưa ra đủ những lời hò hẹn, nhưng Kate vẫn chẳng để mắt tới bất kì một ai. David đang ở Mỹ và cô nóng lòng mong đợi anh trở về. Khi anh về nhà, cô ra cửa đón anh, trong một bộ váy áo trắng, vận một chiếc dây lưng bằng nhung đen làm nổi nét quyến rũ đối với anh. David ôm hôn Kate và ngạc nhiên trước sự đáp lại nồng nhiệt mà cô dành cho anh. David lùi lại và nhìn Kate, có một điều gì đó rất khác ở cô, trong ánh mắt cô hiện lên một điều gì đó mà anh không thể xác định được và điều này làm cho anh bứt rứt.

  Trong kì nghỉ hè lần này, David có gặp Kate vài lần khi cô bị đám thanh niên vây kín lấy. Anh thầm nghĩ, không biết trong số họ, chàng trai nào sẽ là người gặp may? Công việc lại buộc David quay trở lại Australia, và khi anh trở về Klipdrift thì Kate đã lên đường tới nước Anh.

  Trong năm học cuối cùng của Kate, David xuất hiện một cách đầy bất ngờ vào một buổi tối. Thông thường, những cuộc viếng thăm của anh đều được thông báo trước cho Kate bằng thư hoặc bằng điện thoại nhưng lần này anh đến mà không hề báo trước.

  “David, thật là một sự bất ngờ tuyệt diệu, lẽ ra anh phải báo trước chứ, em sẽ….” – Kate ôm chầm lấy anh và nói.

  “Kate, anh đến để đưa em về nhà”.

  Cô lùi lại và nhìn anh: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

  “Anh e là mẹ em đang ốm rất nặng”.

  Kate đứng lặng một hồi lâu: “Em sẽ thu xếp để về ngay đây”.

  Kate cảm thấy choáng váng trước thần sắc của mẹ. Cô mới xa nhà vài tháng vậy mà sức khỏe của bà đã suy sụp một cách khủng khiếp. Margaret giờ trông xanh xao, hốc hác, vẻ tinh nhanh trong đôi mắt đã biến mất. Căn bệnh ung thư dường như đã hủy hoại cả tinh thần và thể xác của bà.

  Kate ngồi bên giường, ôm lấy mẹ: “Ôi mẹ, con thực sự xin lỗi”.

  Margaret nắm chặt lấy bàn tay của con: “Mẹ sẵn sàng rồi, con gái yêu. Mẹ đã sẵn sàng ngay từ khi cha con mất”. Bà đưa mắt nhìn Kate, ngập ngừng nói tiếp: “Con có muốn nghe mẹ nói một điều có vẻ ngờ nghệch không? Mẹ đã luôn lo lắng về việc không có ai chăm sóc cho cha con chu đáo, giờ thì mẹ đã có thể làm việc này rồi”.


  Margaret được chôn cất ba ngày sau đó. Cái chết của bà đã làm Kate cảm thấy đau đớn, xót xa. Cô đã mất cha và anh trai, nhưng đó là những người mà cô chưa từng biết mặt, họ chỉ hiện lên trong những câu chuyện kể về quá khứ mà thôi. Cái chết của mẹ mới là điều thực sự đau đớn. Mới mười tám tuổi đầu, Kate bỗng nhiên trơ trọi trên cõi đời này, và ý nghĩ đó quả là đáng sợ.

  David nhin Kate đứng bên mộ mẹ, cô đang cố không để nước mắt trào ra. Nhưng khi họ trở về nhà thì Kate òa khóc nức nở: “Mẹ luôn tốt với em, David. Còn em thì lại chỉ là một đứa con hư…hỏng”.

  David cố an ủi cô: “Kate, em luôn là một cô con gái tuyệt vời đấy chứ”.

  “Em có là gì….đâu. Em chỉ gây ra những điều phiền….toái. Giá như em có thể bù…đắp được cho mẹ. Em không muốn mẹ chết. David, sao Chúa lại làm thế với mẹ em?”

  David đợi cho Kate khóc vơi đi những nỗi day dứt, khi cô đã bình tĩnh lại đôi chút, anh lên tiếng: “Anh biết là bây giờ thì không thể, nhưng một ngày nào đó nỗi đau sẽ qua đi. Và em biết mình phải sống với những gì chứ, Kate? Những kí ức đẹp đẽ, em hãy ghi nhớ tất cả những gì tốt đẹp mà hai mẹ con em đã có”.

  “Em cũng nghĩ vậy, chỉ có điều là lúc này em cảm thấy mất mát quá”.

  Sáng hôm sau, họ lại tiếp tục thảo luận về tương lai của Kate.

  “Em còn có gia đình ở Xcôt-len” – David nhắc cô.

  “Không!” – Kate trả lời dứt khoát. “Họ không phải là gia đình mà là những người họ hàng” - Giọng cô có chút tủi hờn – “Khi cha em muốn tới vùng đất này, họ đã cười nhạo cha. Không ai trong họ muốn giúp cha, trừ bà nội. Nhưng giờ bà đã mất. Không, em sẽ không có liên quan gì tới họ cả”.

  David ngồi lặng, nghĩ ngợi. “Em có định học nốt kì học này không?” – Kate chưa kịp trả lời thì anh đã nói luôn: “Anh nghĩ mẹ em sẽ muốn em làm như thế”.

  “Vậy thì em sẽ học nốt” – Kate nhìn xuống sàn nhà, mắt rơi lệ và nói: “Thật khốn khổ”.

  “Anh biết, anh biết mà” – David dịu dàng nói.

  Khi kết thúc khóa học, Kate đã được chọn là người đại diện lên đọc bài phát biểu cảm tưởng từ biệt giảng đường cho cả khóa, và David cũng có mặt trong buổi tốt nghiệp đó.


  Ngồi trong chiếc xe ray riêng chạy từ Johannesburg về Klipdrift, David nói: “Em biết đấy, một vài năm nữa thôi, tất cả sẽ thuộc về em. Chiếc xe ray này, các mỏ, cả công ty nữa đều thuộc về em. Em có thể bán công ty và thu về hàng triệu bảng” – anh nhìn cô và nói tiếp – “Hoặc là em có thể giữ, em có thể cân nhắc kĩ về điều này”.

  “Em đã nghĩ rồi” – Kate đáp

  Cô nhìn anh và mỉm cười: “Cha em là một tay cướp biển, anh David à, một tay cướp biển già tuyệt vời. Ước gì em đã được gặp cha. Em sẽ không bán công ty này, anh biết vì sao không? Bởi vì tay cướp biển đã lấy tên của hai tay lính gác lùng sục tìm giết hại ông để đặt tên cho công ty, đó là một việc làm quá đáng yêu. Đêm tới, thi thoảng khi không ngủ được, em lại nghĩ tới hình ảnh của cha và bác Banda bò trườn trong lớp sương mù của cơn lốc biển, và em như thể nghe thấy cả tiếng gọi nhau của hai tên lính gác, Kruger…Brent…”
- Cô đưa mắt nhìn David: “Không, em sẽ không bao giờ bán công ty của cha cả, chừng nào anh vẫn còn ở lại và điều hành nó”.

  David ngồi suy tư: “Anh sẽ ở lại cho tới khi em vẫn cần tới anh”.

  “Em quyết định sẽ đăng kí theo học ở một trường dạy kinh doanh”.

  “Một trường kinh doanh?” – Anh hỏi lại với vẻ ngạc nhiên.

  “Năm nay là năm 1910” – Kate có ý nhắc nhở David – “Họ mở những trường dạy kinh doanh ở Johannesburg và phụ nữ cũng được quyền học ở đó nữa”.

  “Nhưng….”

  “Ý anh muốn biết em định làm gì với số tài sản thừa kế của mình đúng không? Em muốn kiếm tiền” – Cô nhìn thẳng vào anh và nói.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:17:10 | Chỉ xem của tác giả
MƯỜI BỐN




Học kinh doanh với Kate là một cuộc chơi mới đầy hào hứng. Hồi học ở Cheltenham cô thấy thật là khủng khiếp và chán nản, nhưng ở đây thì hoàn toàn khác. Mỗi giờ học đều dạy cho cô một điều bổ ích, một điều gì đó sẽ giúp cô trong việc điều hành công ty. Chương trình giảng dạy gồm có các môn như kế toán, quản lý, thương mại quốc tế và quản trị doanh nghiệp. Mỗi tuần một lần, David đều gọi điện thoại cho Kate để hỏi thăm về chuyện học hành của cô.

  “Em rất thích, thực sự hứng thú, anh David ạ” – Kate nói.

  Một ngày nào đó, cô và David sẽ cùng làm việc bên nhau, cho tới tận khuya, chỉ còn có hai người. Kate thầm nghĩ, “và một đêm khuya nào đó, David sẽ quay sang nhìn cô và nói: Kate thân yêu, anh là một kẻ ngu ngốc quá đi mất. Em sẽ đồng ý làm vợ anh chứ?” và chỉ một giây sau đó cô đã ở trong vòng tay ôm ấp của anh.

  Nhưng điều này còn phải đợi. Lúc này, cô còn phải dồn sức cho việc học và Kate kiên quyết tập trung trở lại bài vở của mình.

  Sau khi kết thúc khóa học kéo dài trong hai năm, Kate trở lại Klipdrift vào đúng dịp sinh nhật lần thứ hai mươi của mình. David đón cô ở nhà ga. Một cách vồn vã, Kate đưa tay ra ôm choàng lấy anh “Ôi, David. Em thật sung sướng khi gặp lại anh”.

  Anh thoát ra và nói với vẻ lúng túng: “Rất vui được gặp lại em, Kate”. Trong cử chỉ của anh có điều gì đó cứng nhắc, không thoải mái.

  “Có chuyện gì vậy?”

  “Không, chẳng có gì. Chỉ có điều là……..các cô gái trẻ thì không được ôm chầm lấy một người đàn ông ở nơi công cộng”.

  “Em hiểu, em hứa sẽ không làm điều đó với anh nữa”.


  Trên đường về nhà, David lén quan sát Kate. Cô giờ đã là một cô gái xinh đẹp, quyến rũ, ngây thơ và trong trắng. Và David quyết định rằng sẽ không bao giờ lợi dụng điều đó.

  Sáng thứ Hai, Kate tới văn phòng mới của cô ở công ty. Mọi thứ với cô đột nhiên như là trong một thế giới xa lạ và kì cục, với những phong tục và ngôn ngữ riêng của nó. Có cả một chuỗi các bộ phận, các công ty con, các đại lý khu vực, các chi nhánh trong và ngoài nước. Sản phẩm mà công ty sản xuất hoặc sở hữu dường như dài vô tận: Các nhà máy cán thép, các trại nuôi bò, một tuyến đường sắt, một tuyến đường biển và tất nhiên là phải kể đến nền tảng của toàn bộ gia sản trong tương lai – đó là kim cương, vàng, bạch kim và ma-giê, được khai thác suốt ngày đêm và đổ vào các kho két của công ty.

  Quyền lực.

  Dường như có quá nhiều thứ để Kate thây tóm trong tay. Cô ngồi trong văn phòng của David, lắng nghe anh đưa ra những quyết định có ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng ngàn người trên Trái Đất. Các Tổng giám đốc bộ phận khác nhau đưa ra các vấn đề kiến nghị, nhưng quyết định cuối cùng thuộc về David, và ý của anh thường ngược lại hoàn toàn.

  “Sao anh lại làm vậy? Họ không hiểu và nắm rõ công việc của họ à?”

  “Tất nhiên là họ biết, nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó” – David giải thích – “Mỗi giám đốc đều nhìn bộ phận của anh ta là trung tâm của thế giới, điều này cũng đúng nhưng phải có người có được tầm nhìn toàn diện và quyết định đâu là điều tốt nhất cho công ty. Đi nào, chúng ta sẽ có bữa trưa với một người mà anh muốn giới thiệu với em”.

  David đưa Kate vào phòng ăn riêng, một căn phòng rộng nối thông với văn phòng của Kate. Một người đàn ông trẻ, mảnh khảnh, có khuôn mặt xương xương và có cặp mắt màu nâu đang đợi hai người. “Giới thiệu với em, đây là Brad Rogers. Brad, ra mắt sếp mới của mình đi, Kate McGregor” – David nói.

  Brad Rogers đưa tay bắt lịch sự: “Rất vui được gặp cô, thưa cô McGregor”.

  David nói tiếp: “Brad là vũ khí bí mật của ta, sự hiểu biết của anh về Kruger-Brent Ltd cũng chỉ như Brad mà thôi. Nếu có lúc anh phải ra đi thì em cũng sẽ không phải lo ngại nhiều, Brad sẽ ở lại đây”.

  “Nếu có lúc anh phải ra đi” – chỉ nghĩ tới câu này thôi cũng làm cho Kate có cảm giác một nỗi sợ hãi đang lan nhanh trong con người cô. “Tất nhiên là David sẽ không bao giờ từ bỏ công ty này”. Kate không còn nghĩ tới chuyện gì khác trong cả bữa ăn và khi kết thúc, Kate cũng không thể biết mình đã ăn món gì.


  Sau bữa trưa, họ thảo luận về tình hình Nam Phi.

  “Chúng ta sắp gặp phải một số vấn đề đấy, Chính phủ vừa ban hành một loại thuế thân” – David lên tiếng.

  “Thuế thân chính xác là như thế nào?” – Kate hỏi lại.

  “Nghĩa là người da đen, da màu và da đỏ phải nộp hai bảng trên mỗi đầu người của gia đình họ, số tiền đó lớn hơn cả một tháng lương mà họ nhận được”.

  Kate nghĩ về bác Banda và hiểu ngay vấn đề. Câu chuyện chuyển sang chủ đề khác.


  Kate rất hào hứng với cuộc sống mới của mình, mỗi quyết định đều có liên quan tới việc được hoặc mất hàng triệu bảng. Kinh doanh là một cuộc đấu trí, đòi hỏi sự táo bạo và một linh cảm nghề nghiệp, biết dừng lại và dấn tới đúng lúc, đúng chừng mực.

  “Kinh doanh là một trò chơi” – David nói với Kate – “Người ta chơi vì muốn giành lấy phần thắng về mình và trong cuộc chơi này, em phải đối mặt với những kẻ rất lọc lõi. Nếu muốn thắng, em phải học để trở thành một chuyên gia bậc thầy trong trò chơi ấy”.

  Và đó chính là quyết tâm của Kate: Học.


  Kate sống một mình trong ngôi nhà lớn, có một số người giúp việc. Cô và David vẫn cùng ăn bữa tối vào thứ Sáu như trước, nhưng khi Kate mời anh tới vào bất kì một buổi tối nào khác thì anh cũng đều kiếm cớ để từ chối. Trong quá trình làm việc ở công ty, hai người luôn ở bên nhau, nhưng ngay cả khi đó thì dường như David vẫn cố dựng lên một hàng rào chia cắt hai người, một hàng rào mà Kate không thể khoan thủng được.

  Vào sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của Kate, mọi cổ phần trong công ty Kruger-Brent đều thuộc quyền sở hưi\ũ của cô. Giờ cô chính thức nắm quyền điều hành công ty. “An hem mình ăn tối cùng nhau để chúc mừng ngày hôm nay nhé” – cô đề nghị với David.

  “Anh xin lỗi Kate, anh còn cả đống việc cần phải hoàn thành”.

  Tối đó, Kate ăn một mình. Cô tự hỏi tại sao lại như vậy, tại cô hay là tại David? Anh ta chắc chắn là điếc, mù, câm mới không nhận ra tình cảm mà cô đã dành cho anh từ trước tới nay, cô sẽ phải làm một điều gì đó.

  Công ty lúc này đang thương lượng về việc mở một tuyến vận tải biển ở Mỹ.

  “Anh nghĩ em và Brad nên tới New York và hoàn tất vụ làm ăn này đi, em sẽ có được những kinh nghiệm tốt” – David gợi ý.

  Kate nghĩ là David sẽ đi cùng cô, thế nhưng lòng kiêu ngạo đã không cho phép cô nói ra điều đó. Cô sẽ phải giải quyết vụ làm ăn này mà không có anh, hơn nữa, cô chưa bao giờ tới nước Mỹ, vậy là cô mong chờ chuyến đi này.

  Việc kí kết hợp đồng diễn ra êm xuôi, David khuyên Kate: “Trong khi ở bên đó, em nên đi thăm một số nơi để hiểu thêm về nước Mỹ”.

  Kate và Brad tới thăm các chi nhánh của công ty ở Detroit, Chicago, Pittsburg và New York. Kate hẳn đã rất kinh ngạc trước tầm cỡ và tiềm lực của nước Mỹ. Điểm nổi bật nhất khi ở Mỹ là chuyến tới thăm cảng Nước Tối thuộc tiểu bang Maine, trên một hòn đảo nhỏ tuyệt đẹp có tên là Islesboro nằm trong vịnh Penobscot. Cô được mời tới ăn tối ở nhà của Charles Dana Gibson, một nghệ sĩ. Bữa ăn tối đó có tổng số mười hai người và tất cả những người kia đều có nhà riêng trên đảo.

  “Vùng này có một lịch sử rất thú vị” – Gibson nói với Kate – “Nhiều năm trước đây, để tới được vùng này, người ta phải đi bằng những con tàu nhỏ từ Boston, khi tàu cập bến, người ta sẽ dùng xe ngựa để về nhà”.

  “Có bao nhiêu người sống trên hòn đảo này?” – Kate hỏi.

  “Khoảng năm mươi gia đình, lúc phà cập bến, cô có thấy cây đèn biển không?”

  “Có”

  “Một người da đen và con chó của ông ta trông nom nó, khi một chiếc thuyền đi qua, con chó sẽ chạy ra và rung chuông”.

  Kate cười to: “Ông lại đùa rồi”.

  “Không, thưa cô. Điều buồn cười là ở chỗ con chó hoàn toàn bị điếc, nó áp tai lên cái chuông xem có sự rung động nào không”.

  Cô mỉm cười: “Dường như các ông có một hòn đảo rất kì lạ đấy”.

  “Nếu cô ở lại qua đêm và trở dậy ngắm phong cảnh vào buổi sáng, tôi nghĩ sẽ rất là thú vị”.

  Bị kích thích bởi trí tò mò, Kate đồng ý: “Tại sao lại không nhỉ?”

  Cô ngủ đêm tại khách sạn duy nhất có trên đảo – khách sạn Islesboro. Sáng ra, cô thuê một con ngựa, một cỗ xe và một người da đen điều khiển xe. Họ rời khu trung tâm và ít phút sau đã tới một vạt rừng xinh đẹp. Kate nhận ra rằng mọi con đường ở đây đều không có tên, cô quay sang hỏi người đánh xe: “Không ai bị lạc đường khi không có biển chỉ dẫn à?”

  “Không. Người dân trên đảo thông thuộc mọi ngõ ngách”.

  Kate nhìn anh ta một lúc và đáp: “Tôi hiểu”.

  Chiếc xe chạy qua một nghĩa địa khi tiến về phía đầu thấp hơn của hon fđảo.

  “Xin anh cho xe dưng lại” – Kate yêu cầu.

  Cô bước ra khỏi xe và đi lại gần nghĩa địa, đi qua và lặng nhìn các tấm bia đá. Kate nán lại hồi lâu để cảm nhận không khí tĩnh mịch và thanh bình. Sau đó cô lên xe và họ lại đi tiếp.

  “Mùa đông ở đây thế nào?” – Kate lại hỏi.

  “Thời tiết lạnh giá, vịnh thường đóng băng và họ có thể đi từ đất liền ra đây bằng xe trượt tuyết”.

  Chiếc xe chạy tới một đoạn đường vòng, và ở đó, ngay kề bờ biển chếch hướng bên phải là một ngôi nhà hai tầng, trắng toát, trông rất đẹp, bao quanh ngôi nhà là những khóm hoa hồng dại và những cây phi yến. Những tấm rèm trên tám chiếc cửa sổ phía trước đều được sơn màu xanh, gần bên cửa ra vào là sáu chiếc ghế dựa được sơn màu trắng, sáu chiếc ghế đôn làm từ đá hoa cương. Ngôi nhà trông cứ như chứa đựng một câu chuyện cổ tích nào đó.

  “Ai là chủ của ngôi nhà này?”

  “Nó thuộc quyền sở hữu của dòng họ Dreben, bà Dreben đã chết cách đây vài tháng rồi”.

  “Hiện nay ai đang ở đó?”

  “Theo tôi biết thì không ai cả”.

  “Liệu người ta có ý định bán lại không?”

Người dẫn đường nhìn Kate và nói: “Nếu có bán thì chỉ có thể là một người con trai của một gia đình nào đó ở đây mua thôi, người dân trên đảo không thích sự hiện diện của người lạ”.

  Đó là điều lẽ ra anh ta không nên nói với Kate.

  Một giờ sau, cô đã có buổi nói chuyện với vị luật sư đại diện sở hữu cho căn nhà. Kate đi thẳng vào vấn đề: “Đó là chuyện về ngôi nhà của dòng họ Dreben, nó có phải để bán không vậy?’

  “Ồ, có và không” – Luật sư trả lời.

  “Thế có nghĩa là sao?’

  “Nó được bán, nhưng có ít người muốn mua”.

  “Ý ông ta chắc là ám chỉ những gia đình sống lâu đời trên đảo” – Kate thầm nghĩ, và cô hỏi tiếp – “Thế đã có air a giá chưa?”

  “Chưa, nhưng………”

  “Tôi sẽ trả giá ngay lập tức”.

  Ông luật sư đáp ngập ngừng, tỏ vẻ không muốn bán: “Đó là một ngôi nhà đắt tiền đấy”.

  “Ông đưa ra giá đi”.

  “Năm mươi ngàn đo-la”.

  “Chúng ta hãy đi xem ngôi nhà nhé”.

  Bên trong ngôi nhà thậm chí còn hấp dẫn hơn những gì mà Kate mường tượng. Phòng tiền sảnh trông ra ngoài biển qua một lớp tường làm bằng kính trong suốt, sát một bên của căn phòng này là gian phòng khách lướn, còn một bên là gian phòng khách nhỏ, tường ốp gỗ, có kê một chiếc lò sưởi. Có một thư viện riêng, một căn bếp lớn có đầy đủ dụng cụ cần thiết và kế đó là phòng dành cho người quản gia và phòng giặt. Tầng trệt có sáu phòng ngủ dành cho người hầu và một phòng tắm. Tầng lầu có bốn phòng ngủ nhỏ và một phòng ngủ lớn. Đó là ngôi nhà lớn hơn nhiều so với sự mường tượng của Kate, nhưng cô chợt nghĩ: “Khi David và mình có con, cả gia đình sẽ cần đến tất cả số phòng này”.

  Kate quay sang nói với viên luật sư: “Tôi sẽ mua”.

  Cô quyết định đặt tên cho căn nhà là Cedar Hill.


  Cô nóng lòng trở về Klipdrift để báo tin cho David.

  Trên đường trở về Nam Phi, Kate cảm thấy rất phấn khích. Ngôi nhà ở cảng Nước Tối sẽ là một dấu hiệu, một biểu tượng cho thấy cô và David sẽ cưới nhau, Kate biết rằng anh sẽ thích căn nhà y như cô vậy.

  Kate và Brad trở về Klipdrift vào buổi chiều. Cô vội chạy tới văn phòng của David, anh đang ngồi bên bàn làm việc và hình bong anh làm con tim Kate đập rộn rang. Cô không còn nhận ra là mình đã nhớ anh đến nhường nào.

  David đứng dậy. “Kate, rất mừng là em đã trở về!” – cô chưa kịp nói gì thì anh đã tiếp luôn – “Anh muốn em là người đầu tiên biết chuyện này, anh sắp kết hôn”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 27-8-2013 20:18:23 | Chỉ xem của tác giả
MƯỜI LĂM




Chuyện bắt đầu xảy ra từ khoảng sáu tuần trước đó. Trong một ngày công việc bận rộn, David nhận được tin rằng Tm O’Neil – bạn của một vị khách hàng lớn thường mua kim cương từ công ty đang ở Klipdrift và đề nghị được David đón tiếp, nếu có thể là được đi ăn tối thì càng tốt. David không có thời gian để phung phó đối với vị khách du lịch kia, nhưng anh không muốn làm phật lòng bạn hàng của mình. Anh đã định để Kate đón tiếp ông ta, nhưng cô lại đang ở Mỹ bận công chuyện làm ăn. “Bí rồi đây” – anh nghĩ bụng. Anh gọi điện tới khách sạn nơi Tim O’Neil đang ở và mời ông ta cùng ăn cơm tối.

  “Tôi có cả con gái cùng đi, tôi hy vọng là anh sẽ không phiền nếu tôi đem con bé theo cùng” – O’Neil nói với David.

  David làm gì có bụng dạ nào để dành ra cả một buổi tố chơi với một đứa trẻ, nhưng anh vẫn đáp lại một cách lịch sự: “Không sao cả”. Hẳn anh luôn nghĩ thầm rằng, mong sao buổi tối hôm nay qua đi một cách nhanh chóng.

  Họ gặp nhau ở khách sạn Grand, trong một phòng ăn lớn, hai cha con nhà O’Neil đã đợi sẵn từ trước. O’Neil là một người Mỹ, gốc Ai-xơ-len, cao lớn, đẹp trai với mái tóc muối tiêu và tuổi tầm vào khoảng năm mươi. Josephine, con gái ông ta, là một cô gái đẹp nhất mà David từng thấy từ trước tới giờ. Cô ta chừng ba mươi tuổi, vóc dáng cực đẹp, mái tóc vàng mềm mại và cặp mắt xanh trong trẻo. David đã choáng váng đến ngột thở khi nhìn thấy cô.

  “Tôi…….tôi xin lỗi vì đến muộn, vào phút chót lại bận chút công chuyện”.

  Josephine buồn cười trước vẻ lúng túng ở anh, mà cô thừa biết lí do là gì. “Đôi khi việc chờ đợi lại là một loại cảm giác hồi hộp nhất đấy, cha tôi nói ông là một người rất có thế lực, ông Blackwell”.

  “Không hẳn vậy, xin gọi tôi là David”.

  Cô gái gật đầu và nói: “David, một cái tên đẹp đấy. Nó làm cho người ta liên tưởng tới một sức mạnh lớn lao”.

  Ngay trước khi bữa ăn kết thúc, David đã nhận ra rằng Josephine không chỉ là một cô gái xinh đẹp mà còn rất thông minh, hóm hỉnh, rất khéo léo khi làm cho anh cảm thấy thoải mái. David cảm nhận rằng cô ta quan tâm tới anh một cách thực sự, cô hỏi anh những câu về bản thân mà từ trước đến giờ chưa có ai hỏi anh cả. Và khi buổi tối kết thúc, anh gần như đã đem lòng yêu cô.

  “Nhà ông ở đâu?” – David hỏi O’Neil.

  “San Fransisco”.

  “Ông chắc chắn sẽ trở về nhà sớm đúng không ạ?” – anh hỏi và cố tỏ ra binhd thản.

  “Tuần tới”.

  Josephine mỉm cười với David: “Nếu như Klipdrift thực sự hấp dẫn như nó hứa hẹn thì em có thể sẽ thuyết phục cha ở lại thêm mấy ngày nữa”.

  “Tôi có ý sẽ làm cho nó hấp dẫn đến mức có thể được” – David nói như cam đoan – “Cô nghĩ thế nào về việc đi thăm một mỏ kim cương?”

  “Rất tuyệt, cảm ơn anh”.

  Có thời kì, đích thân David đưa từng vị khách quan trọng xuống các mỏ, nhưng từ lâu anh giao việc này cho cấp dưới. Lúc này thì anh nghe thấy chính mình đang nói: “Liệu sáng mai có tiện không?”. Anh có năm đến sáu cuộc gặp được ấn định vào sáng mai nhưng chúng bỗng nhiên không còn quan trọng nữa.

  Anh đưa hai cha con O’Neil xuống một giếng khai thác ăn sâu xuống lòng đất khoảng một trăm met. Lòng giếng có kích thước 2m x 6m, được chia làm bốn khoang theo chiều dọc, một khoang để bơm nước, một khoang để đưa đất quặng lên và một khoang chứa một chiếc thang vận có hai lồng dùng để đưa công nhân lên xuống.

  “Em vẫn luôn tự hỏi về một thứ” – Josephine nói – “Không hiểu tại sao người ta lại dùng ca-ra làm đơn vị đo lường cho những viên kim cương?”

  “Ca-ra là được gọi tên của một thứ hạt có tên là ca-rob” – David giảng giải – “Do đặc tính cố định về trọng lượng của loại hạt này, một ca-ra tương đương với hai trăm mi-li-gram, nói cách khác thì một ao-xơ tương đương với một ngàn bốn trăm ca-ra”.

  Josephine nói tiếp: “Em cảm thấy rất thích thú đấy”.

  Và anh tự hỏi có phải cô chỉ đơn thuần nói về những viên kim cương hay không. Sự gần gũi bên nhau là cả một sự đam mê lớn, mỗi lần nhìn Josephine anh lại thấy trong mình có một sự hồi hộp mới mẻ.

  “Ông và cô đây nên đi xem vùng ngoại ô. Nếu ngày mai hai cha con ông rảnh rỗi, tôi sẽ rất sung sướng được đua hai người đi dạo một vòng”.

  Trong khi cha chưa kịp nói gì thì Josephine đã lên tiếng: “Thế thì thật tuyệt!”.

  Từ hôm đó trở đi, ngày nào David cũng gặp hai cha con Josephine. Càng ngày David càng cảm thấy đam mê hơn, chưa bao giờ anh thấy một người nào có sức quyến rũ kì lạ đến thế.


  Một buổi tối, khi David tới đón hai cha con O’Neil đi ăn tối thì O’Neil nói: “Tối nay tôi hơi mệt, xin phép anh tôi ở nhà được chứ?”

  David hẳn là phải giấu kín sự vui mừng của mình.

  Josephine nhìn anh tinh quái: “Em sẽ cố gắng để làm anh được vui”.

  David đưa cô tới ăn tối tại một khách sạn vừa mới khai trương. Phòng ăn rất đông khách, nhưng người ta nhận ra sự có mặt của David. Hai người nhanh chóng được đưa đến một bàn ăn, một dàn nhạc đang chơi một đoạn nhạc Mỹ.

  “Em có muốn khiêu vũ không?” – David hỏi.

  “Em rất thích”.

  Chỉ sau giây lát, Josephine đã ở trong vòng tay của anh, và đó quả là một cảm giác rất tuyệt diệu. Dvid ôm lấy thân hình kiều diễm của cô đangtì sát vào anh, và anh cảm thấy cô cũng bắn đi tín hiệu đáp lại.

  “Josephine, anh yêu em”.

  Cô đặt một ngón tay lên môi anh ngăn lại: “Nào, anh David, đừng………..”

  “Tại sao?”

  “Bởi vì em không thể lấy anh được”.

  “Em có yêu anh không?’

  Josephine mỉm cười với anh, cặp mắt long lanh: “Em muốn phát điên lên vì anh, anh yêu quý. Anh không nhận ra điều đó sao?’

  “Vậy thì tại sao mình không đến được với nhau?”

  “Bởi vì em không thể sống được ở Klipdrift, em phát rồ lên khi ở đây mất”.

  “Em hãy thử xem đã”.

  “David, em muốn lấy anh lắm chứ. Nhưng nếu em lấy anh và ở lại đây, em sẽ biến thành một người đàn bà ngoa ngoắt, đang đá và hai ta sẽ phải chia tay nhau trong sự thù ghét. Thà rằng choáng váng chia tay nhau như thế còn tốt hơn”.

  “Anh không muốn chia tay em chút nào”.

  Cô ngước mắt nhìn anh và David cảm thấy thân thể cô như hòa tan vào anh: “David, liệu có khả năng nào đó là anh sẽ sang sống tại San Frasisco không?’

  “Đó là điều không thể dược, anh sẽ chẳng biết làm gì ở đó cả”.

  “Ta hãy cùng ăn sáng ngày mai, em muốn anh nói chuyện với cha”.


  Tim O’Neil nói: “Josephine đã nói với tôi về chuyện của nó và anh tối hôm qua. Có vẻ như hai người đang có chút khó khăn, nhưng tôi có thể đưa ra một giải pháp, nếu anh quan tâm”.

  “Tôi rất quan tâm, thưa ông”.

  O’Neil nhấc chiếc cặp da nâu lên và lấy ra một bản thiết kế.

  “Anh có hiểu biết gì về thực phẩm đông lạnh không?”

  “Tôi e là không”.

  “Người ta đã cho ra đời sản phẩm loại này lần đầu tiên ở Mỹ hồi năm 1865. Vấn đề đặt ra là phỉa vận chuyển nó trong một quãng đường xa nhưng phải đảm bảo không ta băng. Chúng tôi đã có những toa xe lạnh chở bằng đường sắt nhưng chưa thấy ai có sáng kiến về loại xe tải có phòng lạnh” - O’Neil đặt tay lên bản thiết kế - “Nay tôi đã nhận được bản thiết kế về loại xe đó, David. Điều này sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong ngành chế biến thực phẩm đông lạnh”.

  David nhìn bản thiết kế: “Ông O’Neil, tôi sợ là mình không có chút hiểu biết gì về những thứ này”.

  “Không sao. Tôi không tìm kiếm ở anh phẩm chất của môt chuyên gia kĩ thuật, tôi có nhiều rồi, điều tôi muốn là tìm được sự tài trợ và một người điều hành công việc. Đây không phải là một mơ ước hão huyền đâu, tôi đã trao đổi với những nhà chế biến thực phẩm hàng đầu. Đây là một kế hoạch lớn – lớn hơn nhiều những gì mà anh có thể tưởng tượng. Tôi cần một người như anh”.

  “Trụ sở của công ty đặt tại San Frasisco” – Josephine nói thêm.

  David ngồi lặng yên, suy nghĩ về những điều anh vừa được nghe: “Ông vừa nói là có một bản thiết kế đúng không?”

  “Đúng vậy. Tôi đã sẵn sàng bắt tay vào việc”.

  “Ông sẽ không phản đối nếu tôi mượn bản thiết kế và đưa cho một ai đó đánh giá chứ?”

  “Không hề”.

  Việc đầu tiên mà David làm là xác minh thông tin về Tim O’Neil. Anh được biết rằng đây là một người có tiếng tăm tại San Frasisco, ông ta từng là một trưởng khoa nghiên cứu của Đại học Benveley, và được nhìn nhận là người có năng lực. David không hiểu gì về thực phẩm đông lạnh, nhưng anh quyết tâm tìm hiểu.

  “Anh sẽ trở lại sau năm ngày, anh muốn em và cha hãy đợi anh”.

  “Đến khi nào cũng được, em sẽ nhớ anh đấy”.

  “Anh cũng sẽ nhớ em” – David như gửi trong đó niềm yêu thương nhiều hơn cả sự suy nghĩ của cô.


  David đáp tàu hỏa tới Johannesburg và yêu cầu được gặp Edward Derkic, chủ một nhà máy đóng thịt hộp lớn nhất ở Nam Phi.

  “Tôi muốn ông có ý kiến về một việc. Tôi muốn biết bản thiết kế này có giá trị thực tế hay không?” – David nói và đưa ra bản thiết kế.

  “Tôi chẳng biết gì về thực phẩm đông lạnh hay xe tải hết, nhưng tôi biết có người có thể giúp ông chuyện này. Nếu ông quay lại vào buổi chiều. tôi sẽ có ở đây vài chuyên gia có thể giúp được ông”.


  David trở lại vào bốn giờ chiều. Anh cảm thấy lo lắng, với một tâm trạng không chắc chắn cho lắm, bởi lẽ chính anh cũng chưa biết thảo luận gì trong cuộc gặp này. Hai tuần trước đây thôi, hẳn chính anh sẽ cảm thấy nực cười nếu có ai đó hỏi tới khả năng anh sẽ rời khỏi công ty Kruger-Brent Ltd. Nó đã là một phần cuộc sống của anh. Thậm chí sẽ còn tức cười hơn nếu có ai đó bảo anh suy nghĩ kĩ về vị trí đứng đầu cái công ty loại nhỏ đó ở San Frasisco. Tất cả thật là điên rồ, chỉ trừ một điều, đó là vì Josephine O’Neil.

  Hai người đàn ông cùng với Edward đã đợi sẵn trong phòng. “Đay là tiến sĩ Crawford và ông Kaufman, còn đây là ngài David Blackwell”.

  Mọi người gật đầu chào nhau, David lên tiếng trước: “Các ngài đã có thời gian xem xét qua bản thiết kế chưa?”

  “Tất nhiên là rồi, ông Blackwell. Chúng tôi đã nghiên cứu rất kĩ”. – Tiến sĩ Crawford đáp.

  David hít thở thật sâu và hỏi tiếp: “Vậy ý hiến các ngài ra sao?’

  “Tôi biết là cơ quan quản lí phát minh sáng chế Mỹ đã cấp bằng sáng chế cho thiết kế này”.

  “Đúng thế”.

  “Ồ, thưa ông David Blackwell. Bất kì ai có thiết kế này trong tay sẽ trở thành một người rất giàu có”.

  David gật đầu chậm rãi, anh chìm trong những cảm xúc xung đột.

  “Nó giống tất cả các phát minh lớn, đơn giản tới mức ông có thể tự hỏi tại sao mà người ta lại chưa nghĩ ra nhỉ. Sáng chế này không thể thất bại”.


  David không biết phải xử lí thế nào, nếu bản thiết kế cua O’Neil là hoafnm toàn vô dụng thì đó sẽ là cơ hội để anh thuyết phục Josephine ở lại Nam Phi, nhưng nó lại là một sáng chế rất thực tế. David lúc này phải có quyết định của riêng mình.

  Anh hầu như không nghĩ tới chuyện gì khác trong suốt quãng đường trở về Klipdrift. Nếu nhận lời, anh sẽ phải rời bỏ công ty, bắt đầu một sự nghiệp hoàn toàn mới. Anh là một người Mỹ nhưng nước Mỹ lại xa lạ đối với anh. Anh đang giữ một vị trí quan trọng tại một trong những công ty quyền lực nhất thế giới. Anh yêu công việc hiện tại, Jamie và Margaret McGregor đã đối xử thật tốt với anh, và còn cả Kate nữa, anh đã quan tâm lo lắng cho cô từ khi cô còn là một đứa trẻ. Anh đã chứng kiến cô lớn lên từ chỗ là một cô bé ngỗ ngược, bưỡng bỉnh, mặt mũi lọ lem trở thành một thiếu nữ kiều diễm. Trong đầu anh còn lưu giữ cả một cuốn album ảnh về cuộc đời cô, anh lật từng trang: lúc Kate bốn tuổi, tám tuổi, hai mốt tuổi; bồng bột, không thể đoán trước được.

  Tới khi tàu về Klipdrift thì David đã có quyết định dứt khoát trong đầu, anh sẽ rời công ty Kruger-Brent Ltd.

  Anh lái xe tới thẳng khách sạn Grand và đi thẳng lên phòng của O’Neil, Josephine ra mở cửa cho anh.

  “Ôi, anh David!”

  Anh ôm chầm lấy cô và hôn cô tới tấp, cảm thấy thân thể nóng ẩm của cô áp sát vào người mình.

  “Ôi, David! Em nhớ anh quá, em không bao giờ muốn phải xa anh nữa đâu”.

  “Em sẽ không phải xa anh nữa đâu, anh sẽ đi San Fransisco” – Anh đáp chậm rãi.

  
  David mong đợi Kate trở về với sự sốt ruột tăng theo từng ngày. Giờ thì anh đã có quyết định cho riêng mình, anh nóng lòng muốn bắt đầu cuộc sống mới và muốn sớm được làm đám cưới với Josephine.

  Và giờ đây, Kate đã về. Anh đứng trước mặt cô và thông báo: “Anh sắp cưới vợ”.

  Kate không còn tin vào tai mình nữa, cô đột nhiên thấy mình như muốn ngất xỉu, vội đưa tay bám lấy cạnh bàn để đứng cho vững. Cô nghĩ: “Mình muốn chết, giá chi mình chết ngay được thì tốt”Ơ.

  Tuy nhiên, trong sâu thẳm ý chí của cô vẫn còn một nguồn sức mạnh, cô cố mỉm cười: “Kể cho em nghe về chị ta đi, chị ta là ai vậy?”. Cô cảm thấy tự hào trước vẻ bình tĩnh trong giọng nói của mình.

  “Tên cô ấy là Josephine O’Neil, hai cha con cô ấy cùng đi du lịch tới đây. Anh tin là hai đứa bọn em sẽ trở thành bạn tốt của nhau đấy, đó là một cô gái dễ mến”.

  “Tất nhiên là như vậy rồi, nếu anh yêu chị ấy, David”.

  Anh ngập ngừng: “Còn một việc nữa, anh muốn rời bỏ công ty”.

  Trời đất như tối sầm trước mắt cô: “Nếu chỉ vì anh sắp cưới vợ thì điều đó đâu có nhất thiết buộc anh……”

  “Không phải vậy. Cha Josephine đang khởi động một công việc kinh doanh mới ở San Frasisco, họ cần anh”.

  “Vậy là anh sẽ đến chỗ đó?”

  “Đúng thế. Brad Rogers có thể đảm nhận công việc của anh một cách dễ dàng, và chúng ta sẽ chọn ra một nhóm quản lí hàng đầu để trợ giúp cho anh ấy. Kate, anh……..anh không biết làm sao để em hiểu, nhưng đây là một quyết định rất khó khăn”.

  “Không sao, David. Chắc hẳn anh rất yêu chị ấy, khi nào thì em có thể gặp cô dâu?”

  “Tối nay, nếu em rỗi và có thể cùng dự bữa rối” – Anh mỉm cười hài lòng trước phản ứng chuẩn mực của Kate.

  “Được, em rỗi”.

  Cô đã cố không để rơi nước mắt cho đến khi chỉ còn một mình.


  Họ cùng ăn tối tại ngôi nhà của gia đình McGregor, Kate tái mặt đi khi nhìn thấy Josephine. “Ôi lạy Chúa! Anh ấy đem lòng yêu cô ta là tất nhiên thôi”. Cô choáng váng, sự xuất hiện của cô ta ở đây cũng đủ để làm cho Kate cảm thấy bản thân mình vụng về và xấu xí. Tệ hơn nữa. Josephine còn rất tinh tế và quyến rũ, và rõ ràng cô cũng rất yêu David. “Thật là khốn nạn”.

  Trong khi ăn tối, Tim O’Neil giới thiệu với Kate về công ty mới.

  “Nghe có vẻ hấp dẫn đấy” – Kate nói.

  “Nhưng tôi chắc rằng nó không thể so sánh với Kruger-Brent. Chúng tôi sẽ khởi đầu từ nền tảng còn nhỏ bé, nhưng dưới sự điều hành của David, chúng tôi nhất định sẽ thành công”.

  Kate nói giọng quả quyết: “David mà điều hành tì ông sẽ không thất bại”.

  Buổi tối hôm đó quả là một sự tra tấn. Tệ hơn, cô vừa để vuột mất người đàn ông cô yêu quý và sự ra đi của anh là một tổn thất không gì bù đắp được cho công ty Kruger-Brent. Cô tiếp tục câu chuyện và cố gắng chịu đựng cho qua buổi tối, một buổi tối mà cô không hề nhớ mình đã nói gì, làm gì, chỉ biết rằng mỗi lần David và Josephine nhìn nhau hay chạm vào nhau là cô muốn tự sát.

  Trên đường trở về khách sạn, Josephine nói: “Cô ấy yêu anh, David”.

  Anh mỉm cười: “Kate ấy à, không, bọn anh là bạn. Bọn anh đã luôn như vậy kể từ khi cô ấy còn là một đứa bé, cô ấy rất thích em đấy”.

  Josephine cười, cô thầm nghĩ: “Đàn ông thật ngây thơ”.

  Sáng hôm sau, Tim O’Neil và David ngồi đối diện với nhau trong căn phòng của anh. David lên tiếng: “Tôi chỉ cần khoảng hai tháng để thu xếp và chuyển giao công việc tại đây. Tôi đã nghĩ về số tiền mà chúng ta cần để bắt đầu gây dựng cơ nghiệp mới. Nếu chúng ta dựa vào một công ty lớn nào đó, họ sẽ ăn cả và chỉ dành cho chúng ta một lượng cổ phần rất nhỏ và khi đó nó sẽ không còn là của chúng ta nữa. Tôi nghĩ chúng ta phải tự đầu tư thôi, tôi biết là sẽ cần phải có một số vốn tám mươi nghìn đô-la, tôi đã dành dụm được khoản tiền bốn mươi nghìn đô-la và chúng ta cần tìm ra khoản bốn mươi nghìn đô-la nữa”.

  “Tôi có mười nghìn đô-la, và tôi có một người có thể giúp anh vay năm nghìn đô-la nữa”.

  “Vậy là còn thiếu hai mươi lăm nghìn đo-la, chúng ta hãy thử vay tiền của một ngân hàng nào đó” – David nói.

  “Hai cha con tôi sẽ đi San Frasisco ngay và sẽ chuẩn bị mọi thứ cho anh” – Tim O’Neil đáp lại.


  Hai ngày sau đó, Josephine và cha lên đường trở về Mỹ. Kate nói với David: “Hãy đưa họ đi Cape Town bằng xe ray riêng”.

  “Em thật rộng rãi, Kate ạ”.

  Và cái buổi sáng mà Josephine ra đi, David cảm thấy mình như mất đi một cái gì đó trong cuộc đời. Anh ngóng đợi đến ngày được gặp lại cô ở San Fransisco.

  Công việc của mấy tuần lễ sau đó là tìm ra một đội ngũ quản lý để trợ giúp cho Brand Rogers. Một danh sách các ứng cử viên có khả năng được thận trọng lựa ra. Kate, David và Brad bỏ ra hàng giờ để xem xét từng người một.

  “……..Taylor là một chuyên gia kĩ thuật giỏi, nhưng lại yếu về kĩ năng quản lí”.

  “Còn Simmons thì sao?”

  “Anh ta cũng tốt thôi, nhưng chưa đủ độ chin. Hãy để cho anh ta phấn đấu và khẳng định khoảng năm năm nữa” – Brad khẳng định.

  “Thế còn Babcock?”

  “Có vẻ được đấy, chúng ta hãy thử đánh giá về ông ta nhé”

  “Peterson thì sao?”

  “Không đủ phẩm chất để là một người gắn bó lâu dài với công ty” – David nói – “Anh ta quá quan tâm đến bản thân mình”. Và khi nói ra những lời như vậy, anh cảm thấy có một sự dằn vặt tội lỗi vì chính anh đang bỏ rơi Kate.

  Họ tiếp tục thảo luận về một loạt những ứng viên khác. Tới cuối tháng, họ đã chốt lại danh sách cuối cùng, chỉ còn lại bốn ứng cử viên. Cả bốn đều đang làm việc ở nước ngoài và họ được yêu cầu trở về để tham dự các cuộc phỏng vấn. Hai cuộc phỏng vấn đầu tiên diễn ra suôn sẻ. “Em hài lòng với cả hai người này “ – Kate nói với David.

  Đúng vào buổi sáng diễn ra buổi phỏng vaasnt hứ ba, David bước vào phòng làm việc của Kate, mặt tái nhợt: “Vị trí của anh vẫn còn để ngỏ chứ?”

  Kate nhìn anh và hốt hoảng đứng dậy. “Có chuyện gì vậy?” – cô hỏi.

  Anh đổ người xuống một chiếc ghế: “Anh…..anh……….có một sự cố đã xảy ra”.

  Kate vội đi sát tới anh, cô tiếp tục: “Hãy kể cho em nghe xem nào”.

  “Anh mới nhận được một lá thư của Tim O’Neil, ông ta đã bán sạch rồi”.

  “Ý anh là gì?”

  “Đúng vậy. Ông ấy đã chấp nhận cái giá hai trăm nghìn đô-la mà công ty thịt hộp Ba Sao ở Chi-ca-go đưa ra để đổi lấy phát minh sáng chế” – giọng anh đầy cay đắng – “Công ty này muốn thuê anh làm quản lý cho công việc mới này”.

  Kate nhìn anh chăm chú: “Thế còn Josephine? Chị ta nói sao? Chắc hẳn chị ta phải giận ông bố mình lắm?”

  “Cô ấy cũng gửi cho anh một lá thư, nói là bọn anh sẽ làm đám cưới ngay khi anh tới San Frasisco”.

  “Và anh sẽ không đi?”

  “Tất nhiên là không rồi!” – David thốt lên vẻ bực bội – “Mấy hôm trước thì anh còn có giá trị đôi chút, anh có thể gây dựng nó thành một công ty lớn nhưng cha con họ đã quá hám tiền”.

  “David, anh không công bằng khi gộp cả Josephine vào đó”.

  “O’Neil sẽ không bao giờ hành động như vậy nếu như không có sự đồng ý của Josephine”.

  “Em, em thật không biết phải nói gì”.

  “Chẳng có gì để nói cả. Trừ một điều, chút nữa là anh đã mắc một sai lầm lớn nhất trong cuộc đời”.

  Kate bước lại bàn, cầm bản danh sách các ứng cử viên kia và chậm rãi xé nó.


  Trong những tuần tiếp theo, David vùi đầu vào công việc, cố quên đi nỗi cay đắng, đau đớn của mình. Anh nhận thêm vài lá thư nữa của Josephine và anh đã ném bỏ mà chưa hề đọc nội dung.

  Nhưng David không thể nào quên Josephine được, Kate hiểu rõ nỗi đau của David và bắn đi tín hiệu để David biết rằng cô vẫn đợi anh nếu như anh cần cô.

  Thấm thoắt đã sáu tháng qua đi kể từ khi David nhận được bức thư của O’Neil. Trong quãng thời gian đó, Kate và David tiếp tục là những cộng sự gần gũi, cùng đi đây đó bên nhau và thường là chỉ có riêng hai người mà thôi. Kate cố gắng làm mọi thứ để David vừa ý, cô ăn mặc cũng vì anh, chuẩn bị những thứ mà anh sẽ ưa thích, thậm chí là từ bỏ cả lối sống thường ngày của mình, miễn là làm cho David cảm thấy vui vẻ trong cuộc sống ở mức có thể được. Nhưng tất cả đều không có một chút tác động gì, theo cảm nhận của cô và rốt cuộc thì cô cũng đã mất đi sự kiên nhẫn.

  Kate và David tới Rio de Janeiro để tgij sát một khu mỏ mới được phát hiện. Hai người cùng ăn tối tại khách sạn và lúc này đang cùng ở trong phòng, xem xét lại một vài dữ liệu. Cô đã thây một bộ kim-mô-nô và đi một đôi dép trong nhà. Khi xong công việc thì cũng đã khuya, David vươn vai nói: “Ôi, tối nay thế là đủ rồi, anh đi ngủ đay”.

  Kate suy tư: “Chẳng nhẽ anh cứ ủ rũ mãi thế này hay sao?”

  Anh ngạc nhiên nhìn cô: “Ủ rũ ư?”

  “Vì Josephine O’Neil ấy mà”.

  “Cô ta giờ chẳng còn ý nghĩa gì với anh cả”.

  “Vậy thì anh hãy toe ra đúng là như vậy đi”.

“Thì em muốn anh làm gì nào?” – David sẵng giọng.

  Lúc này Kate đang bực mình, bực mình về sự mù quáng của David, vì tất cả thời gian mà cô giành cho anh chẳng có chút hiệu quả nào. “Em sẽ nói cho anh biết điều em muốn anh làm, hãy hôn em đi”.

  “Sao cơ?”

  “Quỷ tha ma bắt anh đi, David! Em là bà chủ của anh cơ mà” – cô thầm nghĩ. “Hôn em đi nào”- cô nói tiếp và áp chặt môi mình lên môi anh, đưa tay ôm lấy anh. Cô cảm thấy như anh có phản ứng chống lại, định gỡ ra. Nhưng rồi anh từ từ dang hai tay siết chặt lấy tấm thân cô, và anh hôn cô.

  “Kate………”

  Cô thì thầm qua làn môi anh: “Em nghĩ là anh sẽ không bao giờ hỏi……..”


  Hai người làm đám cưới sáu tuần sau đó. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ Klipdrift được chứng kiến một hôn lễ hoành tráng như vậy. Lễ cưới được tổ chức tại ngôi nhà thờ lớn nhất thị trấn, sau hôn lễ là buổi tiệc chiêu đãi trọng thể tại tòa thị chính, tất cả mọi người đều được mời tới dự. Người ta đã chuẩn bị cả một núi đồ ăn, không thể đếm xuể các thùng bia, rượu uýt-xki và sâm-panh. Có cả dàn nhạc nữa và bữa tiệc kéo dài tới sáng. Khi mặt trời sắp mọc, Kate và David cùng ra về trong im lặng.

  “Em sẽ về nhà và gói đồ, sau một giờ nữa đón em nhé” – Kate nói.

  Trong ánh sáng mờ nhạt của bình minh, Kate đi một mình vào ngôi nhà to lớn, đi lên tầng, tới phòng ngủ của mình. Cô bước tới một bức tranh treo trên tường và ấn vào khung gỗ. Bức tranh thụt sâu vào trong, làm lộ ra một chiếc két sắt, cô mở két sắt và lấy ra một bản hợp đồng. Đó là hợp đồng Kate mua đứt công ty đồ hộp Ba Sao ở Chi-ca-go, kế đó là một bản hợp đồng khác: Công ty Ba Sao mua lại bản quyền phát minh của Tim O’Neil với giá hai trăm nghìn đô-la. Kate lưỡng lự một chút, rồi đặt chúng trở lại két. Giờ David đã thuộc về cô và công ty Kruger-Brent Ltd. Bên nhau, họ sẽ xây dựng nó thành công ty lớn nhất, hùng mạnh nhất thế giới.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách