Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết ] Tay Cự Phách | Sidney Sheldon

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 21:47:10 | Chỉ xem của tác giả
Một buổi chiều ngày thứ bảy, sau giờ làm việc, Jamie lần đầu tiên được nghe nói đến sa mạc Namib trong vùng Nemaqualand. Anh và Banda cùng ngồi trong nhà kho vắng vẻ trên tàu, cùng chia sẻ với nhau món thịt linh dương hầm mà mẹ Banda đã nấu. Thật là ngon tuy nó hơi nặng mùi với Jamie nhưng anh ăn sạch bát thịt nhanh chóng, rồi nằm tựa lưng trên cái bao cũ căn vặn Banda.

“Anh lần đầu tiên gặp Van der Merwe vào lúc nào vậy?”.

“Khi tôi làm việc ở bãi kim cương trong sa mạc Namib. Lão làm chủ bãi biển ấy với hai người hợp tác khác. Lão vừa mới cướp được chỗ đất ấy từ tay một tên thăm dò kim cương nên muốn xuống đó để thăm viếng”.

“Nếu Van der Merwe giàu có như thế, tại sao hắn vẫn làm việc ở cửa hàng bách hoá?”.

“Cửa hàng ấy chỉ là cái mồi nhử thôi. Nhờ thế lão mới nhử được bọn thăm dò kim cương đến với lão. Rồi lão trở nên giàu có mãi”.

Jamie nhớ lại trước đây anh đã bị hắn lừa gạt dễ như thế nào. Lúc ấy anh là một cậu con trai ngây thơ tin tưởng một cách quá dễ dàng. Anh còn nhớ đến khuôn mặt trái xoan của Margaret khi cô ta nói, “Cha tôi có thể là người sẽ giúp đỡ anh”. Thoạt tiên, anh ngỡ cô ta chỉ là một đứa trẻ con, nhưng rồi sau đó anh chợt chú ý đến bộ ngực cô ấy và… Jamie đột nhiên vụt đứng dậy, một nụ cười nở trên mặt, môi anh hếch lên làm cho vết sẹo ở ngang cằm nhăn nhúm lại.

“Anh kể cho tôi nghe trong trường hợp nào anh đến làm cho Van der Merwe”.

“Một hôm hắn đến bãi biển với cô con gái. Lúc ấy cô ta chừng mười một tuổi. Tôi đoán rằng cô ta không muốn ngồi một chỗ nên đi xuống nước chơi, thế rồi nước thủy triều dâng lên, cuốn cô ta ra xa. Tôi liền nhảy xuống nước, kéo cô ấy lên. Lúc ấy tôi còn là một đứa con trai ít tuổi nhưng tôi nghĩ rằng lão Van der Merwe sẽ giết tôi”.

Jamie nhìn Banda chằm chằm, “Tại sao vậy?”.

“Bởi vì tôi đã choàng tay xung quanh người cô ấy. Không phải bởi vì tôi là người da đen đâu mà là vì tôi là đàn ông. Hắn không chịu được ý nghĩ rằng có người đàn ông nào lại dám sờ lên người con gái hắn. Một người nào đó cuối cùng đã xoa dịu được hắn, và nhắc nhở hắn rằng tôi đã cứu mạng sống cho con gái hắn. Sau đó, hắn đưa tôi về Klipdrift làm đầy tớ cho hắn”. Banda do dự một lát rồi nói, “Hai tháng sau, em gái tôi đến thăm tôi”, giọng nói của Banda trở nên trầm tĩnh. “Nó cùng tuổi với con gái lão Van der Merwe”.

Jamie không thể góp một lời nào.

Cuối cùng Banda phá tan sự im lặng. “Lẽ ra tôi phải ở lại sa mạc Namib. Công việc ở đó dễ dàng. Chúng tôi bò dọc theo bãi biển để nhặt kim cương, rồi bỏ vào trong những hộp thiếc đựng mứt”.

“Khoan đã. Anh bảo rằng kim cương có sẵn ở đấy, trên mặt cát, hay sao?”

“Đúng vậy, anh McGregor ạ. Nhưng nếu anh có ý định gì trong đầu thì hãy quên đi. Không ai có thể lại gần bãi kim cương đó đâu. Nó ở trên bể và ở đó sóng cao đến hàng chục thước. Bọn chúng cũng không cần phải canh gác bờ bể nữa. Nhiều người đã cố gắng lẻn đến nơi ấy bằng đường bể, nhưng rồi tất cả đều bị giết bởi sóng hay đá ngầm”.

“Chắc là có cách nào khác đi vào trong đó chứ?”

“Không. Sa mạc Namib chạy dài xuống tận đại dương”.

“Thế chỗ đi vào bãi kim cương thì sao?”

“Có một chòi canh và dây kẽm gai. Bên trong hàng rào là bọn bảo vệ với súng và những con chó có thể xé xác người ta ra từng mảnh. Chúng nó lại có một thứ thuốc nổ mới gọi là mìn. Mìn được chôn ở khắp các bãi kim cương. Nếu anh không có một bản đồ về bãi mìn ấy thì anh sẽ bị nổ tung ra thành từng mảnh vụn”.

“Bãi kim cương ấy lớn bao nhiêu?”.

“Nó chạy dài chừng ba mươi lăm dặm”.

Ba mươi lăm dặm kim cương nằm trên mặt cát… Trời ơi!

“Anh không phải là người đầu tiên bị xúc động bởi mỏ kim cương ở Namib và anh cũng không phải là người cuối cùng. Tôi đã từng nhặt lên được những thứ gì còn sót lại của những kẻ đã đến nơi đó bằng thuyền rồi sau đó bị xé xác ra từng mảnh bởi đá ngầm. Tôi cũng thấy những gì các bãi mìn ấy đã gây ra cho những kẻ đặt sai bước chân, và cũng chính tôi nhìn thấy những con chó ấy xé toạc cổ họng người ta ra như thế nào. Hãy quên nó đi, anh McGregor ạ. Tôi đã ở đấy rồi, không có đường vào và cũng chẳng có đường ra – ấy là tôi muốn nói “ra mà vẫn còn sống”.

Jamie không thể nào chợp mắt được đêm hôm ấy. Anh tưởng tượng đến ba mươi lăm dặm cát trải đầy những viên kim cương to lớn thuộc quyền sở hữu của Van der Merwe. Anh nghĩ đến biển cả, những mỏm đá lởm chởm, những con chó thèm khát giết chóc, những tên bảo vệ và mìn chôn dưới đất. Anh không sợ nguy hiểm; anh không sợ chết. Anh chỉ sợ chỉ chết trước khi trả được món nợ với Salomon Van der Merwe.

Ngày thứ hai sau đó, Jamie đến hiệu bán bản đồ để mua bản đồ vùng Namaqualand. Có một bãi biển ngoài khơi Nam đại tây dương giữa Luderitz về hướng bắc và cửa sông Orange ở phía Nam. Vùng này được ghi bằng chữ đỏ: “Spergebiet”, có nghĩa là “vùng cấm”.

Jamie nghiên cứu từng chi tiết mảnh đất này trên bản đồ, xem đi xem lại bản đồ ấy. Có ba ngàn dặm bể từ Nam Mỹ đến Nam Phi, và không có gì ngăn cản sóng bể, cho nên tất cả sự hung dữ của chúng đều trút cả lên những tảng đá ngầm ở bờ bể Nam Đại Tây Dương. Bốn mươi dặm về phía Nam, xuống đến bờ biển, là bãi cát trống trải. Hẳn đó là nơi mà những kẻ khốn nạn đáng thương ấy đã thả những chiếc thuyền con của họ để đi vào vùng đất cấm, Jamie nghĩ thầm. Nhìn lên bản đồ, anh hiểu ngay vì sao bờ bể ấy không cần được canh gác. Các mỏm đá ngầm ấy khiến cho một cuộc đổ bộ không thể nào thực hiện được.

Jamie bắt đầu chú ý đến chỗ ra vào mỏ kim cương. Theo như Banda cho biết, vùng này được rào bằng dây kẽm gai và được bọn bảo vệ vũ trang đi tuần hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn. Ở chỗ ra vào có một tháp canh. Và cho dù người ta có len lỏi qua được tháp canh ấy, còn có bãi mìn và chó săn nữa.

Ngày hôm sau gặp Banda, anh hỏi: “Anh bảo rằng có một bản đồ vẽ bãi mìn ấy, phải không?”

“Ở sa mạc Namib à? Bọn bảo vệ có bản đồ ấy để dẫn dắt các công nhân đi làm việc. Mọi người phải đi thành một hàng dài, vì vậy không ai bị nổ lên”. Mắt Banda mơ màng như nhớ lại một kỷ niệm, “Một hôm, chú tôi đi trước tôi, bỗng ông vấp phải một hòn đá, rồi ngã xuống trên một quả mìn chôn dưới đất. Sau đó, không còn gì sót lại của ông ấy nữa để đưa về nhà”.

Jamie rùng mình.

“Ngoài ra còn có một thứ sương mù ở bể nữa, gọi là “mis” anh McGregor ạ. Có bị mắc vào thứ sương mù ấy ở Namib, người ta mới biết được nó như thế nào.. Nó cuồn cuộn trên đại dương rồi thổi ngang qua suốt cả sa mạc dài đến tận dãy núi, xoá nhoà mọi thứ. Nếu bị mắc vào trong đó, anh không còn dám cựa quậy nữa. Có bản đồ về bãi mìn thì cũng vô ích thôi bởi vì anh không thấy mình đi đâu cả. Mọi người đành phải ngồi yên tại chỗ cho đến khi sương mù tan ra.”

“Nó lâu chừng bao nhiêu?”

Banda nhún vai: “Có khi hàng giờ, cũng có khi hàng ngày”.

“Banda này, anh có thấy bản đồ về bãi mìn ấy bao giờ chưa?”

“Chúng giữ kỹ lắm”, một vẻ lo âu thoáng trên mặt anh. “Tôi bảo cho anh một lần nữa, không ai thoát ra nổi cái mà anh đang suy nghĩ đâu. Thỉnh thoảng cũng có một công nhân cố gắng đem một viên kim cương ra một cách lén lút. Có sẵn một cái cây đặc biệt để treo cổ họ. Đó là một bài học cho những ai muốn ăn cắp kim cương của công ty”.

Mọi thứ đều có vẻ không thực hiện được cả. Ngay cả nếu anh tìm cách đi vào được mỏ kim cương, anh cũng không thể nào tìm cách thoát ra được. Banda đã nói đúng. Anh phải quên chuyện ấy đi.

Ngày hôm sau, anh hỏi Banda: “Làm sao Van der Merwe ngăn được bọn công nhân không ăn cắp kim cương mỗi khi họ tan ca?”

“Họ bị lục soát. Chúng lột trần họ ra, khám xét từ trên xuống dưới, tất cả mọi lỗ trên người. Mắt tôi thấy công nhân cắt những vết rạch trên chân họ, nhét những viên kim cương vào đó để lén đem ra ngoài. Một số người đục lỗ trong răng đen của họ, rồi gắn vào đó. Họ áp dụng mọi mánh khoé có thể nghĩ ra được”. Anh nhìn Jamie và nói: “Nếu anh muốn sống, anh hãy quên cái mỏ kim cương ấy đi”.

Jamie cố gắng làm như vậy nhưng những ý tưởng đó vẫn ám ảnh, dụ dỗ anh mãi. Kim cương của lão Van der Merwe đang nằm trên cát chờ đợi. Chúng đang chờ đợi anh.

Giải pháp đến với Jamie vào đêm hôm ấy. Anh không thể chịu đựng nổi nỗi bồn chồn, sốt ruột cho đến khi anh gặp Banda. Không một lời mở đầu nào, anh nói thẳng với Banda: “Anh bảo cho tôi biết về những chiếc thuyền đã cố gắng đổ bộ trên bãi biển ấy”.

“Anh muốn biết gì các thuyền ấy?”.

“Chúng là loại thuyền như thế nào?”.

“Đủ mọi loại. Thuyền hai buồm, tàu kéo, thuyền máy, thuyền buồm. Có bốn người đã thử dùng một loại thuyền có mái chèo. Trong thời gian tôi làm việc ở đấy, có năm sáu vụ như vậy. Các mỏm đá ngầm nhá nát các thuyền ấy ra từng mảnh. Tất cả mọi người đều bị chết đuối”.

Jamie thở mạnh một cái: “Có ai thử đến đó bằng bè không?”.

Banda trố mắt nhìn anh: “Bằng bè à?”.

“Phải”, giọng nói Jamie lúc này thêm sôi nổi, “Nghĩ kỹ lại xem, không ai đi được đến bờ là vì đáy thuyền của họ bị đá ngầm xé toang ra. Nhưng một chiếc bè sẽ lướt ngay trên các đá ngầm ấy, đi thẳng đến bờ. Nó cũng có thể đi ra bằng cách như vậy”.

Banda nhìn Jamie một hồi lâu, khi mở miệng ra được, anh nói bằng giọng khác hẳn: “Anh biết không, anh McGregor. Anh vừa có ý kiến hay đấy…”.

Thoạt tiên, nó giống như một trò chơi. Những giải pháp có thể là đúng cho một câu đố không thể giải đáp. Nhưng càng thảo luận thêm, nó lại càng trở nên thích thú. Cái mà hai người Jamie và Banda bắt đầu bằng một câu chuyện phiếm, dần dần mang hình dáng cụ thể của một chương trình hành động. Vì kim cương nằm ngay trên mặt cát nên chẳng cần có một đồ trang bị gì cả. Họ có thể đóng một chiếc bè, với một cánh buồm trên một bãi cát trống bốn mươi dặm về phía nam “vùng đất cấm” rồi thả bè cho nó xuôi về ban đêm, không ai thấy được. Không có bãi mìn dọc theo bờ bể, không có người canh gác, còn những đội tuần tra thì chỉ hoạt động ở sâu trong đất liền. Hai người sẽ có thể tự do đi rảo trên bãi biển, tha hồ nhặt kim cương tuỳ thích.

“Chúng ta có thể lên đường trước khi trời rạng sáng”, Jamie nói, “với một túi đầy kim cương của Van der Merwe”.

“Nhưng bằng cách nào thoát ra?”.

"Cũng bằng cách giống như mình đi vào. Chúng ta sẽ chèo chiếc bè ngang qua mỏm đá ngầm ra đến biển cả, dựng buồm lên, thế là tự do về đến nhà”.

Với những luận cứ đầy thuyết phục của Jamie, các mối nghi ngờ của Banda bắt đầu tan biến. Anh cố tìm ra những khe hở trong dự tính này nhưng mỗi lần anh đưa ra một sự phản đối nào, Jamie đều tìm cách giải đáp. Dự tính này có thể thực hiện được. Cái hay của nó là tính chất đơn giản và không phải bỏ ra đồng tiền nào. Chỉ cần có nhiều gan dạ.

“Cái mà chúng ta cần chỉ là cái túi rõ bự để nhét viên kim cương vào đấy”, Jamie nói. Vẻ nhiệt tình của anh thật là dễ lây.

Banda cười rạng rỡ, “Chúng ta hãy làm hai cái túi bự”.

Tuần lễ sau, họ thôi làm việc ở bến tàu, lên một chiếc xe la đi Port Nolloth, một ngôi làng bên bờ bể, bốn mươi dặm về phía nam khu vực cấm mà họ sẽ đi tới.

Đến Port Nolloth, họ xuống xe và nhìn xung quanh. Ngôi làng nhỏ và đơn sơ, gồm những căn nhà lụp xụp, tồi tàn, những túp lều bằng thiếc, ít cửa hiệu và bãi cát trắng xoá trải dài vô tận. Ở đó không có mỏm đá ngầm. Sóng vỗ nhẹ nhàng ở ven bờ. Thật là một nơi lý tưởng để thả chiếc bè của họ.

Không có một khách sạn nào, những ngôi chợ bé nhỏ ở đó cho Jamie thuê một căn phòng ở phía sau. Banda cũng tìm được một chiếc giường nằm trong khu vực người da đen trong làng.

“Chúng ta phải tìm được nơi đóng bè cho kín đáo”, Jamie nói với Banda, “Chúng mình không muốn ai đó báo với nhà chức trách”.

Trưa hôm ấy, hai người tìm thấy một nhà kho bỏ trống.

“Nơi đây thật là tốt”, Jamie nói, “Chúng ta hãy bắt tay ngay vào việc đóng bè”

“Chưa đâu”, Banda nói, “Khoan đã, hãy đi mua một chai whisky”.

“Để làm gì?”.

“Rồi anh sẽ thấy”.

Sáng hôm sau, một viên cảnh sát địa phương đến thăm Jamie. Đó là một anh chàng to lớn, da mặt hồng hào, có cái mũi to lớn trên đó nổi lên những gân máu tố cáo rằng anh ta là một tay nghiện rượu nặng.

“Chào anh”, anh ta nói với Jamie, “Tôi nghe nói là có một ông khách mới đến nên tôi ghé lại đây thăm. Tôi là cảnh sát viên Mundy”.

”Tôi là Ian Travis”, Jamie đáp.

“Sắp đi lên phía Bắc, phải không Travis?”.

“Không, phía Nam. Tôi và tên đầy tớ của tôi đang trên đường đến Cape Town”.

“À, ra thế. Tôi trước kia cũng có ở Cape Town, nó quá lớn, quá ồn ào”.

“Đúng vậy, ông xơi một ly rượu nhé, ông cảnh sát?”.

“Tôi không bao giờ uống rượu trong khi làm phận sự”, cảnh sát viên Mundy dừng lại một lúc, trước khi đưa ra quyết định, “Nhưng chỉ một lần này thôi, tôi chắc có thể phá lệ”.

“Thế thì hay quá”, Jamie đem chai rượu whisky ra, trong lòng thán phục Banda có lẽ đã nghĩ ra trước điều này. Anh đổ chừng hai đốt ngón tay rượu vào trong chiếc ly bẩn và đưa cho viên cảnh sát.

“Cám ơn anh, Travis. Thế ly anh đâu?”.

“Tôi không thể uống được”, Jamie nói ra vẻ buồn bã, “Bệnh sốt rét. Vì vậy mà tôi phải đi Cape Town để được bác sĩ chăm sóc. Tôi dừng lại đây ít ngày để nghỉ ngơi. Đi đường thật khó nhọc”.

Cảnh sát viên Mundy nhìn anh dò xét, “Anh trông có vẻ mạnh khoẻ đấy chứ?”.

“Ông có thấy cơn run cầm cập của tôi bắt đầu thì mới biết được”.

Viên cảnh sát uống cạn ly rượu. Jamie lại đổ đầy ly lần nữa.

“Cám ơn. Tôi xin lỗi nhé”, ông ta uống ly thứ hai luôn một hớp rồi đứng dậy. “Tôi cần phải đi ngay bây giờ. Anh nói anh và tên đầy tớ của anh sẽ tiếp tục lên đường trong một hai ngày tới, phải không?”.

“Chừng nào tôi thấy khoẻ hơn chúng tôi sẽ đi ngay”.

“Tôi sẽ trở lại đây hỏi han anh vào ngày thứ sáu”, viên cảnh sát nói.

Đêm hôm ấy, Jamie và Banda bắt tay vào đóng bè trong nhà kho vắng vẻ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:00:21 | Chỉ xem của tác giả
“Banda, anh có đóng bè bao giờ chưa?”.

“Nói thật với anh, anh McGregor. Tôi chưa đóng bè bao giờ”.

“Tôi cũng thế”. Cả hai nhìn nhau chằm chằm. “Có khó không nhỉ?”

Họ ăn cắp từ phía sau chợ hai thùng dầu rỗng bằng gỗ, mỗi chiếc có dung tích chừng hai trăm lít và đem về kho. Sau khi tập hợp chúng lại, họ đặt chúng cách quãng nhau thành một hình vuông. Ngày hôm sau, họ thu thập thêm bốn thùng gỗ rỗng, đặt mỗi chiếc trên mỗi thùng dầu.

Banda tỏ vẻ nghi ngờ, “nó chẳng giống một chiếc bè chút nào”.

“Chúng mình chưa làm xong mà”, Jamie cố trấn an.

Vì không sẵn những tấm ván nên họ phủ lên bề mặt bất cứ thứ gì có sẵn trong tay: những nhánh cây gỗ hồi, cành cây giẻ gai, lá cây “marula” thật lớn. Họ buộc tất cả mọi thứ lại bằng dây thừng dày, thắt nút lại một cách cẩn thận, chính xác.

Khi làm xong, Banda xem xét một lượt, “vẫn không giống một chiếc bè”.

“Khi nào mình dựng buồm lên, nó sẽ giống hơn” Jamie hứa.

Họ làm cột buồm bằng một cây gỗ vàng đã bị đổ, rồi nhặt hai cành cây dẹp dùng làm chèo.

“Bây giờ chỉ còn việc là giăng buồm đi thôi. Cần phải làm cho thật nhanh. Tôi muốn ra khỏi nơi này ngay tối nay. Lão cảnh sát sẽ trở lại nơi này vào ngày mai”.

Chính Banda đã tìm ra cái buồm. Anh trở về vào lúc trời tối, mang theo một tấm vải xanh lớn, “Anh nghĩ cái này thế nào, anh McGregor?”.

“Tuyệt. Anh kiếm nó ở đâu ra vậy?”

Banda nhe răng cười, “Đừng có hỏi. Chúng mình đã gặp khá nhiều rắc rối rồi”.

Họ làm một cánh buồm với một cái sào căng buồm ở phía dưới và một cái trục căng buồm ở trên đỉnh. Cuối cùng, mọi thứ đều sẵn sàng.

‘Chúng ta sẽ lên đường lúc hai giờ sáng, khi dân làng đang còn ngủ”, Jamie bảo Banda, “Mình nên nghỉ ngơi cho đến lúc ấy’.

Nhưng không ai ngủ được cả. Mỗi người đều hồi hộp lo lắng về cuộc phiêu lưu họ sắp sửa thực hiện.

Vào lúc hai giờ sáng, hai người gặp nhau ở nhà kho. Cả hai đều cảm thấy háo hức nhưng không kém phần lo sợ, nhưng không ai nói ra. Họ sắp sửa thực hiện cuộc hành trình hoặc đưa họ đến sự giàu sang hoặc dẫn đến cái chết. Không có con đường nào ở giữa.

“Đến giờ rồi”, Jamie loan báo.

Hai người bước ra ngoài. Không có gì động đậy. Đêm thật yên tĩnh, với mặt nước mênh mông như một bức màn xanh trước mặt. Một vầng trăng bạc xuất hiện trên bầu trời cao. Tốt lắm, Jamie thầm nghĩ, sẽ không có nhiều ánh sáng lắm để họ có thể trông thấy mình. Thời khắc biểu của họ hơi phức tạp một chút vì họ phải rời khỏi ngôi làng vào lúc đêm để không ai biết và phải đến bãi bể kim cương tối hôm sau, như vậy họ có thể lẻn vào khu vực mỏ rồi trở ra bể an toàn trước khi rạng đông.

“Luồng nước Benguela sẽ đưa chúng mình đến mỏ kim cương vào khoảng xế trưa”, Jamie nói, “nhưng mình không thể đi giữa ban ngày được, vì vậy chúng mình phải lánh ở một nơi nào đó ngoài bể trước khi trời tối”.

Banda gật đầu, “Mình có thể nấp ở một trong các hòn đảo nhỏ ngoài khơi”.

“Đảo gì?”

"Có chừng một chục đảo – Mercury, Ichabud, Plum Pudding…”

Jamie nhìn Banda với vẻ lạ lùng, “Plum Pudding nghĩa là gì?”

“Còn có đảo Roast Beef nữa”.

Jamie giở bản đồ nhàu nát ra xem xét, “Chẳng thấy có đảo nào trên bản đồ này cả”.

“Đó là những đảo phân chim. Người Anh thu hoạch phân chim để làm phân bón”

“Có ai sống trên đảo ấy không?”.

“Không thể. Ở đó mùi hôi hám lắm. Có những nơi phân chim dày đến ba chục thước. Chính phủ dùng những tên đào ngũ và tù binh để nhặt phân chim. Một số người chết trên đảo, họ để mặc xác người chết tại đấy”.

“Mình sẽ nấp ở đấy”, Jamie đưa ra quyết định.

Lặng lẽ, hai người mở nhà kho và nhấc chiếc bè lên. Chiếc bè ấy nặng quá, không thể khiêng nổi. Cả hai cố gắng kéo mạnh, mồ hôi nhễ nhại nhưng vô hiệu.

“Chờ đấy”, Banda nói.

Anh vội vã đi ra ngoài. Nửa giờ sau anh quay lại với một thanh gỗ tròn lớn. “Mình sử dụng cái này. Tôi sẽ nhấc một đầu lên, còn anh đẩy cái thanh gỗ này xuống phía dưới”.

Jamie ngạc nhiên về sức khoẻ của Banda khi anh này nhấc bổng một đầu chiếc bè lên. Jamie nhanh chóng chuồi thanh gỗ xuống phía dưới. Cả hai cùng ra sức nhấc cái đuôi bè lên, thế là nó được đặt nhẹ nhàng xuống khúc gỗ. Khi khúc gỗ đã lăn khỏi đuôi bè, họ lặp lại cách thức như lúc nãy. Thật là công việc gay go, khó nhọc. Lúc họ đi ra đến bãi bể, cả hai đều ướt đẫm mồ hôi. Công việc này chiếm nhiều thời giờ hơn Jamie tưởng. Lúc này đã gần rạng đông rồi. Họ phải đi xa trước khi dân làng phát hiện ra họ và báo cáo những gì họ đang làm. Lập tức Jamie lắp cánh buồm vào, kiểm tra lại thật kỹ để tin chắc rằng mọi thứ hoạt động tốt cả. Nhưng anh vẫn cảm thấy khó chịu vì hình như anh còn quên một thứ gì đó. Đột nhiên, anh nghĩ ra và cười to lên.

Banda ngạc nhiên nhìn anh, “Có gì vui vậy?”.

“Trước kia khi đi tìm kim cương, tôi có một tấn đồ trang bị. Bây giờ tôi chỉ mang một cái địa bàn thôi. Có vẻ dễ dàng quá”.

Banda lặng lẽ nói, “Tôi không nghĩ rằng đó là vấn đề khó khăn của chúng ta, anh McGregor ạ”.

“Bây giờ có lẽ đến lúc anh gọi tôi là “Jamie” mà thôi”.

Banda lúc lắc đầu tỏ vẻ ngạc nhiên, “Anh đúng là một người từ xứ xa xôi đến đây”, Banda cười nhe hàng răng trắng ởn, “Cần quái gì, chúng nó có treo cổ tôi thì cũng chỉ treo được một lần thôi”, anh lẩm bẩm cái tên ấy trên môi rồi gọi to lên: “Jamie”.

“Nào, chúng ta hãy đi lấy kim cương”.

Họ đẩy chiếc bè ra khỏi cát, vào vùng nước cạn, rồi cả hai nhảy lên bè, bắt đầu chèo. Phải mất mấy phút đồng hồ họ mới điều chỉnh và quen được với cái nghiêng ngả, đi chệch hướng của chiếc bè này. Nó giống như một cái nút chai nổi bồng bềnh, nhưng nó sẽ hoạt động được. Chiếc bè đáp ứng một cách tốt đẹp, di chuyển theo hướng bắc với một dòng nước. Jamie kéo buồm lên, hướng ra biển cả. Lúc dân làng thức dậy, thì chiếc bè đã vượt quá chân trời.

“Chúng mình thành công rồi”, Jamie nói.

Banda lắc đầu “Chưa hết đâu”. Anh thả tay xuống dòng nước lạnh Benguala. “Chỉ mới bắt đầu thôi”.

Họ vẫn tiếp tục đi, hướng về phía Bắc quá vịnh Alexander và cửa sông River, không thấy dấu hiệu đời sống nào cả ngoài những đàn sếu ở Cape đang bay về tổ và một đàn hồng hạc lớn hơn, nhiều màu sắc. Mặc dầu có những hộp thịt, gạo, trái cây và hai bình nước, họ quá hồi hộp lo lắng nên không ăn uống gì được. Jamie không để trí óc của anh suy nghĩ vẩn vơ đến những mối nguy hiểm trước mặt nhưng Banda thì không thể làm thế được. Anh đã sống ở nơi đó rồi. Anh đang nhớ đến những tên bảo vệ tàn nhẫn với súng, chó săn và bãi mìn có thể xé nát da thịt. Thế rồi anh tự hỏi tại sao anh lại nghe lời Jamie đi vào cuộc phiêu lưu điên khùng này. Anh đưa mắt nhìn người Tô Cách Lan và nghĩ thầm, “Hắn còn điên khùng hơn cả mình nữa. Mình có chết cũng vì đứa em gái nhỏ của mình. Còn hắn, hắn chết vì cái gì?”

Đến trưa, những con cá mập xông đến. Có chừng năm sáu con, vây của chúng xẻ nước tiến thật nhanh đến chiếc bè.

“Đó là những con cá mập vây đen ăn thịt người”, Banda nói.

Jamie nhìn các vây cá lướt đến gần chiếc bè, “Mình làm thế nào bây giờ?”

Banda nuốt nước bọt lo lắng, “Thật sự, Jamie ạ, đây là lần đầu tiên tôi gặp trường hợp như thế này”.

Lưng con cá mập huých vào chiếc bè khiến nó suýt lật nhào. Hai người nắm lấy cột buồm dùng làm nơi tựa. Jamie nhặt lấy một cái chèo đâm vào con cá mập. Chỉ nháy mắt sau đó, cái chèo bị con cá mập cắn thành hai nửa. Nhiều con cá mập bây giờ đi vòng quanh chiếc bè, bơi theo những vòng tròn, thân hình to lớn của chúng cọ xát vào chiếc bè bé nhỏ. Mỗi lần nó huých như thế, chiếc bè lại nghiêng theo một góc nguy hiểm. Nó có thể lật nhào bất cứ lúc nào.

“Mình cần phải trừ khử chúng đi nếu không chúng sẽ dìm mình xuống nước mất”

“Trừ khử chúng bằng cách nào kia chứ?”

“Đưa cho tôi một hộp thiếc đựng thịt”.

“Anh nói đùa đấy chứ? Một hộp thịt bò làm sao thoả mãn được chúng? Chúng muốn ăn thịt chúng mình kia”.

Lại một cái xô đẩy mạnh nữa khiến cho cái bè nghiêng suýt lật nhào.

“Thịt bò!”, Jamie hét lên, “Lấy ngay đi”

Một giây đồng hồ sau, Banda đặt hộp thịt bò trong tay Jamie. Chiếc bè chòng chành hết sức nguy hiểm.

“Mở một nửa nắp hộp ấy ra, nhanh lên!”.

Banda rút dao nhíp ra, mở nắp hộp thiếc ra một nửa. Jamie cầm lấy, dùng ngón tây sờ các cạnh bén nhọn của hộp kim khí.

“Giữ chặt lấy!”, Jamie kêu lên.

Anh quỳ xuống bên mạn bè, chờ đợi. Ngay tức thì một con cá mập xích lại gần bè, há cái mồm to lớn của nó, nhe ra cái hàm răng dài khủng khiếp. Jamie tấn công vào đôi mắt của nó. Với tất cả sức lực, anh vươn cả hai tay ra, dùng cạnh sắc nhọn của hộp thiếc đã bị cắt cào lên mắt con vật, làm nó rách toang ra. Con cá mập tung cả thân hình nó lên, làm cho chiếc bè dựng ngược lên trong một lát. Nước xung quanh đó đột nhiên nhuộm màu đỏ. Các con cá mập khác sáp lại con vật bị thương, làm thành một tiếng động rất lớn. Chúng quên hẳn chiếc bè, Jamie và Banda nhìn những con vật to lớn đang xé xác nạn nhân bất lực trong khi chiếc bè đi xa dần, xa dần, cho đến khi không còn bóng dáng con cá mập nào nữa.

Banda thở mạnh một cái, nói khe khẽ, “Một ngày kia tôi sẽ kể cho con cháu tôi nghe về chuyện này. Anh có nghĩ rằng chúng sẽ tin tôi không?”.

Cả hai cười to lên cho đến khi nước mắt ràn rụa trên mặt.

Vào xế trưa hôm ấy, Jamie kiểm tra lại chiếc đồng hồ đeo tay của mình, “Chúng mình sẽ ở ngoài khơi bãi bể kim cương vào lúc nửa đêm. Mặt trời mọc vào lúc sáu giờ mười lăm. Như vậy mình có bốn giờ để nhặt kim cương và hai giờ để ra bể trở lại không ai trông thấy nữa. Bốn giờ có đủ không, Banda?”.

“Một trăm người cũng không thể sống đủ lâu để tiêu cho hết số kim cương anh nhặt được trong bốn giờ đồng hồ trên bãi bể đấy”. Anh chỉ hy vọng sống đủ lâu để nhặt số kim cương ấy…

Hai người cứ thế rong buồm đi về hướng bắc trong thời gian còn lại của ngày hôm ấy, nhờ gió và thuỷ triều. Đến chiều tối, một hòn đảo nhỏ hiện ra lù lù trước mặt. Nó có chu vi không quá hai trăm mét. Khi họ lại gần, mùi cay xè của chất “ammoniac” xông lên rất mạnh, khiến họ chảy nước mắt. Jamie hiểu vì sao không có ai ở nơi này. Mùi hôi thật là khó chịu nhưng đó là nơi an toàn nhất để nấp, chờ đợi cho đến khi trời tối hẳn. Jamie điều chỉnh cánh buồm khiến cho chiếc bè chạm phải bờ đá của hòn đảo thấp. Banda buộc chặt chiếc bè lại rồi cả hai bước lên bờ. Toàn thể hòn đảo như bị phủ đầy bởi hàng triệu con chim: sếu, bồ nông, chim cụt, hồng hạc. Bầu không khí dày đặc, ồn ào, rất khó thở. Đi được chừng một chục bước, họ dẫm lên một lớp phân chim cao đến tận bắp vế.

“Mình trở lại bè đi”, Jamie hổn hển nói.

Banda bước theo anh không nói một lời nào.

Họ vừa mới quay trở lại để đi trở về thì một đàn bồ nông cất cánh bay lên, để lộ ra một khoảng trống trên đất. Có ba xác người nằm đấy. Không biết họ đã chết bằng cách nào. Xác họ được giữ nguyên vẹn nhờ chất ammoniac trong không khí, và tóc họ đã trở thành màu đỏ sáng.

Một phút sau, Jamie và Banda trở lại bè, cho nó hướng ra biển khơi.

Họ cho bè đỗ ngoài khơi, hạ buồm xuống và chờ đợi.

“Mình ở lại đây cho đến khuya, rồi sẽ đi vào”.

Cả hai ngồi bên nhau trong im lặng, mỗi người chuẩn bị cho những gì sắp tới theo lối riêng của mình. Mặt trời xuống thấp ở chân trời phía tây, nhuộm bầu trời sắp tàn bằng những màu sắc hung dữ của một nghệ sĩ điên khùng. Rồi đột nhiên, tất cả đều bị che phủ dưới một tấm mền đen tối.

Họ chờ đợi thêm hai giờ nữa, Jamie kéo buồm lên. Chiếc bè bắt đầu di chuyển về hướng đông đến bờ bể họ không nhìn thấy. Trên đầu, mây rẽ ra, để lọt ra ánh sáng trăng mờ nhạt, mỏng manh, tuôn xuống như nước. Chiếc bè tăng thêm tốc độ. Xa xa, hai người bắt đầu thấy bờ bể hiện ra lờ mờ như một vết bẩn. Gió mạnh hơn, thổi phần phật cánh buồm, đẩy chiếc bè vào bờ với tốc độ mỗi lúc một tăng dần. Chẳng mấy chốc họ nhận ra được hình nét lờ mờ của đất liền, giống như một bức tường thành bằng đá khổng lồ. Ngay từ một khoảng xa như vậy, họ cũng nhìn thấy sóng bể trắng xoá đập vào các mỏm đá, nổ lên như sấm. Từ xa, quang cảnh trông thật dễ sợ. Jamie tự hỏi không biết khi lại gần chúng sẽ khủng khiếp như thế nào.

Bất chợt, anh thì thầm với Banda, “Anh tin chắc rằng bãi bể không có người canh gác chứ?”

Banda không trả lời, anh lấy tay chỉ những mỏm đá trước mặt. Jamie hiểu anh ta muốn nói gì rồi. Các mỏm đá ấy nguy hiểm hơn bất cứ thứ bẫy sập nào con người có thể chế tạo ra. “Đó là những tên bảo vệ bờ bể đắc lực, không bao giờ lơi lỏng, không bao giờ ngủ. Chúng nằm đó đợi con mồi của chúng”. Được rồi, Jamie nghĩ thầm, chúng ta sẽ qua mặt chúng mày. Chúng ta sẽ nổi lên trên mình chúng mày”.

Chiếc bè đã đưa họ đi xa như vậy thì nó cũng sẽ đưa họ đi nốt quãng đường cuối cùng. Lúc này, bờ bể dường như đang chạy thi về phía họ. Họ bắt đầu cảm thấy những cái dồi lên dồi xuống dữ dội của những đợt sóng khổng lồ. Banda nắm chặt lấy cột buồm.

“Chúng mình đang đi khá nhanh”.

“Đừng lo”, Jamie trấn an. “Khi nào đến gần hơn nữa, chúng mình sẽ hạ thấp buồm xuống, như vậy tốc độ sẽ giảm đi. Chúng mình sẽ lướt trên các mỏm đá ngầm dễ dàng”.

Gió và sóng tăng thêm sức mạnh, xô chiếc bè về phía các mỏm đá giết người. Jamie ước lượng nhanh chóng khoảng cách còn lại, quyết định rằng các đợt sóng sẽ đưa họ đến bờ mà không cần phải giương buồm. Anh vội vã hạ buồm xuống. Sức đẩy của gió vẫn không ngừng lại. Chiếc bè lúc này hoàn toàn bị kẹt trong những con sóng khổng lồ, không còn kiểm soát được nữa. Nó bị ném lên về phía trước từ đỉnh sóng này đến đỉnh sóng khác. Chiếc bè lắc lư dữ dội khiến cho hai người phải bám chắc vào nó bằng cả hai tay. Jamie đã nghĩ rằng đi vào bờ là việc làm khó khăn nhưng anh hoàn toàn không được chuẩn bị để đương đầu với những cơn hung dữ của xoáy nước sủi bọt trước mặt. Những mỏm đá hiện ra lù lù một cách rõ ràng đến ngạc nhiên. Họ có thể trông thấy những đợt sóng đổ xô đến, đập vào các tảng đá, nổ tung lên thành những giếng phun nước to lớn, giận dữ. Toàn thể sự thành công của dự tính tuỳ thuộc vào việc đưa chiếc bè nguyên vẹn qua những mỏm đá ngầm để họ có thể sử dụng nó mà thoát ra. Không có chiếc bè, họ coi như đã chết.

Lúc này họ đang hướng đến các mỏm đá ngầm do sức đẩy khủng khiếp của các cơn sóng. Tiếng gió gầm thét đinh tai nhức óc. Đột nhiên, chiếc bè bị nhấc bổng lên cao trong không khí bởi một đợt sóng to lớn, ném nó về phía các tảng đá.

“Giữ chặt lấy, Banda, chúng ta đang đi vào!”, Jamie kêu to lên.

Cơn sóng lớn hất chiếc bè như một que diêm, bắt đầu đưa nó về phía bờ bể, ngang qua các mỏm đá ngầm. Hai người cố bám lấy sự sống, vật lộn với các động tác nhảy chồm lên của các đợt sóng hung dữ đe doạ quăng họ xuống nước. Jamie đưa mắt thật nhanh, nhìn xuống nước, thoáng thấy các mỏm đá ngầm sắc như dao cạo ở bên dưới. Một lát nữa đây, anh sẽ cho bè vượt qua chúng, vào đến bờ an toàn.

Ngay lúc ấy, chiếc bè giật lên đột ngột, dữ dội, khi một mỏm đá ngầm vướng vào một trong bốn chiếc thùng bên dưới, dứt nó ra khỏi chiếc bè. Chiếc bè chòng chành dữ dội, rồi một thùng khác cũng bị dứt ra như vậy, tiếp đến một thùng khác nữa. Gió và sóng nện, mỏm đá như đói khát, tất cả đang vờn chiếc bè như một cái đồ chơi, tung nó qua lại, xoay tròn nó trong không khí. Jamie và Banda cảm thấy miếng gỗ mỏng dưới chân như vỡ tan ra.

“Nhảy!”, Jamie thét lên.

Anh nhảy qua một bên hông bè. Một cơn sóng khổng lồ nhặt anh lên, bắn anh tung về phía bãi bể với tốc độ một viên đạn đá. Anh bị mắc kẹt trong một thứ sức mạnh thiên nhiên ngoài sức tưởng tượng. Anh không thể kiểm soát được những gì đang diễn ra xung quanh. Anh là phần tử của sóng. Nó ở bên người anh, dưới anh và trong người anh. Thân thể anh như bị xoắn lại, quay cuồng, ngực như bị vỡ tung ra. Những ánh sáng lốm đốm bắt đầu hiện lên trong đầu anh. Jamie thầm nghĩ, mình sắp sửa chết chìm. Thế rồi thân thể anh bị ném tung lên cát. Jamie hổn hển thở, cố sức thở cho các buồng phổi của anh tràn ngập không khí trong lành của bể. Ngực và chân đều bị cào xước bởi cát, quần áo tả tơi. Chậm rãi, anh ngồi lên nhìn quanh quất để tìm Banda. Anh ta đang ngồi khom lưng, nôn oẹ cho ra hết nước bể. Jamie đứng dậy, loạng choạng bước đến gần anh ta:

“Anh không hề gì chứ?”.

Banda gật đầu. Anh thở một cái thật sâu, rùng mình rồi nhìn lên Jamie, “Tôi không biết bơi”.

Jamie đỡ anh ta dậy. Cả hai quay người lại nhìn mỏm đá ngầm. Không thấy vết tích chiếc bè đâu cả. Nó đã bị tan ra thành mảng trong đại dương hung dữ. Cả hai bây giờ đã đi đến mỏ kim cương.

Không có cách nào thoát ra được.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:11:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5


Sau lưng họ là đại dương giận dữ. Trước mặt là sa mạc không bị gián đoạn, trải dài từ bể đến chân núi xa xăm, lởm chởm, màu tím, của vách núi Richterveld, một thế giới của hẻm núi, thung lũng và chóp núi cong queo, sáng ngời dưới ánh trắng mờ. Ở chân rặng núi là thung lũng Henkessel, tức “Chiếc nồi nấu của phù thuỷ”, một bẫy gió trống trải. Đó là một phong cảnh hoang vắng, ban sơ, từ thuở bắt đầu của thời gian. Dấu hiệu duy nhất cho biết con người đã từng đặt chân lên nơi này là một tấm biển trên cát. Dưới ánh sáng trăng, họ đọc thấy mấy dòng chữ:

Verbode Gebied

Spergebied

Vùng đất cấm.

Không có lối thoát về phía bể. Hướng duy nhất còn mở ra cho hai người là sa mạc Namib.

“Chúng mình phải cố vượt qua sa mạc rồi phó mặc cho may rủi”, Jamie nói.

Banda lắc đầu, “Bọn bảo vệ sẽ bắn chúng ta ngay khi chúng vừa nhìn thấy, hoặc treo cổ chúng ta. Ngay cả khi chúng mình qua mặt được bọn bảo vệ, cũng không có cách nào vượt qua được bãi mìn. Chúng ta xem như đã chết rồi”. Không phải là Banda lo sợ cái chết, anh chỉ cam chịu số phận.

Jamie nhìn Banda và cảm thấy một niềm hối tiếc sâu xa. Anh đã đưa người da đen đến nỗi này nhưng Banda không hề phàn nàn một lần nào. Ngay cả lúc này, khi biết không có một lối thoát nào cả cho họ, anh cũng không thốt ra một lời trách cứ nào.

Jamie quay lại nhìn bức tường sóng giận dữ đập mạnh lên bờ, cho rằng chỉ có một phép lạ mới giúp được cho họ đi xa được như vậy. Lúc này là hai giờ sáng, chỉ còn bốn giờ nữa trời sẽ hửng sáng và bọn chúng sẽ phát hiện ra họ. Thế nhưng cả hai cho đến lúc này vẫn còn nguyên vẹn. Mình sẽ là một kẻ khốn khiếp nếu sẵn sàng bỏ cuộc lúc này, Jamie nghĩ thầm.

“Nào, chúng ta làm việc chứ, Banda?”.

Banda chớp mắt một cái, hỏi: “Làm việc gì?”.

“Chúng mình đến đây để tìm kim cương, phải thế không? Chúng mình hãy lấy đi”.

Banda trố mắt nhìn người da trắng có cặp mắt man dại, tóc trắng dán chặt lên sọ và quần áo ướt đẫm, tả tơi, xung quanh đôi cẳng, “Anh nói gì vậy?”.

“Anh bảo rằng bọn chúng thấy mình sẽ giết ngay. Vậy chúng có thể giết mình giữa lúc mình đang giàu có cũng như lúc mình nghèo khổ. Phép lạ đã đưa chúng mình đến đây thì phép lạ cũng có thể giúp chúng mình thoát ra. Nhưng nếu thoát ra được thì tôi nhất định không chịu đi tay không”.

“Anh khùng rồi”, Banda nói nhẹ nhàng.

“Nếu không thế thì chúng mình đã không có ở đây rồi”, Jamie nhắc nhở.

Banda nhún vai: “Mẹ kiếp! Mình có việc làm nào khác nữa đâu cho đến khi bọn chúng tìm ra mình?”.

Jamie giật chiếc áo sơ mi rách tả tơi. Banda hiểu ngay và cũng bắt chước làm như vậy.

“Nào, những viên kim cương to bự mà anh vẫn nói đó, nằm ở chỗ nào?”

“Ở khắp mọi nơi”, Banda nói. Rồi anh nói thêm, “Cũng như bọn bảo vệ và chó săn vậy”.

“Chuyện ấy để lo sau. Khi nào chúng xuống bãi bể này?”.

“Khi nào trời sáng”.

Jamie suy nghĩ một lát, “Có nơi nào trên bãi bể này mà chúng không đến không? Một nơi nào đó để chúng mình nấp?”.

“Không có nơi nào chúng không đến cả. Cũng chẳng có nơi nào có thể ẩn giấu, dù một con ruồi”.

Jamie vỗ vai Banda, “Thôi được, chúng ta đi nào”.

Jamie nhìn theo Banda đang bò chậm chạp bằng cả tay và chân, dọc theo bãi bể, vừa bò vừa dùng ngón tay sàng cát. Không đầy hai phút sau, anh dừng lại, giơ một viên đá lên cao, “Tôi tìm thấy một viên!”.

Jamie khom mình xuống cát và bắt đầu bò. Hai viên đá đầu tiên tìm được hơi nhỏ. Viên thứ ba to hơn, nặng đến mười lăm cà rá. Anh ngồi đó ngắm nghía một hồi. Thật khó tưởng tượng rằng của cải lớn lao như vậy lại có thể dễ dàng nhặt lên đến thế. Thế mà tất cả những thứ ấy lại thuộc về Salomon Van der Merwe và các người hợp tác của hắn. Jamie vẫn tiếp tục di chuyển.

Trong ba giờ tiếp theo đó, hai người đã thu thập được trên bốn mươi viên kim cương từ hai cà rá đến ba mươi cà rá. Bầu trời phía đông bắt đầu hửng sáng. Đây là thời gian Jamie dự định rời khỏi nơi này, nhảy lên bè, vượt qua các tảng đá ngầm và thoát trở về. Nhưng bây giờ nghĩ đến điều ấy cũng vô ích thôi.

“Trời sắp rạng đông rồi”, Jamie nói, “Chúng mình hãy tính xem còn có thể tìm được thêm bao nhiêu viên kim cương nữa?”.

“Chúng ta sẽ không sống để xài bất cứ viên nào trong số này. Anh muốn chết giàu có, đúng không?”.

“Tôi chẳng muốn chết chút nào”.

Họ lại tiếp tục tìm kiếm, nhặt hết viên kim cương này đến viên kim cương khác, không suy nghĩ, tính toán gì hết, như thể bị ám ảnh bởi cơn điên loạn. Từng chồng kim cương của họ cứ lớn dần lên cho đến khi sáu mươi viên kim cương vô giá nằm gọn trong túi áo sơ mi tả tơi của họ.

“Anh có muốn tôi mang các thứ này không?”, Banda hỏi.

“Không, cả hai chúng ta đều có thể…”, chợt Jamie nhận ra được Banda đang suy nghĩ gì. Kẻ nào bị bắt quả tang mang theo kim cương sẽ bị chết một cách chậm chạp và đau đớn hơn.

“Để tôi mang cho”, Jamie nói. Anh nhét tất cả kim cương vào trong mảnh vải còn lại của áo sơ mi rồi cẩn thận thắt nút lại. Chân trời lúc này sáng lờ mờ, phía đông bắt đầu nhuốm màu sắc của mặt trời đang lên.

Việc gì xảy ra tiếp theo nhỉ? Đó mới là vấn đề. Làm thế nào trả lời? Họ có thể sẽ đứng ở đó chờ chết, hay có thể đi vào trong vùng đất, hướng đến sa mạc và chết ở đó.

“Chúng ta đi nào”.

Jamie và Banda bắt đầu chậm rãi bước đi sát bên nhau, xa bãi biển.

“Bãi mìn bắt đầu từ chỗ nào vậy?”.

"Chừng một trăm thước, ở phía trước mặt”. Xa xa, họ nghe có tiếng chó sủa. “Tôi không nghĩ rằng chúng ta sắp sửa phải lo về bãi mìn. Đàn chó đang hướng về phía này. Ca làm việc buổi sáng sắp bắt đầu”.

“Chừng bao lâu nữa chúng sẽ đến đây?”.

“Mười lăm phút, cũng có lẽ mười phút”.

Lúc này đã gần sáng hẳn rồi. Các hình thù lờ mờ bây giờ đã trở thành những đụn cát và ngọn núi xa xăm. Không có nơi nào để mà ẩn nấp nữa.

“Có bao nhiêu tên bảo vệ cho mỗi ca?”.

Banda suy nghĩ một lát, “Chừng mười tên”.

“Mười tên cũng không nhiều lắm cho một bãi bể rộng như thế này”.

“Một tên cũng đủ rồi. Chúng có súng và chó. Bọn bảo vệ ấy không phải là mù và chúng ta thì không có phép tàng hình”.

Tiếng chó sủa bây giờ gần hơn, Jamie nói, “Banda ạ, tôi rất hối hận. Lẽ ra tôi không nên đưa anh vào cảnh ngộ này”.

“Không phải anh đâu”.

Jamie hiểu anh muốn nói gì trong câu nói ấy.

Rồi họ nghe tiếng nói lao xao ở phía xa.

Jamie và Banda đi tới một đụn cát nhỏ “Hay là chúng mình vùi mình trong cát nhỉ?”.

“Có người đã thử làm như vậy rồi. Lũ chó sẽ tìm ra chúng mình và xé toạc cổ họng chúng mình ra. Tôi muốn một cái chết nhanh chóng, tôi muốn bọn chúng tìm thấy tôi, rồi tôi bỏ chạy. Như vậy bọn chúng sẽ bắn tôi. Tôi… tôi không muốn đàn chó ấy thộp lấy tôi".

Jamie nắm chặt lấy cánh tay Banda, “Chúng ta có thể chết nhưng không ngu dại gì mà đi tìm cái chết. Cứ để cho Thần Chết phải vất vả mới làm được nhiệm vụ của nó”.

Họ bắt đầu phân biệt được tiếng nói ở phía xa, “Đi nhanh lên, đồ khốn kiếp lười biếng…”, một tiếng nói thét lên, “Theo tao, đi thẳng nào… Chúng mày đã được ngủ một giấc ngon rồi… Bây giờ là lúc làm việc…”.

Mặc dầu những lời lẽ can đảm như vậy, Jamie nhận thấy qua giọng nói hình như anh đang muốn rút lui. Anh quay đầu lại nhìn về phía bể một lần nữa. Phải chăng chết chìm còn dễ dàng hơn? Anh nhìn những tảng đá ngầm xé toang một cách giận dữ các đợt sóng xông đến như quỷ dữ, bỗng đột nhiên anh thấy một cái gì đó ở phía bên kia đợt sóng, anh không hiểu là cái gì. “Banda, xem kìa”.

“Nó là “mis” (sương mù ở bể) đấy!”, Banda kêu lên, nó xảy ra mỗi tuần vài ba lần”.

Trong khi hai người đang nói chuyện, sương mù kéo lại gần, giống như một bức màn xám giăng tận chân trời, xoá nhoà cả bầu trời.

Lúc này các tiếng nói nghe gần hơn, “Mẹ kiếp, cái sương mù này. Nó làm chậm công việc một lần nữa. Các ông chủ sẽ không thích như vậy…”.

“Chúng mình gặp may rồi!”, Jamie nói, lúc này tiếng nói của anh nghe như thì thầm.

“May gì?”.

“Sương mù đó! Chúng nó sẽ không thể trông thấy mình”.

“Không có lợi ích gì đâu, sương mù sẽ tan ngay bây giờ. Khi nào nó tan, chúng mình sẽ vẫn đứng nguyên tại chỗ. Nếu bọn bảo vệ không đi xuyên qua được bãi mìn thì chúng mình cũng thế. Nếu anh cố vượt qua sa mạc trong sương mù thì không đầy mười thước anh đã bị nổ tung ra từng mảnh rồi. Anh đang cố tìm ra một phép lạ”.

“Đúng như vậy. Tôi đang chờ đợi một phép lạ”, Jamie nói.

Trời tối sầm phía trên đầu. Sương mù lúc này lại gần hơn, bao trùm cả mặt bể, sắp sửa nuốt trùm cả bờ bể. Nó cứ lăn về phía hai người, trông có vẻ ma quái, hăm doạ nhưng Jamie cảm thấy hân hoan. Nó sẽ cứu chúng ta.

Một tiếng nói gọi to, “Này, hai đứa kia! Chúng mày đang làm quái quỷ gì ở đây thế?”.

Jamie và Banda quay đầu lại, nhìn trên đỉnh một đụn cát, cách đó chừng trăm thước, một tên bảo vệ mặc đồng phục đang đứng, tay cầm một khẩu súng trường. Jamie quay nhìn trở lại bờ bể. Sương mù đang tiến lại gần rất nhanh.

“Hai đứa kia, lại đây!”, tên bảo vệ hét lên, tay đưa khẩu súng lên cao.

Jamie giơ hai tay lên, “Tôi bị trẹo chân”, anh nói to, “Không thể bước tới được”.

“Đứng yên tại đấy”, tên ấy ra lệnh, “Tao sẽ đến bắt chúng mày”. Hắn hạ súng xuống, sắp sửa tiến về phía họ. Nhìn thật nhanh về phía sau, họ thấy sương mù ra đến rìa bờ bể, và tiếp tục tiến vào rất nhanh.

“Chạy!”, Jamie thì thào. Anh quay lại, chạy như bay về phía bãi bể, Banda chạy theo sau.

“Đứng lại!”.

Một giây đồng hồ sau, họ nghe thấy một tiếng nổ giòn, cát ở phía trước mặt tung toé. Họ vẫn tiếp tục chạy, chạy thật nhanh để đến gặp bức tường sương mù dày đặc. Lại có một tiếng nữa. Tiếp đó hai người đã đi vào trong bóng tối hoàn toàn. Sương mù đã xâm chiếm lấy họ, khiến họ cảm thấy lạnh lẽo, ngột ngạt. Họ thấy mình như bị vùi trong bông gòn, không còn trông thấy gì nữa.

Lúc này các tiếng nói dường như bị tắc nghẽn, xa vời, dội ra khỏi sương mù từ khắp mọi phía. Họ nghe tiếng gọi nhau.

“Kruger… Brent đây. Có nghe tôi nói không?”.

“Tôi nghe, Kruger”.

“Chúng nó có hai người”, tiếng nói thứ nhất kêu lên. “Một tên da trắng và một tên da đen. Chúng ở trên bãi biển. Cho người toả ra mọi phía! Cứ bắn đi để giết chết chúng nó!”.

“Bám chặt vào người tôi”, Jamie thì thào.

Banda nắm lấy vai Jamie, “Anh định đi đâu bây giờ?”

“Ra khỏi nơi này”.

Jamie đưa địa bàn lên sát tận mắt. Anh chỉ thấy nó lờ mờ. Anh xoay địa bàn cho đến khi nó chỉ hướng đông, “Đi hướng này…”.

“Khoan đã! Chúng mình không bước đi được. Dù không va phải tên bảo vệ nào, chúng mình cũng sẽ đạp phải mìn, làm nó nổ tung lên”.

“Lúc nãy anh nói rằng còn một trăm thước nữa mới tới bãi mìn. Vậy chúng ta phải rời bãi biển này ngay”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:15:49 | Chỉ xem của tác giả
Hai người bắt đầu di chuyển về phía sa mạc, chậm rãi và đều đặn, như hai kẻ mù trong một vùng đất không hề biết. Jamie dùng bước chân để đo khoảng cách. Mỗi khi lỡ ngã xuống cát mềm, họ cố đứng dậy rồi tiếp tục đi. Đi được mấy bước, Jamie dừng lại dò địa bàn. Khi anh ước chừng đã đi được một trăm mét, anh dừng lại.

“Có lẽ bãi mìn bắt đầu từ chỗ này. Bọn chúng có đặt mìn theo một mô thức nào đó không? Anh có thể nghĩ ra một cách nào đó có thể giúp chúng ta được không?”.

“Chỉ có cầu nguyện thôi”, Banda nói, “chưa từng có ai lọt qua bãi mìn này cả, Jamie ạ. Mìn rải rác khắp mọi nơi, vùi dưới đất đến mười lăm phân. Chúng mình sẽ phải ở lại đây cho tới lúc tan sương mù rồi đầu hàng bọn chúng thôi”.

Jamie lắng nghe những tiếng nói như bị trùm trong bông gòn dội lại xung quanh hai người.

“Kruger! Cứ tiếp xúc với nhau bằng tiếng nói nhé…”.

“Đúng vậy, Brent…”.

“Kruger…”.

“Brent…”.

Những tiếng nói như tách rời thể xác kêu gọi nhau qua sương mù tối như bưng. Trí óc Jamie hoạt động dữ dội, cố tìm ra mọi khả năng trốn thoát. Nếu dừng tại chỗ, họ sẽ bị giết tức khắc, ngay lúc bức màn sương mù kéo lên. Nếu cố gắng đi qua bãi mìn, họ sẽ bị nổ tan như xác pháo.

“Anh có thấy các bãi mìn ấy chưa?” Jamie thì thầm.

“Tôi có giúp bọn chúng chôn một ít”.

“Cái gì có thể làm chúng bật ngòi?”.

“Trọng lượng của một người. Bất cứ thứ gì nặng trên bốn mươi ký có thể làm chúng nổ tung lên. Vì vậy chúng không giết các con chó”.

Jamie thở mạnh một cái, “Banda, tôi có cách thoát khỏi nơi này. Có thể nó không có hiệu quả. Nhưng anh có dám chơi trò may rủi với tôi không?”.

“Lạy chúa tôi!”.

“Anh đang nghĩ gì vậy?”.

“Tôi nghĩ rằng mình có điên mới rời khỏi Cape Town ”.

“Anh chịu theo tôi chứ?”, anh chỉ nhận ra lờ mờ khuôn mặt của Banda bên cạnh anh.

“Anh làm cho tôi không có bao nhiêu sự lựa chọn nữa, anh bạn ạ”.

“Vậy thì chúng ta bắt đầu”.

Jamie cẩn thận duỗi dài người ra nằm sát trên cát. Banda nhìn anh một lát, thở mạnh một cái rồi làm theo. Chậm rãi, hai người bắt đầu bò trên cát, hướng về phía bãi mìn”.

Jamie thì thầm căn dặn, “Khi cử động, nhớ đừng có tì mạnh tay và chân xuống cát nhé. Dùng toàn thể thân hình”.

Không có tiếng đáp lại. Banda đang tập trung mọi suy nghĩ làm thế nào để được sống còn.

Một khoảng chân không phủ kín màu xám làm họ không thể trông thấy được gì. Bất cứ lúc nào, họ cũng có thể va phải tên bảo vệ, một con chó hay một quả mìn. Jamie cố gạt tất cả thứ này ra khỏi đầu óc. Họ tiến đến rất chậm và đau đớn. Cả hai không mặc áo sơ mi, cát cào lên bụng trong khi họ cố nhích lên từng gang tấc. Jamie biết rằng hai người đang ở trong cảnh ngộ vô cùng bất lợi. Dù họ có vượt qua được sa mạc mà không bị bắn hoặc bom nổ tung từng mảnh, họ cũng sẽ bị ngăn chặn bởi hàng rào thép gai và những toán bảo vệ tháp canh ở chỗ ra vào. Không biết bao giờ sương mù mới tan. Nó có thể tan ra bất cứ lúc nào và họ sẽ bị lộ.

Họ vẫn tiếp tục bò, trườn người lên phía trước và không cần suy nghĩ gì nữa và quên hẳn thời gian. Từng phân trở thành từng tấc, rồi từng tấc trở thành từng thước, từng thước trở thành từng dặm. Họ không biết họ đã đi được bao xa, đầu cúi xuống đất, mắt, mũi và tai dính đầy cát. Thở là một cố gắng khó nhọc.

Xa xa, tiếng nói của bọn bảo vệ vẫn vang lên đều đều, “Kruger, Brent… Kruger, Brent…”.

Hai người dừng lại để nghỉ và cứ ít phút lại dò lại địa bàn, rồi tiếp tục tiến lên, lại tiếp tục bò, tưởng chừng như vô tận. Họ có khuynh hướng mãnh liệt muốn bò nhanh hơn thế nữa nhưng như vậy có nghĩa là phải tì mạnh xuống cát. Jamie tưởng tượng những mảnh kim khí nổ tung dưới người anh, xé toang cả bụng, anh bò chậm lại. Thỉnh thoảng lại nghe những tiếng khác xung quanh, những lời lẽ bị tắc nghẽn trong sương mù, không còn biết chúng từ đâu đến. Đó là một bãi sa mạc rất rộng, Jamie nghĩ thầm, trong lòng tràn đầy hy vọng. Mình sẽ không bị một người nào bắt gặp nữa.

Không biết từ nơi nào,một hình thù to lớn, lông lá nhảy chồm lên người anh. Nó xảy ra rất nhanh đến nỗi Jamie không kịp đề phòng. Anh cảm thấy hàm răng sắc nhọn của con chó giống Alsatian cắm sâu vào tay anh. Anh thả gói kim cương xuống, cố nạy hàm răng con chó cho nó mở rộng ra nhưng vì chỉ có một tay còn rảnh rang nên không thể làm thế được. Răng con chó lại cắm sâu hơn nữa, yên lặng, gây chết người. Jamie cảm thấy mình bắt đầu xỉu. Bỗng anh nghe thấy một tiếng thịch rồi tiếp theo một tiếng nữa, hàm răng con chó nhả ra, mắt nó mờ đi. Qua làn sương mù đau đớn, Jamie thấy Banda nện cả túi kim cương lên đầu con chó. Nó rên rỉ một lần rồi nằm yên.

“Anh không việc gì chứ?”, Banda thì thào với vẻ lo lắng.

Jamie không thốt được ra lời. Anh nằm im một lát, đợi cơn đau lui bớt. Banda xé một mảnh vải quần buộc chặt xung quanh cánh tay của Jamie để ngăn máu chảy.

“Chúng mình phải tiếp tục đi lên”, Banda nói, “Nếu có một con chó ở xung quanh đây thì chắc còn có nhiều con khác nữa”.

Jamie gật đầu. Chậm rãi, anh trườn về phía trước, chống lại những cơn đau nhói khủng khiếp ở cánh tay.

Anh không nhớ gì nữa về quãng đường còn lại. Anh nửa mê nửa tỉnh, giống như người máy. Một cái gì đó ở bên ngoài anh điều khiển các cử động. Các cánh tay đưa ra phía trước, kéo… Tay đưa ra trước, kéo… Tay đưa ra trước, kéo… Cơn đau kéo dài tưởng chừng vô tận. Lúc này Banda làm nhiệm vụ theo dõi địa bàn. Mỗi khi Jamie đi chệch hướng, Banda lại nhẹ nhàng xoay người anh lại. Xung quanh họ là bọn bảo vệ, chó săn, mìn; chỉ có sương mù bảo vệ họ an toàn. Họ vẫn tiếp tục bò lên để cứu lấy mạng sống, cho đến khi cả hai không còn sức để tiến thêm một chút nào nữa.

Họ lăn ra ngủ.

Khi Jamie mở mắt ra, anh thấy một cái gì đó đã thay đổi. Anh nằm trên cát, cố nhớ lại mình đang ở đâu. Anh trông thấy Banda đang ngủ cách đó cách đó chừng hai thước. Ký ức trở lại với anh dồn dập. Chiếc bè vỡ toang trên các mỏm đá ngầm, sương mù. Nhưng có một cái gì đó không hay vừa xảy ra. Anh chưa biết nó là cái gì. Dạ dày anh bỗng thắt lại. Anh thấy được Banda! Cái không hay chính là ở chỗ đấy. Sương mù đã tan rồi. Nhiều tiêng nói nổi lên gần đấy. Anh cố nhìn qua lớp sương mù đang tan dần. Hai người đã bò đến gần cổng ra vào mỏ kim cương. Ở đó có một cái tháp cao và hàng rào dây kẽm gai đúng như Banda đã nói. Một đám đông chừng sáu mươi người da đen đang ra khỏi bãi kim cương tiến về phía cổng. Họ đã làm xong ca và một nhóm khác đang đi vào. Jamie nhổm dậy, bò đến gần Banda và lay anh ta dậy. Banda ngồi dậy, lập tức tỉnh ngủ, anh đưa mắt về phía tháp canh và chiếc cổng ra vào.

“Mẹ kiếp! chúng mình có lẽ đã thành công rồi”, anh nói có vẻ như chưa tin hẳn.

“Chúng mình thành công thật rồi mà. Anh đưa kim cương đây cho tôi cầm”.

Banda đưa cho anh mảnh sơ mi gấp lại, “Anh định làm gì?”

“Cứ theo tôi”.

“Bọn bảo vệ có súng đang đứng ở cổng”, Banda nói khe khẽ, “Chúng nó biết mình không phải là người ở đây”.

“Chính tôi đang trông chờ vào chuyện ấy đấy”, Jamie nói.

Hai người tiến về phía những tên bảo vệ, len lỏi giữa những công nhân đang rời đi và sắp đến. Họ gọi nhau ơi ới, trao đổi cho nhau những tiếng huýt sáo vui vẻ.

“Chúng mày sắp sửa phải làm việc chết xác đó! Bọn tao vừa mới ngủ được một giấc thật ngon trong sương mù”.

“Chúng mày làm thế nào mà rơi vào đúng chỗ sương mù ấy hả những thằng may mắn kia?”.

“Chúa nghe lời chúng tao chứ không nghe lời chúng mày đâu. Chúng mày là những kẻ xấu”.

Jamie và Banda đi đến cổng ra vào. Hai tên canh gác to lớn đứng ở bên trong dòm tất cả những người công nhân vừa đi ra vào một căn chòi bằng thiếc nhỏ, ở đó họ sẽ được lục soát kỹ càng. Chúng lột trần họ ra rồi rà soát từ trên xuống dưới, tất cả mọi lỗ trên thân hình. Jamie nắm chặt hơn nữa cái áo sơ mi rách tả tơi trong tay. Anh xô đẩy đi qua bãi công nhân và bước thẳng đến những tên bảo vệ, “Xin lỗi ông”, Jamie nói, “Tôi cần phải hỏi ai để xin một việc làm ở đây?”

Banda nhìn anh sợ chết điếng.

Tên bảo vệ quay lại nhìn Jamie, “Mày làm cái quỷ quái gì bên trong hàng rào này?”

“Chúng tôi đến đây xin việc. Tôi nghe nói ở đây có một chân bảo vệ còn trống. Tên đầy tớ của tôi đây cũng biết đào. Tôi nghĩ…”.

Tên bảo vệ nhìn hai hình thù có vẻ bất hảo, ăn mặc rách rưới rồi hét lên, “Đi ra ngoài kia!”.

“Chúng tôi không muốn ra”, Jamie ra vẻ phản đối, “Chúng tôi cần việc làm, người ta bảo với chúng tôi rằng…”.

“Đây là khu vực cấm anh bạn ạ. Anh không thấy tấm biển hay sao? Thôi cút ngay đi, cả hai đứa bay!”, hắn chỉ một chiếc xe bò lớn đậu ở ngoài hàng rào, chở đầy công nhân vừa làm xong ca. “Chiếc xe bò ấy sẽ chở chúng mày đến Port Nolloth. Nếu muốn có việc làm, chúng mày phải xin ở văn phòng của Công ty ở đấy”.

“À, ra thế, xin cảm ơn ông rất nhiều”, Jamie nói. Anh ngoắc tay gọi Banda, cả hai cùng đi ngang qua công, trở về đời sống tự do.

Tên bảo vệ nhìn theo họ với cặp mắt giận dữ, “Thật là đồ ngu xuẩn!”.

Mười phút sau, Jamie và Banda đã lên đường đi Port Nolloth. Họ mang theo số kim cương trị giá nửa triệu bảng Anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:24:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6


Chiếc xe ngựa sang trọng lăn xuống đường phố Klipdrift bụi bặm, kéo bởi một cặp ngựa đẹp đẽ. Cầm dây cương là một người đàn ông mảnh khảnh nhưng trông khoẻ mạnh, với một mái tóc và chòm râu trắng như tuyết. Ông khách mặc một bộ quần áo màu xám may đúng thời trang và một chiếc áo sơ mi có diềm đăng ten xếp nếp, trên chiếc cà vạt đen có một cái ghim gắn kim cương. Ông đội một chiếc mũ chóp cao màu xám, và ở trên ngón tay nhỏ có một chiếc nhẫn gắn một viên kim cương lớn lóng lánh. Ông có vẻ như một người khách lạ với thị trấn này nhưng thật ra không phải như vậy.

Klipdrift đã thay đổi rất nhiều từ ngày Jamie McGregor rời đi một năm trước đây. Lúc ấy là vào năm 1884, và Klipdrift đã từ một lều trại phát triển lên thành một thị trấn. Đường xe hoả đã được hoàn tất từ Capetown đến Hopetown với một nhánh rẽ chạy đến Klipdrift tạo nên một làn sóng di cư mới đến thị trấn này. Thị trấn đông đúc hơn là Jamie nhớ trước đây, nhưng dân chúng có vẻ khác lạ. Vẫn có nhiều người thăm dò kim cương, nhưng cũng có những người đàn ông ăn mặc chỉnh tề, những người đàn bà quần áo sang trọng đi ra từ các cửa hiệu. Klipdrift đã mang một bộ mặt đáng kính nể.

Jamie đi qua một tiệm khiêu vũ mới mở và chừng năm sáu quán rượu. Anh đánh xe ngang qua một nhà thờ mới xây, một tiệm thợ cạo và một khách sạn lớn mang tên Grand Hotel. Anh dừng trước một ngân hàng, xuống xe, lơ đãng quăng sợi dây cương ngựa cho một đứa bé da đen.

“Cho chúng nó uống nước”.

Jamie đi vào ngân hàng và nói với viên quản lý. “Tôi muốn ký thác một trăm nghìn bảng Anh trong ngân hàng này của ông”.

Tin đồn loan đi rất nhanh, y như Jamie đã đoán trước, nên vào lúc anh rời ngân hàng đi tới quán rượu Sundowner thì anh đã thành trung tâm chú ý của mọi người.

Bên trong quán rượu vẫn không thay đổi, nó rất đông đúc và nhiều cặp mắt nhìn theo Jamie khi anh bước tới quầy rượu. Smith gật đầu chào kính cẩn, “Thưa ông muốn dùng gì ạ?”. Trên mặt tên chủ quán này không có nét gì tỏ ra hắn đã nhận ra Jamie.

“Whisky, thứ tốt nhất ấy”.

“Thưa ông, có ngay”, hắn rót rượu ra, “Chắc ông mới đến thị trấn này?”.

“Phải”.

“Chắc ông chỉ ghé ngang qua đây thôi?”.

“Không, tôi nghe nói nơi này là một thị trấn tốt cho những ai muốn đầu tư”.

Mắt lão bán rượu sáng lên.” Ông không thể tìm ra một nơi nào tốt hơn. Một người với một trăm… một người nhiều tiền của có thể làm ăn có lợi cho mình. Thật ra, tôi cũng có thể giúp ích cho ông một phần nào, thưa ông ạ”.

“Thế hả? Giúp bằng cách nào?”.

Smith vươn người về phía trước, nói bằng giọng bí mật. “Tôi biết người điều khiển thị trấn này. Ông ta là Chủ tịch hội đồng thị xã và đứng đầu Tiểu ban Công dân vụ. ông ta là nhân vật quan trọng nhất vùng này. Tên ông ta là Salomon Van der Merwe”.

Jamie uống một hớp rượu, “Chưa hề nghe thấy tên ấy bao giờ”.

“Ông ấy là chủ một cửa hàng bách hoá rất lớn bên kia đường. Ông ấy có thể giúp ông ký những hợp đồng rất có lợi. Gặp được ông ấy thì chẳng phí công phí của chút nào”.

Jamie lại uống thêm hợp rượu, “Bảo lão ấy lại đây gặp tôi”

Lão bán rượu liếc mắt nhìn viên kim cương lớn trên ngón tay của Jamie và viên kim cương trên cái ghim cà vạt, “Thưa ông, vâng, tôi có thể cho ông ấy biết tên ông được không?”

“Travis, Ian Travis”.

“Vâng, ông Travis. Tôi chắc rằng ông Van der Merwe sẽ muốn gặp ông”. Lão rót thêm một ly rượu nữa. “Xin ông dùng ly này trong khi chờ đợi. Ly này do bản hiệu thết đãi”.

Jamie ngồi bên quầy rượu, nhấm nháp ly whisky, biết rằng mọi người trong quán đang nhìn anh. Nhiều người đã rời Klipdrift và trở nên giàu có nhưng không ai đến Klipdrift với của cải lớn lao như vậy. Đó là một cái gì rất mới mẻ trong kinh nghiệm của họ.

Mười lăm phút sau, lão bán rượu trở lại kèm theo Salomon Van der Merwe.

Van der Merwe tiến lại phía ông khách râu tóc bạc phơ, chìa tay ra mỉm cười: “Chào ông Travis, tôi là Salomon Van der Merwe”.

“Ian Travis”.

Jamie chờ một dấu hiệu thoáng qua chứng tỏ lão đã nhận ra một nét gì quen thuộc của anh. Không có gì cả. Nhưng làm sao có dấu hiệu như vậy được? Jamie nghĩ thầm. Không còn có nét gì còn lại của cậu con trai mười tám tuổi ngây thơ, lý tưởng trước kia nữa. Smith khúm núm đưa hai người đến một chiếc bàn lớn ở góc phòng.

Vừa mới ngồi xuống, Van der Merwe nói, “Tôi biết rằng ông đang tìm kiếm một nơi nào đó để đầu tư tại Klipdrift này, thưa ông Travis”.

“Có lẽ”.

“Tôi có thể giúp ông phần nào. Chúng ta phải hết sức cẩn thận. Có nhiều kẻ bất lương xung quanh đây”.

Jamie nhìn lão, “Chắc chắn là phải có”.

Thật là khó tưởng tượng nổi. Anh đang ngồi nói chuyện ở đây với con người đã từng lừa gạt anh đến nỗi mất tất cả của cải, rồi lại còn tìm cách thủ tiêu anh nữa. Mối hận thù Van der Merwe đã thiêu đốt anh trong suốt năm qua, nỗi khao khát trả thù là thứ duy nhất nâng đỡ anh, giúp cho anh được sống. Bây giờ đến lúc Van der Merwe phải cảm thấy sự trả thù ấy.

“Ông cho phép tôi hỏi câu này, thưa ông Travis, ông dự định sẽ đầu tư chừng bao nhiêu tiền?”.

“Ồ, khoảng trăm nghìn bảng vào lúc đầu”, Jamie nói với vẻ lơ đãng. Anh nhìn thấy Van der Merwe liếm mép. “Sau đó có lẽ thêm chừng ba bốn trăm nghìn nữa”.

“Ờ… ờ… với số tiền lớn như vậy ông có thể làm ăn rất lớn, rất lớn. Cố nhiên là phải có sự hướng dẫn đúng đắn”. Lão vội vã nói thêm. “Ông có dự tính đầu tư vào việc gì chưa?”.

“Tôi nghĩ rằng tôi còn phải xem có cơ hội làm ăn nào tốt không đã”.

“Ông thật là khôn ngoan”, Van der Merwe gật đầu ra vẻ hiểu biết. “Có lẽ ông sẽ vui lòng đến dùng cơm với chúng tôi hôm nay và chúng ta sẽ bàn thêm về chuyện này? Con gái tôi nấu ăn rất giỏi. Thật là một hân hạnh lớn cho chúng tôi".

Jamie mỉm cười, “Tôi rất vui lòng, ông Van der Merwe ạ”. Mày không biết là tao vui lòng như thế nào, Jamie nghĩ thầm trong bụng.

Câu chuyện thế là đã bắt đầu.

Cuộc hành trình từ mỏ kim cương Namib đến Capetown trước đây không xảy ra chuyện gì. Jamie và Banda đi bộ đến ngôi làng nhỏ để một y sĩ chữa trị cho cánh tay của Jamie, rồi sau đó họ đi nhờ xe la đến Capetown. Đó là chuyến đi lâu lắc và khó khăn nhưng hai người không kể gì đến những điều bất tiện. Đến Capetown, Jamie ở trong khách sạn Hoàng gia lộng lẫy, nằm trên đường Plent St. được đặt dưới sự bảo trợ của Đức ông Quận công Edinburgh. Anh được dẫn đến một dãy buồng của hoàng gia gọi là “Royal Suite”.

“Tôi muốn anh gọi một thợ cạo giỏi nhất thành phố đến đây cho tôi”, Jamie nói với viên quản lý khách sạn, “Sau đó tôi cần một thợ may và thợ đóng giầy nữa”.

“Thưa ngài có ngay”.

Thật có tiền mua tiên cũng được, Jamie thầm nghĩ.

Tắm ở Royal Suite này thật là tuyệt trần, Jamie ngả người trong bồn nước ấm, rũ sạch mọi mệt mỏi ra khỏi thân thể, trí óc anh miên man nghĩ đến những tuần lễ kinh khiếp vừa qua. Phải chăng từ ngày anh và Banda đóng chiếc bè đến nay chỉ mới mấy tuần lễ thôi? Thế mà anh tưởng chừng như đã nhiều năm rồi, Jamie thầm nghĩ đến chiếc bè đưa anh tới vùng đất cấm, rồi những con cá mập, những cơn sóng dữ, những tảng đá ngầm xé rách chiếc bè ra từng mảnh. Sương mù gọi là “mis”, những bãi mìn anh đã bò ngang qua, rồi con chó săn to lớn đè trên người anh…, những tiếng kêu ma quái, tắc nghẽ, vang lên trong đầu anh liên tục: Kruger… Brent… Kruger… Brent….

Nhưng trên hết tất cả mọi thứ anh nghĩ đến Banda, người bạn của anh.

Khi vừa đến Capetown, Jamie thúc giục, “Anh hãy ở lại với tôi”.

Banda cười, nhe hàm răng trắng nhở rồi nói. “Sống với anh thì quá buồn chán, Jamie ạ. Tôi phải đi đến một nơi nào đó để tìm những thứ thích thú hơn”.

“Anh định sẽ làm gì?”.

“Phải, nhờ có anh và nhờ có ý kiến của anh là làm ra chiếc bè vượt qua mỏm đá ngầm, tôi sẽ mua một nông trại, tìm kiếm một bà vợ và có một bầy con”.

“Được rồi, chúng ta hãy đi tới tiệm kim cương, tôi sẽ chia lại cho anh nửa số kim cương phần của anh”.

“Không, tôi không muốn như vậy”, Banda nói.

Jamie nhăn mặt lại, “Anh nói gì vậy? Nửa số kim cương ấy là của anh mà. Anh là triệu phú rồi.”

“Không, anh hãy nhìn màu da của tôi đi, Jamie ạ. Nếu tôi trở thành triệu phú thì tính mạng của tôi rẻ rúng lắm”.

“Anh có thể giấu một số kim cương đi. Anh có thể giấu…”.

“Tôi chỉ cần đủ tiền để mua một mảnh đất làm nông trại và hai con bò để đổi lấy một bà vợ. Hai hay ba viên kim cương nhỏ là đủ để tôi có mọi thứ tôi muốn. Phần còn lại thuộc về anh.”

“Không thể như thế được, anh không thể cho tôi phần của anh được”.

“Có thể được lắm chứ Jamie. Bởi vì anh sẽ cho tôi lão Salomon Van der Merwe”.

Jamie nhìn Banda một hồi lâu, “Tôi hứa”.

“Vậy thì tạm biệt nhé, anh bạn của tôi”.

Hai người nắm chặt tay nhau.

“Chúng ta sẽ gặp lại nhau”, Banda nói, “Lần sau hãy nghĩ về một việc thực sự thích thú mà chúng ta cùng làm nhé”.

Banda ra đi với ba viên kim cương nhỏ cẩn thận nhét trong túi.

Jamie gửi một ngân phiếu hai mươi ngàn bảng Anh cho cha mẹ, mua một chiếc xe ngựa đẹp nhất và một đàn ngựa rồi quay trở lại Klipdrift.

Đã đến lúc anh phải trả lại mối thù.

Tối hôm ấy, Jamie McGregor đi thẳng vào cửa hiệu của Van der Merwe, anh đột nhiên thấy lòng mình co thắt lại bởi một cảm giác rất khó chịu và mãnh liệt đến nỗi anh phải dừng lại một lúc để lấy tự chủ.

Van der Merwe hối hả đi ra từ bên trong cửa hiệu và khi nhận ra Jamie, mặt lão rạng lên bởi một nụ cười tươi, “Ông Travis, hân hạnh quá”.

“Cám ơn, thưa ông… à, xin lỗi vì tôi không nhớ tên ông?”.

“Van der Merwe, Salomon Van der Merwe. Tên Hà Lan bao giờ cũng khó nhớ. Cơm nước đã sẵn sàng rồi, Margaret!”. Lão gọi to lên khi dẫn Jamie vào căn phòng phía sau. Vẫn không có gì thay đổi cả. Margaret đang đến bên chiếc lò, nhìn xuống một chảo rán quay lưng lại phía hai người.

“Margaret, đây là ông khách bố đã nói với con, ông Travis”.

Margaret quay lưng lại, “Xin chào ông”.

Không thấy thoáng qua một dấu hiệu nào chứng tỏ nàng đã nhận ra anh.

“Rất hân hạnh được gặp cô”, Jamie gật đầu.

Một khách hàng rung chuông, Van der Merwe nói “Xin lỗi, tôi sẽ trở lại ngay. Xin ông hãy tự nhiên, ông Travis ạ”. Lão vội vã ra đi.

Margaret mang một bát rau và bát thịt đến bàn ăn, rồi vội vã trở lại bếp lấy bánh mì ra khỏi lò. Jamie đứng ở đấy, yên lặng nhìn nàng. Margaret đã nảy nở như một đoá hoa trong năm nay, từ ngày anh gặp nàng. Nàng đã trở thành phụ nữ với một vẻ hấp dẫn âm ỉ mà trước đây không thấy có.

“Bố cô nói với tôi rằng cô nấu ăn rất giỏi”.

Margaret đỏ mặt, “Tôi… tôi cũng mong được như thế, thưa ông”.

“Lâu lắm rồi tôi mới được thưởng thức thức ăn nấu ở nhà. Tôi rất mong được một dịp như thế này”. Jamie lấy một đĩa bơ lớn từ tay Margaret đặt nó lên bàn giúp nàng. Margaret ngạc nhiên đến nỗi suýt làm rơi chiếc đĩa đang cầm trong tay. Nàng chưa hề nghe nói một người đàn ông nào giúp việc làm nhà cho một người đàn bà. Nàng ngước đôi mắt ngạc nhiên lên nhìn Jamie. Một cái mũi gẫy và một cái sẹo dài làm xấu đi một khuôn mặt lẽ ra rất đẹp trai. Mắt anh ta màu xám nhạt, ngời vẻ thông minh và sức mạnh nồng cháy. Mái tóc bạc cho thấy anh ta không còn trẻ nữa nhưng thấy ở anh ta một vẻ gì đó rất trẻ. Anh ấy có dáng người cao, khoẻ mạnh và… Margaret quay mặt đi chỗ khác, bối rối vì cái nhìn chằm chằm của chàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:26:09 | Chỉ xem của tác giả
Van der Merwe hối hả quay lại phòng ăn, chùi hai bàn tay, “Tôi đã đóng cửa hiệu rồi, nào chúng ta hãy ngồi xuống, thưởng thức bữa ăn ngon lành này”.

Jamie được dành cho chiếc ghế danh dự ở bàn ăn. “Chúng ta đọc kinh nào”, Van der Merwe nói.

Họ khép mắt lại. Margaret lén lút mở mắt ra để có thể nhìn kỹ ông khách sang trọng, trong khi ông bố rầm rì đọc kinh. “Chúng con là những kẻ có tội dưới mắt Chúa và phải bị trừng phạt. Hãy cho chúng con sức mạnh để có thể chịu đựng được nỗi đau khổ trên thế gian này, để chúng con có thể hưởng được những thành quả tốt đẹp trên thiên đường khi nào Chúa gọi chúng con. Lạy Chúa, xin cám ơn người đã giúp những kẻ trong chúng con xứng đáng được hưởng sự giàu sang phú quý. Amen.”

Salomon Van der Merwe bắt đầu gắp thức ăn để mời khách. Phần ăn lão đưa ra mời Jamie thật là hậu hĩnh. Họ nói chuyện với nhau trong khi ăn. “Có phải đây là lần đầu tiên ông đi chơi tới vùng này không?”.

“Đúng vậy”, Jamie đáp, “Lần đầu tiên”.

“Tôi chắc ông không đem bà Travis đi theo”.

“Không có ai là bà Travis cả. Tôi chưa tìm thấy người nào muốn lấy tôi cả”.

Người đàn bà nào điên khùng mới từ chối lấy anh ta. Nàng cụp mắt xuống, sợ rằng ông khách sẽ đọc được ý nghĩ xấu xa của mình.

“Klipdrift là một thành phố có cơ hội làm ăn tốt, rất tốt, ông Travis ạ”.

“Tôi muốn được thấy chứng minh đó”, anh đưa mắt nhìn sang Margaret. Nàng đỏ mặt.

“Nếu ông không cho tôi là quá tò mò, ông Travis ạ, tôi muốn biết ông đã trở nên giàu có bằng cách nào vậy?”.

Margaret bối rối vì câu hỏi quá trắng trợn của ông bố nhưng ông khách dường như không để ý đến điều đó.

“Tôi thừa hưởng gia tài của cha tôi”, Jamie trả lời một cách thoải mái.

“À, ra vậy. Chắc là ông đã có kinh nghiệm kinh doanh rồi chứ?”

“Tôi e rằng rất ít. Vì vậy tôi cần được hướng dẫn rất nhiều”.

Mặt Van der Merwe sáng ngời lên. “Số phận đã run rủi cho chúng mình gặp nhau, ông Travis ạ. Tôi có một chỗ quen biết rất có lợi. Rất có lợi, thật đấy. Tôi có thể đảm bảo với ông rằng tôi sẽ làm tiền bạc của ông tăng lên gấp đôi, chỉ trong vòng ít tháng thôi”. Lão nhoài người về phía trước, vỗ nhẹ lên cánh tay Jamie. “Tôi có cảm tưởng hôm nay là một ngày trọng đại của hai chúng ta’.

Jamie chỉ tủm tỉm cười.

“Chắc rằng ông đang ở khách sạn Grand Hotel?”.

“Đúng vậy”.

“Ở đó giá cắt cổ. Nhưng tôi nghĩ rằng với một người đầy đủ phương tiện như ông thì…” Lão nhìn Jamie cười rạng rỡ.

Jamie nói, “Tôi nghe nói miền quê xung quanh đây rất đẹp. Không biết ông có cho phép tôi yêu cầu ái nữ của ông đưa đi xem một vòng vào sáng mai được không?”.

Margaret cảm tưởng như trái tim mình ngưng lại một giây.

Van der Merwe cau mày, “Tôi không biết, nhưng…”.

Salomon Van der Merwe có một nguyên tắc sắt đá là “không bao giờ cho phép ai đứng một mình với con gái lão. Thế nhưng, trong trường hợp ông Travis này thì lão nghĩ rằng dù có áp dụng một ngoại lệ thì cũng không có hại gì. Với dịp may hiếm có này, lão không muốn tỏ ra quá chật hẹp với khách. “Tôi có thể cho Margaret nghỉ làm việc tại cửa hàng trong một thời gian ngắn. Con sẽ đưa ông khách của chúng ta đi một vòng xung quanh đây nhé, Margaret?”

“Nếu bố muốn như vậy, bố ạ”, nàng nói khe khẽ.

“Thế thì thoả thuận cả nhé”, Jamie cười tủm tỉm, “Mười giờ sáng mai được không?”

Sau khi ông khách có dáng người cao, ăn mặc sang trọng rời khỏi nhà, Margaret dọn dẹp bàn ăn, rửa bát đĩa trong một trạng thái vô cùng bàng hoàng, xúc động. Chắc hẳn ông ấy nghĩ mình là một đưa ngu xuẩn. Nàng cố nhớ lại những gì nàng đã đóng góp vào câu chuyện vừa rồi. Không có gì cả. Nàng hoàn toàn câm như hến. Sao vậy nhỉ? Nàng đã tiếp bao nhiêu khách hàng đàn ông ở cửa hiệu mà có bao giờ tỏ ra là một đứa khờ dại, ngu xuẩn đâu. Dĩ nhiên họ không nhìn nàng giống như Ian Travis vừa rồi, “bọn đàn ông đều có một con quỷ dữ trong người, Margaret ạ. Ta sẽ không để cho bọn chúng làm hỏng vẻ ngây thơ, trong trắng của con đâu”. Giọng nói của bố nàng vang lên trong trí óc. Có thể nào như vậy không nhỉ? Tại sao nàng cảm thấy yếu đuối và run sợ khi người lạ mặt ấy nhìn nàng như vậy? Phải chăng là chàng làm hư hỏng sự trong trắng của nàng? Ý tưởng ấy làm toàn thân nàng run lên một cảm giác thú vị. Nàng nhìn xuống chiếc nĩa mà nàng đã lau đến ba lần, rồi ngồi xuống bàn. Nàng ước ao mẹ nàng còn sống vào lúc này.

Mẹ nàng chắc đã hiểu. Margaret yêu bố nàng nhưng đôi khi nàng có cảm giác khó chịu là nàng là tù nhân của ông. Nàng thắc mắc vì sao bố nàng không bao giờ cho phép một người đàn ông nào đến gần nàng cả. “Ta sẽ không bao giờ có chồng được”, Margaret tự nhủ, “Trừ khi nào bố chết”. Cảm thấy tội lỗi với những ý tưởng nổi loạn như vậy, nàng vội vã rời căn phòng, đi vào cửa hiệu nơi cha nàng ngồi sau chiếc bàn, tính toán sổ sách.

“Chúc bố ngủ ngon”.

Van der Merwe tháo chiếc kính gọng vàng ra, chùi mắt thật sạch trước khi hôn con gái. Margaret không hiểu vì sao lúc ấy nàng lại dang ra xa.

Một mình trong một hốc nhà có che màn dùng làm phòng ngủ. Margaret nhìn mặt nàng trong chiếc gương soi nhỏ treo trên tường. Nàng không có ảo tưởng về vẻ đẹp của nàng. Nàng không đẹp mà chỉ trông hay hay. Mắt đẹp. Gò má cao. Dáng người trông được. Nàng kéo tấm gương soi lại gần hơn. Ian Travis đã thấy gì khi chàng nhìn nàng? Nàng bắt cầu cởi quần áo ra. Ian Travis đang đứng trong phòng, nhìn nàng, cặp mắt chàng như đốt cháy da thịt nàng. Nàng bước ra khỏi chiếc quần lót mutsolin và tháo chiếc coocxe, hoàn toàn trần truồng trước mặt chàng. Bàn tay nàng vuốt nhẹ lên đôi nhũ bộ căng phồng, cảm thấy các đầu vú rắn chắc dưới ngón tay. Các ngón tay nàng lướt qua bụng phẳng lỳ và bàn tay chàng siết chặt lấy nàng, thong thả đưa xuống phía dưới. Bây giờ chúng đã đặt giữa hai đùi nàng, nhẹ nhàng vuốt ve, sờ soạng, cọ xát mỗi lúc một nhanh hơn, mạnh hơn, cho đến khi nàng cảm thấy mình như bị mắc cạn giữa cơn lốc cảm giác điên cuồng. Cuối cùng nó nổ bùng ra trong người nàng, rồi nàng hổn hển gọi tên chàng và ngã lăn ra giường.

Họ cùng đi chung với nhau trên chiếc xe ngựa của Jamie. Anh ngạc nhiên một lần nữa trước những sự thay đổi ở nơi đây. Nơi mà trước kia chỉ là một bãi lều trại mênh mông thì bây giờ mọc lên những ngôi nhà bằng gỗ với mái lợp tôn hay tranh.

“Klipdrift có vẻ rất thịnh vượng”, Jamie nói trong khi họ đi dọc theo đường phố chính.

“Chắc là nó trông lạ mắt đối với người mới đến”, Margaret nói, nàng nghĩ thầm: thế mà bấy lâu nay mình vẫn ghét nơi đây.

Họ rời thị trấn, đến phía các vùng mỏ dọc theo con sông Vaal . Mùa mưa đã biến đồng quê thành một khu vườn lớn, đầy màu sắc, đầy những bụi cây và cây con um tùm, những loài cây không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Khi chiếc xe đi ngang qua một nhóm người thăm dò kim cương, Jamie hỏi: “Gần đây họ có tìm được viên kim cương nào lớn không?”

“Vâng, có một ít. Mỗi khi có một tin tức nào loan đi, hàng trăm người đào kim cương đổ xô đến. Đa số họ đều ra về, nghèo túng và thất vọng”, Margaret cảm thấy nàng cần phải cảnh cáo Jamie về sự nguy hiểm ở nơi này, “Cha em không muốn em nói điều này nhưng em nghĩ rằng đó là một việc làm kinh khủng, ông Travis ạ”.

“Có lẽ đối với một số người thôi”, Jamie nói, “Một số người nào đó”.

“Ông có định ở nơi đây lâu không?”.

“Có”.

Margaret cảm thấy như trái tim nàng reo lên, “Tốt”. Rồi nàng vội nói thêm, “Cha em chắc sẽ vui lòng lắm”.

Họ đi lòng vòng suối buổi sáng, thỉnh thoảng Jamie dừng lại nói chuyện với những người thăm dò kim cương. Nhiều người nhận ra Margaret và nói chuyện rất kính cẩn. Nàng có một vẻ nồng nhiệt và thân mật mà nàng không biểu hiện ra vì sự có mặt của cha nàng.

Khi chiếc xe tiếp tục lên đường, Jamie nói, “Mọi người có vẻ quen biết cô”.

Nàng đỏ mặt, “Ấy là bởi vì họ có công việc kinh doanh với cha em. Ông cung cấp những đồ trang bị cho đa số những người đi đào kim cương”.

Jamie không bình luận gì. Anh đang rất quan tâm tới những gì trông thấy trước mắt. Đường xe hoả đã tạo nên sự thay đổi lớn lao. Một tổ hợp gọi là tổ hợp De Beers, gọi theo tên nông dân có thửa ruộng trên đó người ta đã tìm thấy viên kim cương đầu tiên, đã mua đứt tài sản của một địch thủ lớn nhất nhất tên là Barney Banato, và De Beers đang tập hợp lại hàng trăm đất khai thác nhỏ thành một tổ chức lớn. Vàng cũng được phát hiện gần đây, không xa Kimberley bao nhiêu, cùng với mănggan và kẽm, Jamie tin rằng đó mới chỉ là bắt đầu, và rồi đây Nam Phi sẽ trở thành một kho báu chứa đủ mọi thứ kim loại. Cơ hội làm ăn ở đây thật khó tin nổi đối với người biết nhìn xa trông rộng.

Khi Jamie và Margaret trở về nhà thì trời đã gần về chiều. Jamie cho xe dừng trước cửa hàng của Van der Merwe và nói, “Tôi rất hân hạnh nếu cô và cha cô cùng đến dùng cơm tối nay”.

Margaret đỏ bừng mặt. “Em sẽ nói với cha em. Em hy vọng là ông ấy sẽ nhận lời. Cảm ơn ông đã đem đến cho em một ngày thú vị, ông Travis ạ”.

Nàng chạy thật nhanh vào nhà.

Ba người ngồi ăn trong một phòng ăn rộng của khách sạn Grand Hotel.

Căn phòng đông nghẹt người, Van der Merwe lẩm bẩm, “Không hiểu được những người này kiếm tiền ở đâu ra mà đến ăn ở đây được?”.

Jamie nhặt tờ thực đơn lên, đưa mắt nhìn qua một lượt. Một đĩa bít tết giá một bảng bốn shillings và một củ khoai tây giá bốn shillings, một chiếc bánh nhồi táo giá mười shillings.

“Chúng nó là bọn cướp của!”, Van der Merwe phàn nàn, “Chỉ ăn một bữa cơm ở đây người ta cũng bị vét sạch túi để vào nhà tế bần”.

Jamie tự hỏi không biết cần phải có cái gì mới đưa lão Van der Merwe vào nhà tế bần được. Anh quyết sẽ tìm ra. Họ gọi các món ăn. Jamie nhận thấy lão Van der Merwe kêu những món ăn đắt tiền nhất trên thực đơn. Margaret chỉ gọi một món súp trong. Nàng quá vui thích nên không ăn gì được. Nhìn hai bàn tay, nàng nhớ lại những gì làm trước đây và cảm thấy tội lỗi quá.

“Tôi có thể trả nổi bữa ăn này mà”, Jamie trêu nàng, “Cô có thể gọi bất cứ món gì cô thích”.

Nàng đỏ mặt, “Cám ơn ông, nhưng em… em không đói lắm”.

Van der Merwe để ý đến nét mặt đỏ bừng của con gái và nhìn thật nhanh từ Margaret sang Jamie, “Con gái tôi là một đứa con gái hiếm có, rất hiếm có, ông Travis ạ”.

Jamie gật đầu, “Tôi hoàn toàn đồng ý với ông, ông Van der Merwe ạ”.

Câu nói này làm cho Margaret cảm thấy sung sướng đến nỗi khi bữa cơm dọn ra nàng không ăn nổi đĩa súp. Hiệu quả Ian Travis tạo ra với nàng thật không thể tưởng tượng nổi. Nàng đọc được ẩn ý của anh trong từng lời nói, từng cử chỉ. Nếu anh cười với nàng, điều đó đồng nghĩa rằng anh yêu nàng nhiều lắm. Nếu chàng nhăn mặt, tức là chàng ghét nàng. Những cảm xúc của Margaret giống như một hàn thử biểu lên xuống không ngừng.

“Hôm nay ông có thấy gì hay không?”, Van der Merwe hỏi Jamie.

“Không, chẳng có gì đặc biệt”, Jamie nói với vẻ thờ ơ.

Van der Merwe vươn người về phía trước, “Nhớ lời tôi nói đấy nhé. Thị trấn này rồi sẽ là một vùng phát triển nhanh nhất thế giới ông ạ. Người nào khôn ngoan mới đầu tư vào lúc này. Con đường xe hoả mới biến nơi này thành Capetown thứ hai đấy”.

“Tôi không biết”, Jamie nói với vẻ nghi ngờ, “Tôi đã nghe quá nhiều về những thành phố phát triển như sấm sét, giống như thành phố này, nhưng rồi bị vỡ nợ. Tôi không thích bị bỏ tiền vào những thành phố ma”.

“Chuyện ấy không thể xảy ra với Klipdrift được”, Van der Merwe cố trấn an, “Lúc nào họ cũng tìm ra thêm được nhiều kim cương, lại cả vàng nữa”.

Jamie nhún vai, “Như thế được bao lâu”.

“Ồ, chuyện ấy thì ai mà đoán trước được. Nhưng…”.

“Đúng vậy”.

“Không nên đưa ra những quyết định vội vã, ông Travis ạ”, Van der Merwe thúc giục, “Tôi không muốn ông bỏ phí những cơ hội lớn lao”.

Jamie suy nghĩ một lát, “Có lẽ tôi hơi vội thật đấy. Margaret, ngày mai cô có thể đưa tôi đi xem lại một lần nữa được không?”.

Van der Merwe mở mồm định phản đối nhưng lại ngậm miệng lại ngay. Lão nhớ đến câu nói của Thoreson, viên chủ ngân hàng: “Ông ta đến đây, ký thác một trăm ngàn bảng Anh - bình tĩnh lại nào, Salomon, rồi ông ta sẽ còn ký thác thêm nhiều tiền hơn thế nữa”.

Lòng tham của Van der Merwe đã thắng thế, “Cố nhiên, nó có thể đi với ông”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:37:32 | Chỉ xem của tác giả
Sáng hôm sau, Margaret mặc chiếc áo đẹp nhất, sẵn sàng gặp Jamie. Khi cha nàng bước vào trông thấy, mặt ông đỏ bừng lên, “Con muốn người ta nghĩ rằng con là người đàn bà truỵ lạc, trưng diện đẹp đẽ để lôi cuốn bọn đàn ông hay sao? Đây là công việc làm ăn, con có biết không? Cởi cái áo ấy ra, mặc quần áo làm việc vào”.

“Nhưng, thưa bố…”.

“Cứ làm như ta bảo”.

Nàng không cãi lại nữa, “Vâng, thưa bố”.

Lần này Jamie đánh xe về hướng đối diện. Khắp nơi đều có các dấu hịêu khích lệ về công cuộc phát triển và xây dựng mới. Jamie thầm nghĩ, nếu những sự khám phá kim loại này vẫn tiến triển tốt – mà điều này ta có đầy đủ lý do để tin tưởng - người ta kiếm nhiều tiền bằng cách mua bất động sản hơn là kim cương và vàng. Klipdrift cần ngân hàng, khách sạn, quán rượu, khách sạn, cửa hiệu, nhà điếm…. Danh sách này có thể dài vô tận, đó là những cơ hội làm ăn rất tốt.

Jamie biết rằng Margaret đang nhìn mình, “Có gì không hay chăng?”.

“Ồ không”, nàng nói rồi quay nhanh đi chỗ khác.

Lúc này Jamie bắt đầu quan sát nàng kỹ hơn. Anh chú ý đến vẻ lộng lẫy toả ra từ con người nàng. Margaret cũng ý thức được vẻ kín đáo, trai tráng của chàng. Jamie đánh hơi được cảm xúc của nàng. Nàng là một phụ nữ không có đàn ông.

Đến trưa, Jamie đánh xe ra khỏi con đường cái, rẽ vào khu rừng gần con suối, rồi dừng lại dưới một cây “baobap” thật to. Anh đã bảo khách sạn gói cho anh thức ăn trưa. Margaret trải một tấm khăn vải trên đất, tháo gói thức ăn và bày mọi thứ ra: thịt cừu rô ti, thịt gà rán, cơm trộn nghệ tây vàng, mứt mộc qua và quýt, đào, bánh ngọt rắc hạnh nhân.

“Thật là một bữa tiệc lớn!”, Margaret kêu lên, “Em sợ rằng em không xứng đáng với những thứ này, ông Travis ạ”.

“Em còn xứng đáng hơn thế nhiều”, Jamie trấn an.

Margaret quay mặt đi chỗ khác, bận bịu xếp dọn các thức ăn.

Jamie đưa hai bàn tay ra đỡ mặt nàng, “Margaret, nhìn anh đây này”.

“Ồ, em xin ông, em…”, nàng run rẩy.

“Nhìn anh đây này”.

Chậm rãi nàng ngước mặt lên nhìn vào mắt chàng.. Chàng kéo nàng vào trong cánh tay, ôm thật chặt, môi chàng tìm môi nàng. Chàng áp sát thân hình vào người nàng.

Sau một lát, nàng vùng vẫy thân hình ra khỏi tay chàng, lắc đầu và nói, “Ồ, không thể thế được. Chúng ta không nên làm như thế. Chúng ta sẽ xuống địa ngục mất thôi”.

“Lên thiên đường chứ!”.

“Em sợ”.

“KHông có gì phải sợ cả. Em có thấy mắt anh đây không? Chúng nhìn thấy tận bên trong em. Em cũng biết anh thấy cái gì rồi, phải không? Em muốn anh ân ái với em. Anh sẽ làm như vậy. Có gì sợ đâu? Vì em thuộc về anh rồi mà. Em biết như vậy, phải không? Em thuộc về anh, Margaret ạ. Em nói như vậy đi. Em là của Ian. Nói đi. Em-là của-Ian”.

“Em là của… Ian”.

Môi chàng lại đặt lên môi nàng một lần nữa. Anh bắt đầu tháo những chiếc móc áo lót của nàng. Một lát sau, nàng đứng trần truồng trong cơn gió hây hây. Anh nhẹ nhàng thả thân hình nàng xuống đất. Sự chuyển tiếp run rẩy từ thời kỳ con gái sang thời kỳ thiếu phụ trở thành một kinh nghiệm thích thú, đê mê khiến Margaret cảm thấy mình sống động hơn bất cứ lúc nào trong đời. Mình sẽ nhớ đến giây phút này mãi mãi, nàng nghĩ thầm. Chiếc giường bằng lá cây, cơn gió hây hây ấm áp vuốt ve lên da trần, bóng cây baobap lốm đốm trên thân thể hai người. Họ lại ân ái với nhau. Lần này còn tuyệt diệu hơn nữa. Không người đàn bà nào yêu ai bằng mình yêu người đàn ông này.

Khi hai người đã thoả mãn, Jamie ôm nàng trong vòng tay rắn chắc của chàng. Nàng ước ao sẽ được ở đây vĩnh viễn. Nàng ngước mắt lên nhìn chàng thì thầm, “Anh đang nghĩ gì vậy?”.

Chàng cười, đáp lại cũng bằng tiếng thì thầm, “Anh nghĩ rằng anh đói bụng kinh khủng”.

Nàng cười to lên. Cả hai ngồi dậy ăn cơm trưa dưới bóng cây. Sau đó họ cùng bơi với nhau rồi nằm phơi nắng cho khô. Jamie lại ân ái với nàng một lần nữa. Ước ao sao ngày hôm nay kéo dài không bao giờ chấm dứt.

Tối hôm đó, Jamie và Van der Merwe ngồi ở chiếc bàn trong quán Sundowner. “Ông nói đúng đấy”, Jamie nói, “Có khả năng ở đây lớn lao hơn tôi trước đây vẫn tưởng”.

Van der Merwe cười rạng rỡ, “Tôi biết ông rất thông minh nên không thể nào không thấy điều đó”.

“Vậy ông khuyên tôi nên làm công việc cụ thể gì?” Jamie hỏi.

Van der Merwe liếc mắt xung quanh, hạ thấp giọng nói: “Mới.ngày hôm nay, tôi được tin là người ta tìm thấy một viên kim cương thật lớn ở bắc Pniel. Hiện nay vẫn còn mười mỏ có thể xin quyền khai thác. Chúng ta sẽ chia nhau. Tôi bỏ ra năm mươi nghìn bảng để xin quyền khai thác cho năm nơi, ông bỏ ra số tiền tương đương cho năm nơi còn lại. Ở đó có rất nhiều kim cương. Chúng ta có thể kiếm hàng triệu bảng trong chốc lát. Ông nghĩ sao?”.

Jamie biết chính xác anh nghĩ gì rồi. Van der Merwe sẽ giữ cho mình quyền khai thác những nơi có lợi, còn Jamie sẽ chịu phần còn lại. Hơn nữa, Jamie sẵn sàng đánh cuộc rằng Van der Merwe sẽ không bỏ ra một xu nào.

“Nghe có vẻ hay đấy”, Jamie nói, “Có bao nhiêu người thăm dò liên quan đến vụ này?”.

“Chỉ có hai thôi”.

”Tại sao phải tốn nhiều tiền như vậy?”, anh hỏi ra vẻ ngây thơ.

“À, đó là một câu hỏi thật thông minh”, lão vươn người về phía trước trong chiếc ghế, “Ông thấy đấy, họ biết giá trị của những nơi ấy, nhưng họ không có tiền để khai thác. Vì thế ông và tôi mới nhảy vào. Chúng ta cho họ một trăm nghìn bảng Anh và cho họ giữ hai mươi phần trăm các mỏ ấy”.

Lão cho xen những tiếng hai mươi phần trăm vào một cách lặng lẽ khiến người ta hầu như không để ý đến. Jamie chắc chắn rằng những người thăm dò kim cương ấy sẽ bị lừa và mất sạch cả kim cương lẫn tiền bạc. Tất cả sẽ tuôn vào túi Van der Merwe.

“Mình phải tiến hành gấp mới được”, Van der Merwe cảnh cáo, “Chừng nào tin này mà lọt ra ngoài thì…”

“Chúng ta không nên để mất cơ hội này”. Jamie thúc giục

Van der Merwe tủm tỉm cười, “Đừng có lo, tôi sẽ cho thảo ngay các hợp đồng ấy”.

Tất nhiên là bằng tiếng Nam Phi, Jamie nghĩ thầm.

“Còn có nhiều vụ giao dịch nữa mà tôi thấy rất hay, anh bạn ạ”.

Vì thấy rất cần phải làm cho người bạn kinh doanh của mình vui lòng, Van der Merwe không còn phản đối nữa mỗi khi Jamie đề nghị Margaret đưa anh đi thăm vùng quê. Mỗi ngày, Margaret lại càng say mê Jamie. Anh là điều cuối cùng nàng mơ tưởng đến mỗi khi ngủ vào ban đêm và là điều đầu tiên nàng nghĩ đến khi mở mắt ra vào buổi sáng. Margaret đã thả lỏng thứ dục tính có trong con người mà trước kia nàng không biết rằng nó tồn tại. Nó giống như thể nàng đột nhiên phát hiện ra rằng thân thể nàng có thể được dùng vào việc gì, và tất cả những thứ trước kia vẫn quen làm cho nàng cảm thấy thẹn thùng thì bây giờ chúng trở thành món quà tặng vẻ vang để đem niềm vui sướng cho Jamie. Và cho bản thân nàng. Tình yêu là một vùng đất mới tuyệt vời còn phải được khai thác. Một vùng đất dục tính gồm những thung lũng kín đáo, thích thú và những dòng sông ngọt ngào. Nàng không thể nào cảm thấy chán nó được.

Giữa dải đất mênh mông của vùng quên, thật dễ dàng tìm thấy được những nơi vắng vẻ để hai người có thê ân ái với nhau và mỗi lần như thế nàng bao giờ cũng cảm thấy thích thú như lần đầu.

Tội lỗi xưa cũ của cha nàng bắt đầu ám ảnh nàng. Salomon Van der Merwe là bậc đàn anh của Giáo hội Cải cách Hà Lan nên Margaret biết rằng nếu ông phát hiện ra những gì nàng đã làm, ông sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng. Ngay cả trong cộng đồng thô lỗ vùng biên giới nơi họ đang sống, nơi mà người đàn ông có thể bạ đâu vui đấy, cũng không thể có sự thông cảm. Chỉ có hai loại đàn bà trên thế giới này - những cô gái tử tế và những con điếm - một người con gái tử tế không bao giờ cho người đàn ông sờ lên người trừ khi họ lấy nhau. Vậy nàng sẽ bị gán cho nhãn hiệu là con điếm. Thật là không công bằng chút nào, nàng nghĩ. Yêu và được yêu là những gì quá đẹp đẽ, không thể coi là xấu xa được. Những nỗi lo lắng gia tăng của Margaret cuối cùng buộc nàng phải nghĩ đến vấn đề hôn nhân.

Họ đang đi trên xe ngựa dọc theo sông Vaal , bỗng Magaret mở lời. " Ian này, anh biết rằng em rất..rất...". Nàng không biết nên tiếp tục nói như thế nào "Thật ra là anh và em...”, nàng nói, “anh nghĩ thế nào về cuộc hôn nhân của chúng ta?”

Jamie cười to, “Anh rất tán thành về chuyện đấy, rất tán thành, Margaret ạ”.

Nàng cùng cười với anh. Thật là những giây phút sung sướng nhất trên đời.

Vào một sáng chủ nhật, Salomon Van der Merwe mời Jamie đi cùng ông và Margaret đến nhà thờ. Nederduits Hervormde Kerk là một toà nhà đồ sộ, nguy nga, xây theo kiểu Gothic lai căng, với bục giảng ở một đầu và chiếc dương cầm to lớn ở đầu bên kia. Khi họ bước vào bên trong, Van der Merwe được chào đón rất kính cẩn.

“Tôi góp phần xây dựng nhà thờ này”, lão nói với Jamie bằng một giọng hãnh diện, “Tôi là trợ tế ở đây”.

Buổi thuyết giảng hôm ấy nói về ngọn lửa địa ngục. Van der Merwe ngồi lắng nghe, tỏ vẻ vui sướng vô cùng, gật đầu liên tục, chấp nhận mọi lời nói của ông mục sư.

Jamie nghĩ thầm, lão là một người của Thượng Đế vào ngày Chủ nhật, nhưng vào ngày khác trong tuần, lão thuộc về quỷ Xa Tăng.

Van der Merwe đã chọn chỗ ngồi ngay giữa hai người trẻ nhưng Margaret vẫn ý thức được sự gần gũi với Jamie trong suốt buổi lễ. Nàng mỉm cười với chính mình, “Thật là may, ông mục sư ấy không biết rằng mình đang nghĩ gì”.

Tối hôm ấy, Jamie đi đến quán rượu Sundowner, Smith đang đứng sau quầy rượu, phục vụ cho khách. Mặt hắn rạng rỡ lên khi trông thấy Jamie.

“Chào ông Travis, ông muốn dùng gì thưa ông? Vẫn như mọi ngày chứ?”.

“Không. Tôi không uống rượu tối nay. Tôi muốn nói chuyện với anh. Trong phòng ở phía sau”.

“Tôi xin sẵn sàng, ông Travis”, Smith đã ngửi thấy hơi tiền. Hắn quay về phía tên giúp việc, “Mày trông quầy rượu hộ tao”.

Phòng phía sau quầy rượu là một căn phòng nhỏ nhưng kín đáo. Ở đó chỉ có một chiếc bàn với bốn ghế, giữa bàn là một cây đèn. Smith châm đèn.

“Ngồi xuống đi”, Jamie nói.

Smith ngồi xuống ghế. “Vâng, thưa ông. Tôi có thể giúp gì cho ông?”.

“Chính tôi đến đây để giúp anh mới đúng, Smith ạ”.

Mắt Smith sáng lên, “Thật thế, thưa ông?”.

“Phải”, Jamie rút ra một điếu xì gà châm lửa hút. “Tôi đã quyết định để anh sống”.

Một vẻ nghi ngờ thoáng qua trên mặt Smith, “Tôi… tôi không hiểu, ông Travis”

“Không phải ông Travis đâu, Smith. Tên thật là McGregor, Jamie McGregor, nhớ chưa? Cách đây một năm, anh đã gài bẫy để giết tôi. Ở chuồng ngựa ấy. Thi hành nhiệm vụ cho Van der Merwe mà”.

Lúc này mặt Smith nhăn lại, đột nhiên tỏ ra vẻ dè chừng. “Tôi không hiểu cái gì…”.

“Câm mồm. Nghe tao nói đây này”, giọng của Jamie nghe như roi quất vào mặt.

Jamie có thể thấy đầu óc của Smith lúc này quay cuồng như thế nào. Hắn đang cố đối chiếu khuôn mặt của người tóc trắng trước mặt với khuôn mặt hăm hở của chàng trai một năm trước đây.

“Tao đang còn sống và tao giàu có - thừa tiền để thuê người đốt cái quán này ra tro và cả mày nữa ở trong đấy. Mấy lâu nay mày vẫn có thiện cảm với tao phải không, Smith?”.

Smith sắp sửa chối cãi hắn không biết gì hết nhưng nhìn vào mặt của Jamie hắn trông thấy ngay sự nguy hiểm. Hắn thận trọng nói. “Vâng, thưa ông”.

“Van der Merwe trả tiền cho mày để mày mang những người thăm dò kim cương đến cho hắn, để rồi họ bị hắn lừa gạt, mất tất cả mọi thứ họ kiếm được. Đó là một lối hợp tác kinh doanh nhỏ khá hay đấy. Hắn trả cho mày bao nhiêu tiền?”.

Một phút im lặng. Smith bị kẹt giữa hai lực lượng mạnh mẽ. Hắn chưa biết nên nhảy về phía nào.

“Bao nhiêu?”.

“Hai phần trăm”, hắn miễn cưỡng nói.

“Tao cho mày năm phần trăm. Từ nay trở đi, mỗi khi có người nào có vẻ muốn thăm dò kim cương đến đây, mày hãy đưa hắn đến cho tao. Tao sẽ tài trợ cho hắn. Chỉ có điều khác là hắn ta sẽ được phần của hắn một cách công bằng, và mày cũng được phần của mày. Mày thực sự tin rằng lão Van der Merwe sẽ trả cho mày hai phần trăm số tiền lão kiếm được sao? Mày là một thằng khùng”.

Smith gật đầu, “Đúng thế, ông Travis… à ông McGregor ạ. Tôi hiểu”.

Jamie đứng dậy. “Chưa hiểu hoàn toàn đâu”. Anh vươn người tới chiếc bàn. “Mày đang nghĩ tới việc đi lại nhà Van der Merwe và báo cáo lại với lão toàn bộ cuộc nói chuyện ngắn ngủi này chứ gì? Như vậy, mày có thể thu được cả tiền của tao lẫn tiền của lão. Chỉ có điều là… Smith ạ… “, giọng anh hạ thấp xuống nghe như tiếng thì thầm, “Nếu mày làm như vậy, mày sẽ chỉ còn là xác chết thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:51:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7


Jamie đang mặc quần áo thì nghe có tiếng gõ rụt rè trên cánh cửa. Anh lắng nghe. Tiếng gõ lại được lặp lại lần nữa. Anh bước đến cánh cửa, mở ra. Margaret đang đứng ở đấy.

“Vào đi, Maggie,”, Jamie nói. “Có chuyện gì không hay hả?” Đây là lần đầu tiên nàng đến phòng khách sạn này. Nàng bước vào, nhưng bây giờ đây, đứng trước mặt Jamie, nàng thấy khó mở lời quá. Suốt đêm qua, nàng đã nằm thao thức, không biết nói như thế nào với Jamie về cái này. Nàng sợ rằng có thể anh không thể gặp mặt nàng nữa.

Nàng nhìn thẳng vào mắt anh. “Ian ạ, em sắp sửa có con”.

Mặt Jamie vẫn bình tĩnh như không, khiến Margaret lo sợ nàng đã mất anh thật rồi. Đột nhiên, nét mặt anh thay đổi, trở nên vui vẻ, làm cho tất cả nỗi nghi ngờ của nàng lập tức bị xóa sạch. Anh nắm chặt lấy tay nàng, và nói, “Thật là tuyệt vời, Maggie ạ. Tuyệt vời! Em đã nói với cha em chưa?”.

Margaret lùi lại, lộ vẻ lo sợ, “Ồ, không! Bố em…” Nàng bước đến chiếc ghế sofa kiểu Victoria bọc nhung xanh, rồi ngồi xuống. “Anh không hiểu bố em. Ông…, ông sẽ không bao giờ chịu hiểu”.

Jamie vội vã mặc chiếc áo sơ mi lên người. “Đi nào, chúng ta cùng đến đi đến đó để nói cho ông ấy biết”.

“Anh có tin chắc rằng mọi sự sẽ tốt đẹp không?”.

“Anh chưa bao giờ tin chắc hơn trong cuộc đời anh”.

Salomon Van der Merwe đang đo những thỏi thịt khô cho một người thăm dò kim cương thì Jamie cùng Margaret bước vào trong cửa hiệu. “À, Ian. Tôi sẽ đến với anh, chỉ một lát nữa thôi”. Lão vội vã tiếp người khách cho chóng xong, rồi đi đến gần Jamie. “Mọi việc tiến triển thế nào trong một ngày đẹp trời như hôm nay?”. Van der Merwe hỏi:

“Không thể nào tốt hơn được”, Jamie vui vẻ nói. “Cô Maggie của ông sắp có con rồi đấy”.

Một sự im lặng đột ngột bao trùm không khí. “Tôi… tôi không hiểu”. Van der Merwe lắp bắp nói.

“Đơn giản quá mà. Tôi đã làm cho cô ấy có mang đấy”.

Máu đỏ như đã tuôn ra hết khỏi khuôn mặt của Van der Merwe. Lão giận dữ nhìn từ mặt người này đến mặt người kia. “Có… có thật như vậy không?” Các cảm xúc như một vũng nước xoáy quay cuồng trong đầu Van der Merwe. Cơn sốc khủng khiếp trước cái tin cô ái nữ quý giá của lão đã bị mất trinh… đang mang bầu… Lão sẽ trở thành một trò cười cho cả thị trấn này. Nhưng Ian Travis là một anh chàng rất giàu có. Và nếu hai đứa ấy cưới nhau nhanh chóng thì…

Van der Merwe quay về phía Jamie, nói, “Dĩ nhiên. Anh sẽ cưới nó ngay lập tức”.

Jamie nhìn lão, làm ra vẻ ngạc nhiên, “Cưới? Ông mà chịu cho Maggie lấy một thằng bé ngu xuẩn đã để cho ông lường gạt đến khuynh gia bại sản hay sao?”.

Đầu Van der Merwe quay cuồng như chong chóng. “Anh nói cái gì lạ vậy, Ian? Tôi có bao giờ…”

“Tên tôi không phải là Ian”, Jamie nói bằng một giọng gay gắt. “Tôi là Jamie McGregor. Ông không nhận ra sao?” Anh trông thấy vẻ ngơ ngác trên khuôn mặt Van der Merwe. “Không, cố nhiên là ông không nhận ra. Thằng bé ấy nó chết rồi. Ông giết nó mà. Nhưng tôi không phải là người ôm mãi một mối thù hằn, Van der Merwe ạ. Vì vậy, tôi tặng cho ông một món quà. Hạt giống của tôi nằm trong bụng con gái ông đấy”.

Jamie quay phắt lại, rồi bước ra ngoài, để lại hai bố con nhìn nhau, chưng hửng.

Margaret đã nghe hết trong cơn sững sờ, khó mà tin nổi. Anh ấy không thể nào có ý nghĩ như anh vừa nói ra. Anh ấy yêu mình. Anh ấy…

Salomon van der Merwe quay lại nhìn con gái, trong sự đau khổ và giận dữ khủng khiếp. “Mày là con đĩ!” ông hét lên. “Đồ đĩ! Cút ngay đi! Cút khỏi nơi này!”.

Margaret đứng như trời trồng, không hiểu chút gì về sự việc ghê gớm đang xảy ra. Ian trách cứ nàng về một việc gì đó mà cha nàng đã làm. Ian nghĩ rằng nàng cũng đã tham dự vào một hành động xấu xa nào đó. “Jamir McGregor là ai? Ai…?”.

“Đi đi” Van der Merwe vả một cái thật mạnh lên mặt nàng. “Tao không muốn thấy mặt mày nữa chừng nào tao còn sống”.

Margaret vẫn đứng chôn chân ở đó, tim nàng đập thình thình, miệng nàng há hốc cố lấy hơi thở. Mặt cha nàng giống như mặt một người điên dại. Nàng quay lưng, chạy ra khỏi cửa hiệu, không quay nhìn trở lại.

Salomin van der Merwe đứng tại chỗ nhìn nàng đi ra, với nỗi tuyệt vọng khủng khiếp trong lòng. Lão đã từng thấy những gì xảy ra với con gái của những người khác, đã tự làm ô danh mình. Chúng bị buộc phải đứng giữa nhà thờ, bị bêu riếu công khai, rồi khai trừ khỏi cộng đồng. Đó là sự trừng phạt đúng đắn, thích hợp và hoàn toàn thích đáng đối với chúng. Nhưng Margaret của lão đã được giáo dục theo khuôn phép và trong niềm kính sợ đức Chúa Trời. Làm thế nào mà nó có thể phản bội lão như vậy được? Van der Merwe mường tượng thấy cô con gái của lão thân thể trần truồng đang làm tình với anh chàng ấy, quằn quại trong cơn nóng sốt giống như những con vật, rồi lão cũng bắt đầu cảm thấy dục tình của lão rực lên.

Lão đặt tấm biển “Đóng cửa” trên cánh cửa trước cửa hiệu bách hoá, rồi nằm lăn trên giường, không còn có sức hay ý chí nào cử động nữa. Khi tin đồn này lan ra khắp thị trấn, lão sẽ trở thành đối tượng chế giễu. Người ta hoặc thương hại lão hoặc chê bai lão về sự hư hỏng của đứa con gái. Dù cách nào chăng nữa, lão cũng không thể nào chịu đựng nổi. Lão phải làm thế nào để có thể tin chắc rằng không một ai biết được chuyện này. Lão sẽ đưa cái con đĩ ấy đi nơi khác cho khuất mắt lão vĩnh viễn. Lão quỳ xuống và cầu nguyện: Lạy Chúa! Tại sao Chúa lại có thể đưa con vào cảnh ngộ này, con là đệ tử trung thành của Chúa? Tại sao Chúa đã bỏ rơi con? Lạy Chúa, xin hãy cho con ấy chết đi. Hãy để cho cả hai đứa ấy phải chết…

Quán rượu Sundowner vào buổi trưa hôm ấy đang đông nghẹt người thì Jamie bước vào. Anh đi thẳng đến quầy rượu, rồi quay mặt về phía đám đông. “Xin quý vị chú ý!”. Những cuộc nói chuyện ồn ào nhỏ dần rồi im bặt lại. “Nhà hàng xin đãi một chầu rượu cho tất cả mọi người”.

“Có chuyện gì vậy?” Smith hỏi. “Lại mới tìm ra kim cương hay sao?”.

Jamie cười to lên. “Cũng gần giống như vậy, anh bạn ạ. Cô con gái ông Salomon van der Merwe chưa chồng mà đã có mang! Ông Van der Merwe muốn tất cả quý vị giúp ông ta ăn mừng việc này!”.

Smith thì thào. “Lạy Chúa Giê su!”.

“Chúa Giê su không can dự gì vào chuyện này cả. Chỉ có Jamie McGregor thôi!”.

Trong vòng một giờ đồng hồ, tất cả mọi người ở Klipdrift đều đã nghe tin. Ian Travis thực ra là Jamie McGregor, anh ta đã làm thế nào khiến cho cô con gái ông Van der Merwe mang bầu. Margaret van der Merwe đã lừa phỉnh cả thị trấn.

“Con bé ấy không có vẻ gì thuộc về loại đàn bà như thế cả, phải thế không?”

“Tẩm ngẩm tầm ngầm mà đâm chết voi đấy!”.

“Không biết có bao nhiêu thằng đàn ông trong thị trấn này đã “đóng cọc vào trong cái trái mít” ấy nhỉ?”.

“Con bé ấy có dáng người khá xinh. Tao cũng có thể đóng cái cọc của tao được chứ”.

“Sao mày không hỏi nó đi. Nó sẵn sàng cho không mày đấy”.

Rồi mọi người cười phá lên.

Khi Salomon van der Merwe rời cửa hiệu trưa hôm ấy, lão đã tìm được cách thoả hiệp với nỗi tai họa khủng khiếp vừa xảy ra cho lão. Lão sẽ đưa Margaret đi Cape Town bằng chuyến xe ngựa sắp tới. Nàng sẽ cho ra đời đứa con hoang ở đấy, rồi không một ai ở Klipdrift này biết đến nỗi nhục nhã của lão nữa. Van der Merwe bước ra đường phố, ôm điều bí mật này trong lòng, một nụ cười gắn trên môi.

“Chào ông Van der Merwe. Tôi nghe nói ông có thể sẽ tích trữ thêm một số quần áo trẻ con nữa”.

“Chào ông Salomon. Nghe nói ông sắp có một đứa bé con giúp ông trông nom cửa hàng”.

“Chào ông Salomon. Tôi nghe nói một nhà quan sát chim vừa mới phát hiện một loài chim mới gần con sông Vaal . Vâng, thưa ông, đó là một con cò”.

Salomon quay lại, loạng choạng bước vào cửa hiệu như một người mù, rồi gài chốt cửa lại.

Ở quán Sundowner, Jamie đang nhấm nháp ly rượu huýt ki, lắng nghe những tiếng bàn tán xung quanh mình. Thật là một vụ tai tiếng lớn lao nhất chưa từng xảy ra ở Klipdrift và nỗi vui thích của người dân thị trấn về câu chuyện này thật lớn lao vô cùng. Jamie thầm nghĩ, ước mong sao Banda cũng có mặt ở đây để cùng chia vui với mình. Như vậy là đã trả thù lão Van der Merwe về những gì hắn đã làm hại em gái của Banda, làm hại Jamie và… bao nhiêu người khác nữa. Nhưng đó chỉ là một phần trong tất cả những gì Van der Merwe đã làm. Đó chỉ là bước đầu. Sự trả thù của Jamie chưa được hoàn toàn chừng nào mà Van der Merwe chưa bị hoàn toàn triệt hạ. Riêng đối với Margaret, anh không có chút thương hại nào. Nàng có dính líu vào vụ ấy. Nàng đã nói gì với anh khi hai người gặp nhau lần đầu tiên? Cô ấy đã nói, “Cha tôi có thể là người giúp được cậu. Ông ta biết tất cả mọi thứ”. Nàng cũng là một Van der Merwe, nên Jamie muốn triệt hạ cả hai.

Smith bước đến chỗ Jamie đang ngồi. “Tôi nói chuyện với ông một phút, được không?”.

“Chuyện gì vậy?”.

Smit đằng hắng giọng, nói một cách ngượng ngùng. “Tôi biết hai người thăm dò có mười nơi có thể khai thác gần Pniel. Họ tìm ra kim cương, nhưng không có tiền để sắm các thiết bị cần thiết để khai thác. Họ đang tìm một người hợp tác. Tôi nghĩ rằng ông có thể quan tâm đến cơ hội làm ăn này”.

Jamie nhìn hắn chằm chằm. “Đó là những người anh đã giới thiệu với Van der Merwe rồi, phải không?”

Smith gật đầu, ngạc nhiên. “Thưa ông, vâng. Nhưng tôi đã suy nghĩ lại về lời đề nghị của ông. Tôi muốn làm ăn với ông hơn”.

Jamie rút ra một điếu xì gà dài, mỏng. Smit vội vã châm lửa hộ anh. “Anh cứ tiếp tục nói đi”.

Smith làm theo y lời.

Vào lúc ban đầu, nghề mãi dâm ở Klipdrift được mở ra trên căn bản ngẫu nhiên. Gái mãi dâm phần nhiều là phụ nữ da đen, làm việc trong các nhà điếm tồi tàn trong các ngõ hẻm. Nhưng gái mãi dâm da trắng đầu tiên đến thị trấn này là những cô gái bán ba (bar) làm việc bán thời gian. Nhưng số kim cương tìm thấy được tăng lên và thị trấn làm ăn phát đạt, nhiều gái mãi dâm da trắng nữa xuất hiện.

Lúc này đã có hàng chục nhà chứa ở vùng ven thị trấn Klipdrift. Đó là những căn nhà nhỏ bằng gỗ có mái lợp tôn. Một ngoại lệ duy nhất là nhà chứa của bà Agnès, một ngôi nhà hai tầng trông bề thế trên đường Bee, cách xa đường Loop, tức là đường phố nơi các bà vợ của những người dân thị trấn không bị khó chịu mỗi khi phải đi qua ổ truỵ lạc ấy. Ngôi nhà ấy được sự bảo trợ của các ông chồng của họ và của bất cứ khách lạ nào có tiền của đến thị trấn này. Đó là một nhà thổ đắt tiền, nhưng các cô gái ở đó đều trẻ và tự do, xứng đáng với đồng tiền bỏ ra. Các thức uống được dọn ra trong một phòng khách bày biện khá sang trọng, và bà Agnès đã đưa ra qui tắc rằng không bao giờ thúc giục hối hả và lừa bịp khách hàng. Bản thân bà Agnès cũng là một người đàn bà vui vẻ, mập mạp, có mái tóc màu đỏ, vào khoảng trên ba mươi tuổi. Bà đã làm việc trong các nhà hang điếm ở London và đến Nam Phi vì nghe đồn rằng người ta dễ kiếm ra tiền trong một thị trấn vùng mỏ như Klipdrift. Bà đã dành dụm đủ tiền để mở một nhà điếm do bà làm chủ và công việc làm ăn phát đạt ngay từ lúc đầu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:52:29 | Chỉ xem của tác giả
Bà Agnès vẫn thường hãnh diện về khả năng hiểu biết đàn ông, thế nhưng Jamie McGregor là một nhân vật bí hiểm đối với bà. Anh vẫn đến đó luôn, tiêu tiền một cách thoải mái, và lúc nào cũng vui vẻ đối với các cô gái. Nhưng anh có vẻ kín đáo, xa vời, không ai dám động chạm. Đôi mắt anh là thứ mà bà Agnès cảm thấy hấp dẫn nhất. Chúng có vẻ mờ nhạt, lạnh lùng, giống như những hồ ao không đáy. Không giống như các khách hàng khác, anh không bao giờ nói về mình hay về quá khứ của mình. Ít giờ trước đó, bà Agnès đã nghe nói rằng Jamie McGregor đã cố ý làm cho con gái của ông Van der Merwe mang bầu, rồi từ chối không cưới cô ta. Thật là “một thằng chó đẻ”, bà Agnès nghĩ thầm. Nhưng bà cũng phải công nhận rằng đó là một “thằng chó đẻ” đáng yêu. Lúc này bà nhìn theo Jamie trong khi anh bước xuống trên chiếc cầu thang trải thảm đỏ, lễ phép chào từ biệt trước khi ra về.

Khi Jamie trở về khách sạn thì Margaret đã đứng trong phòng anh, nhìn qua khung cửa sổ. Nàng quay lại khi Jamie bước vào.

“Chào anh Jamie”, Giọng nói của nàng hơi run run.

“Cô làm cái gì ở đây?”.

“Em cần nói chuyện với anh”.

“Tôi chẳng có gì để nói cả”.

“Em hiểu vì sao anh làm như vậy. Anh ghét cha em”. Margaret tiến lại gần anh hơn nữa “Nhưng anh cần phải biết rằng dù ông ấy có làm điều gì với anh, em cũng chẳng hay biết gì cả. Em van xin anh hãy tin điều đó. Đừng ghét bỏ em. Em yêu anh quá nhiều”.

Jamie nhìn nàng lạnh lùng. “Đó là vấn đề của riêng cô, phải thế không nào?”.

“Xin anh đừng nhìn em như thế. Anh cũng yêu em…”.

Anh không nghe những gì nàng nói. Trí óc anh đang trở về với cuộc hành trình khủng khiếp đến Paardspan, nơi anh suýt bỏ mạng… lúc anh di chuyển những tảng đá trên bờ sông cho đến lúc sắp ngã quỵ xuống… rồi cuối cùng, như một phép lạ, anh tìm thấy kim cương và trao nó cho Van der Merwe, rồi nghe lão ta nói, “Cậu hiểu lầm rồi, bé con ạ. Tôi không cần kẻ nào hợp tác với tôi hết. Cậu làm việc cho tôi… Tôi cho cậu hai mươi bốn giờ đồng hồ để ra khỏi thị trấn này”. Thế rồi sau đó là trận đòn tàn nhẫn… Anh lại ngửi thấy mùi những con kên kên, cảm thấy những cái mỏ của chúng rỉa vào da thịt anh…

Anh nghe tiếng nói của Margaret như từ phía xa xa, “Anh không nhớ sao? Em… là… của anh… em… yêu anh”.

Anh rùng mình một cái để thoát ra khỏi cơn mơ màng, nhìn vào mặt nàng. Tình yêu. Anh không còn có một ý tưởng nào về ý nghĩa của từ ấy. Van der Merwe đã đốt cháy tất cả mọi cảm xúc trong người anh, ngoài sự thù hận. Anh sống bằng thứ ấy. Nó là thứ thuốc tiên, là máu đỏ nuôi sống anh. Chính nó đã giúp cho anh được sống còn, khi anh chống chọi với đàn cá mập, vượt qua các mỏm đá ngầm và bò ngang qua bãi mìn ở mỏ kim cương trong sa mạc Namib. Các thi sĩ đã viết về tình yêu, các ca sĩ hát để ca ngợi tình yêu. Có lẽ nó là hiện thực, có lẽ nó tồn tại. Nhưng tình yêu là dành cho những người khác. Còn đối với McGregor thì không.

Không còn nơi nào cho Margaret tới nữa cả. Nàng yêu cha nàng. Nàng cần được sự tha thứ của ông, nhưng nàng biết rằng ông sẽ không bao giờ – không bao giờ có thể – tha thứ cho nàng được. Ông sẽ biến cuộc đời nàng thành một địa ngục trần gian. Nhưng nàng không còn lựa chọn nào nữa. Nàng cần đi đến gặp một người nào đó.

Margaret rời khách sạn, đi về phía cửa hiệu bách hoá của cha nàng. Nàng có cảm tưởng như mọi người đang nhìn nàng chằm chằm. Một số người tủm tỉm cười có vẻ bóng gió. Nàng ngẩng đầu lên cao, tiếp tục bước đi. Đến cửa hiệu, nàng do dự một lúc, rồi bước hẳn vào bên trong. Cửa hiệu vắng vẻ. Cha nàng từ phía trong bước ra.

“Bố…”

“Mày à!”. Một vẻ khinh bỉ của ông ta trong giọng nói giống như một cái tát lên mặt nàng. Lão tiến lại gần, khiến nàng ngửi thấy mùi uýt ki trong hơi thở của ông. “Tao muốn mày rời khỏi thành phố này. Ngay tối nay. Mày sẽ không bao giờ được lại gần nơi này nữa. Mày có nghe tao nói không? Không bao giờ!” Lão rút từ trong túi ra ít tờ giấy bạc ném lên trên sàn nhà. “Cầm lấy, rồi cút đi”.

“Con đang mang trong bụng đứa cháu ngoại của bố”.

“Mày đang mang đứa con của quỉ sa tăng!” Lão tiến lại gần hơn nữa, hai bàn tay nắm chặt lại. “Mỗi khi người ta thấy mày đi khệnh khạng quanh đây như một con đĩ, họ sẽ nghĩ đến nỗi nhục nhã của tao. Khi mày đi rồi, người ta sẽ quên đi”.

Nàng nhìn ông bố một hồi lâu, rồi quay lại, loạng choạng bước ra khỏi cửa.

“Tiền, con đĩ kia!” Lão rống lên. “Mày quên tiền hay sao?”

Có một quán trọ rẻ tiền ở ven thị trấn, nên Margaret đi thẳng đến đó, đầu óc rối bời. Đến nơi, nàng hỏi thăm bà Owens, người chủ nhà. Bà Owens là một người đàn bà béo mập, nét mặt vui tươi, vào trạc ngũ tuần. Chồng bà đã đưa bà đến Klipdrift, rồi bỏ rơi bà ở đây. Một người đàn bà khác trong trường hợp ấy ắt hẳn đã ngã quỵ, nhưng bà Owens vẫn sống sót. Bà đã thấy nhiều người gặp khó khăn trong thị trấn này, nhưng không ai ở trong tình trạng khó khăn như cô gái mười bảy tuổi đang đứng trước mặt bà.

“Cô muốn gặp tôi sao?”.

“Vâng, tôi không biết… không biết bà có một việc làm nào cho tôi ở đây không”.

“Việc làm à? Làm cái gì?”.

“Bất cứ việc gì. Tôi nấu ăn khá. Có thể làm hầu bàn. Làm giường. Tôi… Tôi… “. Giọng nàng có vẻ tuyệt vọng. “Xin bà…” nàng năn nỉ. “Bất cứ việc gì cũng được!”.

Bà Owens nhìn cô gái đang đứng run rẩy trước mặt. Bà cảm thấy xúc động. “Chắc rằng tôi có thể dùng thêm một người nữa. Bao giờ thì cô có thể bắt đầu được?” Bà cảm thấy nét mặt Margaret sáng lên, như vừa trút đi nỗi lo âu.

“Ngay bây giờ”.

“Tôi chỉ có thể trả cho cô…” Bà suy nghĩ về một con số nào đó, rồi nói tiếp, “một bảng, hai shillings và mười một xu, ngoài ăn và ở”.

“Như vậy cũng tốt rồi”, Margaret nói với vẻ biết ơn.

Lúc này Salomon van der Merwe ít khi xuất hiện trên các đường phố ở Klipdrift. Mỗi lúc khách hàng của lão lại thấy tấm biển “Đóng cửa” treo lên thường xuyên hơn trên cửa ra vào hiệu bách hoá vào tất cả mọi giờ trong ngày. Một thời gian sau đó, họ mua bán ở nơi khác, chứ không còn đến đó nữa.

Nhưng Van der Merwe vẫn đi nhà thờ mỗi ngày Chủ Nhật. Lão đến đó không phải để đọc kinh mà để xin Chúa sửa chữa lại nỗi bất công đã chồng chất lên vai một đệ tử trung thành của Chúa. Những người khác trong giáo khu xưa nay vẫn kính trọng Salomon ven der Merwe, vì lão giàu có và có thế lực, nhưng vào lúc này, lão cảm thấy cái nhìn xoi mói và những tiếng thì thầm sau lưng lão. Gia đình vẫn thường chiếm chiếc ghế bên cạnh lão bây giờ đã chuyển sang một chiếc ghế khác. Lão là một người dân giáo khu. Điều làm cho lão mất tinh thần hoàn toàn là bài giảng của vị mục sư trong đó ông ta đề cập một cách tinh ranh đến Exodus, Ezekiel, phối hợp với Leviticus (1). “Ta, Đức Chúa Trời của ngươi, là một vị Chúa hay ngờ vực, thường theo dõi nhưng điều tội lỗi của các bậc làm cha ảnh hưởng đến con cái. Vì vậy, hỡi con gái điếm kia, ngươi hãy nghe lời răn của Đức Chúa. Bởi vì chất nhơ bẩn của ngươi đã tuôn ra, thân thể trần truồng của ngươi đã được phô bày ra qua các hành động dâm ô với các nhân tình của ngươi… nên Chúa nói với Moses (2), “Đừng bán rẻ con gái ngươi, để biến nó thành một con đĩ; nếu không, e rằng trái đất này sẽ rơi vào ổ trụy lạc, và đầy rẫy tội ác xấu xa,…””

Sau Chủ nhật ấy, Van der Merwe không còn đặt chân đến nhà thờ lần nào nữa.

Trong khi việc kinh doanh của Van der Merwe bị suy sụp thì ngược lại công việc làm ăn của Jamie McGregor trở nên phát đạt. Chi phí của việc đào mỏ kim cương tăng lên vì người ta phải đào sâu hơn, và những người khai thác mỏ nhận thấy rằng họ không còn có thể sắm những trang bị tinh vi cần thiết. Tin đồn loan đi rất nhanh rằng Jamie McGregor có thể tài trợ cho việc khai thác để đổi lấy một phần thu hoạch trong các mỏ ấy, rồi đến khi nào cần thiết, Jamie sẽ trả tiền mua đứt tài sản những người hợp tác kinh doanh. Anh đầu tư vào bất động sản, doanh thương và vàng. Anh tỏ ra lương thiện và tỉ mỉ trong việc giao dịch, nên, khi tiếng tăm của anh lan rộng, nhiều người hơn nữa tìm đến anh để hợp tác làm ăn.

Có hai ngân hàng trong thành phố. Nhưng khi một trong hai ngân hàng ấy thất bại vì quản lý kém, Jamie mua lại ngân hàng ấy, đặt người của anh vào, nhưng tránh không đưa tên mình ra trong các vụ giao dịch.

Bất cứ vụ kinh doanh nào Jamie có nhúng tay vào đều trở nên phát đạt. Anh đã thành công và trở nên giàu có ngoài sự mơ ước của anh thời niên thiếu, nhưng điều đó không có ý nghĩa bao nhiêu đối với anh. Anh đo lường sự thành công của anh, căn cứ trên những sự thất bại của Salomon van der Merwe mà thôi. Cuộc trả thù của anh chỉ mới bắt đầu.

Thỉnh thoảng Jamie gặp Margaret trên đường phố. Nhưng anh không để ý đến nàng.

Jamie không hề biết những cuộc chạm trán tình cờ ấy ảnh hưởng như thế nào đến Margaret. Mỗi khi trông thấy bóng dáng anh, nàng cảm thấy như nghẹt thở, phải dừng lại một lúc để lấy lại tự chủ. Nàng vẫn yêu anh hoàn toàn và đầy đủ. Không có gì có thể làm thay đổi điều ấy được. Anh đã sử dụng thân xác nàng để trừng trị cha nàng, nhưng Margaret biết rằng đó là một con dao hai lưỡi. Chẳng bao lâu nữa nàng sẽ sinh đứa con của Jamie, và khi trông thấy đứa bé, máu và thịt của anh, anh sẽ cưới nàng và cho đứa bé ấy một cái tên. Margaret sẽ trở thành bà Jamie McGregor. Nàng không còn mong ước gì hơn thế nữa trên đời này. Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, nàng sờ lên chiếc bụng căng phồng và thì thầm. “Đứa con trai của chúng ta”. Có lẽ thật là điên rồ nếu nàng nghĩ rằng nàng có thể ảnh hưởng đến giới tính của nó, nhưng nàng không muốn bỏ qua bất cứ khả năng nào. Đàn ông nào cũng muốn có con trai.

Khi bụng nàng căng phồng lên, nàng cảm thấy khiếp hãi hơn. Nàng ao ước được nói chuyện với một người nào đó. Nhưng các bà, các cô trong thị trấn đều không muốn nói chuyện với nàng. Tôn giáo của họ dạy cho họ biết trừng phạt chứ không biết tha thứ. Nàng chỉ có một mình, xung quanh là người xa lạ. Nàng bật khóc trong đêm tối, thương cho thân mình và cho đứa trẻ trong bụng.

Jamie McGregor đã mua một toà nhà hai tầng ngay tại trung tâm Klipdrift, và dùng nơi này làm trụ sở chính cho tổ chức kinh doanh đang lớn mạnh của anh. Một hôm, Harry McMillan, viên kế toán trưởng của Jamie, họp bàn với anh.

“Chúng ta sẽ tập hợp các công ty của ông lại, nên cần phải có một cái tên cho tổ hợp. Ông có ý kiến nào về cái tên này không?”.

“Để tôi nghĩ xem”.

Jamie suy nghĩ về vấn đề này. Trong trí óc anh, lúc nào cũng vang lên âm thanh của những tiếng kêu chọc thủng sương mù trên vùng đất kim cương trong sa mạc Namib. Vì vậy, anh biết chỉ có một cái tên anh muốn dùng. Anh liền gọi viên kế toán trưởng đến, và nói, “Chúng ta sẽ gọi tên công ty mới này là Kruger Brent. Công ty Hữu hạn (3) Kruger Brent”.

Alvin Cory, viên quản lý ngân hàng của Jamie, một hôm đến thăm viếng anh. “Tôi đến là vì chuyện các món nợ của ông Van der Merwe. Trong quá khứ, việc cho ông ta vay tiền là một điều rủi ro có lợi, nhưng hoàn cảnh ông ta bây giờ đã thay đổi một cách quyết liệt, ông McGregor ạ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên đòi các khoản cho vay về”.

“Không”.

Corry nhìn Jamie, ngạc nhiên. “Sáng nay, ông ta đến đây cố xin vay thêm tiền để…”.

“Cứ cho ông ta vay. Hãy cho bất cứ thứ gì ông ta cần”.

Viên quản lý đứng dậy. “Tôi xin làm theo bất cứ điều gì ông bảo, ông Mcgregor ạ. Tôi sẽ bảo cho ông ấy rằng ông nói…".

“Không bảo ông ta gì hết. Chỉ việc đưa tiền cho lão ta thôi”.

Mỗi buổi sáng, Margaret thức dậy lúc năm giờ để nướng những miếng bánh mì lớn rất thơm tho và bánh bích quy bằng bột nhào chua. Khi các khách trọ lũ lượt kéo vào phòng ăn để dùng điểm tâm, nàng dọn ra cho họ các món ăn như cháo, thịt hun và trứng, bánh ngọt làm bằng kiều mạch, bánh cuốn ngọt, và những bình cà phê nóng hổi. Đa số khách trọ là những người thăm dò kim cương trên đường đến hay rời các nơi khai thác mỏ. Họ thường dừng lại Klipdrift khá lâu để nhờ đánh giá kim cương của họ, tắm rửa, uống rượu say mèm, và thăm viếng một trong các ổ điếm – thường là theo thứ tự như vậy. Họ phần đông là những người phiêu lưu ít học, thô lỗ.

Có một thứ quy luật không được viết trên giấy tờ là không được xâm phạm, quấy rầy những người đàn bà, con gái tử tế. Nếu người nào muốn thoả mãn dục tính, họ đi đến một nhà thổ. Thế nhưng Margaret ven der Merwe là một sự thử thách, vì nàng không thuộc vào hạng nào trong hai hạng ấy cả. Con gái tử tế mà còn độc thân thì không mang bầu như thế. Rồi người ta dự đoán rằng vì Maragret đã sa ngã một lần thì có lẽ cô ta sẽ sẵn sàng ăn nằm với bất cứ người nào khác. Họ chỉ cần yêu cầu một tiếng thôi là xong. Và họ làm như thế thật.

Một số người thì nói toạc móng heo ra và đòi hỏi om sòm. Một số khác thì liếc mắt nhìn lén lút. Margaret đối xử với tất cả những người ấy với một thái độ bình tĩnh đoan trang. Nhưng một đêm nọ, khi bà Owens chuẩn bị làm giường, bà nghe có tiếng la hét từ căn phòng của Margaret ở phía sau nhà. Bà mở tung cánh cửa, nhảy xổ vào. Một trong các khách trọ, một người thăm dò kim cương say rượu, đã xé toạc chiếc áo choàng của Margaret, đè nàng xuống giường.

Bà Owens chồm đến anh ta như một con cọp. Bà nhặt lấy một cái bàn là, đập túi bụi lên anh ta. Thân hình bà chỉ bằng nửa anh chàng kia, nhưng bà chẳng sợ gì. Tức giận tràn ngập, bà đánh anh chàng ấy đến bất tỉnh, rồi lôi xềnh xệch anh ta ngang qua hành lang, rồi vứt ra đường phố. Sau đó, bà quay lại, hối hả chạy trở lại phòng Margaret, Margaret đang chùi máu môi, vì bị anh chàng ấy cắn ở đó. Tay nàng run rẩy.

“Cô có hề gì không, Maggie?”.

“Không, tôi chỉ… Xin cảm ơn bà Owens”.

Nước mắt nàng tự nhiên ứa lên. Trong một thị trấn mà ở đó rất ít người chịu nói chuyện với nàng, bây giờ mới có một người bày tỏ lòng thương cảm.

Chú thích:
(1) Exodus: sách Cựu ước nói về cuộc khởi hành của người Do Thái từ Ai Cập. Ezekiel: sách Cựu ước nói về những lời tiên tri. Nhà tiên tri Do Thái Ezekiel sống vào thế kỷ VI trước công nguyên;
Leviticus: sách Cựu ước nói về các giáo luật dành cho các tu sĩ Do Thái.
(2) Moses: nhà lãnh đạo tôn giáo, nói trong Thánh kinh, đã đưa người Do thái thoát khỏi nô lệ ở Ai Cập để đi đến vùng Đất Hứa.
(3) Công ty Hữu hạn: hay công ty Trách nhiệm hữu hạn (Limited Company, viết tắt là Ltd.), là công ty trong đó mỗi thành viên hợp tác kinh doanh, hay cổ đông viên (shareholder) có trách nhiệm được giới hạn theo số lượng đầu tư thực sự của mình vào việc kinh doanh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 22:56:22 | Chỉ xem của tác giả
Bà Owens nhìn bụng căng phồng của Margaret, và suy nghĩ. Tội nghiệp cho đứa con gái mơ mộng. Jamie McGregor sẽ không bao giờ chịu cưới nó đâu.

Ngày ở cữ đã gần kề. Margaret dễ dàng thấy mệt mỏi, cử động cúi xuống, rồi đứng dậy lại, là một cố gắng khó nhọc đối với nàng. Niềm vui duy nhất của nàng là khi đứa bé trong bụng cựa quậy. Nàng và con trai nàng không hoàn toàn cô đơn trên cõi đời này. Nàng nói chuyện với nó, giờ này qua giờ khác, kể cho nó nghe những điều kỳ diệu mà cuộc đời sẽ dành cho nó.

Vào một buổi tối nọ, sau khi ăn cơm xong, một đứa bé da đen xuất hiện ở nhà trọ, đưa cho Margaret một lá thư niêm phong cẩn thận.

“Tôi được lệnh phải chờ đợi cô trả lời”, cậu bé nói với Margaret.

Margaret đọc lá thư, rồi đọc nó lại một lần nữa, rất chậm rãi. “Được”, nàng nói “Tôi xin nhận lời”.

Ngày thứ sáu kế đó, vào lúc giữa trưa, Margaret đến trước cửa nhà chứa của bà Agnès. Một tấm biển trên cánh cửa ra vào ghi hai chữ “Đóng cửa”. Margaret gõ nhè nhẹ trên cánh cửa, không cần biết đến cái nhìn ngạc nhiên của khách qua đường. Nàng tự hỏi không biết nàng đến nơi này có phải là một hành động sai lầm chăng. Đó là quyết định khó khăn, và nàng đã nhận lời bởi vì cảm thấy mình quá cô đơn. Lá thư ấy viết:

Thưa cô Van der Merwe thân mến,

Thật ra tôi không có liên quan gì đến chuyện này, nhưng các cô gái của tôi ở đây đã bàn cãi với nhau về hoàn cảnh không may và bất công của cô. Chúng tôi nghĩ rằng đó là một điều sỉ nhục đáng nguyền rủa. Nếu cô không cảm thấy bối rối, khó chịu, chúng tôi rất hân hạnh được cô chấp nhận đến dùng một bữa cơm trưa với chúng tôi. Không biết ngày Thứ sáu này có tiện cho cô không?

Kính mến,

Bà Agnès

Margaret đang do dự không biết có nên bỏ đi hay không thì bà Agnès đã ra mở cửa.

Bà cầm lấy cánh tay Margaret và nói, “Đi vào đây, cô em. Chúng tôi sẽ làm cho cô quên đi cái nóng khủng khiếp này”.

Bà dấ Margaret vào phòng khách, bày biện sang trọng với những chiếc bàn, ghế, sô-pha bọc nhung đỏ kiểu Victoria . Căn phòng này lại được trang hoàng bằng những ruy băng và giấy hoa, ngoài ra lại còn có – không biết họ lấy từ đâu ra – những quả bong bong màu sắc sặc sỡ. Nhiều tấm biển bằng bìa cứng, treo từ trần nhà, trên đó viết những dòng chữ vụng về:

“Mừng cháu bé… Chắc chắn sẽ là một đứa con trai… Mừng sinh nhật cháu bé…”.

Trong phòng có tám cô con gái, trong số các cô cùng làm cho bà Agnès, đủ mọi dáng vẻ, tuổi tác, màu sắc. Họ đều ăn mặc đàng hoàng cho dịp ăn mừng này, dưới sự bảo trợ của bà Agnès. Họ mặc chiếc áo dài đứng đắn và không hoá trang. Margaret ngạc nhiên thầm nghĩ, những cô gái này trông còn đứng đắn hơn đa số các bà vợ trong thị trấn này.

Margaret nhìn căn phòng đầy những cô gái điếm, không còn biết mình phải làm gì nữa. Một số khuôn mặt có vẻ quen thuộc. Margaret đã từng tiếp họ khi nàng còn làm việc tại cửa hàng bách hoá của cha nàng. Một số còn trẻ và rất xinh đẹp. Một số ít già hơn và mập mạp, với mái tóc rõ ràng đã được nhuộm. Nhưng tất cả đều có chung một đặc điểm: họ đều tỏ ra quan tâm đến nàng. Họ thân thiện, tử tế, nồng thắm, và muốn làm cho nàng được vui sướng.

Họ xoắn xít xung quanh Margaret với vẻ e thẹn, lúng túng, vì sợ nói điều gì hay làm điều gì khiến nàng phật ý. Dù dân thị trấn có nói gì về nàng, họ biết rằng nàng là một cô gái con nhà tử tế, và ý thức được sự khác biệt giữa họ với nàng. Họ lấy làm hân hạnh vì nàng đã nhận lời đến với họ, và họ quyết không làm điều gì khả dĩ phá hỏng không khí buổi tiệc dành cho nàng.

“Chúng tôi đã soạn sẵn một bữa cơm thật ngon mời cô, cô em yêu quý ạ.”, bà Agnès nói. “Chắc là cô đang đói”.

Họ dắt nàng đến phòng ăn, nơi một bàn tiệc đã được bày sẵn, với một chai sâm banh ở chỗ ngồi của Margaret. Trong khi đi ngang qua hành lang, nàng đưa mắt nhìn những chiếc cầu thang dẫn đến các phòng ngủ ở tầng hai. Nàng biết Jamie đã từng đến nơi đó, và tự hỏi không biết chàng đã chọn cô nào trong các cô gái này. Có lẽ là tất cả. Rồi nàng quan sát họ thật kỹ để xem họ có những ưu điểm gì đối với Jamie mà nàng không có.

Bữa ăn trưa này trở thành một bữa tiệc, bắt đầu bằng món xúp nguội và xà lách, tiếp theo là món cá chép tươi, sau đó nữa là thịt cừu, thịt vịt với rau và khoai tây. Cuối cùng là bánh bích quy tẩm rượu, phó mát, trái cây và cà phê. Margaret ăn uống rất thật tình và vui thích vô cùng. Nàng ngồi ở đầu bàn, bên phải là bà Agnès, phía bên trái là Maggie, một cô gái tóc hoe xinh đẹp, có lẽ không quá mười sáu tuổi. Thoạt tiên cuộc nói chuyện có vẻ khoa trương, rỗng tếch, Các cô gái kể hàng chục câu chuyện vui đùa, tục tĩu, nhưng đó không phải là những thứ họ biết Margaret đang muốn nghe. Vì vậy, họ bàn về thời tiết, về sự phát triển của Klipdrift và về tương lai của Nam Phi. Họ tỏ ra hiểu biết về chính trị kinh tế và về kim cương, vì đó là nhưng tin tức họ biết được qua các chuyên viên về những vấn đề ấy.

Có một lần, cô gái xinh đẹp tóc hoe, tên là Maggie nói, “Jamie vừa mới tìm ra được một mỏ kim cương mới ở… “. Cả căn phòng đột nhiên im bặt lại. Cô ta biết rằng mình bị hớ, liền lắp bắp nói tiếp, “Đó là ông chú tôi tên là Jamie. Ông ấy… ông ấy lấy người dì của tôi”.

Margaret ngạc nhiên vì một cảm giác ghen tuông tràn qua người nàng như một làn sóng. Bà Agnès vội vã xoay câu chuyện sang một vấn đề khác.

Khi bữa ăn chấm dứt, bà Agnès đứng dậy, nói, “Mình đi lối này, cô em yêu quý ạ”. Margaret và cô khác theo chân bà, đi vào một căn phòng thứ hai mà Margaret chưa hề thấy trước đó. Ở đó có hang chục món quà, tất cả đều gói ghém cẩn thận. Margaret không còn tin vào mắt mình nữa.

“Tôi… tôi không biết nói làm sao được bây giờ”.

“Cô cứ mở xem”, bà Agnès nói.

Ở đó có một chiếc nôi lắc lư, những chiếc giày nhỏ đan tay của trẻ con, áo trẻ con, mũ thêu, một chiếc áo choàng dài bằng len thêu. Có những chiếc giày trẻ con có đính khuy kiểu Pháp, có một tách bằng bạc có viền vàng của trẻ con, một cái lược và bàn chải với cán bằng bạc thuần chất. Có những cái ghim yếm bằng vàng thuần chất với các cạnh xâu hạt, một cái vòng bằng cao su cho trẻ con cắn, một con ngựa gỗ lắc lư sơn màu xám lốm đốm. Có những đồ chơi người lính, nhưng khối gỗ màu sắc chói lọi, và đẹp hơn hết tất cả là một chiếc áo dài trắng tinh để mặc vào ngày lễ đặt tên cho đứa bé.

Thật giống như ngày lễ Giáng sinh. Nó ngoài sức tưởng tượng của Margaret. Tất cả nỗi cô đơn bị đè nén, tất cả nỗi đau khổ trong quá khứ như nổ tung ra trong người nàng, khiến nàng bật khóc thổn thức.

Bà Agnès đặt cánh tay qua người nàng, và nói với các cô gái khác, “Đi ra ngoài kia”.

Họ lẳng lặng rời khỏi phòng. Bà Agnès dắt Margaret đến chiếc ghế dài, rồi ôm nàng ngồi ở đấy cho đến khi những tiếng nức nở dịu đi.

“Tôi… tôi xin lỗi”, Margaret lắp bắp nói. “Tôi… tôi không hiểu có cái gì như bao trùm lấy người tôi… “.

“Không hề gì đâu, cô em thân mến ạ. Căn phòng này đã thấy quá nhiều vấn đề đến rồi lại đi. Cô có biết chúng tôi đã học được những gì không? Cuối cùng tất cả mọi thứ rồi sẽ được giải quyết cả thôi. Cô và cháu bé sẽ được sung sướng”.

“Cám ơn bà”, Margaret thì thào. Nàng đưa tay ra chỉ các món quà. “Tôi không biết cám ơn bà và các bạn như thế nào cho vừa”.

Bà Agnès bóp chặt bàn tay Margaret. “Đừng. Cô không biết các cô gái kia và tôi vui sướng như thế nào khi gom góp các thứ này. Chúng tôi không mấy khi được cơ hội làm một việc đại loại như thế này. Khi một người trong chúng tôi có mang, thật là một tấn bi kịch đáng nguyền rủa”. Bà vụt đưa tay lên miệng và nói, “Ồ, tôi xin lỗi”.

Margaret tủm tỉm cười, “Tôi chỉ muốn bà biết cho rằng hôm nay là một trong những ngày sung sướng nhất trong đời tôi”.

“Chúng tôi thực sự rất hân hạnh được cô đến thăm, cô ạ. Riêng tôi nghĩ, cô xứng đáng bằng tất cả những người đàn bà trong thị trấn này gộp lại. Những đồ chó đẻ khốn khiếp! Tôi có thể giết chúng nó vì chúng đã đối xử tệ bạc với cô. Và, nếu cô cho phép, tôi cũng xin nói rằng Jamie McGregor là một tên điên khùng đáng nguyền rủa”. Bà đứng thẳng dậy. “Đàn ông! Thế giới này chắc sẽ là một nơi thần tiên nếu không có những thằng chó đẻ như thế. Hay… có lẽ nó sẽ chẳng là thần tiên chút nào. Ai biết được?”.

Margaret đã lấy lại được bình tĩnh. Nàng đứng dậy, cầm lấy tay bà Agnès. “Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được kỉ niệm này, chừng nào tôi còn sống. Một ngày nào đó, khi con trai tôi khôn lớn, tôi sẽ nói với nó về ngày hôm nay”.

Bà Agnès nhăn mặt lại. “Cô thực sự nghĩ như vậy sao?”.

Margaret mỉm cười. “Vâng, thực sự nghĩ như vậy”.

Bà Agnès tiễn chân nàng ra cửa. “Tôi sẽ cho xe chở tất cả các thứ quà này đến nhà trọ của cô, và… chúc cô may mắn”.

“Cảm ơn bà. Xin cảm ơn bà lắm lắm”.

Rồi nàng ra về.

Bà Agnès đứng nhìn theo Margaret đang lóng ngóng bước xuống đường phố. Rồi bà quay về phía bên trong, nói thật to, “Thôi được rồi, các cô ạ. Chúng ta bắt đầu làm việc đi”.

Một giờ sau, ngôi nhà của bà Agnès được mở cửa để tiếp khách như thường lệ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách