Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Jonnny
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám] Một Phát Một Mạng | Lee Child (Hết)

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 00:18:55 | Chỉ xem của tác giả
Helen Rodin có mặt ở văn phòng cả ngày Chủ nhật. Cô ngồi ở bàn làm việc trả lời điện thoại. Bàn của cô là đồ mua lại, và nó nằm ngạo nghễ trong căn hộ hai phòng gần như trống rỗng, trong cùng tòa cao ốc kính đen có văn phòng của NBC ở lầu hai. Căn hộ được thuê với giá rẻ, qua một trong những chương trình trợ cấp kinh doanh mà thành phố tung ra như hoa giấy. Ý đồ của họ là huých một cú khởi động cho khu thương mại mới hồi sinh, và sau này sẽ bù lại bằng khoản thuế thật nặng.

Rosemary Barr không cần kể lại cho Helen Rodin về vụ việc vì mọi chuyện xảy ra ngay bên ngoài cửa sổ văn phòng mới của cô. Chính Helen cũng mục kích phần nào và sau đó cô theo dõi phần còn lại qua tin tức. Cô xem tất cả các buổi truyền hình có Ann Yanni. Cô nhận ra cô ta từ đại sảnh của tòa nhà và trong thang máy.

Rosemary Barr hỏi:

- Cô sẽ giúp anh tôi chứ?

Helen Rodin lặng yên giây lát. Câu trả lời khôn ngoan nên là "Không đời nào". Cô biết vậy. Kiểu như "Không đời nào, quên chuyện đó đi, chị điên đấy à?"

Có hai lý do. Thứ nhất là, cô biết một lúc nào đó việc va chạm nghiêm trọng với cha mình là không tránh được, nhưng cô có cần nó xảy ra đúng lúc này không? Thứ hai là, cô biết những vụ án đầu tiên của một luật sư mới ra lò sẽ quyết định sự nghiệp của người ấy. Những bước đi đầu tiên rồi sẽ vạch ra con đường xác định. Trở thành một luật sư biện hộ cho những vụ tất cả đồng loạt bó tay cũng có cái hay, cô kết luận vậy sau khi cân nhắc mọi nhẽ. Nhưng khởi đầu bằng một vụ đã khiến cả thành phố phẫn nộ thì sẽ là một tai họa ma-ket-tinh thực sự.

Vụ bắn giết này không được coi là một tội phạm. Mà là một tội ác phản nhân loại. Chống lại loài người, chống lại cả cộng đồng, chống lại nỗ lực làm hồi sinh khu trung tâm, chống lại toàn bộ quan niệm về bản sắc Indiana. Cứ như là Los Angeles hay New York hay Baltimore đã dời đến miệt trong, và đóng vai kẻ cố gắng xin tha lỗi hay giải thích vụ này sẽ là một sai lầm chí mạng. Như là dấu tích của Cain [7]. Nó sẽ theo đuổi cô suốt phần đời còn lại.

Rosemary Barr hỏi:

- Chúng ta có thể kiện nhà tù không? Vì đã để cho anh ấy bị thương?

Helen Rodin lại lặng yên. Thêm một lý do để từ chối. Một thân chủ không thực tế. Cô nói:

- Có lẽ để về sau. Lúc này anh ấy đứng nguyên đơn sẽ không được nhiều ủng hộ đâu. Và khó mà chứng minh được điều đó là có hại, vì đằng nào thì anh ấy cũng sắp bị tử hình.

Rosemary nói:

- Vậy tôi không thể trả cô nhiều được. Tôi không có tiền.

Helen lặng yên lần thứ ba. Thêm một lý do chính đáng nữa để từ chối. Sự nghiệp của cô vừa bắt đầu, tính chuyện làm từ thiện lúc này còn hơi sớm.

Nhưng... Nhưng... Nhưng...

Bị cáo có quyền có người đại diện cho mình. Đạo luật về Nhân quyền [8] đã nói thế. Và anh ta vẫn vô tội cho tới khi bị chứng minh là phạm tội. Và nếu chứng cứ khó cãi như là cha cô đã nói, thì toàn bộ chuyện này chẳng qua sẽ chỉ là một quy trình giám sát. Cô sẽ tự mình kiểm định lại vụ án để xác định anh ta có tội. Rồi cô sẽ khuyên anh ta nhận tội. Rồi cô sẽ trông theo lưng của anh ta khi cha cô đút anh ta qua guồng máy. Thế là xong.

Có thể xem như là việc thực hiện bổn phận một cách trung thực. Một thủ tục hiến pháp nhàm chán. Cô hy vọng thế. Cô nói:

- Tôi chấp nhận.

Rosemary Barr nói:

- Anh ấy vô tội. Tôi cam đoan mà.

Helen Rodin nghĩ, họ luôn cam đoan vậy. Cô lặp lại, "OK". Rồi cô yêu cầu thân chủ mới của mình đến gặp cô lúc bảy giờ sáng mai. Điều này như là một phép thử. Một cô em thật sự tin vào sự vô tội của anh mình thì sẽ có mặt bất chấp giờ hẹn sớm.

Rosemary Barr đến rất đúng hẹn, lúc bảy giờ sáng thứ Hai. Franklin cũng có mặt ở đó. Ông tin tưởng Helen Rodin và sẵn sàng đổi chủ thanh toán các hóa đơn của mình cho tới khi thấy được gió thổi theo chiều nào.

Helen Rodin đã có mặt tại bàn giấy cả giờ rồi. Cô đã thông báo cho David Chapman về sự thay đổi luật sư đại diện vào chiều ngày Chủ nhật và đã lấy được cuốn băng ghi âm cuộc phỏng vấn James Barr ban đầu của ông. Chapman rất mừng được đưa nó cho cô và phủi tay khỏi vụ này. Cô đã nghe đi nghe lại cuốn băng cả chục lần trong tối Chủ nhật và thêm một chục lần nữa vào sáng hôm đó. Nó là tất cả những gì có thể lấy được. Thế nên cô nghe thật kỹ và đã rút được từ nó một vài kết luận sơ bộ. Cô nói:

- Nghe đây.

Cô đã chuẩn bị cuốn băng sẵn sàng trong một chiếc máy kiểu cũ bằng cỡ chiếc hộp đựng giày. Cô bấm nút Play và mọi người nghe tiếng lẹt xẹt, tiếng thở và những tiếng động trong phòng, rồi giọng nói của David Chapman: "Tôi không thể giúp anh nếu anh không tự giúp chính mình". Có một khoảng dừng khá dài, đầy tiếng lẹt xẹt, và rồi James Barr nói: "Họ bắt lầm người rồi. Họ bắt lầm người rồi!", gã lặp lại. Rồi Helen nhìn những con số đo băng và bấm cho cuộn băng chạy tới đoạn Chapman nói: "Chối tội không phải là một chọn lựa". Rồi giọng của Barr bật lên: "Tìm Jack Reacher cho tôi". Helen bấm đến câu hỏi của Chapman: "Đó là một bác sĩ?" Rồi cuộn băng không còn ghi lại gì nữa ngoài tiếng của Barr đập vào cánh cửa phòng thẩm vấn.

Helen nói:

- OK, tôi nghĩ anh ta thật sự tin rằng mình không làm vụ này. Anh ta cả quyết điều đó, rồi nổi giận và cắt ngang cuộc thẩm vấn khi Chapman không nghiêm túc ghi nhận lời anh nói. Rất rõ ràng, phải không nào?

Rosemary Barr trả lời:

- Anh ấy không làm vụ đó.

Helen Rodin nói tiếp:

- Tôi đã nói chuyện với cha tôi hôm qua. Chứng cứ đầy cả ra đó, Barr à. Tôi e rằng anh ta quả đã làm vụ đó thật. Chị cần phải thừa nhận rằng, có khi em gái vẫn không hiểu được anh mình nhiều như mong muốn. Hay nếu đã hiểu, thì anh ta cũng đã thay đổi tính tình vì những lý do nào đó.

Mọi người im lặng một lúc lâu. Rosemary hỏi lại:

- Cha chị có nói thật với chị về những chứng cứ không?

Helen đáp:

- Ông ấy không thể không nói thật. Thế nào thì chúng ta cũng sẽ biết hết thôi. Còn có quá trình khám phá nữa. Chúng tôi sẽ lấy lời khai. Có lừa dối về điểm này cũng chẳng ích gì.

Không ai nói gì.

Helen nói giữa lúc tất cả im lặng:

- Nhưng chúng tôi vẫn có thể giúp anh của chị. Anh ta tin rằng mình không phạm tội. Tôi tin chắc điều đó sau khi nghe cuốn băng. Do đó, bây giờ anh ta bị chứng ảo giác. Hay ít ra thì cũng bị ảo giác vào hôm thứ Bảy. Vậy có lẽ anh ta cũng bị trong ngày thứ Sáu luôn.

Rosemary hỏi:

- Thế thì giúp được anh ấy ở chỗ nào? Vẫn là thừa nhận là anh ấy làm cơ mà.

- Những hệ quả sẽ rất khác biệt. Nếu anh ta hồi phục. Thời gian và việc chữa trị trong một bệnh viện vẫn sẽ tốt hơn nhiều so với thời gian và không chữa trị gì cả trong một nhà tù được canh gác cực kỳ nghiêm ngặt.

- Chị muốn người ta xác nhận James bị tâm thần?

Helen gật đầu.

- Lời biện hộ vì lý do sức khỏe là khả năng mạnh nhất của chúng ta. Và nếu chúng ta đưa ra điều đó đúng vào lúc này, thì nó có thể cải thiện cách họ đối xử với anh ta trước phiên tòa.

- Anh ấy có thể chết. Bác sĩ nói như vậy. Tôi không muốn anh ấy chết mà vẫn mang tiếng tội phạm. Tôi muốn thanh danh của anh ấy được trong sạch.

- Anh ta chưa bị kết án. Anh ta chưa bị buộc tội. Anh ta vẫn là một người vô tội trước pháp luật.

- Nhưng hai điều đó đâu có giống nhau.

Helen nói tiếp:

- Có lẽ không giống thật.

Thêm một khoảng im lặng dài nữa. Helen nói:

- Chúng ta hãy gặp lại ở đây vào lúc mười giờ ba mươi. Chúng ta sẽ thảo ra một chiến lược. Nếu chúng ta nhắm tới chuyện đổi viện, thì chúng ta nên tiến hành càng sớm càng tốt.

Rosemary Barr nói:

- Chúng ta cần tìm cho ra nhân vật Jack Reacher này.

Helen gật đầu:

- Tôi đã cho Emerson và cha tôi biết cái tên này.

- Tại sao?

- Bởi vì người của Emerson đã lục soát nhà anh của chị. Biết đâu họ đã tìm thấy một địa chỉ hay một số điện thoại. Và cha tôi cần phải biết vì chúng ta muốn người này có tên trong danh sách nhân chứng của mình, chứ không phải là danh sách của công tố viên. Bởi vì ông ta có thể giúp cho chúng ta.

- Ông ta có thể là một bằng chứng ngoại phạm.

- Khá nhất cũng chỉ có thể là một đồng đội cũ.

Franklin nói:

- Tôi không thấy làm sao lại thế được. Họ khác cấp bậc và khác ngành.

Rosemary Barr nói:

- Chúng ta cần phải tìm cho ra người này. James đã yêu cầu ông ta, phải không nào? Điều này phải có nguyên do nào đó.

Helen lại gật đầu.

- Chắc chắn là tôi muốn tìm ra ông ta. Ông ta có thể cho chúng ta biết điều gì đó. Có thể là một thông tin để bào chữa. Hay ít ra thì ông ta có thể chỉ cho ta điều gì đó có ích.

Franklin nói:

- Ông ta hoàn toàn mất tích rồi.

Nhưng ông ta chỉ cách đó có hai giờ đồng hồ, ngồi phía cuối một chiếc xe buýt vừa ra khỏi Indianapolis. Chuyến đi chậm, nhưng cũng thú vị. Ông qua đêm thứ Bảy ở New Orleans, trong một nhà trọ gần trạm xe buýt. Ông qua đêm Chủ nhật ở Indianapolis. Vậy nên ông đã ngủ, ăn và tắm rửa. Nhưng phần lớn thời gian ông lắc lư gà gật trên các chuyến xe, ngắm cảnh vật bên đường, quan sát cảnh hỗn độn của nước Mỹ, và trôi theo hồi tưởng về người đàn bà Na Uy.

Cuộc đời của ông là như vậy. Nó là một bức tranh màu, khảm từ những mảnh vỡ. Những chi tiết và bối cảnh sẽ phai nhòa đi và tái hiện lại không còn chính xác, nhưng những cảm nhận và kinh nghiệm sẽ đan kết lại theo thời gian thành một tấm thảm đầy những lúc vui buồn lẫn lộn bằng nhau.

Ông chưa biết chính xác người đàn bà Na Uy sẽ rơi xuống đâu. Lúc đó ông nghĩ về cô như một cơ hội bị bỏ lỡ. Nhưng dù thế nào đi nữa chắc hẳn cô cũng sẽ giong buồm ra đi sớm thôi. Hoặc ông sẽ đi. Sự can thiệp của CNN đã làm cho mọi chuyện rút ngắn lại, nhưng có lẽ chỉ một phần nhỏ thôi.

Chú thích:
[7] : Cain: kẻ giết em trai mình trong Thánh kinh; Thượng đế đóng dấu lên người Cain để hắn đi đến đâu người khác cũng sẽ nhận biết.
[8] : Đạo luật nhân quyền (Bill of Right): tên gọi mười điều bổ sung đầu tiên vào hiến pháp Mỹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 07:53:22 | Chỉ xem của tác giả
Xe buýt đang chạy với tốc độ 55 dặm một giờ trên xa lộ 37, hướng về Nam. Nó dừng lại ở Bloomington. Sáu người xuống xe. Một người trong số họ để lại tờ báo của Indianapolis. Reacher nhặt tờ báo lên xem phần tin thể thao. Đội Yankees vẫn dẫn đầu ở miền Đông. Rồi ông giở sang trang nhất xem tin tức.

Ông thấy dòng tựa đề: "Nghi can bắn tỉa bị thương trong một cuộc tấn công trong nhà giam". Ông đọc ba đoạn đầu: "Chấn thương sọ não. Hôn mê. Chẩn đoán không cho kết quả chắc chắn." Tay nhà báo dường như nghiêng ngả giữa phê phán Ủy ban trừng giới của Indiana về những nhà giam không có luật lệ gì cả và hoan hô những kẻ tấn công Barr đã thực hiện nghĩa vụ công dân của họ. Reacher nghĩ, cái này chỉ làm rắc rối thêm.

Những đoạn sau lặp lại câu chuyện ban đầu, bổ sung thêm những thông tin bên lề vừa cập nhật, thêm những dữ kiện mới. Reacher đọc hết. Em gái của Barr đã dọn ra khỏi nhà hắn vài tháng trước sự việc này. Tay nhà báo có vẻ cho rằng điều đó đã gây ra, hoặc là hậu quả của tình trạng rối loạn hiển nhiên của Barr. Hay là cả hai.

Chiếc xe buýt rời khỏi Bloomington. Reacher xếp tờ báo lại và tì đầu vào cửa kính nhìn con đường. Nó giống như một dải băng đen, ướt đẫm do trận mưa vừa qua, và trải ra bên cạnh ông với đường phân cách, nháng lên như một bản tin khẩn đánh bằng mã morse. Reacher không rõ bản tin nói gì với mình. Ông không đọc ra nó.

Chiếc xe buýt chạy vào một trạm dừng có mái che, Reacher bước ra ngoài ánh nắng và nhìn thấy cách mình năm khối phố về hướng Đông, có một xa lộ treo lượn vòng phía sau một tòa nhà bằng đá cũ kỹ. Ông đoán là nó bằng loại đá vôi của Indiana. Đồ xịn ấy. Nó chắc là một ngân hàng, ông nghĩ, hay một tòa án, hay có lẽ là một thư viện. Có một tòa cao ốc ốp kính màu đen đằng sau nó. Không khí không tệ. Lạnh hơn ở Miami nhưng ông còn ở khá xa về phía Nam, đủ để thấy mùa đông còn lâu mới tới.

Ông sẽ không cần thay toàn bộ tủ áo cho hợp với thời tiết. Ông đang mặc một chiếc quần rộng bằng vải bông màu trắng và một áo sơ mi vải thô màu vàng sáng. Cả hai đều mới mua được ba ngày. Ông tính sẽ mặc chúng được thêm một ngày nữa. Rồi sẽ mua đồ khác, đồ rẻ tiền thôi. Ông mang một đôi giày thuyền màu nâu. Không xỏ tất. Ông thấy mình ăn mặc như để đi dạo trên bãi biển và nghĩ mình hẳn có vẻ lạc điệu trong thành phố.

Ông xem đồng hồ. Chín giờ hai mươi sáng. Ông đứng ở vỉa hè trong những luồng hơi khói dầu diesel, vươn vai và nhìn quanh quất. Thành phố này nằm trong số những thành phố miệt trong điển hình, không lớn cũng không nhỏ, không mới cũng không cũ. Nó không nở rộ mà cũng chẳng suy tàn. Chắc hẳn cũng có một lịch sử nào đó. Chắc hẳn từng có buôn bán ngô và đậu nành. Có thể là thuốc lá. Có thể gia súc. Chắc hẳn có một con sông, hay một đường xe lửa. Chắc có chút công nghiệp lắp ráp nữa.

Có một khu thương mại nhỏ. Ông có thể thấy nó nằm trước mặt, về phía Đông của nơi ông đang đứng. Những tòa nhà cao hơn, một số bằng đá, một số bằng gạch, vài bảng quảng cáo. Ông đoán tòa cao ốc kính đen là tòa nhà chính trong khu vực. Chẳng ai đi xây nó ở một nơi nào khác ngoài tâm điểm của khu thương mại. Ông bước về phía nó. Cảnh xây dựng đang diễn ra khắp nơi. Sửa sang, làm mới, những lỗ hổng trên đường, những đống đá sỏi, bê tông mới, những chiếc xe tải nặng nề chậm chạp di chuyển.

Ông băng qua trước mặt một công trường thì đụng phải một nhánh đường nhỏ và thoát ra khỏi đó, dọc theo sườn phía Bắc của phần bãi đậu xe đang xây mới dở dang. Ông nhớ lại bản tin nóng của Ann Yanni và ngước nhìn nó, rồi chuyển ánh mắt sang một quảng trường công cộng. Một cái hồ cảnh cạn nước với một cột phun nước đơn độc nhô lên giữa hồ. Một lối đi hẹp nằm giữa cái hồ và bức tường thấp.

Lối đi đầy những vật tưởng niệm làm vội. Có cả hoa, cuống được bọc trong giấy bạc. Những tấm ảnh trong khung kính, những con thú nhồi bông nhỏ, và nến. Bụi bốc lên từ chỗ cát còn lại. Cát này để thấm hết máu đi, ông đoán vậy. Những xe cứu hỏa chở những thùng cát đến nơi có tai nạn và các hiện trường tội ác. Và những cái xẻng bằng thép không gỉ để xúc đi những bộ phận cơ thể. Ông liếc nhìn lại bãi đậu xe. Chưa tới ba mươi lăm thước ông nghĩ. Rất gần.

Ông đứng yên. Quảng trường im ắng. Cả thành phố yên lặng. Thành phố đang choáng váng, như một cánh tay bị tê dại tạm thời sau một cú đấm cực mạnh. Quảng trường là tâm chấn. Nó là nơi cú đấm giáng xuống. Nó như là một lỗ đen, xúc cảm được nén vào quá chặt không thể thoát ra.

Ông bước tiếp. Tòa nhà cũ bằng đá là một thư viện. Ông nghĩ, cũng không sao, thủ thư là những người dễ thương. Họ sẵn sàng trả lời, nếu bạn chịu hỏi. Ông hỏi văn phòng công tố ở đâu. Một phụ nữ có vẻ mặt buồn và nhút nhát ngồi ở quầy giao trả sách chỉ đường cho ông. Không xa lắm. Đây không phải là một thành phố lớn.

Ông đi về hướng Đông qua một tòa nhà mới có bảng Sở Đăng kiểm và một phòng tuyển quân. Phía sau nó là một khối phố gồm những cửa hàng bình dân rồi đến một tòa nhà mới xây làm tòa án. Nó là một tòa nhà mái bằng theo kiểu thiết kế hàng loạt với những cánh cửa gỗ gụ và kính chạm trổ. Nó giống như là ngôi nhà thờ thuộc một giáo phái quái gở nào đó, có một đám giáo dân bụng dạ rộng rãi nhưng túi lại không tiền.

Ông tránh lối vào chính. Ông đi vòng quanh khối nhà cho tới khi đến khu văn phòng. Ông thấy một cánh cửa có bảng Phòng công tố quận. Bên dưới nó là một tấm bảng đồng khác có tên của Rodin. Ông nghĩ, một viên chức được bầu. Người ta dùng tấm bảng riêng cho đỡ tốn kém vì cứ sau vài tháng Mười một lại đổi người. Tên của Rodin viết tắt là A.A. Ông ta có bằng luật.

Reacher đi qua cửa và hỏi chuyện nhân viên tiếp tân ở bàn. Xin gặp đích danh A.A Rodin.

- Về chuyện gì vậy? - Bà tiếp tân hỏi, khẽ khàng nhưng lịch sự.

Bà trạc trung niên, biết chăm sóc bản thân, ăn mặc đẹp, mặc một chiếc áo khoác ngoài màu trắng sạch. Bà có vẻ như là người cả đời làm việc ở bàn giấy. Một viên chức lành nghề. Nhưng khá căng thẳng. Trông bà như thể gánh trên vai mình tất cả những rắc rối mới đây của cả thành phố. Reacher nói:

- Về James Barr.

Bà lễ tân hỏi:

- Ông là phóng viên à?

Reacher đáp:

- Không.

- Tôi có thể báo với văn phòng ông Rodin ông liên hệ ra sao với vụ án không?

- Tôi quen James Barr khi còn trong quân đội.

- Việc đó hẳn cũng lâu lâu rồi.

Reacher đáp:

- Lâu lắm rồi.

- Xin ông cho biết quý danh?

- Jack Reacher.

Bà lễ tân quay điện thoại và nói chuyện. Reacher đoán bà đang nói chuyện với người thư ký, bởi vì cả ông và Rodin đều được nhắc đến bằng ngôi thứ ba, như những sự vật trừu tượng. Ông ấy có thể tiếp một ông tên là Reacher về vụ đó không? Không phải là vụ Barr. Mà là vụ đó. Khác hẳn với một số văn phòng công tố viên mà Reacher từng biết. Cuộc trò chuyện tiếp diễn. Rồi bà lễ tân che ống nghe lại bằng cách áp nó sát vào ngực, bên dưới xương cổ, trên ngực trái. Bà hỏi:

- Ông có thông tin à?

Reacher nghĩ: "Người thư ký trên lầu có thể nghe được tiếng tim bà đập đấy." Ông trả lời:

- Vâng! Thông tin.

Bà hỏi:

- Từ trong quân đội?

Reacher gật đầu. Bà tiếp tân lại áp điện thoại lên tai và tiếp tục nói chuyện. Câu chuyện kéo dài khá lâu. Ông A.A. Rodin có hai người gác cổng cần mẫn. Điều đó thật rõ ràng. Không có cách nào qua mặt họ mà không có một lý do khẩn cấp và chính đáng. Điều đó cũng thật rõ ràng.

Reacher xem đồng hồ. Chín giờ bốn mươi sáng. Nhưng không phải vội nếu xét hoàn cảnh hiện thời. Barr đang hôn mê. Ngày mai cũng được. Hay ngày mốt. Hay nếu cần ông có thể tìm đến Rodin qua tay cảnh sát. Ông ta tên gì nhỉ? Emerson?

Bà tiếp tân gác máy. Bà nói:

- Xin đi thẳng lên. Ông Rodin ở tầng ba.

Reacher nghĩ: "Vinh dự cho tôi quá!". Bà nhân viên tiếp tân ghi tên của ông lên tấm thẻ vào cửa dành cho khách và luồn nó vào một chiếc vỏ plastic. Ông kẹp nó lên áo và đi tới chỗ thang máy. Lên tầng ba.

Tầng ba có trần nhà thấp, và hành lang bên trong được thắp sáng bằng đèn huỳnh quang. Có ba cánh cửa bằng ván ép phủ sơn đang đóng và một cánh cửa đôi bằng gỗ đánh bóng đang để mở. Đằng sau là một người thư ký ngồi ở bàn. Người gác cửa thứ hai đây. Cô ta trẻ hơn người phụ nữ dưới kia nhưng có lẽ là cao cấp hơn. Cô hỏi:

- Ông Reacher?

Ông gật đầu, cô rời khỏi bàn và đưa ông đến chỗ những văn phòng có cửa sổ. Trên cánh cửa thứ ba mà họ đến có ghi A.A. Rodin. Reacher hỏi:

- Chữ A.A. có nghĩa là gì vậy?

Cô thư ký đáp: Tôi tin rằng ông Rodin sẽ cho ông biết nếu ông ấy muốn.

Cô gõ cửa và Reacher nghe một giọng nam trung vọng ra từ bên trong. Rồi cô mở cửa và đứng tránh cho Reacher bước vào. Ông nói:

- Cám ơn.

Cô trả lời:

- Không có chi.

Reacher bước vào. Rodin đã đứng lên từ sau bàn, sẵn sàng chào đón khách, đầy vẻ lịch lãm.

Reacher nhận ra người trên tivi. Ông ta là một người trạc năm mươi, gầy vừa phải, thon thả vừa phải, tóc hoa râm cắt cao. Nhìn người thật thì ông nhỏ con hơn trên tivi. Có lẽ ông bớt một phân thì vừa mét tám và thiếu hai lạng đầy chín mươi cân. Ông mặc bộ vest mùa hè màu xanh sậm. Áo sơ mi xanh dương, và cà vạt cũng xanh dương. Mắt ông xanh dương. Không nghi ngờ gì nữa, xanh dương là màu của ông.

Ông cạo râu thật kỹ và dùng nước hoa. Ông là người rất ưa trật tự, chắc chắn là vậy. Reacher nghĩ, ngược hẳn với mình. Như là một nghiên cứu về những đối lập. Đặt kế bên Rodin thì Reacher là một người khổng lồ ăn mặc cẩu thả. Ông cao hơn cả cái đầu và nặng hơn khoảng trên hai mươi ký. Tóc của ông dài hơn năm phân và trang phục thì rẻ hơn cả nghìn đô la.

Rodin hỏi:

- Ông là Reacher?

Reacher gật đầu. Văn phòng theo tiêu chuẩn căn bản của chính phủ, nhưng rất gọn gàng. Mát mẻ và yên tĩnh. Nhìn từ cửa sổ không có cảnh đẹp. Chỉ là những mái nhà phẳng của những cửa hàng bình dân và văn phòng của Sở Đăng kiểm, bày ra mọi thứ ống dẫn. Có thể nhìn thấy tòa cao ốc kính đen cách đó một quãng.

Mặt trời tỏa sáng yếu ớt trên bầu trời. Vuông góc với cửa sổ là một bức tường trưng chiến tích nằm sau cái bàn, đặt những bằng cấp và hình Rodin chụp chung với các chính trị gia. Có đầu đề các bài báo thuật lại những lời phán quyết trong bảy vụ án khác nhau được đóng khung. Trên một bức tường là tấm hình của một cô gái tóc vàng đội chiếc mũ cử nhân và áo thụng, tay cầm tờ bằng tốt nghiệp cuộn tròn. Cô gái rất xinh. Reacher nhìn cô một thoáng lâu hơn cần thiết.

Rodin nói:

- Đó là con gái tôi. Nó cũng là luật sư.

Reacher nói:

- Vậy à?

- Nó vừa mở văn phòng riêng dưới phố.

Giọng ông ta không bày tỏ điều gì. Reacher không biết ông ta hãnh diện hay không tán thành. Rodin nói:

- Tôi nghĩ hẳn ông sắp gặp nó.

Reacher hỏi:

- Tôi à? Vì sao?

- Vì nó nhận biện hộ cho James Barr.

- Con gái của ông? Như thế có đúng nguyên tắc không?

- Không có luật nào chống lại điều đó. Nó có thể không hợp lý cho lắm, nhưng không trái nguyên tắc.

Ông nhấn mạnh chữ hợp lý với nhiều hàm nghĩa. Thật là không khôn ngoan khi biện hộ cho một vụ án tai tiếng như thế, không khôn ngoan khi con gái chống lại cha của mình, không khôn ngoan khi bất cứ ai chống lại A.A. Rodin. Ông ta có vẻ là một kẻ rất thích ganh đua. Ông nói:

- Nó đưa tên ông vào danh sách nhân chứng tạm thời của mình.

- Tại sao?

- Vì nghĩ rằng ông có thông tin.

- Cô ấy lấy tên tôi ở đâu ra?

- Tôi không biết.

- Từ Lầu năm góc chăng?

Rodin nhún vai.

- Tôi không biết chắc. Nhưng nó đã có được cái tên. Vì thế người ta đang tìm anh đấy.

- Có phải vì thế tôi mới được vào đây không?

Rodin gật đầu.

- Vâng, đúng vậy. Chính xác vì thế. Thông thường tôi không ưu ái những vị khách không mời.

- Nhân viên của ông có vẻ theo nội quy đó rất nghiêm.

Rodin nói:

- Tất nhiên tôi hy vọng điều đó. Xin mời ngồi.

Reacher ngồi xuống chiếc ghế dành cho khách và Rodin ngồi phía sau bàn. Cửa sổ nằm bên tay trái của Reacher và tay phải của Rodin. Không ai bị nắng chiếu vào mắt. Đó là một cách sắp đặt nội thất khá công bằng. Khác hẳn với một số văn phòng công tố viên mà Reacher từng biết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 08:21:35 | Chỉ xem của tác giả
Rodin hỏi:

- Ông uống chút cà phê không?

Reacher đáp:

- Vâng.

Rodin gọi cà phê qua điện thoại. Ông nói:

- Tất nhiên là tôi muốn biết vì sao anh đến đây gặp tôi trước. Ý tôi là gặp bên buộc tội thay vì bên bào chữa.

Reacher đáp:

- Tôi muốn nghe ý kiến của cá nhân ông.

- Về điều gì?

- Về việc những lý lẽ buộc tội James Barr của ông vững mạnh tới mức nào.

Rodin không trả lời ngay. Một khoảng thời gian im lặng ngắn ngủi, rồi có tiếng gõ cửa và cô thư ký mang cà phê vào.

Cô bưng một chiếc khay bằng bạc, mọi thứ đặt trên đó. Một ấm pha kiểu Pháp, hai chiếc tách, hai chiếc đĩa, một lọ đường, một bình bé xíu đựng kem, hai chiếc thìa bạc. Những chiếc tách cũng không xin bảo lãnh lại là đồ sứ tuyệt đẹp. Reacher nghĩ, không phải hàng của chính phủ, Rodin muốn cà phê của ông pha đúng điệu. Cô thư ký đặt chiếc khay trên mép bàn nằm chính giữa chiếc ghế của chủ và ghế của khách. Reacher nói:

- Cám ơn.

- Không có chi. - Cô trả lời và đi ra.

Rodin nói:

- Xin cứ tự nhiên.

Reacher đẩy nắp đậy xuống tự rót cho mình một tách, không kem, không đường. Vị khá đậm và thơm. Cà phê pha đúng điệu. Rodin nói::

- Lý lẽ buộc tội Barr mạnh ngoài sức tưởng tượng.

Reacher hỏi:

- Có nhân chứng thấy tận mắt?

Rodin đáp:

- Không có. Nhưng lời khai của nhân chứng tận mắt chứng kiến có độ tin cậy rất khó lường. Tôi thậm chí mừng vì không có nhân chứng thấy tận mắt. Bởi thay vào đó, chúng tôi lại có chứng cứ vật chất cực tốt. Mà khoa học thì không nói dối bao giờ. Nó không gây lúng túng.

Reacher nói:

- Cực tốt à?

- Một dây chứng cứ hoàn toàn vững chắc gắn tên đó vào tội ác.

- Vững chắc đến mức nào?

- Chắc như đinh đóng cột. Cái tốt nhất mà tôi từng thấy. Tôi tuyệt đối tin vào nó.

- Tôi đã nhiều lần nghe công tố viên nói câu này.

- Vụ này khác hẳn, ông Reacher à. Tôi là người rất thận trọng. Tôi không truy tố những vụ án tử hình trừ phi tôi biết chắc kết cục của nó.

- Để giữ tỷ số à?

Rodin khoát tay trên đầu và phía sau lưng chỉ bức tường đầy những chiến tích.

- Bảy trên bảy. Một trăm phần trăm.

- Trong bao lâu?

- Trong ba năm. Vụ James Barr nữa là sẽ thành tám trên tám. Nếu hắn có bao giờ tỉnh dậy được.

- Giả sử hắn tỉnh lại mà bị tàn phế thì sao?

- Chỉ cần bộ não hắn còn hoạt động khi tỉnh lại, hắn sẽ ra tòa. Chuyện hắn đã gây ra ở đây không thể được tha thứ.

Reacher nói:

- Tốt rồi.

- Tốt cái gì?

- Ông đã cho tôi biết điều tôi muốn biết.

- Ông nói là ông có thông tin. Từ trong quân đội.

- Giờ tôi sẽ giữ kín nó cho riêng mình.

- Ông từng là quân cảnh, đúng không?

Reacher đáp:

- Mười ba năm.

- Và ông biết James Barr?

- Chút ít.

- Kể cho tôi nghe về hắn đi.

- Chưa được.

- Ông Reacher này, nếu ông có thông tin để bào chữa, hay bất cứ điều gì khác, thì ông cần phải nói với tôi bây giờ.

- Tôi phải nói à?

- Dù thế nào thì tôi cũng sẽ lấy được thôi. Con gái tôi sẽ nộp. Nó sẽ tìm cách thương lượng lời khai.

- Chữ A.A. có nghĩa là gì?

- Sao cơ?

- Tên viết tắt của ông.

- Aleksei Alekseivitch. Gia đình tôi từ Nga tới. Nhưng lâu lắm rồi. Trước cả Cách mạng tháng Mười.

- Nhưng họ vẫn giữ các truyền thống cũ.

- Thì anh thấy đó.

- Người ta gọi ông như thế nào?

- Alex, tất nhiên.

- Vâng, cám ơn ông đã bỏ thì giờ tiếp tôi, Alex. Và cà phê nữa.

- Giờ ông sẽ đi gặp con gái tôi chứ?

- Có ích gì đâu? Ông có vẻ tự tin lắm.

Rodin mỉm cười, nụ cười ra vẻ bao dung. Ông nói:

- Chỉ là vấn đề thủ tục thôi. Tôi là nhân viên của tòa, và ông nằm trong danh sách nhân chứng. Tôi buộc phải nói rằng ông bắt buộc phải đi. Bất cứ một thiếu sót nào cũng sẽ là trái nguyên tắc.

- Cô ấy ở đâu?

- Trong tòa cao ốc kính mà ông có thể nhìn thấy từ cửa sổ.

Reacher nói:

- Được thôi. Tôi nghĩ là tôi sẽ ghé qua đó.

Rodin nói:

- Tôi vẫn cần mọi thông tin mà ông có.

Reacher lắc đầu.

- Không. Ông thật sự không cần đâu.

Ông trả tấm thẻ vào cửa dành cho khách cho bà tiếp tân, rồi ngược trở lại về hướng quảng trường công cộng. Đứng trong nắng lạnh và xoay trọn một vòng, để cảm nhận về nơi chốn. Mọi thành phố đều giống hệt nhau, mà lại không thành phố nào giống nhau cả. Chúng đều có màu sắc riêng. Một số màu xám. Cái này màu nâu.

Reacher cho rằng gạch được làm từ loại đất sét của địa phương, và mang cả màu của đất nông trại cũ vào những mặt tiền. Thậm chí đá cũng bị những vết lốm đốm, như lẫn những vụn quặng sắt. Đây đó có những vệt màu đỏ sậm, như là những kho đụn ngày xưa.

Nơi đây là một nơi ấm áp, không đông đúc lắm, nhưng nó đang tiếp tục sống. Nó sẽ hồi lại sau thảm họa. Có sự tiến triển, sự lạc quan và động lực sôi nổi. Tất cả những công trình xây dựng mới chứng minh cho điều đó. Những công trường và lề đường bê tông thô ở khắp mọi nơi. Rất nhiều hy vọng.

Phần xây thêm của bãi đậu xe neo vào đầu phía Bắc của khu phố thương mại. Nó báo trước sự phát triển thương mại sau này. Nó nằm về hướng Nam và hơi chệch về hướng Tây của khu xảy ra vụ bắn giết. Rất gần. Thẳng về hướng Tây và có lẽ xa gấp đôi là một đoạn của xa lộ treo. Nó lượn thành một đường chừng ba mươi thước giữa không gian thoáng rộng, trước khi vào vòng cuốn phía sau thư viện. Rồi nó trải thẳng ra một chút phía sau tòa cao ốc kính đen.

Tòa cao ốc nằm về hướng Bắc của quảng trường. Nó trưng một tấm bảng NBC gần cánh cửa, trên một phiến đá granite màu đen. Nơi làm việc của Ann Yanni, Reacher đoán vậy, cũng là nơi làm việc của con gái Rodin. Phía Đông của quảng trường là tòa nhà hành chính, nơi có văn phòng của Sở Đăng kiểm và phòng tuyển quân. Đó là nơi những nạn nhân đi ra.

Họ đổ xô ra khỏi cánh cửa. Ann Yanni đã nói gì nhỉ? Sau một tuần dài làm việc? Họ đã chen nhau về hướng Tây, băng ngang qua quảng trường về hướng xe đang đậu hay trạm xe buýt và rơi vào cơn ác mộng. Lối đi hẹp làm họ đi chậm lại và sắp thành hàng. Như bắn cá nhốt trong một cái chậu lớn.

Reacher bước theo chiều dài của chiếc hồ cảnh để cạn, đến cánh cửa xoay ở tầng một của tòa tháp. Ông bước vào và liếc qua tiền sảnh để tìm bảng chỉ dẫn. Một tấm bảng lồng kính nền bằng nỉ xốp đen với những chữ màu trắng gắn trên đó. NBC nằm trên tầng hai. Một số lô khác để trống, và Reacher đoán rằng những phòng còn lại đổi chủ quá nhanh, không đáng công gắn vào bảng chữ. Văn phòng luật của Helen Rodin được ghi nằm ở tầng bốn. Những con chữ hơi xiên xẹo và khoảng cách giữa chúng không đều. Reacher nghĩ, dĩ nhiên nó không phải là Trung tâm Rockefeller rồi.

Ông đợi thang máy với một người đàn bà tóc vàng xinh đẹp. Họ nhìn nhau. Cô ta bước ra ở tầng hai và ông nhận ra rằng đó là Ann Yanni. Ông nhận ra cô ta qua chương trình trên truyền hình. Rồi ông hình dung tất cả những gì mình cần làm, là tìm gặp Emerson ở sở cảnh sát và ông sẽ hâm nóng lại toàn bộ câu chuyện thời sự nhảm nhí đang hấp hối.

Ông tìm thấy văn phòng của Helen Rodin. Nó nằm ở khu trước tòa nhà. Các ô cửa sổ hẳn sẽ mở về phía quảng trường. Ông gõ cửa. Nghe một tiếng trả lời vọng ra như từ rất xa, rồi bước vào. Một phòng tiếp tân trống không với một chiếc bàn dành cho thư ký. Cái bàn để trống. Nó là đồ cũ, nhưng gần đây không được dùng. Reacher nghĩ, chưa có thư ký. Những ngày khởi nghiệp.

Ông gõ cánh cửa văn phòng bên trong. Vẫn giọng nói lúc nãy trả lời. Ông bước vào, nhìn thấy Helen Rodin ngồi sau một chiếc bàn cũ khác. Ông nhận ra cô qua tấm ảnh của cha cô. Nhưng khi đối diện, nhìn cô còn xinh xắn hơn. Chắc hẳn cô chưa quá ba mươi, cao dong dỏng, người mảnh khảnh. Theo kiểu thường xuyên tập luyện. Không phải là do ăn kiêng quá mức. Hoặc cô có chạy bộ hay chơi bóng đá, hoặc cô quá may mắn với hệ trao đổi chất của mình.

Cô có mái tóc vàng dài và đôi mắt xanh của cha mình. Đôi mắt ẩn chứa vẻ thông minh. Cô mặc tuyền một màu đen. Quần tây và một chiếc áo thun bó bên dưới áo choàng. Reacher nghĩ, Lycra. Loại số dzách. Cô nói:

- Xin chào.

Ông đáp:

- Tôi là Jack Reacher.

Cô tròn mắt nhìn ông:

- Ông đùa à. Có thật ông là Reacher không?

Ông gật đầu:

- Trước vẫn thế, sau này vẫn thế.

- Không thể tin nổi.

- Có sao đâu. Mỗi người đều là một ai đó.

- Ý tôi là, làm sao ông biết mà đến đây? Chúng tôi không thể tìm ra ông.

- Tôi thấy trên tivi, Ann Yanni, sáng thứ Bảy.

Cô nói:

- Cám ơn Chúa đã sinh ra cái tivi. Và cám ơn Chúa vì ông có mặt ở đây.

Ông nói:

- Tôi ở Miami với một vũ nữ.

- Một vũ nữ à?

- Cô ấy là người Na Uy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 08:44:45 | Chỉ xem của tác giả
Ông bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. Ông đang đứng trên tầng bốn, và con phố mua sắm chính chạy thẳng về hướng Nam, dốc xuống thoai thoải, càng khiến ông có cảm giác đứng trên cao. Cạnh dài của cái hồ cảnh được đặt thẳng hàng với con đường.

Thực tế là cái hồ nằm trên con đường, nhưng sau đó người ta đã chặn con đường lại để làm thành quảng trường. Nếu có ai đi xa trở về, người đó sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy một hồ nước lớn ở chính chỗ con đường trước đây. Cái hồ trông dài và hẹp hơn so với khi đứng trên mặt đất mà quan sát nó. Trông nó buồn bã và trống rỗng, chỉ có một lớp bùn rác mỏng trên nền gạch đen. Phía ngoài của nó, hơi chếch về bên phải là bãi đậu xe mới, hơi thấp hơn so với quảng trường. Có lẽ chênh lệch độ nửa tầng lầu.

Reacher hỏi:

- Cô có ở đây không? Khi chuyện đó xảy ra ấy?

Helen Rodin lặng lẽ trả lời:

- Có, tôi ở đây.

- Cô có chứng kiến không?

- Ban đầu thì không. Tôi nghe thấy ba phát súng đầu tiên. Chúng nổ rất nhanh. Phát đầu tiên, rồi ngưng một tí, rồi hai phát tiếp theo. Rồi ngưng một lúc nữa, hơi lâu hơn một tí, nhưng quả thật cũng chừng nửa giây thôi. Tôi đứng dậy kịp chứng kiến ba phát sau cùng. Thật kinh khủng.

Reacher gật đầu. Ông nghĩ, Cô gái can đảm đấy. Cô nghe tiếng súng, và cô đứng dậy. Cô không chui xuống gầm bàn để núp. Rồi ông nghĩ tiếp, phát đầu tiên, rồi ngưng lại một chút. Đó là tiếng súng của một tay súng chuyên nghiệp, nhìn xem phát đạn đầu tiên đi đâu. Có quá nhiều yếu tố tác động. Nòng súng lạnh, tầm bắn, sức gió, việc nhắm súng, ngắm bắn. Ông hỏi:

- Cô có thấy người chết không?

Cô trả lời, phía sau ông:

- Hai người. Thật là khủng khiếp.

- Ba phát và hai người?

- Hắn bắn trượt một phát. Có thể là phát thứ tư hay phát thứ năm, họ không biết chắc. Họ tìm thấy đầu đạn dưới hồ. Hồ cạn là vì thế. Người ta đã tháo nước đi.

Reacher không nói lời nào. Helen nói tiếp:

- Viên đạn là một phần của các chứng cứ. Nó gắn cây súng với tội ác.

- Cô có biết ai trong số những người chết không?

- Không. Họ chỉ là người bình thường, tôi đoán vậy. Ngẫu nhiên hiện diện không phải nơi, không phải lúc.

Reacher không nói gì.

- Tôi thấy ánh lửa lóe lên từ khẩu súng. Tít ngoài kia, trong bóng râm, trong bóng tối. Những ánh lửa nhỏ khạc ra.

Reacher nói:

- Chớp lửa đầu nòng.

Ông từ cửa sổ bước trở lại. Cô chìa tay ra. Cô nói:

- Tôi là Helen Rodin. Tôi xin lỗi, lẽ ra phải giới thiệu đúng phép tắc hơn.

Reacher nắm tay cô. Bàn tay ấm và mạnh mẽ. Ông nói:

- Chỉ Helen thôi? Không phải Helena Alekseyovna hay là cái gì khác à?

Cô lại ngó ông trừng trừng:

- Làm thế quái nào ông biết được?

Ông trả lời:

- Tôi đã gặp cha cô. - Và buông tay cô ra.

Cô hỏi lại:

- Thật à? Ở đâu?

- Ở văn phòng ông ấy, vừa mới đây thôi.

- Ông đến văn phòng cha tôi? Hôm nay?

- Tôi mới rời khỏi đó.

- Tại sao ông đến văn phòng cha tôi? Ông là nhân chứng của tôi. Lẽ ra cha tôi không được gặp ông.

- Nói chuyện với ông ấy rất thú vị.

- Ông nói với ông ấy những gì?

- Không nói gì cả. Ngược lại, tôi đặt câu hỏi cho ông ấy.

- Những câu hỏi gì?

- Tôi muốn biết lý lẽ của ông ấy mạnh đến đâu. Để buộc tội Barr.

- Tôi đang đại diện cho James Barr. Và ông là nhân chứng biện hộ. Lẽ ra ông nên nói chuyện với tôi, chứ không phải với ông ấy.

Reacher không nói gì. Cô nói tiếp:

- Rủi thay những chứng cứ chống lại James Barr là rất mạnh.

Reacher hỏi:

- Làm sao cô biết được tên tôi?

Cô trả lời:

- Tất nhiên là từ James Barr. Còn ở đâu nữa?

- Từ Barr? Tôi không tin.

Cô nói:

- Vậy cứ nghe đi.

Cô quay sang cái bàn và bấm nút trên chiếc máy cat-set kiểu cũ. Reacher nghe một giọng nói mà ông không biết: "Chối tội không phải là một chọn lựa". Helen bấm nút Pause và giữ nguyên ngón tay ở đó. Cô nói:

- Đó là luật sư đầu tiên của ông ta. Chúng tôi thay luật sư đại diện vào hôm qua.

- Làm sao được? Hôm qua hắn còn hôn mê mà.

- Nói cho đúng thì thân chủ của tôi là em gái James Barr. Người thân gần nhất của hắn.

Rồi cô thả nút Pause ra, Reacher nghe tiếng động trong phòng và tiếng lẹt xẹt, rồi một giọng nói mà ông đã không nghe lại trong mười bốn năm nay cất lên. Nó giống y như là ông còn nhớ. Nó trầm, căng thẳng và cáu kỉnh. Nó là giọng nói của một người ít khi mở miệng. Nó nói: "Tìm Jack Reacher cho tôi."

Ông đứng yên, bàng hoàng. Helen bấm nút Stop. Cô nói:

- Ông thấy đó!

Rồi cô xem đồng hồ trên tay. Cô nói:

- Mười giờ ba mươi. Ông ở lại luôn dự buổi hội ý với khách hàng nhé.

Cô đưa ông ra mắt như là một nhà ảo thuật trên sân khấu. Như một con thỏ chui ra khỏi một chiếc mũ. Trước tiên là một người, mà ngay lập tức Reacher nhận ra ông ta là một cựu cảnh sát. Ông ta được giới thiệu là Franklin, một điều tra viên tự do làm việc cho các luật sư. Họ bắt tay nhau. Franklin nói:

- Tìm anh là một việc chẳng dễ dàng.

Reacher đáp:

- Sai. Tìm tôi là một việc bất khả thi.

- Anh có định cho tôi biết vì sao không?

Trong mắt Franklin hiện lên những câu hỏi tức thời. Những câu hỏi của một cảnh sát như: "Cha này làm nhân chứng thì có lợi như thế nào đây? Hắn là ai? Một tội phạm? Một kẻ đào tẩu? Liệu hắn có đủ tư cách để làm nhân chứng không?" Reacher đáp:

- Chỉ là một sở thích, một lựa chọn riêng thôi.

- Tóm lại là anh cứng cựa chứ gì?

- Gà nòi thượng phẩm đấy.

Một phụ nữ bước vào. Cô khoảng ba lăm đến gần bốn mươi tuổi, trang phục như một nhân viên văn phòng, có vẻ căng thẳng và mất ngủ. Nhưng bên dưới vẻ bối rối ấy, cô không phải là không hấp dẫn. Cô trông có vẻ là một người tốt và đứng đắn. Thậm chí xinh xắn. Nhưng rõ ràng cô là em gái của James Barr. Reacher biết điều đó trước khi được giới thiệu. Cô có cùng nước da, và cùng một khuôn mặt ấy, chỉ có dịu dàng hơn, nữ tính, và già hơn mười bốn năm. Cô nói:

- Tôi là Rosemary Barr. Tôi rất mừng vì anh tìm được chúng tôi. Thật như là trời xui vậy. Giờ thì tôi mới cảm thấy chúng ta sẽ có được chút kết quả gì đó.

Reacher không nói gì.

Văn phòng luật của Helen Rodin không nối với một phòng họp. Reacher đoán rằng sau này sẽ có. Có lẽ vậy, nếu cô phát đạt. Thế nên cả bốn người ngồi lại với nhau ở phòng trong. Helen ngồi ở bàn giấy. Franklin ngồi ghé lên một góc bàn. Reacher đứng tựa vào bậu cửa sổ. Rosemary Barr bồn chồn bước tới bước lui. Nếu trên sàn có lót thảm, thì có lẽ cô đã làm thủng nó rồi.

Helen nói:

- Ok, chiến lược bào chữa. Ít nhất chúng ta muốn theo đuổi một thỏa thuận về y tế. Nhưng chúng ta sẽ nhắm đến điều cao hơn thế. Sau cùng, chúng ta đạt được đến mức nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Các yếu tố gắn với nhau ra sao, trước tiên, tôi chắc rằng tất cả chúng ta đều muốn nghe những gì ông Reacher định nói.

Reacher nói:

- Tôi không nghĩ các bạn muốn đâu.

- Muốn gì?

- Muốn nghe những điều tôi định nói.

- Tại sao?

- Bởi cô đã có một kết luận sai lầm.

- Là?

- Cô nghĩ vì sao tôi lại đến gặp cha cô trước?

- Tôi không biết.

- Vì tôi không định tới giúp James Barr.

Không ai nói lời nào. Reacher nói:

- Tôi đến đây để thanh toán hắn.

Mọi người nhìn chằm chằm vào Reacher. Rosemary Barr hỏi:

- Nhưng tại sao?

- Vì trước đây hắn đã làm chuyện này rồi. Và một lần đã là quá đủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 09:09:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3


Reacher xê dịch, tựa lưng vào cánh cửa sổ và quay nghiêng để nhìn xuống quảng trường. Và để khỏi nhìn thấy khán giả của mình. Ông hỏi:

- Có phải cuộc nói chuyện này được bảo mật không?

Helen Rodin đáp:

- Có. Đây là một cuộc hội ý với khách hàng. Nó tự động được bảo vệ. Không ai được phép nhắc lại những điều chúng ta nói ở đây.

- Về mặt pháp luật, thì việc cô nghe tin xấu có đúng nguyên tắc không?

Im lặng hồi lâu.

Helen Rodin hỏi:

- Ông sẽ nêu bằng chứng để buộc tội anh ta hả?

- Tôi không nghĩ mình cần nêu chúng trong tình trạng hiện nay. Nhưng tôi sẽ nêu nếu cần thiết.

- Thế thì dẫu sao đi nữa chúng tôi sẽ nghe cái tin xấu. Chúng tôi sẽ lấy lời khai của ông trước khi có thể tìm ra bất cứ tòa xử. Để bảo đảm không có bất ngờ nào nữa.

Lại thêm vài giây im lặng.

Reacher nói:

- James Barr xưa là một tay bắn tỉa. Không phải là người giỏi nhất mà quân đội từng có, mà cũng không phải là người tệ nhất. Chỉ là một tay súng tốt, đạt yêu cầu. Hầu như trung bình về mọi mặt.

Ông ngừng lại, quay đầu nhìn xuống phía bên trái của mình. Nhìn xuống tòa nhà xoàng xĩnh mới xây có đặt phòng tuyển quân. Bộ binh, Hải quân, Không quân, Thủy quân lục chiến. Ông nói:

- Có bốn loại người gia nhập vào quân đội. Đầu tiên là những người như tôi, đó là một nghề truyền thống của gia đình. Thứ hai, là những người yêu nước, hăng hái phục vụ tổ quốc của họ. Thứ ba, những người đơn giản cần có một việc làm. Và thứ tư, là những kẻ muốn giết người. Quân đội là nơi duy nhất có thể làm chuyện đó một cách hợp pháp. James Barr là loại người thứ tư. Trong đáy lòng, hắn nghĩ rằng giết người là điều thú vị.

Rosemary Barr quay đi. Không ai nói điều gì. Reacher nói tiếp:

- Nhưng hắn không bao giờ có được cơ hội. Tôi là một điều tra viên rất cẩn trọng khi còn trong lực lượng cảnh sát quân đội, và tôi đã điều tra kỹ lưỡng về hắn. Tôi nghiên cứu hắn. Hắn được huấn luyện trong năm năm. Tôi đã xem xét những cuốn ghi chép số liệu của hắn. Có những tuần hắn bắn hai nghìn viên đạn. Tất cả đều nhắm vào những mục tiêu bằng giấy, hay các bia nhựa. Tôi đếm được suốt đời binh nghiệp của hắn đã bắn tổng cộng hai trăm năm mươi nghìn viên đạn, mà không một viên nào bắn vào kẻ thù. Hắn không đi Panama trong năm 1989 [9]. Chúng ta có một đội quân rất lớn vào lúc đó, mà chúng ta chỉ cần một lực lượng rất nhỏ ở đó, vì thế phần lớn đám lính đều bị lỡ dịp. Điều này làm hắn sôi máu. Rồi chiến dịch Lá chắn sa mạc [10] bắt đầu năm 1990. Hắn đi Saudi. Nhưng hắn không có mặt trong chiến dịch Bão sa mạc năm 1991. Người ta biến nó thành một chiến dịch chủ yếu dùng xe tăng. James Barr trải qua giai đoạn đó ở Saudi, phủi cát bám trên súng, bắn tập hai nghìn viên đạn một tuần. Rồi sau khi Bão sa mạc chấm dứt, họ điều hắn đến Kuwait City[11] để dọn dẹp.

Rosemary Barr hỏi:

- Chuyện gì đã xảy ra ở đó?

- Hắn phát rồ. Chuyện là thế đó. Phe Xô viết sụp đổ. Iraq trở lại tình trạng cũ. Hắn nhìn về tương lai và hiểu rằng chiến tranh thế là chấm dứt. Hắn đã được huấn luyện gần sáu năm, và chưa từng được kéo cò trong cơn giận dữ, và sẽ chẳng bao giờ. Phần lớn quá trình luyện tập của hắn chỉ là hình dung trong đầu. Hình dung thấy mình đặt dấu thập trong ống nhắm lên tủy cuống não, nơi tủy sống mở rộng ở đáy não. Thấy mình thở chậm và siết cò. Thấy khoảng dừng một tích tắc khi viên đạn bay đi. Thấy mình nhìn một đám sương mù màu hồng phụt ra từ sau đầu. Hắn đã hình dung tất cả những điều đó. Rất nhiều lần. Nhưng hắn chưa bao giờ chứng kiến những điều đó. Dù chỉ một lần. Hắn chưa bao giờ thấy đám sương mù màu hồng. Và hắn rất muốn được thấy nó.

Cả căn phòng lặng im. Reacher nói:

- Thế nên một hôm nọ hắn ra ngoài một mình. Ở Kuwait City. Hắn sắp đặt và chờ đợi. Rồi hắn nổ súng và giết bốn người đang đi ra khỏi một tòa chung cư.

Helen Rodin nhìn ông đăm đăm. Reacher nói:

- Hắn bắn từ một bãi đậu xe. Tầng hai. Trực diện với cửa tòa chung cư. Các nạn nhân là những hạ sĩ quan người Mỹ, như sau này người ta phát hiện ra. Họ đang trong kỳ nghỉ cuối tuần và mặc thường phục.

Rosemary Barr lắc đầu.

- Không thể như thế được. Không thể là sự thật. Anh ấy không thể làm chuyện đó. Mà nếu có, anh ấy đã đi tù rồi. Nhưng thay vì vậy, anh ấy lại được xuất ngũ hạng danh dự. Ngay sau khi chiến tranh Vùng Vịnh kết thúc. Với một huy chương chiến dịch. Cho nên không thể có chuyện đó. Chắc chắn đó không thể là sự thật.

Reacher nói:

- Đó chính là lý do khiến tôi có mặt ở đây. Tình hình lúc đó rất khó khăn. Hãy nhớ lại thứ tự các sự kiện. Chúng tôi có bốn mạng người đã chết, và chúng tôi bắt đầu từ đó. Sau cùng tôi đã theo dấu vết lần đến anh của cô. Nhưng đó là một chuỗi các dấu vết rất phức tạp. Chúng tôi đã theo đủ hướng sai lầm. Và trên một trong những hướng đó, chúng tôi phát hiện ra một số điều về bốn nạn nhân. Những điều chúng tôi thực sự không muốn biết. Bởi vì họ đã làm những việc mà lẽ ra họ không nên làm.

Helen Rodin hỏi:

- Những việc gì vậy?

- Kuwait City là một chốn kỳ dị. Đầy những người Ả Rập giàu có. Thậm chí những người nghèo cũng đeo đồng hồ Rolex và đi xe Rolls-Royce, và có những phòng tắm bằng đá cẩm thạch với vòi nước bằng vàng khối. Nhiều người đã tạm thời bỏ trốn, trong một thời gian ngắn. Nhưng họ đã để lại tất cả tài sản của mình. Và một số người để lại cả gia đình. Để lại vợ và con gái của họ.

- Sao nữa?

- Bốn anh chàng hạ sĩ quan của chúng ta đã chơi cái trò của quân chinh phục, y như đám Iraq ngay trước họ. Chắc ít ra họ cũng coi việc mình làm là như thế. Chúng tôi thì coi đó là hãm hiếp và cướp có vũ trang. Như sau này thấy, họ đã để lại dấu vết rất rõ rệt vào hôm đó, bên trong tòa nhà. Và những tòa nhà khác, trong những ngày khác nữa. Chúng tôi tìm thấy trong tủ cá nhân của họ lượng đồ ăn cướp đủ để mở một chi nhánh Tiffany [12]. Đồng hồ, kim cương, tất cả những thứ có thể mang đi được. Và đồ lót nữa. Chúng tôi đoán họ dùng đồ lót để tính những bà vợ và các cô con gái.

- Vậy thì điều gì đã xảy ra?

- Chuyện hiển nhiên trở thành một vấn đề chính trị. Nó đưa lên cả loạt cấp chỉ huy. Chiến dịch Vùng Vịnh cần được xem là một thành công sáng chói của chúng ta. Nó cần phải một trăm phần trăm tuyệt vời và một trăm phần trăm sạch bong. Và người Kuwait là đồng minh của chúng ta, và vân vân... Rốt cuộc thì chúng tôi được lệnh che giấu cho bốn tay này. Chúng tôi được lệnh ỉm câu chuyện đi. Và chúng tôi đã làm vậy. Rủi thay, thế cũng có nghĩa là để cho James Barr được sổng chuồng. Bởi vì những lời to nhỏ đã lọt ra ngoài và chúng tôi biết luật sư của hắn sẽ sử dụng chúng. Về bản chất là chúng tôi sợ há miệng mắc quai. Nếu chúng tôi đưa Barr ra tòa, luật sư của hắn sẽ chống lại bằng cách cho rằng đây là giết người vì lý do chính đáng. Hắn sẽ nói rằng Barr làm điều đó vì danh dự của quân đội, một cách thô thiển nhưng có tác dụng. Và nếu vậy, tất cả sẽ vỡ lở hết. Chúng tôi được lệnh không mạo hiểm. Thế nên chúng tôi bị trói tay. Đúng là kẹt vào thế bí.

Rosemary Barr nói:

- Biết đâu đúng là giết người vì lý do chính đáng. Biết đâu James đã biết hết từ đầu.

- Thưa cô, hắn không biết. Tôi rất tiếc, nhưng hắn không biết. Trước đây hắn chưa bao giờ gần gũi gì với mấy tên đó. Chưa hề biết chúng là ai. Không kể lời nào về chúng khi tôi tóm được. Hắn ở Kuwait City chưa lâu. Chưa đủ để biết bất cứ điều gì. Hắn chỉ giết người. Cho vui. Hắn thú nhận như thế, riêng với tôi, trước khi những điều còn lại có chút gì hé lộ ra ánh sáng.

Cả căn phòng lặng im. Reacher nói:

- Rồi chúng tôi ỉm nó đi và cho hắn giải ngũ. Chúng tôi nói bốn gã đó đã bị quân Palestine giết, đó là điều dễ thấy ở Kuwait City vào năm 1991. Tôi hơi bất bình về mọi chuyện. Đó không phải là tình huống tồi tệ nhất mà tôi từng gặp phải, nhưng cũng không phải tốt đẹp gì. James Barr thoát được tội giết người hoàn toàn nhờ may mắn. Thế nên tôi đến gặp hắn trước khi hắn đi, và nói với hắn hãy chuộc lại sự may mắn vô cùng của mình, bằng cách đừng bao giờ lặp lại lỗi lầm lần nữa, đừng bao giờ cho đến suốt phần đời còn lại của hắn. Tôi nói với hắn, nếu một ngày nào hắn bước chệch khỏi con đường, tôi sẽ tìm ra hắn, và làm cho hắn phải hối hận.

Cả căn phòng lặng im đến vài phút. Reacher nói:

- Vì thế tôi có mặt ở đây.

Helen Rodin nói:

- Đây hẳn phải là thông tin tối mật. Ý tôi muốn nói là chắc chắn nó chẳng bao giờ có thể được sử dụng. Sẽ có một xì căng đan kinh khủng.

Reacher gật đầu:

- Thông tin tuyệt mật. Nó được phong kín trong Lầu năm góc. Đó là lý do vì sao tôi hỏi cuộc nói chuyện này có được bảo mật không.

- Ông sẽ gặp rắc rối lớn nếu nói về chuyện này.

- Trước đây tôi đã gặp rắc rối lớn rồi. Tôi đến đây để xem mình có cần dính vào rắc rối lớn thêm lần nữa hay không. Với tình hình này tôi nghĩ chắc không cần. Tôi nghĩ cha của cô có thể xử James Barr mà không cần sự hỗ trợ của tôi. Nhưng tôi luôn luôn sẵn sàng hỗ trợ khi ông ấy cần.

Giờ thì Helen đã hiểu.

Chú thích:
[9] : "Chiến dịch chính nghĩa" dưới thời tổng thống G.H. Bush tấn công vào Panama năm 1989, dẫn đến việc hạ bệ tổng thống Panama lúc đó là Manuel Moriega.
[10] : Chiến dịch "Lá chắn sa mạc" là các hoạt động quân sự kết hợp với chính trị và ngoại giao của liên minh 30 nước do Mỹ đứng đầu, nhằm chuẩn bị tiến công Iraq trong chiến tranh Vùng Vịnh (1990-1991).
[11] : Thủ đô của Kuwait.
[12] : Tiffany: một hãng chuyên chế tác đồ nữ trang rất sang trọng và nổi tiếng.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 09:40:07 | Chỉ xem của tác giả
Cô nói:

- Ông đến đây để gây áp lực với tôi, có phải vậy không? Ông đang nói với tôi rằng nếu tôi cố gắng quá nhiều, ông sẽ đốn gục tôi.

Reacher đáp:

- Tôi đến đây để giữ lời hứa của mình. Với James Barr.

Ông đóng cửa và để họ lại ở đó, ba người im lặng và đầy thất vọng trong căn phòng. Rồi ông đi xuống bằng thang máy. Ann Yanni lại bước vào thang máy ở tầng hai. Trong thoáng chốc, ông tự hỏi liệu có phải cô ta đi thang máy suốt cả ngày, hy vọng có người nhận ra. Hy vọng có người xin chữ ký. Ông lơ cô đi. Bước ra thang máy cùng với cô ở khách sảnh rồi đi thẳng đến cửa.

Ông đứng một lát ở quảng trường. Suy nghĩ. Tình trạng y tế của James Barr là yếu tố khó lường nhất. Ông không muốn la cà quanh đây đợi tới khi hắn tỉnh lại. Nếu điều đó có xảy ra thì cũng mất nhiều tuần. Và Reacher không phải là kẻ thích la cà. Ông thích luôn luôn di chuyển. Hai ngày ở một nơi là giới hạn của ông rồi.

Nhưng ông không có mấy chọn lựa. Ông không thể để Alex Rodin có được chỉ dẫn nào. Không thể cho ông ấy một số điện thoại để gọi khi cần. Một lẽ, ông không có điện thoại. Một lẽ khác, một kẻ luôn thủ thế và cẩn trọng như Alex Rodin, sẽ suy nghĩ về chỉ dẫn đó cho đến khi một điều gì đó bắt đầu được làm sáng tỏ. Ông ta sẽ dễ dàng liên hệ tới Lầu năm góc. Thậm chí Reacher đã hỏi có phải cô ta lấy được tên tôi từ Lầu năm góc không? Một lỗi quá ư bất cẩn.

Thế là, rốt cuộc Alex Rodin sẽ cứ thế mà suy ra. Ông ấy sẽ nghĩ, ở đây còn có một điều gì nữa, và mình có thể tìm hiểu xem nó là cái gì từ Lầu năm góc. Dĩ nhiên, Lầu năm góc có thể ngăn chặn ông ấy. Nhưng Rodin đâu muốn bị ngăn lại. Ông ấy có thể tìm đến các phương tiện truyền thông đại chúng. Hẳn là tìm đến Ann Yanni. Cô ta sẽ rất sẵn lòng lên toàn mạng truyền thông lần nữa. Và cuối cùng, Rodin quá lo lắng sẽ thất bại nên sẽ buộc phải tìm biết chuyện này. Ông ta sẽ không bỏ cuộc.

Và Reacher không muốn câu chuyện được phổ biến ra ngoài. Trừ phi thật sự cần thiết. Cựu chiến binh Vùng Vịnh đã có đủ ê chề rồi, với đủ thứ hóa chất và nhiễm độc uranium. Tất cả những gì họ có được về phần mình, là thanh danh về cuộc chiến chính nghĩa không một vết nhơ. Họ không cần bị phỉ báng thêm bởi có dính líu tới những người như Barr và các nạn nhân của hắn.

Người ta sẽ nói rằng, xời, tất cả đám đó đều thế hết. Nhưng không phải tất cả họ đều như thế, theo những gì Reacher đã chứng kiến. Đó đã là một đội quân tốt. Vì thế ông không muốn câu chuyện lọt ra ngoài trừ phi thật cần thiết, và ông muốn tự mình xác định có cần thiết hay không. Thế nên, không chỉ dẫn nào dành cho Alex Rodin. Không để ngỏ khả năng cho một cú gọi. Vậy nên... tóm lại là nên sao?

Ông quyết định ở lại quanh đây trong hai mươi bốn giờ. Có lẽ sẽ có một chẩn đoán rõ ràng hơn về tình trạng của Barr sau đó. Có lẽ bằng cách nào đó ông có thể hỏi lại Emerson và nắm rõ hơn các chứng cứ. Rồi có lẽ ông có thể yên tâm để lại mọi việc cho văn phòng của Alex Rodin, và quá trình tố tụng sẽ cứ thế tự chạy. Nếu sau này có vấn đề gì, có lẽ ông sẽ đọc chúng trên một tờ báo ở đâu xa trong tương lai, trên một bãi biển hay trong một quán bar, và khi đó ông có thể đi suốt con đường để quay trở lại.

Vậy là, hai mươi bốn giờ tại một thành phố nhỏ miệt trong. Ông quyết định đi tìm xem có con sông nào không.

Có một con sông. Đó là một dòng nước rộng lớn, lừ đừ chảy từ hướng Tây sang hướng Đông, xuyên qua khu vực phía Nam khu thương mại. Một phụ lưu nào đó của con sông Ohio hùng vĩ, ông đoán vậy. Bờ phía Bắc của nó được kè thẳng và củng cố bằng những tảng đá khổng lồ trên một quãng dài ba trăm thước. Mỗi tảng phải nặng đến năm mươi tấn. Chúng được đẽo tạc rất hoàn chỉnh và vừa vặn nằm bên nhau. Chúng tạo ra một bờ cảng. Một cái cầu tàu. Chúng có những chiếc vít cỡ đại bắt vào đó, để buộc những sợi thừng.

Những phiến đá lát lớn làm cái cầu tàu sâu đến ba mươi bộ. Dọc theo chiều dài của nó có những chiếc xà lan khổng lồ neo lại và dỡ hàng ở đây. Chắc đã có đông đảo người làm việc. Chắc đã có ngựa và xe kéo lóc cóc trên con đường đá sỏi. Nhưng giờ thì không có gì cả. Chỉ có sự yên ắng tịch mịch, và dòng nước chảy lờ đờ. Những mảnh gỉ trên các vít sắt, những túm cỏ dại giữa các khe đá.

Một số nhà kho vẫn còn cái tên mờ mờ trên đó. Vải vóc McGinty. Công ty ngũ cốc Allentown. Hàng cung cấp Parker. Reacher thả bộ suốt quãng đường ba trăm thước xem xét chúng. Chúng vẫn đứng vững chãi. Ông nghĩ, đã đến lúc cần sửa chữa lại rồi. Một thành phố làm một cái hồ cảnh, có vòi phun trong quảng trường công cộng thì chắc hẳn sẽ sửa sang bến tàu. Đó là điều không thể tránh.

Công trường mọc lên khắp nơi trong thành phố. Nó sẽ tiến về phía Nam. Người ta sẽ miễn thuế cho ai có ý định mở quán cà phê ven sông. Có thể là một bar rượu. Có thể có nhạc sống, từ thứ Năm đến thứ Bảy. Có thể có một nhà bảo tàng nhỏ trình bày lịch sử thương mại đường sông. Ông quay lưng định đi ngược lại thì đối mặt với Helen Rodin. Cô nói:

- Ông không phải là người khó tìm quá đâu.

Ông đáp:

- Rõ ràng là như vậy.

- Du khách luôn luôn đến các bến tàu.

Cô đang xách một chiếc cặp loại của luật sư. Cô nói:

- Tôi mời ông ăn trưa nhé?

Cô đưa ông trở lại hướng Bắc, đến rìa của khu thượng lưu mới. Trong vòng riêng một khối phố mới đào xới lên, thành phố cũ kỹ già nua đã biến thành mới mẻ và tươi tắn. Những cửa hàng nhỏ của gia đình bày đầy túi rác, máy hút bụi và ống nước máy giặt, trở thành những ngôi nhà mới trưng bày những bộ áo đầm giá hàng trăm đô la. Và giày, và cà phê latte giá bốn đô la một ly, và những thứ làm bằng titan.

Họ đi qua một vài cửa hàng như thế rồi Helen Rodin dẫn ông vào một quán ăn. Nó là loại quán mà trước đây ông đã thấy. Loại quán mà ông thường tránh xa. Những bức tường vôi trắng, một số để gạch trần, bàn ghế bằng nhôm được tiện bằng máy, những món sa lát trộn kỳ cục. Những nguyên liệu trộn bừa vào nhau và được xem là sáng tạo.

Cô đưa ông đến một chiếc bàn nằm trong góc xa. Một chú nhóc linh lợi mang thực đơn đến. Helen Rodin gọi món gì đó có cam, quả óc chó và pho mát Gorgonzola [13]. Và một tách trà thảo mộc. Reacher chào thua việc xem thực đơn và gọi cùng món với cô, nhưng với cà phê, thường, không sữa. Helen nói:

- Đây là quán tôi thích nhất trong thành phố.

Ông gật đầu. Ông tin lời cô. Cô có vẻ thoải mái như ở nhà. Mái tóc suôn dài, trang phục đen. Sức linh hoạt của tuổi trẻ. Ông thì già hơn, và đến từ một thời gian và nơi chốn khác. Cô nói:

- Tôi cần ông giải thích vài chuyện.

Cô cúi xuống mở cái cặp. Lấy ra cái máy ghi âm cũ. Cẩn thận đặt nó lên bàn. Nhấn nút Play. Reacher nghe người luật sư đầu tiên của James Barr nói: "Chối tội không phải là một lựa chọn". Rồi ông nghe Barr nói: "Tìm Jack Reacher cho tôi".

Ông nói:

- Cô đã cho tôi nghe đoạn băng đó rồi.

Helen nói:

- Nhưng tại sao hắn ta nói như thế?

- Đó có phải là điều mà cô muốn tôi giải thích không?

Cô gật đầu. Ông đáp:

- Tôi không thể giải thích.

- Đúng lý ra ông là người hắn ít muốn tìm nhất.

- Tôi đồng ý.

- Có thể hắn còn gì chưa rõ về ý định của ông? Mười bốn năm trước?

- Tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã nói rất rõ ràng.

- Vậy thì tại sao giờ đây hắn lại muốn gọi ông?

Reacher không trả lời. Thức ăn được mang ra, họ bắt đầu ăn. Cam, quả óc chó, pho mát Gorgonzola, đủ thứ rau cỏ, và món dầu giấm trộn quả mâm xôi. Không tệ lắm. Và cà phê cũng khá. Ông nói:

- Cho tôi nghe cả cuốn băng đi.

Cô để chiếc nĩa xuống và ấn nút Rewind. Giữ yên tay ở đó, mỗi ngón trên một nút, như là một nhạc công dương cầm. Những ngón tay của cô dài. Không mang nhẫn. Móng tay được đánh bóng và cắt gọn. Cô bấm nút Play rồi lại cầm chiếc nĩa lên. Reacher không nghe thấy gì cả trong một lúc cho tới khi đoạn băng trắng chạy hết đầu cuộn băng.

Chú thích:
[13] : Gorgonzola: Một loại pho mát nổi tiếng của Ý.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 09:54:44 | Chỉ xem của tác giả
Rồi ông nghe thứ âm thanh đặc trưng của phòng giam. Tiếng vọng, tiếng loảng xoảng của kim khí xa xăm. Tiếng một người thở. Rồi ông nghe tiếng cửa mở và tiếng một người khác ngồi phịch xuống ghế. Không có tiếng va chạm của chân ghế và sàn xi măng. Ghế của nhà tù, được bắt dính xuống sàn nhà.

Người luật sư bắt đầu nói. Ông ta đã già và chán ngán. Ông ta không muốn có mặt ở đó. Ông ta biết Barr có tội. Ông ta nói những chuyện tầm phào một lúc. Càng lúc càng bực bội với sự im lặng của Barr. Rồi ông cáu kỉnh nói: "Tôi không thể giúp anh được nếu anh không tự giúp chính mình". Một khoảng im lặng khá dài rồi giọng của Barr cất lên, kích động, sát vào micro: "Họ bắt lầm người rồi". Hắn lặp lại lần nữa.

Rồi lại đến lượt ông luật sư, không tin hắn, nói rằng chứng cứ đầy ra đó, muốn tìm một lý do phía sau sự việc không thể chối cãi được ấy. Rồi Barr đòi gặp Reacher, hai lần, và người luật sư hỏi có phải Reacher là một bác sĩ không, hai lần. Sau đó Barr đứng dậy bỏ đi. Có tiếng đập tay lên cánh cửa khóa, rồi không còn gì nữa.

Helen Rodin ấn nút Stop. Cô hỏi:

- Tại sao vậy? Tại sao hắn lại nói rằng hắn không làm điều đó, và rồi lại đòi tìm chính người biết chắc rằng trước đây hắn đã làm?

Reacher chỉ nhún vai và không trả lời. Nhưng nhìn vào mắt Helen, ông thấy rằng cô đã có câu trả lời. Cô nói:

- Ông biết một điều gì đó. Có thể ông không biết là mình biết. Nhưng phải có một điều gì ở đó. Một điều mà hắn nghĩ rằng nó có thể giúp hắn.

- Điều đó có quan trọng gì không? Hắn đang trong cơn hôn mê. Hắn có thể chẳng bao giờ tỉnh lại.

- Nó rất quan trọng. Hắn có thể được cứu chữa tốt hơn.

- Tôi không biết điều gì cả.

- Ông có chắc không? Hồi đó người ta có làm một cuộc xét nghiệm tâm lý nào không?

- Chưa bao giờ cần làm thế.

- Hắn có bị loạn óc không?

- Không, đầu óc hắn hoạt động cực kỳ chính xác. Bốn trên bốn.

- Ông có nghĩ là hắn khùng không?

- Từ này phức tạp đây. Bắn bốn mạng cho vui thì có khùng không? Tất nhiên là khùng rồi. Về phương diện pháp lý, hắn có khùng không? Tôi tin là hắn không khùng.

Helen nói:

- Chắc chắn ông có biết điều gì đó, Reacher à. Chuyện này có lẽ rất sâu xa. Ông phải moi nó lên.

Ông im lặng giây lát. Ông hỏi:

- Cô có xem chứng cứ tận mắt không?

- Tôi có xem bản tóm tắt.

- Nó nghiêm trọng đến mức nào?

- Cực kỳ nghiêm trọng. Hắn phạm tội, không chút nghi ngờ gì cả. Vụ này chỉ có nước xin giảm án mà thôi. Và tình trạng đầu óc của hắn. Tôi không thể để họ xử tử hình một người bị tâm thần.

- Vậy thì chờ cho tới khi hắn tỉnh lại. Rồi làm vài cái xét nghiệm.

- Chúng sẽ không có giá trị gì cả. Hắn có thể tỉnh lại, ngơ ngẩn như một cục bột và công tố viên sẽ cho rằng đó là do những cú đấm vào đầu trong vụ đánh nhau. Người ta sẽ cho rằng hắn hoàn toàn tỉnh táo vào lúc tội ác xảy ra.

- Cha cô có phải là một người công bằng không?

- Ông ấy sống để chiến thắng.

- Cha nào con nấy, chắc vậy?

Cô ngưng một chút. Cô nói:

- Phần nào như thế.

Reacher ăn hết phần sa lát. Dùng chiếc nĩa săn quả óc chó cuối cùng, rồi bỏ cuộc, dùng tay bốc nó lên. Helen hỏi:

- Ông nghĩ gì vậy?

Ông đáp:

- Chỉ một chi tiết nhỏ thôi. Mười bốn năm trước, nó là một vụ gay go với những kết quả điều tra khá sơ sài. Và hắn thú tội. Lần này chứng cứ có vẻ như hoàn toàn chắc ăn. Nhưng hắn lại chối tội.

- Điều đó có ý nghĩa gì?

- Tôi không biết.

Helen nói:

- Vậy thì hãy nghĩ về những gì mà ông biết. Xin ông đấy. Ông phải biết một điều gì đó. Ông phải tự hỏi, tại sao hắn lại nhắc đến tên mình? Phải có một lý do nào đó chứ.

Reacher không nói gì. Cậu nhóc đã phục vụ họ quay trở lại mang mấy cái đĩa đi. Reacher chỉ vào tách cà phê và cậu ta quay lại lần nữa để rót đầy nó. Reacher ủ nó trong hai bàn tay và ngửi làn hơi bốc lên. Helen hỏi:

- Tôi có thể hỏi ông một câu hỏi riêng tư một chút không?

Reacher đáp:

- Tùy xem riêng tư tới mức nào.

- Tại sao ông không để lại tông tích gì vậy? Thông thường thì những tay chuyên nghiệp như Franklin có thể tìm ra bất cứ ai.

- Có thể ông ta không giỏi như cô nghĩ.

- Chắc chắn ông ta giỏi hơn là tôi nghĩ.

- Không phải ai cũng để lại dấu vết.

- Tôi đồng ý. Nhưng trông ông không nằm trong diện đó.

Reacher đáp:

- Tôi đã nằm trong guồng máy. Nguyên cả cuộc đời tôi. Rồi bộ máy bị sặc và khạc tôi ra. Thế nên tôi nghĩ, OK, nếu mình đã rơi ra ngoài, thì cho ra ngoài hẳn. Bên ngoài tuyệt đối. Tôi hơi cáu giận và đó hẳn là một phản ứng thiếu chín chắn. Nhưng tôi quen với nó rồi.

- Như là một trò chơi?

Reacher đáp:

- Như là một thói nghiện. Tôi nghiện đứng ngoài lề.

Cậu bồi mang hóa đơn lại. Helen Rodin trả tiền. Rồi cô cất chiếc máy ghi âm vào cặp và cùng bước ra với Reacher. Họ đi về hướng Bắc, ngang qua công trường ở cuối đường số Một. Cô đi thẳng về văn phòng và ông đi tìm một khách sạn.

Người đàn ông tên là Grigor Linsky quan sát họ. Gã đang chúi thấp trong một chiếc xe đậu bên vỉa hè. Gã biết phải chờ ở đâu. Gã biết cô ăn ở đâu khi có bạn đi cùng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 8-12-2013 10:24:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4


Reacher thuê phòng ở một khách sạn trong khu thương mại tên là Metropole Palace, nằm cách đường số Một hai khối phố về phía Đông, gần như cao ngang khu phố mua sắm chính. Ông trả bằng tiền mặt cho một đêm dưới tên Jimmy Reese.

Ông đã điểm tên hết các đời tổng thống và phó tổng thống từ lâu, và giờ thì đến tên của các cầu thủ giữ chốt hai trong những năm không đoạt chức vô địch của đội Yankees. Jimmy Reese đã chơi khá tốt suốt mùa bóng năm 1930 và rất tệ suốt mùa bóng năm 1931. Ông ta xuất hiện từ chốn vô danh và tiếp tục chơi cho St.Louis trong mùa bóng năm 1932. Rồi ông nghỉ chơi. Ông qua đời ở California năm chín mươi ba tuổi. Nhưng giờ đây ông đã trở lại, trong một phòng đơn có nhà tắm trong Metropole Palace, chỉ một đêm thôi, và phải trả phòng trước mười một giờ sáng hôm sau.

Khách sạn Metropole Palace là một nơi buồn bã, cũ kỹ, phân nửa số phòng không có khách. Nhưng nó đã từng có một thời oanh liệt. Reacher có thể nhận thấy điều đó. Ông có thể hình dung ra những thương gia buôn ngô một trăm năm trước, đi lên đồi từ cầu tàu dưới bến sông và ngụ lại ở đây. Ông đoán rằng khách sảnh từng có thời mang dáng vẻ một quán rượu miền Tây, nhưng giờ đây nó đã được làm lại qua loa với chút phong cách hiện đại.

Có một thang máy được tân trang lại. Các căn phòng dùng thẻ quét thay vì chìa khóa. Nhưng ông đoán rằng bản thân tòa nhà không thay đổi gì mấy. Căn phòng của ông lỗi thời và ảm đạm thấy rõ. Tấm nệm cho cảm giác như nó thuộc về trang bị từ thuở khách sạn mới đi vào hoạt động.

Ông ngả người trên nệm và vòng tay gối sau đầu. Nghĩ lại thời gian hơn mười bốn năm trước ở Kuwait City. Tất cả các thành phố đều có màu sắc riêng, và Kuwait City là màu trắng. Vôi vữa màu trắng, bê tông sơn trắng, đá hoa cương trắng. Bầu trời trắng lóa vì mặt trời thiêu đốt. Đàn ông mặc áo thụng màu trắng. Bãi đậu xe mà James Barr sử dụng là màu trắng, và tòa chung cư đối diện cũng màu trắng.

Vì ánh nắng chói nên bốn người bị giết đều mang kính râm. Cả bốn người đều bị bắn trúng đầu, nhưng kính râm của họ không bị vỡ. Chúng chỉ rơi ra. Tất cả bốn viên đạn đều được tìm thấy, và chính chúng đã giúp phá vụ án. Chúng là loại đạn 168 grain bọc đồng đuôi thuôn dùng trong thi đấu. Không phải loại đầu lõm [14], theo hiệp ước Geneva quy định. Đây là đạn của lính bắn tỉa Hoa Kỳ, hoặc bộ binh hoặc thủy quân lục chiến.

Nếu Barr đã sử dụng súng trận, súng tiểu liên hay súng lục thì chắc Reacher không thể mò ra hắn. Trừ súng bắn tỉa ra, mọi loại vũ khí trong chiến trường đều dùng đạn theo tiêu chuẩn của NATO, điều đó khiến phải giăng tấm lưới quá sức rộng, bởi vì hầu như toàn bộ NATO đang hiện diện ở đây. Nhưng toàn bộ mục đích của Barr chỉ là dùng cây súng chuyên biệt của mình, chỉ một lần thôi, nhắm vào bia sống. Và do làm như thế, những viên đạn giá mười ba xu của hắn đã đóng đinh hắn.

Nhưng đó quả là một vụ thật gay go. Có lẽ là vụ chiến nhất của Reacher. Ông đã sử dụng lôgic, suy luận, hồ sơ, tiểu xảo, trực giác, và sau cùng là phương pháp loại trừ. Ở cuối đường mòn hiện ra James Barr, kẻ sau cùng đã thấy được đám mù sương màu hồng của máu phun ra và bình thản một cách kỳ dị khi bị bắt. Hắn đã thú tội.

Hắn thú tội một cách tự nguyện, nhanh gọn, và hoàn chỉnh. Reacher không phải đụng tay đến gã. Barr nói khá thoải mái về chuyện đã xảy ra. Rồi hắn đặt câu hỏi về tiến trình điều tra, như thể nó đối với hắn vô cùng thích thú. Rõ ràng là hắn không cho rằng mình sẽ bị bắt. Không đời nào. Hắn vừa buồn bực vừa khâm phục. Thậm chí hắn còn hơi tỏ vẻ cảm thông khi cuối cùng, những bẩn thỉu về chính trị đã thả cho hắn thoát. Như thể hắn rất tiếc cho những nỗ lực tuyệt hảo của Reacher đã trở nên vô ích.

Mười bốn năm sau, hắn không thú tội. Còn có một sự khác biệt nữa giữa lần này và lần trước. Nhưng Reacher chưa thể nắm được nó. Một điều gì đó liên quan với việc ở Kuwait City nóng như thế nào.

Grigor Linsky dùng điện thoại di động gọi cho The Zec. The Zec là chủ của hắn. Không chỉ là Zec. Mà là The Zec. Đó là vấn đề lòng tôn kính. The Zec tám mươi tuổi, nhưng vẫn sẵn sàng bẻ gãy tay kẻ nào lão ta ngửi thấy mùi vô lễ. Lão như một con trâu già. Lão vẫn giữ được sức mạnh và phong thái của mình. Lão ta sống đến tám mươi tuổi bởi có sức mạnh và phong thái đó. Không có chúng thì chắc lão ta đã chết ở tuổi hai mươi, khi lão phát điên và tên thật của lão cuối cùng đã trượt ra khỏi trí nhớ.

Linsky nói:

- Con luật sư trở về văn phòng. Reacher rẽ khỏi đường số Một về hướng Đông. Em ém lại, không theo hắn. Nhưng hắn bỏ qua trạm xe buýt. Do đó chúng ta có thể cho rằng hắn ở lại thành phố. Em đoán là hắn thuê phòng ở khách sạn Metropole Palace. Ngoài nó ra, hướng đó không còn gì khác cả.

The Zec không trả lời. Linsky hỏi:

- Chúng ta có làm gì không?

- Hắn ở đây bao lâu?

- Điều đó còn tùy. Rõ ràng là hắn đang theo đuổi một sứ mệnh cứu rỗi.

The Zec không nói gì. Linsky hỏi lại lần nữa:

- Chúng ta nên làm gì không?

Im lặng. Tiếng nhiễu sóng điện thoại, và tiếng lão già thở. Cuối cùng The Zec nói:

- Có lẽ chúng ta nên đánh lạc hướng hắn. Hay làm cho hắn nản lòng. Tin báo rằng hắn từng là lính. Như thế hắn chắc vẫn duy trì một số thói quen dễ dự đoán. Nếu hắn ở Metropole, hắn sẽ không ở trong phòng tối nay. Không phải chỗ đó. Chẳng có gì cho một tay lính giải trí cả. Hắn sẽ đi ra ngoài đâu đó. Hẳn là một mình. Vậy có thể có một sự cố. Huy động trí tưởng tượng của mày đi. Hãy biến nó thành một màn kịch tưng bừng. Đừng dùng lính của mình. Và nhớ làm cho nó có vẻ tự nhiên.

- Chơi nó tới cỡ nào?

- Gãy vài cái xương, ít nhất là vậy. Có thể cho hắn dính một cú chấn thương ở đầu. Có thể cho hắn vào nằm trong khu hôn mê sâu với bạn hiền James Barr của hắn.

- Còn con luật sư thì sao?

- Để nó đó đã. Tạm thời như vậy. Chúng ta sẽ khui cái lon giun đó sau này. Nếu cần thiết.

Helen ngồi ở bàn suốt một giờ. Cô nhận ba cú điện thoại. Cú thứ nhất của Franklin. Ông đang kiếm cách chuồn.
Ông nói:

- Tôi rất tiếc, nhưng mà cô sẽ thua cuộc thôi. Còn tôi thì phải kiếm ăn. Tôi không thể mất thêm hàng lố thời gian mà chẳng được xu nào cho vụ này nữa.

- Chẳng ai thích những vụ vô vọng cả. - Helen nói mềm mỏng. Cô sẽ còn cần đến ông ta trong tương lai. Cố dồn ông ta đến chân tường sẽ chẳng ích gì.

Franklin nói:

- Những vụ án từ thiện vô vọng thì không.

- Nếu tôi kiếm được một chỗ chi tiền, ông sẽ trở lại làm chứ?

Franklin đáp:

- Chắc chắn. Cứ gọi cho tôi.

Rồi họ cúp máy, mọi phép tắc vẫn được tuân theo, quan hệ vẫn được bảo tồn. Cú điện tiếp theo sau đến mười phút. Là cha cô, giọng ông đầy vẻ lo lắng. Ông nói:

- Lẽ ra con không nên nhận vụ này.

Helen đáp:

- Đâu có vẻ như con có cả tá lựa chọn đâu.

- Đôi khi thua cũng là thắng, con hiểu ý của bố chứ?

- Đôi khi thắng cũng là thắng nữa.

- Không, thắng sẽ là thua. Con cần phải hiểu điều đó.

Cô hỏi:

- Có bao giờ bố chuẩn bị vụ án với tinh thần nhận thua chưa?

Cha cô không trả lời. Rồi ông quay sang dò hỏi.

- Jack Reacher có tìm con chưa? - Ông hỏi, có nghĩa là: "Bố có cần lo lắng không?"

Cô trả lời, giữ giọng bình thản:

- Ông ấy có tìm con.

- Ông ấy có thú vị không? - Nghĩa là: "Bố có cần lo sốt vó lên không?"

- Quả thật về ông ấy có vài điều đáng suy nghĩ.

- Chà, chúng ta nên bàn về nó chút nhỉ? - Nghĩa là: "Nói cho bố đi, xin con."

- Chắc sẽ bàn sớm thôi. Khi đến lúc thích hợp.

Họ nói chuyện linh tinh thêm một phút và hẹn gặp nhau ăn tối. Ông cố gắng lần cuối, "Xin con, nói đi". Cô không nói. Rồi họ cúp máy. Helen mỉm cười. Cô đã không nói dối. Thậm chí cũng không dùng đến đòn gió. Nhưng cô cảm thấy mình đã vào cuộc. Luật pháp là một trò chơi, và như mọi trò chơi khác, nó bao hàm cả yếu tố tâm lý.

Cú điện thứ ba là của Rosemary Barr từ bệnh viện. Cô nói:

- James sắp tỉnh lại. Anh ấy ho vào ống thở. Anh ấy đang ra khỏi cơn hôn mê.

- Anh ta đã nói được chưa?

- Bác sĩ bảo ngày mai anh ấy sẽ nói được.

- Liệu anh ta có nhớ được điều gì không?

- Bác sĩ nói có thể lắm.

Một giờ sau Reacher rời Metropole. Ông vẫn ở hướng Đông của đường số Một và đi về hướng Bắc, về phía những cửa hàng bình dân mà ông đã thấy gần tòa án. Ông cần mua áo quần. Thứ gì đó thuộc địa phương. Không nhất thiết phải là quần bò yếm, nhưng chắc chắn phải là một thứ gì đó quen mắt hơn là bộ đồ Miami mà ông đang mặc. Bởi ông nghĩ mình có thể đi Seattle sau đó. Để uống cà phê chơi. Và ông không thể đi dạo quanh Seattle trong một chiếc áo màu vàng sáng được.

Ông tìm thấy một cửa tiệm và mua một chiếc quần mà cái nhãn gọi là màu nâu xám, nhưng ông thì cho là màu nâu pha sắc xanh ôliu. Ông tìm được một chiếc áo sơ mi vải flannel gần như trùng màu. Và đồ lót. Và ông lại chơi sang thêm một đôi tất. Ông thay đồ trong phòng thay đồ và ném những đồ cũ vào thùng rác của cửa tiệm. Bốn chục đô, cho mớ đồ mà ông hy vọng rằng mặc được trong bốn ngày. Tiêu hoang quá, nhưng không phải mang theo túi xách thì mười đô mỗi ngày cũng đáng.

Ông rời tiệm và đi về hướng Tây, về phía mặt trời buổi chiều. So với thời tiết thì chiếc áo hơi dày quá, nhưng ông có thể điều hòa bằng cách xắn tay áo lên và mở thêm cúc nữa. Thế là ổn. Sẽ thích hợp với tiết trời Seattle. Ông bước ra quảng trường và thấy đài phun nước đã khởi động lại. Hồ nước đang đầy lên, rất chậm. Bùn dưới đáy dày khoảng ba phân và khuấy thành những vòng tròn. Vài người đang đứng xem. Những người khác đang đi dạo. Nhưng không ai đi tắt ngang qua những vòng hoa tưởng niệm, nơi những nạn nhân của Barr đã chết. Có lẽ chẳng bao giờ có ai đi qua đó nữa. Thay vì vậy, mọi người theo lối đi vòng rất xa, ngang qua bảng hiệu NBC. Do bản năng, do tôn kính, do sợ hãi; Reacher không biết nữa.

Chú thích:
[14] : Đạn đầu lõm bị cấm sử dụng trong chiến tranh, theo Điều 3 Hiệp ước Hague năm 1899. Người ta thường nhầm lẫn quy định này xuất hiện trong các hiệp ước Geneva.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2013 02:49:17 | Chỉ xem của tác giả
Ông len lỏi giữa những bó hoa và ngồi lên bức tường thấp, tiếng đài phun nước đằng sau ông và bãi đậu xe trước mặt ông. Một bên vai được ánh nắng sưởi ấm và bên kia chìm trong bóng râm mát rượi. Ông có thể cảm thấy số cát còn lại dưới chân.

Ông ngó về bên trái mình, nhìn ngắm cánh cửa tòa nhà Sở Đăng kiểm. Ngó về bên phải, theo dõi những chiếc xe chạy trên xa lộ. Chúng chạy theo đường lượn, tít trên cao, từng chiếc một, theo hàng một, trên làn đường hẹp. Không có nhiều xe lắm. Lưu lượng xe cộ không nhiều, dù dưới đường số Một đã bắt đầu ùn tắc lại trong giờ cao điểm ban chiều. Rồi ông lại ngó về bên trái, nhận ra Helen Rodin đang ngồi xuống cạnh mình. Cô thở không ra hơi.

Cô nói:

- Tôi đã nhầm. Ông quả là một người khó tìm.

Ông đáp:

- Nhưng dù sao thì cô cũng thành công rồi đấy.

- Chỉ vì tôi thấy ông qua cửa sổ. Tôi chạy một mạch xuống, hy vọng là ông chưa bỏ đi. Ấy là nửa giờ sau khi tôi gọi cho các khách sạn khắp thành phố và họ đều nói ông không thuê phòng của họ.

- Các khách sạn càng không biết sẽ càng không thiệt hại gì.

- James Barr sắp tỉnh dậy rồi. Có thể ngày mai anh ta sẽ trò chuyện được.

- Mà cũng có thể không.

- Ông biết nhiều về chấn thương ở đầu không?

- Chỉ biết những cái do tôi gây ra thôi.

- Tôi muốn nhờ ông làm một việc.

Ông hỏi:

- Việc gì?

Cô đáp:

- Ông có thể giúp tôi một việc quan trọng.

- Thật ư?

- Và ông có thể giúp chính mình.

Ông không nói gì. Cô lại nói:

- Tôi muốn ông làm chuyên viên phân tích chứng cứ cho tôi.

- Cô đã có Franklin làm việc đó rồi.

Cô lắc đầu:

- Franklin quá thân với các ông bạn cũ trong sở cảnh sát. Ông ta sẽ không xem xét đủ kỹ. Ông ta sẽ không muốn tấn công vào họ.

- Còn tôi thì sẽ muốn chăng? Tôi muốn hạ Barr, cô nhớ không?

- Chính vậy. Chính vì thế ông sẽ làm điều đó. Ông muốn biết chắc rằng họ có một vụ án hoàn toàn chặt chẽ. Rồi sau đó ông có thể an lòng mà đi.

- Nếu phát hiện ra lỗ hổng chẳng lẽ tôi lại nói với cô?

- Tôi sẽ thấy nó trong mắt ông. Và tôi sẽ biết dựa trên những gì ông làm kế tiếp. Nếu ông đi, thì đây là một vụ chắc ăn. Nếu ông ở lại, hẳn nó vẫn còn sơ hở.

- Franklin bỏ cuộc rồi, phải không?

Cô im lặng rồi gật đầu.

- Vụ này là một vụ thua chắc. Tôi đang làm không công. Bởi vì sẽ không có ai nhận làm. Nhưng Franklin còn phải sống nữa.

- Thế nên ông ấy không làm chùa, nhưng tôi thì sẽ làm?

- Ông cần phải làm điều này. Tôi nghĩ ông đã dự tính làm vậy nữa là khác. Đó là lý do vì sao ông đến gặp cha tôi trước. Ông ấy rất tự tin. Ông thấy được điều đó. Nhưng ông vẫn muốn xem qua hồ sơ. Ông là một điều tra viên cẩn trọng. Chính ông đã nói như vậy. Ông là một người cầu toàn. Ông muốn rời khỏi thành phố khi biết chắc mọi việc đã đâu vào đó, theo tiêu chí của riêng ông.

Reacher không nói gì. Cô nói tiếp:

- Đây là cơ hội để ông có thể tìm hiểu kỹ càng. Điều này là bắt buộc theo hiến pháp. Họ buộc phải cho chúng ta xem mọi thứ. Bên biện hộ có quyền khám phá trọn vẹn.

Reacher vẫn không nói gì. Cô lại nói tiếp:

- Ông không có chọn lựa nào khác. Nếu không, họ sẽ không cho ông biết gì cả. Họ không bày thông tin cho người lạ ngoài phố biết đâu.

Tìm hiểu kỹ càng. An lòng mà đi. Không có lựa chọn.

Reacher nói:

- OK.

Cô chỉ tay:

- Đi bốn khối phố về hướng Tây và một khối về hướng Nam. Sở cảnh sát ở ngay đó. Tôi sẽ lên lầu gọi điện cho Emerson.

- Ngay bây giờ ư?

- James Barr đang hồi tỉnh. Tôi cần dọn hết cái đống này đi thật sớm. Việc chính của tôi ngày mai là cố tìm một chuyên gia tâm lý sẵn lòng làm không công. Một thỏa thuận về y tế vẫn là tính toán có nhiều khả năng nhất của chúng ta.

Reacher đi qua bốn khối phố về hướng Tây và một khối về hướng Nam. Như vậy là đi dưới xa lộ treo và đến một góc phố. Sở cảnh sát có nguyên cả khối phố. Tòa nhà của họ chiếm phần lớn khối phố, còn lại là một bãi đậu xe hình chữ L dành cho xe của họ.

Có nhiều xe cảnh sát đậu chéo góc, và những xe thanh tra chìm, một chiếc xe của đội khám nghiệm hiện trường, và một chiếc xe tải của đội SWAT. Tòa nhà được xây bằng gạch men bóng màu nâu vàng. Nó có mái bằng với những ống dẫn của máy điều hòa không khí ở khắp nơi. Trên những cửa sổ đều có chấn song. Dây kẽm gai giăng khắp nơi bên ngoài.

Ông bước vào trong, đi theo chỉ dẫn và thấy Emerson đang chờ sau bàn. Reacher nhận ra ông ta từ bản tin tivi sáng thứ Bảy. Hệt như vậy, màu da tái, lặng lẽ, thạo việc, không to con, cũng không nhỏ. Nhìn bên ngoài, trông ông như thể đã là cảnh sát từ khi mới ra đời. Có lẽ ngay từ khi mới thụ thai. Nó hiện diện trong những lỗ chân lông của ông. Trong ADN của ông.

Ông mặc quần vải xám và áo sơ mi ngắn tay màu trắng. Hở cổ. Không cà vạt. Một cái áo khoác bằng vải tuýt vắt ở lưng ghế. Gương mặt và thân thể ông trông hơi dị hình, như thể ông đã bị biến dạng đi bởi những áp lực liên tục. Ông ta nói:

- Chào mừng anh đến Indiana.

Reacher không nói gì.

Emerson nói:

- Tôi nói nghiêm túc đấy. Chúng tôi rất phấn chấn khi bạn cũ của bị cáo xuất hiện, nhằm xé tan công việc của chúng tôi ra từng mảnh.

Reacher đáp:

- Tôi đến đây làm việc cho luật sư của hắn. Không phải như một người bạn.

Emerson gật đầu. Ông ta nói:

- Tôi sẽ đích thân cho anh biết những thông tin cần thiết. Rồi nhân viên hiện trường của tôi sẽ chỉ cho anh xem từng chi tiết cụ thể. Anh hoàn toàn có thể xem và hỏi bất cứ điều gì anh muốn.

Reacher mỉm cười. Chính ông đã từng làm công việc cảnh sát trong mười ba năm đằng đẵng, ở một khu vực gay go, và ông nắm rõ tất cả ngôn ngữ cũng như phương ngữ của nó. Ông hiểu cái giọng và những sắc thái. Và cách Emerson nói tiết lộ cho ông biết nhiều điều. Nó cho ông biết rằng bất kể thái độ chống đối ban đầu, thì đây là kẻ hài lòng thầm kín khi gặp một người phê phán. Vì ông ta biết rằng mình có một vụ án chắc ăn như bắp.

Emerson hỏi:

- Anh biết James Barr rất rõ, theo như tôi hiểu?

Reacher hỏi lại:

- Còn ông thì sao?

Emerson lắc đầu.

- Chưa bao giờ gặp hắn. Không có dấu hiệu báo trước nào cả.

- Súng của hắn có hợp pháp không?

Emerson gật đầu:

- Nó có đăng ký và không sửa chữa gì cả. Những khẩu súng khác của hắn cũng vậy.

- Hắn có đi săn không?

Emerson lại lắc đầu.

- Hắn không phải là thành viên của Hiệp hội súng trường quốc gia, và hắn không thuộc vào một câu lạc bộ chơi súng nào cả. Chúng tôi chưa bao giờ thấy hắn trong khu vực săn. Hắn chưa bao giờ có rắc rối gì. Hắn chỉ là một công dân hạng ba. Hạng zero thì đúng hơn. Hoàn toàn không có dấu hiệu cảnh báo nào cả.

- Anh có bao giờ gặp vụ việc như thế này chưa?

- Quá nhiều lần rồi. Nếu anh tính luôn Washington, thì Indiana đứng thứ mười sáu trên năm mươi mốt tiểu bang tính theo tỷ lệ chết vì trọng án theo đầu người. Tệ hơn New York, tệ hơn cả California. Thành phố này không phải là tệ nhất tiểu bang, nhưng cũng không phải là tốt nhất. Thế nên chúng tôi đã gặp qua đủ thứ, có lúc có dấu hiệu báo trước, có lúc thì không, nhưng dù kiểu nào thì chúng tôi cũng biết việc mình đang làm.

Reacher nói:

- Tôi đã nói chuyện với Alex Rodin. Ông ấy rất ấn tượng.

- Dĩ nhiên phải thế. Chúng tôi làm việc quá tốt. Gã bạn vàng của anh bị tóm cổ chỉ sáu giờ sau phát đạn đầu tiên. Đây là một vụ kiểu mẫu, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc.

- Không nghi ngờ gì cả à? - Nhưng điều đó chưa phải là vấn đề chính yếu.

- Như thế này nhé. Tôi viết báo cáo về nó vào sáng thứ Bảy và từ đó đến giờ tôi không nghĩ gì thêm. Nó đã kết thúc. Một vụ kết thúc gọn đẹp nhất mà tôi từng thấy, và tôi thấy nhiều lắm rồi.

- Vậy tôi có xem xét lại thì có ý nghĩa gì đâu?

- Hẳn là có chứ. Tôi có một tay nhân viên hiện trường tội ác khao khát được phô trương. Hắn là người giỏi, và hắn xứng đáng được múa may tí chút ngoài ánh sáng chứ.

Emerson đưa Reacher đến phòng phân tích chứng cứ và giới thiệu ông là thám tử của luật sư, chứ không phải bạn của James Barr. Có lợi cho bầu không khí làm việc hơn chút ít. Rồi ông ta để Reacher ở lại đó.

Tay nhân viên hiện trường tội ác là một người bốn mươi tuổi, nghiêm nghị, tên là Bellantonio. Tên của ông ta văn vẻ hơn con người. Ông ta cao, da sậm, gầy, và hơi khòm. Trông ông làm nhân viên dịch vụ tang lễ cũng hợp. Và ông ta cho rằng James Barr sẽ nhận tội. Ông ta nghĩ mình sẽ chẳng có cơ hội trình diễn trước tòa. Điều đó quá hiển nhiên.

Ông ta đã bày ra chuỗi chứng cứ theo một trình tự hợp lý, trên những cái bàn dài trong nhà xe được niêm phong của sở cảnh sát, để biểu diễn trước mắt khách tham quan, những gì ông không có dịp cho quan tòa chứng kiến.

Những cái bàn màu trắng có chân liền theo kiểu bàn căng tin, sắp kín quanh chu vi của gian nhà. Bên trên chúng là những thanh ván giấy bồi, nối thành một đường ngang có ghim hàng trăm tờ giấy in. Những mảnh giấy được ép plastic và chúng miêu tả những món đồ đặt ngay bên dưới. Chiếc xe Dodge Caravan xanh be của James Barr nằm kẹt ngay giữa những chiếc bàn.

Gian nhà sạch sẽ và được thắp bằng những ngọn đèn ống huỳnh quang sáng chói, giữa khung cảnh đó; chiếc minivan trông đồ sộ và xa lạ. Nó cũ và bẩn, nồng mùi xăng, dầu nhớt và cao su. Cánh cửa trượt sau xe để mở và Bellantonio đã lắp một ngọn đèn chiếu lên thảm xe. Reacher nói:

- Tất cả trông khá lắm.

Bellantonio đáp:

- Đây là hiện trường tội ác tốt nhất mà tôi từng gặp.

-Vậy thuyết minh cho tôi đi.

Bellantonio bắt đầu với cái trụ chắn đường. Nó được đặt trên một vuông giấy dầu, trông to lớn, kỳ dị và khá lạc lõng. Reacher nhìn thấy bột lấy dấu tay trên nó, và đọc mảnh ghi chú bên trên. Barr đã cầm nó, điều đó là hẳn nhiên. Hắn đã nắm lấy nó bằng tay phải, gần cái chóp nhỏ. Không chỉ một lần. Có dấu ngón tay và dấu lòng bàn tay. Trùng khớp một cách tức cười. Số lượng những điểm khớp nhau thừa gấp nhiều lần so với mức cần thiết cho bất cứ một phiên tòa nào.

Tương tự với đồng xu lấy ra từ cột thu tiền, tương tự với vỏ đạn. Bellantonio cho Reacher xem những bức hình in bằng tia laser, lấy ra từ cuốn băng video quay ở bãi đậu xe, chúng cho thấy chiếc minivan chạy vào ngay trước vụ việc và chạy ra ngay sau lúc đó. Ông cho Reacher xem bên trong của chiếc xe, xem những sợi vải của tấm thảm trải xe được thu nhặt từ nền bê tông thô, xem những sợi lông chó, xem sợi vải của quần jeans và của chiếc áo mưa. Xem một vuông thảm lấy từ nhà của Barr, và những sợi vải trùng với nó được tìm thấy ở hiện trường.

Cho ông xem đôi giày ống, nói cho ông biết cao su kếp là phương tiện vận chuyển tốt nhất như thế nào. Cho ông xem những vụn cao su bé xíu được tìm thấy ở hiện trường, lại trùng khớp với những chỗ mới xơ ra trên các mũi giày ra sao. Cho ông xem bụi xi măng được theo dấu dẫn về nhà của Barr và thu được từ nhà xe, và tầng hầm, bếp, phòng khách và phòng ngủ. Cho ông xem mẫu so sánh lấy được từ bãi đậu xe và bản báo cáo của phòng phân tích chứng minh chúng xuất phát từ cùng một nguồn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2013 03:35:44 | Chỉ xem của tác giả
Reacher đọc qua những bản chép các cú điện 911 và điện đàm giữa những xe tuần tra. Rồi ông xem qua bản phác thảo hiện trường tội ác. Cuộc rà soát đầu tiên của những cảnh sát viên, cuộc kiểm tra pháp lý do nhân viên của Bellantonio thực hiện, ý tưởng bất chợt về cột thu tiền của Emerson.

Rồi ông đọc báo cáo về cuộc bắt giữ. Nó được in ra và ghim lên như mọi thứ khác. Sự bố trí của đội đặc nhiệm SWAT, nghi can đang ngủ, nhận diện từ ảnh bằng lái xe trong ví để trong túi quần. Những xét nghiệm y tế. Việc bắt giữ con chó do những nhân viên thú y K9 thực hiện. Áo quần trong tủ. Đôi giày. Những khẩu súng dưới tầng hầm.

Ông đọc những lời khai của nhân chứng. Người lính Thủy quân lục chiến ở trạm tuyển quân nghe sáu phát súng. Công ty điện thoại di động cung cấp đoạn băng ghi âm. Có kèm theo đồ thị. Một vệt màu xám biểu trưng cho âm thanh, có sáu đỉnh nhọn. Từ trái qua phải, chúng được sắp xếp thành một mô hình trùng khớp với những gì Helen đã nghe như cô kể.

Một, hai-ba, ngưng, bốn-năm-sáu. Trục dọc của biểu đồ biểu trưng cho âm lượng. Tiếng đạn nổ yếu ớt nhưng rất rõ trong băng ghi âm. Trục ngang biểu trưng cho thời gian. Sáu phát đạn trong chưa đến bốn giây. Bốn giây đã làm chao đảo cả một thành phố. Chao đảo một lúc, ít ra là vậy.

Reacher nhìn khẩu súng. Nó được cho vào một túi nhựa trong và khằn miệng lại. Ông đọc bản báo cáo ghim bên trên. Một khẩu Springfield M1A Super Match, ổ đạn mười viên, bốn viên đạn vẫn còn trong đó. Dấu tay của Barr đầy trên súng. Những vết xước trên báng súng trùng khớp với những mảnh vụn vec ni được tìm thấy ở hiện trường. Đầu đạn còn nguyên được tìm thấy trong cái hồ. Một bản phân tích đạn đạo so khớp viên đạn với nòng súng. Một bản báo cáo khác so khớp cái vỏ đạn với bộ phận đẩy. Ăn chắc. Kết thúc vụ án.

Reacher nói:

- OK, vậy là đủ rồi.

Bellantonio nói:

- Rất tốt, phải không?

- Vụ tốt nhất mà tôi từng được thấy.

- Tốt hơn cả trăm nhân chứng.

Reacher mỉm cười. Các kỹ thuật viên hiện trường tội ác thích phát biểu như thế. Ông hỏi:

- Có điều gì mà anh không hài lòng không?

Bellantonio đáp:

- Tôi hài lòng với mọi thứ.

Reacher liếc nhìn bóng mình in trên tấm cửa kính sẫm màu của chiếc Dodge. Kính đen làm cho chiếc áo mới của ông có màu xám. Ông nói:

- Tại sao hắn lại để cái trụ chắn đường lại? Lẽ ra hắn có thể ném nó vào sau xe, dễ quá mà.

Bellantonio không trả lời. Reacher hỏi:

- Và tại sao hắn lại trả tiền đậu xe?

Bellantonio nói:

- Tôi là chuyên gia hiện trường. Không phải bác sĩ tâm lý.

Sau đó Emerson trở lại và đứng đó, chờ đợi sự đầu hàng của Reacher. Reacher chào thua, không do dự gì. Ông bắt tay và chúc mừng họ về một vụ án được phá hoàn chỉnh.

Ông đi bộ trở lại, hết một khối phố về hướng Bắc và bốn khối về hướng Đông, vòng dưới xa lộ treo, đi về phía tòa cao ốc ốp kính đen. Đã quá năm giờ và nắng đang chiếu vào lưng ông. Ông đến quảng trường, thấy đài nước vẫn đang phun và cái hồ đã đầy lên thêm ba phân nữa. Ông đi vào ngang qua tấm bảng NBC và lên thang máy. Ann Yanni không xuất hiện. Có lẽ cô ta đang chuẩn bị cho bản tin lúc sáu giờ.

Ông thấy Helen Rodin ngồi ở cái bàn cũ của cô. Ông nói:

- Nhìn vào mắt tôi này.

Cô nhìn vào mắt ông.

- Cứ việc chọn thành ngữ nào cô thích. Vụ này ngay chóc rồi, chắc ăn như bắp. Như Willie Mays bắt dính banh bổng vậy.

Cô không nói gì. Ông hỏi:

- Cô có thấy chút nghi ngờ nào trong mắt tôi không?

Cô đáp:

- Không, tôi không thấy.

- Vậy thì gọi các bác sĩ tâm lý đi là vừa. Nếu đó là điều mà cô thật sự muốn làm.

- Hắn đáng được có người đại diện, ông Reacher à.

- Hắn đã bước chệch đường.

- Chúng ta không thể hành hình hắn bất chấp luật pháp.

Reacher không nói gì. Rồi ông gật đầu.

- Tay bác sĩ tâm lý nên suy nghĩ về cái cột thu tiền đậu xe. Ý tôi muốn nói là, có ai lại trả tiền cho mười phút ngay cả khi họ không bắn thiên hạ? Nó làm tôi thấy quái đản quá. Nó tuân thủ luật pháp quá sức, phải không nào? Nó như thể gói lại toàn bộ sự kiện một cách rất đúng luật. Có lẽ lần này hắn thật sự phát rồ. Rối loạn vì điều hắn đang làm, cô hiểu chứ.

Helen ghi lại.

- Chắc chắn tôi sẽ đề cập đến chuyện này.

- Cô có muốn đi ăn tối không?

- Chúng ta ở hai phía đối nghịch nhau.

- Chúng ta đã ăn trưa chung đó thôi.

- Chỉ vì tôi muốn biết vài điều từ ông.

- Chúng ta vẫn có thể cư xử văn minh.

Cô lắc đầu.

- Tôi đã hẹn ăn tối với cha tôi.

- Ông ấy ở phía đối nghịch.

- Ông ấy là cha của tôi.

Reacher không nói gì. Cô hỏi:

- Mấy tay cảnh sát thế nào?

Reacher gật đầu:

- Họ cũng lịch sự lắm.

- Chắc chắn họ không thích thú gì phải gặp ông. Họ không biết lý do thực sự ông có mặt ở đây.

- Họ không cần phải lo lắng. Họ đã có một vụ án ngon lành.

- Ba mươi chưa phải là tết.

- Đã tết từ năm giờ hôm thứ Sáu rồi. Tết to nữa là khác.

Cô nói:

- Có lẽ chúng ta có thể uống chút gì đó sau giờ ăn tối. Nếu tôi có thể chuồn kịp. Có một quán rượu thể thao [15] nằm cách đây sáu khối phố về hướng Bắc. Vào tối thứ Hai, nó gần như là chỗ duy nhất trong thành phố. Tôi sẽ tạt qua xem ông có ở đó không. Nhưng tôi không thể hứa chắc đâu nhé.

Reacher đáp:

- Tôi cũng vậy. Biết đâu lúc đó tôi đang ở bệnh viện để tắt máy thở của James Barr.

*
* *

Ông xuống bằng thang máy và thấy Rosemary Barr đang chờ ông trong khách sảnh. Ông đoán là cô vừa từ bệnh viện quay lại và gọi điện lên văn phòng, thì Helen Rodin cho biết ông đang đi xuống. Thế là cô đợi ở đây. Cô đang bồn chồn đi tới đi lui, từ phòng thang máy đến cánh cửa dẫn đường. Cô hỏi:

- Tôi có thể nói chuyện với ông một lát không?

Ông đáp:

- Ra ngoài thì hơn.

Ông dẫn cô đi qua cánh cửa và băng ngang quảng trường đến bức tường ở phía Nam của cái hồ. Hồ vẫn đang đầy lên, rất chậm. Dòng nước sáng lấp lánh. Ông ngồi vào chỗ lúc trước đã ngồi, những vòng hoa tưởng niệm nằm dưới chân. Rosemary Barr đứng đối diện với ông, rất gần, mắt cô nhìn thẳng vào ông, không nhìn những bông hoa, đèn nến và những bức hình. Cô nói:

- Ông phải nghĩ thoáng ra một chút.

Ông đáp:

- Vậy sao?

- James muốn ông đến đây, do đó anh ấy không thể có tội.

- Cô vội vàng quá.

Cô nói:

- Thế là hợp lý.

Ông trả lời:

- Tôi vừa xem các chứng cứ. Không ai chê trách được gì.

- Tôi không định bàn về chuyện mười bốn năm trước.

- Cô đâu có bàn được.

- Nhưng lần này thì anh ấy vô tội.

Reacher không nói gì. Rosemary nói:

- Tôi hiểu ông đang cảm thấy như thế nào. Ông nghĩ rằng anh ấy đã phụ lòng ông.

- Hắn đã làm như vậy.

- Nhưng giả sử anh ấy không làm thì sao? Giả sử anh ấy vẫn làm tròn lời hứa với ông và đây chỉ là một sự nhầm lẫn? Khi đó ông sẽ cảm thấy thế nào? Ông sẽ làm gì cho anh ấy? Nếu ông sẵn sàng tranh đấu để chống anh ấy, thì ông có nghĩ là mình cũng sẽ sẵn sàng tranh đấu để bảo vệ anh ấy như thế không?

- Chuyện đó quá giả tưởng, không thực đối với tôi.

- Đây không phải chuyện giả tưởng. Tôi chỉ đang hỏi rằng, nếu mọi chuyện chứng tỏ là ông sai, nếu anh ấy không làm vụ này, thì liệu ông có bỏ cùng công sức như thế để giúp anh ấy không?

- Nếu mọi chuyện chứng tỏ tôi sai thì hắn đâu cần tôi giúp làm gì.

- Liệu ông sẽ giúp chứ?

- Giúp. - Reacher đáp vì điều này quả là một lời hứa quá dễ dàng.

- Vậy thì ông phải nghĩ thoáng ra một chút.

- Tại sao cô dọn đi khỏi nhà của hắn?

Cô không nói gì trong một thoáng.

- Anh ấy lúc nào cũng cáu giận. Sống chung với anh ấy không vui vẻ chút nào.

- Giận về chuyện gì?

- Đủ mọi thứ.

- Vậy thì có lẽ cô mới là người phải nghĩ thoáng ra.

- Tôi đã có thể bịa ra một lý do khác. Nhưng tôi không làm vậy. Tôi nói với ông sự thật. Tôi không muốn giấu điều gì cả. Tôi cần ông tin tưởng tôi. Tôi cần thuyết phục để ông tin. Anh tôi là một người đau khổ, thậm chí có thể bất an nữa. Nhưng anh ấy không làm vụ này đâu.

Reacher không nói gì. Cô hỏi:

- Ông sẽ nghĩ thoáng ra chứ?

Reacher không trả lời. Chỉ nhún vai rồi bỏ đi.

*
* *

Ông không đến bệnh viện. Không tắt máy thở của James Barr. Thay vì thế, ông đến bar rượu thể thao sau khi về khách sạn Metropole Palace để tắm. Sáu khối phố về hướng Bắc của tòa cao ốc kính đen đưa ông trở lại dưới xa lộ và đi vào một khu lụp xụp. Khu trưởng giả sang trọng có một ranh giới phía Nam như ông đã thấy, và giờ thì ông thấy nó cũng có một ranh giới phía Bắc nữa.

Bar rượu nằm sau ranh giới một chút. Nó nằm trong một ngôi nhà vuông vức không thể xác định được ban đầu vốn là gì. Có thể là quán ăn hay phòng trưng bày xe hơi, cũng có thể là một bể bơi. Nó có mái bằng và những cửa sổ bị xây gạch bít lại, và rêu mọc đầy những chỗ máng nước mưa bị chặn rỉ ra.

Bên trong khá hơn, nhưng không có gì đặc biệt. Nó giống như mọi bar rượu thể thao khác mà ông từng đến. Nó là một căn phòng cao, trần gắn đầy những ống dẫn điều hòa không khí sơn đen. Có tới ba tá màn hình tivi treo trên tường và trần nhà. Nó có đủ thứ vật dụng thông thường của một quán bar thể thao, để khắp nơi. Áo thun có chữ ký cầu thủ được đóng khung kính, mũ chơi bóng bầu dục bày trên kệ, gậy khúc côn cầu, bóng rổ, bóng chày, những tờ chương trình thể thao ngày xưa.

Nhân viên phục vụ đều là nữ, đều mặc đồng phục đội cổ vũ. Bộ phận pha chế là nam và mặc đồng phục trọng tài có kẻ sọc. Tất cả các tivi đều mở chương trình bóng bầu dục. Hiển nhiên mọi tối thứ Hai đều vậy, Reacher đoán thế. Một số màn hình là tivi thường, một số là tivi plasma, và một số là màn chiếu. Cùng một cảnh được chiếu hàng chục lần, tất cả chỉ hơi khác về màu sắc và tiêu điểm, cái lớn, cái nhỏ, cái sáng, cái tối.

Bên trong rất đông khách, nhưng Reacher vẫn kiếm được một chiếc bàn riêng. Ở trong góc, ông thích vậy. Một cô phục vụ chăm chỉ đến bên ông, ông gọi một chai bia và bánh burger có pho mát. Ông ăn bánh, uống bia và xem trận bóng. Thời gian trôi, quán càng lúc càng đông và ồn ào, nhưng không có ai đến ngồi chung bàn với ông. Reacher luôn tác động đến người khác theo cách đó.

Ông ngồi một mình, trong chiếc bong bóng yên lặng, trưng một thông điệp rõ ràng: "Tránh xa tôi ra!"

Rồi có một người lờ cái thông điệp đó đi và đến ngồi với ông. Phần nào là lỗi do ông. Ông rời mắt khỏi màn hình và thấy một cô gái lượn lờ gần đó. Cô ta đang lắc lư một chai bia và một đĩa đầy là taco [16] trên tay. Cô quả là đáng ngắm. Tóc đỏ dợn sóng, áo vải bông đỏ mở nút phô ngực và cột lại ở rốn. Cô mặc quần bó bằng chất liệu trông giống như jeans nhưng hẳn là bằng vải thun láng. Đúng chóc phom người phong nhũ phì đồn.

Và cô mang một đôi ủng da bò sát bóng loáng. Cứ mở từ điển bách khoa tới vần C và chữ Country Girl, sẽ thấy ngay hình của cô đang nhìn ta trong đó. Cô trông còn quá trẻ so với tuổi được uống bia [17], nhưng cô chắc chắn đã qua tuổi dậy thì. Điều đó chắc như đinh đóng cột. Những khuy áo căng bó. Và không thấy đường hằn của quần lót dưới làn vải quần ngoài. Reacher nhìn cô hơi lâu, và cô xem đó một lời mời.

Chú thích:
[15] : Bar rượu có để truyền hình cho khách theo dõi các chương trình thể thao, có nơi có cả dịch vụ cá độ.
[16] : Món ăn của người Mexico, một loại bánh rán bằng bột bắp ăn với thịt bò bằm và nước xốt.
[17] : Hai mươi mốt tuổi ở tất cả các bang Mỹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách