Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 7010|Trả lời: 83
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Ảo Ảnh Quyền Lực │ Sidney Sheldon (Hết)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên sách: Ảo Ảnh Quyền Lực
Tác giả: Shidney Sheldon
Thể loại: Tiểu thuyết
Người dịch: Tuấn Anh
Nhà xuất bản: NXB Văn học
Năm xuất bản: 2006
Số trang: 559
Nguồn: type
Tốc độ: 2-3 chương/tuần



Thông báo: Vì một số lý do nên mình không thể tiếp tục type truyện Ảo ảnh quyền lực được nữa, mong các bạn thông cảm và bỏ qua cho mình!!!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2013 14:48:34 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN MỞ ĐẦU

KATE
1982




  Gian phòng khách rộng đã trở nên đông đúc với những hình bóng thân thuộc hiện diện trong lễ sinh nhật của bà. Kate Blackwell đưa mắt nhìn đám đông, xen lẫn hình bóng những người đã chết với những người còn sống, và trong đầu bà, những hình ảnh này thật như một giấc mơ huyền ảo, bởi lẽ những người khách từ quá khứ xa xôi hiện về đang chập chờn quanh sàn nhảy bên những người khách trang trọng trong những bộ lễ phục buổi tối. Có tới một trăm khách tới dự buổi lễ tại tòa biệt thự Cedar Hill này. “Ấy là chưa kể những hồn ma kia”. Kate Blackwell nghĩ thầm.

  Bà là một phụ nữ mảnh dẻ, nhỏ nhắn, song dáng dấp quý phái làm cho bà có vẻ thanh thoát. Bà có một vẻ mặt dễ nhớ; cặp mắt màu sẫm và một cái cằm đầy vẻ bướng bỉnh – một sự pha trộn của hai dòng máu Xcốt-len và Hà Lan. Mái tóc à một thời là cả suối tóc mây óng ả, giờ đây bạc trắng và lộ ra bên ngoài những nếp gấp trang nhã của bộ váy áo nhung màu ngà bà đang mặc là làn da đã mang dấu tích của tuổi già.

  “Mình đâu có cảm thấy cái tuổi chín mươi ” - Kate Blackwell  thầm nghĩ.

“Tất cả những năm tháng ấy đã trôi về đâu rồi nhỉ?”. Bà nhìn những bóng ma đang nhảy múa. “Họ biết, họ thuộc về những năm tháng ấy. Họ là một phần của quá khứ, một phần của đời bà”. Bà nhìn thấy Banda với gương mặt đen, kiêu hánh rạng rỡ. Và, kia là David của bà, David thân yêu, dáng người cao, trẻ trung và đẹp trai đúng như buổi đầu bà đem lòng yêu ông, và ông như đang mỉm cười với bà – và bà tự nhủ: “Em sẽ đến với anh ngay đây thôi, anh thân yêu, ngay thôi!”. Và bà thầm ao ước giá mà David còn sống để thấy đứa chắt nội của ông.

  Bà đưa mắt dò tìm khắp gian phòng khách rộng lớn cho tới lúc nhìn thấy cậu bé. Cậu đang đứng gần bên giàn nhạc, ngắm nhìn các nhạc công chơi đàn. Cậu bé đã gần tám tuổi và thật là khôi ngô trong một chiếc áo khoác bằng nhung đen và chiếc quần vải len kẻ ô vuông kiểu của dân Xcốt-len, Robert quả là một bản sao của ông cụ tổ - Jamie McGregor, người đàn ông trong bức họa lớn treo phía bên trên tường lát đá cẩm thạch, phía trên chiếc lò sưởi. Như cảm thấy ánh mắt của bà, Robert quay lại và Kate giơ tay lên vẫy cậu bé, viên kim cương hai mươi ca-ra thượng hạng mà cha bà đã nhặt trên biển gần một trăm năm về trước lung linh trên tay bà. Kate sung sướng nhìn cậu bé lách qua đám đông và tiến về phía bà.

  “Ta là quá khứ”. Kate nghĩ -"Thằng bé là tương lai. Một ngày gần đây, thằng bé sẽ là người điều hành cái công ty Kruger-Brent này”. Cậu bé đến bên và bà dịch người để cậu ngồi xuống cạnh bà.

  “Cụ có một buổi sinh nhật vui vẻ chứ ạ?”.

  “Ừ, cảm ơn cháu, Robert”.

  “Một dàn nhạc tuyệt vời, ông nhạc trưởng thật tệ”. Trong giây lát, Kate nhìn cậu bé với vẻ bối rối, rồi cặp lông mày bà chợt giãn ra. “À, cụ biết rồi. Ý cháu muốn nói ông ta tài ba chứ gì?”

  Robert mỉm cười.”Đúng. Cụ chẳng có vẻ gì là chín mươi tuổi cả”.

  Kate Blackwell cũng cười theo cậu. “Nói nhỏ giữa hai cụ cháu mình thôi nhé: Cụ chẳng thấy mình già chút nào cả, cháu ạ”.

  Cậu bé đặt tay vào trong tay cụ rồi cả hai cùng ngồi yên lặng với vẻ hài lòng. Sự cách biệt giữa tám mươi hai năm tuổi đời giữa cụ và cháu đã tạo ra một sự hấp dẫn thật nhẹ nhàng. Kate quay nhìn cháu gái bà đang nhảy múa. Hai vợ chồng cô quả là đôi nhảy đẹp nhất trên sàn buổi tối hôm nay.

  Mẹ của Robert đã nhìn thấy con trai đang ngồi với bà nội mình và thầm nghĩ. “Thật không thể tin được. Bà chẳng có vẻ già chút nào. Không ai có thể hình dung nổi tất cả những gì bà đã trải qua”.

  Tiếng nhạc chợt ngừng hẳn và giọng người nhạc trưởng vang lên: “Thưa các quý ông, bà, tôi rất hân hạnh được giới thiệu một thiên tài trẻ tuổi – cậu Robert”.

  Robert xiết nhẹ tay cụ rồi đúng lên bước về phía chiếc đàn piano. Cậu ngồi xuống, vẻ mặt tập trung và trang trọng, rồi những ngón tay nhỏ nhắn bắt đầu lướt trên những phím đàn. Cậu chơi một nhạc phẩm của Scriabin và tiếng đàn của cậu làm cho người nghe như cảm thấy ánh trăng đang tỏa sáng mặt nước gợn sóng lăn tăn. Mẹ Robert lắng nghe tiếng dương cầm và thầm nhủ: “Thằng bé quả là một tài năng. Nó sẽ lớn lên để trở thành một nhạc sĩ lớn. Lúc ấy nó sẽ không còn là con của riêng mình nữa. Nó sẽ nổi tiếng trên toàn thế giới”. Khi Robert đàn xong, những tiếng vỗ tay vang lên nồng nhiệt và chân tình.

  Trước đó, từ lúc chiều tối, khách khứa đã được mời ăn bữa tối ngoài trời. Khu vườn rộng rãi, uy nghi được trang hoàng lộng lẫy với những chiếc đèn lông, những giải ruy-băng và những quả bóng bay đầy màu sắc. Các nhạc công chơi nhạc trong những hành lang lớn, trong lúc các quản gia và người hầu tấp nập lui tới bên các bàn ăn lặng lẽ và chu đáo, giữ cho những chiếc ly Bac-ca-rat và những chiếc đĩa Limoges luôn đầy ắp. Người ta đã đọc điện chúc mừng của Tổng thống Hoa Kỳ. Một vị thẩm phán của Tòa án tối cao tới nâng cốc chúc mừng Kate.

  Vị thống đốc bang đã ca ngợi bà:”…là một trong những phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử quốc gia. Những đóng góp của bà Kate Blackwell cho hàng trăm sự  nghiệp từ thiện trên khắp thế giới là cả một huyền thoại. Tổ chức Blackwell Foundation đã có đóng góp rất lớn vào việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và hạnh phúc của dân chúng trên hơn năm mươi quốc gia. Tôi muốn mượn ý mà cố thủ tướng W.Churchil đã nói: Chưa bao giờ nhiều người đến vậy, mang ơn đến vậy đối với một cá nhân. Tôi lấy làm hãnh diện được biết bà Kate Blackwell”.

  “Quỷ tha ma bắt!” – Kate nghĩ. “Không ai biết ta cả. Nghe cứ như ông ta đang nói về một vị thánh nào đó. Tất cả những người này sẽ nói gì nhỉ, nếu họ biết rõ ngọn ngành về một Kate Blackwell? – con của một gã trộm và đã bị bắt cóc khi chưa đầy một tuổi. Họ sẽ nghĩ gì nếu ta cho xem những vết sẹo trên thân thể mình?”.

  Bà quay đầu và nhìn người đàn ông đã có lần toan sát hại bà. Bà đưa mắt lướt thoáng qua ông và dừng lại chỗ một người đàn bà thấp thoáng dưới bóng cây, chiếc mạng che kín mặt. Lẫn với tiếng sấm rền xa xa, Kate nghe thấy thống đốc kết thúc bài diễn văn của mình và lên tiếng giới thiệu bà. Bà đứng dậy và hướng nhìn về đám đông khách khứa. Khi bà cất lời, giọng bà khỏe mạnh và chắc nịch “ Tôi đã sống lâu hơn tất cả các vị ở đây. Một đứa trẻ nỏ tuổi nhất cũng có thể nói rằng – điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết. Nhưng tôi sung sướng là đã sống đến tuổi này, bởi vì nếu không vậy thì tôi đã không hiện diện ở đây với các vị khách thân thuộc này. Tôi biết, có một số vị đã từ các nước xa xôi đến đây với tôi tối hôm nay và hẳn là đã mệt mỏi sau chuyến đi. Tôi sẽ thật thiếu công bằng nếu đòi hỏi mọi người đều phải có sức lực nhue tôi”. Tiếng cười rộ lên và họ vỗ tay hoan nghênh bà.

  “Cảm ơn các bạn đã cho tôi một buổi tối đáng nhớ! Tôi sẽ không bao giờ quên buổi tối nay. Bạn nào muốn đi ngủ, phòng giành cho bạn đã sẵn sàng. Và những người khác, xin mời đến khiêu vũ tại phòng khách lớn. Ngoài trời lại một chuỗi sám rền “ Tôi nghĩ chúng ta vào nhà thôi để tránh những cơn bão nổi tiếng của vùng Maine này”.

  Giờ đây, bữa tối và cuộc khiêu vũ đã đi qua. Khách đã đi nghỉ, còn Kate ngồi lại một mình với những bóng ma của bà. Bà ngồi yên lặng trong thư viện, thả mình về quá khứ, và bỗng nhiên bà thấy chán nản. “Không còn ai gọi mình là Kate”- Bà nghĩ “Họ đã đi xa cả rồi”. Thế giới của bà đã co hẹp lại. Có phải như lời của Longfellow đã nói: “Những chiếc lá của hồi ức làm nên tiếng xào xạc buồn thương trong bóng tối?”. Bà sẽ sớm đi vào bóng tối. Nhưng bây giờ thì chưa. “Ta còn phải làm một việc quan trọng nhất trong đời” – Kate nghĩ. “Hãy kiên nhẫn, David, em sẽ đến với anh ngay thôi mà”.

  Kate chợt bừng tỉnh. Cả gia đình đã bước vào căn phòng, bà đưa mắt nhìn từng người, cặp mắt bà như một ống kính lạnh lùng không bỏ sót ai hết. “Gia đình ta – Kate nghĩ. Sự bất diệt của ta, một kẻ sát nhân, một người ký cục và tâm thần. Những bộ xương mang họ Blackwell. Phải chăng đây là kết quả của bao nhiêu tháng năm hy vọng và đau thương?”.

  Người cháu gái đã đứng sát bên bà: “Bà ổn chứ ạ?”

  “Ta hơi mệt một chút, các con. Ta muốn đi ngủ đây”.

  Bà đứng dậy và bước về phía cầu thang, và đúng lúc đó tiếng sấm vang trời và cơn bão ập đến. Tiếng mưa quất vào kính rào rào. Cả gia đình trông theo bà lão chậm rãi đi lên cầu thang, dáng người vươn thẳng, kiêu hãnh. Một ánh chớp xé tan bầu trời và giây sau là tiếng sấm dữ dội. Kate Blackwell quay đầu nhìn xuống và khi bà cất tiếng, giọng của bà mang nặng thổ âm của tổ tiên: “Hồi ở Nam Phi, mọi người vẫn gọi những cơn bão như thế này là bão biển đấy”.

  Một lần nữa, quá khứ và hiện tại lại bắt đầu hòa lẫn vào nhau, và bà bước dọc hành lang về phòng ngủ, xung quanh là những hồn ma thân thuộc hiền lành.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2013 19:37:50 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN MỘT
JAMIE
1883-1906

MỘT


“Lạy chúa, đúng là một cơn bão biển thật sự” – Jamie Mcgregor nói. Anh chàng đã lớn lên giữa những cơn bão hoang dại của vùng núi đồi Xcoots-len, nhưng chưa bao giờ thấy cơn bão nào dữ dội đến thế này. Bầu trời chiều đột ngột tối sầm lại như những màn đêm với những đám mây cát khổng lồ, vụt sáng lên bởi những làn chớp loằng ngoằng đốt cháy không khí, và theo sau là những tiếng sấm. Mưa trút xối xả xuống những chiếc lều bạt và những căn nhà tạm bợ lợp mái tôn, biến những con phố bụi bẩn của Klipdrift thành những suối bùn. Tiếng sấm nổ ầm ầm, liên tục hết chuỗi này đến chuỗi khác, tựa như tiếng súng đại bác trong một trận đánh lớn.

  Jamie McGregor vội nhảy sang một bên khi một ngôi nhà xây bằng gạch tạm đổ sụp xuống và nhủ thầm không biết liệu thị trấn Klipdrift này có tồn tại nổi không.

  Thực ra thì Klipdrift không phải là một thị trấn theo đúng nghĩa của rừ này. Nó chỉ là một ngôi làng với đám lều trại và toa xe nằm ngổn ngang bên bờ sông Vaal, và cư dân của nó là những người từ khắp nơi trên thế giới đổ đến vùng đất Nam Phi này, với cùng một niềm hy vọng ám ảnh, đó là săn lùng kim cương.

  Jamie McGregor là một trong những kẻ đó. Chàng mười tám tuổi, một thanh niên đẹp trai, cao lớn, mái tóc đẹp và cặp mắt màu xanh đầy lanh lợi. Ở cậu toát ra vẻ chân thật và hăng hái đáng mến. Cậu có một quyết tâm non dại và một tâm hồn đầy lạc quan.

  Từ trang trại của cha ở vùng núi xứ Xcốtlen, cậu đã vượt gần tám nghìn dặm đường qua Edinburgh, Luân Đôn, Cape Town để giờ đây có mặt tại Klipdrift. Cậu đã từ bỏ quyền lợi của mình ở trang trại mà cậu cùng các anh và cha mình tốn bao công sức gây dựng, nhưng Jamie Mcgregor không hề hối tiếc. Cậu tin chắc rằng cậu sẽ được đền đáp lại hàng nghìn lần hơn thế. Cậu đã từ bỏ cuộc sống an lành vốn có và dấn thân tới cái xứ sở xa xôi hẻo lánh này chỉ vì cậu đã mơ ước trở thành giàu có. Jamie không hề ngại công việc nặng nhọc, nhưng mà lợi nhuận thu được từ việc trồng trọt trên cái trang trại nhỏ bé đất sỏi cằn cỗi phía bắc Aberdeen thật chẳng đáng là bao. Cậu đã cùng với cha mẹ, những người anh và chị gái Mary làm lụng từ sáng sớm đến chiều tối vậy mà chẳng khá khẩm hơn tẹo nào. Cậu đã có lần được tới một hội chợ ở Edinburgh và thấy những đồ vật cực kỳ đẹp mà có tiền là có thể mua được. Tiền bạc sẽ làm cho cuộc sống trở nên dễ chịu khi người ta khỏe mạnh và sẽ chăm sóc người ta lúc đau yếu. Jamie đã nhìn thấy quá nhiều bạn và hàng xóm láng giềng sống cũng như chết trong cảnh bần hàn.
  Cậu nhớ lại cái cảm giác hồi hộp khi lần đầu nghe những tin tức nóng hổi về kim cương ở Nam Phi. Viên kim cương lớn nhất thế giới đã đượ tìm thấy ở đó nằm lẫn trong lớp cát và người ta đã đồn rằng cả khu vực đó là một kho báu chỉ chờ được mở ra mà thôi.

  Cậu thông báo tin tức đó cho cả gia đình sau bữa ăn tối của một ngày thứ Bảy. Mọi người ngồi quanh một chiếc bàn xù xì trong gian bếp chật chội tồi tàn nghe Jamie nói, giọng cậu có vẻ dè dặt nhưng kiêu hãnh: “Con sẽ đi Nam Phi tìm kim cương. Tuần tới con sẽ lên đường”. Năm cặp mắt kinh ngạc nhìn cậu như thể cậu là một thằng điên.

  “Mày đi tìm kim cương sao? – Cha cậu hỏi – Thật quá là nông nổi, con ạ. Tất cả chỉ là thần thoại, một thứ cám dỗ ma quỷ nhằm kéo người ta ra khỏi công việc lương thiện hàng ngày mà thôi”.

  “Sao mày không nói xem mày lấy đâu ra tiền để đi hả? – Anh Ian hỏi – Cả nửa vòng trái đất và mày thì không có lấy một xu”.

  Jamie tiếp tục: “Nếu em mà có tiền thì em còn đi tìm kim cương làm gì? Ở nơi đó toàn những kẻ không có tiền hết trơn. Em với họ sẽ cùng bình đẳng. Em có trí óc và sức lực, em sẽ không cam chịu thất bại đâu”.

  Cô chị gái Mary lên tiếng: “Annie Cord chắc nó sẽ buồn lắm. Con bé mong chờ một ngày nào đó em sẽ lấy nó làm vợ đấy”.

  Jamie rất ngưỡng mộ chị Marry. Chị mới có hai mươi bốn tuổi đầu mà trông như đang ở tuổi bốn mươi. Trong đời, chị chưa bao giờ được hưởng một cái gì đó đẹp đẽ. “Mình sẽ tạo ra sự thay đổi cho chị”, Jamie thầm hứa với bản thân.

  Mẹ cậu lặng lẽ cầm chiếc đĩa gỗ đựng chút món Haghi còn thừa và đi đến bên chậu rửa bát.

  Khuya hôm đó, bà đến bên cạnh Jamie và đặt nhẹ đội bàn tay lên vai cậu và sức lực bà như đang truyền sang người cậu “Con hãy làm điều mà con nghĩ mình phải làm, con trai ạ. Mẹ không biết ở đó có kim cương hay không nhưng nếu có thì mẹ tin là con sẽ tìm thấy” – BÀ luồn tay vào chiếc túi da cũ kĩ và nói: “Mẹ dành dụm được một ít tiền. Con không cần phải nói chuyện này với ai cả. Cầu Chúa phù hộ cho con, Jamie”.

  Khi lên đường đi Edinburg, Jamie có năm mươi bảng để trong chiếc túi da.

  Chuyến đi tới Nam Phi thật mệt nhọc và Jamie phải mất tới gần một năm để chuẩn bị. Ở Edinburg, cậu đã xin vào làm một chân bồi bàn trong một quán ăn dành cho thợ thuyền cho tới lúc cậu dành ra được thêm năm mươi bảng nữa đút vào túi da. Tiếp đó, cậu tới Luân Đôn. Jamie đã choáng ngợp trước qui mô rộng lớn của thành phố, với những đám đông tụ họp, tiếng ồn ào và những cỗ xe ngựa lớn phóng với tốc độ lên tới năm dặm một giờ. Ở đâu cũng thấy xe ngựa hai bánh, với những người đánh xe ngồi cao ngất, chở đầy những phụ nữ xinh đẹp mặc váy bồng và đội những chiếc mũ rộng vành. Jamie tò mò nhìn những phụ nữ quý tộc đó vui tươi bước xuống xe đi vào mua sắm tại cửa hàng Burlingon-Arcade, đó thực sự là cả một kho hàng ngợp cả tầm mắt với rất nhiều đồ trưng bày, từ quần áo lông thú, váy đầm, cho tới những loại vật dụng sành sứ.

  Jamie trọ tại ngôi nhà số 32 phố Fitzroy. Tiền thuê nhà tới mười xi-linh một tuần, song đấy đã là nơi rẻ nhất mà cậu có thể tìm được. Hàng ngày, cậu lang thang ngoài bến cảng để mong đợi một con tàu nào đó sẽ mang cậu tới Nam Phi, và tối đến thì cậu đi dạo, ngắm nhìn phong cảnh kì vĩ của Luân Đôn. Một buổi tối, cậu chợt nhìn thấy Edward, Hoàng tử xứ Wales, đi vào một nhà hàng nằm sát khu vườn Covent, một tiểu thư xinh đẹp khoác tay ông ta. Cô tiểu thư mang một cái mũ to sặc sỡ, và Jamie cố hình dung vẻ đẹp của chiếc mũ đó nếu nó được đội trên đầu chị Mary.

  Jamie vào nghe một buổi hòa nhạc tại cung điện Cristal, xây dựng năm 1851. Cậu cũng vào xem nhà hát Savoy – một tòa nhà công của nước Anh được thắp điện đầu tiên. Một số đường phố cũng có đèn điện, và Jamie còn nghe nói là có thể nói chuyện với ai đó ở phía bên kia thành phố nhờ một thiết bị mới tuyệt vời – điện thoại.

  Bất chấp tất cả những sáng chế kĩ thuật, nước Anh mùa đông năm đó đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế ngày một trầm trọng, đường phố bạt ngàn những nguwoif thất nghiệp, đói rét và ở đâu cũng có biểu tình, bạo loạn. “Mình phải rời bỏ nơi đây – Jamie thầm nghĩ – Mình đến đây là để thoát khỏi cảnh nghèo mà”. Ngày hôm sau, Jamie ký hợp đồng nhận làm bồi bàn trên chiếc tàu Wahner Castle sắp nhổ neo đi Cape Town, Nam Phi.

  Chuyến đi kéo dài ba tuần lễ với hai lần cập bến Madelra và St Helene để lấy thêm than đốt. Đó là những ngày gian khổ và sóng gió trong cái lạnh tê tái của mùa đông và Jamie đã bị say sóng ngay từ lúc con tàu rời bến. Nhưng không vì thế mà cậu mất đi niềm vui của mình, bởi lẽ cứ mỗi ngày qua đi cậu lại đến gần cái kho báu kia hơn. Khi tàu tới gần xích đạo, khí hậu hoàn toàn thay đổi. Thật kỳ lạ, mùa đông bắt đầu qua đi để nhường chỗ cho mùa hè và khi gần tới bờ biển Châu Phi thì suốt cả ngày lẫn đêm, bầu không khí luôn nóng và đầy hơi nước.

  Một buổi sáng sớm, chiếc Wahner Castle đã cập đến Cape Town và thả neo trong vịnh Table.

  Ngay từ lúc chiếc tàu được neo chặt vào cầu tàu, mặt boong đã nhốn nháo đầy những người mà Jamie chưa bao giờ trông thấy. Họ là những kẻ chèo kéo đưa khách tới các khách sạn – đó là những người da đen, da vàng, da nâu và da đỏ, họ đều sẵn sàng đảm nhận công việc khuân vác hành lý cho khách. Có cả những chú bé chạy xuôi chạy ngược, tay cầm tờ báo, kẹo bánh và trái cây mời khách. Những người đánh xe mời chào ầm ĩ. Những người bán hàng rong vừa đẩy xe vừa ra rả rao hàng. Không khí như đặc quánh, với đầy những đàn ruồi đen to tướng. Đám thủy thủ và khu khuân vác vội lách mình ra khỏi đám đông, còn hành khách thì chỉ chăm chăm vào hành lí của mình. Mọi người nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mà Jamie chưa bao giờ nghe thấy, cậu không hiểu được một từ nào hết.

  Thành phố Cape Town không giống với bất kỳ nơi nào mà Jamie từng nhìn thấy. Không hề có hai ngôi nhà nào giống nhau. Cạnh một cửa hàng lớn cao hai hoặc ba tầng, xây bằng gạch hoặc đá là một quán rượu nhỏ, rồi tiếp là một tiệm kim hoàn với các khung kính bóng loáng. Kế đó lại là một cửa hàng rau quả, một hiệu bán thuốc lá lụp xụp.

  Những đám đàn ông, đàn bà và trẻ con đang rảo bước trên phố kia như hút hồn Jamie. Cậu thấy một người Bantu mặc một cái quần kẻ sọc kiểu Xcốt-len của những năm 1778, mang một chiếc áo khoác làm bằng chất liệu bao bố khoét thủng tại cổ và hai bờ vai. Đi trước người đàn ông này là hai người Trung Hoa tay trong tay, mặc áo choàng màu xanh da trời với hai búi tóc cuộn cẩn thận dưới chiếc mũ rơm. Rồi nữa, những người đàn ông mặc quần vải nhung màu nâu, mặc áo khoác, đội mũ rộng vành, miệng ngậm tẩu thuốc lá, sánh bước với những bậc phu nhân trong những bộ trang phục màu đen, đeo mạng che mặt và mũ rộng vành, cũng màu đen. Có cả những mụ thợ giặt với từng đống quần áo đội trên đầu đang chen lấn với đám lính tráng trong sắc phục màu đỏ. Cảnh tượng này quả thực là quá mới mẻ đối với Jamie.

  Việc làm đầu tiên của Jamie là tìm một khu nhà trọ rẻ tiền qua lời chỉ dẫn của một thủy thủ trên tàu. Bà chủ là một phụ nữ đứng tuổi, dáng người chắc nịch, với bộ ngực núng nính.

  Bà ta nhìn Jamie như soi mói và mỉm cười: “Zoek Yulle Gound?”

  Cậu thần cả người: “Xin lỗi, tooi không hiểu bà nối gì”.

  “Tiếng anh hả. Được thôi. Cậu tới đây để tìm vàng hay kim cương?”

  “Kim cương, thưa bà”

  Bà ta lôi cậu vào trong nhà . “Rồi cậu sẽ thích ngôi nhà này cho xem. Tôi có tất cả những gì hữu ích cho những chàng trai như cậu”.

  Jamie tự hỏi liệu bà ta có phải là một trong số thứ đó không. Cậu hy vọng câu trả lời là không.

  “Tôi là Venster” – Bà ta nói vẻ làm duyên – Nhưng bạn bè thường gọi tôi là Dee-Dee – bà ta mỉm cười để lộ ra chiếc răng cửa vàng chóe. Tôi có cảm giác rằng chúng ta sẽ trở thành bạn tốt của nhau. Cần gì xin cứ gọi tôi”.

  “Bà thật tốt bụng – Jamie nói – Bà có thể chỉ cho tôi chỗ mua tấm bản đồ của khu vực này không ạ?”

  Với tấm bản đồ trong tay, Jamie bắt đầu khám phá thành phố. Phía bên này của Cap Town là các khu ngoại ô Ronde Bosch, Clarremont và Wuyberg, kéo dài chín dặm là những vườn rau, vườn nho. Phía bên kia của thành phố là bờ biển. Jamie đi qua các khu dân cư thượng lưu, xuôi theo phố Strand và Bree, ngắm nghía những tòa nhà hai tầng mái bằng có ban công nằm dọc hai bên đường phố với vẻ ngưỡng mộ. Cậu đi lang thang mãi cho đến khi cảm thấy rằng đàn ruồi nhặng đen kịt kia cứ như muốn bu lấy riêng cậu mà thôi. Về tới nhà trọ, Jamie thấy gian buồng của mình cũng đầy ruồi bọ, kết thành từng đàn. Chúng đậu đầy trên tường, trên bàn ghế và cả trên giường ngủ.

  Cậu bước ra ngoài để gặp bà chủ “ Bà Venster, bà không có cách gì đuổi được lũ ruồi ra khỏi phòng tôi sao? Chúng….”

  Bà ta cười ngặt nghẽo và bẹo vào má Jamie “Cậu nhỏ của tôi, rồi cậu sẽ quen với những đám ruồi nhặng kia thôi. Cậu sẽ thấy ngay”.

  Các tiện nghi vệ sinh ở Cape Town vừa thiếu thốn, vừa lạc hậu, buổi tối đến mùi hôi thối xông lên bao trùm toàn thành phố, thật không thể chịu đựng được. Nhưng Jamie tin rằng cậu có thể vượt qua tất cả. Cậu cần có thêm tiền trước khi có thể rời khỏi nơi này. Người ta đã bảo cậu răng: “Mày không thể sống nổi ở nơi tìm kiếm kim cương nếu không có tiền. Chỉ thở thôi cũng mất tiền đó”.

  Ngày thứ hai ở Cape Town, Jamie kiếm được việc đánh xe ngựa cho một hãng vận tải. Ngày tiếp theo, cậu nhận thêm chân rửa bát bữa tối cho một quán ăn. Cậu sống nhờ vào những thức ăn thừa giấu mang về nhà trọ, mùi vị của các món ăn đó thật lạ và cậu thèm khát được ăn những món ăn nóng sốt mà mẹ cậu nấu ở nhà. Cậu không hề phàn nàn, kể cả với bản thân mình, vì cậu đã chấp nhận tất cả. Cậu tự quyết định và không có gì có thể cản trở con đương mà cậu đã chọn – kể cả đó có là lao động cực nhọc, bầu không khí hôi hám, hay là những đàn ruồi làm cậu mất ngủ suốt đêm. Cậu cảm thấy cô đơn tội nghiệp. Ở nơi xa này, cậu không hề quen ai, và cậu hớ bạn bè, nhớ gia đình. Jamie ưa thích sự tĩnh lặng, nhưng cảm giác cô đơn thì lại là một sự đau khổ triền miên.

  Sau cùng thì cái ngày mong mỏi ấy cũng đến. Cậu đã tích được hai trăm bảng và giữ kín trong chiếc túi da. Cậu đã sẵn sàng. Sáng hôm sau, cậu rời Cape Town đi tới vùng đất tìm kiếm kim cương.

  Vé hành khách đi Klipdrift được bán tại một quầy bán lẻ nhỏ bằng gỗ của công ty vận tải nội địa ở ngay khu bến cảng. Bảy giờ sáng, khi Jamie tới thì xung quanh quầy vé đã đông nghịt người, đến mức cậu không thể chen lại gần. Hàng trăm, hàng nghìn người mang hy vọng tìm kiếm kim cương đang tranh giành từng chiếc vé. Họ đến từ những xứ sở xa xôi như Nga, Mỹ, Úc, Đức và Anh. Họ gào thét bằng hàng chục thứ ngôn ngữ khác nhau, năn nỉ những người bán vé dành cho họ một chiếc. Jamie để ý thấy một người Ai-xơ-len cao lớn đang xấn xổ chen ra khỏi đam đông.

  “Xin lỗi ông”- Jamie lên tiếng – “Đang xảy ra chuyện gì trong đó ạ?”

  “Chẳng có đếch gì cả” – gã Ai-xơ-len kia đáp lời một cách cục cằn – “Vé đã bán hết rồi, người ta đang bán cho chuyến đi trong tuần tới”. Gã nhìn thấy vẻ thất vọng trên gương mặt của Jamie. “Này nhóc, không chỉ có vậy đâu, bọn khốn kiếp đó còn bán mỗi vé với giá lên tới năm mươi bảng đấy”.

  Thật không thể tin nổi “Nhưng phải có cách nào đó đi được chứ?”

  “Có hai cách, mày có thể đi bằng xe của hãng tốc hành Hà Lan, hoặc là đi bằng hai chân của mày”

  “Hãng tốc hành Hà Lan thì sao hả ông?”

  “Xe bò kéo. Hai dặm một giờ. Và khi mày vào đến nơi thì kim cương cũng đã bị vét sạch rồi”

  Jamie McGregor không hề có ý định chờ tới lúc người ta vơ hết những viên kim cương kia. Cậu dành thì giờ còn lại của buổi sáng để tìm kiếm một phương tiện giao thông khác. Tới gần trưa thì cậu đã tìm ra. Cậu đi ngang qua một chuồng ngựa lớn và thấy bên trong đó có biển đề dòng chữ “Trạm thư”. Như có sẵn một sự hối thúc, cậu bước vào bên trong và thấy một người đàn ông gầy guộc đang chất những bao thư lên một cỗ xe nhỏ xíu.

  “Xin lỗi, có phải ông chở thư tới Kipdrift không ạ?”

  “Đúng thế. Đang chất hàng đây”

  Jamie như cảm thấy chợt lóe lên một hy vọng mong manh “Các ông có chở khách không ạ?”

  “Đôi khi -  Người đàn ông ngước mắt lên nhìn Jamie và chăm chú quan sát – Cậu bao nhiêu tuổi?”

  “Một câu hỏi ngơ ngẩn – Jamie thầm nghĩ – Mười tám, nhưng sao lại hỏi tuổi ạ?”

  “Bọn ta không nhận khách trên hai mốt, hai hai tuổi. Cậu có sức khỏe tốt chứ?”

  “Một câu hỏi còn lẩn thẩn hơn – Jamie nghĩ bụng – Vâng, thưa ông”

  Người đàn ông kia đứng thẳng dậy “Tôi cho rằng cậu đáp ứng được đấy. Một giờ nữa sẽ khởi hành. Giá ve hai mươi bảng”

  Jamie không thể tin váo tai mình nữa “Thật tuyệt, tôi sẽ lấy va-li và….”

  “Không va-li gì hết. Cậu chỉ được phép mang theo một chiếc áo sơ mi và một bàn chải đánh răng”

  Jamie ngó lại gần cỗ xe. Nó thật nhỏ và được đóng từ những tấm gỗ xù xì. Thân xe tạo thành một cái thùng tròn để chứa thư và phía bên trên đó là một khoảng trống chật chội, tù túng mà một người có thể áp lưng vào lưng người đánh xe. Chuyến đi này hẳn không dễ dàng gì.

  “Thôi được. Tôi sẽ mang áo và bàn chải đánh răng tới ngay” – Jamie đáp

Bình luận

vậy em phải sửa thành [Tiểu Thuyết]-[Xuất Bản] ạ?  Đăng lúc 1-8-2013 08:42 PM
Vì tác phẩm bạn tự type sẽ được đặt màu khác cho nên bạn bỏ chữ Xuất Bản trong [] hộ tớ nhé, cám ơn bạn.  Đăng lúc 1-8-2013 08:15 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 16:24:16 | Chỉ xem của tác giả
  Khi Jamie trở lại thì người đánh xe đã thắng ngựa vào xe. Có hai người đàn ông khác cũng đứng cạnh xe. Một người thấp, tóc sẫm, người kia là dân Thụy Điển, cao to, tóc vàng. Hai người này đang trả tiền cho người đánh xe.

  “Khoan đã – Jamie hấp tấp gọi người đánh xe – ông đã nói là để tôi đi mà”.

  “Tất cả sẽ đi – người đánh xe đáp – Chui vào đi”

  “Cả ba chúng tôi ư?”

  “Đúng thế”

  Jamie không thể tưởng tượng nổi người đánh xe lại có ý chất cả ba người lên cỗ xe chật hẹp này, song cậu chỉ rằng khi khởi hành thì trên xe có cậu.

  Jamie tự giới thiệu mình với hai người bạn đồng hành “Tôi là Jamie McGregor”.

  “Wallach” – người tóc sẫm trả lời

  “Pederson” – người tóc vàng đáp

  Jamie tiếp chuyện: “Chúng ta gặp may khi phát hiện ra chuyến đi bằng xe này đấy chứ. Thật may là những người khác không biết”

  Pederson đáp: “Ồ, họ biết tỏng về những chuyến xe thư này, ông bạn McGregor ạ. Mỗi tội chẳng có mấy người đủ sức hoặc là đủ tuyệt vọng để chui lên xe này mà thôi”.

  Jamie còn chưa kịp hỏi ý kiến Pederson định nói gì thì người đánh xe cất tiếng: “Đi nào”

  Ba chàng trai – Jamie ngồi ở giữa, ba người ngồi ép vào nhau, đầu gối cả ba gập lại, còn lưng thì tì sát vào lưng ghế của người đánh xe. Không còn khoảng không nào để cựa quậy hoặc để thở nữa. Jamie chỉ còn biết tự an ủi: “Cũng không đến nỗi tệ lắm”.

  “Đi nào!” – người đánh xe thét lên và giây lát sau chiếc xe đã lao vút đi trên các đường phố của Cape Town, bắt đầu hướng tới những mỏ kim cương ở Klipdrift.

  Hành trình với các chuyến xe khách thì khá dễ chịu. Các khoang xe từ Cape Town đi Klipdrift thường rộng rãi và thoáng, có cả mái bạt để che ánh nắng mặt trời gay gắt. Mỗi xe chỉ chở chừng mười người và được kéo bởi hai cặp ngựa hoặc lừa. Ở các trạm dừng đều có đồ ăn cho khách, và chuyến đi mất khoảng mười ngày.

  Đi xe chở thư thì hoàn toàn ngược lại. Xe không hề dừng lại dọc đường, trừ những lúc đổi ngựa và người đánh xe. Ngựa luôn chạy nước đại bất chấp mặt đường có gập ghềnh đến đâu. Xe không hề có lò xo giảm xóc, bởi vậy mỗi bước chạy của ngựa là một cú giật lắc khủng khiếp. Jamie nghiến răng và thầm nghĩ: “Mình có thể chịu đựng được cho tới khi dừng lại để nghỉ đêm. Sau khi ăn và ngủ một giấc thì sáng ra sẽ lại ổn thôi”. Thế nhưng, khi màn đêm buông xuống, xe chỉ dừng lại khoảng mười phút để thay ngựa và người đánh xe họ lại lên đường với những bước phi nước đại của ngựa mới.

  “Khi nào thì chúng ta dừng lại?” – Jamie nói

  “Không dừng – người đánh xe cằn nhằn – Chúng ta đi một mạch, xe chở thư mà, thưa ông trẻ”

  Cỗ xe lao nhanh trong đêm, băng qua những đoạn đường gồ ghề, bụi bặm dưới ánh trăng, lúc chồm lên, lúc lại chúc xuống. Jamie đau ê ẩm toàn thân, hoàn toàn kiệt sức, nhưng lại không thể chợp mắt. Đang thiu thiu ngủ thì một cú xóc lại làm cậu bật tỉnh. Không có khoảng không để duỗi chân hay cựa quậy gì cả. Cậu đói và mệt lả. Cậu không còn biết là khi nào sẽ có bữa ăn. Đó là một hành trình sáu trăm dặm và Jamie không còn giám chắc mình sẽ qua được chuyến đi này hay không. Cậu cũng không chắc là mình còn thiết sống nữa hay không.

  Vào cuối ngày thứ hai của cuộc hành trình thì sự khốn khổ đã lên tới đỉnh điểm. Hai người đồng hành cùng Jamie cũng chịu chung tình cảnh đó, thậm chí họ không còn đủ sức để phàn nàn điều gì cả. Giờ thì Jamie đã hiểu tại sao người đánh xe lại chỉ chấp nhận những người trẻ tuổi và khỏe mạnh.
  
  Rạng sáng ngày thứ ba, đoàn người tiến đến vùng Karroo Lớn, nơi mà cảm giác hưu quạnh mới thực sự bắt đầu. Vùng thảo nguyên khô cằn nằm phơi mình dưới ánh nắng mặt trời đầy gay gắt, trải dài dường như vô tạn.

  Thỉnh thoảng, qua lớp bụi đường, Jamie thấy từng đám người đang lê bước trên đường, cũng có người đi bằng ngựa hoặc bằng từng đoàn xe lớn do khoảng mười tám đến hai mươi con bò kéo. Những cố xe lớn chất đầy hàng hóa, lều bạt, cuốc xẻng, than củi, than đá, bột mì và dầu thắp đèn. Họ còn chở cả cà phê, gạo, đường, rượu vang, rượu Uýt-xky, giày ủng, m\nến Belfast và cả những tấm chăn mềm. Đó là những vật dụng thiết yếu dành cho những người tìm kiếm kim cương ở Klipdrift.

Mãi tới khi xe vượt qua con sông Orange thì quang cảnh đợn điệu, buồn tẻ của thảo nguyên mới chấm dứt. Những bụi cây dần cao và xanh hơn, có những đám cỏ rung rinh trong gió và đâu đó xuất hiện những lá cây nhọn, thấp.

  Jamie thầm nghĩ trong đầu: “Mình sắp đến nơi rồi!”. Niềm hy vọng bắt đầu lan tỏa trong tấm thân đầy mệt mỏi của chàng trai.

  Cuối cùng, họ cũng đến được Klipdrift sau hành trình kéo dài bốn ngày đêm không ngừng nghỉ, nhưng quang cảnh mà cặp mắt mệt mỏi, đỏ ngầu của cậu phát hiện ra thì không giống những gì mà bản thân cậu có thể tưởng tượng ra. Klipdrift giống như một bức tranh lớn với lều bạt, xe cộ xếp dọc các đường phố chính nằm dọc hai bờ con sông Vaal. Toàn những gã đi săn lùng kim cương với râu ria xồm xoàm, những tay đồ tể, những thợ làm bánh, lũ đầu trộm đuôi cướp và cả những người giáo viên. Ở trung tâm Klipdrift, những dãy nhà làm bằng gỗ tạo được dùng làm cửa hàng, cửa hiệu, phòng chơi bi-a và cả các phòng luật sư. Trên một góc phố trung tâm là khách sạn Vòm Hoàng Cung mang dáng vẻ xiêu vẹo, với một dãy các phòng không có cửa sổ.

  Jamie bước ra khỏi xe và ngã vật xuống đất, hai chân tê dại không còn gắng gượng dậy được nữa. Cậu nằm một lúc, đầu óc quay cuồng, phải mất một lúc lâu mới nhổm dậy được. Cậu lê bước về phía khách sạn, chật vật len qua đám đông trên hè phố. Căn phòng mà họ dẫn cậu đến chật chội, nóng nực và đầy ruồi. Nhưng cũng có được một cái giường nhỏ và Jamie đặt lưng xuống rồi thiếp đi nhanh chóng. Cậu đã ngủ một mạch mười tám tiếng liền.

  Jamie tỉnh dậy, toàn thân tê cứng và đau buốt nhưng tâm hồn thì tràn đầy phấn khích. “Mình đã tới nơi, đã đến đích” Jamie thầm nghĩ. Việc đầu tiên cậu làm là tìm kiếm chút thức ăn bỏ vào bụng. Khách sạn thì không có gì, nhưng có một cửa hàng ăn nhỏ ở góc bên kia đường với đông nghịt người. Cậu gọi một đĩa mì xào, một con cá lớn, một tảng thịt cừu nướng và một bánh bột nướng to.

  Cái bụng Jamie sau mấy ngày bị bỏ đói bắt đầu sôi lên. Cậu đành ngừng ăn trong giây lát để dạ dày được nghỉ ngơi đôi chút và bắt đầu đưa mắt nhìn xung quanh. Ở những bàn kế bên, đám đông tìm kiếm vận may đang bàn tán sôi nổi về chủ đề luôn thường trực ở trong đầu mỗi người – kim cương.

  “Vẫn còn một ít sót lại quanh vùng Hopetown, nhưng ở New Rush mới có nhiều…”

  “Ở Kimberley nhiều hơn ở Joburg…”

  “…Có ai biết về vụ phát hiện ở mãi tận Dutoitspan tuần trước không nhỉ? Họ nói ở đó có nhiều đến mức một người không thể mang hết…”

  “…Có một mỏ mới ở Christiana, ngày mai tôi sẽ tới đó…”

  Vậy là mọi chuyện đều có thật. Kim cương có khắp mọi nơi, Jame hồi hộp tới mức uống mãi mới hết cốc cà-phê. Cậu sửng sốt khi nhìn vào tờ phiếu thanh toán, hai bảng, ba xi-linh cho một bữa ăn - “Mình phải hết sức cẩn thận mới được” – Cậu thầm nghĩ khi bước ra khỏi quán ăn.

  Từ đằng sau cất lên một giọng nói: “Vẫn tiếp tục dự định làm giàu chứ, McGregor?”

  Jamie quay lại, đó là Pedersen, anh chàng Thụy Điển cùng đi trên chuyến xe thư.

  “Chắc chắn rồi!”- Jamie đáp

  “Vậy chúng ta cùng đi tìm những viên kim cương nào?” – Anh ta chỉ tay – “Đây là con đường dẫn tới bờ sông Vaal”

  Cả hai bắt đầu cùng đi.

  Klipdrift nằm trong một khu vực thung lũng lòng chảo, xung quanh là những dãy đồi núi kéo dài ngút tầm mắt. Mọi vật đều khô cằn, không có lấy một ngọn cỏ hay bụi cây. Những đám bụi đất đỏ lẫn vào không khí làm cho người ta cảm thấy khó thở. Dòng sông Vaal cách đó khoảng một phần tư dặm và khi họ tiến càng gần thì không khí càng mát mẻ. Lác đác dọc bờ sông là hàng trăm người đi tìm vận may như Jamie, một số đang đào bới, số khác đang trút sỏi đá vào những chiếc sàng, và còn phải kể đến những người đang sàng lựa để tìm ra các viên đá kim cương trên những chiếc bàn tạm bợ, ọp ẹp. Đồ nghề thì đủ loại, từ một băng chuyền sàng lọc có vẻ công nghệ cho tới những thùng, những xô chậu cũ kĩ. Tất cả bọn họ đều xạm đen vì nắng, râu ria xồm xoàm, quần áo tả tơi với nhiều màu sắc, kiểu dáng khác nhau, đeo mũ rộng vành. Ai cúng mang thắt lưng bằng da để giắt theo một túi nhỏ đựng kim cương hoặc tiền bạc.

  Jamie và Pederson rảo bước tới rìa bờ sông và đứng nhìn một chú bé cùng một người dứng tuổi dfdang cố bẩy một tảng  đá lớn để có thể xới lên những đống quặng sỏi quanh đó. Cả hai đều ướt đẫm mồ hôi. Cạnh đó, một nhóm khác đang xúc lớp sỏi đá lên một chiếc xe đẩy để  mang đi sàng. Một người trong bọn họ đang cầm lấy chiếc sàng còn một người khác đang đổ lên đó những thùng nước để xối đi lớp bùn đất. Phần sót lại liền được đổ lên một chiếc bàn và họ xúm lại xem xét.

  “Có vẻ ngon ăn nhỉ” – Jamie nghĩ thầm.

  “Đưngf tuơngr bở, McGregor. Tôi đã noí chuyện với một số người có chút kinh nghiệm tìm kiếm vận may ở đây. Bọn mình mắc lừa rồi cũng nên”.

  “Ý cậu là gì?”

  “Cậu biết có bao nhiêu kẻ đào mỏ đến tìm kiếm ở đây không? Tất cả đều mong muốn giàu có. Con số khốn nạn đó lên tới hai vạn người. Và tất nhiên là không thể có đủ kim cương cho mọi người. Dù là có đủ đi nữa, tớ cũng bắt đầu tự hỏi liệu nó có xứng với những gì ta bỏ ra hay không? Mùa đông thì giá rét, mùa hè thì nóng nực, những trận bão biển, lại còn bụi bặm mù mitj, những đàn ruồi và ong nữa chứ. Câụ không thể tắm cho ra tắm hay có một chiếc giường ra hồn, điều kiện vệ sinh ở cái thị trấn tù túng này thì thật là tởm. Tuần nào cũng có người chết đuối ở sông Vaal. Một số là do tai nạn, nhưng tớ nghe nói đa phần đó là cách thức duy nhất để thoát khỏi xứ sở địa ngục này. Không hiểu sao mà họ vẫn lao đầu như con thiêu thân vâỵ?”

  “Tớ cũng là một người như họ - Jamie đáp, ánh mắt nhìn cậu bé mang chiếc áo nhem nhuốc – Người ta còn có thể hy vọng ở xẻng đất tiếp theo!”

  Tuy nhiên, trên đường trở về thị trấn, chính Jamie cũng phải thừa nhận rằng Pederson đã nói đúng. Hai chàng trai đi qua những bầy cừu, bò, dê gầy guộc, được chăn thả tự do bên cạnh những lều trại rách rưới, gần sát những hố rãnh được dùng làm nơi đi ngoài. Quang cảnh thật tệ hại. Pederson chăm chăm nhìn Jamie và hỏi: “Giờ cậu định làm gì?”

  “Kiếm các dụng cụ cần thiết đã”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 17:37:27 | Chỉ xem của tác giả
  Ở trung tâm thị trấn có một cửa hiệu với tấm biển hiệu lem luốc đề dòng chữ: SALOMON VAN DER MERVE, cửa hàng tổng hợp. Một thanh niên cao to, tầm tuổi với Jamie đang dỡ hàng từ chiếc xe đậu trước cửa hàng. Anh chàng đó có đôi vai rộng, cơ bắp nổi cuồn cuộn, một người đẹp trai nhất mà Jamie từng gặp. Anh ta có đôi mắt đen thẫm, chiếc mũi khoằm và một chiếc cằm đầy vẻ kiêu hãnh. Ở anh toát lên một vẻ tự trọng và vẻ đẹp thầm lặng. Anh nâng một chiếc hòm gỗ nặng đựng những khẩu súng dài lên vai và khi quay người, anh ta trượt chân vì dẫm phải một cái lá bắp cải. Theo bản năng, Jamie đưa tay đỡ lấy anh ta. Người da đen dường như không hề thấy sự có mặt của Jamie, anh ta quay đi và bước vào bên trong cửa hàng. Một người Boer tìm kiếm vận may lúi húi với một con lừa bên cạnh đó lên tiếng với một giọng điệu dè bỉu: “Đó là Banda, đến từ bộ lạc Baroloong, làm công cho ông chủ Merwe. Tôi không hiểu tại sao mà ông ấy còn giữ lại tên mọi đen đó. Cái bọn Bantu nghĩ rằng chúng là chủ của quả đất này cơ đấy”.

  Bên trong cửa hàng mát và hơi tối, tạo ra cảm giác khoan khoái khi từ ngoài trời nắng bước vào, và có cả những mùi thơm lạ trong cả gian hàng. Trước mặt Jamie là vô số các hàng hóa: nông sản, bia, sữa hộp, xi măng, thuốc nổ, kíp nổ, thuốc súng, đồ thủy tinh, đồ gỗ, súng và cả kim chỉ, dầu thắp, sơn, véc-xin, hoa quả khô, yên cương, thuốc trải lông cừu, xà phòng, rượu mạnh, văn phòng phẩm, đường, chè, thuốc lá…Một dãy giá gỗ xếp quần áo, chăn màn, giày, mũ và những bộ yên ngựa. Jamie thầm nghĩ, người chủ cửa hàng này ắt hẳn phải giàu có lắm đây.

  Một giọng nói mềm mại cất lên từ phía sau Jamie: “Tôi có thể giúp gì không ạ?”

  Jamie quay lại và thấy trước mắt mình là một cô gái trẻ. Cậu đoán cô ta khoảng mười lăm tuổi. Cô gái có khuôn mặt trái xoan xinh xắn, cuốn hút; chiếc mũi đẹp và cặp mắt xanh huyền ảo. Mái tóc đen sẫm uốn lượn. Nhìn thân hình cô gái, Jamie nghĩ chắc cô ta phải mười sáu, mười bảy tuổi.

  “Tôi là người đi tìm kim cương, tôi đến để mua iys dugnj cụ” – Jamie nói.

  “Anh cần những gì?”

  Vì một điều gì đó, Jamie cảm thấy mình phải gây ấn tượng đối với cô gái này: “Tôi, ờ…ờ, cô biết đấy, những vật dugnj thông thường?”

  Cô gái mỉm cười, vẻ ranh mãnh hiện lên trong đôi mắt “ Thứ thông thường đó là gì thế ạ, quí anh?”

  “Ờ…- Jamie ngập ngừng – một chiếc xẻng”

  “Chỉ vậy thôi sao?”

  Jamie nhận thấy cô ả đang trêu chọc mình. Cậu gượng cười và thú nhận : “Thú thật với cô, tôi mới đến, tôi không còn biết còn những gì cần thiết nữa”.

  Cô gái mỉm cười, một nụ cười của một người đàn bà “ Điều đó còn phụ thuộc vào nơi anh định tìm kiếm vận may ở đâu, anh….?”

  “McGregor, Jamie Gregor”.

  “Em là Margaret Van der Merwe” – cô sợ hãi đưa mắt về phía sau cửa hàng

  “Rất vui được gặp cô, cô Merwe”.

  “Anh vừa tới đây à?”

  “Vâng, hôm qua, bằng xe thư”.

  “Chẳng lẽ lại không có ai cảnh báo báo trước với anh về chuyến đi như vậy sao. Nhiều người đã bỏ xác trên loại xe đó” – vẻ bực dọc hiện rõ trong mắt cô gái.

  Jamie nhoẻn miệng cười: “Tôi có trách cứ ai đâu, tôi vẫn sống khỏe mạnh đây thôi, cảm ơn cô!”

  “Và lao vào cuộc săn lùng mooi klippe?”

  “Mooi klippe?”

  “Tiếng Hà Lan có nghĩa là kim cương, những viên đá quý xinh đẹp”.

  “Cô là người Hà Lan à?”

  “Gia đình em đến từ Hà Lan”.

  “Còn tôi đến từ Xcốt-len”.

  “Em có thể nhận ra điều này”. Cô gái lại lo ngại ngước nhìn về phía sau. “Anh McGregor, đúng là quanh đây có kim cương nhưng anh phải lựa chọn điểm khai thác, tìm kiếm. Hầu hết những người kia đều lao vào những cái vòng luẩn quẩn. Khi ai đó tìm ra kim cương, lập tức những người còn lại đổ xô đến khu vực đó để mong tìm thấy những gì còn sót lại. Nếu anh muốn làm giàu, anh phải có một phát hiện của riêng mình”.

  “Nhưng tôi phải lang như thế nào?”

  “Cha em là người có thể giúp anh. Ông biết tất cả, khoảng một tiếng đồng hồ nữa thì ông ấy sẽ rảnh”.

  “Tôi sẽ trở lại – Jamie nói giọng quả quyết – Cảm ơn cô Merwe”.

  Cậu bước ra đường ngập tràn ánh nắng với cảm giác phấn chấn, quên đi những cảm giác đau đớn ê ẩm về mặt thể xác. Nếu ông Solomon Van der Merwe có lời khuyên dành cho cậu về các mỏ tìm kiếm kim cương thì không có lý gì để Jamie thất bại. Cậu sẽ vượt lên trên tất cả bọn họ. Cậu cười vang trong niềm sung sướng của tuổi trẻ với niềm hy vọng trở nên giàu có.

  Jamie bước dọc theo những con phố chính, qua nhiều cửa hàng, cửa hiệu. Cậu bước tới một khách sạn tồi tàn và dừng chân trước tấm bảng ghi:

  “R-D MILLER, TẮM NÓNG LẠNH. MỞ CỬA TỪ SÁU GIỜ SÁNG ĐẾN TÁM GIỜ TỐI. CÓ PHÒNG THAY QUẦN ÁO TIỆN LỢI”

  Jamie nghĩ thầm, lần tắm gần đây nhất của mình là khi nào nhỉ? À, mình tắm trong thùng tắm trên boong tàu. Thật là sợ, cậu thấy mình hôi hám quá mức. Cậu nhớ về những lần tắm ở nhà và cảm thấy như đang nghe tiếng mẹ gọi: “Jamie, con phải kì cọ cho thật sạch vào đây”.

  Cậu quay người và tiến đến nhà tắm. Bên trong có hai cửa, một cho nam và một dành cho nữ. Jamie bước vào khu tắm dành cho nam giới, tới trước mặt một người phục vụ đã đứng tuổi: “Một lần tắm là bao nhiêu tiền vậy?”

  “Mười xi-linh tắm nước lạnh, mười lăm cho tắm nước nóng”.

  Jamie lưỡng lự chốc lát. Ý nghĩ về việc được tắm nước nóng sau một chuyến đi dài làm cậu gần như không cưỡng lại được. “Tắm lạnh” – cậu thốt lên. Cậu không thể cho phép bản thân phung phí tiền bạc, còn phải mua nhiều vật dụng cần thiết. Người phục vụ đưa cho cậu miếng xà phòng tắm màu vàng phếch, một chiếc khăn tắm thô lậu và chỉ tay “trong kia, anh bạn”.

  Jamie bước vào phòng tắm nhỏ bên trong trống trơn, trừ một cái bồn tồi tàn và đôi ba chiếc móc ở trên tường. Người phục vụ lấy nước từ một chiếc thùng gỗ lớn rồi đổ vào bồn tắm.

  “Tất cả đã sẵn sàng đối với anh rồi đấy. Háy treo quần áo lên mắc kia”.

  Chờ cho người phục vụ đi ra, Jamie cởi quần áo. Cậu nhìn thân thể cáu bẩn của mình và bước một chân vào bồn tắm. Nước lạnh ngắt, đúng là tắm lạnh. Cậu nghiến răng ngâm mình trong nước, lập cập xoa xà phòng tắm từ đầu tới chân. Cuối cùng, cậu bước ra khỏi bồn tắm khi nước đã chuyển màu đên sì. Cố gắng lau người bằng chiếc khăn tắm cũ, cậu mặc vội quần áo. Cậu thấy khó chịu khi phaie mặc lại bộ đồ bản thỉu và nghĩ tới việc phải mua một bộ đồ khác để thay đổi và điều này một lần nữa làm cậu nhớ đến khoản tiền còn lại. Cậu cảm thấy đói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 21:32:04 | Chỉ xem của tác giả
Jamie rời khỏi nhà tắm và len lỏi trên đoạn đường phố đông đúc, tiến đến một quán ăn có tên là Hoàng Hôn. Cậu gọi một suất ăn trưa và một ly bia. Tất cả chỉ là một lát thịt cừu xốt cà chua, mấy miếng xúc xích và đôi ba lát khoai tây. Trong khi ăn, cậu lắng nghe những lời trao đổi đầy vẻ hào hứng xung quanh.

  “…Tôi nghe nói họ tìm được một viên gần Colesburg nặng tới hai mốt ca-ra. Thấy chưa, nếu như có một viên kim cương ở đó, tất nhiên còn có nhiều viên khác nữa”.

  “…Mới có người phát hiện ra kim cương ở Hebron, tôi sẽ tới đó”.

  “Mày là thằng khờ. Những viên lớn nằm ở vùng sông Orange”.

  Ở góc quầy bán hàng, một vị khách có bộ râu xồm xoàm đang pha chanh vào một ly bia lớn “Tôi cần ai đó giúp chút vốn”

  Chủ quán là một lão già to lớn, đầu hói với cái mũi khoằm và cặp mắt đầy vẻ soi mói. Lão cười lớn: “Quỉ thật, ông bạn, ai mà chẳng cần vốn. Ông không nghĩ tôi mở cái quán này làm gì à? Ngay khi nào có đủ vốn, thể nào tôi cũng sẽ đến tận vùng Orange”. Lão lau mặt quầy hành bằng một chiếc giẻ bẩn thỉu “nhưng tôi có một lời khuyên cho ông. Hãy tìm Salomon Van der Merwe. Ông ta là chủ cửa hàng bách hóa lớn nhất ở thị trấn này”.

  “Tôi sẽ có được gì từ ông ta?”

  “Nếu ông ta kết, ông ta có thể hùn vốn cho ông”.

  Vị khách đưa mắt nhìn lão chủ cửa hiệu: “Thế hả, ông thật sự nghĩ vậy à?”

  “Ông ta đã làm vậy với một vài người mà tôi biết, ông bỏ sức ông ấy góp tiền và hai người ăn chia theo tỷ lệ năm mươi năm mươi”.

  Các ý nghĩ vụt xuất hiện trong đầu Jamie McGregor. Cậu tin rằng món tiền một trăm hai mươi bảng còn lại sẽ đủ để mua dụng cụ và lương thực, nhưng giá cả ở Klipdrift thật khủng khiếp. Cậu từng để ý thấy ở cửa hàng của Vander Merwe, một bao bột Ốt-xtrây-li-a loại năm mươi kilogam có giá tới năm bảng. Nửa kí đường giá những một xi-linh, một chai bia năm xi-linh, một tá trứng bảy xi-linh. Với giá cả đắt đỏ như vậy thì ssos tiền ít ỏi kia của cậu chẳng mấy chốc hết veo. “Lạy chúa” – Jamie thầm nghĩ: “Ba bữa ăn ở đây đủ sống cả năm ở quê mình”. Nhưng nếu cậu có được sự trợ giúp của một người giàu có, như Vander Merwe……..Jamie vội vã trả tiền và đi nhanh về phía cửa hàng bách hóa.

  Vander Merwe đang đứng sau quầy hàng, bốc dỡ những khẩu súng trường từ một chiếc hòm gỗ. Ông ta có dáng vóc nhỏ bé, gương mặt thì mỏng toẹt, mái tóc muối tiêu, đôi mắt đen ti hí, cái mũi xùm xụp và cái miệng thì lúc nào cũng mím chặt. “Cô con gái chắc giống mẹ” – Jamie thầm nghĩ – “Xin lỗi ông…” – Cậu cất tiếng.

  Vander Merwe ngước lên: “Hả?”

  “Ông là Vander Merwe phải không ạ? Tôi là Jamie McGregor. Tôi là người Xcốt-len, đến đây để tìm kim cương”.

  “Vậy thì sao?”

  “Tôi nghe nói, đôi khi ông cũng giúp đỡ mọi người?”

  Vander Merwe gắt lên: “Mẹ kiếp, kẻ nào dám dựng chuyện như vậy? Tôi có giúp một số người và có vậy mà mọi người cho rằng tôi là một vị thánh”.

  “Tôi dành dụm được một trăm hai mươi bảng – Jamie khẩn khoản nói tiếp – nhưng tôi thấy rằng số tiền đó mà sống ở đây thì chẳng bõ bèm gì. Tôi sẵn sàng vào cuộc chỉ với một cái xẻng, nếu là tình thế bắt buộc. Nhưng hẳn là tôi sẽ có cơ may lớn hơn nếu có được một con lừa và các dụng cụ thích hợp”.

  Vander Merwe hướng cặp mắt ti hí nhìn chàng trai với vẻ dò xét: “Điều gì làm cho cậu tin rằng sẽ tìm được kim cương?”

  “Tôi đã vượt nửa vòng trái đất để đến được đây, thưa ông Vander Merwe, và tôi sẽ không rời khỏi nơi đây nếu chưa giàu có. Nếu đâu đó có kim cương thì thực sự là tôi sẽ tìm ra nó. Nếu ông giúp, tôi sẽ làm cho cả ông và tôi trở nên giàu có”.

  Vander Merwe làu bàu, quay lưng lại phía Jamie và tiếp tục dỡ những khẩu súng. Jamei đứng đần ra với vẻ bối rối, chẳng biết nói gì hơn. Khi Vander Merwe cất tiếng trở lại. câu hỏi của lão khiến Jamie bất ngờ “Cậu đến đay bằng xe bò kéo à?”

  “Không, xe thư”.

  Lão quay nhìn Jamie với vẻ thăm dò. Sau lão cũng cất tiếng: “Chúng ta sẽ thảo luận về việc này”.

  Họ nói về công chuyện trong bữa ăn tối hôm đó tại một gian phòng thuộc khu sinh hoạt của Vander Merwe, nằm sát ngay phía sau cửa hàng. Đó là một căn phòng nhỏ được dùng vừa làm bếp, vừa là phòng ăn và phòng ngủ, với một chiếc ri-đô ngăn giữa hai chiếc giường. Nửa dưới những bức tường được xây dựng bằng đá và đất sét, nửa trên là ghép các tấm bìa các-tông cũ. Một lỗ vuông nhỏ được cắt ra để làm cửa sổ và trong trường hợp mưa gió thì có thể được che lại bằng một tấm bìa khác. Chiếc bàn ăn là hai tấm gỗ được kê cao. Một chiếc thùng gỗ đặt nằm nghiêng tạo thành một chiếc tủ dùng để đựng ly, tách, thìa, đũa…..Jamie đoán chắc Vander Merwe là người không dễ dãi với những đồng tiền mà mình bỏ ra.

  Cô con gái của Vander Merwe lặng lẽ chuẩn bị bữa ăn. Thỉnh thoảng cô nhìn trộm ông bố, nhưng chẳng thèm để ý gì tới Jamie. Jamie băn khoăn không thể cắt nghĩa được vẻ sợ sệt của cô gái.

  Khi cả ba ngồi vào bàn ăn, Vander Merwe bắt đầu lên tiếng: “Chúng ta hãy cầu kinh. Chúng con cảm ơn Chúa về những gì mà chúng con đã nhận được từ tay người. Chúng con tạ ơn Chúa vì đã tha tội cho chúng con, và chỉ cho chúng con con đường tới chính đạo, cứu vớt chúng con khỏi những cám dôc trần tục. Chúng con tạ ơn Chúa vì một cuộc đời dài và hạnh phúc, về sự trừng phạt đối với những kẻ xúc phạm tới Người, A-men”. Và không dứt lời để thở, gã bảo cô con gái: “Đưa phần thịt đây cho ta”.

  Bữa ăn khá thanh đạm: một miếng thịt lợn rán, ba củ khoai tây luộc và một đĩa rau. Phần ăn mà ông dành cho Jamie thật ít ỏi. Hai người đàn ông thỉnh thoảng nói chuyện qua lại khi ăn trong khi Margaret không nói một lời nào”.

  Khi họ ăn xong, Vander Merwe nói: “Bữa ăn thật tuyệt, con gái - giọng ông đầy vẻ hãnh diện – Chúng ta bàn chuyện công chứ hả?”

  “Vâng. thưa ông”.

  Vander Merwe nhấc cái ống điếu dài lên, lấy một loại thuốc lá có mùi hương thơm phức từ một cái túi nhỏ, nhồi thuốc vào điếu và châm lửa hút. Cặp mắt sắc lẹm của lão nhìn Jamie chằm chằm qua làn khói thuốc.

  “Những kẻ tìm kiềm kim cuowg ở Klipdrift này là một bọn ngu ngốc. Mật thì ít mà ruồi thì nhiều. Có đào còng lưng cả năm ở đây cũng chẳng tìm thấy cóc khô gì đâu”.

  “Dạ, thưa ông. Nhưng vấn đề nằm ở đâu ạ?”

  “Người Griquas”

  Jamei nhìn lão già không ngơi mắt.

  “Họ là một bộ tộc Châu Phi sống ở miền Bắc. Họ tìm được kim cương, những viên kim cương lớn và thỉnh thoảng họ mang đến chỗ ta dổi lấy hàng hóa – lão già người Hà Lan nói với giọng thì thào – ta biết họ tìm thấy chúng ở đâu”.

  “Vậy thì ông có thể lượm lấy về cho mình rồi, thua ông Vander Merwer”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 22:50:58 | Chỉ xem của tác giả
Vander Merwer thở dài. “Không, ta không thể rời bỏ cửa hàng này được. Bọn người làm sẽ ăn cắp hết đồ của ta. Ta cần một người tin cậy đi tới đó và mang kim cương về. Khi tìm được người đó, ta sẽ chu cấp cho anh ta các vật dụng cần thiết – lão ngừng lại và rít một hơi thuốc lá – và ta sẽ nói cho anh ta biết nơi có kim cương”.

  Jamie chồm người lên, tim cậu đập mạnh: “Ông Vander Merwe, chính tôi là người mà ông đang tìm kiếm. Hãy tin tôi, thưa ông, tôi sẽ làm việc hết sức - giọng cậu gần như lạc đi vì xúc động - Tôi sẽ mang về cho ông thật nhiều kim cương”.

  Vander Merwe lặng lẽ nhìn cậu và đối với Jamie, khoảnh khắc này sao mà dài như cả thế kỉ. Cuối cùng thì Vander Merwe cũng lên tiếng, lão chỉ thốt ra đúng một từ: “Được”.

  Sáng hôm sau, Jamie kí vào bản hợp đồng được soạn bằng một thổ ngưc Châu Phi.

  “Tôi sẽ phải giải thích rõ với cậu” – Vander Merwe nói – “Trong đó qui định rằng chúng ta là đối tác. Tôi bỏ vốn cậu góp sức lao động. Chúng ta sẽ chia sẻ mọi thứ bình đẳng”.

  Jamie nhìn bản hợp đồng trong tay Vander Merwe. Cậu chỉ nhận ra mỗi hai từ “hai bảng” trong một mớ những từ xa lạ kia.

  Jamie chỉ tay vào đó và hổi: “Điều này có nghĩa là gì vậy, ông Vander Merwe?”

  “Đây là khoản phụ thêm, ngoài quyền sở hữu một nửa số kim cương tìm được, cậu sẽ được thêm hai bảng cho mỗi tuần làm việc. Mặc dù tôi nghĩ rằng ở đó có kim cương nhưng có thể cậu vẫn chẳng tìm được gì cả, chàng trai ạ. Như vậy, ít ra cậu cũng kiếm được chút xíu với sức lực mà cậu phải bỏ ra”.

  “Ông này xử đẹp qua” – Jamie thầm nghĩ – “Cảm ơn ông rất nhiều”, Jamie chỉ muốn ôm chầm lấy ông ta.

  Vander Merwe nói: “Bây giwof chúng ta lo trang bị cho cậu trước đã”.

  Phải mất hai giờ để lựa chọn những dụng cụ mà Jamie sẽ mang đi: Một lều vải nhỏ, giường gấp, đồ nấu ăn, hai cái sàng, một cuốc chim, hai chiếc xẻng, ba cái chậu gỗ nhỏ, một bộ quần áo mặc ngoài và một bộ đồ lót. Còn có cả đèn bão, dầu đốt, đường kính, muối, cà-phê, xà phòng tắm……Cuối cùng thì mọi thứ cũng đã xong. Người hầu da đen Banda lặng lẽ giúp Jamie chất tất cả những đồ này vào một cái ba lô lớn. Người đàn ông lực lưỡng không hề ngước nhìn Jamie dù chỉ một lần, Jamie nghĩ: “Anh ta chắc không nói được tiếng anh”. Margaret ở trong cửa hàng phục vụ khách và không hề tỏ vẻ gì trước sự có mặt của Jamie.

  Vander Merwe bước sát tới Jamie: “Con lừa của cậu ỏe đằng trước. Banda, giúp cậu ấy chất đồ lên”.

  “Cảm ơn ông Vander Merwe” – Jamie nói – “Tôi…….”

  Vander Merwe nhìn xuống tờ giấy đầy những con số “Tất cả là một trăm hai mươi bảng đấy nhé”.

  Jamie nhìn lão ngạc nhiên: “Cái gì vậy? Đây là một phần của hợp đồng mà chúng ta đã cam kết”.

  “Sao?” – Khuôn mặt mỏng dính của Vander Merwe cạu lại – “Cậu muôn sta cho cậu tất cả chỗ này, một con lừa mạnh khỏe, đặt cậu là một đối tác để chung vốn và thêm vào đó là đưa cho cậu hai bảng mỗi tuần? Nếu cậu chẳng muốn mất gì mà vẫn được chia phần thì cậu nhầm rồi”. Lão bắt đầu dỡ một túi hàng xuống.

  Jamie vội vã ngăn lại – “Đừng, xin ông Vander Merwe. Chỉ vì tôi không nắm rõ. Hoàn toàn có thể thu xếp được mà. Tôi có tiền tươi đây”. Cậu thò tay vào túi và đặt số tiền cuối cùng dành dụm được lên quầy hàng.

  Vander Merwe lưỡng lự: “Thôi được” –lão nói với vẻ miễn cưỡng – “Có thể là có chút hiểu lầm. Cái thị trấn này đầy bọn ma cô. Trong công việc, ta phải cẩn thận với mọi người”.

  “Dĩ nhiên là nhue vậy, thưa ông” – Jamie nói với vẻ tán đồng. Trong lúc phấn khích, cậu đã hiểu chưa đúng. “Thật may cho mình, ông ta còn nghĩ lại” – Jamie thầm nghĩ.

  Vander Merwe thò tay vào túi và lôi ra một tấm bản đồ nhỏ, nhàu nát, được vẽ bằng tay “Đây là nơi cậu sẽ tìm thấy kim cương, vùng Magerdam phía bờ Bắc của sông Vaal”.

  Jamie xem kĩ tám bản đồ, tim cậu như đập nhanh hơn. “Nó cách dfdaay mấy dặm?”

  “Ở đây người ta tính khoảng cách bằng thời gian. Đi bằng lừa, cậu sẽ mất khoảng bốn đến năm ngày. Còn khi trở về thì sẽ mất nhiều thời gian hơn, vì còn thêm sức nặng của mấy viên kim cương”.

  Jamie nhoẻn miệng cười: “Vâng, thưa ông”.

  Khi Jamie đi ra ngoài phố Klipdrift, cậu không còn là một du khách nữa. Cậu đã là một người đi săn lùng kim cương nhằm tiến đến tương lai giàu có của mình. Banda đã làm xong việc chất đồ lên lưng con lừa được buộc vào cái cọc trước cửa hàng.

  “Cảm ơn!” – Jamie tươi cười nói.

  Banda quay lại và nhìn thẳng vào cặp mắt cậu, rồi lặng lẽ quay đi. Jamie cởi sợi dây buộc và nói vowid chú lừa: “Nào, lên đường. Đã tới lúc tìm đến những nơi có kim cương”.

  Màn đêm buông xuống, Jamie dựng lều bạt bên cạnh một dòng suối, dỡ đồ trên lưng con lừa và tắm cho nó, cho nó ăn, rồi cậu tự chọn cho mình một vài lát thịt bò, mấy trái mơ khô và một chút cà-phê. Đầy những âm thanh lạ trong màn đêm. Cậu nghe tiếng những con thú hoang đang lần xuống suối uống nước. Cậu hoàn toàn cô độc trong đêm, trên một vùng đất xa lạ, giữa những con thú dữ. Mỗi tiếng động đều làm cậu giật nảy mình. Thường trực trong cậu là một nỗi lo sợ bị những nanh vuốt từ trong bóng đêm chồm tới. Cậu bắt đầu suy nghic miên man. Cậu nghĩ tới chiếc giường êm ấm ở nhà và sự thoải mái an toàn mà cậu luôn có trước đây. Cậu ngủ thiếp đi với những giấc mơ đầy sư tử, voi và kẻ lực lưỡng, râu ria đang cướp khỏi tay cậu những viên kim cương to.

  Tờ mờ sáng, khi Jamie tỉnh dậy, con lừa đã chết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 12:35:24 | Chỉ xem của tác giả
HAI




  
  Cậu không còn tin vào mắt mình nữa. Cậu cố tìm xem con lừa có bị vết thương nào không, nhưng không thấy. Con vật đã chết trong khi ngủ. Ông Vander Merwe chắc sẽ buộc tội mình vì điều này. Nhưng điều đó chẳng có nghĩa lý gì khi mình mang kim cương về cho ông ta.

  Không thể quay trở lại. cậu sẽ phải tiếp tụcđi tới Marderdam cho dù không có lừa. Tiếng quạ rít trong không gian, cậu ngước mắt lên nhìn những con quạ đen lớn đang lượn vòng trên cao……..Jamie chợt rùng mình.
  
  Cậu mau chóng thu xếp đồ dùng, quyết định cần phải bỏ lại những gì, rồi xếp những thứ cần thiết vào cái ba lô rồi lên đường. Vài phút sau, khi ngoái lại. Jamie thấy những gì còn nhìn thấy được chỉ là một cái tai dài. Jamie vội rảo bước.

  Đây đang là thời điểm tháng Mười hai, mùa hè ở Nam Phi. Và con đường băng qua thảo nguyên dưới một vầng mặt trời đỏ rực màu da cam thật là kinh khủng. Jamie khởi hành từ Klipdrift với những bước chân nhanh nhẹn và một trái tim đầy nhiệt huyết, nhưng theo thời gian, những bước chân và trái tim của cậu giờ cũng trở nên nặng nề hơn. Vút tầm mắt vẫn chỉ là một thảo nguyên dài dường như vô tận dưới ánh nắng gay gắt.

  Cứ khi nào bắt gặp một vũng nước hiếm hoi trên đường, Jamie liền dừng chân và đặt lưng ngủ giữa tiếng gầm rít của muôn thú xung quanh. Những âm thanh đó không làm phiền cậu nữa. Chúng là bằng chứng sống về sự sống nơi địa ngục bỏng rát này, chúng cũng làm cậu bớt cô đơn hơn.

  Một buổi sáng, Jamie đi ngang qua một bầy sư tử. Cậu đứng từ đằng xa và nhìn con sư tử cái đang cắp một con linh dương xuống trước mặt con sư tử đực và bỏ đi. Một con sư tử con lao tới, ngoặm thịt con linh dương. Với một động tác rất nhanh, con sư tử đực giơ chân trước tát vào mặt con con làm con này chết ngay tại chỗ, rồi nó thong thả xé xác con linh dương. Khi con đực ăn xong, các thành viên còn lại trong gia đình mới được phép tiến lại gần và gặm nhấm nhứng gì còn sót lại. Jamie tiếp tục cất bước sau khi chứng kiến cảnh đó.

  Phải mất hai tuần lễ, cậu mới vượt qua được vùng Karoo.

  Đã đôi lần cậu cảm thấy nhụt chí, cậu không còn giám chắc là sẽ đi hết quãng đường. “Nhẽ ra mình phải quay lại xin ông Vander Merwe một con lừa khác. Nhưng nếu ông ấy hủy bản hợp đồng thì sẽ phải tính sao. Không, mình đã quyết định đúng”.

  Và cứ như vậy, Jamie tiếp tục đi, lê từng bước chậm chạp. Một buổi, Jamie thấy bốn bóng người từ đằng xa đang đi về phía cậu. “Mình mơ ngủ rồi” – Jamie nghĩ. Thế nhưng những bóng người kia vẫn tiến gần lại và tim cậu bắt đầu đập mạnh. Người! có sự sống của con người ở đây! Cậu tự nhủ không biết đã quên mất ngôn ngữ của con người hay chưa. Cậu thử cất tiếng và tai cậu nghe tiếng nói của mình mà cứ ngỡ là của ai đó đã chết từ lâu. Bốn người đàn ông tiến lại gần, họ đang quay lại Klipdrift, trông họ mệt mỏi và lộ vẻ thất bại.

  “Xin chào!” – Jamie cất tiếng.

  Họ gật đầu. Một người trong số họ nói: “Ở phía trước chẳng có gì đâu. Đừng phí phạm thời gian anh bạn ạ. Quay trở về thôi”.

  Trong đầu Jamie không còn gì cả, ngoài con đường bụi mù mịt trước mắt. Mặt trời và những con ruồi đen trũi làm con người ta mệt nhọc và khó chịu khủng khiếp, không còn nơi nào có thể tạm nghỉ được. Cũng có những cành cây gai mọc bụi, nhưng cành lá của nó đã bị voi dày xéo.

  Mặt trời làm mặt cậu tối sầm, nước da thì cháy xạm. Mỗi lần hít thở là mỗi lần cảm thấy hai lá phổi như muốn vỡ tung ra. Cậu không còn bước nổi mà là lê chậm chạp, loạng choạng hướng về phía trước. Một buổi trưa, dưới ánh nắng mặt trời chói chang, cậu quảng ba lô ra khỏi lưng và ngã úp mặt xuống đât, không còn chút sức lực nào nữa. Cậu thiếp đi và mơ thấy mình đang ở trong một cái chảo rang khổng lồ, còn mặt trời thì biến thành một viên kim cương lớn đang cháy rực lửa, thiêu đốt cậu.

  Nửa đêm tỉnh dậy, run rẩy vì lạnh. Cậu buộc mình phải một vài miếng thịt và uống một chút nước ấm trong bình. Cậu quyết định phải tiếp tục đi trước khi mặt trời mọc, trong lúc trời còn chưa sáng thì thời tiết còn mát mẻ. Cậu cố nhổm dậy mà không được vì kiệt sức. Cứ nằm im và không đi một bước nào nữa, cảm giác đó thật dễ chịu “Mình sẽ chỉ ngủ thêm một chút nữa thôi” Jamie thầm nghĩ trong bụng. Nhưng một tiếng nói sâu thẳm nào đó cất lên từ trong người cậu, nhắc rằng cậu sẽ không bao giờ tỉnh dậy được nữa. Người ta sẽ tìm thấy xác cậu, như hàng trăm số phận khác.

  Cái ba lô nặng trĩu, cậu không cong nâng nổi và đành kéo lê nó theo sau. Cậu không thể nhớ đã ngã dúi xuống bao nhiêu lần rồi lại cố gắng đứng dậ. Cậu lẩm nhẩm thủ thỉ với bầu trời lúc bình minh: “Ta là Jamie McGregor, ta sẽ vượt qua tất cả. Ta sẽ phải sống, Chúa có nghe thấu lời con hay không? Con sẽ phải sống…….”

  Những giọng nói khác nhau lởn vởn trong đầu óc cậu.

  “Mày đi tìm kim cương hay sao? Thật là nông nổi quá con ơi. Tất cả chỉ là phù du – một thứ cám dỗ ma quỷ nhằm kéo con người ta ra khỏi những công việc mà thôi”.

  “Sao mày không nói xem sẽ đào đâu ra tiền để đi hả? Cả nửa vòng trái đất, còn mày thì một xu dính túi cũng không có”.

  “Vander Merwe, chính tôi là người ông tìm kiếm. Hãy tin tôi, tôi sẽ làm việc hết sức mình, thưa ông. Tôi sẽ mang về cho ông thật nhiều kim chương”.

  Và tất cả đã chấm dứt thậm chí trước khi công việc được bắt đầu – “Mày có hai sự lựa chọn, hoặc là đi tiếp, hoặc là chết ở đây, chết, chết, chết……”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 12:41:16 | Chỉ xem của tác giả
  “Mày có thể bước thêm một bước nữa – Jamie gằng nghĩ- Nào, một bước nữa, một bước nữa, tiến lên, Jamie”.

  Hai ngày sau, Jamie tiến tới được vùng Magerdam. Da cậu sưng rộp lên, ứa máu và nhiễm trùng. Hai mắt cậu sưng húp, cậu gục xuống đất trong bộ quần áo nhàu nát, mê man bất tỉnh.

  Ba ngày sau, khi tỉnh dậy, cậu thấy mình đang ở trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, toàn thân trần truồng, chỉ chừa những phần băng bó ở khắp người. Cậu thấy một người phụ nữ đứng tuổi, béo mập đang ngồi cạnh đầu giường.

  “Ơ…?” – Giọng cậu yếu ơt, không còn cất lên được.

  “Yên nào, cậu nhỏ. Cậu bị ốm đấy” bà ta nhẹ nhàng đớ đầu cậu lên và cho cậu uống một ngụm nước.

  Jamie chống cùi tay và cố nhổm lên. “Tôi…….- cậu nuốt nước bọt và cố gắng hết sức nói – Tôi đang ở đâu vậy?”

  “Cậu đang ở Magerdam. Tôi là Alice Jardine. Đây là nhà trọ của tôi. Rồi cậu sẽ khỏe, cần phải nghỉ ngơi, nằm xuống đi nào”.

  Jamie chợt nhớ tới những người lạ đã gỡ ba lô của mình, cậu hoảng hốt kêu lên - “đồ của tôi đâu rồi?” - cậu định nhổm dậy nhưng người phụ nữ đã chặn lại.

  “Tất cả đều an toàn. Đừng quá lo lắng, con trai”.

  Bà đưa tay chỉ cái ba llo ở trong một góc phòng.

  Jamie nằm yên trên chiếc giường có vải trắng muốt, sạch sẽ  “Mình đã tới đây, rồi tất cả mọi thứ sẽ ổn ngay thôi”.

  Alice Jardine thật là một phụ nữ nhân hậu, không chỉ với McGregor mà với tất cả bàn dân vùng Magerdam. Trong khu vực dân cư này, đầy những kẻ phiêu bạt, tất cả đều có chung một giấc mộng.

  Bà cho họ ăn uống, chăm sóc và động viên khích lệ họ. Bà là người Anh, đến vùng đất Nam Phi này cùng chồng sau khi ông quyết định thôi nghề dạy học ở Leed và lao vào cuộc săn lùng kim cương. Ba tuần sau khi đặt chân tới vùng đất này, ông chồng chết sau một trận sốt, nhưng bà vẫn bám trụ ở lại. Những người đi tìm kim cương đã trở thành con cái bà.

  Bà bắt Jamie nằm thêm bốn ngày nữa, cho cậu ăn và thay băng cho cậu, giúp cậu hồi phục sức lực. Sang ngày thứ năm thì Jamie bình phục.

  “Tôi rất cảm ơn bà, bà Jardine. Tôi không thể đền đáp gì cho bà được. nói chính xác là chưa thể. Song bà sẽ nhận được từ tôi một số viên kim cương trong một ngày nào đó gần đây. Đó là lời hứa của tôi đấy, lời hứa của Jamie McGregor”.

  Bà lão mỉm cười trước cách nói đầy vẻ nghiêm túc của chàng thanh niên trẻ. Cặp mắt xanh xám của cậu vẫn lộ rõ những nỗi sợ kinh hoàng mà cậu đã phải trải qua. Nhưng ở cậu vẫn toát lên một sức mạnh và một quyết tâm sắt đá. “Cậu ta thật khác so với những người khác” – Bà Jardine thầm nghĩ.

  Trong bộ quần áo thay mới, Jamie đi ra ngoài để làm quen với đường xá và cư dân ở vùng này. Làng Magerdam thật giống với một thị trấn Klipdrift thu nhỏ. Cũng những lều bạt, xe kéo và những con đường bẩn thỉu, những cửa hiệu và  những đám người đi săn lùng kim cương. Đi ngang qua một quán bán hàng giải khát, Jamie nghe thấy tiếng ồn ào huyên náo ở bên trong, cậu bước vào quán. Một túm người nói cười sôi nổi đang đứng xung quanh một người Ai-xơ-len mặc một chiếc sơ mi đỏ.

  “Có điều gì đang diễn ra vậy?” – Jamie cất tiếng hỏi.

  “Anh ta đang chuẩn bị làm mưa”.

  “Làm gì cơ á?”

  “Hôm nay, hắn ta là người giàu có vì tìm thấy kim cương, do vậy hắn ta chiêu đãi tất cả mọi người, tất cả. Muốn uống bao nhiêu thì cứ thả sức, anh ta sẽ bao tất cả”.

  Jamie tới bắt chuyện với một vài người khác đang ngồi quanh một chiếc bàn.

  “Anh từ đâu tới, McGregor?”

  “Từ Xcốt-len”.

  “Ồ, tôi không biết ở vùng đó các cậu tiêu pha cho những thứ chết tiệt gì không biết, còn ở đây thì chỉ gọi lại không có đủ kim cương để tiêu dùng”.

  Họ nói về những mỏ kim cương ở các nơi khác như: Gong gong, Forlon, Delpors……….

  Tất cả đám người này cùng có chung một đặc điểm – đó là trải qua những tháng ngày làm việc đến còng lưng mỏi gối, chuyển đá, đào đất rồi sàng lọc bỏ các lớp đất thịt bên bờ sông để tìm mót kim cương.

Mỗi người cũng tìm thấy tí chút kim cương cho mình, không đủ để trở nên giàu có nhưng cũng đủ để thắp lên và duy trì trong họ những giấc mơ vàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 12:45:37 | Chỉ xem của tác giả
Tâm lí chung của đám người này luôn có sự pha trộn lạ kỳ giữa lạc quan và bi quan. Những kẻ lạc quan thì đang kéo đến, những kẻ bi quan thì ra đi.

  Jamie hiểu cậu đang thuộc phe nào.

  Cậu tiến đến bên người Ai-xơ-len mặc áo sơ mi, người có cặp mắt đang đỏ lên vì rượu, cậu đưa cho anh ta xem tấm bản đồ của Vander Merwe.

  Gã trai ngước mắt nhìn và ấn trả lại vào tay Jamie “Chẳng có chút giá trị gì cả. Toàn bộ vùng đó đã bị xới tung lên rồi. Nếu là cậu, tôi sẽ đến vùng Bad Hope”.

  Jamie cảm thấy bất ngờ. Bởi lẽ vì tấm bản đồ kia mà cậu đã đến đây, nó là chìa khóa để mở toang cảnh cửa đến với giàu có của cậu.

  Một người khác lên tiếng: “Hãy đi Colesberg, đó là nơi mà bọn họ đang tìm kiếm nhiều kim cương, cậu nhóc ạ”.

  “Gilillans Rop – đó mới là nơi đáng để tìm kiếm”.

  “Nếu cần tới lời khuyên của tôi, anh hãy bắt đầu thử vận may ở Moonlight Rush”.

  Bữa ăn tối hôm đó, bà Alice Jardine nói: “Này Jamie, chỗ nào thì cũng như một canh bạc cả thôi. Hãy tự chọn cho mình một vùng đất mỏ, đào đi và cầu nguyện. Mọi người ai cũng như vậy mà”.

  Sau một đêm trằn trọc, Jamie quyết định quên đi tấm bản đồ của Vander Merwe. Bỏ qua lời khuyên của mọi người, cậu quyết định tiến về hướng Đông, dọc theo con sông Modder. Sáng sớm hôm sau, cậu chào tạm biệt bà Jardine và lên đường.

  Cậu đi suốt ba ngày hai đêm, đến một nơi có phong cảnh khá đẹp thì dừng lại và dựng lều. Dọc hai bên bờ sông là những tảng đá lớn, Jamie cầm mấy cành cây làm đong bẩy, nhẫn nại bẩy chúng đi để lấy phần đất đá bên dưới.

  Cậu đào từ sáng sớm đến tối mịt, tìm kiếm những mẩu đất đá màu vàng hoặc là xanh da trời – dấu hiệu có vỉa kim cương. Nhưng chỉ có đất sỏi khô cằn. Cậu đã nóng ruột suốt một tuần mà chẳng thu được kết quả gì. Đến cuối tuần, cậu lại lên đường đi tiếp.

  Jamie chuyển hướng lên mạn phía Bắc của con sông, vì nghĩ đó là nơi có thể có các mỏ kim cương, cậu đào bới cho tới khi tay chân mỏi rã không nhấc nổi cái cuốc chim nữa, cậu chuyển sang sàng lọc. Tối đến, cậu ngủ say như chết.

  Đến cuối tuần thứ hai, cậu lại đi lên thượng nguồn của con sông ở dải phía Nam, gần đó là một khu dân cư nhỏ tên là Poordspan.

  Cậu dừng lại ở một dải đất bên sông và dọn bữa ăn, nhóm lửa đun một ít chè nóng và ngồi ngay trước cửa lều, mắt ngước nhìn lên những vì sao trên bầu trời bao la.

  Đã hai tuần trôi qua, và cậu chưa gặp một bóng người nào. Trong lòng cậu chợt xuất hiện một cảm giác đơn độc trĩu nặng. “Mình ở đây làm cái quái quỉ gì nhỉ? – cậu tự hỏi – Ngồi ngay giữa một nơi hoang vắng như một thằng ngốc tệ hại tự hủy hoại bản thân với việc đào bới đất đá. Tốt nhất là trở về trang trại. Nếu thứ bảy tới mà vẫn chưa kiếm được viên kim cương nào, mình sẽ quay về nhà”.

Cậu ngước lên những vì sao tinh tú trên trời cao và hét lên: “Có nghe thấy tao nói không? Khốn khiếp” – “Ồ, lạy chúa, mình phát điên rồi” cậu trộm nghĩ.

  Jamie ngồi lặng yên, hờ hững vê một nắm đất cát qua kẽ ngón tay. Một viên đá lớn nằm lại trên tay cậu, cậu ngước mắt nhìn và hất nó ra xa. Trong những ngày qua, cậu đã thấy cả ngàn viên đá vô giá trị như nó rồi. Thế nhưng, viên đá này có gì đó khác khác, nó đột nhiên làm cậu phải chú ý.

  Cậu chạy lại và nhặt nó lên. Viên đá to hơn nhiều so với những viên khác, với những nét hoa văn kì lạ. Cậu chùi nó vào quần và nhìn kĩ hơn. Đây đúng là một viên kim cương.

Điều duy nhất khiến Jamie chưa tin ngay vào cảm giác của mình là kích cỡ quá lớn của viên đá. Nó to gần bằng quả trứng chim “Ôi, lạy chúa, nếu đây là một viên kim cương!” đột nhiên Jamie cảm thấy khó thở.

Cậu nhấc cái đèn chụp lên và bắt đầu tìm kiếm ở những khu vực xung quanh.Trong mười lăm phút, cậu nhặt được tới bốn viên giống như thế. Dù không có viên nào to bằng viên đầu tiên, nhưng chừng đó cũng đủ làm cậu sung sướng đến nghẹt thở.

  Cậu thức dậy trước khi mặt trời mọc, đào bới tìm kiếm như một kẻ điên và tới trưa thì cậu đã tìm thêm khoảng sau đến bảy viên nữa. Suốt tuần lễ kế tiếp, cậu cắm cúi đào bới và đi đến đâu cũng cất những viên kim cương đã tìm được vào một nơi mà chẳng ai có thể thấy được.

Ngày nào cậu cũng tìm thêm được những viên kim cương mới, và trong khi chứng kiến kho của mình ngày một lớn hơn, trong lòng Jamie tràn ngập một niềm vui sướng khó tả. Chỉ cần một nửa trong số này là của cậu, từng đó cũng là quá đủ để cậu trở nên giàu có mà dẫu có nằm mơ cũng chẳng bao giờ thấy được.

  Tuần cuối cùng, Jamie đánh dấu trên bản đồ và xác định chủ quyền khai thác của mình bằng cách cẩn thận dùng cuốc đánh dấu ranh giới. Cậu moi số kim cương dấu trước đó lên, thận trọng nhét xuống đáy ba lô và quay trở lại Magerdam.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách