Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 7047|Trả lời: 25
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Nam] Tony - Leung Chiu Wai- Lương Triều Vỹ (梁朝偉)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả


Tên thật: Lương Triều Vỹ - 梁朝偉
Tên phiên âm: Leung Chiu Wai
Biệt danh: "Little Tony"
Sinh nhật: 27/06/1962
Cung Hoàng Đạo: Cự Giải  
Nơi sinh: Hồng Kong ,Trung Quốc
Chiều cao: 1m71


Lương Triều Vĩ (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1962) tại Hồng Kông trong một gia đình không hạnh phúc, bố mẹ li dị, 15 tuổi anh bỏ học và trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Lương Triều Vĩ là nam diễn viên Hồng Kông nổi tiếng. Anh bắt đầu sự nghiệp với phim truyền hình và được mệnh danh là một trong "Ngũ hổ tướng" của TVB thập niên 1980 cùng Lưu Đức Hoa, Hoàng Nhật Hoa, Thang Chấn Nghiệp, Miêu Kiều Vỹ. Sau đó Lương Triều Vĩ chuyển sang điện ảnh và đạt được nhiều thành công.
Lương Triều Vĩ đã đoạt giải diễn viên nam xuất sắc nhất trong liên hoan phim Cannes 2000 và là người đang giữ kỉ lục với 5 lần đoạt giải thưởng điện ảnh Hồng Kông cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Anh cũng được chọn là Đại sứ của ngành giải trí Hồng Kông 2004.
Ở những nước dùng tiếng Anh người ta thường gọi anh với biệt danh là "Little Tony", còn Lương Gia Huy (Tony Leung Kar Fai) là "Big Tony" vì cả hai có tên tiếng Anh giống nhau (Tony Leung).




Truyền hình
Năm 1982, sau khi học lớp đào tạo diễn xuất của TVB qua sự giới thiệu của người bạn thân Chu Tinh Trì, Lương Triều Vĩ trở thành nhân vật chính của Máy xuyên thời gian 430, một chương trình ăn khách.

Năm 1984, Lương Triều Vĩ nổi tiếng với vai Vi Tiểu Bảo trong bộ phim truyền hình Lộc đỉnh kí dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Kim Dung. Năm 1985, cùng với Trương Mạn Ngọc và Quan Lễ Kiệt, anh thành công trong bộ phim Tân Trát sư huynh. Tiếp đó tiếp tục diễn xuất trong các phim truyền hình được nhiều người biết đến như Câu chuyện cảnh sát (1985), Ỷ thiên đồ long kí (1986), Hiệp khách hành (1986), Song hùng kì hiệp (1988)...

Điện ảnh



Lương Triều Vĩ được vinh danh tại Đại lộ Ngôi sao (Hồng Kông)

Năm 1989, Lương Triều Vĩ quyết định rời TVB để tìm kiếm thành công trong điện ảnh. Nhưng những vai diễn điện ảnh đầu tiên của anh không thành công, cuộc sống của anh rơi vào bế tắc. Thời gian đó anh có một mối tình với diễn viên Lưu Gia Linh.

Nhiều người cho rằng vai diễn của Lương Triều Vĩ trong bộ phim Lạt thủ thần tham năm 1992 của đạo diễn Ngô Vũ Sâm cùng với sự tham gia của Châu Nhuận Phát là bước đột phá đầu tiên trong sự nghiệp điện ảnh của anh. Tuy nhiên, bộ phim đầu tiên đưa tên tuổi của anh ra mắt với điện ảnh thế giới là phim năm 1989 của đạo diễn Hầu Hiếu Hiền - Bi tình thành thị, phim đã đoạt Giải Sư tử vàng.

Năm 1994, Lương Triều Vĩ thành công với bộ phim Trùng Khánh Sâm Lâm của đạo diễn Vương Gia Vệ. Vai diễn đã mang lại cho anh giải Kim Tượng đầu tiên. Năm 1995, anh tham gia phim Xích lô của đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng.

Năm 1997, anh diễn xuất trong Xuân quang xạ tiết của đạo Vương Gia Vệ cùng Trương Quốc Vinh. Bộ phim đã mang lại cho anh giải Kim Tượng lần thứ hai. Tiếp đó Lương Triều Vĩ còn tiếp tục hợp tác với Vương Gia Vệ trong nhiều phim khác.

Năm 2000, Lương Triều Vĩ diễn xuất cùng Trương Mạn Ngọc trong Tâm trạng khi yêu của Vương Gia Vệ. Bộ phim này rất thành công ở châu Âu và Lương Triều Vĩ đã giành được giải nam diễn viên xuất sắc nhất ở liên hoan phim Cannes 2000.

Lương Triều Vĩ tiếp tục là một trong diễn viên châu Á thành công nhất, anh hợp tác với nhiều đạo diễn nổi tiếng. Năm 2002 anh tham gia phim Anh hùng của Trương Nghệ Mưu. Cũng năm đó Lương Triều Vĩ đóng vai chính trong bộ phim ăn khách Vô gian đạo và năm 2003 anh tham gia phần 3 của bộ phim này.

Năm 2004, Lương Triều Vĩ tiếp tục thành công với vai nhà văn Chu trong phim 2046 của Vương Gia Vệ.

Đánh giá của giới chuyên môn

Lối diễn xuất của Lương Triều Vỹ được đánh giá rất cao ở thể loại phim nghệ thuật, vượt qua những tên tuổi hàng đầu của điện ảnh Hồng Kông như Lưu Đức Hoa, Thành Long và ngang hàng với huyền thoại Trương Quốc Vinh. Bằng chứng là hàng loạt giải thưởng cấp trong nước và quốc tế mà anh đoạt được.

Nhiều phim của Lương Triều Vỹ được xếp vào hàng kinh điển của điện ảnh Hoa ngữ như Bi tình thành thị, Trùng Khánh Sâm Lâm, Vô gian đạo, Đông Tà Tây Độc, Xuân quang xạ tiết, Tâm trạng khi yêu nằm trong top 100 phim hay nhất của điện ảnh Hoa ngữ. Các phim Tâm trạng khi yêu, Vô gian đạo, Bi tình thành thị, Anh hùng, Trùng Khánh Sâm Lâm, Lạt thủ thần tham đều đạt trên 8.00 điểm tại IMDb. Anh còn lập kỷ lục 5 lần đoạt Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông cho Vai nam chính xuất sắc nhất. Giải nam diễn viên xuất sắc nhất ở liên hoan phim Cannes 2000 trong phim Tâm trạng khi yêu. Giải Nam diễn viên xuất sắc nhất châu Á trong phim Sắc, Giới.

Nhiều nhà phê bình nghệ thuật coi Lương Triều Vỹ là một trong những diễn viên xuất sắc nhất trong số những diễn viên cùng thế hệ với anh. Robert De Niro, một thần tượng của anh đã gọi anh là Clark Gable của châu Á.

Đời sống tình cảm


Lương Triều Vĩ hẹn hò với Lưu Gia Linh từ cuối năm 1989, Anh biết cô qua phim The Replica năm 1984. Khi đó cô là bạn của Tăng Hoa Thiên, bạn gái trước của Lương Triều Vĩ. Lương Triều Vĩ diễn cùng Lưu Gia Linh trong các phim Replica (1984), Lộc Đỉnh Kí (1984), Cảnh sát mới ra trường (1984, 1985, 1988), Dương Gia Tướng (1985), A Phi Chính Truyện (1991), He ain't heavy, he's my father (1993), Đông Tà Tây Độc (1994), 2046 (2005). Họ kết hon vào năm 2008.

Giải thưởng và đề cử

Giải thưởng điện ảnh châu Á

2008 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Sắc, Giới) Liên hoan phim Cannes
2000 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Tâm trạng khi yêu) Giải thưởng điện ảnh Hồng Kông
2009 Đề cử giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Đại chiến Xích Bích)
2007 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Sắc, Giới)
2007 Đề cử giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Thương Thành)
2005 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim 2046)
2003 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Vô gian đạo)
2001 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Tâm trạng khi yêu)
1999 Đề cử giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Ám hoa)
1998 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Xuân quang xạ tiết)
1995 Nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Trùng Khánh Sâm Lâm)
1993 Đề cử giải nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (phim Lạt thủ thần tham)
1990 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (phim Sát thủ hồ điệp mộng)
1988 Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (phim Nhân dân anh hùng)
1987 Đề cử giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất (phim Địa hạ tình)

Những phim tham gia
Những bộ phim truyền hình nổi tiếng

1984: Lộc Đỉnh Kí vai Vi Tiểu Bảo
1984: Tân trác sư huynh - Police Cadet 84 vai Trương Vỹ Kiệt
1985: Tân trác sư huynh II - Police Cadet 85 vai Trương Vỹ Kiệt
1985: Dương gia tướng vai Dương Diên Tự (Dương Thất Lang)
1986: Ỷ Thiên Đồ Long Kí vai Trương Vô Kỵ
1987: Thuyết đường vai Cầu Nhiêm Khách
1988: Song hùng kì hiệp vai Tiểu Ngư Nhi
1989: Hiệp khách hành vai Thạch Phá Thiên và Thạch Trung Ngọc

Điện ảnh

1983:
Mad Mad 83
1985:
Đội cảnh sát trẻ
Fascinating Affairs
1986:
The Lunatics
Love Unto Wastes
1987:
People's Hero
Happy Go Lucky
1988:
Tôi yêu Maria
1989:
My Heart is that Eternal Love
Thành phố tình buồn
Seven Warriors
1990:
Điệp huyết đấu đường  Diễn viên khác: Trương Học Hữu
A Phi chính truyện
1991:
Royal Scoundrel
Don't Fool Me
Fantasy Romance
The Great Pretenders
Ngũ hổ tướng chi quyết liệt
Thiện nữ u hồn 3
Hào môn dạ yến
1992:
Hard Boiled
Lucky Encounter
The Days of Being Dumb
1993:
Lưu tinh Hồ điệp Kiếm
The Eagle Shooting Heroes
Tom, Dick And Hairy
Come Fly The Dragon
Three Summers
Hero-Beyond The Boundary of Time
End of The Road
The Magic Crane
Two of A Kind
He Ain't Heavy, He's My Father!
1994:
Always Be the Winners
Trùng Khánh Sâm Lâm
The Returning
Đông Tà Tây Độc
Đông Thành Tây Tựu
1995:
Mack the Knife
Heaven Can't Wait
Xích lô
Blind Romance
1996:
Giang hồ đại phong bạo
1997:
97 Aces Go Places
Hạnh phúc quanh đây
Chinese Midnight Express
1998:
The Longest Nite
Hoa Thượng Hải
Timeless Romance
Your Place or Mine
1999:
Gorgeous
2000:
Điệp vụ Tokyo
Tâm trạng khi yêu
Healing Hearts (Hiệp Cốt Nhân Tâm)
2001:
Lighting for love
Love Me, Love My Money
2002:
Only You
Vô gian đạo
Anh hùng (phim 2002)
Ngôi sao may mắn
2003:
Vô gian đạo 3
Sound of Colors
2004:
2046
Điệp vụ Seoul
2005:
Seoul Raiders
2006:
Thương thành
2007:
Sắc, Giới
2008:
Xích Bích đại chiến
2011:
The Great Magician
2012:
The Silent War
2013
The Grandmaster

Nguồn: Wikipedia
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2015 21:13:10 | Chỉ xem của tác giả
NHỮNG BỘ PHIM TRUYỀN HÌNH


1/ Lộc Đỉnh ký - 1984
Lộc Đỉnh ký là một bộ phim truyền hình võ hiệp dài 40 tập, do TVB Hồng Kông sản xuất năm 1984. Phim có nội dung dựa trên bộ tiểu thuyết Lộc Đỉnh ký của Kim Dung, do Lý Thiêm Thắng đứng tên giám chế, Trần Lệ Hoa đạo diễn.
Tập đầu: 09 tháng 7, 1984
Tập cuối: 31 tháng 8, 1984
Người tạo chương trình: Kim Dung
Thể loại: Võ hiệp
Diễn viên: Lương Triều Vĩ vai Vi Tiểu Bảo
Các ngôn ngữ: Tiếng Quảng Đông, Tiếng Hoa phổ thông



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2015 21:32:47 | Chỉ xem của tác giả
2/Tân trác sư huynh I - Police Cadet 84 sản xuất năm 1984
Tân trác sư huynh I là một bộ phim truyền hình hành động  dài 40 tập, do TVB Hồng Kông sản xuất năm 1984.
Lương Triều Vỹ vai Trương Vỹ Kiệt
Trương Mạn Ngọc – Tạ Dĩnh Chi
Lưu Gia Linh – Trương Gia Văn

Ca khúc chủ đề:










Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2015 21:38:11 | Chỉ xem của tác giả






Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2015 21:48:57 | Chỉ xem của tác giả
3/Tân trác sư huynh II - Police Cadet 85 sản xuất năm 1985
Tân trác sư huynh I là một bộ phim truyền hình hành động  dài 40 tập, do TVB Hồng Kông sản xuất năm 1985.
Lương Triều Vỹ vai Trương Vỹ Kiệt




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2015 18:44:49 | Chỉ xem của tác giả
Tony Lương Triều Vỹ/ “Tony nhỏ”.
Sinh tại Đài Sơn, Quảng Đông vào 27/06/1962.

Tony Lương Triều Vỹ đã trở thành một trong những gương mặt được nhận diện nhiều nhất trên ảnh đàn quốc tế khi phim của tác giả Vương Gia Vệ hiện diện ở hầu như mọi liên hoan phim quốc tế trên thế giới này và điều này đã đưa tên tuổi của Wai-Chai (hay còn gọi là “Jai”- tiếng Quảng Đông để chỉ cho “cậu nhóc nhỏ”) trở thành một diễn viên thường xuyên nhận về nhiều lời tán thưởng cho mỗi phim anh xuất hiện. Tôi thật sự tin tưởng rằng anh là 1 trong những nam diễn viên giỏi nhất thế giới.

Châu Nhuận Phát có thể tự hài lòng với sự nổi tiếng và tài năng được công nhận của mình, nhưng “Tony nhỏ” mới là người quét sạch các giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất đến 8 lần. Tính trong các bộ phim của Vương Gia Vệ, Wai Chai giành giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho bộ phim Trùng Khánh Sâm Lâm (Chungking Express) ở Hongkong và Đài Loan, Xuân Quang Xạ Tiết (Happy Together) ở Hongkong và Đài Loan (bộ phim này còn được đề cử ở Cannes), và Hoa Dạng Niên Hoa (In The Mood For Love) ở Hongkong và Cannes – anh là diễn viên người Hoa đầu tiên có thể giành được những thành tựu này.



Anh cảnh sát yếu lòng trong “Chungking Express” (1994) là cột mốc đánh dấu thành công lớn của Tony trên đường sự nghiệp sau nhiều năm chờ đợi Kim Tượng “Best Actor”



“Happy Together” (1997) khắc nên câu chuyện tình đẹp nhất trong lòng fan Vương Gia Vệ và cũng khiến Quốc Vinh – Triều Vỹ được công chúng Hàn Quốc vinh danh là đôi tình nhân đẹp nhất trên màn ảnh. Đồng thời phim mang lại cho anh giải “Best Actor” lần 2 tại HKFA (1998)



“In the mood for love” (2000) mang lại vinh quang cho điện ảnh Hong Kong tại Cannes, có thể xem là tác phẩm chín muồi nhất của Vương Gia Vệ.

Anh còn giành giải Diễn viên phụ xuất sắc nhất cho phim Sát Thủ Hồ Điệp Mộng (My Heart Is That Eternal Rose, Anh Hùng Nhân Dân (People’s Hero)



“Địa Hạ Tình” (1986) là bộ phim lần đầu tiên đưa anh đến với đề cử “Best Actor” tại HKFA (Hongkong Film Awards)



Tên cướp ngân hàng nghiệp dư liều lĩnh và nhút nhát trong “People’s Hero” (1987) mang về cho anh Kim Tượng đầu tay hạng mục “Best Supporting Actor”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2015 18:47:44 | Chỉ xem của tác giả


“Sát thủ hồ điệp mộng” mang lại “Best Supporting Actor” lần 2 cho anh tại HKFA (1990)

Được tạo hóa ưu ái cho nét đẹp trong trẻo như một cậu bé, Wai Chai khởi nghiệp truyền hình bằng cách nộp đơn vào lớp đào tạo TVB và chủ trì tiết mục trẻ em tên gọi “Tàu không gian 430” (430 Space Shuttle) – tương đương với Sesame Street ở đầu thập niên 80. “Tàu không gian 430” còn giới thiệu thêm 2 gương mặt nữa đến khán giả là Tăng Hoa Thiên (Margie Tsang) và Châu Tinh Trì (Stephen Chow). Trong 1 cuộc phỏng vấn, Châu Tinh Trì đã thổ lộ về những khó khăn xưa kia của anh và tâm sự rằng vẻ đẹp duyên dáng của Wai Chai đã giúp anh ấy dễ dàng thâm nhập vào làng giải trí Hongkong hơn anh. Thật ra, chính Châu Tinh Trì đã khuyến khích Tony ứng tuyển vào TVB năm 1982. Năm 1999, vua hài Châu Tinh Trì vẫn tự ngạo bản thân mình là “1 diễn viên quần chúng” (“ka leh feh” – 1 từ còn hạ thấp giá trị hơn cả “diễn viên phụ”), trong thực tế đầu thập niên 80, Châu hầu hết chỉ sở hữu những tuyến vai phụ trong những bộ phim vô danh và mờ nhạt mà có khi khá lắm anh mới có được hai câu thoại, trong khi Wai Chai đã diễu hành qua 1 loạt vai chính trong nhiều phim bộ.

Giữa thập niên 80, Tony đã vươn tới đỉnh cao tại TVB, anh được giao cho những vai diễn đáng yêu trong các bộ phim nhiều tập như Tân Trát Sư Huynh 84 (Police cadet’ 84), Lộc Đỉnh Ký (Duke of Mount Deer), Ỷ Thiên Đồ Long Ký (The Heaven Sword and The Dragon Sabre),…Tài nghệ của anh ở TVB khiến anh trở thành một cái tên chủ chốt, tạo nên một hiện tượng được yêu chuộng trong khắp các cộng đồng người Hoa trên toàn thế giới. Có lẽ không 1 đứa trẻ người Hoa nào thuộc thế hệ đó lại không có chút ký ức nào về vai diễn cậu nhóc Vỹ Kiệt trong Tân Trát Sư Huynh cũng như Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký. Như Thành Long (Jackie Chan) và Hồng Kim Bảo (Sammo Hung) là 1 phần tuổi thơ của cộng đồng người Hoa, Wai Chai cũng thế.


Trương Vô Kỵ là một thành công điển hình của anh ở thể loại võ hiệp kỳ tình

1 cuộc sống tốt đẹp, bạn nghĩ thế ư? Nhưng những năm tháng mà Tony đã trải qua không êm ả chút nào. Cha của anh là 1 tay nghiện rượu cờ bạc đã bỏ rơi gia đình – Tony, mẹ anh, và em gái anh. Ở tuổi 15, anh phải bỏ học và bắt đầu làm việc lặt vặt nhằm kiếm thêm thu nhập để đỡ đần gánh nặng tiền bạc cho 1 gia đình lao động vắng bóng người cha.

Tony vẫn là 1 trong những người đàn ông được khao khát nhất tại Hongkong, là mục tiêu săn đuổi ưa thích không ngừng của các tay paparazzi. Mối tình không ngừng tan-hợp giữa anh với Lưu Gia Linh (Carina Lau) đã kéo dài gần 13 năm.

Giới truyền thông thích áp dụng các học thuyết của Freud để lý giải tại sao Wai Chai chưa kết hôn, mặc dù anh từng trải qua khá nhiều mối quan hệ nghiêm túc, nhưng vẫn chưa tính đến chuyện kết hôn như họ.
Họ nói Wai Chai đã bị tổn thương, bị ảnh hưởng từ hình tượng người cha không kiên định đã bỏ mặc mẹ con anh. Chúng ta sẽ chẳng thể nào biết được liệu điều này có đúng hay không, trừ phi là đích thân anh nói ra. Tăng Hoa Thiên (Margie Tsang), Lê Mỹ Nhàn (Kitty Lai), Lưu Gia Linh,…họ đều là bạn gái 1 thời của anh. Tin đồn mới nhất là trong suốt quãng thời gian quay phim Anh Hùng (Hero), anh và Trương Mạn Ngọc (Maggie Cheung) đã khuấy động tâm trạng bị kiềm nén từ In The Mood For Love và cảm xúc họ dành cho nhau từ thời cộng tác ở TVB những năm 80.



Tân Trát Sư Huynh – thành công lớn tại bước khởi điểm của Triều Vỹ – Mạn Ngọc
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2015 18:51:00 | Chỉ xem của tác giả
Paparazzi thậm chí còn cho chúng tôi 1 tấm bản đồ lần theo dấu vết các tiệm ăn, khách sạn, và dấu xe đạp mà anh và Maggie đã ban vinh dự cho 1 thành phố ở Trung Quốc suốt thời gian quay phim.Báo chí thậm chí còn khẳng định rằng hôn nhân của Maggie với đạo diễn Pháp Oliver Assayas đang trên bờ vực thẳm vì Wai Chai. Uh huh.

Chỉ mới 39 tuổi, sự nghiệp của Tony đã trải dài 20 năm, bao gồm hơn 50 phim điện ảnh và 25 phim truyền hình TVB. Thật ra, tôi không có thời gian để đếm kỹ, điều đó cho thấy nền công nghiệp điện ảnh Hongkong hoạt động với năng suất hăng hái và cuồng nhiệt cỡ nào. Số lượng có thể không phản ánh chất lượng nhưng diễn xuất của Tony thường đạt tầm tốt nhất. Những nam nữ diễn viên khác có thể được nhắc đến về diện mạo lạ thường, những chuyện tình, chuyện phẫu thuật, gặp rắc rối với luật pháp, nghiện ngập, và bất cứ điều gì để được đăng báo, nhưng Tony có thể được nói đến 1 cách độc lập chỉ vì khả năng diễn xuất của anh.

Angelina Jolie có thể được gán là một nhân tài khi cô thủ vai 1 người mắc chứng loạn tinh thần, nhưng một người diễn viên Hongkong hạng trung bình đã từng đóng dạng vai ấy 100 lần và nhiều hơn thế trong phim điện ảnh và truyền hình, hàng loạt vai diễn đáng ngạc nhiên mà các diễn viên Hongkong đã kiến tạo nên thậm chí còn chẳng được quốc tế biết đến. So sánh Russell Crowe với 1 diễn viên HK điển hình, anh ấy ngay lập tức teo quắt lại thành quả mận khô cho xem.

Wai Chai cũng không ngoại lệ. Wai Chai đã đóng mỗi vai diễn từ những dạng nhân vật có thể hình dung được cho đến những mẫu người không thể hình dung ra: Người nghệ sĩ đồng giới, khó tính, ăn vận toàn màu hồng trong Gorgeous. Lại vai 1 người đồng tính nữa – bạn trai của nhân vật do Leslie Cheung (Trương Quốc Vinh) diễn, chất chứa đầy nỗi buồn, bị tình yêu xâu xát…thơ thẩn lang thang trên các con phố ở Argentina trong Happy Together. 1 gã Vi Tiểu Bảo (Wai Siu Bo) dốt đặc, thô bỉ và vui nhộn (nhân vật mà sau này Châu Tinh Trì đã thể hiện trong Royal Tramp 1&2), con trai của 1 kỹ nữ lầu xanh chỉ nhờ vận may và che đậy danh giá đã trở thành thượng quan tối cao của triều đình Mãn Thanh và là bạn thân nhất của hoàng đế do Andy Lau (Lưu Đức Hoa) diễn trong phim bộ Lộc Đỉnh Ký (The Duke of Mount Deer – 1984). Một tay cảnh sát chìm đầy lương tâm buộc phải giết người và phản lại ý nguyện của mình trong Hard-boiled. Đó chỉ là 1 vài họa tiết hiện về trong tôi khi nhắc đến Tony.


Tony thể hiện vai cảnh sát chìm với những mâu thuẫn xâu xé trong “Hard-boiled”

Không cần phải biện hộ gì về khả năng diễn xuất của anh. Tôi tin tài năng của anh đối với tất cả chúng ta được thể hiện tiêu biểu qua vai diễn trong phim In The Mood For Love. Nhân vật Châu của anh là một tay ký giả luôn ước ao được trở thành một nhà văn tiểu thuyết võ hiệp vào những năm 60. Đây là 1 người đàn ông mà đời sống tình cảm của anh chỉ có thể tìm được nơi để tỏ bày và tự do trong tiểu thuyết võ hiệp; sự nghiệp của anh ta, biểu tượng cho nghĩa vụ xã hội, cần tính khách quan và thông suốt của nghề báo. Trái tim anh ta thuộc về thế giới không-trọng-lực và đầy màu sắc tưởng tượng của các trang tiểu thuyết nghệ thuật đẹp, nhạy cảm. Nhưng thực tại của anh lại chỉ là một nhịp sống đều đều trong môi trường lao động nghèo, lại càng trầm trọng thêm khi cuộc hôn nhân của anh đang tan thành mây khói. Dù Tony có phải là 1 diễn viên diễn xuất theo phương pháp hay không, chắc chắn 1 điều rằng: phong cách kiềm chế cảm xúc của anh đặc biệt gợi nhớ về đức tính chịu đựng của người Hoa.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2015 18:55:01 | Chỉ xem của tác giả
Gương mặt của anh nói lên tất cả: Đó là 1 khuôn mặt điềm tĩnh và trầm lặng nhất che đậy sau đó là cả một biển lòng giông bão của trái tim anh và những niềm đau. Phong thái của anh mộc mạc bình dị trong khi lại có thể hoàn toàn truyền tải sức căng của 1 nội tâm đang phải kiềm nén cảm xúc và một mảnh tâm hồn không còn nguyên vẹn.
Tôi không có tài liệu ghi lại điều đó, nhưng tôi tin vai diễn của anh trong In The Mood For Love có thể là chân dung của Kim Dung, tiểu thuyết gia võ hiệp thập niên 60 (còn là một nhà báo) – người đã sáng tác nên rất nhiều tác phẩm khơi nguồn cảm hứng cho TVB sản xuất những phim bộ võ hiệp – Tony diễn vài bộ trong số ấy như Lộc Đỉnh Ký và Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Heaven Sword and Dragon Sabre). Nhân vật Châu hẳn là 1 vinh dự cho Tony và cho người Trung Hoa. Nhân vật trong In The Mood For Love đại diện cho 1 truyền thống mạnh mẽ của tiểu thuyết võ hiệp. Và làm thế nào nó lại là lối thoát duy nhất – nơi mà các lượng hữu cơ của trí tưởng tượng hư cấu tự do ngự trị trong nền văn hóa vốn nhấn mạnh chuẩn mực cư xử, theo đạo Khổng, và thoát khỏi con đường mà trái tim và lý trí mách bảo. Theo tôi thật mỉa mai khi cho rằng nhờ Tony đóng vai nhà sáng tạo của chính những vai diễn đã củng cố vị trí ban đầu của anh khiến anh trở thành nam diễn viên xuất sắc nhất mà Hongkong từng có.

Chỉ một vài lời của riêng tôi dành về Tony. Rất ít nam diễn viên nào trên thế giới có thể khiến khán giả mục kích rõ ràng nhất sự kết hợp giữa nét duyên dáng quyến rũ cực kỳ và thứ phẩm chất trầm mặc, ưu tư. Bất kể là đắm mình thỏa thích trong những tấn hài ngốc nghếch (như Đông Thành Tây Tựu “The Eagle Shooting Heroes” , A Phi và A Ký “Days of Being Dumb”), những chuyện tình bay bổng nhẹ nhàng hoặc luyến tiếc, hoài niệm nói chung (như Phong Trần Tam Hiệp “Tom, Dick and Hairy” và Tân Nan Huynh Nan Đệ “He Ain’t Heavy, He’s My Father”), chính kịch (thiên về dòng phim nghệ thuật hơn là thể loại “mê-lô”) hay phim hành động khốc liệt (các tác phẩm kiếm hiệp cũng như súng đạn đương thời). Anh mang đến nét tự nhiên đáng kinh ngạc cho từng vai diễn, hòa bản thân mình vào nhân vật và gần như luôn luôn trở thành tâm điểm của sự chú ý trong mắt khán giả. Bất cứ khi nào anh muốn gây sự chú ý với bạn, anh ta chỉ cần cho bạn một cái nhìn như chú cún con và thế là bạn đã bị mê hoặc. Bất kể là thể loại gì, vai nào hay thời đại nào, Tony đều có thể trông rất thoải mái và hòa trộn mình tan vào nhân vật đó.Trên chặng đường sự nghiệp rất dài, đầy đa dạng biến chuyển, và vượt khỏi biên giới Hongkong – Tony đã xuất hiện trong 2 phim của đạo diễn Đài Loan Hầu Hiếu Hiền (Hou Hsiao Hsien) và 1 phim Việt Nam cũng như rất nhiều tác phẩm Hongkong – theo tôi có vài vai diễn thật sự kiệt xuất – Anablela đã đề cập đến Happy Together và In The Mood For Love rồi, nhưng ở đây còn những những vai khác nữa.



Sát Thủ Hồ Điệp Mộng (My Heart is That Eternal Rose – 1988) – mặc dù đã có một sự nghiệp truyền hình vững chắc song đây mới là một trong những vai diễn đầu tiên đã thật sự đưa anh lên con đường trở thành ngôi sao điện ảnh. Dù nhận vai thứ chính bên cạnh Chung Chấn Đào (Kenny Bee), anh đã khéo gây chú ý với vai thuộc hạ canh gác trong băng đảng xã hội đen đã phải lòng nhân tình của ông chủ – Vương Tổ Hiền (Joey Wong).



Điệp Huyết Nhai Đầu (Bullet In The Head – 1990) – Tony hoàn toàn tỏa sáng trong tác phẩm kinh điển của Ngô Vũ Sâm (John Woo) khi nhân vật của anh cùng 2 người bạn trải qua chặng hành trình từ sự trong trắng thơ ngây thời tuổi trẻ đến hiện thực tàn nhẫn.
Lạt Thủ Thần Thám (Hard-boiled – 1992) – Dù trên lý thuyết Châu Nhuận Phát (Chow Yun Fat) là ngôi sao của phim, nhưng chính vai cảnh sát chìm với cá tính rắc rối, phức tạp của Tony mới là nhân tố thúc đẩy dòng xúc cảm cho phim.
Trùng Khánh Sâm Lâm (Chungking Express – 1994) – Sau khi bạn gái bỏ đi, nhân vật của Tony thành khẩn chuyện trò với thanh xà phòng và khăn mặt mà chẳng hề chú ý đến sự xâm nhập của Phi (Faye Wong) vào cuộc sống của anh mãi đến khi anh gần như đã quá muộn màng trong mối tình bất ngờ tuyệt vời này.



Đông Tà Tây Độc (Ashes of Time – 1994) – trong mê lộ của một bộ phim bí ẩn rối rắm khác thường này, nhân vật kiếm sĩ của Tony sắp mù lòa nhưng vẫn còn một trận đánh phía trước để về bên người yêu đã lay chuyển lòng người mạnh mẽ.



Xích Lô (Cyclo – 1996) – Tony xuất ngoại khỏi HK để tham diễn phim này của đạo diễn gốc Việt Trần Anh Hùng với vai gã trai phóng đãng không gặp thời ở đất Hà Nội. Gã là một kẻ hèn hạ nhưng tài hoa.

Ám Hoa (The Longest Nite – 1998) – trên những con đường đầy xã hội đen ở Macau, đó là 1 vai phản diện hiếm hoi của Tony, anh vào vai 1 tay cảnh sát bẩn thỉu đồi bại ấy thế mà vẫn giành được sự đồng cảm của chúng ta.

Đông Kinh Công Lược (Tokyo Raiders – 2000) – 1 Tony hoàn toàn duyên dáng, lịch sự và ngọt ngào khi vào vai một người đàn ông mang ô bí ẩn trong mảng phim hành động kỳ quái giống như Avengers này.

Ảnh: baidu, weibo, mtime.
https://tonyleungchiuwai.wordpre ... u-vỹ-_-tony-nhỏ
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2015 22:11:36 | Chỉ xem của tác giả


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách