Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết ] Tay Cự Phách | Sidney Sheldon

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 23:23:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8


Đã đến lúc cho bật cái bẫy sập. Trong sáu tháng trước đây, Jamie McGregor đã mua đứt phần hùn của những người hợp tác với Van der Merwe trong tất cả mọi dịch vụ kinh doanh, khiến cho Jamie bây giờ hoàn toàn khống chế các dịch vụ ấy. Nhưng mối ám ảnh của Jamie là làm chủ được các mỏ kim cương của Van der Merwe ở Namib. Anh đã phải trả cho cái mỏ ấy một trăm lần lớn lao hơn thế bằng máu, bằng sự gan dạ, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh. Anh đã sử dụng những viên kim cương mà anh và Banda đã lấy trộm được để xây dựng một đế quốc, và nhờ đó anh sẽ đè bẹp lão Van der Merwe. Nhiệm vụ này chưa hoàn tất. Bây giờ, Jamie sẵn sàng thanh toán nó cho xong.

Van der Merwe mỗi lúc mỗi thêm nợ nần. Mọi người trong thị trấn đều từ chối không cho lão vay tiền, ngoại trừ ngân hàng mà Jamie đã kín đáo làm chủ. Chỉ thị hiện hành, mà anh ban cho viên quản lý ngân hàng, là, “Hãy cho Salomon van der Merwe mọi thứ hắn cần”.

Cửa hàng bách hoá bây giờ dường như không mở cửa bao giờ. Van der Merwe bắt đầu uống rượu vào buổi sáng sớm, rồi đến trưa lão thường đi đến nhà bà Agnès, và đôi khi lão ở luôn đêm tại đấy.

Một buổi sáng nọ, Margaret đang đứng ở quầy hàng thịt chờ đợi mua gà theo lệnh của bà Owens thì nàng chợt thoáng thấy qua cửa sổ cha nàng vừa rời khỏi nhà thổ. Nàng khó mà nhận ra được ông già lôi thôi lếch thếch đang lê bước dọc theo đường phố. Chính mình đã gây cho ông cảnh ngộ này. Lạy Chúa, xin Người tha tội cho con, vì chính con đã gây nên nông nỗi này!

Salomon van der Merwe không có một chút ý tưởng nào về những gì đang xảy ra với lão. Lão biết rằng, bằng một cách nào đó, không phải lỗi do lão, cuộc đời của lão đang bị huỷ hoại. Chúa đã chọn lão – giống như xưa kia Người đã chọn Job (1) – để thử thách sức mạnh của đức tin của lão. Van der Merwe tin chắc rằng cuối cùng lão cũng sẽ chiến thắng được kẻ thù giấu mặt. Điều cần thiết đối với lão là thời gian và tiền bạc nhiều hơn nữa. Lão đã đưa ra làm bảo đảm cửa hàng bách hoá của lão, phần hùn của lão tại sáu mỏ kim cương nhỏ, ngay cả con ngựa và chiếc xe ngựa cũa lão nữa. Cuối cùng, lão không còn gì nữa, ngoài mỏ kim cương ở Namib, và vào ngày lão đưa nốt mỏ này ra để ký quỹ thì Jamie chụp ngay lấy nó.

“Thu lại tất cả các giấy tờ của lão”, Jamie ra lệnh cho viên quản lý. “Cho lão ta hai mươi bốn tiếng đồng hồ để trả toàn thể số nợ, nếu không sẽ tịch thu cả tài sản”.

“Thưa ông McGregor, ông ta không thể nào kiếm ra được số tiền ấy. Ông ta…”.

“Hai mươi bốn tiếng đồng hồ”.

Vào đúng bốn giờ trưa hôm sau, viên phụ tá quản lý ngân hàng xuất hiện ở cửa hàng bách hoá cùng với viên cảnh sát trưởng và một lệnh tịch biên tất cả mọi tài sản của Salomon van der Merwe. Từ toà nhà trụ sở của anh ở bên kia đường, Jamie đứng nhìn Van der Merwe bị trục xuất khỏi cửa hiệu bách hoá. Lão đứng ở bên ngoài, mắt hấp háy dưới ánh nắng, không còn biết làm gì hay quay vào đâu để tìm sự giúp đỡ. Lão bị lột sạch mọi thứ. Cuộc trả thù của Jamie đã hoàn tất. Thế nhưng, Jamie tự hỏi, tại sao mình không có cảm giác chiến thắng? Anh chỉ thấy trong lòng trống rỗng. Kẻ mà anh huỷ hoại đã huỷ hoại anh trước tiên.

Khi Jamie bước vào nhà bà Agnès đêm hôm ấy, bà ta nói, “Anh có nghe tin chưa, Jamie? Salomon van der Merwe đã bắn vào đầu tự tử cách đây một giờ đồng hồ”.

Tang lễ được cử hành tại một nghĩa địa ảm đạm, lộng gió, bên ngoài thị trấn. Ngoài toán người lo việc chôn cất, chỉ có hai người tham dự: Margaret và McGregor. Margaret mặc chiếc áo dài đen không ra hình thù gì để che cái bụng lớn của nàng. Nàng trông xanh xao, ốm yếu. Jamie đứng cao to, sang trọng, kín đáo và xa vời. Cả hai đứng ở phía đối diện nhau bên cạnh huyệt, nhìn theo chiếc hòm bằng gỗ thông thô sơ dần dần được hạ xuống lòng đất. Những cục đất được ném cồm cộp trên mặt hòm, nghe như tiếng kêu dội vào tai Margaret: Con đĩ !... con đĩ !....

Nàng nhìn Jamie qua cái huyệt. Hai cặp mắt gặp nhau. Cái nhìn của Jamie trông lạnh lùng, trống rỗng, như thể nàng là một kẻ xa lạ. Margaret cảm thấy ghét anh ta ngay lúc ấy. Anh đứng ở đấy mà không có một cảm xúc nào cả, nhưng chính anh cũng tội lỗi giống như tôi. Chính chúng ta đã giết ông ấy, cả anh và tôi.

Dưới con mắt của Thượng đế, tôi là vợ anh. Nhưng chúng ta là những kẻ đồng loã trong tội ác. Nàng nhìn xuống cái huyệt chưa đắp kín, xem những xuổng đất cuối cùng phủ lên nắp hòm gỗ thong. “Hãy yên nghỉ”, nàng thì thầm, “Hãy yên nghỉ”.

Khi nàng ngước mắt nhìn lên, Jamie đã rời đi rồi.

Có hai ngôi nhà gỗ ở Klipdrift được dùng làm bệnh xá, nhưng chúng đều bẩn thỉu, mất vệ sinh, nên ở đó nhiều bệnh nhân bị chết hơn là được cứu sống. Trẻ được sinh ở nhà riêng. Khi ngày sinh của Margaret đã gần kề, bà Owens nhờ sự giúp đỡ của một bà mụ đỡ tên là Hannah. Cơn đau đẻ bắt đầu lúc ba giờ sáng.

“Bây giờ, cố rặn đi nhé, rồi cứ để nó tự nhiên như vậy, ra sao thì ra”.

Cơn đau đầu tiên đem đến một nụ cười trên môi Margaret. Nàng cho ra đời một đứa con trai của nàng, và nó sẽ có một cái tên. Nàng sẽ cố làm sao để Jamie McGregor phải công nhận đứa con này của anh ta. Con trai nàng sẽ không bị trừng phạt.

Cơn đau đẻ vẫn tiếp tục, giờ này qua giờ khác, và khi một số khách trọ bước vào phòng Margaret để xem thì bị đuổi ra ngay lập tức.

Bà Hannah nói với Margaret, “Đây là vấn đề riêng tư giữa cô, Thượng đế và thằng quỷ sứ đã gây cho cô sự rắc rối này”.

“Có chắc là con trai không?” Margaret hổn hển hỏi.

Bà Hannah lau trán Margaret bằng một cái khăn ướt. “Tôi sẽ cho cô biết ngay sau khi thăm dò ở bên trong. Bây giờ cố rặn đi. Thật mạnh vào. Thật mạnh, mạnh hơn nữa”.

Những cơn co giật bắt đầu xảy ra gần nhau hơn, cơn đau như xé truyền khắp thân hình. Lạy Chúa, chắc có gì không ổn rồi, Margaret nghĩ thầm.

“Cố gắng thêm nữa !”, bà Hannah nói. Bỗng tiếng nói của bà ta nghe có vẻ hoảng sợ, bà kêu lên, “Nó cuộn lại ở bên trong, tôi không thể nào lôi nó ra được!”.

Qua một lớp sương mù màu đỏ, Margaret thấy bà Hannah cúi xuống, vặn vẹo thân hình nàng, căn phòng bắt đầu mờ đi, rồi đột nhiên nàng không thấy đau nữa. Nàng đang bập bềnh trong không gian. Ánh sáng chói lọi loé lên ở cuối đường hầm, một người nào đó vẫy nàng lại gần. Đó là Jamie. “Anh đến đây, Maggie, em yêu quí. Em sắp cho anh một đứa con trai xinh đẹp”. Anh ấy đã trở về với nàng. Nàng không còn ghét anh ấy nữa. Lúc ấy nàng mới biết rằng nàng không hề bao giờ ghét anh ấy cả. Nàng nghe một tiếng nói, “Gần xong rồi”, tiếp theo đó là cơn đau như xé ruột gan khiến nàng phải thét to lên.

“Nào, nó sắp ra rồi đấy”, bà Hannah nói.

Một giây sau, nàng thấy như có một luồng nước ươn ướt tuôn ra giữa hai đùi, tiếp theo là tiếng kêu đắc thắng của bà Hannah. Bà giơ cao lên một khối đỏ hỏn và nói, “ Chào mừng cháu đến Klipdrift. Cô em yêu quý ạ, cô đã có một đứa con trai rồi đấy”.

Nàng đặt tên cho nó là Jamie.

Margaret biết rằng tin về đứa trẻ sẽ đến tai Jamie nhanh chóng. Nàng chờ đợi Jamie đến thăm hay cho người mời nàng đến. Thế nhưng, nhiều tuần lễ trôi qua, Margaret không nghe tin tức gì. Nàng nhắn lời cho Jamie. Người nàng nhờ đưa tin trở về ba mươi phút sau.

Margaret rất nóng lòng chờ đợi tin tức. “Em có gặp ông McGregor không?”

“Thưa bà, có ạ”.

“Thế em có chuyển lời nhắn của chị chứ?”

“Thưa bà, có ạ”.

“Thế ông ấy bảo sao?”, nàng hỏi.

Thằng bé có vẻ bối rối. “Ông ấy bảo… ông ấy bảo ông không có đứa con trai nào cả, bà Van der Merwe ạ”.

Nàng khoá chặt cửa lại, cùng với đứa bé nằm trong phòng suốt cả ngày, đêm, nhất định không ra ngoài. “Vào lúc này, cha con đang bực bội, con ạ. Ông ấy nghĩ rằng mẹ con đã làm điều gì xấu đối với ông ấy. Nhưng con là con trai của ông ấy, ông ấy sẽ đưa mẹ con mình về nhà ông, và sẽ yêu mến mẹ con ta. Rồi con sẽ thấy, con yêu quí ạ. Mọi sự sẽ tốt đẹp cả thôi”.

Đến buổi sáng, khi bà Owens bước vào, nàng ra mở cửa. Nàng có vẻ bình tĩnh một cách lạ thường.

“Cô thấy thế nào, Maggie?”

“Tôi cảm thấy khoẻ rồi, xin cám ơn bà”. Nàng mặc cho Jamie một trong bộ quần áo mới. “Tôi sắp sửa cho cháu đi ra ngoài bằng xe đẩy sáng hôm nay”.

Chiếc xe đẩy, món quà tặng của bà Agnès và các cô gái, là một chiếc xe rất đẹp. Nó làm bằng thứ sậy rất tốt, có đáy mây chắc, vững, tay cầm bằng gỗ uốn. Nó được bọc nệm gấm nhập cảng, với những đường viền nhung lụa, và có một cái dù cắm ở phía sau với diềm đăng ten xếp.

Margaret đẩy chiếc xe xuống lề đường chật hẹp của đường Loop . Chốc chốc có một người lạ mặt dừng lại, mỉm cười với đứa bé, nhưng các bà thì đưa mắt nhìn sang chỗ khác hay đi sang bên kia lề đường để tránh Margaret.

Nhưng Margaret không chú ý đến họ. Nàng đang cố tìm một người. Mỗi khi thời tiết đẹp, Margaret cho thằng bé ăn mặc đẹp đẽ, rồi đưa nó ra ngoài trong chiếc xe đẩy. Vào cuối một tuần lễ, khi Margaret đã không gặp được Jamie một lần nào trên các đường phố, nàng nhận ra rằng chàng đã cố tình lẩn tránh nàng. Được rồi, nếu anh không muốn đến thăm con thì hắn sẽ đến tận nơi để gặp bố. Maggie quyết định như vậy.

Sáng hôm sau Margaret đến gặp bà Owens trong phòng khách, “Tôi sẽ đi chơi một thời gian ngắn, bà Owens ạ. Tôi sẽ trở về nhà trong một tuần lễ”.

“Cháu bé còn quá nhỏ, chưa đi xa được đâu, Maggie ạ”.

“Nó sẽ ở lại trong thị trấn này”.

Bà Owens nhăn mặt, “Cô muốn nói rằng nó ở đây à?”

“Không, bà Owens ạ. Không phải ở lại trong nhà này”.

Jamie McGregor đã xây dựng một ngôi nhà của anh trên một đỉnh đồi nhìn xuống Klipdrift. Đó là một ngôi nhà trệt thấp, mái xuôi, với hai chái lớn, nối với toà nhà chính bằng những mái hiên rộng. Xung quanh ngôi nhà có những bãi cỏ xanh, điểm thêm những cây to và một khu vườn hồng tươi tốt. Phía sau là nhà xe và nơi ăn ở riêng của gia nhân. Mọi công việc xếp đặt trong nhà đều giao cho bà Eugenia Talley đảm trách. Đó là một bà goá phụ trạc trung niên, có sáu đứa con đã lớn ở bên Anh.

Margaret đi đến nơi ấy, với đứa con trai bồng trên tay lúc mười giờ sáng, tức là vào giờ nàng biết rằng Jamie đang ở văn phòng. Bà Talley mở cửa, nhìn Margaret và đứa bé với vẻ ngạc nhiên. Cũng như mọi người khác sống trong phạm vi một trăm dặm, bà Talley biết rõ họ là ai rồi.

“Tôi xin lỗi bà, ông McGregor không có ở nhà”, bà quản gia nói, định đóng cánh cửa lại.

Margaret ngăn bà ta lại. “Tôi không định đến gặp ông McGregor. Tôi chỉ đem cho ông ta đứa con trai của ông ấy”.

“Tôi e rằng tôi không biết chút gì về chuyện ấy cả. Bà….”

“Tôi sẽ đi vắng chừng một tuần lễ. Tôi sẽ trở lại đây xin lại đứa bé”. Nàng đưa đứa bé cho bà Talley. “Tên cháu là Jamie”.

Một vẻ kinh hãi thoáng hiện trên khuôn mặt bà Talley. “Bà không thể để nó ở lại đây được!. Ông McGregor sẽ… “

“Có hai cách lựa chọn, bà Talley ạ. Bà có thể hoặc đưa nó vào trong nhà, hoặc để mặc nó ở đây trên bục cửa này cũng được”.

Không nói thêm một lời nào, nàng dúi đứa bé vào cánh tay của bà Talley, rồi bước ra về.

“Khoan đã, bà không thể làm thế được. Trở lại đây! Bà… ".

Nhưng Margaret không quay mặt trở lại. Bà Talley đứng yên tại chỗ, bồng một cái gói bé nhỏ trong tay, suy nghĩ. Ôi, lạy Chúa! Ông McGregor sẽ nổi sùng lên cho mà coi!

Bà Talley chưa hề thấy Jamie trong một trạng thái giận dữ như vậy bao giờ. Anh hét lên, “Sao bà có thể ngu xuẩn đến như vậy? Bà chỉ việc đóng sầm cánh cửa trước mặt cô ấy!”.

“Nhưng cô ấy không cho tôi kịp làm cái gì cả, ông McGregor a. Cô ấy… “.

“Tôi không muốn đứa con của cô ấy ở trong nhà tôi!”.

Trong cơn giận dữ, anh bước lên bước xuống, thỉnh thoảng dừng lại trước mặt người đàn bà không may ấy, và nói, “Tôi phải đuổi bà ra khỏi cửa vì vụ này”.

“Cô ấy sẽ trở lại đây trong một tuần lễ nữa để lấy lại đứa con. Tôi… ".

“Tôi không cần biết lúc nào thì cô ta trở lại đây”, Jamie hét lên. “Đem đứa bé này ra khỏi nơi này. Ngay bây giờ! Đem đi cho rảnh mắt tôi”.

“Ông bảo tôi làm thế nào bây giờ, ông McGregor?” Bà hỏi với một giọng cứng rắn.

“Thả nó ra ở một nơi nào đó trong thành phố. Chắc phải có một nơi nào đó để bà để lại nó chứ?”.

“Nơi nào?”

“Làm sao tôi biết nơi quỷ quái nào được?”.

Chú thích:
(1): Job: tên một nhân vật trong Cựu ước, đã từng chịu nhiều đau khổ nhưng vẫn không mất đức tin vào Thượng đế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 23:25:25 | Chỉ xem của tác giả
Bà Talley nhìn cái gói bé nhỏ đang bồng trong tay. Tiếng la hét đã làm cho thằng bé bắt đầu khóc thét lên. “Không có nhà nuôi trẻ mồ côi nào ở Klipdrift”. Bà bồng đứa bé đưa qua đưa lại, nhưng nó lại càng la hét lớn hơn nữa. “Phải có người nào săn sóc nó”.

Jamie cào ngón tay lên tóc, nói với vẻ tuyệt vọng, “Mẹ kiếp, thôi được rồi. Bà đã rộng lượng nhận đứa bé ấy thì bà săn sóc cho nó”.

“Vâng, thưa ông”.

“Và bà ngăn chặn cái tiếng khóc của nó lại, kẻo tôi không sao chịu nổi. Nhớ điều này nhé, bà Talley. Tôi muốn nó khuất khỏi mắt tôi. Tôi không muốn biết rằng có nó trong nhà này. Rồi khi nào mẹ nó đến đây lấy nó trong tuần sau, tôi không muốn nhìn thấy cô ấy. Rõ cả chưa?”

Thằng bé lại bắt đầu khóc lớn hơn nữa.

“Tôi đã rõ rồi ạ, ông McGregor”. Rồi bà Talley hối hả rời khỏi phòng.

Jamie McGregor ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, nhấm nháp rượu mạnh và hút điếu xì gà. Con mụ đàn bà ngu xuẩn. Nó tưởng rằng mình trông thấy thằng bé ấy là tim mình sẽ mềm đi, rồi mình sẽ nhảy xổ đến nó và nói, “Anh yêu em. Anh yêu đứa bé. Anh muốn cưới em”. Thế nhưng, anh đã không thèm nhìn đến thằng bé. Anh có liên qua gì đến nó đâu. Anh sinh nó ra đâu có phải vì tình yêu, cũng chẳng phải vì thèm muốn nữa. Nó được sinh ra từ một sự trả thù. Anh nhớ mãi vẻ mặt của lão Salomon ven der Merwe, khi anh báo cho lão biết rằng Margaret đã có mang. Đó là lúc bắt đầu. Cuối cùng là đất ném lên chiếc hòm của lão. Anh phải đi tìm Banda để nói cho anh ta biết rằng nhiệm vụ của hai người thế là đã xong.

Jamie cảm thấy nỗi trống rỗng trong lòng. Mình cần phải đặt ra những mục tiêu mới, anh thầm nghĩ. Anh đã trở nên giàu có ngoài sức tưởng tượng. Anh đã làm chủ hàng trăm mẫu đất mỏ. Anh mua đất ấy để khai thác kim cương có thể tìm thấy ở đó, nhưng cuối cùng anh làm chủ cả vàng, bạch kim, và năm sáu loại khoáng sản khác. Ngân hàng của anh nhận cầm cố nửa số tài sản ở Klipdrift, và đất chiếm hữu của anh trải rộng từ Namib đến Cape Town. Anh cảm thấy thoả mãn về điều này, nhưng như thế chưa đủ. Anh đã mời cha mẹ anh đến ở với anh, nhưng họ không muốn rời Tô Cách Lan. Các anh và chị của Jamie đều đã lập gia đình. Jamie gửi những số tiền lớn cho cha mẹ, và anh lấy thế làm sung sướng, nhưng cuộc đời anh lúc này quá bằng phẳng. Mới mấy năm trước đây, cuộc đời anh đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, nhưng anh cảm thấy sinh động. Anh thấy mình sinh động khi anh và Banda điều khiển chiếc bè vượt qua những tảng đá ngầm ở Vùng Đất Cấm. Anh thấy mình sinh động khi bò ngang qua những bãi mìn, xuyên qua sa mạc cát. Jamie cảm tưởng dường như mình đã không còn sinh động nữa một thời gian lâu dài rồi. Anh dám thú nhận với chính mình rằng anh đang rất cô đơn.

Một lần nữa, anh với tay lấy bình rượu mạnh, và thấy nó đã cạn. Anh đã uống quá nhiều rượu hơn là anh nghĩ, hay là bà Talley đã vô ý không đổ rượu vào bình. Jamie đứng dậy khỏi chiếc ghế, nhặt ly rượu, đi đến phòng chứa thức ăn của bà quản gia, nơi cất rượu. Anh vừa mở chai ra thì nghe tiếng u ơ của một đứa trẻ con. Lại thằng bé ấy rồi! Chắc là bà Talley đã giữ nó lại trong phòng bà ta, xa nhà bếp. Bà đã tuân theo mệnh lệnh của Jamie một cách chặt chẽ. Anh không hề thấy thằng bé ấy trong hai ngày nó “xâm phạm gia cư” của anh. Bây giờ anh nghe cả tiếng bà Talley đang nói nựng với đứa trẻ.

“Cháu là một đứa bé xinh xắn lắm, phải thế không? Cháu là một thiên thần ấy mà. Đúng như vậy đó. Một thiên thần đây mà”.

Thằng bé lại u ơ với bà ta. Jamie bước đến căn phòng ngủ đang mở cửa của bà Talley, rồi nhìn vào bên trong. Không hiểu bà ta đã kiếm ra được ở đâu, một cái giường cũi, và thằng bé lại nằm trong đó. Bà Talley đang cúi người lên nó, bàn tay của nó quấn thật chặt ngón tay bà.

“Jamie ạ, cháu bé nhỏ mà khoẻ mạnh dữ à. Rồi cháu sẽ lớn lên và to lớn như là… là… ". Bà ngừng bặt lại câu nói, ngạc nhiên vì biết rằng ông chủ của bà đang đứng ở ngưỡng cửa.

“Ồ, thưa ông, ông cần tôi có việc gì ạ?”

“Không”. Anh bước đến chiếc giường cũi. “Tôi bị quấy rầy vì tiếng ồn ào ở đây”. Anh đưa mắt nhìn đứa bé lần đầu tiên. Thằng bé to lớn hơn anh tưởng. Thân hình hắn cân đối. Hắn có vẻ như đang tủm tỉm cười với anh.

“Xin lỗi ông McGregor. Thằng bé này thật ngoan và khoẻ mạnh. Ông hãy đưa ngón tay ra cho nó nắm mới thấy nó khoẻ mạnh như thế nào”.

Jamie quay mặt lại, rồi bước ra khỏi phòng, không nói một lời nào.

Jamie McGregor có một số nhân viên trên năm mươi người làm việc trong các doanh nghiệp khác nhau của anh. Không một nhân viên nào, từ thằng bé đưa thư cho đến nhân viên điều hành cao cấp, mà không biết lý do vì sao Công ty Hữu hạn của họ mang tên Kruger Brent, và lấy làm hãnh diện được làm việc cho McGregor. Anh vừa mới thâu nhận David Blackwell, một người con trai mới mười sáu tuổi, con của một trong cách đốc công của anh, một người Mỹ từ Oregon tới Nam Phi để tìm kim cương. Khi tiền bạc của Blackwell đã cạn, Jamie nhận ông Blackwell vào làm việc để trong coi các xưởng máy. Người con trai của ông đến làm việc cho công ty được một mùa hè thì Jamie nhận ra rằng David là một công nhân giỏi, nên anh giao cho anh ta một việc làm thường trực. David Blackwell thông minh, dễ mến và có nhiều sáng kiến. Jamie cũng biết rằng anh ta rất kín đáo, vì vậy Jamie giao cho anh ta làm công việc vặt đặc biệt này.

“David ạ, tôi muốn anh đi đến nhà trọ của bà Owens hộ tôi. Ở đó có một người đàn bà tên là Margaret van der Merwe”.

Nếu David Blackwell đã từng nghe tên ấy hay biết hoàn cảnh của nàng rồi thì anh cũng không biểu lộ ra bên ngoài. “Thưa ông, vâng ạ”.

“Anh chỉ được nói với cô ấy mà thôi. Cô ấy để lại đứa con cho bà quản gia tôi trông nom. Bảo cô ấy đến đây lấy nó và đưa nó ra khỏi nhà tôi ngay ngày hôm nay”.

“Vâng, thưa ông McGregor”.

Nửa giờ sau, David Blackwell trở lại. Jamie đang ngồi ở bàn viết, ngẩng đầu lên.

“Thưa ông, tôi e rằng tôi không làm được việc ông yêu cầu”.

Jamie đứng phắt dậy, “Tại sao? Công việc ấy dễ dàng quá mà”.

“Cô Van der Merwe không có ở nhà”.

“Thế thì anh đi tìm nó”.

“Cô ấy rời Klipdrift hai ngày rồi. Có lẽ cô ấy sẽ trở về trong vòng năm ngày nữa. Nếu ông muốn tôi điều tra thêm thì…”

“Không”. Đó là điều mà Jamie không muốn anh ta làm chút nào. “Không cần. Thế là đủ rồi. David ạ”.

“Thưa ông, vâng ạ”. Cậu bé rời khỏi văn phòng.

Mẹ kiếp cái con đàn bà ấy! Khi nào nó trở về nó sẽ phải ngạc nhiên. Nó sẽ phải lấy lại con nó.

Tối hôm ấy, Jamie ăn cơm ở nhà một mình. Anh đang uống rượu mạnh trong phòng làm việc thì bà Talley đi vào để bàn với anh một vấn đề thông thường. Đang nói chuyện nửa chừng, bà bỗng dừng lại lắng nghe, và nói, “Xin ông tha lỗi. Tôi vừa nghe tiếng Jamie khóc”. Nói xong bà vội vã chạy ra khỏi phòng.

Jamie đập mạnh chiếc ly xuống, làm rượu đổ tung toé. Cái thằng bé khốn kiếp! Ấy thế mà con mẹ nó dám cả gan đặt tên cho nó là Jamie. Hắn có giống một Jamie đâu. Hắn trông chẳng giống cái gì hết!

Mười phút sau, bà Talley quay trở lại phòng làm việc. Bà nhìn thấy rượu đổ tung toé. “Ông có muốn tôi rót thêm rượu nữa không ạ?”.

“Cái ấy không cần thiết”. Jamie nói một cách lạnh lùng. “Điều cần thiết là bà phải nhớ bà đang làm việc cho ai. Tôi không muốn bị quấy rầy bởi cái thằng con hoang ấy. Rõ chưa, bà Talley?”

“Thưa ông, vâng ạ”.

“Thằng bé ấy ra khỏi nhà này sớm chừng nào thì tốt hơn cho cả bà lẫn tôi chừng ấy. Hiểu chưa?”

Môi bà Talley mím chặt lại. “Thưa ông, vâng. Còn gì nữa không ạ?”.

“Không”.

Bà quay lại định đi ra.

“Này, bà Talley…”.

“Vâng, thưa ông McGregor?”.

“Bà bảo rằng nó đang khóc. Có phải nó ốm không?”.

“Thưa ông, không ạ. Nó chỉ đái thôi. Cần phải thay tã cho nó”.

Jamie nhận thấy cái ý tưởng này thật đáng phẫn nộ. “Thôi, thế đủ rồi”.

Jamie hẳn đã phải giận dữ điên cuồng nếu anh biết rằng bọn đầy tớ trong nhà ngồi với nhau hàng giờ để bàn cãi với nhau về anh và đứa con trai. Họ đều đồng ý với nhau rằng ông chủ đã cư xử một cách vô lý, nhưng họ cũng biết rằng họ chỉ cần nhắc đến vấn đề này thôi cũng đủ bị đuổi ra khỏi nhà ngay tức khắc. Jamie McGregor không phải là người sẵn sàng nghe lời khuyên của bất cứ ai.

Tối hôm sau, Jamie có một phiên họp bàn công việc cho đến tận khuya. Anh đã đầu tư vào một đường xe hoả mới. Chắc chắn, con đường này cũng chỉ nhỏ thôi, chạy dài từ khu mỏ ở sa mạc Namib đến De Aar, nối liền với con đường Cape Town – Kimberley, nhưng nhờ có nó mà việc chuyên chở vàng và kim cương đến hải cảng sẽ rẻ hơn nhiều. Con đường sắt Nam Phi đầu tiên đã được mở ra từ năm 1860, chạy từ Dumbar đến Point, và từ lúc ấy, nhiều con đường khác đã được thiết lập, từ Cape Town đến Wellington . Đường sắt sẽ là huyết mạch bằng thép cho người và hàng hoá lưu thông tự do xuyên qua trái tim của Nam Phi, và Jamie dự định góp phần vào đó. Nhưng đó chỉ là bước đầu trong các dự tính của anh. Sau đó sẽ là tàu thuỷ. Các tàu thuỷ của mình sẽ chuyên chở các khoáng sản xuyên qua đại dương.

Anh trở về nhà vào lúc nửa đêm, cởi quần áo, lên giường nằm ngủ. Anh đã nhờ một nhà trang trí từ London đến bày biện cho anh một căn phòng ngủ đàn ông rộng lớn, với một chiếc giường đồ sộ đã được chạm trổ ở Cape Town . Ở đó có một chiếc tủ kiểu Tây Ban Nha cổ xưa đặt ở trong góc phòng, và nhiều tủ áo trong đó chứa đựng năm mươi bộ quần áo và ba mươi chiếc giày. Jamie không chú ý đến cách ăn mặc, nhưng anh thấy cần phải có những bộ quần áo ấy ở đó. Anh đã trải qua quá nhiều ngày và đêm ăn mặc rách rưới.

Vừa mới chợp mắt ngủ, anh chợt nghe một tiếng khóc. Anh ngồi nhổm dậy, lắng nghe. Không có gì cả. Đứa bé hay sao? Chắc là nó vừa ngã ra khỏi cái giường cũi. Jamie biết rằng bà Talley thường ngủ rất say. Thật là kinh khủng nếu có điều gì xảy ra với thằng bé ấy trong khi nó ở trong nhà anh. Như vậy, anh sẽ phải chịu trách nhiệm. Mẹ kiếp cái con mụ đàn bà ấy! Jamie nghĩ thầm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 23:35:06 | Chỉ xem của tác giả
Anh khoác chiếc áo choàng. xỏ đôi dép vào chân, rồi đi thẳng đến phòng bà Talley. Anh đặt tai trên cánh cửa đóng kín, nhưng không nghe gì cả. Lặng lẽ, Jamie đẩy cánh cửa cho nó mở ra. Bà Talley đang ngủ say, vùi trong chăn, ngáy như sấm. Jamie bước đến cái giường cũi. Thằng bé đang nằm ngửa, cặp mắt mở thao láo. Jamie lại gần hơn nữa, nhìn xuống. Lạy Chúa, sao mà nó giống thế. Rõ ràng là nó có cái miệng và cằm của Jamie. Mắt của nó bây giờ màu xanh, nhưng trẻ con mới sinh nào mà lại chẳng có màu xanh. Nhìn qua, Jamie cũng có thể đoán ra rằng sau này mắt của nó sẽ là màu xám. Nó giơ hai bàn tay bé nhỏ quờ quạng không khí, phát ra những tiếng u ơ bé nhỏ và tủm tỉm cười với Jamie. Chà, thằng bé này thật can đảm, nằm ở đó mà không làm ồn ào, khóc thét lên như những đứa trẻ con khác. Anh ghé mắt nhìn gần hơn nữa. Đúng rồi, nó là một McGregor thật sự rồi.

Rụt rè, Jamie với tay xuống, chìa ngón tay ra. Thằng bé nắm chặt ngón tay với cả hai bàn tay, bóp thật chặt. Nó khoẻ như một con bò mộng, Jamie nghĩ thầm. Ngay lúc ấy, mặt thằng bé bỗng khờ ra, anh ngữi thấy mùi chua chua.

“Bà Talley !”

Bà chồm dậy trên giường, đầy vẻ hoảng sợ. “Cái… cái gì vậy?”.

“Thằng bé đang cần bà đấy. Bà bắt tôi phải làm tất cả mọi thứ trong nhà này hay sao?”

Nói xong, Jamie oai vệ bước ra khỏi phòng.

“David, anh có biết chút gì về trẻ sơ sinh không?”

“Về phương diện nào, thưa ông?” David Blackwell hỏi.

“À, anh biết đấy chứ? Chẳng hạn như chúng thích chơi những thứ gì, hay đại khái như vậy”.

Cậu con trai người Mỹ này nói, “Tôi đoán rằng khi chúng còn rất nhỏ, chúng rất thích chơi lục lạc, thưa ông McGregor ạ”.

“Anh hãy đi mua cho tôi chừng một chục cái”.

“Thưa ông, vâng ạ”.

Không cần đặt ra những câu hỏi không cần thiết. Jamie muốn như vậy. David Blackwell rồi đây sẽ tiến xa.

Tối hôm ấy, Jamie về nhà với một cái gói nhỏ màu nâu, bà Talley nói, “Tôi muốn xin lỗi ông về việc tối hôm qua, thưa ông McGregor ạ. Tôi không biết vì sao mà tôi lại có thể ngủ say như thế được. Thằng bé ấy chắc đã khóc thét ghê gớm lắm cho nên ông mới nghe được đến tận phòng ông”.

“Bà khỏi bận tâm về chuyện ấy”, Jamie nói với vẻ rộng lượng. “Chừng nào có bà hoặc tôi nghe là tốt rồi”. Anh đưa gói đồ cho bà Talley. “Đưa cái này cho thằng bé ấy. Đó là mấy cái lục lạc để nó chơi. Làm tù nhân suốt ngày trong cái cũi ấy chắc cũng không thích thú gì lắm đối với thằng bé ấy”.

“Ồ, thưa ông. Nó không phải là tù nhân. Để tôi bồng nó ra… ".

“Bà định bồng nó đi đâu?”.

“Đi ra vườn thôi ạ. Ở đó, tôi có thể trông nom nó được”.

Jamie nhăn mặt. “Đêm hôm qua, tôi thấy hình như nó không được khoẻ”.

“Không khoẻ sao?”.

“Không. Màu da của nó không được tốt lắm. Không nên để cho nó bị ốm trước khi mẹ nó đến đây nhận lại nó”.

“Vâng. Dĩ nhiên rồi”.

“Có lẽ tôi cần xem nó lại một lần nữa”.

“Thưa ông, vâng ạ. Tôi đưa nó lại đây hay sao?”.

“Phải”.

“Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa ông ạ”.

Ít phút sau, bà Talley trở lại, bồng đứa bé trên tay. Thằng bé đang cầm cái lục lạc màu xanh. “Tôi thấy da dẻ nó cũng tốt, chứ có hề gì đâu”.

“Ừ, có lẽ tôi lầm. Bà đưa nó cho tôi”.

Cẩn thận, bà đưa đứa bé ra cho Jamie. Anh bồng nó lên tay lần đầu tiên. Một cảm giác là lạ tuôn khắp người anh hoàn toàn do bất ngờ. Dường như thể bấy lâu nay anh đang mong mỏi giây phút này, sống cho giây phút này, mà anh không hề biết. Anh đang ôm trong vòng tay anh máu và da thịt của chính anh – đứa con trai của anh, Jamie McGregor con. Cần gì phải xây dựng một đế quốc, một triều đại bằng kim cương, vàng và đường sắt, nếu không có ai để anh truyền lại cho tất cả tài sản ấy. Mình thật là một thằng khờ! Jamie nghĩ thầm. Cho mãi đến lúc này, Jamie mới nhận ra được anh đang thiếu thốn những thứ gì. Nỗi thù hận đã làm anh mờ mắt. Nhìn xuống khuôn mặt xinh xắn, anh cảm thấy sự cứng rắn, ở một nơi nào đó sâu trong cốt lõi con người anh, vụt tan biến.

“Chuyển cái cũi của thằng Jamie vào trong buồng tôi, bà Talley”.

Ba ngày sau, khi Margaret xuất hiện trước cửa nhà Jamie, bà Talley nói, “ông McGregor hiện ở văn phòng, không có ở nhà, cô Van der Merwe ạ, nhưng ông ấy có dặn phải mời ông ấy về khi nào cô đến lấy thằng bé. Ông ấy muốn nói chuyện với cô”.

Margaret ngồi chờ đợi trong phòng khách, ôm bé Jamie trong cánh tay. Nàng nhớ con kinh khủng. Nhiều lần, trong suốt tuần lễ ấy, nàng hầu như đã mất cả chí cương quyết, chỉ muốn nhảy xổ về Klipdrift, vì lo sợ có chuyện gì xảy ra cho đứa bé; nó có thể bị ốm hay gặp một tai nạn nào đó. Nhưng nàng tự buộc mình phải xa đứa trẻ, và kế hoạch này của nàng đã thành công. Bây giờ, cả ba người sẽ lại được đoàn tụ.

Lúc Jamie bước vào trong phòng khách, Margaret một lần nữa cảm thấy một nỗi xúc cảm quen thuộc như đang dâng tràn ngập khắp thân thể. Lạy Chúa! Nàng nghĩ thầm, mình yêu chàng quá.

“Chào cô, Maggie”.

Nàng mỉm cười, một nụ cười ấm áp, sung sướng. “Chào anh, Jamie”.

“Tôi cần có đứa con của tôi”.

Trái tim của Margaret như reo lên. “Cố nhiên, anh cần đứa con của anh, Jamie ạ. Em không bao giờ dám nghi ngờ điều ấy”.

“Tôi sẽ lo sao cho nó được nuôi nấng tử tế. Nó sẽ có được tất cả mọi lợi lộc mà tôi có thể đem lại cho nó, và dĩ nhiên, tôi cũng sẽ lo liệu sao cho cô cũng có cuộc sống đầy đủ”.

Margaret nhìn anh với vẻ bối rối. “Em… em không hiểu”.

“Tôi đã nói rằng tôi cần có đứa con của tôi”.

“Tôi đã tưởng rằng… tôi muốn nói… anh và tôi sẽ…”.

“Không. Tôi chỉ cần thằng bé mà thôi”.

Margaret đột nhiên cảm thấy mình bị lăng nhục. “Tôi hiểu rồi. Vậy thì tôi sẽ không để cho anh giành nó khỏi tôi”.

Jamie quan sát nàng trong một lát. “Được lắm, chúng ta sẽ có thể tìm ra một giải pháp dung hoà. Cô sẽ ở lại đây với thằng bé Jamie. Cô có thể là… là vú nuôi của nó”. Anh nhìn thẳng vào mặt nàng. “Cô thực sự muốn gì nào?”.

“Tôi muốn con trai tôi có một cái tên”, nàng nói một cách giận dữ, “tên của cha nó”.

“Được rồi, tôi sẽ nhận nó làm con nuôi”.

Margaret nhìn anh với vẻ khinh bỉ, “Nhận con tôi làm con nuôi à? Ồ không đâu. Ông sẽ không lấy được đứa con của tôi đâu. Tôi cảm thấy thương hại cho ông, ông McGregor vĩ đại: Dù với tiền bạc và thế lực của ông, ông chẳng có gì hết, ông quả là đáng thương thật!”

Jamie đứng sững, nhìn theo Margaret quay lưng lại rồi bước khỏi nhà, tay bồng thằng bé.

Sáng hôm sau, Margaret sửa soạn đồ đạc để lên đường sang Mỹ.

Jamie lúc nào cũng tự hào rằng mình là con người vẫn giữ được bình tĩnh dù có bị áp lực. Nhưng lúc này anh đi khắp nơi, la hét với tất cả mọi người anh thấy mặt. Văn phòng của anh lúc nào cũng ầm ĩ. Không có gì làm anh được hài lòng cả. Anh gầm thét, phàn nàn về tất cả mọi chuyện, không còn khả năng tự chủ được nữa. Anh đã mất ngủ luôn ba đêm. Anh vẫn không quên được câu chuyện giữa anh và Margaret vừa rồi. Con đàn bà khốn kiếp! Lẽ ra anh phải hiểu rằng cô ấy cố buộc anh phải lấy cô ta làm vợ. Thật là xảo quyệt, chẳng khác gì cha cô ấy! Anh vụng về trong cuộc điều đình ấy. Anh nói với cô ta anh sẽ chăm nom cho cô, nhưng anh đã nói không rõ ràng. Dĩ nhiên rồi. Tiền! Lẽ ra anh nên tặng cho cô ta một món tiền. Một nghìn bảng Anh – mười nghìn bảng – và có thể hơn thế nữa.

“Tôi có nhiệm vụ tế nhị muốn giao cho anh” anh nói với David Blackwell.

“Thưa ông, vâng ạ”

“Tôi muốn anh nói chuyện với cô Van der Merwe và bảo với cô ấy rằng tôi sẽ cho cô ấy hai mươi nghìn bảng Anh. Cô ấy sẽ hiểu rằng tôi muốn có một sự trao đổi”. Jamie viết tấm ngân phiếu. Đã khá lâu rồi, anh đã hiểu được sự thu hút mãnh liệt của đồng tiền. “Đưa cái này cho cô ta”.

Mười lăm phút sau, David trở về, trả lại tấm ngân phiếu cho Jamie. Tấm giấy ấy đã bị xé toạc làm đôi. Jamie cảm thấy mặt mình đỏ bừng lên. “Cảm ơn, David. Thế là đủ rồi”.

Vậy ra Margaret muốn đòi tiền nhiều hơn nữa. Được lắm. Anh sẽ cho cô ta. Nhưng lần này thì anh sẽ tự tay giải quyết lấy…

Vào xế trưa hôm ấy, Jamie đi đến nhà trọ của bà Owens. “Tôi muốn gặp cô Van der Merwe”, Jamie nói.

“Tôi e rằng chuyện ấy khó thực hiện được”, bà Owens nói. “Cô ấy đang trên đường sang Mỹ”.

Jamie cảm thấy như mình bị đấm một cú mạnh vào bụng. “Không thể được! Cô ấy đi vào lúc nào?”

“Cô ấy cùng với thằng bé đã đáp chuyến xe đi Worcester vào lúc mười hai giờ trưa”.

Chuyến tàu đỗ ở nhà ga Worcester đông nghẹt hành khách. Các ghế ngồi và lối đi trong toa đầy cả hành khách đi Cape Town , nói chuyện với nhau ồn ào. Họ là những nhà buôn, những nhà nội trợ, những người bán hàng, người đi tìm mỏ, người “Kaffir”, binh lính và thuỷ thủ trở về lại nơi làm việc. Đa số những người ấy đều đi tàu hoả lần đầu tiên, nên không khí giữa các hành khách có vẻ như ngày hội. Margaret tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, để cho Jamie khỏi bị đè bẹp bởi đám đông. Nàng ngồi ôm đứa bé trong lòng, không cần biết gì đến mọi sự xung quanh, và suy nghĩ đến một cuộc đời mới đang chờ đợi nàng trước mặt. Cuộc đời ấy có lẽ không dễ dàng gì. Dù đi đến đâu, nàng cũng là người đàn bà không chồng mà có con, một tội lỗi đối với xã hội. Nhưng nàng sẽ tìm một cách nào đó để đảm bảo cho con trai một cuộc sống đàng hoàng, tử tế. Nàng nghe người soát vé gọi to, “Mời hành khách lên xe!”.

Nàng ngước mắt nhìn lên, chợt thấy Jamie đang đứng trước mặt.

“Gom tất cả hành lý lại. Cô sẽ phải rời khỏi tàu ngay”, anh ra lệnh.

Anh ấy tưởng có thể mua được mình, nàng thầm nghĩ. “Thế lần này, ông định đề nghị bao nhiêu tiền?”

Jamie nhìn xuống đứa con trai, đang ngủ yên trên cánh tay Margaret. “Tôi đề nghị sẽ cưới cô”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:07:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9


Họ cưới nhau ba ngày sau trong một cuộc lễ ngắn, tổ chức riêng tư, với nhân chứng duy nhất là David Blackwell.

Trong lễ cuới này, Jamie McGregor thấy trong lòng tràn ngập những cảm xúc lẫn lộn. Anh là một con người quen khống chế, vận dụng kẻ khác, nhưng lúc này chính anh là kẻ bị vận dụng. Anh liếc mắt nhìn sang Margaret. Đứng bên cạnh anh, nàng trông khá xinh đẹp. Anh nhớ lại thái độ đam mê, buông lỏng của nàng, nhưng đó chỉ là một kỉ niệm, không hơn không kém, không nồng nhiệt hay cảm xúc. Anh đã sử dụng Margaret như một công cụ trả thù, nhưng nàng đã sinh cho anh một đứa con thừa kế.

Ông mục sư nói, “Bây giờ, ta tuyên bố các ngươi là vợ và chồng. Ngươi có thể hôn cô dâu đi”.

Jamie vươn người ra phía trước, hôn phớt qua trên má Margaret.

“Chúng ta về nhà nào”, Jamie nói. Con trai anh đang chờ anh.

Khi hai người về đến nhà, Jamie đưa Margaret đến một phòng ngủ ở một trong các chái nhà.

“Đây là phòng ngủ của bà”.

“À, ra thế”.

“Tôi sẽ thuê một người quản gia khác, và giao cho bà Talley trông nom Jamie. Nếu bà cần thứ gì cứ bảo David Blackwell”.

Margaret cảm thấy như bị giáng một cái đánh. Anh ấy coi nàng như một gia nhân. Nhưng điều đó không quan trọng. Con mình đã có một cái tên. Đối với mình như thế là đủ rồi.

Jamie không trở về nhà ăn cơm. Margaret ngồi đợi anh, nhưng cuối cùng phải ăn một mình. Đêm hôm ấy nàng nằm thao thức trên giường, lắng nghe từng tiếng động. Đến bốn giờ sáng, cuối cùng nàng ngủ lúc nào không hay. Ý nghĩ cuối cùng của nàng là tự hỏi không biết Jamie đã chọn người nào trong số các cô gái ở nhà bà Agnès.

Nếu mối liên hệ giữa Margaret và Jamie không hề thay đổi sau ngày cưới thì mối tương quan giữa nàng và dân thị trấn Klipdrift đã trải qua một sự biến đổi kỳ lạ. Chỉ thoáng một cái, từ một kẻ bị ruồng bỏ, nàng trở thành một nhân vật có quyền ở Klipdrift. Đa số người dân trong thị trấn tuỳ thuộc bằng cách này hay cách khác vào Jamie McGregor và Công ty Hữu hạn Kruger Brent. Họ nghĩ rằng nếu Margaret van der Merwe đã được Jamie McGregor lựa chọn thì hẳn nàng cũng đáng được kính nể đối với họ. Bây giờ, mỗi khi Margaret bồng bé Jamie ra ngoài chơi thì nàng bắt gặp những nụ cười, nhưng lời chào hỏi vui vẻ. Các giấy mời bắt đầu tuôn đến. Nàng được mời tham dự những tiệc trà, những bữa ăn trưa và tối, giúp các hội từ thiện và buộc phải đứng đầu các uỷ ban công dân vụ. Khi nàng làm tóc theo một kiểu khác thường nào đó thì hàng chục các bà, các cô trong thị trấn đều cố bắt chước theo. Nàng mua một chiếc áo dài mới màu vàng, thế là những chiếc áo màu vàng đột nhiên trở thành phổ biến. Margaret cư xử đối với những cử chỉ xu nịnh của họ cũng giống như trước kia nàng đối xử với thái độ thù nghịch của họ, nghĩa là bằng một thái độ đoan trang, bình tĩnh.

Jamie chỉ trở về nhà để chơi với con trai. Thái độ của anh đối với Margaret vẫn xa vời, lễ độ. Mỗi buổi sáng vào lúc điểm tâm, nàng đóng vai trò một bà vợ hạnh phúc để che mắt các gia nhân, bất kể đến thái độ thờ ơ, lạnh lùng của người đàn ông ngồi đối diện với nàng ở bàn ăn. Nhưng khi Jamie đã đi rồi và nàng có thể thoát ra để trở về phòng, nàng vẫn thường bị ướt đẫm mồ hôi. Nàng căm ghét chính bản thân mình. Lòng tự trọng của nàng để ở đâu? Ấy chỉ vì nàng biết nàng còn yêu Jamie. Mình sẽ luôn luôn yêu anh ấy. Lạy Chúa. Người hãy giúp đỡ cho con.

Jamie ở lại Cape Town trong ba ngày để lo toan công việc. Khi anh vừa ra khỏi khách sạn Hoàng gia, một người đánh xe mặc chế phục hỏi, “Thưa ông dùng xe chứ ạ?”.

“Không”, Jamie nói, “Tôi đi bộ”.

“Banda nghĩ rằng có lẽ ông muốn đi xe”.

Jamie dừng lại, nhìn chằm chằm vào người ấy. “Banda?”.

“Vâng, đúng vậy. Thưa ông McGregor”.

Jamie bước lên chiếc xe ngựa. Người đánh xe quất mạnh cây roi, họ bắt đầu lên đường. Jamie ngả người trên chiếc ghế, suy nghĩ về Banda, về lòng can đảm của anh ta và tình bạn giữa hai người. Trong hai năm qua, anh đã cố gắng nhiều lần tìm Banda, nhưng không có kết quả. Bây giờ anh đang lên đường để gặp người bạn cũ.

Người đánh xe bẻ quặt chiếc xe về phía bến tàu. Ngay lập tức, Jamie biết rằng họ đang đi đến đâu. Mười lăm phút sau, chiếc xe dừng lại trước nhà kho vắng vẻ, nơi Jamie và Banda đã có lần cùng bàn tính với nhau về cuộc phiêu lưu vào sa mạc Namib. Lúc ấy chúng mình là những thằng trai quá ư liều lĩnh, anh nghĩ thầm. Anh bước ra khỏi xe, tiến lại gần nhà kho. Banda đang chờ đợi anh ở đó. Anh ấy trông vẫn hệt như xưa kia, chỉ có khác bây giờ anh mặc một bộ “com-plê” chỉnh tề, với sơ mi và cà vạt.

Hai người đứng ở đó, lặng lẽ nhe răng cười với nhau, rồi họ ôm choàng lấy nhau.

“Trông anh có vẻ làm ăn thịnh vượng lắm nhỉ”, Jamie nói.

Banda gật đầu. “Tôi làm ăn cũng không đến nỗi tệ lắm. Tôi đã mua nông trại như tôi có lần nói với anh đấy. Tôi đã có vợ và hai đứa con trai. Tôi trồng lúa mạch và nuôi đà điểu”.

“Đà điểu?”

“Lông đà điểu đem lại rất nhiều tiền”.

“À, tôi muốn gặp gia đình anh, Banda ạ”.

Jamie nghĩ đến gia đình anh ở Tô Cách Lan, và anh cảm thấy rất nhớ nhà. Anh đã xa nhà được bốn năm rồi.

“Bấy lâu nay tôi vẫn tìm anh”.

“Tôi bận lắm, Jamie ạ”. Banda xích lại gần hơn. “Tôi cần phải gặp anh để báo trước cho anh một chuyện. Anh sắp sửa gặp rắc rối đấy”.

Jamie nhìn kỹ Banda. “Rắc rối về chuyện gì?”

“Tên phụ trách mỏ Namib – Hans Zimmermans – là một tên xấu. Bọn công nhân ghét hắn lắm. Họ đang bàn với nhau sẽ bỏ đi. Nếu họ làm như vậy, bọn bảo vệ sẽ cố ngăn chặn họ lại, và như thế sẽ có nổi loạn”.

Jamie vẫn nhìn Banda không rời mắt.

“Anh có còn nhớ tôi đã có lần tôi nói với anh về một người tên là John Tengo Javabu không?”

“Có. Anh ta là một lãnh tụ chính trị. Tôi có đọc những bài viết về anh ta. Anh ta đang quấy động, làm nổ ra một “donderstorm” (cơn bão táp)”.

“Tôi là một trong những người theo ông ta”.

Jamie gật đầu. “Tôi hiểu. Tôi sẽ làm tất cả những gì cần thiết”. Jamie hứa.

“Tốt lắm. Anh đã trở thành một trong những người có thế lực, Jamie ạ. Tôi mừng cho anh”.

“Cảm ơn anh, Banda”.

“Anh lại có một đứa con trai rất kháu khỉnh nữa”.

Jamie không dấu nỗi ngạc nhiên. “Làm sao anh biết được điều ấy?”

“Tôi vẫn thích theo dõi các bạn bè”. Banda đứng dậy. “Tôi phải đi họp bây giờ đây, Jamie ạ. Tôi sẽ bảo với họ rằng mọi việc sẽ được giải quyết và sửa chữa ở Namib”.

“Phải. Tôi sẽ lo chuyện ấy”. Jamie bước theo người da đen to lớn ra đến cửa. “Khi nào chúng ta sẽ gặp nhau lại?”

Banda mỉm cười. “Tôi sẽ quanh quẩn bên anh mà. Anh không thể dứt khỏi tôi dễ dàng như vậy đâu”.

Nói xong, Banda bỏ đi.

Khi Jamie trở lại Klipdrift, anh cho gọi ngay David Blackwell đến. “Có vụ lộn xộn nào xảy ra ở Namib không, David?”

“Không, thưa ông McGregor”. Anh ta do dự một lát rồi nói tiếp, “Nhưng tôi có nghe đồn rằng có thể có lộn xộn ở đó”.

“Viên giám thị ở đó là Hans Zimmerman. Anh hãy điều tra xem có phải hắn đã ngược đãi công nhân hay không. Nếu đúng như vậy, anh hãy ngăn chặn nó ngay. Tôi muốn anh đích thân đến nơi ấy xem xét”.

“Tôi sẽ đi đến đó vào sáng mai”.

Khi David đến mỏ kim cương ở Namib, anh bỏ ra hai giờ đồng hồ nói chuyện bình tĩnh với các công nhân và bọn bảo vệ. Những gì anh nghe được đã khiến anh giận sục sôi lên trong lòng. Khi đã nắm vững được những gì cần biết, anh đến gặp Hans Zimmerman.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:09:33 | Chỉ xem của tác giả
Hans Zimmerman là một tên khổng lồ Goliath. Hắn nặng trên một trăm kí, cao chừng hai thước. Hắn có một cái mặt heo lúc nào cũng đẫm mồ hôi, đôi mắt có những tia máu đỏ, nhưng hắn là một trong những người dễ lôi cuốn nhất mà David Blackwell chưa từng thấy. Hắn là một tên giám thị làm việc rất có hiệu quả cho công ty Kruger Brent. Hắn đang ở bàn viết trong một văn phòng nhỏ, thân hình phì nộn của hắn có vẻ làm cho căn phòng bé nhỏ hẳn lại. Ngay lúc ấy, David Blackwell bước vào.

Zimmerman đứng dậy, bắt tay David. “Rất hân hạnh được gặp ông, ông Blackwell ạ. Đáng lẽ ông nên cho chúng tôi biết ông sẽ đến, như vậy mới phải”.

David tin chắc rằng hắn đã được nghe tin về cuộc thăm viếng của anh rồi.

“Ông dùng uýt ki nhé?”.

“Không, cảm ơn”.

Zimmerman tựa người vào lưng ghế, nhe răng cười. “Ông cần gì tôi vậy? Chúng tôi đã đào được khá nhiều kim cương, như vậy chắc ông chủ vừa lòng rồi chứ gì?”.

Cả hai biết rằng việc sản xuất kim cương ở Namib đã tiến hành rất tốt. “Tôi bắt bọn Kaffir làm việc nhiều hơn bất cứ một ai khác trong công ty này”.

“Chúng tôi nghe được nhiều lời kêu ca về các điều kiện làm việc ở đây”, David nói.

Nụ cười tắt hẳn trên mặt Zimmerman. “Kêu ca như thế nào?”.

“Họ bảo rằng công nhân ở đây bị đối xử tàn tệ, và… ".

Zimmerman nhẩy chồm dậy, cử động với vẻ lạnh lẹ khác thường. Mặt hắn đỏ bừng lên vì giận dữ. “Chúng không phải là công nhân. Chúng là Kaffirs. Các ông ngồi chễm chệ ở trụ sở chính làm sao có thể… ".

“Nghe tôi nói đây này”, David nói, “Không có… ".

“Chính ông mới phải nghe tôi nói! Tôi sản xuất ra nhiều kim cương hơn bất kỳ ai khác trong công ty, nhưng ông biết tại sao không? Ấy là bởi vì tôi đã làm cho bọn chó đẻ ấy phải biết sợ Thượng đế”.

“Ở các mỏ khác”, David nói, “Chúng tôi trả năm mươi chín shillings một tháng và nuôi ăn ở. Ông chỉ trả cho công nhân ở đây năm mươi shillings mà thôi”.

“Vậy ra ông phàn nàn vì tôi đã làm lợi cho các ông. Điều đáng kể duy nhất là lợi nhuận”.

“Ông McGregor không đồng ý như vậy”. David đáp. “Hãy tăng lương cho họ”.

Zimmerman nói với vẻ cáu kỉnh. “Được rồi. Đó là tiền của ông chủ”.

“Tôi nghe nói có nhiều vụ đánh đập công nhân xảy ra ở đây”.

Zimmerman hứ một tiếng. “Lạy Chúa, bọn dân bản xứ có bao giờ biết đau đâu, thưa ông. Da chúng nó dày lắm, nên dù có quất roi túi bụi lên người, chúng cũng chẳng cảm thấy gì. Chỉ làm cho chúng sợ thôi”.

“Vậy thì chính ông đã làm cho ba công nhân sợ đến chết đó, ông Zimmerman ạ”.

Zimmerman nhún vai, “Ở xứ sở của chúng, chúng còn chết nhiều hơn”.

Thật là một con vật khát máu, David nghĩ thầm. Lại rất nguy hiểm nữa! Anh nhìn lên tên giám thị to lớn và nói, “Nếu có nhiều rắc rối thêm nữa ở đây, ông sẽ bị thay thế đấy”. Anh đứng phắt dậy, “Từ nay ông phải đối đãi với họ như những con người. Phải chấm dứt mọi sự trừng phạt ngay tức khắc. Tôi đã xem xét các nơi ăn ở của họ. Đó là những chuồng lợn. Ông phải quét dọn sạch sẽ ngay”.

Hans Zimmerman nhìn anh trừng trừng, cố nén cơn giận dữ. Cuối cùng hắn mới thốt ra lời. “Còn gì nữa không?”.

“Còn. Tôi sẽ trở lại đây trong vòng ba tháng nữa. Nếu tôi không được hài lòng về những gì tôi thấy được, ông nên tìm cho ông một công việc nào đó tại một công ty khác. Chào ông.” David quay người lại, bước ra khỏi phòng.

Hans Zimmerman đứng tại chỗ một lúc lâu, cảm thấy nỗi tức giận sục sôi trong lòng. Bọn khùng điên! Bọn “uitlanders” (1). Zimmerman là một người Boer. Cha hắn cũng là người Boer. Đất đai này thuộc về họ, và Chúa đã sinh ra người da đen để phục vụ cho họ. Ví thử như Chúa muốn bọn chúng được đối xử như những con người thì Người đã không làm cho da chúng phải là màu đen. Jamie McGregor không hiểu được điều đó. Nhưng ai còn có thể mong đợi gì được ở một người “uitlander”, một kẻ yêu dân bản xứ? Hans Zimmerman biết rằng hắn phải cẩn thận hơn chút nữa từ rày về sau. Nhưng hắn sẽ tỏ cho bọn chúng biết ai là người có trách nhiệm ở Namib.

Công ty Kruger Brent vẫn tiếp tục phát triển, và Jamie McGregor thường đi vắng luôn luôn. Anh mua một xưởng làm giấy ở Canada và một xưởng đóng tàu ở Australia . Khi có mặt ở nhà, anh chỉ chơi với con trai. Thằng bé mỗi ngày lại càng giống cha nó. Jamie cảm thấy hãnh diện quá chừng về đứa con trai anh. Anh muốn đem nó đi theo trong những cuộc hành trình lâu dài, nhưng Margaret không chịu để cho nó đi.

“Nó còn nhỏ quá, không thể đi xa được. Khi nào nó lớn hơn nữa, nó có thể đi với anh. Nếu anh muốn gần nó, anh có thể thăm nó ở đây”.

Con trai anh đã trải qua ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ nhất, rồi thứ hai mà Jamie không ngờ đến. Anh ngạc nhiên thấy thời gian đi quá nhanh. Lúc ấy là vào năm 1887…

Đối với Margaret, hai năm qua kéo dài lê thê. Mỗi tuần lễ một lần, Jamie mời khách khứa đến nhà ăn cơm, và trong những bữa ăn ấy, Margaret đóng vai một bà chủ nhà duyên dáng. Những người đàn ông khác cho rằng nàng là một người đàn bà thông minh, dí dỏm, và đều thích nói chuyện với nàng. Nàng biết nhiều người trong bọn họ thấy nàng rất hấp dẫn, nhưng cố nhiên họ không bao giờ dám tấn công công khai, vì nàng là vợ của Jamie McGregor.

Khi người khách cuối cùng đã ra về, Margaret hỏi chồng, “Anh thấy buổi tối vừa rồi có tốt đẹp không?”.

Jamie vẫn đưa câu trả lời giống như mọi lần, “Tốt. Chúc bà ngủ ngon”, rồi bỏ đi để tạt qua thăm bé Jamie. Ít phút sau, Margaret nghe tiếng cửa trước đóng lại, khi Jamie rời khỏi nhà.

Đêm này qua đêm khác, Margaret thao thức nằm trên giường, nghĩ đến cuộc đời nàng. Nàng biết rằng nhiều người đàn bà trong thị trấn thèm muốn được như nàng. Điều này khiến nàng đau đớn, vì nàng biết rằng nàng chẳng có gì đáng thèm muốn, ao ước cả. Nàng sống cho đến lúc tàn cuộc đời trong một thứ trò chơi đố với một người chồng đối xử với nàng tệ hơn là một kẻ xa lạ. Giá như chàng để ý đến nàng thì không biết sẽ ra sao! Nàng tự hỏi không biết chàng sẽ làm gì, nếu một buổi sáng nào đó, vào giờ ăn điểm tâm, nàng nhấc bát cháo yến mạch, đặc biệt nhập từ cảng Tô Cách Lan, rồi dội lên cái đầu ngu xuẩn của anh ta. Nàng tưởng tượng thấy cái vẻ mặt của anh ta lúc ấy, và ý tưởng ngộ nghĩnh này khiến nàng bật cười lên, rồi tiếng cười ấy biến thành tiếng nức nở như xé ruột gan. Mình không muốn yêu anh ấy nữa. Mình không muốn. Mình sẽ ngăn chặn bằng cách nào đó, trước khi mình bị huỷ hoại…

Vào năm 1880, Klipdrift đã đạt đến mức sống mà Jamie vẫn hằng mong đợi. Chỉ trong bảy năm anh sống ở đấy, nó đã trở thành một thị trấn phát triển về đủ mọi mặt, với những người thăm dò mỏ tuôn đến đây từ mọi nơi trên thế giới. Cũng vẫn là câu chuyện xưa cũ. Họ đến đây bằng tàu hoả, xe ngựa hay đi bộ. Lúc mới đến, họ chẳng có gì cả, ngoài những bộ quần áo rách rưới mặc trên người. Họ cần có thực phẩm, đồ trang bị, nơi trú ngụ và tiền bạc làm vốn liếng. Jamie có sẵn ở đó để cung cấp cho họ mọi thứ. Anh đã có cổ phần của anh trong hàng chục mỏ kim cương và vàng, danh tiếng, tên tuổi của anh mỗi lúc mỗi tăng lên. Một buổi sáng nọ, anh đang tiếp một viên luật sư đại diện cho hãng De Beers, một tổ hợp khổng lồ kiểm soát nhiều mỏ kim cương rất lớn ở Kimberley .

“Ông cần tôi có chuyện gì?”, Jamie hỏi.

“Tôi được tổ hợp gửi đến đây để đưa ra với ông một đề nghị, ông McGregor ạ. Hãng De Beers muốn mua hết tài sản của ông. Ông cho giá đi”.

Thật là những giây phút điên đầu. Jamie cười chế nhạo và nói. “Ông cứ đưa giá của các ông đi”.

David Blackwell trở thành mỗi lúc thêm quan trọng đối với Jamie. Anh trông thấy ở người Mỹ trẻ tuổi này tất cả hình ảnh của anh xưa kia. Đó là một chàng trai tính tình ngay thật, thông minh và trung thành. Jamie đã dùng David làm thư kí riêng của anh, sau đó là phụ tá riêng, và cuối cùng, chàng trai hai mươi mốt tuổi ấy trở thành một Tổng giám đốc của anh.

Đối với David Blackwell, Jamie là một người cha nuôi. Khi cha ruột của David bị một cơn đau tim, chính Jamie đã xếp đặt cho ông ta vào bệnh viện, và trả mọi phí tổn thuốc thang, và khi ông ta qua đời, Jamie cũng là người lo toan tất cả mọi công việc chôn cất. Trong năm năm làm việc với hãng Kruger – Brent, David thấy thán phục Jamie hơn bất cứ một người nào khác anh đã từng quen biết. Anh biết rõ vấn đề rắc rối giữa Jamie và Margaret, và rất lấy làm tiếc, bởi vì anh yêu mến cả hai người. Nhưng David tự nhủ, “Đó không phải là công việc của mình. Công việc của mình là giúp đỡ Jamie bằng mọi cách trong phạm vi khả năng của mình”.

Jamie bỏ ra mỗi lúc mỗi nhiều thì giờ hơn với đứa con trai của anh. Đứa bé ấy bây giờ đã năm tuổi, và sau lần đầu tiên Jamie đưa nó đi thăm mỏ, nó không nói về vấn đề nào khác ngoài chuyện ấy. Hai bố con cũng đi cắm trại ngoài trời với nhau, và ngủ dưới một chiếc lều vải dưới bầu trời đầy sao. Jamie quen thuộc với bầu trời ở Tô Cách Lan, nơi các vì sao biết các vị trí đúng đắn của chúng trên vòm trời. Ở đây, tại Nam Phi này, các chòm sao như lẫn lộn cả. Vào tháng Giêng, sao Canopus (2) chiếu chói lọi trên đỉnh đầu; vào tháng Năm, sao Thập tự phương Nam gần lên đến tột đỉnh. Tháng Sáu là mùa Đông ở Nam Phi, và lúc ấy sao Bò cạp chiếu rạng rỡ trên bầu trời. Thật là rắc rối khó hiểu. Thế nhưng, Jamie vẫn có một cảm giác rất đặc biệt mỗi khi anh nằm trên mặt đất ấm áp, nhìn lên bầu trời không có thời gian, với đứa con trai ở bên cạnh, và biết rằng mình cũng là một thành phần của sự vĩnh cửu giống như vậy.

Hai bố con thức dậy lúc bình minh, bắn các loại chim rừng để làm thức ăn. Bé Jamie có một con ngựa con riêng, và hai bố con cùng cưỡi ngựa dọc theo thảo nguyên, cẩn thận tránh những hố sâu chừng hai thước do những con gấu ăn kiến đào lên. Những hố này sâu đến nỗi cả người lẫn ngựa có thể lọt xuống đó, còn những hố nhỏ do loại mèo rừng đào lên.

Trong thảo nguyên cũng có thể gặp nguy hiểm. Trong một buổi đi chơi Jamie và con trai cắm trại ở một lòng sông, và suýt bị giết bởi một đàn linh dương di cư. Dấu hiệu đầu tiên báo trước mối nguy hiểm là một đám mây bụi lờ mờ ở chân trời. Những con thỏ, chó rừng, mèo rừng chạy vụt ngang qua, và những con rắn lớn vọt ra khỏi các bụi cây để tìm nơi ẩn nấp dưới các hốc đá. Jamie nhìn về phía chân trời một lần nữa. Đám mây bụi tiến lại gần hơn.

“Chúng ta hãy ra khỏi nơi này”, Jamie nói.

“Lều của chúng ta…”

“Để mặc nó ở đó !”.

Hai người vội vã nhảy lên ngựa, hướng về phía đỉnh đồi cao. Họ nghe tiếng chân của đàn linh dương đập rồn rập như tiếng trống, rồi thấy toán linh dương đi đầu, chạy theo một hành dài đến ít nhất là ba dặm. Có đến trên nửa triệu con, quét sạch tất cả mọi thứ trên đường đi của chúng. Cây bị xô ngã xuống, các bụi cây bị xé vụn ra, và tiếp theo sau đợt thuỷ triều tàn nhẫn ấy là xác hàng trăm con vật bé nhỏ. Thỏ, rắn, chó rừng và gà tây đều bị đè bẹp dưới chân của đàn linh dương khủng khiếp ấy. Không khí tràn ngập bụi mù và tiếng gầm thét ran lên như sấm, và khi cảnh tượng này chấm dứt, Jamie ước lượng rằng nó kéo dài trên ba giờ đồng hồ.

Chú thích:
(1) uitlander: Bọn người nước ngoài.
(2) Canopus: ngôi sao sáng nhất trên bầu trời phương Nam, trong chòm sao Argo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:10:52 | Chỉ xem của tác giả
Vào ngày sinh nhật thứ sáu của bé Jamie, cha nó nói, “Bố sẽ đem con đi Cape Town tuần sau để cho con thấy một thành phố thực sự nó như thế nào”.

“Mẹ có thể nào đi với chúng ta được không, bố?”, bé Jamie hỏi. “Mẹ không thích săn bắn, nhưng mẹ thích các thành phố”.

Cha nó xoa đầu nó và nói. “Mẹ con bận ở đây, con ạ. Chỉ có hai cha con mình đi thôi, được không?”

Thằng bé thắc mắc và lấy làm khó chịu vì mẹ nó và cha nó có vẻ xa cách nhau quá, nhưng lúc ấy nó chưa hiểu được vì sao.

Hai cha con thực hiện cuộc hành trình ấy bằng toa xe riêng của họ. Vào năm 1891, xe hoả đã trở thành một phương tiện giao thông vượt trội hơn cả ở Nam Phi, vì nó rẻ tiền, thuận tiện và nhanh chóng. Toa xe riêng mà Jamie đã đặt đóng để anh sử dụng là một toa xe hoả dài trên hai mươi ba mét, và có bốn phòng ngủ đóng ván, có thể chứa mười hai người, một phòng khách có thể sử dụng như phòng làm việc, một phòng ăn, một phòng tắm, và một cái bếp trang bị đầy đủ. Các phòng ngủ có giường đồng, đèn khí và những cửa sổ rộng.

“Tất cả hành khách ở đâu, hở bố?” Thằng bé hỏi.

Jamie cười to, “Chúng ta là tất cả hành khách rồi. Đây là chiếc tàu hoả của riêng chúng ta, con ạ”.

Bé Jamie nhìn qua khung cửa sổ hầu như suốt chặng đường, ngạc nhiên trước những khoảng đất vô tận chạy vun vút ngang qua trước mặt.

“Đây là đất của Chúa”, cha nó nói, “Người đã rải đầy ra ở đó các thứ khoáng sản quý giá cho chúng ta. Tất cả những thứ ấy đều nằm trong lòng đất, chờ đợi được phát hiện ra. Những gì đã tìm được cho đến nay chỉ mới là bước đầu thôi, Jamie ạ”.

Khi đến Cape Town, bé Jamie khiếp hãi trước những đám đông và toà nhà đồ sộ. Jamie dắt con đi thăm Công ty Chuyên chở Đường bể McGregor, rồi chỉ cho nó thấy hàng chục chiếc tàu đang bốc dỡ hàng ở bến tàu. “Con có thấy các chiếc tàu kia không? Chúng thuộc về cha con mình đấy”.

Khi trở về Klipdrift, bé Jamie nói huyên thuyên về những gì nó đã trông thấy. “Bố làm chủ cả thành phố!” thằng bé kêu lên. “Chắc mẹ phải thích lắm. Lần sau mẹ sẽ thấy”.

Margaret kéo con vào lòng, nói, “Phải, con yêu quý ạ”.

Jamie vắng nhà nhiều đêm. Margaret biết rằng anh đang ở tại nhà bà Agnès. Nàng có nghe nói anh đã mua một ngôi nhà cho một trong các cô gái ở đó để anh có thể thăm viếng cô ta một cách riêng tư. Nàng không có cách nào biết được điều đó có thực hay không. Margaret chỉ biết rằng, dù cô ấy là ai, nàng cũng muốn giết cô ta.

Để giữ cho tâm trí nàng được ôn hoà, lành mạnh, Margaret tự buộc mình phải chú tâm đến những hoạt động trong thị trấn. Nàng gây quỹ để xây dựng một ngôi nhà thờ mới, và khởi sự một chương trình giúp đỡ gia đình của những người thăm dò mỏ đang trong cơn túng quẫn. Nàng yêu cầu Jamie sử dụng một trong các toa xe của anh để chuyên chở miễn phí cho những người đi tìm mỏ trở về Cape Town sau khi đã cạn hết tiền bạc và hi vọng.

“Bà yêu cầu tôi ném tiền qua cửa sổ”, anh gầm lên. “Họ đi bộ đến đây thì cứ để họ đi bộ trở về như lúc mới đến”.

“Họ không có điều kiện để đi bộ nữa”, Margaret cãi lại. “Và nếu họ ở lại đây thì thị trấn sẽ nuôi ăn, nuôi mặc cho họ”.

“Thôi được rồi”, Jamie cuối cùng càu nhàu. “Nhưng đó là một ý tưởng điên rồ !”.

“Cảm ơn, anh Jamie”.

Anh nhìn theo Margaret bước ra khỏi văn phòng, và bất đắc dĩ anh phải cảm thấy một chút hãnh diện nào đó về nàng. Với một kẻ nào đó, hẳn nàng sẽ là một người vợ rất tốt, Jamie nghĩ thầm.

Tên người đàn bà mà Jamie đã cho ở tại ngôi nhà riêng ấy là Maggie, một cô gái điếm xinh đẹp đã có lần ngồi bên cạnh Margaret vào buổi tặng quà cho đứa bé mới sinh. Thật là mỉa mai, Jamie nghĩ thầm trong bụng, cô gái ấy lại mang cùng tên với vợ anh (3). Hai người chẳng có gì giống nhau cả. Cô Maggie này là một cô gái tóc hoe, hai mươi mốt tuổi, với khuôn mặt khoẻ mạnh và thân hình nảy nở – một con cọp cái lúc ân ái. Jamie đã trả cho bà Agnès rất hậu hĩnh để lấy cô gái này, và đã trả cho Maggie một số tiền trợ cấp rộng rãi. Jamie rất kín đáo khi anh đến thăm ngôi nhà nhỏ ấy. Những cuộc viếng thăm này hầu như luôn luôn vào ban đêm, và như vậy, anh tin chắc rằng không bị ai dòm ngó. Thật ra, có rất nhiều người dòm ngó anh, nhưng không một ai dám bàn tán về chuyện ấy. Đây là thị trấn của McGregor, nên anh có quyền làm bất cứ thứ gì anh muốn.

Vào một buổi tối đặc biệt hôm ấy, Jamie không thấy vui thú gì lắm. Anh đã đi đến nơi này, trong lòng hí hửng, nhưng Maggie lại ở trong một tâm trạng cáu kỉnh. Nàng nằm dài trên chiếc giường lớn, trong chiếc áo choàng màu hồng hở hang, “Tôi chán cái cảnh bị nhốt trong cái nhà khốn kiếp này rồi”, nàng nói. “Như thể tôi là một tên nô lệ hày một cái gì đó. Ít nhất ở nhà bà Agnès, lúc nào cũng có một cái gì đó thay đổi. Tại sao mỗi khi đi nơi này nơi kia anh lại không cho tôi đi theo?”

“Anh đã giải thích với em rồi mà, Maggie. Anh không thể…”.

Nàng chổm dậy khỏi giường, đứng trước mặt anh ra vẻ thách thức, chiếc áo choàng mở tung ra. “Đồ phân ngựa! Anh đem con trai anh đi khắp mọi nơi. Tôi không được bằng con trai anh hay sao?”

“Không”, Jamie nói với một vẻ bình tĩnh sợ. “Cô không thể bằng con trai tôi được”. Anh bước đến quầy rượu, rót một ly rượu mạnh cho mình. Đây là ly thứ tư – anh uống nhiều hơn thường lệ.

“Tôi không ra cái quái gì đối với anh cả”, Maggie hét lên. “Tôi chỉ là một miếng mông đít mà thôi”. Nàng ngả đầu ra phía sau, cười chế nhạo, “Đúng là một anh chàng “Scotchman” vĩ đại và đạo đức !”.

“Scot – chứ không phải là “Scotchman” (4)”.

“Vì Chúa, tôi xin anh đừng chỉ trích tôi nữa. Tất cả những gì tôi làm đều chẳng hay hớm gì cả. Thế anh tưởng anh là cái quái gì? Là bố của tôi hả”.

Jamie nghe thế đã quá đủ rồi. “Cô có thể trở về với bà Agnès sáng mai. Tôi sẽ báo cho bà ấy biết rằng cô sẽ trở về đó”. Anh nhặt lấy mũ, bước ra khỏi cửa.

“Anh không thể dứt bỏ tôi như vậy được, đồ chó đẻ”. Nàng đi theo anh, điên cuồng, giận dữ.

Jamie dừng lại ở cửa. “Tôi làm như thế thật đấy”. Nói xong, anh biến vào bóng tối.

Anh ngạc nhiên khi thấy mình bước đi loạng choạng. Trí óc anh rối mù. Có lẽ vì anh đã uống quá bốn ly rượu mạnh. Không hẳn thế. Anh nghĩ đến thân hình trần truồng của Maggie trên giường đêm hôm ấy. Nàng đã phô trương thân hình, đùa rỡn với anh, rồi co rụt lại. Nàng đùa với anh, mơn trớn anh, đưa cái lưỡi mềm của nàng lên khắp thân hình anh, làm cho người anh sục sôi lên. Thế rồi nàng bắt đầu chống lại anh, làm cho người anh nóng rực lên mà không được thoả mãn.

Về đến nhà, anh đi ngang qua hành lang trước nhà, và khi sắp sửa trở về phòng mình, anh đi ngang qua căn phòng đóng cửa kín của Margaret. Ở đó có đèn chiếu sáng từ dưới cánh cửa. Đột nhiên Jamie tưởng tượng lúc ấy Margaret đang nằm trên giường, mặc chiếc áo choàng mỏng dính, hay có lẽ không mặc gì cả. Anh nhớ đến thân hình đầy đặn của nàng quằn quại bên dưới anh dưới bóng cây bên bờ sông Orange. Hướng dẫn bởi chất rượu trong người, anh mở cửa phòng Maragret, rồi bước vào.

Nàng đang nằm đọc sách bên cạnh ngọn đèn dầu. Nàng ngẩng mặt lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. “Jamie… có chuyện gì không hay chăng?”.

“Không hay vì tôi muốn đến thăm bà vợ của tôi một chút hay sao?” Tiếng nói của anh lắp bắp.

Nàng mặc một chiếc áo mỏng dính, lộ rõ thân hình bên dưới tấm vải trong suốt. Lạy Chúa, nàng có một thân hình đẹp tuyệt trần. Anh bắt đầu cởi quần áo ra.

Margaret nhẩy chồm ra khỏi giường, cặp mắt mở to. “Anh định làm cái gì vậy?”.

Jamie đá cánh cửa cho nó sập lại sau lưng, rồi bước đến gần nàng. Chỉ trong chốc lát, anh vật ngã nàng xuống giường, rồi nằm xuống bên cạnh. “Lạy Chúa, anh muốn… em, Maggie ạ”.

Trong lúc mơ mơ màng màng vì men rượu, anh không biết anh đang muốn cô Maggie nào. Nàng đã giãy giụa dữ dội. Phải, đây là con mèo rừng bé nhỏ của anh. Anh cười ha hả khi anh đã chế ngự được các cánh tay và chân nàng đập lên người anh túi bụi. Nhưng rồi đột nhiên nàng chịu nhượng bộ, kéo anh lại gần và nói, “Ôi, anh yêu quý, anh Jamie yêu quý của em. Em đang rất cần có anh”. Trong lúc ấy, Jamie thầm nghĩ. “Lẽ ra anh không nên đối xử tệ bạc với em như thế. Đến sáng mai, anh sẽ nói cho em biết rằng em không phải trở về nhà bà Agnès nữa đâu”.

Khi Margaret thức dậy vào sáng hôm sau, nàng thấy mình đang nằm một mình trên giường. Nàng vẫn còn cảm thấy thân hình khoẻ mạnh của Jamie bên trong người nàng, và nghe anh nói. “Lạy Chúa, anh muốn… em”, rồi nàng thấy trong lòng tràn ngập một niềm vui sướng cuồng loạn và thật hoàn toàn. Nàng vẫn xử sự đúng từ trước đến nay. Nàng yêu chàng thật sự. Bao nhiêu lâu chờ đợi, bao nhiêu nỗi đau khổ, cô đơn và nhục nhã, thế nhưng tất cả đều không vô ích.

Trong suốt thời gian còn lại của ngày hôm ấy, Margaret sống trong một trạng thái sung sướng, mê ly. Nàng tắm rửa, gội đầu, thay đổi ý định đến hàng chục lần chiếc áo nàng nên mặc để có thể làm vui lòng Jamie nhất. Nàng đuổi người nấu ăn đi nơi khác để nàng có thể tự tay chuẩn bị những món ăn Jamie ưa thích. Nàng xếp đặt lại bàn ăn không biết bao nhiêu lần mới hài lòng được về các ngọn nến và hoa bày biện trên đó. Nàng muốn rằng buổi tối hôm ấy thật hoàn hảo.

Jamie không về nhà ăn cơm, cũng không về nhà ngủ suốt đêm hôm ấy. Margaret ngồi trong thư phòng chờ đợi anh cho đến ba giờ sáng, rồi đi vào giường một mình.

Khi Jamie trở về nhà vào tối hôm sau, anh gật đầu lịch sự chào Margaret, rồi bước thẳng đến phòng con trai. Margaret đứng nhìn theo anh, sững sờ, choáng váng, rồi chậm rãi quay lại nhìn mình trong tấm gương soi. Tấm gương soi ấy bảo với nàng rằng chưa bao giờ nàng trông xinh đẹp như thế, nhưng khi nhìn gần hơn nữa, nàng không thể nào nhận ra được đôi mắt. Đó là những con mắt của một kẻ xa lạ.

Chú thích:
(3) Maggie là tên gọi tắt thân mật của Margaret, trong tiếng Anh.
(4) Scot: người dân xứ Tô cách lan (Scotland). Scotchmand: cũng là người dân Tô cách lan, nhưng thường khi được dùng với ý lăng nhục.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:12:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10


“Tôi có tin mừng cần báo cho bà biết, bà McGregor ạ”, Bác sĩ Teeger nói, nét mặt rạng rỡ. “Bà sắp có con”.

Margaret sửng sốt khi nghe câu nói ấy của ông bác sĩ, không biết mình nên cười hay nên khóc. “Tin mừng à?”. Đưa một đứa trẻ khác nữa vào trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu là một điều không thể được. Margaret không còn có thể chịu đựng một sự nhục nhã như vậy. Nàng phải tìm ra một phương cách nào giải quyết. Trong khi suy nghĩ điều này, nàng bỗng cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên rạo rực, mồ hôi toát ra như tắm.

Bác sĩ Teeger nói, “Buồn nôn hả?”

“Vâng, hơi một chút”.

Ông đưa cho nàng ít viên thuốc. “Uống mấy viên này, sẽ đỡ nhiều. Sức khoẻ của bà tốt lắm, bà McGregor ạ. Không có gì phải lo cả. Bà chạy đi báo tin mừng này cho ông nhà biết đi”.

“Vâng”, nàng nói với vẻ chán nản. “Tôi sẽ làm việc ấy”.

Jamie và nàng đang ngồi ở bàn ăn, bỗng nàng nói, “Em đi khám bác sĩ sáng nay. Ông ấy nói em sắp có con”.

Không một lời nào, Jamie quăng chiếc khăn ăn xuống bàn, đứng dậy khỏi chiếc ghế, rồi đùng đùng đi ra khỏi phòng. Đó là lúc Margaret nhận ra được rằng nàng có thể thù ghét Jamie cũng sâu đậm như nàng yêu chàng.

Thời kỳ mang thai thật là khó khăn, cực nhọc. Margaret thường nằm trên giường, mệt mỏi và yếu ớt. Nàng nằm ở đó giờ này qua giờ khác, tưởng tượng, hình dung Jamie đứng ở chân nàng, đang xin nàng tha thứ, rồi ân ái cuồng nhiệt với nàng lần nữa. Nhưng đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Sự thực nàng đã bị sa vào một cái bẫy. Nàng không có nơi nào để đi tới cả, và dù cho nàng có thể rời nơi này được, Jamie cũng sẽ không bao giờ cho phép nàng mang theo đứa con trai.

Bé Jamie bây giờ lên bảy rồi. Nó là một bé trai khoẻ mạnh, xinh đẹp, trí óc lanh lẹn và vui tính. Nó gần gũi với mẹ nó nhiều hơn, như thể nó đã ý thức được, bằng một cách nào đó, nỗi khổ sở của nàng. Nó làm những món quà tặng nhỏ ở trường học rồi đem về cho mẹ nó. Mỗi lần như vậy, Margaret tủm tỉm cười và cảm ơn nó, cố gắng làm ra bộ mặt vui vẻ. Khi bé Jamie hỏi tại sao bố thường vắng nhà vào buổi tối và không bao giờ đưa mẹ nó đi chơi thì Margaret trả lời, “Bố là một người quan trọng, Jamie ạ. Bố làm những việc quan trọng nên rất bận.”

Những gì xảy ra giữa bố nó và mình là vấn đề riêng của mình. Margaret nghĩ thầm, “cho nên mình không nên để bé Jamie ghét bố nó vì chuyện ấy.”

Việc Margaret mang bầu càng lúc càng trở nên dễ thấy. Khi nàng ra ngoài phố, những người quen biết vẫn hay chặn nàng lại và nói, “Chắc không lâu nữa đâu, phải không bà McGregor? Tôi đoán lần này phải là một đứa con trai xinh đẹp giống như bé Jamie. Ông nhà chắc là sung sướng lắm.”

Nhưng sau lưng nàng, họ nói “Thật là tội nghiệp. Bà ấy trông xanh xao, tiều tuỵ quá. Chắc là bà ấy đã biết về con đĩ mà ông ấy xem như là nhân tình…”.

Margaret cố gắng chuẩn bị cho bé Jamie tiếp nhận sư ra đời của đứa em nó. “Con sắp có một em trai hoặc một em gái, con ạ. Lúc ấy con sẽ có em bé để chơi với con suốt ngày. Như thế thật là thích, con nhỉ?”

Jamie ôm mẹ hôn và nói: “Có nó bên cạnh, mẹ lại càng vui hơn, mẹ a”.

Nghe vậy, Margaret cố ngăn chặn những giọt nước mắt đang muốn ứa lên.

Cơn đau đẻ bắt đầu lúc 4 giờ sáng. Bà Talley cho người gọi bà Hannah đến. Đứa bé ra đời vào đúng giữa trưa. Nó là một đứa bé gái khoẻ mạnh, có cái miệng giống mẹ và cái cằm giống cha, tóc quăn và đen xung quanh khuôn mặt bé nhỏ. Margaret đặt tên cho nó là Kate. Đó là một cái tên hay, nghe có vẻ khoẻ mạnh, Margaret nghĩ thầm. Nó sẽ cần có sức mạnh. “Chúng ta đều cần như vậy cả. Mình phải đưa các con đi xa khỏi nơi này. Mình chưa biết bằng cách nào, nhưng bắt buộc phải tìm ra”.

David Blackwell nhảy xổ vào văn phòng của Jamie McGregor mà không gõ cửa. Ngạc nhiên, Jamie ngước mắt nhìn lên. “Lại chuyện quái quỷ gì nữa?”.

“Họ đang nổi loạn ở Namib”.

Jamie đứng phắt dậy. “Sao? Có chuyện gì xảy ra vậy?”

“Một đứa bé da đen bị bắt quả tang đang ăn cắp một viên kiêm cương. Nó xẻ một cái lỗ ở dưới nách, rồi giấu viên kiêm cương trong đó. Để cho nó một bài học, Hans Zimmerman đánh nó bằng roi trước mặt những công nhân khác. Đứa bé ấy chết. Nó chỉ mới mười hai tuổi”.

Mặt Jamie lộ vẻ tức giận. “Lạy chúa Jesus! Tôi đã ra lệnh ngưng việc đánh đập ở tất cả các khu mỏ rồi mà”.

“Tôi đã cảnh cáo Zimmerman về chuyện ấy”.

“Đuổi thằng chó đẻ ấy đi”.

“Chúng tôi không tìm ra hắn”.

“Tại sao?”

“Những người da đen đã giữ hắn lại. Hoàn cảnh bây giờ không còn kiểm soát được nữa”.

Jamie chụp lấy chiếc mũ, “Anh ở lại đây, trông nom mọi việc cho đến lúc tôi trở về”.

“Tôi nghĩ ông đến đó không được an toàn đâu, ông McGregor ạ. Người dân bản xứ bị Zimmerman giết thuộc bộ tộc Barolong. Họ không tha thứ và không bao giờ quên. Tôi có thể…”

Nhưng Jamie đã bỏ đi rồi.

Khi Jamie còn cách xa mỏ kim cương mười dặm, anh có thể trông thấy khói bốc lên. Tất cả những căn chòi ở Namib đã biến thành những ngọn đuốc. Lũ điên khốn kiếp! Chúng nó đốt cả nhà của chúng. Khi chiếc xe ngựa của anh tiến lại gần hơn, anh nghe những tiếng súng nổ và tiếng người la hét. Giữa đám đông lộn xộn, bọn cảnh sát mặc đồng phục bắn vào các người da đen và da màu đang cố gắng một cách tuyệt vọng để trốn thoát. Người da trắng ít hơn, một chống chọi với mười, nhưng họ có vũ khí.

Vừa trông thấy Jamie McGregor, viên cảnh sát trưởng, Bernard Sothey, hối hả chạy lại nói, “Thưa ông McGregor, ông đừng lo. Chúng tôi sẽ giết sạch lũ chó đẻ ấy”.

“Giết cái con khỉ!” Jamie hét lên. “Ra lệnh cho người của ông ngừng bắn ngay đi!”

“Sao? Nếu chúng tôi…”.

“Hãy làm như tôi bảo!” Jamie đứng nhình, trong lòng giận sôi lên khi trông thấy một người đàn bà da đen ngã gục xuống dưới tràng đạn như mưa rào. “Bảo các người của ông dừng lại ngay”.

“Xin tuân lệnh”, viên cảnh sát ra lệnh cho một viên phụ tá, rồi ba phút sau, tiếng súng ngưng hẳn.

Xác chết nằm la liệt ở khắp nơi. “Nếu ông muốn nghe lời khuyên của tôi”, Sothey nói, “tôi sẽ…”

“Tôi không cần lời khuyên của ông. Đem người cầm đầu của họ lại đây cho tôi”.

Hai người cảnh sát đem một người da đen còn trẻ đến nơi Jamie đang đứng. Anh ta bị còng tay, người đầy máu me nhưng không lộ vẻ gì là sợ hãi cả. Anh đứng cao và thẳng, mắt như nảy lửa. Jamie nhớ lại lời nói của Banda về lòng kiêu hãnh của người Bantu: Isiko.

“Tôi là Jamie McGregor”.

Người ấy nhổ phẹt xuống đất.

“Những gì vừa xảy ra không phải do tôi gây ra. Tôi sẽ đền bù cho các anh”.

“Ông hãy nói như vậy với các người vợ goá của họ”.

Jamie quay về phía Sothey. “Hans Zimmerman đâu rồi?”

“Chúng tôi còn đang tìm hắn, thưa ông”.

Jamie thấy đôi mắt của người da đen loé lên. Anh biết rằng người ta sẽ không còn có thể tìm thấy Hans Zimmerman đâu nữa.

Anh nói với người da đen, “Tôi sẽ đóng cửa mỏ kim cương trong 3 ngày. Tôi muốn anh nói chuyện với các bạn của anh. Hãy lập một danh sách những điều than phiền của các anh để tôi xem xét. Tôi hứa sẽ hết sức công bằng. Tôi sẽ sửa đổi tất cả những gì sai trái ở đây.”

Người da đen ấy nhìn anh, một vẻ nghi ngờ thoáng hiện trên nét mặt.

“Sẽ có một viên đốc công mới phụ trách ở đây, và điều kiện làm việc sẽ được cải thiện tử tế. Nhưng tôi mong đợi các anh sẽ trở lại làm việc trong 3 ngày nữa”.

Viên cảnh sát trưởng nói, vẻ chưa tin. “Ông muốn nói rằng ông sẽ thả hắn ra sao? Hắn giết một số người của tôi”.

“Sẽ có một cuộc điều tra đầy đủ và…”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:15:11 | Chỉ xem của tác giả
Có tiếng vó ngựa phi về phía họ. Jamie quay lại nhìn. Đó là David Blackwell. Sự xuất hiện bất ngờ của anh ta tại nơi này gieo một mối lo sợ trong đầu óc Jamie.

David nhảy xuống ngựa. “Thưa ông McGregor, con trai ông bị mất tích rồi”.

Cả thế giới đột nhiên lạnh hẳn lại.

Nửa dân số Klipdrift đều rời khỏi nhà, tham gia vào cuộc lùng kiếm. Họ đi khắp vùng thôn quê, sục sạo cống rãnh, mương, khe núi, nhưng không tìm thấy vết tích nào của thằng bé.

Jamie giống như một người bị ma làm. Thằng bé đi lang thang ở một nơi nào đó. Chỉ thế thôi. Rồi nói sẽ trở về nhà.

Jamie đi vào buồng Margaret. Nàng đang nằm trên giường, cho đứa con nhỏ bú.

“Có tin tức gì chưa?” nàng hỏi.

“Chưa, nhưng mà tôi sẽ tìm ra nó”. Anh nhìn đứa con gái nhỏ một lát, rồi quay lưng lại, bước ra ngoài, không nói thêm một lời nào.

Bà Talley bước vào trong phòng, hai bàn tay xoắn lại trên chiếc tạp dề. “Đừng có lo, bà Margaret ạ, Jamie lớn rồi. Cậu ấy biết tự lo cho mình”.

Mắt Margaret nhoà đi vì nước mắt, “Không ai nỡ làm hại bé Jamie, phải thế không? Điều ấy là dĩ nhiên rồi”.

Bà Talley với tay xuống, đỡ Kate từ tay Margaret.

“Bà hãy ngủ đi một lát”.

Bà bồng đứa bé vào phòng nuôi trẻ, đặt nó vào trong chiếc giường cũi. Kate nhìn lên bà, chúm chím cười.

“Cháu cũng nên ngủ đi một lát, cháu nhỏ ạ. Rồi đây cuộc đời cháu cũng sẽ nhộn nhịp lắm đấy”.

Bà Talley bước ra khỏi phòng, đóng cánh của phía sau lưng.

Đến nửa đêm, cửa sổ phòng ngủ được mở ra khe khẽ, rồi một người trèo vào trong phòng. Người ấy bước đến bên chiếc giường cũi, ném một chiếc mền lên đầu đứa bé, rồi nhắc bổng nó lên trong cánh tay.

Banda bỏ đi cũng nhanh chóng như khi anh vừa đến.

Chính bà Talley là người đầu tiên phát hiện ra rằng bé Kate đã mất tích. Thoạt nhiên bà tưởng rằng bà McGregor đã đến đây vào lúc nửa đêm và bồng nó đi. Bà đến phòng Margaret và hỏi, “Đứa bé đâu rồi?”

Nhìn thấy nét mặt Margaret lúc ấy, bà biết ngay lập tức chuyện gì đã xảy ra.

Một ngày nữa đã qua, nhưng vẫn chưa tìm thấy vết tích của bé Jamie. Jamie gần như ngã quỵ. Anh đến gần Blackwell và hỏi, “Anh có nghĩ rằng có chuyện gì không hay đã xảy ra với bé Jamie không?”. Giọng anh hầu như không kiềm chế nổi sự xúc động.

David cố thuyết phục, “Chắc chắn không có gì xảy ra, ông McGregor ạ”.

Nhưng anh không chắc điều ấy. Anh đã cảnh báo McGregor rằng người Bantu không dễ tha thứ, cũng không dể quên, và chính một người Bantu đã bị giết một cách tàn nhẫn. David chắc chắn một điều: nếu người Bantu đã bắt cóc bé Jamie thì chắc chắn rằng thằng bé sẽ phải chịu một cái chết khủng khiếp, vì họ muốn mạng phải đền mạng.

Jamie trở về nhà vào lúc bình minh trong tình trạng kiệt quệ. Anh đã hướng dẫn một toán người tìm kiếm, gồm có dân thị trấn, người đi đào mỏ, cảnh sát viên và lục soát tất cả mọi nơi để tìm thằng bé, nhưng không có kết quả.

David đang chờ đợi thì Jamie bước vào phòng đọc sách. David liền đứng dậy nói, “Ông McGregor ạ, con gái ông vừa bị bắt cóc”.

Jamie nhìn anh ta chằm chằm trong sự im lặng, nét mặt tái nhợt. Anh quay người lại, bước vào phòng ngủ.

Đã bốn mươi tám giờ đồng hồ rồi, anh không hề chợp mắt. Anh ngã xuống giường, hoàn toàn kiệt sức, rồi lăn ra ngủ. Anh đang ở dưới một cây baobab (1) to lớn, và ở xa xa, ngang thảo nguyên không có vết chân người, một con sư tử đang tiến gần về phía anh. Bé Jamie vẫy tay gọi anh. “Dậy đi, bố, một con sư tử đang đến kìa!”. Con vật bây giờ tiến lại phía họ nhanh hơn. Con trai anh lay người anh mạnh hơn nữa. “Dậy đi!” Jamie mở choàng mắt ra. Banda đang đứng nhìn xuống người anh. Jamie định mở lời, nhưng Banda đã đặt tay lên miệng anh.

“Im!” Anh để cho Jamie ngồi dậy.

“Con trai tôi đâu rồi?” Jamie hỏi.

“Nó chết rồi”.

Căn phòng bắt đầu quay cuồng.

“Tôi rất ân hận. Tôi đến trễ quá không kịp ngăn họ lại. Người của anh đã làm đổ máu người Bantu. Đồng bào tôi đòi hỏi phải trả thù”.

Jamie vùi mặt vào hai bàn tay. “Ôi lạy chúa, bọn chúng đã làm gì thằng bé ấy?”

Giọng Banda đượm vẻ buồn sâu sắc. “Họ để nó lại trong sa mạc. Tôi… tôi tìm ra xác của nó, rồi đem đi chôn”.

“Ồ không thể thế được! Không thể như thế được!”

“Tôi cũng đã cố cứu nó, Jamie ạ”.

Jamie chậm rãi gật đầu chấp nhận điều ấy. Rồi anh buồn bã hỏi, “Thế con gái tôi thì sao?”

“Tôi đã đem nó đi xa trước khi bọn chúng đến đây để bắt nó. Rồi đây, nó sẽ trở lại phòng ngủ của nó, vẫn còn đang ngủ. Nó sẽ không bị hề hấn gì, nếu anh làm như anh đã hứa”.

Jamie ngước mắt nhìn lên. Mặt anh giống như một chiếc mặt nạ thù hận. “Tôi sẽ giữ lời hứa. Nhưng tôi muốn những kẻ nào đã giết sẽ phải trả giá”.

Banda lặng lẽ nói: “Như vậy anh sẽ phải giết toàn thể bộ tộc của tôi, Jamie ạ”.

Nói xong, Banda bỏ đi.

Đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng nàng cố khép mắt lại thật chặt, bởi vì nàng biết rằng nếu nàng mở ra, cơn ác mộng sẽ trở thành hiện thực, và hai đứa con của nàng sẽ chết. Vì vậy, nàng tự bày ra một trò chơi. Nàng sẽ giữ cho mắt nàng khép thật chặt, cho đến khi nàng cảm thấy bàn tay bé nhỏ của Jamie đặt lên tay nàng nói: “Không hề gì đâu, mẹ ạ. Chúng con đang ở đây. Chúng con đều an toàn”.

Nàng đã nằm trên giường suốt ba ngày, không nói chuyện với ai, không nhìn ai. Bác sĩ Teeger đến, rồi lại đi, nhưng Margaret không hề biết. Đến nửa đêm, Margaret đang nằm trên giường, khép mắt lại, bỗng nàng nghe một tiếng rơi đánh sầm phát ra từ phòng của con trai. Nàng mở mắt ra, lắng nghe. Lại thêm một tiếng nữa. Bé Jamie đã trở về!

Margaret vội vã rời khỏi giường, chạy dọc hành lang đến cánh cửa khép lại của phòng con nàng. Qua cánh cửa nàng nghe những âm thanh lạ lùng như tiếng thú vật. Tim nàng đập cuồng loạn, nàng đẩy cho cánh cửa mở ra.

Chồng nàng đang nằm trên sàn nhà, mặt và thân hình méo mó co quắp. Một mắt khép lại, còn mắt kia thì mở ra nhìn lên nàng với vẻ quái dị. Anh như đang cố gắng nói điều gì, nhưng những lời lẽ phát ra nghe như tiếng ùng ục của một con vật.

Margaret thì thào, “Ôi, Jamie, Jamie”.

Bác sĩ Teeger nói, “Tôi e rằng tin này không hay lắm cho bà, bà McGregor ạ. Chồng bà bị một cơn đau tim nặng. Chỉ có năm mươi phần trăm sống sót thôi. Nhưng nếu ông ấy sống được thì cũng giống như một thực vật thôi. Tôi sẽ thu xếp để đưa ông ấy vào một dưỡng đường tư để người ta chăm sóc ông cho tử tế”.

“Không”.

Ông bác sĩ nhìn Margaret với vẻ ngạc nhiên. “Không cái gì?”

“Không có bệnh viện nào cả. Tôi muốn ông ấy ở đây với tôi”.

Ông bác sĩ suy nghĩ một lát. “Thôi cũng được. Bà sẽ cần một nữ y tá. Tôi sẽ thu xếp…”.

“Tôi không cần điều dưỡng viên, tôi sẽ tự tay chăm sóc cho Jamie”.

Bác sĩ Teeger lắc đầu. “Không thể như thế được, bà McGregor ạ. Bà không hiểu những gì liên hệ đến chuyện này. Ông nhà không còn hoạt động như một con người nữa. Ông ấy hoàn toàn bị tê liệt, và sẽ mãi mãi như vậy cho đến lúc chết”.

“Tôi sẽ săn sóc cho ông ấy”.

Lúc này, Jamie mới thực sự, và cuối cùng đã thuộc về nàng.

Chú thích:
(1) baobab: một loại cây cao và to ở Ấn Độ và Phi Châu, có vỏ rất dày và sợi của nó được dùng để làm dây thừng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:20:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11


Jamie Mc Gregor sống được đúng một năm kể từ ngày anh bắt đầu lâm bệnh, nhưng đó là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Margaret. Jamie hoàn toàn bất lực. Anh không nói chuyện được, cũng không cử động. Margaret săn sóc cho chồng, chăm chút từng nhu cầu của anh, ngày cũng như đêm. Ban ngày, nàng đỡ anh ngồi dậy trong chiếc xe đẩy trong phòng may vá, và trong khi nàng đan những chiếc áo len, may những chiếc áo choàng cho anh, nàng nói chuyện với anh. Nàng bàn luận về những vấn đề nhỏ nhặt trong nhà trong cửa, mà anh chưa hề bao giờ được nghe nói trước đó, rồi nàng kể cho anh nghe về bé Kate đã tiến bộ ra sao. Đến đêm, nàng bồng thân hình gầy như bộ xương của Jamie đến phòng ngủ của nàng, nhẹ nhàng đặt anh lên giường bên cạnh nàng. Nàng đắp chăn cho anh, rồi hai người mở đầu cuộc nói chuyện lảm nhảm một chiều cho đến khi Margaret bắt đầu thấy buồn ngủ.

David Blackwell điều hành mọi công việc của công ty Kruger-Brent. Thỉnh thoảng, David đem giấy tờ đến nhà để Margaret ký, và cảm thấy đau nhói trong lòng mỗi khi trông thấy tình trạng bất lực của Jamie. Ta chịu ơn người này về tất cả mọi phương diện, David thầm nghĩ.

“Anh đã chọn người rất khéo, Jamie ạ.” Margaret nói với chồng. “David là một người rất tốt” Nàng đặt đồ thêu xuống, tủm tỉm cười. “Anh ta làm cho em nhớ lại anh xưa kia. Tất nhiên, chưa bao giờ có ngưòi nào thông minh, tài giỏi như anh, anh yêu quý ạ, và sẽ không bao giờ có một người như vậy nữa đâu. Anh trước kia là một người rất đẹp đẽ, mạnh khoẻ và tốt bụng. Anh không e ngại mơ tưởng những việc cao xa, thế nhưng bây giờ, tất cả những giấc mơ của anh đều trở thành sự thật. công ty của ta mỗi ngày mõi lớn mạnh." Nàng nhặt đồ thêu lên, tiếp tục làm việc. “Bé Kate đã bắt đầu nói chuyện được rồi. Em chắc chắn rằng sáng nay nó đã biết kêu: “Mẹ!” được rồi…”

Jamie được chống đỡ để ngồi dậy trong chiếc xe đẩy, một mắt nhìn chằm chằm về phía trước.

“Bé Kate có cặp mắt và cái miệng của anh. Lớn lên nó sẽ rất xinh đẹp.”

Sáng hôm sau, khi Margaret thức dậy, Jamie McGregor đã chết. Nàng ôm anh trong vòng tay, áp sát vào người mình.

“Anh hãy yên nghỉ, anh yêu quý. Hãy yên nghỉ. Em lúc nào cũng yêu anh rất nhiều, Jamie ạ. Em hi vọng anh hiểu cho điều ấy. Vĩnh biệt anh, người yêu thân thiết của riêng em.”

Bây giờ nàng sống cô đơn. Chồng và con trai nàng đã rời bỏ nàng rồi. Chỉ còn có nàng và đứa con gái. Margaret đi vào phòng đứa bé, nhìn xuống Kate đang nằm ngủ trong chiếc giường cũi. Katherine, Kate. Tên đấy là do chữ Hi Lạp có nghĩa là trong sáng, tinh khiết. Đó là một cái tên dành cho các vị thánh, các nữ tu và các bà hoàng.

Margaret nói thật to: “Con sẽ trở thành người nào trong các vị ấy, hở Kate?”

Lúc ấy là vào thời kì bành trướng mạnh mẽ ở Nam Phi, nhưng cũng là một thời kì đấu tranh kịch liệt. Cuộc tranh giành vùng Transvaal vẫn dai dẳng giữa người Boer và người Anh, và cuối cùng nổ bùng ra. Ngày thứ năm, 12 tháng 10 năm 1899, vào ngày sinh nhật thứ bảy của Kate, người Anh tuyên chiến với người Boer, và ba ngày sau Tiểu bang Tự do Orange bị tấn công. David cố gắng thuyết phục Margaret rời Nam Phi, cùng với Kate, nhưng Margaret từ chối.

“Chồng tôi ở đây”, nàng nói.

David không còn có cách nào thuyết phục được nàng. Anh nói với Margaret: “Tôi sẽ gia nhập nhóm người Boer. Bà có thể lo toan mọi việc được không?”

“Cố nhiên là được”, Margaret nói. “Tôi sẽ giữ cho công ty vẫn tiếp tục hoạt động.”

Sáng hôm sau, David lên đường.

Người Anh nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng. Đó chỉ là một cuộc hành quân áp đảo mà thôi, vì vậy, họ đi vào cuộc chiến với tinh thần tin tưởng, vô tư và vui vẻ như một ngày nghỉ lễ. Trong các trại lính Hyde Park ở London, người ta tổ chức một bữa ăn tiễn chân binh sĩ, với một thực đơn đặc biệt trên đó có vẽ một người lính Anh giơ tay cao một cái khay đựng thủ cấp của một con lợn rừng. Các món ăn trên thực đơn toàn những món được đặt tên bằng các vùng đất, thị trấn, thành phố Nam Phi: chẳng hạn, sò huyết Blue Points, thịt cừu Mafeking, củ cải Transvaal, nước sốt Cape Town, phó mát Hà Lan, rượu Orange v.v…

Nhưng đến Nam Phi, người Anh đã vấp phải một ngạc nhiên lớn. Người Boer ở trên lãnh thổ của họ nên họ rất cứng rắn và cương quyết. Cuộc chiến đấu đầu tiên diễn ra ở Mafeking , chỉ lớn hơn một ngôi làng một chút, và đây cũng là lần đầu tiên họ nhận thức được kẻ thù của họ như thế nào. Nhiều đạo quân nữa được nhanh chóng chở từ nước Anh đến. Họ bao vây Kimberley , và chỉ sau một cuộc chiến đấu hung dữ, đẫm máu, họ mới tiến chiếm được Ladysmith. Các đại pháo của người Boer có tầm xa hơn các đại pháo của người Anh, vì vậy người ta phải gỡ các súng tầm xa trên các chiến hạm Anh, chuyển vào đất liền, và dùng các thuỷ thủ điều khiển các khẩu súng lớn ấy ở cách xa các chiến thuyền của họ đến hàng trăm dặm.

Ở Klipdrift, Margaret hăm hở theo dõi tin tức của mỗi trận đánh. Nàng và những người xung quanh nàng sống bằng các tin đồn; tâm trạng của họ thay đổi từ vui mừng đến thất vọng, tuy theo mỗi tin tức nhận được. Rồi một buổi sáng nọ, một nhân viên của Margaret chạy xộc vào văn phòng nàng và nói, “Tôi vừa nghe tin quân Anh đang tiến về phía Klipdrift. Họ sẽ giết tất cả chúng ta”

“Vô lý! Họ không dám đụng đến chúng ta đâu.”

Năm giờ đồng hồ sau đó, Margaret McGregor đã trở thành một tù nhân chiến tranh.

Margaret ôm Kate được đến Paardeberg, một trong hàng trăm trại tù binh đã mọc lên khắp Nam Phi. Tù nhân được nhốt trong những vùng đất rộng lớn có dây kẽm gai bao bọc xung quanh và do lính Anh võ trang canh giữ. Điều kiện ăn ở tại đó thật tệ hại.

Margaret ôm Kate vào lòng và nói, “Đừng có lo, con ạ. Sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta đâu.”

Nhưng không một ai tin điều đó. Mỗi ngày lại ghi nhận thêm nhiều chuyện kinh khủng. Họ trông thấy những người xung quanh chết, đông hàng chục, hàng trăm, rồi đến hàng nghìn người. Không có bác sĩ, thuốc men cho những người bị thương, lương thực thì hiếm hoi. Cơn ác mộng ấy vẫn cứ tiếp diễn thường trực trong hầu hết ba năm đau khổ ấy. Tệ hại nhất là cảm giác hoàn toàn bất lực. Margaret và Kate hoàn toàn phó mặc số phận cho những bữa cơm, nơi trú ẩn và cả đới sống của họ nữa. Kate sống trong sự kinh hãi. Cô nhìn thấy trẻ xung quanh bị chết, và lo sợ rằng cô sẽ là kẻ kế tiếp. Cô bất lực, không giúp đỡ gì được cho mẹ và cho bản thân, đó là một bài học mà cô sẽ không bao giờ quên được. Quyền lực. Giá như ta có sức mạnh, ta sẽ có thức ăn. Ta sẽ có thuốc. Ta có tự do. Cô nhìn thấy những kẻ xung quanh ốm rồi chết, rồi cô cân nhắc giữa quyền lực và sự sống. Kate tự nhủ, “Một ngày kia, ta sẽ có quyền lực. Không một ai có thể làm như thế này đối với ta nữa đâu.”

Những trận chiến dữ dội vẫn tiếp diễn – ở Belmont , Graspan, Stormberg và Spiocnkop – nhưng cuối cùng, những người Boer anh dũng đã chứng tỏ họ không phải là những địch thủ cân xứng của đế quốc Anh mạnh mẽ. Vào năm 1902, sau gần ba năm chiến tranh, đẫm máu, người Boer đầu hàng. Năm mươi lăm ngàn người Boer chiến đấu, và ba mươi bốn ngàn binh lính, đàn bà, trẻ con của họ đã chết. Nhưng điều đã khiến cho những kẻ sống sót cảm thấy cay đắng sâu sắc, ấy là khi họ biết rằng hai mười tám ngàn người trong số đó đã chết trong các trại tập trung của người Anh.

Vào ngày các cánh cổng của trại giam được mở tung ra, Margaret và Kate trở lại Klipdrift. Ít tuần lễ sau, vào một ngày chủ nhật yên tĩnh, David Blackwell đến thăm họ. Chiến tranh khiến cho anh trở nên già dặn hơn, nhưng anh vẫn là anh chàng David nghiêm trang, biết suy nghĩ chín chắn, mà Margaret trước kia đã tin cậy. David đã trải qua ba năm kinh khủng ấy trong chiến đấu, và luôn luôn lo lắng không biết Margaret và Kate còn sống hay đã chết. Khi trông thấy họ được an toàn, anh cảm thấy một nỗi vui mừng tràn ngập.

“Tôi ước ao làm sao có thể che chở được cho bà và cô Kate.” David nói với Margaret.

“Tất cả chuyện ấy thuộc về quá khứ rồi, David ạ. Chúng ta chỉ nên nghĩ đến tương lai mà thôi.”

Và tương lai ấy là công ty Kruger-Brent.

Đối với thế giới, năm 1900 là một bảng đá còn trinh bạch trên đó lịch sử sẽ được viết ra, một thời đại mới hứa hẹn thanh bình và hi vọng không bờ bến cho mọi người. Một thế kỷ mới bắt đầu, đem lại những phát minh kì diệu làm thay đổi đời sống trên toàn cầu. Máy hơi nước, xe tự động chạy bằng điện được thay thế bởi máy nổ. Có tàu ngầm và máy bay. Dân số thế giới bùng nổ đạt đến con số một tỉ rưỡi người. Đó là thời kì tăng trưởng và bành trướng, và trong sáu năm kế tiếp đó, Margaret và David đã tận dụng được tất cả mọi cơ hội làm ăn tốt đẹp.

Trong những năm ấy, Kate lớn lên, hầu như không có ai trông nom. Mẹ nàng quá bận bịu với công việc điều hành công ty cùng với David nên không chú ý được nhiều đến Kate. Cô là một đứa trẻ ngang tàng, cứng cổ, ngoan cố, khó bảo. Một bữa trưa nọ, khi Margaret trở về nhà sau một buổi họp công việc, nàng thấy cô con gái mười bốn tuổi đang lăn lộn trong sân đầy bùn, đấm đá với hai đứa con trai. Margaret trố mắt nhìn con, kinh hãi, khó tin.

“Chết thật!”, nàng nói thì thầm trong miệng, “Đó là đứa con gái một ngày kia sẽ điều khiển cả Công ty Hữu hạn Kruger-Brent. Cầu chúa phù hộ cho tất cả chúng tôi!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 18-6-2012 00:22:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12


Một đêm mùa hè nóng nực vào năm 1914, Kate McGregor đang ngồi làm việc một mình trong văn phòng tại toà nhà trụ sở chính của Công ty Hữu hạn Kruger-Brent, bỗng nghe có tiếng xe hơi tiến lại gần. Nàng đặt tập hồ sơ đang xem giở xuống, bước đến cửa sổ, nhìn ra ngoài. Hai chiếc xe cảnh sát và một chiếc xe tuần tra đã dừng lại trước toà nhà. Kate đứng nhìn, nhăn mặt lại, trong khi sáu người cảnh sát mặc đồng phục nhảy ra khỏi xe, vội vã chặn các cổng ra vào toà nhà. Lúc ấy đã khuya, đường phố vắng tanh. Kate bắt gặp hình ảnh của mình phản chiếu lờ mờ trên kính cửa. Nàng là một phụ nữ xinh đẹp với cặp mắt xám nhạt của cha và hình dáng đầy đặn của mẹ.

Có tiếng gõ trên cánh cửa văn phòng. Kate gọi to: “Cứ vào.”

Cánh cửa mở ra, hai người mặc đồng phục bước vào. Một người đeo huy hiệu chức vụ thanh tra cảnh sát.

“Chuyện gì xảy ra thế?”. Kate hỏi.

“ Tôi xin lỗi đã quấy rầy cô vào giờ này, cô McGregor. Tôi là Thanh tra Cominsky.”

“Có vấn đề gì vậy, ông Thanh tra?”

“Chúng tôi nhận được báo cáo cho biết có một tên giết người vượt ngục vừa mới đi vào toà nhà này.”

Vẻ kinh ngạc hiện rõ trên nét mặt Kate. “Vào toà nhà này?”

“Thưa cô, vâng ạ. Hắn có vũ khí và rất nguy hiểm.”

Kate nói với vẻ lo sợ: “Vậy tôi rất cảm ơn, ông Thanh tra ạ, nếu ông tìm ra được hắn và đưa hắn ra khỏi nơi này.”

“Đó chính là điều chúng tôi dự định làm đó. Cô McGregor ạ. Vậy cô có thấy hay nghe cái gì khả nghi không?”

“Không. Nhưng tôi ở đây một mình, và có rất nhiều nơi người ta có thể ẩn nấp được. Tôi muốn ông cho người các ông lục soát nơi này thật kĩ.”

“Chúng tôi sẽ khởi sự ngay bây giờ.”

Viên thanh tra quay lại, gọi những người đang đứng trong hành lang, “Toả ra khắp nơi. Bắt đầu bằng hầm nhà, rồi soát đến tận mái nhà.” Ông ta quay lại Kate, “Có phòng nào khoá kín không?”

“Chắc là không”, Kate nói, “Nhưng nếu có, tôi sẽ mở ra cho ông.”

Thanh tra Cominsky trông thấy vẻ lo sợ rõ rệt ở nàng, nhưng ông không thể trách gì được. Nàng chắc hẳn còn cuống lên nữa nếu biết được rằng kẻ mà họ đang tìm kiếm nguy hiểm đến như thế nào. “Chúng tôi sẽ tìm ra hắn,” ông ta cố trấn an Kate.

Kate nhặt tờ báo cáo nàng đang đọc giở, nhưng không thể nào tập trung được. Nàng nghe tiếng cảnh sát sục sạo khắp toà nhà, từ phòng này đến phòng kia. Không biết họ có tìm ra hắn không nhỉ? Nàng rùng mình.

Các cảnh sát viên di chuyển chậm chạp, lục lọi một cách có phương pháp từng ngõ ngách từ hầm nhà lên đến mái nhà. Bốn mươi lăm phút sau, viên thanh tra Cominsky trở lại phòng giấy của Kate.

Nàng nhìn vào mặt ông ta. “Ông không tìm ra hắn?”

“Chưa, nhưng xin cô đừng lo…”

“Tôi lo lắm, ông thanh tra ạ. Nếu có một tên giết người vượt ngục lẻn vào trong toà nhà này, tôi rất mong ông tìm ra hắn.”

“Chắc chắn sẽ tìm được, thưa cô McGregor. Chúng tôi có chó săn.”

Từ nơi hành lang, nàng nghe có tiếng chó sủa, và một lát sau, một người huấn luyện chó săn đi vào với hai con chó săn giống Đức to lớn buộc ở đầu sợi dây.

“Những con chó này đã lục lọi khắp toà nhà, thưa ông. Chỉ còn văn phòng này là chưa lục soát thôi.”

Viên thanh tra quay về phía Kate. “Cô có lúc nào rời khỏi văn phòng này trong chừng một giờ qua không?”

“Có, tôi đi tìm ít giấy tờ trong phòng chứa hồ sơ. Ông nghĩ rằng hắn có thể…” Nàng rùng mình. “Tôi muốn ông lục soát văn phòng này hộ tôi.”

Viên thanh tra ra hiệu lệnh. Người huấn luyện thả chó ra khỏi sợi dây, ra lệnh, “Tìm đi!”

Hai con chó như điên cuồng. Chúng chạy đến một cánh cửa đóng kín sủa ầm ĩ.

“Ôi, Lạy Chúa!” Kate kêu lên. “Hắn ở trong đó!”

Viên thanh tra rút súng ra. “Mở cánh cửa ấy ra!” Ông ra lệnh.

Hai viên cảnh sát tiến đến cánh cửa tủ ăn sâu vào tường, tay lăm lăm khẩu súng, rồi kéo cánh cửa mở ra. Chiếc tủ trống rỗng. Một con chó lại chạy đến một cánh cửa khác, cào lên đó dữ dội.

“Cửa này dẫn đến đâu vậy?”

“Đến một phòng rửa ráy.”

Hai viên cảnh sát đứng thủ thế ở hai bên cánh cửa, rồi giật mạnh nó ra. Không ai bên trong đó cả.

Viên huấn luyện chó có vẻ bối rối: “Những con chó này không bao giờ hành động như vậy trước đây.” Hai con chó chạy cuồng loạn quay căn phòng. “Chúng đã đánh hơi được rồi. Nhưng hắn ta ở đâu kia chứ?”

Cả hai con chó chạy đến một ngăn kéo ở bàn viết của Kate và tiếp tục sủa.

“À, tôi hiểu ra rồi,” Kate cố cười lên thật to. “Hắn ta ở trong ngăn kéo của tôi đấy.”

Viên thanh tra Cominsky tỏ vẻ bối rối, “Tôi xin lỗi đã quấy rầy cô, thưa cô McGregor.” Rồi quay về phía viên huấn luyện, ông ta gắt lên, “Đem mấy con chó ra khỏi đây!”

“Ông không bỏ đi chứ?” Giọng Kate đượm vẻ lo ngại.

“Thưa cô McGregor, tôi có thể cam đoan với cô rằng cô hoàn toàn không gặp nguy hiểm gì cả. Người của tôi đã lục lọi từng ngõ ngách trong toà nhà này rồi. Tôi có thể đưa ra lời bảo đảm rằng tên ấy không có ở đây. Tôi e rằng đây chỉ là một vụ báo động hão thôi. Tôi xin lỗi cô.”

Kate nuốt nước bọt đánh ực một cái. “Chắc ông cũng biết ông đã làm một người đàn bà phải lo sợ đến thế nào vào buổi tối như thế này.”

Kate đứng ở cửa sổ nhìn ra, theo dõi cho đến khi chiếc xe hơi cuối cùng của cảnh sát đã đi ra. Khi họ đã biến mất hút, nàng mở ngăn kéo bàn viết, rút ra một đôi giày vải đẫm máu. Nàng mang nó xuống hành lang, đến một cánh cửa có ghi dòng chữ “Phòng riêng, chỉ dành cho nhân viên có thẩm quyền”, rồi nàng đi vào. Căn phòng này trống trơn, chỉ có một tủ sắt lớn, xây hẳn vào trong tường. Đó là hầm chứa kim cương của Công ty Kruger-Brent trước khi được chở xuống tàu. Kate quay các con số trên tủ sắt, rồi kéo cánh cửa đồ sộ ra. Hàng chục hộp sắt bằng kim khí được gắn hẳn vào các cạnh của hầm, tất cả đều chứa đầy kim cương. Ở ngay giữa hầm này, có một người gần như bất tỉnh nằm ngay trên sàn. Đó là Banda.

Kate quỳ xuống bên cạnh anh. “Bọn họ đi rồi”

Banda chậm rãi mở mắt ra, cố mở một nụ cười yếu ớt. “Nếu tôi có cách nào ra khỏi cái hầm này, cô có biết tôi sẽ giàu có đến như thế nào không, cô Kate?”

Kate đỡ Banda đứng dậy. Anh nhăn mặt lại đau đớn khi nàng sờ vào cánh tay anh. Nàng đã băng bó cho anh, nhưng máu vẫn rỉ ra qua lớp vải.

“Bác có đi giày lấy được không?” Chính nàng đã cởi đôi giày ấy ra cho anh trước đó, và để đánh lạc hướng các chó săn mà nàng biết thế nào cũng được đưa đến đây, nàng xỏ chân vào đôi giày ấy và đi lòng vòng trong văn phòng, rồi đem giấu chúng trong ngăn kéo.

Bây giờ, Kate nói, “Nào, chúng ta phải rời ngay đây.”

Banda lắc đầu nói, “Tôi sẽ đi một mình. Nếu họ bắt gặp cô giúp đỡ cho tôi thì chắc chắn sẽ có lôi thôi to.”

”Cứ để một mình tôi lo chuyện ấy.”

Banda đưa mắt nhìn một vòng xung quanh hầm.

“Bác có cần đem theo một it kim cương không? Xin bác cứ lấy tự nhiên.”

Banda nhìn vào mặt Kate, và nhận ra rằng cô đã nói nghiêm chỉnh. “Bố cô đã từng nói với tôi như vậy xưa kia.”

Kate cười ngượng nghịu, “Tôi biết”

“Tôi không cần tiền. Tôi chỉ cần phải rời khỏi thị trấn này một thời gian.”

“Bác nghĩ làm thế nào ra khỏi Johannesburg được?”

“Tôi sẽ tìm cách.”

“Nghe đây này. Cảnh sát đã chặn tất cả các ngả đường. Mọi nơi ra vào thành phố đều bị canh gác. Một mình bác không có cơ may nào đi lọt đâu.

Banda nói một cách bướng bỉnh, “Cô đã giúp tôi quá nhiều rồi.” Anh đã xỏ được đôi giày vào chân. Hình dáng anh trông thật là tiều tuỵ. Anh đứng ở đấy, mặc chiếc áo sơ mi và áo vét rách rưới đẫm máu. Mặt anh đầy sẹo, tóc bạc, nhưng khi Kate nhìn anh, nàng thấy anh vẫn là con người cao lớn, đẹp đẽ giống như nàng trông thấy anh lần đầu tiên, khi nàng còn là một đứa trẻ nhỏ.

“ Bác Banda ạ, nếu người ta bắt được bác, họ sẽ giết bác đấy,” Kate lặng lẽ nói, “Bác sẽ đi với tôi.”

Nàng biết nàng đã nói đúng về các nút chặn của cảnh sát. Mọi ngõ ra vào Johannesburg đều được canh gác kĩ bởi các toán tuần tra cảnh sát. Việc tóm bắt Banda được coi là ưu tiên hàng đầu và các nhà chức trách đã được lệnh đem anh ta về, dù là sống hay chết. Các nhà ga xe hoả và đường xá cũng đều được canh chừng.

“Tôi hi vọng rằng cô có một kế hoạch hay hơn là kế hoạch của bố cô xưa kia,” Banda nói. Giọng anh yếu hẳn. Kate tự hỏi không biết anh đã mất bao nhiêu máu.

“Bác đừng nói chuyện nữa. Hãy dành sức khoẻ lại. Để mọi thứ cho tôi lo liệu.” Giọng Kate có vẻ chắc chắn hơn sự tin tưởng của chính nàng. Mạng sống của Banda nằm trong tay nàng, và nàng không thể nào chịu đựng được, nếu có chuyện gì xảy ra với Banda. Một lần nữa, có lẽ đây là lần thứ một trăm, nàng ao ước rằng David đừng phải đi xa. Lúc này, nàng sẽ phải giải quyết mọi thứ mà không có sự giúp đỡ của David.

“Tôi sẽ đánh xe vòng đến lối đi.” Kate nói. “Bác chờ tôi độ mười phút rồi bác hãy đi ra ngoài. Tôi sẽ để mở cánh cửa sau của chiếc xe. Bác hãy lẻn vào xe, nằm ở dưới sàn. Sẽ có một tấm mền ở đó để bác phủ lên người.”

“Kate ạ, chúng nó lục lọi mọi chiếc xe hơi rời thành phố.”

“Chúng ta sẽ không đi bằng xe hơi, bác ạ. Sẽ có một chuyến tàu hoả đi Cape Town vào lúc tám giờ sáng. Tôi sẽ ra lệnh cho nối toa xe riêng của tôi vào đó.”

“Thế cô định đưa tôi ra khỏi nơi này bằng toa riêng của cô à?”

“Đúng vậy.”

Banda cố nở một nụ cười. “Những người trong họ McGregor của cô quả thực chỉ thích những chuyện hồi hộp, gay cấn!”

Ba mươi phút sau, Kate lái xe đến bãi xe hoả. Banda nằm trên sàn xe ở ghế sau, nấp dưới một tấm mền. Họ không gặp rắc rối gì khi đi qua các nút chặn trong thành phố, nhưng khi chiếc xe hơi của Kate đi vào trong bãi đậu xe hoả, bỗng có ánh đèn loé lên, Kate thấy rằng con đường đã bị ngăn chặn bởi nhiều cảnh sát viên. Một dáng người quen thuộc tiến đến gần chiếc xe hơi.

“Thanh tra Cominsky!”

Ông ta có vẻ ngạc nhiên. “Cô McGregor, cô định làm gì ở đây?”

Nàng nhìn ông ta, nở một nụ cười rất nhanh, có vẻ lo sợ, “Chắc ông sẽ cho tôi là một người đàn bà ngớ ngẩn, yếu đuối, ông thanh tra ạ, nhưng thú thật với ông, chuyện xảy ra vừa rồi ở văn phòng làm cho tôi sợ mất hồn vía. Tôi đã quyết định rời khỏi thành phố này cho đến khi nào các ông bắt được tên giết người các ông đang lùng kiếm ấy. Thế các ông đã bắt được hắn chưa?”

“Thưa cô, chưa ạ. Nhưng thế nào rồi cũng bắt được. Tôi có linh cảm rằng hắn sẽ đến bãi xe hoả này. Hắn có chạy đằng trời cũng không thoát được.”

“Tôi cũng hi vọng là như vậy.”

“Cô định đi đâu?”

“Toa xe riêng của tôi đang đậu ở đằng kia. Tôi sẽ dùng toa ấy để đi Cape Town .”

“Cô có cần một số người của tôi đi theo hộ tống không?”

“Ồ, cảm ơn ông thanh tra, nhưng điều đó không cần thiết lắm. Bây giờ tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều vì biết có ông và các nhân viên của ông ở đây.”

Năm phút sau, Kate và Banda đi vào chiếc toa xe an toàn. Nơi ấy tối đen như mực.

“Xin lỗi. Tôi không muốn đốt đèn lên.” Kate nói.

Nàng đỡ Banda lên giường nằm. “Bác sẽ ở đây an toàn cho đến sáng mai. Khi chúng ta bắt đầu khởi hành, bác sẽ nấp trong phòng tắm rửa.”

Banda gật đầu, “Cám ơn cô.”

Kate kéo các tấm che ở cửa sổ. “Bác có bác sĩ nào săn sóc bác khi chúng ta đến Cape Town hay không?”

Banda ngước mặt lên hỏi: “Chúng ta?”

“Bác nghĩ rằng tôi có thể để cho bác đi một mình hay sao? Như vậy thì còn gì là vui thú nữa?”

Banda ngả đầu về phía sau, cười lớn, “Thật đúng là cha nào con nấy!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách