|
PHẦN MỘT
JAMIE
1883-1906
MỘT
“Lạy chúa, đúng là một cơn bão biển thật sự” – Jamie Mcgregor nói. Anh chàng đã lớn lên giữa những cơn bão hoang dại của vùng núi đồi Xcoots-len, nhưng chưa bao giờ thấy cơn bão nào dữ dội đến thế này. Bầu trời chiều đột ngột tối sầm lại như những màn đêm với những đám mây cát khổng lồ, vụt sáng lên bởi những làn chớp loằng ngoằng đốt cháy không khí, và theo sau là những tiếng sấm. Mưa trút xối xả xuống những chiếc lều bạt và những căn nhà tạm bợ lợp mái tôn, biến những con phố bụi bẩn của Klipdrift thành những suối bùn. Tiếng sấm nổ ầm ầm, liên tục hết chuỗi này đến chuỗi khác, tựa như tiếng súng đại bác trong một trận đánh lớn.
Jamie McGregor vội nhảy sang một bên khi một ngôi nhà xây bằng gạch tạm đổ sụp xuống và nhủ thầm không biết liệu thị trấn Klipdrift này có tồn tại nổi không.
Thực ra thì Klipdrift không phải là một thị trấn theo đúng nghĩa của rừ này. Nó chỉ là một ngôi làng với đám lều trại và toa xe nằm ngổn ngang bên bờ sông Vaal, và cư dân của nó là những người từ khắp nơi trên thế giới đổ đến vùng đất Nam Phi này, với cùng một niềm hy vọng ám ảnh, đó là săn lùng kim cương.
Jamie McGregor là một trong những kẻ đó. Chàng mười tám tuổi, một thanh niên đẹp trai, cao lớn, mái tóc đẹp và cặp mắt màu xanh đầy lanh lợi. Ở cậu toát ra vẻ chân thật và hăng hái đáng mến. Cậu có một quyết tâm non dại và một tâm hồn đầy lạc quan.
Từ trang trại của cha ở vùng núi xứ Xcốtlen, cậu đã vượt gần tám nghìn dặm đường qua Edinburgh, Luân Đôn, Cape Town để giờ đây có mặt tại Klipdrift. Cậu đã từ bỏ quyền lợi của mình ở trang trại mà cậu cùng các anh và cha mình tốn bao công sức gây dựng, nhưng Jamie Mcgregor không hề hối tiếc. Cậu tin chắc rằng cậu sẽ được đền đáp lại hàng nghìn lần hơn thế. Cậu đã từ bỏ cuộc sống an lành vốn có và dấn thân tới cái xứ sở xa xôi hẻo lánh này chỉ vì cậu đã mơ ước trở thành giàu có. Jamie không hề ngại công việc nặng nhọc, nhưng mà lợi nhuận thu được từ việc trồng trọt trên cái trang trại nhỏ bé đất sỏi cằn cỗi phía bắc Aberdeen thật chẳng đáng là bao. Cậu đã cùng với cha mẹ, những người anh và chị gái Mary làm lụng từ sáng sớm đến chiều tối vậy mà chẳng khá khẩm hơn tẹo nào. Cậu đã có lần được tới một hội chợ ở Edinburgh và thấy những đồ vật cực kỳ đẹp mà có tiền là có thể mua được. Tiền bạc sẽ làm cho cuộc sống trở nên dễ chịu khi người ta khỏe mạnh và sẽ chăm sóc người ta lúc đau yếu. Jamie đã nhìn thấy quá nhiều bạn và hàng xóm láng giềng sống cũng như chết trong cảnh bần hàn.
Cậu nhớ lại cái cảm giác hồi hộp khi lần đầu nghe những tin tức nóng hổi về kim cương ở Nam Phi. Viên kim cương lớn nhất thế giới đã đượ tìm thấy ở đó nằm lẫn trong lớp cát và người ta đã đồn rằng cả khu vực đó là một kho báu chỉ chờ được mở ra mà thôi.
Cậu thông báo tin tức đó cho cả gia đình sau bữa ăn tối của một ngày thứ Bảy. Mọi người ngồi quanh một chiếc bàn xù xì trong gian bếp chật chội tồi tàn nghe Jamie nói, giọng cậu có vẻ dè dặt nhưng kiêu hãnh: “Con sẽ đi Nam Phi tìm kim cương. Tuần tới con sẽ lên đường”. Năm cặp mắt kinh ngạc nhìn cậu như thể cậu là một thằng điên.
“Mày đi tìm kim cương sao? – Cha cậu hỏi – Thật quá là nông nổi, con ạ. Tất cả chỉ là thần thoại, một thứ cám dỗ ma quỷ nhằm kéo người ta ra khỏi công việc lương thiện hàng ngày mà thôi”.
“Sao mày không nói xem mày lấy đâu ra tiền để đi hả? – Anh Ian hỏi – Cả nửa vòng trái đất và mày thì không có lấy một xu”.
Jamie tiếp tục: “Nếu em mà có tiền thì em còn đi tìm kim cương làm gì? Ở nơi đó toàn những kẻ không có tiền hết trơn. Em với họ sẽ cùng bình đẳng. Em có trí óc và sức lực, em sẽ không cam chịu thất bại đâu”.
Cô chị gái Mary lên tiếng: “Annie Cord chắc nó sẽ buồn lắm. Con bé mong chờ một ngày nào đó em sẽ lấy nó làm vợ đấy”.
Jamie rất ngưỡng mộ chị Marry. Chị mới có hai mươi bốn tuổi đầu mà trông như đang ở tuổi bốn mươi. Trong đời, chị chưa bao giờ được hưởng một cái gì đó đẹp đẽ. “Mình sẽ tạo ra sự thay đổi cho chị”, Jamie thầm hứa với bản thân.
Mẹ cậu lặng lẽ cầm chiếc đĩa gỗ đựng chút món Haghi còn thừa và đi đến bên chậu rửa bát.
Khuya hôm đó, bà đến bên cạnh Jamie và đặt nhẹ đội bàn tay lên vai cậu và sức lực bà như đang truyền sang người cậu “Con hãy làm điều mà con nghĩ mình phải làm, con trai ạ. Mẹ không biết ở đó có kim cương hay không nhưng nếu có thì mẹ tin là con sẽ tìm thấy” – BÀ luồn tay vào chiếc túi da cũ kĩ và nói: “Mẹ dành dụm được một ít tiền. Con không cần phải nói chuyện này với ai cả. Cầu Chúa phù hộ cho con, Jamie”.
Khi lên đường đi Edinburg, Jamie có năm mươi bảng để trong chiếc túi da.
Chuyến đi tới Nam Phi thật mệt nhọc và Jamie phải mất tới gần một năm để chuẩn bị. Ở Edinburg, cậu đã xin vào làm một chân bồi bàn trong một quán ăn dành cho thợ thuyền cho tới lúc cậu dành ra được thêm năm mươi bảng nữa đút vào túi da. Tiếp đó, cậu tới Luân Đôn. Jamie đã choáng ngợp trước qui mô rộng lớn của thành phố, với những đám đông tụ họp, tiếng ồn ào và những cỗ xe ngựa lớn phóng với tốc độ lên tới năm dặm một giờ. Ở đâu cũng thấy xe ngựa hai bánh, với những người đánh xe ngồi cao ngất, chở đầy những phụ nữ xinh đẹp mặc váy bồng và đội những chiếc mũ rộng vành. Jamie tò mò nhìn những phụ nữ quý tộc đó vui tươi bước xuống xe đi vào mua sắm tại cửa hàng Burlingon-Arcade, đó thực sự là cả một kho hàng ngợp cả tầm mắt với rất nhiều đồ trưng bày, từ quần áo lông thú, váy đầm, cho tới những loại vật dụng sành sứ.
Jamie trọ tại ngôi nhà số 32 phố Fitzroy. Tiền thuê nhà tới mười xi-linh một tuần, song đấy đã là nơi rẻ nhất mà cậu có thể tìm được. Hàng ngày, cậu lang thang ngoài bến cảng để mong đợi một con tàu nào đó sẽ mang cậu tới Nam Phi, và tối đến thì cậu đi dạo, ngắm nhìn phong cảnh kì vĩ của Luân Đôn. Một buổi tối, cậu chợt nhìn thấy Edward, Hoàng tử xứ Wales, đi vào một nhà hàng nằm sát khu vườn Covent, một tiểu thư xinh đẹp khoác tay ông ta. Cô tiểu thư mang một cái mũ to sặc sỡ, và Jamie cố hình dung vẻ đẹp của chiếc mũ đó nếu nó được đội trên đầu chị Mary.
Jamie vào nghe một buổi hòa nhạc tại cung điện Cristal, xây dựng năm 1851. Cậu cũng vào xem nhà hát Savoy – một tòa nhà công của nước Anh được thắp điện đầu tiên. Một số đường phố cũng có đèn điện, và Jamie còn nghe nói là có thể nói chuyện với ai đó ở phía bên kia thành phố nhờ một thiết bị mới tuyệt vời – điện thoại.
Bất chấp tất cả những sáng chế kĩ thuật, nước Anh mùa đông năm đó đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế ngày một trầm trọng, đường phố bạt ngàn những nguwoif thất nghiệp, đói rét và ở đâu cũng có biểu tình, bạo loạn. “Mình phải rời bỏ nơi đây – Jamie thầm nghĩ – Mình đến đây là để thoát khỏi cảnh nghèo mà”. Ngày hôm sau, Jamie ký hợp đồng nhận làm bồi bàn trên chiếc tàu Wahner Castle sắp nhổ neo đi Cape Town, Nam Phi.
Chuyến đi kéo dài ba tuần lễ với hai lần cập bến Madelra và St Helene để lấy thêm than đốt. Đó là những ngày gian khổ và sóng gió trong cái lạnh tê tái của mùa đông và Jamie đã bị say sóng ngay từ lúc con tàu rời bến. Nhưng không vì thế mà cậu mất đi niềm vui của mình, bởi lẽ cứ mỗi ngày qua đi cậu lại đến gần cái kho báu kia hơn. Khi tàu tới gần xích đạo, khí hậu hoàn toàn thay đổi. Thật kỳ lạ, mùa đông bắt đầu qua đi để nhường chỗ cho mùa hè và khi gần tới bờ biển Châu Phi thì suốt cả ngày lẫn đêm, bầu không khí luôn nóng và đầy hơi nước.
Một buổi sáng sớm, chiếc Wahner Castle đã cập đến Cape Town và thả neo trong vịnh Table.
Ngay từ lúc chiếc tàu được neo chặt vào cầu tàu, mặt boong đã nhốn nháo đầy những người mà Jamie chưa bao giờ trông thấy. Họ là những kẻ chèo kéo đưa khách tới các khách sạn – đó là những người da đen, da vàng, da nâu và da đỏ, họ đều sẵn sàng đảm nhận công việc khuân vác hành lý cho khách. Có cả những chú bé chạy xuôi chạy ngược, tay cầm tờ báo, kẹo bánh và trái cây mời khách. Những người đánh xe mời chào ầm ĩ. Những người bán hàng rong vừa đẩy xe vừa ra rả rao hàng. Không khí như đặc quánh, với đầy những đàn ruồi đen to tướng. Đám thủy thủ và khu khuân vác vội lách mình ra khỏi đám đông, còn hành khách thì chỉ chăm chăm vào hành lí của mình. Mọi người nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mà Jamie chưa bao giờ nghe thấy, cậu không hiểu được một từ nào hết.
Thành phố Cape Town không giống với bất kỳ nơi nào mà Jamie từng nhìn thấy. Không hề có hai ngôi nhà nào giống nhau. Cạnh một cửa hàng lớn cao hai hoặc ba tầng, xây bằng gạch hoặc đá là một quán rượu nhỏ, rồi tiếp là một tiệm kim hoàn với các khung kính bóng loáng. Kế đó lại là một cửa hàng rau quả, một hiệu bán thuốc lá lụp xụp.
Những đám đàn ông, đàn bà và trẻ con đang rảo bước trên phố kia như hút hồn Jamie. Cậu thấy một người Bantu mặc một cái quần kẻ sọc kiểu Xcốt-len của những năm 1778, mang một chiếc áo khoác làm bằng chất liệu bao bố khoét thủng tại cổ và hai bờ vai. Đi trước người đàn ông này là hai người Trung Hoa tay trong tay, mặc áo choàng màu xanh da trời với hai búi tóc cuộn cẩn thận dưới chiếc mũ rơm. Rồi nữa, những người đàn ông mặc quần vải nhung màu nâu, mặc áo khoác, đội mũ rộng vành, miệng ngậm tẩu thuốc lá, sánh bước với những bậc phu nhân trong những bộ trang phục màu đen, đeo mạng che mặt và mũ rộng vành, cũng màu đen. Có cả những mụ thợ giặt với từng đống quần áo đội trên đầu đang chen lấn với đám lính tráng trong sắc phục màu đỏ. Cảnh tượng này quả thực là quá mới mẻ đối với Jamie.
Việc làm đầu tiên của Jamie là tìm một khu nhà trọ rẻ tiền qua lời chỉ dẫn của một thủy thủ trên tàu. Bà chủ là một phụ nữ đứng tuổi, dáng người chắc nịch, với bộ ngực núng nính.
Bà ta nhìn Jamie như soi mói và mỉm cười: “Zoek Yulle Gound?”
Cậu thần cả người: “Xin lỗi, tooi không hiểu bà nối gì”.
“Tiếng anh hả. Được thôi. Cậu tới đây để tìm vàng hay kim cương?”
“Kim cương, thưa bà”
Bà ta lôi cậu vào trong nhà . “Rồi cậu sẽ thích ngôi nhà này cho xem. Tôi có tất cả những gì hữu ích cho những chàng trai như cậu”.
Jamie tự hỏi liệu bà ta có phải là một trong số thứ đó không. Cậu hy vọng câu trả lời là không.
“Tôi là Venster” – Bà ta nói vẻ làm duyên – Nhưng bạn bè thường gọi tôi là Dee-Dee – bà ta mỉm cười để lộ ra chiếc răng cửa vàng chóe. Tôi có cảm giác rằng chúng ta sẽ trở thành bạn tốt của nhau. Cần gì xin cứ gọi tôi”.
“Bà thật tốt bụng – Jamie nói – Bà có thể chỉ cho tôi chỗ mua tấm bản đồ của khu vực này không ạ?”
Với tấm bản đồ trong tay, Jamie bắt đầu khám phá thành phố. Phía bên này của Cap Town là các khu ngoại ô Ronde Bosch, Clarremont và Wuyberg, kéo dài chín dặm là những vườn rau, vườn nho. Phía bên kia của thành phố là bờ biển. Jamie đi qua các khu dân cư thượng lưu, xuôi theo phố Strand và Bree, ngắm nghía những tòa nhà hai tầng mái bằng có ban công nằm dọc hai bên đường phố với vẻ ngưỡng mộ. Cậu đi lang thang mãi cho đến khi cảm thấy rằng đàn ruồi nhặng đen kịt kia cứ như muốn bu lấy riêng cậu mà thôi. Về tới nhà trọ, Jamie thấy gian buồng của mình cũng đầy ruồi bọ, kết thành từng đàn. Chúng đậu đầy trên tường, trên bàn ghế và cả trên giường ngủ.
Cậu bước ra ngoài để gặp bà chủ “ Bà Venster, bà không có cách gì đuổi được lũ ruồi ra khỏi phòng tôi sao? Chúng….”
Bà ta cười ngặt nghẽo và bẹo vào má Jamie “Cậu nhỏ của tôi, rồi cậu sẽ quen với những đám ruồi nhặng kia thôi. Cậu sẽ thấy ngay”.
Các tiện nghi vệ sinh ở Cape Town vừa thiếu thốn, vừa lạc hậu, buổi tối đến mùi hôi thối xông lên bao trùm toàn thành phố, thật không thể chịu đựng được. Nhưng Jamie tin rằng cậu có thể vượt qua tất cả. Cậu cần có thêm tiền trước khi có thể rời khỏi nơi này. Người ta đã bảo cậu răng: “Mày không thể sống nổi ở nơi tìm kiếm kim cương nếu không có tiền. Chỉ thở thôi cũng mất tiền đó”.
Ngày thứ hai ở Cape Town, Jamie kiếm được việc đánh xe ngựa cho một hãng vận tải. Ngày tiếp theo, cậu nhận thêm chân rửa bát bữa tối cho một quán ăn. Cậu sống nhờ vào những thức ăn thừa giấu mang về nhà trọ, mùi vị của các món ăn đó thật lạ và cậu thèm khát được ăn những món ăn nóng sốt mà mẹ cậu nấu ở nhà. Cậu không hề phàn nàn, kể cả với bản thân mình, vì cậu đã chấp nhận tất cả. Cậu tự quyết định và không có gì có thể cản trở con đương mà cậu đã chọn – kể cả đó có là lao động cực nhọc, bầu không khí hôi hám, hay là những đàn ruồi làm cậu mất ngủ suốt đêm. Cậu cảm thấy cô đơn tội nghiệp. Ở nơi xa này, cậu không hề quen ai, và cậu hớ bạn bè, nhớ gia đình. Jamie ưa thích sự tĩnh lặng, nhưng cảm giác cô đơn thì lại là một sự đau khổ triền miên.
Sau cùng thì cái ngày mong mỏi ấy cũng đến. Cậu đã tích được hai trăm bảng và giữ kín trong chiếc túi da. Cậu đã sẵn sàng. Sáng hôm sau, cậu rời Cape Town đi tới vùng đất tìm kiếm kim cương.
Vé hành khách đi Klipdrift được bán tại một quầy bán lẻ nhỏ bằng gỗ của công ty vận tải nội địa ở ngay khu bến cảng. Bảy giờ sáng, khi Jamie tới thì xung quanh quầy vé đã đông nghịt người, đến mức cậu không thể chen lại gần. Hàng trăm, hàng nghìn người mang hy vọng tìm kiếm kim cương đang tranh giành từng chiếc vé. Họ đến từ những xứ sở xa xôi như Nga, Mỹ, Úc, Đức và Anh. Họ gào thét bằng hàng chục thứ ngôn ngữ khác nhau, năn nỉ những người bán vé dành cho họ một chiếc. Jamie để ý thấy một người Ai-xơ-len cao lớn đang xấn xổ chen ra khỏi đam đông.
“Xin lỗi ông”- Jamie lên tiếng – “Đang xảy ra chuyện gì trong đó ạ?”
“Chẳng có đếch gì cả” – gã Ai-xơ-len kia đáp lời một cách cục cằn – “Vé đã bán hết rồi, người ta đang bán cho chuyến đi trong tuần tới”. Gã nhìn thấy vẻ thất vọng trên gương mặt của Jamie. “Này nhóc, không chỉ có vậy đâu, bọn khốn kiếp đó còn bán mỗi vé với giá lên tới năm mươi bảng đấy”.
Thật không thể tin nổi “Nhưng phải có cách nào đó đi được chứ?”
“Có hai cách, mày có thể đi bằng xe của hãng tốc hành Hà Lan, hoặc là đi bằng hai chân của mày”
“Hãng tốc hành Hà Lan thì sao hả ông?”
“Xe bò kéo. Hai dặm một giờ. Và khi mày vào đến nơi thì kim cương cũng đã bị vét sạch rồi”
Jamie McGregor không hề có ý định chờ tới lúc người ta vơ hết những viên kim cương kia. Cậu dành thì giờ còn lại của buổi sáng để tìm kiếm một phương tiện giao thông khác. Tới gần trưa thì cậu đã tìm ra. Cậu đi ngang qua một chuồng ngựa lớn và thấy bên trong đó có biển đề dòng chữ “Trạm thư”. Như có sẵn một sự hối thúc, cậu bước vào bên trong và thấy một người đàn ông gầy guộc đang chất những bao thư lên một cỗ xe nhỏ xíu.
“Xin lỗi, có phải ông chở thư tới Kipdrift không ạ?”
“Đúng thế. Đang chất hàng đây”
Jamie như cảm thấy chợt lóe lên một hy vọng mong manh “Các ông có chở khách không ạ?”
“Đôi khi - Người đàn ông ngước mắt lên nhìn Jamie và chăm chú quan sát – Cậu bao nhiêu tuổi?”
“Một câu hỏi ngơ ngẩn – Jamie thầm nghĩ – Mười tám, nhưng sao lại hỏi tuổi ạ?”
“Bọn ta không nhận khách trên hai mốt, hai hai tuổi. Cậu có sức khỏe tốt chứ?”
“Một câu hỏi còn lẩn thẩn hơn – Jamie nghĩ bụng – Vâng, thưa ông”
Người đàn ông kia đứng thẳng dậy “Tôi cho rằng cậu đáp ứng được đấy. Một giờ nữa sẽ khởi hành. Giá ve hai mươi bảng”
Jamie không thể tin váo tai mình nữa “Thật tuyệt, tôi sẽ lấy va-li và….”
“Không va-li gì hết. Cậu chỉ được phép mang theo một chiếc áo sơ mi và một bàn chải đánh răng”
Jamie ngó lại gần cỗ xe. Nó thật nhỏ và được đóng từ những tấm gỗ xù xì. Thân xe tạo thành một cái thùng tròn để chứa thư và phía bên trên đó là một khoảng trống chật chội, tù túng mà một người có thể áp lưng vào lưng người đánh xe. Chuyến đi này hẳn không dễ dàng gì.
“Thôi được. Tôi sẽ mang áo và bàn chải đánh răng tới ngay” – Jamie đáp
|
|