Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: sweetdream_20_6
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Xuyên Không - Xuất Bản] Đức Phật Và Nàng | Chương Xuân Di (Tập 1&Tập 2) (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
101#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 11:36:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 92 - Mưu kế của Mộ Dung Siêu



Tôi chầm chậm cất bước trên những bậc đá của lối đi dẫn lên đỉnh Tử Các Phong, thuộc dãy núi Chung Nam Sơn, mở căng lồng ngực, hít hà thật sâu bầu không khí trong lành, tinh khôi cuối tuần này. Nơi ở của Rajiva giống như một bệnh viện điều dưỡng cao cấp thời hiện đại với danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp và không khí tĩnh mịch, thanh bình. Ven đường là những hàng tùng bách cao vút, và những khóm tre trúc xanh ngút ngàn, tỏa bóng râm mát. Đình hóng gió, vọng lầu thấp thoáng ẩn hiện trên những đỉnh đồi cheo leo phía xa xa, khung cảnh rất đỗi yên bình, nên thơ. Mỗi buổi sáng, sau khi Rajiva đến chùa, tôi đều tới ngọn núi Khuê Phong cách nhà không xa để leo núi, tập thể dục. Hôm nay đột nhiên nảy ra ý định muốn leo lên một ngọn núi khác của ngọn Tử Các Phong, nhưng tôi không tìm thấy Mộ Dung Siêu đâu cả, nên đành đi một mình.

Mấy ngày chinh phục ngọn Khuê Phong, đều có Mộ Dung Siêu đi cùng, cậu ra nói rằng muốn rèn luyện sức khỏe. Nhưng tôi biết, cậu ta muốn tôi giúp để có thể liên lạc với chú mình. Một nguyên nhân nữa là vì Mộ Dung Siêu rất muốn được nghe tôi kể tiếp cậu chuyện về Lưu Bang và Hạng Vũ năm xưa. Kể hết chuyện Lưu Bang, Hạng Vũ, lại kể sang “Tam quốc sách”. Người mẹ Sính Đình của cậu ta tuy rất giỏi thơ phú, nhưng cô ấy không mấy hứng thú với những câu chuyện lịch sử chém giết đẫm máu. Hô Diên Bình không phải là người hay chữ, nên cũng không thể truyền dạy những kiến thức đó cho Mộ Dung Siêu. Nhà lại nghèo, không mua nổi sách, nay được tôi giảng giải cho nghe, cậu ta đương nhiên rất vui mừng. Ngày nào cũng đòi tôi kể chuyện, và chỉ khi nào tôi phải đi xử lý công việc, cậu ta mới chịu “buông tha” cho tôi với nỗi tiếc nuối ngập tràn.

Leo đến lưng chừng núi, muốn dừng lại nghỉ ngơi ở một đình hóng gió, nên tôi đã men theo một lối đi nhỏ hoa lê nở đầy. Được mấy bước, chợt tôi nhìn thấy trong đình có hai bóng người: Một thanh niên cao lớn, tráng kiện, vận quần áo màu thiên thanh nho nhã, lịch lãm và một thiếu nữ váy hồng yêu kiều tha thướt. Chàng trai đang trầm ngâm dõi mắt nhìn dãy núi xa xa, cô gái im lặng cúi đầu, đứng phía sau. Trai thanh gái lịch, váy hồng liễu xanh, tạo nên một khung cảnh thơ mộng, lãng mạn. Chỉ có điều, khi nhận ra họ là ai, tôi bỗng thấy kinh ngạc và khó xử.

Chả trách, sáng sớm đã không thấy Mộ Dung Siêu đâu, thì ra cậu ta bận chạy đến chỗ này hẹn hò. Cô gái xinh đẹp kia, không phải vợ cậu ta, mà là một trong các thiếu nữ Lương Châu đang trú ngụ tại nhà chúng tôi: Yến Nhi.

Đúng lúc tôi đang bối rối không biết có nên tránh đi hay không, thì họ nghe thấy tiếng bước chân tôi. Họ quay đầu lại, và khi nhận ra tôi, cả hai đều đỏ mặt, rồi cả hai cùng bối rối. Tôi nhếch môi cười, quay lưng bỏ đi.

- Cô cô, xin dừng bước!

Mộ Dung Siêu lao đến giữ tay tôi lại, rồi quay sang nói với Yến Nhi:

- Cô về trước đi.

Yến Nhi nhìn tôi bằng ánh mắt rất phức tạp, mặt đỏ như gấc chín, rảo bước qua tôi, vội vã xuống núi.

Tôi đi theo Mộ Dung Siêu vào đình hóng gió, bóng chiếc váy hồng ngày càng khuất dần. Họ bắt đầu từ khi nào vậy? Sao tôi không hề hay biết? Yến Nhi bảo rằng, cô ấy ái mộ Rajiva ngay từ lần gặp đầu tiên mà! Lẽ nào bây giờ cô ấy chuyển sang mục tiêu khác


Mộ Dung Siêu đứng bên cạnh tôi, vạt áo thiên thanh phất phơ trong gió, ánh nắng buổi sớm tỏa rạng, càng làm nổi bật vẻ điển trai, thư sinh của cậu ta. Chàng trai trẻ này trẻ trung, đẹp trai là thế, lại mang trong mình khí chất cao quý bẩm sinh của dòng dõi Mộ Dung, Yến Nhi từ bỏ Rajiva mà theo đuổi cậu ta cũng là điều dễ hiểu. Nghĩ như vậy, nỗi bực bội của tôi khi nãy tan dần.

Nhưng, tôi vẫn không kìm được một tiếng thở dài:

- Siêu ơi, cháu làm như vậy là có lỗi với vợ cháu.

Cậu ta sững sờ, mặt đỏ như gấc, lắp bắp:

- Cháu… cháu không… chị ấy cũng sẽ không…

Đến lượt tôi sững sờ. Trầm ngâm hồi lâu, tôi quay mặt sang hướng khác, ngắm nhìn những dãy núi trùng điệp, tươi xanh ngợp mắt. Đúng vậy, Mộ Dung Siêu không cho rằng như thế là phản bội vợ mình. Cậu ta kết hôn rồi thì sao? Ở thời đại này, đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp. Hô Diên Tĩnh dẫu có biết chuyện, cũng chỉ lặng lẽ tủi thân mà thôi. Cô ấy hiền lành, dễ chịu là thế, rất có thể sẽ dễ dàng chấp nhận việc Yến Nhi làm vợ lẽ của Mộ Dung Siêu. Ngày sau, Mộ Dung Siêu sẽ trở thành vua một nước, dù chỉ là một quốc gia nhỏ bé, thế lực yếu mỏng, không có đủ tam cung lục viện như bao Hoàng đế khác, nhưng chắc chắn, cậu ta sẽ không chỉ có một người vợ là Hô Diên Tĩnh.

Có điều, tôi đến từ thế kỷ XXI, tư tưởng một vợ một chồng đã ăn sâu vào tiềm thức. Tôi lại được chứng kiến đôi trẻ sống bên nhau, cùng nhau vượt qua hoạn nạn từ thuở nhỏ. Mấy ngày qua, tôi đã để ý và biết rằng Hô Diên Tĩnh rất nặng lòng với Mộ Dung Siêu. Thế nên, cứ nghĩ đến việc cậu ta phản bội vợ mình, tôi lại cảm thấy buồn bực trong lòng.

- Cô cô giận cháu ư?

Mộ Dung Siêu đặt tay lên vai tôi. Quay đầu lại, nhận thấy vẻ ngạc nhiên lạ lùng xen lẫn nỗi lo lắng trong mắt cậu ta. Tôi lên tiếng:

- Siêu à, lẽ ra cô không nên can dự vào chuyện này, nhưng thực lòng cô không muốn thấy cháu có năm thê bảy thiếp, nay người này mai người khác, không chung tình, chung thủy.

Cậu ta sững sờ, nhìn tôi không chớp mắt, hắng giọng nói:

- Cô hiểu nhầm rồi. Cháu và cô ấy không có chuyện gì cả. Gần đây, cô ấy cứ lén lút tặng quà cho cháu, lúc thì túi thơm, lúc thì giày vải, lúc lại túi thêu… Cháu hiểu ý tứ của cô ấy, nên hôm nay hẹn riêng cô ấy đến đây để nói rõ ràng, cháu chưa có ý định cưới vợ lẽ.

Vậy là tôi đã trách nhầm cậu ta! Tôi gãi đầu, cười gượng gạo. Không ngờ Mộ Dung Siêu lại là người nguyên tắc như vậy. Yến Nhi xinh đẹp hơn Hô Diên Tĩnh nhiều, vậy mà cậu ta không hề động lòng.

Cậu ta bước tới, đứng cạnh tôi, phóng mắt ngắm cảnh đồi núi trùng điệp. Một lúc sau mới buông tiếng thở dài:

- Lúc này mà tính chuyện nạp thiếp là thiếu lý trí. Cháu chỉ tạm thời lưu lại Trường An để tìm kiếm cơ hội liên lạc với chú cháu. Nếu cưới Yến Nhi, một mình cháu phải chăm sóc ba người phụ nữ, đường đi xa xôi, hiểm trở, giữa thời buổi binh đao loạn lạc này, cháu làm sao gánh vác nổi.

Tôi há hốc miệng, rồi tự phạt bằng việc đánh vào đầu mình một cái. Vì sao đầu óc tôi lúc nào cũng toàn nghĩ đến chuyện yêu đương thế nhỉ? Tôi đã quên mất người trước mặt mình là Mộ Dung Siêu, người mà lúc nào cũng chỉ nghĩ đến vương vị, quyền lực, mà không phải tình yêu.

Cậu ta chăm chú quan sát phản ứng của tôi, ánh mắt lấp lánh những ý tứ khó hiểu. Tôi lắc đầu, buồn nản:

- Nắng quá, chúng ta về thôi.

Cậu ta kéo tay tôi lại, thận trọng rút từ trong người ra một túi vải bọc gì đó khá dài. Đó là một thanh gươm cong, chừng bảy, tám tấc, bao gươm dát vàng, nạm ngọc ngà châu báu lấp lánh. Cậu ta nâng niu thanh gươm vàng trong tay, rút ra khỏi vỏ, lưỡi gươm sắc nhọn, phản chiếu thứ ánh sáng buốt lạnh.

- Đây là di vật bà nội cháu để lại trước lúc lâm chung. Năm xưa, khi ra đi, chú cháu đã nói rằng ngày sau sẽ nhờ vào thanh gươm này để nhận nhau. Bà nội căn dặn rằng: nhất định phải tìm được chú cháu, nhất định phải khôi phục đại nghiệp của nhà Mộ Dung.

Tôi lặng nhìn thanh gươm chứa nặng sự kí thác, lòng tin tưởng và khát vọng cháy bỏng mấy đời nhà Mộ Dung. Ánh sáng lạnh lẽo hắt ra từ thanh gươm, chiếu rọi tham vọng mãnh liệt dâng trào trong mắt Mộ Dung Siêu. Trong lòng đột nhiên thấy buồn ảo não, không ngăn nổi tiếng thở dài:

- Siêu ơi, những ngày qua cháu dành thời gian để leo núi cùng ta, hôm nay lại cho ta xem những thanh gươm này, mục đích là muốn ta giúp cháu chuyện gì?

Cậu ta ngẩng lên, vẻ ngượng ngập:

- Cô cô biết cả rồi ư?

Cậu ta suy nghĩ một lát, rồi nhìn tôi nghiêm nghị:

- Mẹ kể với cháu rằng, năm xưa ở Guzang, cô cô từng kết giao với Lý Cảo, Đoàn Nghiệp, Đỗ Tấn và cả Thư Cử Mông Tốn nữa. Bọn họ đều rất mực nể trọng pháp sư và cô cô. Những người này không hề tầm thường, họ nể trọng cô bởi vì cô có điểm gì đó hơn người. Những ngày qua được nghe cô bàn chuyện kim cổ luận việc giang sơn, cháu lấy làm cảm phục vô cùng. Người phụ nữ tài giỏi như cô, trên đời này thực là khó kiếm.

Đột nhiên cậu ta quỳ xuống, nhìn tôi khẩn thiết:

- Cô cô đã nhiều lần cứu mạng cháu, ngày sau cháu nhất định sẽ báo đáp. Không biết, cô cô có thể chỉ cho cháu cách liên lạc với chú cháu được không?

Tôi kinh ngạc, dạt sang bên, né tránh rồi cất giọng bình thản:

- Cháu đứng lên đi, cô là đàn bà con gái, không thể giúp cháu bày mưu tính kế.

Tôi đã suy nghĩ rất kỹ và quyết định rằng, dù tôi không thể thay đổi đường đi của bánh xe lịch sử, dù rằng số phận của Mộ Dung Siêu đã được an bài như ghi chép của sử sách, nhưng kết cục bi thảm ấy không thể bắt nguồn từ việc tôi vạch đường chỉ lối cho cậu ta được. Tôi không thể nhẫn tâm nhìn đứa trẻ đã cùng tôi trải qua những ngày tháng gian nan nhất của cuộc đời lao đao vào con đường nghiệt ngã ấy…

Cậu ta vẫn kiên tâm quỳ lạy, không chịu đứng lên, khuôn ngực phập phồng, ánh mắt chờ đợi:

- Cô ơi, chú cháu không có con trai nối dõi, cháu là người thân thiết của chú ấy. Nếu tìm được chú ấy, cháu sẽ lên ngôi vua, cháu sẽ phong cho cô tước vị mệnh phụ cao quý, để cô cháu ta được cùng nhau chung hưởng vinh hoa phú quý.

Tôi nhìn cậu ta đầy ngỡ ngàng, gương mặt ấy tràn đầy niềm tin vào tương lai sáng lạn, có lẽ trong đầu cậu ta lúc này, chỉ có hình ảnh của chiếc ngai vàng lấp lánh. Lòng tôi chợt chùng xuống, buồn vô hạn, cậu ta muốn mua chuộc tôi bằng tiền bạc và quyền lực ư? Quốc gia nhỏ bé của cậu ta ngày sau chiến tranh liên miên, thoi thóp trong sự kìm kẹp của các nước lớn, “đất đai chừng mười thành thị, dân số chừng vài vạn người”. Để chuộc lại người mẹ và người vợ mà cậu ta bỏ rơi ở Trường An, cậu ta đã phải bắt cóc các ca kĩ của Đông Tấn (vì cậu ta không tìm nổi ca kĩ trong cái quốc gia quá nhỏ bé, dân số quá ít ỏi của mình) dâng cho Diêu Hưng. Lưu Dục đã viện vào cớ này để gây chiến, chưa đầy sáu năm, tiểu quốc của cậu ta đã bị tiêu diệt. Vậy mà cậu ta dám nói chuyện vinh hoa phú quý với tôi!

Tôi trả lời lạnh lùng:

- Siêu à, cháu đánh giá quá cao mảnh đất nhỏ bé của chú cháu rồi đấy. Vinh hoa phú quý ư? Cháu cho rằng cháu có thể ngồi yên trên ngai vàng ấy sao? Cháu cho rằng một khi có được vương vị thì có thể làm bất cứ chuyện gì cháu muốn sao? Cháu có biết, chính cái ngai vàng mà ngày đêm cháu mơ tưởng ấy sẽ khiến cháu mất mạng chỉ trong một thời gian ngắn không?

Ngọn lửa trong mắt Mộ Dung Siêu ngay lập tức bị dập tắt, cậu ta nhìn tôi đăm đăm, miệng há hốc, nhưng không nói được lời nào. Tôi quay gót bước đi, ra khỏi đình, bỗng dừng lại:

- Cháu từ bỏ ý nghĩ đó đi. Cháu còn gọi ta là cô cô ngày nào, cô sẽ không nói bất cứ điều gì cho cháu cả.

Dứt lời, không buồn nhìn cậu ta nữa, tôi lẳng lặng xuống núi, cậu ta không đi theo. Về đến nhà, một dự cảm bất an dâng lên trong tôi, Mộ Dung Siêu chắc chắn không dễ dàng từ bỏ như vậy…

Chủ đề này được lặp lại nhiều lần vào những ngày leo núi tiếp theo. Cậu ta khiến tôi bực mình, giận quá tôi không nói chuyện với cậu ta nữa. Mấy ngày liền cậu ta không đi leo núi cùng tôi, chờ khi tôi nguôi giận, mới lại xuất hiện trong đình hóng gió trên sườn núi Khuê Phong. Cậu ta tỏ ra ngoan ngoãn hơn, không dám nhắc đến chuyện kia nữa. Và tôi, sau rốt, vẫn không thể lạnh lùng với cậu ta mãi được. Tôi cho phép cậu ta tiếp tục leo núi cùng mình.

Đứng trong đình hóng gió, tôi vừa thở hổn hển, vừa phóng tầm mắt ra xa chiêm ngưỡng núi non hùng vĩ. Khi ấy đã là cuối tháng năm, hơi nóng lan trong gió, mồ hôi đầm đìa lưng áo.

Có vật gì đó đột ngột xuất hiện trên trán, khiến tôi giật mình. Mộ Dung Siêu tay cầm mảnh khăn, đôi mắt to, lấp lánh mê hoặc, nụ cười rạng rỡ:

- Cô ơi, mồ hôi nhễ nhại trên trán cô rồi kìa, để cháu lau cho cô.

Cậu ta tiếp tục xích lại gần tôi, chực đưa tay lên trán tôi, mùi hương đặc biệt trên cơ thể của chàng trai trẻ bay vào mũi tôi, sự gần gũi ấy khiến tôi bối rối, tôi vội quay đi hướng khác, né tránh:

- Cô cũng có khăn tay, để cô tự lau.

Cậu ta dừng lại, vẫn cười rất tươi, hàng lông mày thanh tú rướn cao, rất mực hào hoa, phong độ.

- Cô có khát không?

Tôi gật đầu. Giữa đường, Mộ Dung Siêu sơ ý đánh rơi túi nước, nên tôi đành chia một nửa nước cho cậu ta. Thời tiết hôm nay quá ư oi bức, cậu ta uống hết nửa túi mà vẫn kêu khát, tôi lại phải đưa nốt nửa túi nước còn lại của mình cho cậu ta. Mộ Dung Siêu suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên, mỉm cười tinh nghịch, kéo tay tôi, lôi đi:

- Cháu biết chỗ nào có nước!

Tôi thấy hơi khó chịu vì bị kéo đi như thế. Gần đây, cậu ta thường hay đụng chạm vào người tôi, lúc thì nắm tay, lúc thì lại dìu tôi đi, và luôn ra sức thể hiện sự quyến rũ, nam tính trước mặt tôi. Tôi hơn cậu ta những mười ba tuổi, nên luôn đặt mình vào vị trí là bề trên của cậu ta. Nhưng những ngày qua, cách cậu ta nhìn tôi, dường như không phải là thái độ của người bề dưới đối với người bề trên. Tôi gỡ tay cậu ta ra, bảo rằng tôi tự đi được. Trong lòng thấp thỏm lo âu, cầu mong sao, chuyện chỉ là do tôi đa nghi mà thôi.

Trước mắt tôi là một dòng suối tinh khiết len qua khe núi, chảy xuống một hồ nước trong vắt. Chốc chốc lại có vài chú chim ríu rít vỗ cánh bay lên từ mặt hồ, khung cảnh thanh bình, yên ả lạ lùng. Cảnh sắc nên thơ ấy khiến tôi gạt qua mọi ưu tư, vừa vỗ tay, vừa hứng khởi chạy đến bên dòng nước. Tôi vốc nước lên mặt, làn nước xanh trong, mát lạnh chạm vào da thịt, cảm giác thoải mái, dễ chịu lan tỏa khắp cơ thể tôi.

Rửa mặt xong, tôi thấy Mộ Dung Siêu đã cởi bỏ áo ngoài, cánh tay để trần, từng đường nét trên tấm lưng vạm vỡ hiện lên rõ rệt, làn da trắng bóc, sức trẻ toát ra từ cơ thể khỏe khoắn của cậu ta. Cơ bắp cuồn cuộn trên cánh tay, trên bả vai, những múi thịt chắc nịch ở phần bụng, những giọt nước chạm vào cơ thể cậu ta, long lanh màu mật ong dưới ánh nắng mặt trời, chầm chậm chảy xuống, hấp dẫn khó tả.

Cậu ta quay sang nhìn tôi, khóe môi uốn cong thành một nụ cười mê hoặc, sau đó cởi bỏ giày, tất, xắn cao quần, bước xuống nước. Cậu ta cười vang, té nước vào người tôi. Tôi mắng vui mấy câu, rồi cũng tháo giầy, cởi tất, ngồi trên bờ, thả chân trần xuống nước. Làn nước trong veo, mát lạnh ôm ấp cổ chân tôi, tôi đặt chân lên một hòn đá cuội vừa tròn vừa trơn, nhắm mắt tận hưởng ngọn gió nam ấm áp.

“Ào ào”, nước bắn xối xả về phía tôi, tôi vừa mở mắt đã bị kéo dậy:

- Cô ơi, cô xuống nước đi, thoải mái lắm.

Chưa kịp phản ứng, tôi đã bị cậu ta lôi đi, viên đá dưới chân tôi rất trơn, tôi gào thét yêu cầu cậu ta đi chậm lại nhưng cậu ta không nghe, tôi bồn chồn lo lắng, hình như cậu ta cố ý làm vậy. Tôi nghiêm nghị nói với cậu ta rằng tôi muốn trở lại bờ, vừa vùng thoát khỏi một cánh tay, thì cánh tay kia của cậu ta đã vòng ra trước ngực túm lấy tôi. Sau đó cả hai cùng ngả người chới với về phía sau, tôi thấy mình bị kéo ngã nhào xuống nước.

Dòng nước mát lạnh lập tức tấn công tôi, tôi cuống cuồng tìm cách đứng lên, nhưng chợt nhận ra, bàn tay mình vừa chạm vào những thớ thịt căng bóng. Tôi nhìn lại và phát hiện ra mình đang nằm trên khuôn ngực trần của Mộ Dung Siêu. Cậu ta ôm chặt eo tôi, hai người gắn chặt vào nhau, ở tư thế ngồi xổm trong nước.

Gương mặt của Mộ Dung Siêu chỉ cách tôi vài tấc, cậu ta nhìn tôi bằng cặp mắt như muốn thiêu đốt người khác. Hơi thở ấm nóng phả vào mặt, tan vào không gian, gợi lên những nhục cảm khôn cưỡng. Tôi hoang mang, vội tìm cách đứng dậy, nhưng bị cậu ta ghì chặt lấy. Cánh tay đặt ở vòng eo tôi ngày một siết chặt lại, tôi ra sức chống cự. Nỗi sợ hãi ngày một lớn dần, chưa kịp lên tiếng, cậu ta đã ghé sát lại. Tôi quay mặt đi, bờ môi như lửa đốt của cậu ta chạm vào má tôi, không khí bức bối, nóng ran, mặt nước như bốc hơi.

Tôi vừa kháng cự, vừa điên cuồng né tránh nụ hôn của cậu ta, không nhẫn nhịn được nữa, tôi quát nạt:

- Mộ Dung Siêu, buông ta ra! Ta là cô cô của ngươi, sao ngươi dám hỗn hào!

Cậu ta bất chấp lời quát mắng, tiếp tục vùi đầu vào cổ tôi, hít hà. Sự vùng vẫy của tôi chỉ khiến gọng kìm của cậu ta thêm thắt chặt. Cậu ta ghì lấy tôi, thì thào, hổn hển:

- Cô cô, cháu thật lòng với cô mà! Cháu thích cô ngay từ ngày cô cứu cháu khỏi đám lính gác cửa cung. Những ngày qua, được ở gần cô, cháu thấy mình như kẻ mê loạn, sa vào lưới tình, chẳng thể dứt ra được. Cô cô, dù biết làm vậy là bất kính, nhưng cháu không thể kiềm chế được bản thân mình nữa rồi.

Tôi vừa xấu hổ vừa tức giận, tim đập liên hồi, máu huyết như dồn cả lên não, mồ hôi vã ra đầm đìa:

- Mộ Dung Siêu, ta ngang hàng với mẹ ngươi, hơn ngươi cả chục tuổi, sao ngươi có thể vô lễ như vậy?

Cậu ta khẽ tách tôi ra, nhưng hai tay vẫn kẹp chặt không buông, ánh mắt mê dại, gợi tình:

- Mẹ bảo cô còn trẻ hơn cả mẹ, dung mạo, cử chỉ của cô cô không khác thiếu nữ hai mươi tuổi, cô trẻ trung, sôi nổi hơn cả chị Tĩnh. Cháu chưa từng gặp cô gái nào thông minh, xinh đẹp, lại cởi mở, dễ gần như cô. Ngày ngày được ở bên cô, trái tim cháu đã thực sự rung động… Huống hồ…

Cậu ta hít một hơi thật sâu, hạ thấp giọng, tiếp tục ghé sát vào tôi, khóe môi nở một nụ cười đong đưa:

- Cô cô không cần phải giấu giếm, cô cũng có cảm tình với cháu, đúng không?

Tôi giật mình, né tránh bờ môi của cậu ta:

- Ngươi nói vậy là ý gì?

Cậu ta vẫn tiếp tục cười cợt:

- Cô cô thường nhìn trộm cháu với ánh mắt yêu thương, tiếc nuối. Khi thấy cháu ở bên Yến Nhi, cô đã nổi trận lôi đình. Cháu không phải tên ngốc, lẽ nào không nhận ra được tình cảm đặc biệt cô cô dành cho cháu?

Tôi tròn mắt, bàng hoàng, miệng lắp bắp:

- Ta… ta đó là vì…

Rồi tôi im bặt, tôi làm sao có thể nói cho cậu ta biết nguyên nhân thực sự của những chuyện đó.

- Pháp sư tuổi tác đã cao, trong khi đó cô cô vẫn trẻ trung, đầy sức sống, cô cô việc gì phải nhẫn nhịn khổ sở như vậy?

Cậu ta đưa tay lên vuốt ve gương mặt tôi, tôi rùng mình, né tránh. Cậu ta mỉm cười, nhướn mày:

- Cô yên tâm, cháu không để ai nhìn thấy đâu…

Tôi cảm thấy vô cùng bức bối, khó chịu, cơn buồn nôn ập tới, như muốn tống mọi thứ trong dạ dày ra bên ngoài. Mọi cử chỉ, lời nói, điệu bộ của cậu ta đều chất chứa sức cám dỗ chết người. Nghĩ lại việc túi nước bị đổ sạch ngày hôm nay, việc cậu ta uống hết nước của tôi, rồi cả việc cậu ta đưa tôi đến đây nữa, mọi thứ dường như đều được lên kế hoạch từ trước. Vì sao cậu ta làm như vậy? Vì cậu ta thật lòng thích tôi ư? Yêu thích một người phụ nữ đã có chồng và hơn cậu ta ngần ấy tuổi ư?

Tôi gắng gượng đẩy cậu ta ra xa, mỉm cười:

- Siêu à, cô không thích ngâm mình trong nước thế này đâu, chúng ta lên bờ nói chuyện, được không?

Thấy tôi thay đổi thái độ, cậu ra mừng ra mặt, vội vàng đỡ tôi dậy, dìu tôi lên bờ. Tôi vắt kiệt nước trên quần áo, hong khô dưới ánh mặt trời, những giọt nước nhỏ tí tách trên mặt đất, chỉ một lát đã đọng lại thành vũng nước nhỏ dưới chân tôi.

- Cô cô…

Mộ Dung Siêu đặt một cánh tay lên vai tôi, giọng nói run rẩy, gợi tình.

Tôi hất mạnh cánh tay cậu ta ra, nghiêm mặt hỏi:

- Siêu à, cháu chỉ muốn dan díu với ta một thời gian, hay muốn quan hệ lâu dài?

Cậu ta sững người, hồi lâu mới khẽ đáp:

- Tất nhiên là cháu muốn được lâu dài với cô cô…

- Lâu dài ư? Ý cháu là sẽ cưới ta làm vợ?

- Chỉ cần cô bằng lòng rời xa pháp sư, cháu nhất định sẽ cưới cô.

Cậu ta ngẩng đầu nhìn tôi, có vẻ hơi bối rối.

- Vậy còn chị Tĩnh của cháu thì sao?

- Cô và chị Tĩnh quen nhau đã lâu, chị ấy chắc chắn sẽ nhường cô làm chị cả.

Tôi bật cười mỉa mai, mới thế là đã kịp chia bà cả bà hai rồi cơ đấy. Tôi suy nghĩ một lát, hỏi:

- Cháu không muốn cưới Yến Nhi vì lo ngại cô ấy trở thành gánh nặng cho cháu trên đường đi tìm chú ruột của cháu. Cô cô sức khỏe yếu ớt thế này, ngày nào cũng phải uống thuốc, lẽ nào cháu không sợ gánh nặng này ư?

Cậu ta cười rạng rỡ, vẻ mặt đắc ý:

- Cô khác với Yến Nhi, với tài năng và trí tuệ của cô, cháu tin rằng, cô nhất định sẽ giúp cháu giành được vương vị. Cháu cũng tin rằng, dù đường xa dặm thẳng, cô sẽ tìm được cách tự bảo vệ bản thân.

Cậu ta nhìn tôi đắm đuối, rồi nắm tay tôi, dịu dàng nói:

- Cháu hứa sẽ không đối xử tệ bạc với cô, cô nhất định sẽ được sống sung sướng. Tuy cuộc sống hiện nay của cháu vẫn còn rất vất vả, nhưng nếu cô bằng lòng vạch đường chỉ lối cho cháu, cháu nhất định sẽ làm nên cơ đồ.

Tôi giận sôi người, hít vào thở ra nhiều lần mới kìm chế được cơn bực tức. Cuối cùng tôi đã hiểu được động cơ của cậu ta. Cầu xin, nài nỉ mãi không được, cậu ta đã nghĩ ra chiêu bài dùng nam nhân kế để dụ dỗ tôi.

Tôi nghiêng đầu, ghé mắt nhìn cậu ta, cất giọng lạnh lùng:

- Nếu cháu muốn cô theo cháu, cháu phải bỏ Hô Diên Tĩnh, bằng không đừng hòng mưu lợi ở ta.

- Cô cô!

Cậu ta giật mình ngẩng mặt lên, ánh mắt hốt hoảng:

- Chị Tĩnh nào có tội tình gì, chị ấy là người hiền thục, an phận, chắc chắn sẽ chung sống hòa thuận với cô cô, không có chuyện tranh giành ghen tị. Ngày sau lên ngôi, cháu sẽ phong cô làm Hoàng hậu.

Tôi bật cười, Hoàng hậu ư? Trước đây Mông Tốn cũng từng nói với tôi như vậy. Những người đàn ông này đều cho rằng đó là món quà lớn nhất mà họ dành cho phụ nữ ư?

Tôi bước đi, nhưng cậu ta đã kéo tôi lại.

Mộ Dung Siêu cắn môi suy tính hồi lâu, sau đó ngẩng lên nhìn tôi, hít một hơi thật sâu, chừng như phải hạ quyết tâm lớn lắm:

- Được, chỉ cần cô cô bằng lòng theo cháu, giúp cháu giành được vương vị, cháu sẽ bỏ chị Tĩnh.

Tôi chăm chú ngó cậu ta hồi lâu, rồi bật cười ha hả. Mộ Dung Siêu ơi Mộ Dung Siêu, vì cái ngai vàng ấy mà cậu sẵn sàng bỏ rơi cả người vợ kết tóc se tơ với mình. Chả trách, sau khi liên lạc được với sứ giả do Mộ Dung Đức bí mật cử đến, cậu ta đã bỏ mặc mẹ và vợ ở lại Trường An, một mình trốn đi. Vì ngai vàng ấy, có việc gì mà cậu ta không dám làm cơ chứ!

“Bốp”!

- Mộ Dung Siêu, ngươi không xứng với ta, càng không xứng với người vợ luôn một lòng một dạ vì ngươi!

Bàn tay rôi run lên bần bật, hình ảnh chú nhóc dễ thương trong tim tôi cũng tan biến theo cái tát ấy…

- Cô cô, cô cô! Cháu thật lòng với cô mà…

Cậu ta cuống quít kéo tôi lại, mặt mày biến sắc, hoang mang, bối rối.

Tôi cười buồn:

- Đừng vờ vịt nữa! Nếu ngươi thật sự thích ta, thì đã không luôn miệng gọi ta là cô cô.

Cậu ta như bị đóng băng. Tôi hất tay cậu ta ra, quay đầu, rảo bước xuống núi. Mộ Dung Siêu không đuổi theo tôi.


p/s: hồi đầu rất thích MDSiêu nhưng sau khi đọc đến đây thì bao nhiêu tình cảm mất tiêu hết luôn, thủ đoạn kinh người, nhưng mà cũng là thân bất do kỉ thôi mà, thời buổi loạn lạc lại mang trên mình trách nhiệm phục quốc :-<
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

102#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 11:40:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 93 - Người hùng cuối cùng của nhà Mộ Dung



Có tiếng gõ cửa, tiếp đó là một giọng nói quen thuộc:

- Chị Ngải Tình, em là Sính Đình.

Tôi mời cô ấy vào phòng, bàn tay vẫn tiếp tục công việc may vá, tôi đang vá lại mấy miếng rách trên tay áo cà sa của Rajiva. Sính Đình ngồi phía đối diện, chăm chú quan sát biểu cảm trên gương mặt tôi. Tôi không nói gì, mà để cô ấy vào đề trước.

- Chị Ngải Tình, hôm nay cháu Siêu bất kính với chị, em thay mặt cháu đến tạ lỗi với chị.

Tôi thở dài, dừng mũi khâu:

- Cậu ta nói với cô rồi à?

Sính Đình gật đầu:

- Nó không nên tỏ thái độ cợt nhả với chị như vậy. Những ngày tháng ở Lương Châu, em đã được chứng kiến tình yêu sắt son, bền chặt của chị và pháp sư. Nó lấy tư cách gì mà xen vào giữa hai người kia chứ! Nó không bàn bạc gì với em đã tự ý làm chuyện đó, thật quá ư lỗ mãng.

Tôi giật mình, ngẩng lên nhìn cô ấy. Sính Đình vận trang phục giản dị của một phụ nữ nghèo khó, khuôn mặt già nua, nhưng lưng vươn thẳng, từ cô ấy toát ra khí chất cao quý, kiêu hãnh của bậc mệnh phụ phu nhân.

- Ngoài sự việc ngày hôm nay, tất cả những việc khác, cậu ta đều bàn bạc với cô trước khi hành động?

Sính Đình từ tốn gật đầu:

- Chính em đã kể với nó những việc làm đáng nể của chị năm xưa ở Lương Châu và rằng chắc chắn chị sẽ giúp được nó. Sau đó, em đã khuyên nó cầu xin chị giúp đỡ, nhưng không ngờ chị đã từ chối. Nó rối trí nên mới dùng mĩ nam kế để dụ dỗ chị. Làm vậy tuy đê tiện, nhưng quả thực nó đã hết cách rồi.

Cô ấy ngừng lại, nhìn sâu vào mắt tôi:

- Chị Ngải Tình, em biết chị rất thương cháu Siêu. Chị không chịu giúp nó, chắc chắn là có nguyên nhân.

Tôi quay đầu đi hướng khác, lặng lẽ thở dài. Cô ấy chầm chậm đứng lên, rồi đột nhiên quỳ xuống trước mặt tôi:

- Sính Đình cầu xin chị giúp cháu!

Tôi kinh ngạc, vội kéo cô ấy lên, nhưng cô ấy nhất quyết không chịu đứng dậy, một mực quỳ lạy, van nài:

- Người cha qua đời từ sớm của nó, và cả bà nội nó nữa đều đặt hi vọng khôi phục Đại Yên vào nó. Chú nó không có con trai, nên chắc chắn rất mong ngóng nó đến đó để kế thừa nghiệp lớn. Chị Ngải Tình, Sính Đình không biết vì sao chị từ chối, nhưng cầu xin chị thương tình chúng em đã phải chịu khổ suốt hai mươi năm qua để chờ đến ngày này mà giúp đỡ nó.

Tôi cảm thấy khó xử khi Sính Đình than khóc thảm thương như vậy. Tôi buồn phiền hỏi cô ấy:

- Sính Đình, nếu chỉ vài năm sau khi giành được vương vị, cậu ta phải chịu cảnh đầu lìa khỏi cổ, cô còn muốn tôi giúp nữa không?

Cô ấy sững sờ, kinh ngạc, sau đó cúi đầu trầm ngâm hồi lâu. Lúc ngẩng mặt lên, tôi lạnh người khi bắt gặp nụ cười tê tái trên môi cô ấy:

- Em muốn!

Cô ấy ngẩng cao đầu, cả quyết:

- Đàn ông phải có chí lớn, không thể tham sống sợ chết. Nó là con trai nhà Mộ Dung, phải gánh vác trách nhiệm lớn lao. Nếu số phận đã an bài như vậy, nếu nó bằng lòng lựa chọn con đường ấy, em là mẹ nó, không có lí do gì mà không ủng hộ nó. Em sẽ cổ vũ con trai mình đến hơi thở cuối cùng!

Giọng cô ấy vang vang, chắc nịch, ánh mắt chói sáng niềm tin và sự quyết tâm:

- Lúc xưa chị từng khuyên em: niềm hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái là “mong gặp người thật lòng, bạc đầu không xa cách”. Lẽ nào em không hiểu anh Hô Diên vì ai mà gia đình tan nát. Lẽ nào em không muốn đền ơn con người nghĩa nặng tình sâu ấy? Nhưng em đã quyết không đi bước nữa, em thà phụ bạc anh ấy…

- Vì sao?

Nhớ lại con người si tình ấy hai mươi năm về trước, tôi không khỏi xót xa thay cho anh ta.

- Bởi vì cháu Siêu cần một người mẹ trong sạch. Có như thế, nhà Mộ Dung, cũng như chú ruột của nó mới chấp nhận nó.

Tôi nhìn cô ấy sửng sốt. Y phục vá víu, khuôn mặt già nua, nhưng ngay cả khi quỳ xuống, vẫn vươn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, khẳng khái. Nụ cười trên khóe môi, thấm đượm bao nỗi truân chuyên, buồn tủi. Tôi đột nhiên nhận ra, sự cố chấp gần như điên cuồng ở Mộ Dung Siêu từ đâu mà có.

Tôi vốn định hỏi thêm cô ấy: Nếu Mộ Dung Siêu bỏ rơi mẹ và vợ, một mình theo đuổi ngôi báu, liệu cô có đồng ý hay không? Nhưng bây giờ tôi nhận thấy, không cần thiết nữa. Người mẹ hết lòng vì con này, đã hạ quyết tâm từ lâu.

- Sính Đình, cho tôi suy nghĩ thêm. Sáng mai sẽ trả lời cô.

Tôi mệt mỏi, lê bước đến bên cửa sổ, ngước nhìn bầu trời với những đám mây trắng như bông đang nhẹ trôi, không một gợn gió, không khí oi nồng bao phủ, bức bối đến khó thở.

- Sao vậy, có chuyện gì buồn à?

Buổi tối về nhà, thấy tôi mặt mày buồn thiu, Rajiva lại gần, đặt tay lên vai tôi.

Tôi đem chuyện Mộ Dung Siêu và Sính Đình đến van nài mình giúp đỡ kể cho chàng nghe, nhưng giấu chuyện Mộ Dung Siêu dùng nam nhân kế với mình. Kể xong, tôi thở dài nặng nề:

- Theo chàng, em phải làm thế nào? Em có nên chỉ đường cho cậu ta không?

- Ngải Tình, nàng nói hay không nói, kết cục có gì thay đổi không?

Chàng trầm ngâm một lát, hỏi tôi. Tôi lắc đầu:

- Em vượt thời gian trở về thời đại của hơn một nghìn năm trước, tham dự vào tiến trình lịch sử, nhưng không hề thay đổi được bất cứ điều gì. Nhiều lúc, em đã nghĩ rằng, phải chăng, chính vì sự xuất hiện của em ở đây, nên lịch sử mới diễn ra như những gì em được thấy sau này? Nếu em không đến, sử sách sẽ ghi chép thế nào?

- Nhưng nàng đã đến đây.

Chàng mỉm cười đôn hậu, ôm lấy bờ vai tôi:

- Mọi thứ đều có quan hệ nhân quả. Nàng phê phán Mộ Dung Siêu cố chấp, bản thân nàng cũng như thế đó thôi. Nếu số phận đã định đoạt như vậy, chi bằng đừng băn khoăn, trăn trở làm gì nữa.

Tôi ngước nhìn gương mặt từ bi với nụ cười dịu dàng của chàng, đột nhiên lòng buồn rười rượi. Năm xưa, chàng kịch liệt phản đối tôi dạy thuật trị nước cho Mông Tốn, vậy mà giờ đây, chàng khuyên tôi nên mở lòng với sự cố chấp của Mộ Dung Siêu. Tính cách của chàng đã bị hiện thực tàn khốc bào mòn đi rất nhiều.

Tôi tựa vào vai chàng, nhắm mắt lại, thả lỏng bản thân. Mấy ngày qua, tôi hay bị mệt, nhẩm tính ngày tháng, chỉ còn chưa đầy hai tháng nữa, tôi sẽ phải rời xa nơi này…

Khi tôi đến phòng của gia đình Mộ Dung, cả nhà họ đang ăn cơm. Từ ngày theo tôi về vườn Tiêu Dao, Sính Đình và Diên Tĩnh nhận giúp việc ở nhà bếp. Rajiva ở chùa, không về nhà, nên ngày nào tôi cũng ăn cơm cùng họ. Hôm nay, họ đã nhiều lần đến mời, nhưng tôi đều từ chối. Tôi ngồi thơ thẩn trong phòng rất lâu mới hạ quyết tâm.

Diên Tĩnh nhanh nhảu xới cơm, gắp thức ăn cho tôi. Tôi ngồi xuống, chẳng còn lòng dạ nào mà ăn với uống. Tôi lạnh lùng nói với Mộ Dung Siêu:

- Ta đồng ý giúp cậu với một điều kiện.

Mộ Dung Siêu vui mừng khôn tả, gật đầu rối rít:

- Cháu xin chấp thuận mọi yêu cầu của cô cô.

Tôi lừ cậu ta một cái, hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói:

- Sau khi đạt được mục đích, cậu hãy đưa cả nhà rời khỏi đây, ta không còn là cô cô của cậu nữa, từ nay về sau, gia đình cậu không còn bất cứ quan hệ nào với ta và pháp sư nữa.

Mộ Dung Siêu tròn xoe mắt kinh ngạc, lắp bắp:

- Cô cô…

- Tĩnh à, chúng ta ra ngoài nào, để phu nhân quốc sư trò chuyện với chồng con.

Sính Đình nghiêm nghị kéo tay Diên Tĩnh, lúc này đang hết sức bàng hoàng ra ngoài và khép cửa lại.

- Cô cô ăn chút gì đi đã.

Cậu ta ngồi phía đối diện, gắp một miếng thịt rang bỏ vào bát tôi, thận trọng cất lời:

- Cả ngày nay cô không ăn gì rồi…

Tôi lắc đầu, cảm thấy khó chịu khi nhìn vào gương mặt đầy kỳ vọng của Mộ Dung Siêu. Thời gian qua, trò chuyện, tiếp xúc với cậu ta, tôi đã nhận ra rằng, Mộ Dung Siêu không phải là người thông minh, tài trí gì. Bởi vậy, ngay cả việc làm thế nào để liên lạc với chú mình, cậu ta cũng không nghĩ ra được phương cách vẹn toàn, mà chỉ chăm chăm trông đợi ở tôi. Ưu điểm duy nhất của cậu ta là sự kiên trì và quyết tâm sắt đá.

- Sắp tới, Vua Diêu Hưng sẽ đến vườn Tiêu Dao dự buổi dịch kinh của pháp sư. Trước đó, cậu hãy tìm một viên quan, và nói cho người đó biết về thân thế của cậu. Chắc chắn người đó sẽ muốn lợi dụng cậu để mưu cầu thăng quan tiến chức, thông tin về cậu sẽ nhanh chóng được truyền đến tai Diêu Hưng.

Đúng như tôi đoán, cậu ta vô cùng ngạc nhiên:

- Cô cô, vì sao phải công khai thân thế của cháu?

- Để chú của cậu biết về sự tồn tại của cậu.

Tôi không còn lòng dạ nào ăn cơm, nên chỉ rót một tách trà, nhấp vài ngụm nhỏ:

- Nếu trực tiếp đến tìm chú ruột cậu, cậu sẽ phải vượt qua muôn dặm đường dài, binh đao loạn lạc. Dẫu có đến được Thanh Châu, cậu cũng khó lòng gặp được ông ấy. Và dù có gặp được chăng nữa, chỉ dựa vào một thanh gươm, liệu ông ấy có tin cậu không? Năm xưa, khi mẹ cậu thành thân với cha cậu, ông ấy đang trên đường theo Phù Kiên chinh phạt, ông ấy chưa từng gặp mẹ cậu… Bởi vậy, cách tốt nhất là để chú cậu chủ động đến tìm cậu.

Tôi nhìn cậu ta, không mảy may cảm xúc:

- Cậu công bố thân thế của mình cho thiên hạ biết, chú cậu tự khắc sẽ đến tìm cậu.

- Diệu kế!

Mộ Dung Siêu mừng rỡ chìa tay về phía tôi, bắt gặp ánh mắt dửng dưng của tôi, cậu ta ngượng ngùng rút tay về.

Tôi cười mỉa, sau khi nhận ra chân tướng con người cậu ta, trong mắt tôi, Mộ Dung Siêu thật đáng thương hại, có dã tâm nhưng không thông minh, chả trách, ngày sau, tuy chiếm ưu thế về mọi mặt, nhưng cậu ta vẫn bị Lưu Dục đánh bại. Nếu cậu ta kiên trì muốn đi con đường này, tôi sẽ giúp cậu ta toại nguyện, xem như tôi trả hết món nợ ân tình ngày cũ.

- Đừng vui mừng quá sớm. Cậu thử ra ngoài cửa và gào lên: Tôi là cháu ruột của Mộ Dung Đức, hoàng đế nước Đại Yên, xem có ai tin không.

- Việc này…

Cậu ta cúi đầu, cắn môi:

- Đúng là sẽ không có ai tin, vậy phải làm sao?

- Pháp sư Kumarajiva.

Tôi nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói:

- Hồi nhỏ cậu từng sống ở nhà của pháp sư, ngài sẽ làm chứng cậu chính là Mộ Dung Siêu.

- Nhưng, chú cháu không quen biết pháp sư, liệu chú ấy có tin lời pháp sư không?

- Chỉ cần Diêu Hưng tin là đủ.

Tôi đặt tách trà xuống bàn, lắc đầu nhìn cậu ta. Mộ Dung Siêu quả thật không có đầu óc chính trị. Nhưng cũng khó trách, hai mươi mốt năm vật lộn với đói nghèo, nào có ai truyền dạy cho cậu ta mưu lược, kế sách đâu.

- Chú cậu chắc chắn đã gài tai mắt xung quanh Diêu Hưng, những người đó sẽ mang tin này về cho ông ấy.

Cậu ta nghe xong thì mặt mày rạng rỡ, suy nghĩ một lát, thận trọng nói:

- Cô ơi, nếu biết được thân thế của cháu, Diêu Hưng chắc chắn sẽ lợi dụng cháu để uy hiếp chú cháu.

- Điều đó là đương nhiên.

Tôi gật đầu, cậu ta cũng biết suy luận đấy chứ.

- Diêu Hưng ngoài mặt sẽ đối xử tử tế với cậu, cho cậu làm quan, nhưng đằng sau thì cử người giám sát cậu. Khi nào ông ta và chú cậu có sự xung đột về lợi ích, ông ta sẽ bắt giam cậu, dùng cậu làm điều kiện thương thuyết.

Cậu ta sợ hãi, kêu lên:

- Vậy cháu phải làm sao? Không được tự do, cháu làm thế nào mà tìm được chú cháu? Tốt hơn hết là không nên để lộ thân thế.

Tôi mệt mỏi, nhắm mắt lại:

- Không nên sợ hãi. Cậu cứ làm như ta nói, rồi ta sẽ chỉ dẫn cậu bước tiếp theo phải làm gì.

Cậu ta ngoan ngoãn gật đầu, nhìn bát cơm vẫn còn nguyên trước mặt tôi, nuốt nước bọt:

- Cô không ăn sao?

Tôi lắc đầu chán nản.

Cậu ta thận trọng nhìn tôi, dò ý:

- Hay là, để cháu ăn đỡ cô. Không nên lãng phí…

Tôi sững sờ, tâm trạng rối bời. Tôi đẩy bát cơm về phía cậu ta. Mộ Dung Siêu hớn hở đón lấy, sau đó trút tất cả đồ ăn còn thừa trên bàn vào bát, nhai nuốt ngon lành. Khi nãy cậu ta đã ăn mấy bát rồi, giờ có ăn thêm cũng không phải vì đói bụng mà vì ăn theo quán tính, vì thói quen.

Sau khi gặp lại cậu ta, tôi đã quên mất đặc điểm này ở Mộ Dung Siêu: cậu ta là người không bao giờ lãng phí lương thực!

Phải trải qua đói khổ triền miên người ta mới trân trọng và tiết kiệm lương thực đến mức bủn xỉn như thế. Điều này lẽ ra là một phẩm chất đáng quý, nhưng đối với trường hợp của Mộ Dung Siêu, nó gây ra thất bại thảm hại của cậu ta ngày sau.

Lưu Dục đích thân dẫn quân chinh phạt nước Đại Yên của Mộ Dung Siêu, xuất phát từ thành phố Nam Kinh ngày nay, vượt sông Trường Giang, tiến về phía Bắc, vượt qua phân nửa tỉnh Giang Tô để đến Sơn Đông, tiếp tục xuyên qua nửa già tỉnh Sơn Đông mới đến được Thanh Châu. Đường xa hiểm trở, khi ấy lại là mùa hạ, dẫn quân xâm nhập vào sâu lãnh thổ của kẻ địch hàng mấy trăm dặm, hành động của Lưu Dục khi ấy đi ngược hoàn toàn với lý thuyết chiến lược quân sự.

Trong tình huống đó, chỉ cần Mộ Dung Siêu chốt chặt cửa ải Đại Hiện, chờ khi kẻ địch suy yếu mới tiến đánh, đồng thời thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, phá hủy toàn bộ hoa màu, khiến cho quân Tấn không đánh được, cũng không cướp được lương thực để bổ sung cho cuộc chiến trường kỳ. Sau đó, nếu Mộ Dung Siêu phái kỵ binh đánh úp quân Tấn từ phía sau, chặt đứt đường tiếp vận của họ, thì việc Lưu Dục ngày sau có được làm Tống Vũ Đế hay không, sẽ là một câu hỏi khó trả lời.

Nhưng vì sao Lưu Dục lại liều lĩnh hành động như vậy?

Bởi vì, ông ta đã nhận định chuẩn xác điều này: không thể có chuyện Mộ Dung Siêu phá hủy hoa màu.

Kết quả là, Mộ Dung Siêu để Lưu Dục xâm nhập vào cửa ải Đại Hiện. Sau đó xuất quân nghênh chiến, hoàn toàn rơi vào thế bất lợi. Cậu ra rút vào trong thành cố thủ, bị bao vây nửa năm trời. Mộ Dung Siêu không chịu đầu hàng, quyết định phá vây, nhưng thất bại và bị bắt. Lưu Dục giải cậu ta về Kiến Khang, chặt đầu trước bàn dân thiên hạ.

Trong suốt hơn một trăm ba mươi năm lịch sử thời kỳ Thập lục quốc, nhà Mộ Dung trải qua hết trận sóng gió này đến cơn bão táp khác, hết vong quốc, lại phục quốc, rồi lại vong quốc. Các đấng nam nhi của dòng tộc không ngừng kế tục truyền thống của người đi trước, quyết tâm xây dựng quốc gia riêng cho mình. Có thể nói, chưa từng có dòng họ nào trong lịch sử Trung Quốc lại cho ra đời nhiều trai thanh gái lịch, anh hùng, mĩ nữ như dòng họ này. Tiếc thay, nội bộ không đoàn kết, chính điều này đã làm mòn dần sức mạnh của dòng họ cho đến những phút cuối cùng. Mộ Dung Siêu là hoàng đế cuối cùng của gia tộc Mộ Dung. Kết cục bi thảm của cậu ta đã đánh dấu chấm hết cho nhiệt huyết và khát vọng phục quốc mãnh liệt của dòng họ này.

Tôi lặng lẽ quan sát Mộ Dung Siêu đang ăn uống rất ngon miệng, cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Sau khi giúp cậu ta đạt được mục đích, quả thực, tôi không còn muốn gặp lại con người này nữa…

Đầu tháng sáu, Diêu Hưng cùng văn võ bá quan, trong số đó có cả Hách Liên Bột Bột đến vườn Tiêu Dao xem xét tiến độ dịch thuật kinh Phật của Rajiva. Mộ Dung Siêu đã tìm được một viên phó tướng và tiết lộ thân thế của mình cho người đó, chỉ vài ngày sau Diêu Hưng đã hay tin. Diêu Hưng gọi Mộ Dung Siêu đến, thấy cậu ta dung mạo, cử chỉ nho nhã, vua lấy làm kinh ngạc. Nhưng Diêu Hưng không tin lời nói một phía của Mộ Dung Siêu, và vẫn nghi hoặc thân thế của cậu ta.

Mộ Dung nói rằng hồi nhỏ từng có thời gian lánh nạn ở nhà pháp sư Kumarajiva. Diêu Hưng hỏi Rajiva, chàng đã xác nhận với nhà vua rằng, chàng trai trẻ này chính là giọt máu của nhà Mộ Dung.

Có Rajiva làm chứng, Diêu Hưng không thể không tin, nhà vua vui mừng phong quan cho Mộ Dung Siêu, còn ban phủ đệ cho cậu ta nữa. Nhưng chỉ vài ngày sau khi gia đình Mộ Dung Siêu chuyển tới nơi ở mới, người ta đã kháo nhau tin đồn động trời. Mộ Dung Siêu đụng phải kẻ thù không đội trời chung là Hách Liên Bột Bột trên đường đi, hai bên lời qua tiếng lại, rồi lao vào đấm đá. Mộ Dung Siêu bị đánh trọng thương, thành ra ngớ ngẩn.

Diêu Hưng sai người đến kiểm tra nhiều lần, Mộ Dung Siêu không nhận ra bất cứ ai, mẹ và vợ cậu ta đau lòng khôn xiết. Cậu ta hóa điên, lang thang trên phố xin ăn, bị dân chúng Trường An khinh miệt.

Diêu Hưng cho người điều tra việc này, được biết Mộ Dung Siêu và Hách Liên Bột Bột trước đó đã có mối thâm thù, nhà vua cảm thấy nuối tiếc, trách móc Hách Liên Bột Bột đôi câu. Một kẻ điên khùng thì không thể trở thành con tin đem ra trao đổi với Mộ Dung Đức được, Diêu Hưng từ đó, không thèm để ý đến Mộ Dung Siêu nữa.

Em trai Diêu Hưng là Diêu Thiệu thấy chuyện này có điều gì bất ổn, khuyên Diêu Hưng nên khống chế Mộ Dung Siêu bằng tước vị. Vua Diêu Hưng nghe theo lời khuyên, đến gặp Mộ Dung Siêu một lần nữa, nhưng bộ dạng điên dại ngớ ngẩn của Mộ Dung Siêu khiến nhà vua bực bội, chán nản, bèn nói rằng: Ngạn ngữ có câu “da tốt không bọc cốt hư”, nhưng tên Mộ Dung Siêu này, vẻ ngoài tốt mã mà bên trong thì như rơm rạ mục ruỗng. Ngạn ngữ kia không đúng chút nào.

Diêu Hưng thu hồi phủ đệ đã ban cho Mộ Dung Siêu, từ đó về sau không thèm ngó ngàng đến cậu ta nữa. Mộ Dung Siêu cùng người nhà trở lại cảnh sống nghèo khổ như xưa, nhưng đổi lại, cậu ta được tự do.

Từ khi gia đình Mộ Dung chuyển đi, tôi đã không qua lại với họ. Cuối tháng sáu, em bé trong bụng Sơ Nhụy đã được gần chín tháng, tôi bận rộn chuẩn bị cho sự ra đời của đứa trẻ. Vì tôi biết mình không thể sinh nở được nữa, nên tôi rất kỳ vọng vào đứa bé trong bụng Sơ Nhụy. Tiếc là, tôi chỉ còn một tháng nữa ở đây…

Rajiva nói với tôi, được biết, vào tháng bảy hàng năm, Khâu Từ thường tổ chức lễ hội Sumuzhe rất linh đình, vua Diêu Hưng lấy làm ngưỡng mộ. Hiện nay quốc thái dân an, nên nhà vua muốn học theo Khâu Từ, tổ chức lễ hội Sumuzhe vào tháng bảy tới đây tại Trường An. Thông tin này khiến tôi vui mừng khôn xiết, nhẩm tính thời gian thì vừa hay, tôi có thể ở lại đây cho đến khi lễ hội kết thúc.

Tôi bồi hồi nhớ lại lễ hội Sumuzhe ở Khâu Từ. Năm đó có Pusyseda vui chơi cùng tôi, những tháng ngày trẻ trung, sôi nổi, vô lo vô nghĩ ấy nay đã thành kỉ niệm. Chàng trai hào hoa, phóng khoáng năm đó, nay cũng đã hơn năm mươi tuổi rồi. Không biết ở nơi xa xôi ngàn dặm, gia đình cậu ấy có được mạnh khỏe, bình an không? Thấy tôi thổn thức, Rajiva biết tôi đang nghĩ gì, chàng cười bảo, chàng sẽ đưa tôi đi chơi trong lễ hội Sumuzhe sắp tới, để tôi không phải tiếc nuối khi trở về.

Cả tôi và Rajiva đều biết, ngày tháng li biệt không còn bao lâu nữa. Nhưng chúng tôi không muốn thể hiện nỗi buồn ra bên ngoài mà thay vào đó là nụ cười hạnh phúc dành cho nhau mỗi ngày. Được sống bên nhau dù chỉ nửa năm, chúng tôi cũng biết ơn Phật tổ lắm rồi, và không còn mong cầu gì nữa.

Không khí trên núi Chung Nam Sơn rất mát mẻ, dễ chịu. Sau một buổi trưa thanh nhàn, thư thái, Hô Diên Tĩnh bất ngờ xuất hiện ở nhà tôi, hai mắt đỏ hoe:

- Cô cô, cầu xin cô hãy khuyên bảo em Siêu giúp cháu, em ấy chỉ nghe lời cô mà thôi…

Cô ấy nghẹn ngào, lắp bắp. Tôi lắc đầu, tỏ rõ thái độ rằng tôi không quan tâm đến chuyện của cậu ta nữa.

Hô Diên Tĩnh rút ra một chiếc khăn giấu trong tay áo, đưa cho tôi:

- Cô cô, em ấy, em ấy, ngày nào cũng nhìn ngắm chiếc khăn này…

Là chiếc khăn tay mà tôi đưa cho cậu ta lau mồ hôi lúc trước. Tôi lắc đầu, mệt mỏi đáp:

- Đừng gọi ta là cô cô nữa, ta không còn quan hệ gì với nhà Mộ Dung.

Tôi định ra ngoài, Hô Diên Tĩnh cuống cuồng chặn đường tôi, gào khóc thảm thiết:

- Từ sau khi cháu được cô cô đưa ra khỏi cung đến nay, em ấy… chưa từng đụng vào cháu…

Tôi giật mình, sau đó thì lắc đầu:

- Ta không giúp cháu việc này được…

Hô Diên Tĩnh đã khản giọng, nhìn tôi trừng trừng, gắng sức gào lên:

- Cô cô, em ấy thích cô nên mới như thế…

Tôi xót xa nhìn cô gái khổ sở vì yêu ấy, bình tĩnh nói:

- Tĩnh à, trong lòng cậu ta, ngai vàng mới là quan trọng nhất. Sở dĩ cậu ta làm vậy, vì cậu ta không muốn sinh con ở Trường An mà thôi…

Hô Diên Tĩnh ngơ ngác nhìn tôi hồi lâu, sau đó cúi đầu khóc lóc. Tôi thở dài, nhẹ nhàng khuyên nhủ:

- Tĩnh à, cháu về đi, cô sẽ không can dự vào bất cứ chuyện gì của Mộ Dung Siêu nữa. Ngày sau, nếu cậu ta có người phụ nữ khác, cháu phải gắng mà nhẫn nhịn…

- Phu nhân ơi, nguy rồi!

Cô gái người Lương Châu mười bốn tuổi hớt ha hớt hải lao vào phòng, thiếu chút nữa thì vấp ngã:

- Chị Sơ Nhụy đột nhiên chảy rất nhiều máu, em bé nguy mất…

Tôi thất kinh, mặc Hô Diên Tĩnh ở đó, ba chân bốn cẳng lao đến phòng Sơ Nhụy.


“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

103#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:08:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 94 - Cặp song sinh ra đời



Tình trạng của Sơ Nhụy rất nguy cấp, cô ấy quằn quại vì đau đớn. Thân dưới ra máu, nước ối đã vỡ, loang trên giường. Tôi cho người đi mời bà đỡ, bố trí người chuẩn bị khăn vải sạch đã được luộc qua nước sôi, dây buộc, dao, kéo, nước sôi và rượu trắng. Tôi động viên Sơ Nhụy giữ bình tĩnh, dạy cô ấy cách đếm số để ổn định nhịp thở.

Khi bà đỡ tới nơi, tôi yêu cầu họ mặc quần áo đã được khử trùng, sau đó tôi theo sát họ để phụ giúp. Tôi rất bối rối, vì tôi không phải bác sĩ, những kiến thức về sinh nở mà tôi biết đều nhờ đọc sách, nên cũng chỉ hiểu một cách tương đối. Khi tôi sinh con, trung tâm nghiên cứu đã chuẩn bị cho tôi những thiết bị y tế hiện đại nhất và các bác sĩ đầu ngành, nên tôi không phải chịu đau đớn, khổ sở như Sơ Nhụy. Vào thời cổ đại, mọi thứ đều lạc hậu thiếu thốn, Sơ Nhụy lại đẻ non ngót một tháng, nên tôi thực sự lo lắng cho sự an nguy của mẹ và em bé.

Hai bà đỡ bận bịu luôn chân luôn tay, ngoài việc nhắc nhở họ phải sử dụng các vật dụng đã qua tiệt trùng, tôi chẳng giúp được gì cả, chỉ biết nắm chặt tay Sơ Nhụy, cổ vũ, động viên cô ấy.

Sau hơn hai giờ đồng hồ, cửa mình của Sơ Nhụy mới chịu mở ra, tử cung bắt đầu co thắt. Tôi chèn rất nhiều gối xuống dưới phần cổ và bảo cô ấy há miệng, hít thở nhanh, nhưng không được quá mạnh, và tuyệt đối không được nín thở. Một giờ sau, đầu của đứa trẻ bắt đầu thò ra ngoài.

Bà đỡ nhanh nhẹn gỡ bỏ màng thai bám trên người em bé, sau đó, gạt cuống rốn quấn chặt phần cổ của em bé sang bên, bàn tay đỡ phía dưới gáy em bé, từ từ kéo em bé ra ngoài, cắt cuống rốn, lau sạch đờm nhớt trong miệng, nâng chân em bé lên, vỗ vào bàn chân.

“Oa”, em bé kêu lên một tiếng, tuy tiếng kêu yếu ớt như tiếng mèo con, nhưng cũng đủ khiến tôi thở phào nhẹ nhõm. Bà đỡ tắm rửa cho em bé, quấn bọc ủ ấm, rồi trao cho tôi.

Đó là một bé trai. Chú bé đỏ hỏn, nhíu mày, rồi òa khóc oa oa, rất khó nhận biết chú bé giống ai. Tôi ôm bé đến bên người mẹ lúc này đang gần như kiệt sức, mỉm cười. Sơ Nhụy gắng gượng mở mắt nhìn con, nước mắt tuôn rơi lã chã. Không muốn cô ấy xúc động mạnh, liền trao đứa trẻ cho bà đỡ.

Tôi căn dặn bà đỡ tiếp tục chờ đợi, vì còn một thai nhi vẫn chưa ra. Các bà đỡ nhìn tôi kinh ngạc, nói rằng, hình như không thấy có động tĩnh gì cả. Tôi nói với họ, đây là một cặp sinh đôi. Chúng tôi chờ hơn hai tiếng đồng hồ sau đó, Sơ Nhụy mới tiếp tục lên cơn co thắt dữ đội. Sơ Nhụy đã gần như kiệt sức cho lần sinh thứ hai này. Cô ấy chuyển dạ đau đớn suốt hơn hai giờ đồng hồ, mà đứa bé vẫn nằm yên trong bụng. Đã hơn ba giờ đêm, nếu tiếp tục thế này, cả mẹ và em bé sẽ nguy mất.

Bốn giờ sáng, em bé mới chịu chui ra, lúc này Sơ Nhụy mềm nhũn như sợi bún, bất tỉnh nhân sự. Bà đỡ làm cách nào đứa bé cũng không chịu khóc. Tôi chợt nghĩ, có lẽ vì dịch đờm trong miệng em bé quá nhiều, không suy nghĩ gì thêm, tôi cúi xuống, ghé miệng vào miệng em bé, hút hết nước ối và dịch đờm trong miệng em bé ra ngoài, sau đó thận trọng làm các động tác hô hấp nhân tạo. Cuối cùng, thì em bé cũng bật khóc.

Tôi vui mừng khôn xiết, nhưng đột nhiên đầu óc tôi quay cuồng, sau đó trời đất tối đen như mực trước mắt tôi, bên tai tôi văng vẳng tiếng kêu gào hốt hoảng của ai đó: Phu nhân! Tôi không cất tiếng nổi, giọng nói của tôi, cơ thể tôi nặng như đeo đá, không sao gượng dậy được nữa…

Lúc tỉnh lại, tôi thấy gương mặt đầy lo âu của Rajiva, chàng nắm chặt tay tôi, mắt thâm quầng. Thấy tôi thức giấc, chàng mừng rỡ, cuống cuồng cho tôi uống thuốc. Chàng nói rằng tôi đã hôn mê mười mấy tiếng đồng hồ. Cặp song sinh của Sơ Nhụy tuy sức khỏe yếu ớt nhưng đều bình an vô sự. Chỉ có điều, trước lúc chuyển dạ, Sơ Nhụy đã bị trúng độc, nên lúc này, cô ấy đang trong tình trạng nguy cấp.

Tôi hoảng hốt, muốn ra khỏi giường, đến thăm cô ấy. Nhưng Rajiva đã ngăn tôi lại, bảo rằng tôi không hiểu về y thuật, có đến đó cũng không giúp được gì. Chàng đã mời ngự y trong cung tới cứu chữa cho cô ấy.

Bỗng có tiếng gõ cửa, gương mặt hốt hoảng của Lạc Tú xuất hiện. Thấy tôi đã tỉnh lại, cô bé mắt đỏ hoe, khóc mếu:

- Phu nhân ơi, chị Sơ Nhụy nguy mất, chị ấy bảo muốn gặp phu nhân…

Tôi cuống quýt kéo tay Rajiva, thấy tôi khẩn thiết van nài, chàng gật đầu, dìu tôi đến phòng Sơ Nhụy. Mặt mũi cô ấy tái dại, nhợt nhạt, môi thâm tím, thoi thóp thở. Cô ấy gắng gượng hé mắt khi tôi gọi khẽ, sau đó nhìn ra xung quanh. Tôi hiểu ý, bèn bảo mọi người có mặt trong phòng khi đó ra ngoài, nhưng Rajiva không yên tâm về tôi nên vẫn kiên trì ở lại.

- Phu nhân…

Sơ Nhụy run rẩy chìa tay về phía tôi, tôi nắm lấy bàn tay cô ấy:

- Chính Yến Nhi…

Tôi không hiểu, băn khoăn nhìn Sơ Nhụy.

- Sáng hôm đó… Yến Nhi mang bánh ngọt đến… em ăn xong liền… đau bụng dữ dội.

Tôi kinh hoàng:

- Yến Nhi ư? Cô ta không có thù hằn gì với em, sao lại làm vậy?

- Lưu Bột Bột. Mấy ngày trước, em bắt gặp bọn họ đi cùng nhau… Hắn đã cấu kết với Yến Nhi…

Tôi sững sờ. Lại là Yến Nhi! Hết dụ dỗ Rajiva, rồi quyến rũ Mộ Dung Siêu, bây giờ lại đến Hách Liên Bột Bột! Tuy căm giận, nhưng tôi vẫn đủ tỉnh táo để nghĩ đến vấn đề này: Cứ cho Yến Nhi là kẻ lẳng lơ, đa tình, cứ cho là việc cô ta lén lút qua lại với Hách Liên Bột Bột đã bị Sơ Nhụy bắt quả tang, nhưng cũng không thể vì thế mà hạ độc tàn bạo như vậy.

Nhận thấy vẻ nghi hoặc trong mắt tôi, Sơ Nhụy gắng gượng giải thích:

- Yến Nhi… xưa nay vốn hám của… tham quyền, chắc chắn Lưu Bột Bột đã hứa hẹn… gì đó với cô ta, và sai khiến cô ta… hãm hại em.

- Nhưng vì sao?

Thở ra nặng nhọc, cô ấy phải dừng lại nghĩ một lát rồi mới tiếp tục:

- Công ơn của phu nhân đối với em như núi cao biển sâu… chuyện đã đến nước này… em không muốn giấu phu nhân thêm nữa. Hai đứa bé này… là cốt nhục của Lưu Bột Bột.

Tôi gật đầu. Từ khi vô tình nghe được cuộc đối thoại của hai người trước cổng nhà Hách Liên Bột Bột, tôi đã đoán định, hắn chính là kẻ khiến Sơ Nhụy có bầu.

Mắt Sơ Nhụy đột nhiên sáng lên một cách kì lạ, không biết cô ấy lấy đâu ra sức lực để có thể ngồi dậy như thế. Tôi lấy gối kê xuống lưng cho cô ấy, lòng đau như cắt, vì biết rằng, đó là dấu hiệu của người sắp ra đi…

- Lưu Bột Bột bỏ ra rất nhiều tiền chuộc em ra khỏi kỹ viện, mục đích là để tặng cho Bệ hạ. Trước khi em vào cung, Lưu Bột Bột và em đã qua lại với nhau. Hắn bảo muốn học theo Lã Bất Vi, nếu em được Bệ hạ sủng ái, thì đứa bé em sinh ra sẽ trở thành Hoàng tử. Hắn sẽ dốc toàn lực để đưa con trai mình lên ngôi…

Sơ Nhụy hổn hển, như thể sợ rằng nếu không gắng gượng sẽ không kịp nữa. Tôi đưa nước cho cô ấy, nhưng cô ấy không uống mà tiếp tục câu chuyện:

- Nhưng sau khi em vào cung, Bệ hạ không hề đoái hoài đến ca hát nhảy múa, nên em không có cơ hội gặp ngài. Mà bụng bầu của em thì cứ ngày một lớn lên. Đúng lúc em rối trí không biết phải làm sao thì bị đưa đến chỗ pháp sư. Phu nhân nhân đức cho phép em đi, em những tưởng Lưu Bột Bột sẽ đón nhận em, nào ngờ, hắn trở mặt, tuyệt tình. Hôm đó, hắn đã định giết em, may mà phu nhân kịp thời đến cứu… Nhờ có pháp sư và phu nhân, em được sống những ngày yên ổn ở đây chờ sinh nở. Em vốn định sinh xong sẽ đưa con trốn khỏi Trường An. Nào ngờ, bọn họ không chịu buông tha cho em, ngay cả con đẻ của mình hắn cũng không tha…

Những giọt nước mắt cay đắng lăn dài trên gò má Sơ Nhụy, đôi mắt lờ đờ như sắp cạn sinh khí, vậy mà cô ấy đột nhiên nắm chặt tay tôi, gào lên quằn quại, dữ dội:

- Cầu xin phu nhân nhận nuôi hai đứa trẻ đáng thương này. Ngày sau, xin đừng cho chúng biết về người cha ác tâm của chúng. Hắn không xứng đáng…

Cánh tay buông thõng, cô ấy ngã vật xuống. Tôi kêu khóc gọi tên Sơ Nhụy, nhưng cô ấy không hề phản ứng. Rajiva vội vã bước đến, đặt ngón tay vào mũi cô ấy. Lát sau, chàng thu tay lại, nhíu mày, lắc đầu, rồi chàng bắt đầu chắp tay, lầm rầm tụng niệm.

Tôi trân trối nhìn cô gái vừa trút hơi thở cuối cùng ấy, Rajiva đến bên, đỡ tôi tựa vào ngực chàng, người tôi mềm nhũn, dường như không còn sức lực. Rajiva ôm vai tôi, khuyên tôi về phòng nghỉ ngơi, chàng sẽ sắp xếp mọi việc.

Tôi gần như kiệt sức, nhưng vẫn gắng gượng nói với chàng:

- Rajiva, em muốn đặt tên cho hai đứa bé là Dung Tình và Dung Vũ, được không? Nắng mưa vô định, đời người là bể khổ. Cầu mong sao hai đứa trẻ này được bình an đi hết chặng đường đời khắc nghiệt, dung hòa được mọi nắng mưa.

Rajiva hôn lên trán tôi, gật đầu khẽ đáp:

- Được, sau khi nàng ra đi, ta sẽ nuôi nấng, dạy dỗ Dung Tình, Dung Vũ nên người. Dù có thể ta không được thấy chúng trưởng thành, nhưng ta sẽ ủy thác cho người đáng tin cậy chăm sóc chúng. Nàng hãy yên tâm.

Tôi gắng gượng ngước nhìn chàng, gương mặt nhân hậu của chàng chập chờn những lớp ảo ảnh chồng lên nhau. Ảo ảnh dao động, bên tai tôi là tiếng gọi hốt hoảng của chàng. Tôi không đứng nổi, dường như ai đó bế tôi lên, sau đó tôi không biết gì nữa.

Tôi tỉnh dậy vào buổi chiều ngày hôm sau, Rajiva không rời tôi nửa bước. Tôi muốn ngồi dậy, nhưng chàng giữ tôi lại, vuốt nhẹ má tôi, giọng trầm ấm:

- Ngải Tình, đến lúc nàng phải đi rồi.

Tôi giật mình, ngẩng lên. Ánh mắt chàng chất chứa tâm tư, nhưng trấn tĩnh lạ lùng:

- Nàng đã lại chảy máu mũi lúc hôn mê…

Tôi cắn môi, hít một hơi, mỉm cười đáp:

- Vâng. Nhưng phải chờ sau khi lễ hội Sumuzhe kết thúc. Chúng ta giao hẹn rồi.

Chàng trầm tư một lúc, chuốt lại những sợi tóc rối bời dưới trâm cài của tôi, mỉm cười dịu dàng:

- Vậy nàng phải tuân thủ điều kiện này.

Tôi nhìn chàng chờ đợi. Chàng gõ nhẽ vào mũi tôi, cất giọng dịu dàng:

- Nàng phải nằm yên trên giường tĩnh dưỡng cho đến ngày khai mạc lễ hội. Ta sẽ thay nàng sắp xếp việc hậu sự của Sơ Nhụy và cả việc chăm sóc hai đứa trẻ, nàng không cần bận tâm. Nếu nàng không chịu, ta sẽ buộc nàng phải trở về thời đại của nàng ngay.

Tất nhiên là tôi chịu.

Suốt mười mấy ngày sau đó, tôi ngoan ngoãn ở yên trên giường tĩnh dưỡng theo sự căn dặn của Rajiva. Lạc Tú thỉnh thoảng lại bế hai đứa bé đến cho tôi cưng nựng. Hai đứa bé xinh đẹp lạ thường, chỉ có điều sức khỏe vẫn còn yếu. Cũng may chúng được chăm sóc rất tốt, nên chẳng bao lâu sẽ cứng cáp hơn lên.

Lạc Tú rất yêu chiều hai đứa trẻ, ngày nào cũng theo sát vú nuôi đòi chơi đùa với chúng. Cô bé mới mười bốn tuổi, nhưng tỏ ra già dặn rất nhiều khi chăm sóc Dung Tình, Dung Vũ. Gương mặt của cô bé ngày càng trở nên xinh đẹp, chỉ vài năm nữa, chắc chắn sẽ là một mĩ nữ. Tôi nói với cô bé rằng, tôi sắp về nhà mẹ đẻ, không thể ở bên để giúp cô bé, nên cô bé phải tự tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Ngày sau nếu ưng ai, hãy nói với pháp sư, ngài nhất định sẽ tác hợp cho cô bé.

Lạc Tú đỏ ửng hai má khi nghe tôi nói, một lúc lâu sau mới khẽ gật đầu. Tôi mỉm cười, cô bé này thật dễ bảo, dễ thương.

Yến Nhi biệt tăm biệt tích ngay sau ngày Sơ Nhụy chuyển dạ. Sau đó, Lạc Tú có gặp cô ta ở vườn Tiêu Dao, quả nhiên là cặp kè với Hách Liên Bột Bột, được hắn cưới làm vợ thứ hai mươi. Lạc Tú bảo rằng, trông thấy cô bé, Yến Nhi cúi mặt và vội vàng bỏ đi.

- Không biết cô ta có gặp ác mộng mỗi đêm không?

Lạc Tú bất bình lên tiếng.

Yến Nhi hám hư vinh, muốn dùng tuổi xuân của mình để đánh đổi, nên không ngừng tìm kiếm người đàn ông có tiền và có quyền, những điều này tôi đều có thể tha thứ. Nhưng vì muốn vào được phủ tướng quân mà cô ta đang tâm giết hại người khác, hành vi này quá ư tàn độc. Nếu theo thuyết nhân quả, thì sớm muộn cô ta cũng sẽ bị quả báo.

Yến Nhi nhất thời mê muội không thể hiểu rõ Hách Liên Bột Bột là người như thế nào. Ngay cả cha vợ, người đã nuôi hắn trưởng thành mà hắn còn không tha, giết người đã trở thành thú vui của hắn, sống với hắn, khác nào sống với một con hổ dữ. Rất có thể, chẳng bao lâu nữa hắn sẽ giết người, diệt khẩu.

Sau khi kết thúc hơn mười ngày tĩnh dưỡng, tôi theo Rajiva đến Trường An vào ngày trước khi lễ hội Sumuzhe bắt đầu. Xe ngựa đưa chúng tôi tới thành Trường An vào buổi chiều, tôi vén rèm cửa nhìn ra ngoài, trên con phố chính, bà con tấp nập chăng đèn kết hoa, chờ đón ngày khai mạc. Bảy, tám năm sau, Diêu Hưng sẽ mỏi mệt, kiệt quệ vì bị Hách Liên Bột Bột dắt mũi chạy khắp nơi bằng chiến lược đánh du kích trường kỳ của hắn, thế nước ngày một suy yếu. Nhưng vào thời điểm này, người dân Trường An vẫn hân hoan với đời sống an cư lạc nghiệp, nên ai nấy đều tươi cười hớn hở, chào hỏi nhau ân cần, niềm nở. Cả thành phố háo hức chờ đợi ngày hội Sumuzhe náo nhiệt.

Khi xe ngựa lăn bánh đến lầu trống, tôi bỗng nghe có tiếng chửi bới ở phía trước. Tôi tò mò nhìn ra, thì thấy một đám đông, tiếng ai đó quát tháo:

- Tướng mạo tuấn tú, lại là con cháu Hoàng tộc Tiên Tì, vậy mà ngươi hèn hạ, kém cỏi như thế, đi cướp mấy cái bánh màn thầu đã ôi thiu của mấy người ăn mày.

Bên cạnh có người phụ họa thêm:

- Đúng thế. Ngày mai là lễ hội Sumuzhe, không thể để tên điên khùng này khiến cho mọi người mất hứng.

Tôi giật mình, nhìn về phía trung tâm của đám đông. Một bóng dáng cao lớn, ăn vận rách rưới, ngồi thu lu bên đường, tóc dài che khuất gương mặt. Người đó thản nhiên gặm chiếc bánh màn thầu đã mốc đen, vẻ mặt ơ hờ như thể chẳng có chuyện gì đang xảy ra chung quanh.

Phu xe lớn tiếng kêu mọi người tránh đường, bóng dáng cao lớn ấy đưa mắt về phía chúng tôi, đằng sau những lọn tóc lòa xòa là một gương mặt lấm lem bùn đất, tôi lập tức nhận ra, đó là Mộ Dung Siêu.

Cậu ta giật mình, bật dậy, chạy về phía chúng tôi, dang rộng hai tay chặn xe ngựa lại, miệng hô lớn:

- Quý bà trong xe làm ơn cho tôi xin ít tiền lẻ.

Phu xe rút ra mấy đồng xu, đưa cho cậu ta, nhưng cậu ta không chịu nhận, mà tiếp tục hô lớn:

- Tôi muốn quý bà trong xe cơ, tôi chỉ muốn quý bà trong xe cho tiền thôi.

Đám đông được một trận cười hỉ hả, phu xe nghiêm mặt quát:

- Câm miệng! Ngươi có biết ai ngồi trong xe không hả?

- Trường Lạc!

Tôi ngắt lời người phu xe, vì không muốn dân chúng Trường An biết trong xe có cả Rajiva. Rajiva đứng lên, nhưng tôi đã giữ chàng lại, gật đầu với chàng, rồi vén rèm, bước xuống.

Trông thấy tôi, dáng điệu lom khom khi nãy biến mất, Mộ Dung Siêu vươn thẳng lưng, nhìn tôi không chớp mắt, ánh mắt khó hiểu.

Tôi lại gần cậu ta, đưa cho cậu ta mấy đồng xu, cất giọng thờ ơ:

- Này chú, cầm lấy đi mua bánh mới mà ăn, ăn màn thầu ôi thiu sẽ bị đau bụng đấy…

Cậu ta chìa bàn tay két bẩn, đen sì định đón lấy, nhưng chừng như chợt nhớ ra điều gì, liền rụt tay lại, chùi mấy lần vào áo, rồi mới cầm tiền. Khi chạm vào tay tôi, cậu ta khẽ run lên, ánh mắt u buồn, miệng lắp bắp, chừng như muốn nói điều gì đó nhưng không sao mở miệng được.

Chính tôi đã mách nước cho cậu ta rằng, phải giả điên để đánh lạc hướng Diêu Hưng. Khi ấy, cậu ta chỉ do dự trong giây lát liền gật đầu đồng ý. Tôi đã hỏi cậu ta:

- Vở kịch này cậu phải diễn trong vòng hai năm, cho đến khi chú cậu cử người đến đón cậu. Cậu có nhẫn nhịn nổi không?

Cậu ta cúi đầu suy nghĩ hồi lâu, rồi mỉm cười xót xa:

- Cô cô, hai năm có là bao, cháu làm được!

Nụ cười của cậu ta khi ấy giống hệt với nụ cười tê tái của Sính Đình lúc cầu xin tôi giúp con trai. Cứ nghĩ đến nụ cười ấy tôi lại thấy xót xa. Tôi nghiêng đầu, hít một hơi thật sâu, khép mắt, thở dài:

- Đừng lang thang trên phố nữa, người thân sẽ lo lắng…

Cậu ta bất ngờ ôm chầm lấy tôi. Tôi giật mình, toàn thân tê dại, chưa kịp phản ứng, thì cậu ta đã cúi xuống, gác cằm lên vai tôi, ghé sát vào tai tôi, thì thầm:

- Cô cô, Mộ Dung Siêu sẽ nhớ cô mãi mãi…

Cơ thể và giọng nói của cậu ta đều đang run rẩy. Trường Lạc quát lớn:

- Gã điên kia ngươi làm gì thế? Sao ngươi dám vô lễ với phu nhân nhà ta?

Trước lúc bị Trường Lạc lôi đi, cậu ta vẫn còn kịp ghé vào tai tôi:

- Cảm ơn, cô cô…

Sau đó, cậu ta buông tôi ra, nhưng ánh mắt vẫn không rời khỏi tôi, nụ cười tê tái, và bắt đầu gào lên:

- Cô thơm lắm, ha ha, thơm lắm…

Cậu ta bị đám đông phẫn nộ vây lấy, có tiếng ai đó chửi bới:

- Tên điên khùng này bệnh càng ngày càng nặng, dám vô lễ với phu nhân nhà người ta.

Tôi khẽ khép mắt lại, quay đầu, lên xe, bảo Trường Lạc đánh xe đi hướng khác. Rajiva không nói lời nào, chỉ lẳng lặng nắm chặt tay tôi. Cỗ xe lọc cọc lăn bánh, đẩy những tiếng huyên náo lui lại phía sau, và đẩy lui cả chàng trai có gương mặt đáng yêu kia nữa…



“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng. ”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

104#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:13:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 95 - Ly biệt



Rajiva che chắn cho tôi khi chúng tôi len qua biển người đông đúc trên các con phố lớn trong thành Trường An. Diêu Hưng muốn mời Rajiva và các vương thân quý tộc ngự trên tòa lầu mới xây trên cổng thành để cùng chiêm ngưỡng lễ hội Sumuzhe, nhưng chàng đã từ chối khéo. Hai chúng tôi cùng đeo mặt nạ, Rajiva vận y phục dân thường, không ai nhận ra chàng, nên chúng tôi thoải mái dắt tay nhau đi trên phố, hòa vào dòng người sôi động.

Chốc chốc Rajiva lại quay sang hỏi tôi có mệt không, chàng quản thúc tôi khá chặt chẽ, không để tôi hưng phấn quá độ. Chẳng còn cách nào khác, tôi đành sắm vai một người già cả, cùng chàng chầm chậm bước theo đoàn diễu hành. Người Hồ - Tây Vực nhảy múa nhiệt tình trên đường phố, các động tác vũ đạo bốc lửa của họ khiến tôi mơ màng. Như thể trong đám nghệ sĩ nhảy múa kia có cả Pusyseda và cậu ấy đang nhướn mày, tinh nghịch đá lông nheo chọc ghẹo tôi.

Không hiểu sao, bầu không khí và khung cảnh thân thuộc này khiến tôi nhớ Pusyseda quay quắt, huyễn tưởng mang cậu ấy đến bên tôi, vẫn giọng nói cười cợt, hài hước vang lên bên tai tôi:

- Ngải Tình, nhìn chị ngẩn ngơ và cười ngây ngô trông rất đáng yêu.

Tâm tư đang mê mải chìm trong hồi ức, bỗng tôi thấy một đoàn người Hồ dắt theo lạc đà và ngựa đang tiến vào giữa phố. Giữa đám người cao lớn ấy, có một dáng hình rất đặc biệt. Dáng người cao lênh khênh, vận bộ y phục điển hình của quý tộc Khâu Từ, tướng mạo khôi ngô, tuấn tú. Sống mũi cao, đôi mắt to, long lanh, lông mày dài, rậm, màu mắt là màu xám nhạt! Trời ơi, là cậu ấy! Nụ cười khinh bạc thường trực trên khóe môi kia, không phải của cậu ấy thì còn ai vào đây nữa?

Trái tim tôi đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, tôi lập tức nhấc gót, phi như bay về phía trước, mặc cho Rajiva gào thét tên tôi ở phía sau. Tôi lao đến trước mặt cậu ấy, không kịp dừng lại thở, bỏ mặt nạ xuống, ôm chầm lấy cậu ấy, vùi đầu vào khuôn ngực rộng lớn của cậu ấy, mừng phát khóc, nói với cậu ấy bằng tiếng Tochari đã lâu tôi không dùng đến:

- Pusyseda, là cậu ư, có thật là cậu đấy không? Mừng quá, tạ ơn trời Phật đã nghe được lời khẩn cầu của tôi!

Người ấy bị tôi ôm bất ngờ nên có vẻ sững sờ, giọng nói khàn khàn của một chàng trai trẻ cất lên:

- Chị ơi, chị quen cha tôi ư?

Tôi giật mình, ngẩng lên. Đôi mắt màu xám nhạt đang nhìn tôi chăm chú, gương mặt quyến rũ với các đường nét sống động như tạc, nước da sáng bóng, khỏe khoắn, cả con người toát lên sức trẻ dồi dào, giống quá! Nhưng Pusyseda không thể là một chàng trai hai mươi tuổi được…

Tôi sửng sốt, lập tức buông tay ra, bối rối khôn tả.

- Ngải Tình, bao năm rồi mà chị vẫn ngốc nghếch như vậy! Chẳng thông minh lên chút nào.

Tôi quay đầu lại, thấy một người đàn ông trung niên cao lớn, lực lưỡng đứng đằng sau chàng trai trẻ hồi nãy, hai tay vắt chéo, đặt trên chiếc bụng phệ. Người đó đang nheo mắt nhìn tôi, đuôi mắt vằn vện những nếp nhăn. Trên cổ người đó là chiếc vòng gắn ngọc bội sư tử thân thuộc, bộ ria rung rung theo nụ cười, gương mặt dạn dày sương gió.

- Pusyseda!

Tôi dụi mắt, gọi cậu ấy mà giọng run run, nước mắt ở đâu trào ra, che khuất tầm nhìn.

- Chị vừa ôm con trai tôi chặt thế, bây giờ gặp được chính chủ, sao không thèm ôm nữa vậy?

Cậu ấy cười vui vẻ, dang rộng hai tay về phía tôi:

- Có phải chê tôi già rồi không?

- Làm gì có chuyện đó!

Đang bận đập tay vào người cậu ấy phạt đòn thì cậu ấy đột ngột nhấc bổng tôi lên, quay mấy vòng liền.

Bầu trời Trường An xanh trong xoay tròn trên đầu tôi, nỗi vui mừng, xúc động trào dâng ngập lòng. Tôi gặp lại cậu ấy rồi, tuyệt biết bao!

Cậu ấy đặt tôi xuống, đuôi mắt phủ đầy những nếp nhăn li ti, nước mắt long lanh:

- Ngải Tình, chị béo lên rồi đấy.

Tôi lừ mắt với cậu ấy, vừa khóc vừa cười vừa mắng nhiếc:

- Không có tôn ti trật tự gì cả! Cười đùa hồn nhiên trước mặt con trai như thế mà coi được à?

- Ôi, khi nãy tôi không làm gì cả nhé!

Cậu ấy giơ tay lên cao, mỉm cười cầu hòa với ai đó phía sau tôi. Tôi quay lại, thấy Rajiva đứng ngay sau lưng mình, nở nụ cười hiền hòa, tháo bỏ mặt nạ.

- Anh em ruột gặp lại nhau, cũng nên ôm một cái chứ nhỉ?

Chàng nhìn em trai, từ tốn chìa tay ra.

Pusyseda sững sờ, sau đó thì rảo bước về phía trước, ôm chầm lấy anh trai. Thấy hai anh em họ thân mật trong vòng tay nhau như thế, tôi không cầm được nước mắt, nước mắt hòa trong tiếng cười đoàn tụ. Lễ hội Sumuzhe năm nay sẽ là kỉ niệm quan trọng nhất cuộc đời tôi…

Sau lúc đó, chúng tôi không còn hứng thú để xem tiếp các tiết mục của ngày hội nữa. Người thầy mà Rajiva từng theo học luật, pháp Phật giáo ở Khâu Từ, là ngài Vimalaksas cũng theo Pusyseda đến Trường An tìm gặp Rajiva. Pusyseda không cùng đoàn hầu cận đến quán trọ như kế hoạch ban đầu nữa mà cùng với Cầu Tư và sư phụ Vimalaksas theo chúng tôi về nơi ở trong cung Vị Ương.

Sư phụ Vimalaksas tuổi đã bảy mươi, đường đi xa xôi, trắc trở, hẳn ngài rất mệt, nên Rajiva đã sắp xếp để ngài nghỉ ngơi sớm. Pusyseda và Cầu Tư thì chuyện trò không dứt với chúng tôi. Từ cuộc li biệt ở Khâu Từ đến nay, anh em họ đã mười tám năm không gặp lại, cố nhiên là có rất nhiều điều để nói. Bởi vậy, đến giờ chong đèn thắp nến, họ vẫn thao thao bất tuyệt.

Pusyseda cho chúng tôi hay, Đức vua Bạch Chấn và con trai đều đã qua đời, vua Khâu Từ hiện nay là Bạch Tô, cháu nội Bạch Chấn. Con gái Vịnh Tư của Pusyseda hiện là Hoàng hậu Khâu Từ, năm ngoái vừa sinh con trai, được phong làm Thái tử. Hiểu Huyên lên chức bà ngoại, nên rất bận rộn. Cô ấy vẫn mạnh khỏe, nhưng cũng hay ốm vặt. Con trai cả Cầu Tư, năm nay hai mươi ba tuổi, là đội trưởng đội Cấm vệ quân. Điều khiến Hiểu Huyên lo lắng nhất là cậu cả không chịu cưới vợ, còn mải mê kén chọn.

Nhắc đến Cầu Tư, Pusyseda lắc đầu thở dài. Tôi tủm tỉm cười, Cầu Tư giống hệt cha mình hồi trẻ, thích chơi bời, ham phong lưu, ghét sự gò bó, ổn định.

Thấy tôi cười, cậu ta lừ mắt với tôi, nhưng sau đó cũng bật cười theo:

- Chưa biết chừng, nó giống tôi năm xưa, đang chờ đợi sự xuất hiện của tiên nữ cũng nên…

Nãy giờ ngồi im lặng bên cạnh, không nói năng câu gì, nghe cha nói vậy, Cầu Tư liếc cha một cái, mặt đỏ bừng bừng. Tướng mạo của Cầu Tư là sự tổng hòa mọi ưu điểm của người Tây vực và người Hán, vì thế chàng trai trẻ này còn điển trai hơn cả cha cậu ta năm xưa. Ngắm nhìn Cầu Tư, trong đầu tôi bỗng nảy ra ý nghĩ, không biết ngày sau lớn lên, nhóc Rajiva có điển trai bằng người em họ này không?

- Ngải Tình, đây là chuyến đi cuối cùng của tôi đến Trường An. Thời buổi binh đao loạn lạc này, đường đi muôn vàn gian nan, nguy hiểm. Nhà vua vốn muốn chờ khi cục diện ở Trung Nguyên ổn định mới tiến cống, nhưng tôi đã khuyên ngài nên kết giao với Diêu Hưng. Thực ra, tôi làm vậy là vì mong muốn cá nhân, tôi muốn đến thăm anh trai mình lần cuối. Không ngờ, lại được gặp chị ở đây, vậy là tôi không có gì phải nuối tiếc nữa.

Pusyseda tựa lưng vào chiếc giường La Hán, vòng tay ra sau, vừa đấm lưng vừa lắc đầu, thở dài:

- Tuổi tác không tha cho ai! Không ngờ cũng có ngày tôi phải già đi. Anh tôi cũng già cả rồi, chỉ có chị là mãi mãi trẻ trung, chị thật may mắn…

Tôi cười:

- Tôi rồi cũng sẽ già đi, chỉ có điều mọi người không được nhìn thấy mà thôi.

Bàn tay ai đó nắm chặt lấy tay tôi dưới gầm bàn, Rajiva mỉm cười dịu dàng. Chúng tôi nhìn nhau, rồi quay sang Pusyseda:

- Pusyseda, ông trời ưu ái với tôi quá, cho tôi gặp lại cậu trước khi ra đi…

- Ra đi ư?

Cậu ấy kinh ngạc ngắt lời tôi:

- Lại về trời sao?

Tôi gật đầu:

- Thời gian của tôi sắp hết, tôi phải trở về nơi tôi sống, tôi còn phải nuôi nấng, dưỡng dục con trai khôn lớn.

Nhận thấy vẻ ngạc nhiên trong mắt Pusyseda, tôi giải thích qua loa:

- Chúng tôi có một cậu con trai, cháu tên nhóc Rajiva, bây giờ cháu đang ở chỗ tôi.

Pusyseda đột nhiên nghiêm mặt quay sang Rajiva:

- Đại ca, trước khi vào thành Trường An, đệ nghe nói đại ca đã cưới thêm mười người thiếp, trong đó, một người vừa sinh cho huynh một cặp song sinh, có đúng không? Sao huynh có thể đối xử với Ngải Tình như vậy?

Tôi và Rajiva nhìn nhau, mỉm cười, đem đầu đuôi câu chuyện kể lại tường tận cho Pusyseda, nghe xong, cậu ấy mới thôi giận dữ. Cặp song sinh này ra đời chỉ sau nửa năm kể từ ngày Rajiva tiếp nhận mười cung nữ, như vậy, chỉ riêng về mặt thời gian đã không ăn khớp. Thêm vào đó, phần lớn trong số họ đều đã về nhà với người thân. Nhưng dường như không ai thèm quan tâm đến điều này. Người ta chỉ thích nghe những tin đồn động trời, tin đồn càng ngày càng bị thổi phồng lên, sai lệch hoàn toàn với sự thật, sự thật bị chìm trong nước bọt của bia miệng thế gian. Sức mạnh của tin đồn, ở thời đại nào cũng thế, đều vô cùng đáng sợ.

Pusyseda nhìn Rajiva đầy vẻ nghiêm nghị:

- Đại ca, huynh và chị Ngải Tình đã yêu thương nhau suốt bốn mươi năm, dẫu chị ấy có ra đi, thì huynh cũng không nên tiếp nhận người phụ nữ khác…

Rajiva lồng tay vào tay tôi dưới gầm bàn, nhìn Pusyseda bằng ánh mắt thấu suốt:

- Tất nhiên rồi…

Pusyseda gật đầu, hít một hơi, đưa tay chấm nước mắt, lúc cậu ấy quay lại nhìn tôi, đôi mắt sáng long lanh:

- Ngải Tình, lần này, hãy để tôi và đại ca cùng tiễn chị.

Tôi nhìn Rajiva, chàng mỉm cười, tôi lại quay sang Pusyseda, cậu ấy đang nhìn tôi khẩn khoản, rất khó diễn đạt tâm trạng của tôi lúc đó. Nước mắt lưng tròng, tôi gật đầu với cả hai người.

Lúc này, tôi đang chuẩn bị hành trang để lên đường, có rất nhiều thứ mà tôi muốn mang theo: đồ chơi Rajiva mua cho con trai, đồ thủ công mỹ nghệ tôi sưu tầm được và rất nhiều đặc sản Khâu Từ mà Pusyseda tặng cho hai mẹ con. Tôi sắp xếp cẩn thận từng món một.

Cửa phòng bật mở, Rajiva đứng giữa những chùm nắng rực rỡ mùa hạ, chìa tay về phía tôi:

- Ngải Tình, đi nào, theo ta đến gặp sư phụ.

Gặp đại sư Vimalaksas ư? Tôi ngạc nhiên nhìn chàng, nhưng chàng vẫn mỉm cười bình thản. Tôi theo chàng bước vào Phật đường, đại sư Vimalaksas đang tọa thiền trên đệm cói, nghiên cứu kinh văn mà Rajiva phiên dịch, thấy tôi ngài không khỏi kinh ngạc.

Rajiva lễ phép thưa:

- Thưa thầy, đây là vợ con, cô ấy tên Ngải Tình.

Tôi luống cuống, chắp tay vái lạy ngài.

Đại sư chắp tay vái chào lại, sau đó, không nhìn tôi lấy một cái, cất giọng hờ hững:

- Nghe nói con ở Trường An dịch kinh truyền pháp, được người Hán rất mực tôn kính, chẳng hay con đã thu nhận được bao nhiêu đệ tử rồi?

Tôi thầm cười buồn. Đại sư cố ý không nhắc đến chuyện hôn nhân của tôi và Rajiva, đó là cách ngài bày tỏ thái độ với Rajiva về chuyện này, đúng không?

Rajiva cung kính trả lời:

- Kinh luật Phật pháp ở đất Hán còn thiếu rất nhiều, kinh văn mới và các cuốn luận đều do con chuyển dịch. Con truyền pháp và dẫn dắt hơn ba nghìn tăng nhân, nhưng vì nghiệp chướng nặng nề, nên con chỉ chuyên tâm truyền pháp mà không thu nhận đệ tử một cách chính thức.

Đại sư ngạc nhiên nhìn Rajiva, sau đó quay sang nhìn tôi, rồi trầm ngâm hồi lâu mới thở dài cất tiếng:

- Chính con đã để cho dục vọng trỗi dậy, bây giờ đã hối hận chưa?

Rajiva mỉm cười mãn nguyện, điềm tĩnh đáp:

- Thưa thầy, con không hề hối hận.

Chàng nhìn tôi âu yếm, rồi ngẩng cao đầu, dõng dạc thưa rằng:

- Giống như hoa sen kia không mọc trên núi cao, đồng rộng mà chỉ mọc trong bùn đen tăm tối. Thế mới hay mọi phiền não đời này đều là hạt giống được gieo trồng bởi Đức Như Lai. Lại như, không vượt sóng dữ không vớt được ngọc quý, không trầm luân trong bể khổ, không thể lĩnh hội được những điều quý báu của đời sống vô tận… Rajiva và vợ không phải quan hệ nam nữ thông thường theo cách hiểu của người đời. Rajiva không ngập chìm trong bùn sâu tăm tối, đứt hơi mà chết, trái lại, như sen kia nở hoa rực rỡ, tỏa hương thơm ngát, chính là nhờ có vợ con bốn mươi năm qua luôn cổ vũ, khích lệ con. Con đưa vợ đến gặp thầy vì muốn thưa với thầy rằng: Nhờ có người phụ nữ luôn âm thầm, lặng lẽ đứng đằng sau, sẵn sàng hy sinh tất cả này đây, con mới có được thành tựu như hôm nay.

Tôi khóc nấc lên, cổ họng đau buốt. Rajiva nhìn tôi bằng đôi mắt đẫm lệ, nhưng nụ cười luôn thường trực trên môi chàng.

Chàng ngừng lại một lát, hít một hơi thật sâu, mắt long lanh nhìn tôi, cười dịu dàng:

- Nay vợ con sắp đi xa, Rajiva sẽ không còn cơ hội gặp lại cô ấy nữa. Con đã trải qua mọi thăng trầm, phiền não của kiếp người, đã nghiệm ra nơi mà ngọc quý vô giá cũng như những tri thức quý báu của đời sống thực sự tồn tại. Những phong ba, trầm luân này phải chăng chính là những cửa ải Phật tổ đặt ra để thử thách và rèn luyện Rajiva? Sau khi vợ con ra đi, con sẽ dành toàn bộ quãng đời còn lại để hoàn thành sứ mệnh dịch thuật kinh Phật, cho đến hơi thở cuối cùng.

Đại sư lặng lẽ nhìn hai chúng tôi, vẻ mặt nhân từ, thương xót. Ngài im lặng rất lâu mới buông tiếng thở dài:

- Con là người thẳng thắn, phóng khoáng, không chịu sự chi phối, lệ thuộc. Người đời chẳng thể thấu hiểu những đắng cay mà con phải gánh chịu. Thôi thì, kiếp số đã định như vậy, con phải tự mình tháo gỡ mối nghiệt duyên này…

Rajiva nắm tay tôi, hai chúng tôi cùng vái lạy đại sư Vimalaksas:

- Tạ ơn thầy!

Chàng vươn thẳng lưng, nở nụ cười rạng rỡ với tôi giữa căn phòng ngập nắng…

- Ngải Tình, tôi tiễn chị một lần, đại ca tiễn chị một lần, bây giờ cả hai chúng tôi cùng nhau tiễn chị, thế là huề nhé!

Pusyseda giúp tôi đeo chiếc ba lô nặng trịch lên lưng, bỗng dưng gào lớn:

- Ơ, không đúng, tôi quên mất là lần đầu tiên chị trở về, tôi là người tiễn chị, mặc dù hồi đó tôi chỉ là chú nhóc mười tuổi. Ha ha, tôi nhiều hơn đại ca một lần nhé, ghen tị không?

Cậu ấy nháy mắt trêu chọc Rajiva, nhưng chàng chỉ mỉm cười đôn hậu, giúp tôi kéo khóa tay.

- Đại ca ơi, trước lúc chia tay, cho đệ ôm chị dâu một cái được không?

Rajiva không đáp, vẫn cười hiền hòa. Mặc áo chống phóng xạ xong, Pusyseda chìa hai tay về phía tôi, kéo tôi vào khuôn ngực vạm vỡ của cậu ấy, xiết chặt.

- Ngải Tình, dù chúng tôi không được gặp lại chị nữa, ở trên trời, chị phải nhớ giữ gìn sức khỏe và sống thật vui vẻ nhé!

Giọng nói nghẹn ngào, nhưng cậu ấy vẫn cười thật tươi với tôi:

- Hãy hứa là chị sẽ sống mạnh khỏe đi!

Tôi nhìn sâu vào đôi mắt đẫm lệ của cậu ấy, nức nở:

- Tôi hứa. Pusyseda, tôi sẽ luôn nhớ về cậu, cho đến khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời…

Vòng tay xiết chặt hơn nữa, để tôi nép sát vào khuôn ngực rộng lớn, ấm áp. Nước mắt tôi lã chã tuôn rơi, thấm vào y phục của cậu ấy. Đội ơn Phật tổ đã cho con được gặp lại Pusyseda…

Pusyseda khẽ buông tôi ra, lau nước mắt, nháy mắt với tôi:

- Thôi, phải nhường ít thời gian cho huynh ấy, không huynh ấy hận tôi đến chết mất.

Pusyseda tươi cười rời khỏi phòng, chỉ còn lại tôi và chàng, yên lặng nhìn nhau.

- Ngải Tình, hãy nghe lời ta…

Chàng nhìn tôi rất lâu, như thể đang suy nghĩ điều gì lung lắm, sau đó, hít một hơi thật sâu, ngập ngừng, do dự:

- Nàng mới ba mươi ba tuổi, một mình nuôi con sẽ rất vất vả. Nếu như… nếu như… gặp được người ưng ý, và người đó thương nàng, thương nhóc Rajiva, thì nàng hãy…

- Rajiva!

Tôi nghiêm nghị ngắt lời chàng, chìa tay trái ra trước mặt chàng, để chàng có thể thấy rõ chiếc nhẫn cưới:

- Chàng nói gì vậy! Chàng viết đơn bỏ em chưa? Em hỏi chàng, sau khi em ra đi, chàng có cưới vợ nạp thiếp không?

Chàng lắc đầu, nhìn tôi xót xa:

- Nàng biết mà…

- Vậy thì vì sao chàng khuyên em tái giá? Chàng cũng biết, đời này kiếp này, em không thể đón nhận người đàn ông nào khác ngoài chàng kia mà…

- Ta biết điều đó.

Chàng kéo tôi vào lòng, khẽ thở dài:

- Nhưng, nàng còn trẻ như vậy, đường đời dằng dặc, chúng ta lại không thể gặp lại nhau nữa, nàng sẽ khổ tâm lắm…

- Chàng đợi em hết mười năm này đến mười năm khác, lần cuối cùng, thậm chí đã chờ suốt mười sáu năm. Sao chàng biết được, em thậm chí có thể chờ đợi chàng lâu hơn hay không? Vả lại, em đâu chỉ có một mình, em còn nhóc Rajiva nữa mà.

Tôi ngước lên, nhìn vào đôi mắt như hai vực nước trong vắt, sâu hun hút ấy, dịu dàng nói:

- Chờ khi con trai nên người, không còn gì phải bận tâm nữa, em sẽ xuống địa ngục tìm chàng. Chàng nhớ chờ em ở đó…

Chàng hôn tôi da diết, bờ môi êm dịu của chàng vấn vít, quấn quyện lấy môi tôi, không muốn rời buông.

- Mình ơi, sao nàng khờ thế!

Cổ tôi quyện vào cổ chàng, tôi thì thầm vào tai chàng:

- Chàng cũng vậy đó thôi…

Chúng tôi lồng tay vào nhau, chàng đặt tay tôi lên ngực, nhìn tôi thật sâu:

- Được, ta sẽ chờ nàng nơi địa ngục. Nghìn năm thời gian chẳng qua cũng chỉ là một lần chớp mắt. Ta tin rằng ta chờ được…

- Em nhất định sẽ tới tìm chàng. Gặp nhau nơi địa ngục và sẽ không gì có thể chia cách chúng ta được nữa…

Tôi bật đồng hồ thời gian, nhìn chàng lần cuối. Cuộc chia tay này sẽ là sinh li tử biệt. Sau khi vút bay lên không gian kia, tôi sẽ không thể gặp lại tình yêu của tôi, người yêu của tôi được nữa. Nhưng, cũng giống chàng, tôi không hề hối hận…

Rajiva, hẹn gặp chàng nơi địa ngục.


- Mình ơi, sao nàng khờ thế!

Cổ tôi quyện vào cổ chàng, tôi thì thầm vào tai chàng:

- Chàng cũng vậy đó thôi…

Chúng tôi lồng tay vào nhau, chàng đặt tay tôi lên ngực, nhìn tôi thật sâu:

- Được, ta sẽ chờ nàng nơi địa ngục. Nghìn năm thời gian chẳng qua cũng chỉ là một lần chớp mắt. Ta tin rằng ta chờ được…

- Em nhất định sẽ tới tìm chàng. Gặp nhau nơi địa ngục và sẽ không gì có thể chia cách chúng ta được nữa…

Haizzzzz
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

105#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:17:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 96 - Tôi gặp cha



Tôi ngước nhìn lên, cổng chính chùa Thảo Đường không trang hoàng, to đẹp như ở thời hiện đại, hoành phi treo phía trên cũng rất mực giản dị, không hoa lệ, cầu kỳ. Phần lạc khoản phía dưới do đích thân vua Diêu Hưng chấp bút. Bỗng nhiên tôi thấy bồi hồi, xúc động lạ kỳ, không sao cất bước nổi, cứ đứng đó nhìn trân trân vào cánh cổng lớn, đầu óc rối bời. Người cha mà chưa một lần gặp mặt, đang ở trong cánh cổng này…

- Nhìn gì thế?

Đạo Hằng tủm tỉm cười, huých nhẹ vào khuỷu tay tôi, sau đó hào hứng kéo tôi bước lên bậc thềm.

- Đây chính là chùa Thảo Đường nức tiếng gần xa. Pháp sư Kumarajiva lập nên đạo tràng dịch kinh ở đây, nghe nói hơn ba nghìn tăng nhân theo ngài học Phật pháp, quả là chưa từng có! Nguyện vọng lớn nhất của bần tăng trong chuyến đi này, là được bái pháp sư làm thầy, không biết có được như ý hay không.

Đạo Hằng thao thao bất tuyệt một hồi. Khi tôi cùng cậu ta bắt đầu chuyến hành trình từ Hàm Dương đến Trường An, chỉ trong hai ngày, cậu ta đã nhắc đi nhắc lại mong muốn được bái cha tôi làm thầy không biết bao nhiêu lần, tôi nghe đến phát nhàm. Nếu không vì cái vẻ thật thà, chất phác rất dễ mến và bản tính lương thiện, ngay thẳng của cậu ta, tôi đã bỏ mặc cậu ta để nhanh chóng đến chùa Thảo Đường này từ lâu rồi.

Bước qua ngưỡng cửa, Đạo Hằng chắp tay vái lạy vị sư gác cổng:

- Sư huynh làm ơn thông báo giùm, có nhà sư Đạo Hằng ở Lam Điền đến xin học. Người này là sư đệ Đạo Tiêu của bần tăng. Cầu mong pháp sư bằng lòng nhận chúng tôi làm đệ tử.

Tôi đã nói với cậu ta rất nhiều lần rằng tôi không thích pháp hiệu mà cậu ta đặt cho tôi. Nhưng mỗi lần như thế, cậu ta lại cười hì hì, bảo rằng, đã xuất gia thì không được dùng tên gọi thông thường. Sau đó, đi đến bất cứ nơi nào cậu ta cũng gọi tôi là Đạo Tiêu. Ghét quá! Cái tên này chẳng nghệ thuật chút nào. Sớm biết phải dùng pháp hiệu thế này, tôi đã tự đặt pháp hiệu cho mình từ lâu rồi.

Nhà sư gác cổng vừa nhìn thấy tôi đã ngỡ ngàng, sau đó ngắm nghía tôi từ trên xuống dưới, miệng há hốc, định nói gì đó nhưng không nói được. Tôi biết tướng mạo của mình giống người Trung Á: mũi cao mắt sâu, đồng tử màu xám nhạt, tóc màu hung, cằm nhọn, thuôn dài, cao một mét tám mươi tám. Ở thời đại của mình, tướng mạo của tôi đã rất dễ gây sự chú ý, huống hồ là vào thời cổ đại. Nhưng khi gặp tôi, Đạo Hằng cũng chỉ liếc nhìn mấy cái rồi thôi, vì sao nhà sư gác cổng này lại chăm chú nhìn tôi mãi không chán vậy?

Đạo Hằng gọi một tiếng: sư huynh, nhà sư kia mới sực tỉnh, chắp tay vái chúng tôi:

- Hai vị muốn theo học Phật pháp hoàn toàn có thể được. Pháp sư cho phép mọi tăng nhân đến đây tham quan, học hỏi. Nhưng ba năm trước, pháp sư đã tuyên bố sẽ không thu nạp đệ tử nữa.

- Chuyện này… Vì sao ngài không thu nạp đệ tử nữa?

Đạo Hằng lắp bắp, mặt buồn ảo não.

Tôi biết nguyên nhân, không muốn để Đạo Hằng tiếp tục truy hỏi, vội kéo tay cậu ta sát lại, thì thào:

- Đừng hỏi nhiều nữa, mau vào trong gặp pháp sư rồi tính.

Nhà sư gác cổng bỗng nhiên quay ra vái lạy một nhà sư khác đang bước về phía chúng tôi, thái độ cung kính một cách lạ thường.

- Sư huynh Tăng Triệu!

Là Tăng Triệu, Cẩu Nhi năm xưa ư? Nhanh như chớp, tôi đưa mắt về phía người đó. Cậu ấy gầy guộc, mảnh khảnh, tựa hồ chỉ một cơn gió mạnh cũng có thể thổi bay, nước da trắng bệch, yếu ớt. Năm nay cậu ấy chừng hai mươi mốt tuổi, ít hơn tôi một tuổi, nhưng gương mặt già dặn, thần thái an nhiên, điềm đạm.

Nhà sư gác cổng giới thiệu tôi và Đạo Hằng, rồi cũng giống như nhà sư kia, Tăng Triệu sững sờ hồi lâu khi trông thấy tôi.

- Sư huynh Tăng Triệu!

Tôi ậm ừ hắng giọng, vái lạy Tăng Triệu:

- Chẳng hay pháp sư Kumarajiva hiện đang ở đâu?

Tăng Triệu sực tỉnh, thôi không nhìn tôi chăm chú nữa, khẽ cúi người:

- Sau bữa trưa, sư phụ thường bắt đầu công việc dịch kinh ở đại điện. Hai vị xin hãy về tịnh xá sắp xếp chỗ ở trước, sau đó đến đại điện quan sát và học tập.

Cha ở đó! Tôi mừng rỡ gật đầu, rồi cùng Đạo Hằng đi theo một tiểu hòa thượng đến nơi ở dành cho tăng sĩ. Trên đường đi, bất kể nhà sư nào nhìn thấy tôi cũng đều tỏ ra hết sức kinh ngạc. Tôi rầu rĩ, băn khoăn: ở thời đại của mình, gương mặt này đã chịu nhiều khổ sở bởi nó quá ư hấp dẫn các bạn nữ, không hiểu vì sao trở về đây lại thành ra cuốn hút các hòa thượng thế này?

Tôi đặt ba lô xuống và lập tức lao đến đại điện. Tôi sải bước gấp gáp, Đạo Hằng phải chạy mới theo kịp tôi.

- Đạo Tiêu, sao đi nhanh thế? Sư đệ sốt sắng muốn gặp pháp sư hơn cả ta kia à?

Tôi mặc cậu ta lải nhải, tiếp tục sải bước. Làm sao cậu ta hiểu được tâm trạng của tôi lúc này?

Một bước vượt ba bậc thềm, tôi hối hả lao vào đại điện. Cảnh tượng bận rộn, tấp nập trải ra trước mắt tôi: Hàng nghìn nhà sư ngồi chật kín đại điện, cảm giác như không còn, dù chỉ một khoảng trống để đặt chân. Một bóng dáng cao gầy, cầm sách trên tay, đang khom lưng đi lại phía trước tượng Phật trên bục cao của đại điện. Bên cạnh ngài là mấy chục nhà sư đang miệt mài ghi chép.

Tôi kéo Đạo Hằng khoanh chân ngồi xuống một góc nhỏ, ánh mắt không rời khỏi bóng hình ấy. Là cha đây sao? Người cha mà hai mươi hai năm qua tôi chưa từng gặp mặt? Vì sao tôi có cảm giác rất đỗi thân thuộc?

Cha đang dịch một đoạn kinh văn, tôi tập trung lắng nghe, đó là cuốn kinh “Phật Tạng”. Trước khi đến đây, tôi đã đọc lại những kinh văn mà cha chuyển dịch. Tôi được di truyền từ cha trí nhớ siêu phàm, cho nên dù không thông hiểu Phật pháp một cách sâu sắc, tôi vẫn có thể thuộc hết những kinh văn này. Cũng nhờ vậy, trên đường tới đây, tôi không gặp bất cứ khó khăn nào khi giả làm một hòa thượng.

Cha dịch xong mấy câu kệ, liền cười hiền hậu, nói với các đệ tử:

- Kinh văn đã dịch xong, các vị vất vả nhiều rồi!

Giọng cha thâm trầm, ấm áp, pha khẩu âm Tây vực. Cha đã năm mươi sáu tuổi, tuy gương mặt đã già nua, nhưng ở cha vẫn toát lên phong thái đĩnh đạc, phi phàm, thách thức với tháng năm. Lúc cha mỉm cười, vẻ thông tuệ, uyên bác và sự hoạt bát, tinh tường tỏa rạng.

Đạo Hằng đột nhiên kêu lên:

- Đó là pháp sư Kumarajiva ư? Đạo Tiêu, sao, sao, sao ngài giống sư đệ thế?

Tôi sững sờ, thảo nào tôi cứ có cảm giác rất thân thuộc, mũi cao, mắt sâu, đồng tử màu xám nhạt, cằm nhọn, thuôn dài, giống ở mọi nét, ngay cả chiều cao cũng tương tự. Chỉ có điều, da tôi trắng hơn cha một chút. Hồi trẻ, hẳn là cha giống hệt tôi bây giờ. Chả trách các nhà sư trong chùa Thảo Đường nhìn tôi đầy ngạc nhiên như vậy.

- Rajiva, tiếp theo đây, chúng ta sẽ chuyển dịch kinh văn của các ngài Dharmatrata (Đạt-ma-đa-la) và Buddhasena (Phật Đại Tiên) mà ta mang về chứ?

Phía bên này là rất đông các nhà sư nước ngoài, xét tướng mạo thì có lẽ họ đến từ Ấn Độ và Trung Á. Họ đang tọa thiền trên những vị trí dành cho khách quý. Tôi biết họ là những người thầy và người bạn của cha, đến Trường An trợ giúp cha dịch kinh Phật. Trong số họ có một nhà sư dáng người nhỏ thó, gầy gò, kém cha chừng vài tuổi, rất hay đặt câu hỏi. Ông ấy hỏi một lần bằng tiếng Phạn, sau đó nhắc lại bằng thứ tiếng Hán bập bõm.

Cha cung kính cúi người trước nhà sư đó:

- Ngài Dharmatrata và ngài Buddhasena là các bậc thủy tổ của phái Hữu tong – Đại Thừa. Ta dự định sẽ chuyển dịch các cuốn luận của phái Không tông – Đại Thừa trước, sau đó mới chuyển dịch các thuyết của phái Hữu tông. Vì vậy, ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu dịch cuốn kinh “Duy-ma-cật sở thuyết”.

Vị sư kia tỏ ra bất mãn, lạnh lùng cất giọng oang oang:

- Phái Hữu tông vốn là tông phái của các hành giả Du-già ở Thiên Trúc, do Bồ Tát Di-lặc sáng lập, với học thuyết “nhãn minh” soi sáng như sao Khuê trên trời. Trung Quán luận của phái Không tông mà sư huynh đề xướng sao so sánh được với phái Hữu tông?

Tôi tức khí. Lão hòa thượng này ngang nhiên khiêu khích cha trước mặt bao nhiêu đệ tử của người thế này, thật quá đáng. Tôi biết lão là ai, đó chính là Buddhabhadra, tên tiếng Hán là Giác Hiền, người luôn chống lại mọi quan điểm về Phật pháp của cha. Ông ta cậy mình là đệ tử của dòng tu chính phái Hữu tông – Đại Thừa, sau khi đến đất Hán đã ra sức đả kích quyền uy của cha, hòng tranh giành địa vị với cha.

- Sư đệ Giác Hiền à, đệ đến Trường An trợ giúp ta dịch thuật kinh Phật, ta vui mừng khôn xiết. Thời gian qua, được cùng sư đệ luận đàm về Pháp tướng, khám phá những lý luận vi diệu, sâu xa, ta đã học hỏi và lĩnh hội được rất nhiều tri thức quý báu.

Cha vẫn kiên trì giữ thái độ mềm mỏng, lịch duyệt và rất mực cung kính với Giác Hiền:

- Không phải ta không muốn chuyển dịch các luận thuyết của phái Hữu tông. Nhưng ta thiết nghĩ, học thuyết của phái Không tông đã được truyền bá rộng rãi ở Thiên Trúc, nên người dân Trung Nguyên sẽ dễ dàng tiếp nhận và lĩnh hội hơn. Bên cạnh đó, giáo lý của phái Hữu tông hướng dẫn con người cách tu tập để có thể thành Phật bằng những phương thức quá ư gian khổ, nên theo ta, trước mắt, học thuyết của giáo phái này chưa phù hợp để truyền bá ở Trung Nguyên.

Tôi gật đầu tán đồng, cha nói rất đúng. Phần lớn các giáo phái Phật giáo ở Trung Quốc đều thuộc phái Không tông, bởi vì những lý thuyết như: “mọi chúng sinh đều có Phật tính”, hay “chỉ cần buông đao là có thể thành Phật”, rồi thuyết “vô tình hữu Phật tính” (ngay cả các loài vô tình như núi sông, cây cỏ cũng có Phật tính)[1]… thì già trẻ lớn bé, ai ai cũng có thể đọc hiểu và giác ngộ. Trong khi đó, phương pháp tu tập mà giáo phái Hữu tông đề ra rất gian khổ, khó thực hiện, lại không có gì đảm bảo sẽ thành công, nên người dân bỏ Hữu tông mà theo Không tông cũng là điều dễ hiểu. Mức độ khó dễ trong việc tu tập để thành Phật sẽ quyết định thời gian lưu truyền ngắn hay dài của một giáo phái ở Trung Quốc. Đó cũng chính là nguyên nhân vì sao nhà sư Huyền Trang sáng lập giáo phái Pháp tướng tông hoàn toàn dựa trên học thuyết của phái Hữu tông - Ấn Độ, kết quả là, sau khi Huyền Trang qua đời, giáo phái này lập tức biến mất.

[1] Học thuyết của phái Ngưu Đầu Tông, một chi phái của Thiền Tông, Trung Quốc.

Giác Hiền đứng lên, đến trước mặt cha, khinh khỉnh nói:

- Rajiva, xin hỏi, những kinh văn mà sư huynh chuyển dịch không có gì đặc sắc so với bản dịch của những người khác, vậy thì nhờ đâu mà danh tiếng của sư huynh lại có thể lan rộng khắp đất Hán?

Chúng tăng xôn xao bàn tán, chỗ này chỗ kia, người chụm đầu, kẻ thì thào, râm ran khắp đại điện. Tôi bực mình đến mức muốn bật dậy. Lão hòa thượng này nói vậy là có ý gì? Trước mặt hàng nghìn nhà sư tôn cha làm sư phụ, ông ta dám tỏ ra nghi ngờ danh tiếng của cha, rõ ràng là muốn khiêu khích. Lẽ ra đó chỉ là cuộc tranh luận thuần túy giữa phái Hữu tông và Không tông, nhưng lão hòa thượng này lại cố tình công kích danh dự cá nhân của người khác, thật quá đáng!

Sắc mặt cha hơi tái đi đôi chút, khuôn ngực phập phồng, cha hít thở sâu vài lần để lấy lại bình tĩnh, và vẫn bằng thái độ cung kính, nghiêm cẩn, cha nói với lão hòa thượng đáng ghét kia:

- Chẳng qua người đời vì nể ta đã nhiều tuổi mà thôi. Chút hư danh ấy, đâu đáng để luận bàn.

Lão Giác Hiền rướn cằm lên, tiếp tục o ép cha:

- Muốn biết hai phái Không tông, Hữu tông, phái nào ưu việt hơn, chỉ cần luận chiến là biết. Chi bằng hai ta hãy mở một cuộc tranh biện, phân cao thấp.

Cha đã lấy lại bình tĩnh, người tỏ ra hết sức điềm tĩnh, bình thản, cha lắc đầu, đáp:

- Sư đệ, việc cần kíp trước mắt là dịch thuật kinh Phật. Ta vốn tài hèn sức mọn, chẳng thể so sánh với hiền đệ, hai ta không cần phải luận chiến để phân cao thấp, ta xin nhận thua.

Lão hòa thượng Giác Hiền định lên tiếng thì bên ngoài đại điện vang lên một hồi chuông. Cha cất giọng ôn tồn nói với chúng tăng:

- Đã đến giờ tụng kinh buổi tối, hôm nay chúng ta sẽ tụng niệm kinh “Bất khả tư nghì quang Bồ Tát sở thuyết”.

Lão Giác Hiền không thể tiếp tục gây sự trong giờ tụng kinh buổi tối, nên không gây khó dễ cho cha nữa, đành lẳng lặng trở về chỗ ngồi. Cha thắp một nén nhang, chúng tăng thôi ồn ào, tất cả học theo cha, vái lạy Phật tổ, sau đó xếp bằng ngồi thiền, tụng niệm cùng cha:

- Ta nghe thế này, lúc bấy giờ, Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn của ông Cấp Cô Độc, với những cây xanh của Thái tử Kỳ Đà…

Tôi cúi đầu lẩm nhẩm đọc theo, nhưng cố gắng đọc thật nhỏ để những người xung quanh không phát hiện ra tôi tụng không chính xác. Giờ tụng kinh buổi tối kết thúc, tôi cùng Đạo Hằng trở về tịnh xá lấy ba lô, sau đó, tôi bước nhanh ra khỏi cổng chùa, đứng đợi ở bên đường, con đường duy nhất dẫn từ chùa Thảo Đường về nơi ở của cha.

Lúc ấy là năm giờ mười lăm phút một chiều mùa đông, bầu trời ảm đạm, gió lạnh tê tái, xem chừng ngày mai tuyết sẽ rơi. Tôi bồn chồn ngóng đợi trên con đường rợp bóng cây, lòng rối như tơ vò, vừa hồi hộp vừa lo lắng. Thường ngày tôi rất ít khi hút thuốc, nhưng lúc này, tôi thèm một điếu thuốc, nó sẽ giúp tôi thư giãn, bình tĩnh và tay chân không run lên bần bật thế này.

Bóng dáng cao gầy xuất hiện, bên cạnh cha còn có Tăng Triệu và mấy nhà sư lớn tuổi khác. Tôi cảm thấy vô cùng bối rối, gắng sức nắm chặt đôi tay đang không ngừng run lên của mình, bàn chân như bị thôi miên, cứ thế rảo bước về phía cha, không chịu tuân theo sự điều khiển của tôi. Tim đập thình thịch, nhanh hơn cả khi tôi chạy điên cuồng trên sân bóng.

Cha nhìn thấy tôi rồi! Cha dừng lại, tấm lưng lom khom dần thẳng lên, trân trân nhìn tôi không chớp mắt, hàng lông mày xô lại, cha khẽ nheo mắt như cố gắng để nhận biết và phân định. Sau đó, cha bước về phía tôi, chậm rãi, càng đến gần, vẻ băn khoăn trên gương mặt cha càng lớn thêm.

Không hiểu vì sao, vào khoảnh khắc vô cùng hồi hộp và bối rối ấy, tôi lại cắn môi, nở nụ cười với ông lão đang chầm chậm tiến về phía mình ấy. Ánh mắt cha không chịu rời gương mặt tôi dù chỉ một tích tắc. Thấy tôi cười, mắt cha mở thật to, rồi bỗng cha chao đảo.

- Thầy ơi!

Tăng Triệu đỡ lấy cha. Ánh mắt cha vẫn theo sát tôi, cha đưa tay ra hiệu không cần ai đỡ. Khoảng cách giữa chúng tôi càng ngắn lại, tay tôi càng run rẩy dữ dội. Tôi trộm nghĩ, không biết cha có thể chấp nhận việc con trai mình đột nhiên lớn nhanh như vậy không?

Cha chỉ còn cách tôi chừng bốn, năm mét nữa thôi. Tôi vẫn mỉm cười nhìn cha. Như thể phải cười như thế tôi mới xua được cảm giác bất an trong lòng.

Cuối cùng thì cha cũng đã đứng đối diện với tôi. Tôi chìa cổ tay về phía cha, chuỗi vòng mã não lấp lánh ánh sáng dung dị. Trên mỗi hạt đều in khắc khát vọng một đời của cha: “Không phụ Như Lai, không phụ nàng”. Trong lòng bàn tay tôi là một chú chuồn chuồn tre đã cũ kỹ, đó là món quà của cha tặng cho tôi thuở ấu thơ.

Cha cúi xuống nhìn chuỗi hạt trên cổ tay tôi, chìa bàn tay đang run lên bần bật của mình ra cầm chú chuồn chuồn tre lên ngắm nghía. Lúc cha ngẩng lên, khóe môi cha rung động dữ dội, khuôn ngực phập phồng. Ánh mắt cha vượt qua tôi, hối hả tìm kiếm xung quanh. Cha cắn môi, khẽ cất tiếng:

- Cô ấy không đến.

Cha ngẩn ngơ hồi lâu mới sực tỉnh, ánh mắt trở lại gương mặt tôi, ngắm nghía tỉ mỉ, giọng cha run run:

- Con, con là nhóc Rajiva ư? Sao con lớn nhanh vậy?

- Con đã lựa chọn độ tuổi này của cha để thực hiện chuyến vượt thời gian.

Mắt tôi nhòe ướt, sống mũi cay xè, tôi cười:

- Từ nhỏ con có một mơ ước, đó là được tận mắt nhìn thấy cha…

Giọng nói của tôi sao lại run rẩy thế này?

- Ở thời đại của con, đã trải qua ngần ấy năm rồi ư?

Giọng của cha vẫn run lên như lá cây trong gió.

- Vâng, mẹ bảo, lần dài nhất, cha đã chờ đợi mẹ mười sáu năm, nhưng mẹ sắp vượt được cha rồi.

Mẹ nói những lời này vào một ngày mùa thu, khi tôi đẩy xe lăn đưa mẹ đi dạo trên bãi cỏ rộng trong khuôn viên bệnh viện. Mẹ nhìn những chiếc lá ngô đồng vàng rực rỡ, tâm tư chìm sâu vào kỉ niệm. Mẹ bảo mẹ đã gặp cha vào một ngày mùa thu như thế này và mẹ sinh tôi cũng vào mùa thu.

Tròng mắt già nua của cha đẫm lệ, cha khẽ khép mắt lại, sau đó mở ra nhìn tôi từ trên xuống dưới:

- Sao con lại xuất gia?

Tôi đưa tay lên xoa xoa cái đầu trọc lốc của mình, cười hỉ hả. Mùa đông mà không có cọng tóc nào thế này, đúng là rất lạnh:

- Không phải đâu ạ. Con cải trang như vậy để có thể nhanh chóng đến đây gặp cha thôi.

Cũng may, vào thời đại của cha, các nhà sư không bị buộc phải đốt hương trên đỉnh đầu.

Cha gật đầu, trầm ngâm ngắm nghía tôi, ánh mắt bỗng nhiên thẫn thờ:

- Lúc con cười, trông rất giống mẹ con…

Nụ cười khuất dần trên môi, tôi nhớ rằng, mẹ cũng thường nhìn mình bằng ánh mắt thẫn thờ ấy, sau đó cũng cất giọng mơ hồ:

- Con giống hệt bố con…

Họ luôn tìm kiếm hình ảnh của người kia trên hình hài tôi.

- Mẹ con…

Cha nghẹn ngào, hơi thở khó khăn, dõi ánh mắt ngóng đợi về phía tôi:

- … vẫn khỏe chứ?

Lòng tôi bỗng chùng xuống, tôi ậm ừ một tiếng. Nhưng sau đó vì không cầm lòng nổi, tôi cắn môi, khẽ nói:

- Con đến, để nói với cha về chuyện của mẹ…

Cha kéo tay tôi, thì thào:

- Theo cha.

- Thưa thầy!

Ai đó trong số các nhà sư nãy giờ vẫn chăm chú quan sát cha con tôi, bỗng nhiên cất tiếng gọi. Cha dừng bước, quay lại nói với Tăng Triệu:

- Ngày mai con thay sư phụ chủ trì giờ tụng kinh buổi sáng. Công việc dịch thuật kinh Phật tạm nghỉ một ngày, sư phụ có việc quan trọng cần xử trí.

Cha con tôi bước đi trước ánh mắt sửng sốt của các nhà sư. Cha vẫn không nguôi run rẩy, bước chân loạng choạng. Tôi do dự một lát, rồi mạnh dạn nắm lấy cánh tay cha. Cha bỗng rùng mình, quay sang nhìn tôi, tôi cảm nhận được hơi ấm tỏa lan trong đôi mắt sáng ngời ấy.

Tôi tươi cười, kề sát vào cha hơn nữa, tôi đỡ cha tựa vào cơ thể cường tráng, khỏe khoắn của mình và dìu cha đi.

Bầu trời xẩm tối, gió lạnh lùa qua vạt áo của hai cha con, loạt xoạt. Cha nương tựa vào tôi, hơi ấm từ cơ thể cha truyền sang tôi, chầm chậm len vào buồng tim tôi. Tôi ngoảnh sang nhìn cha, ôm cha chặt hơn, truyền cho cha sức mạnh của tôi. Giữa chúng tôi, dường như không tồn tại khoảng cách của một nghìn năm thời gian. Chúng tôi, cứ thế, nương vào nhau bước đi.


“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

106#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:25:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 97 - Mục đích của chuyến đi



Đây là ảnh đám cưới của chú Chinh Viễn và cô Tuyết Tuyết. Cô Tuyết Tuyết từng là sinh viên của mẹ, bây giờ cô ấy làm việc ở trung tâm nghiên cứu. Chính vợ chồng cô chú ấy đã giúp mẹ vượt thời gian về Trường An gặp cha. Chú Chinh Viễn hiện giữ chức Phó giám đốc trung tâm nghiên cứu. Chuyến đi lần này của con cũng là cô chú ấy giúp đỡ sắp xếp… Đây là ảnh sinh nhật lần thứ bốn mươi của mẹ. Cha xem, sinh viên của mẹ quệt bánh ga-tô lên khắp người mẹ, sau đó, buổi sinh nhật trở thành một cuộc chiến bánh ga-tô, trên người ai nấy đều lem nhem vệt bánh… Đây là ảnh chụp mẹ con trong buổi lễ nhậm chức chủ nhiệm khoa lịch sử. Mẹ là người phụ nữ hăng say lao động và cống hiến nhất mà con từng biết. Mẹ quan tâm, lo lắng cho mọi sinh viên, nên họ rất yêu kính mẹ… Đây là ảnh chụp hai mẹ con khi đến tham quan chùa Thảo Đường. Vào thời đại của con, chùa Thảo Đường khác bây giờ, mô hình kiến trúc hoàn toàn mới, do đó không tìm thấy bất cứ dấu tích nào của thời đại vua Diêu Hưng nữa. Mẹ đã khóc rất nhiều khi nhìn thấy tháp Xá lị của cha… Đây là ảnh chụp đám ma ông ngoại. Ông ngoại mất năm mẹ bốn mươi sáu tuổi do bệnh ung thư. Bà ngoại vì thương nhớ ông nên cũng qua đời vào năm ngoái. Sự ra đi của ông bà ngoại khiến mẹ con rất đau lòng, mãi chẳng thể nguôi ngoai…

Dưới ánh nến bập bùng, tôi chậm rãi lật từng tấm ảnh, thuật lại cho cha nghe mọi chuyện từ khi mẹ trở về thời hiện đại vào năm ba mươi ba tuổi, cho đến trước lúc tôi vượt thời gian đến thăm cha, khi ấy mẹ đã bốn mươi chín tuổi. Hơn một nghìn tấm ảnh, ghi lại những sự kiện diễn ra trong suốt mười sáu năm tuổi trung niên của mẹ.

Cha đeo kính lão, tỉ mẩn lật từng bức ảnh một, như người đói lâu ngày được một bữa ngon vậy. Ánh mắt tràn đầy âu yếm, quyến luyến, nhớ thương chan chứa. Tôi nhẹ nhàng cất tiếng:

- Cha ơi, cha từng nói với mẹ rằng, cha không được thấy mẹ già đi, vì vậy, trước khi đến đây, con đã đem in toàn bộ những bức ảnh này ra. Vì con tin rằng, cha rất muốn được nhìn thấy mẹ con về già trông sẽ như thế nào, phải không cha?

Cha dịu dàng mân mê gương mặt già nua của mẹ trên tấm hình, ánh mắt trôi về nơi xa xăm, dường như cha đang chìm trong kí ức tuyệt đẹp nào đó. Lúc cha quay lại nhìn tấm ảnh, khóe môi nở một nụ cười ấm áp:

- Mẹ con không bao giờ già đi, vẫn mãi là dung mạo ấy trong tim cha, dịu hiền, điềm đạm, thông tuệ và rất mực thấu tình đạt lý.

Tôi gật đầu đồng tình với cha. Tuy mẹ không sở hữu vẻ đẹp sắc nước hương trời, nhưng ở mẹ có một sức hút rất khó lý giải, sức hút ấy toát ra từ sự thông tuệ, từ phong thái điềm tĩnh, khoan hòa, từ sự thấu hiểu và yêu thương mọi người. Bất cứ ai tiếp xúc với mẹ một thời gian đều bị hấp dẫn bởi sự chân thành, thuần khiết, chất phác ở mẹ. Những năm qua, mẹ có không ít người theo đuổi, trong số đó có cả sinh viên nam của mẹ, nhưng mẹ đều khéo léo từ chối.

- Đây là đâu?

Cha nhấc tấm ảnh sau cùng lên, ảnh chụp mẹ nằm trên giường bệnh, sắc mặt nhợt nhạt. So với những tấm ảnh trước đó, gương mặt mẹ trong tấm ảnh này già đi rất nhiều. Bởi vì mẹ phải điều trị bằng hóa chất, tóc rụng không ít. Chỉ trong vòng ba tháng mà mái tóc mẹ đã bạc trắng hoàn toàn.

- Trong bệnh viện ạ.

Tôi ngập ngừng, chua xót, thở dài một tiếng, nói:

- Mẹ đang lên lớp giảng bài thì hôn mê bất tỉnh, mẹ đã nằm viện được ba tháng rồi. Nhưng mẹ kiên quyết không chịu điều trị mà nằng nặc đòi xuất viện. Con không làm cách nào thuyết phục được mẹ, nên phải đến đây tìm cha…

Cha giật mình thảng thốt, khóe môi rung động, nhìn tôi đầy lo lắng. Tôi thở dài, quyết định nói cho cha biết sự thật mà bấy lâu nay mẹ vẫn giấu cha:

- Cha có biết nguyên nhân bệnh tình của mẹ không?

Tôi kể cho cha nghe mọi chuyện. Tôi không khó khăn gì trong việc giải thích các thuật ngữ hiện đại, vì cha vô cùng thông thái, và cha cũng đã có những hiểu biết nhất định về thế kỷ XXI trong khoảng thời gian chung sống với mẹ. Nên cha tiếp nhận và hiểu rất nhanh những sự việc mà con người ở thời đại này khó lòng hiểu được.

Chỉ số nhiễm phóng xạ sau nhiều lần vượt thời gian đã vượt mức cho phép, nên mẹ không tránh khỏi căn bệnh máu trắng. Vì cứu tôi, mẹ đã yêu cầu các bác sỹ tiến hành cấy ghép tủy của mẹ cho tôi, bất chấp cuộc phẫu thuật đã gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của mẹ. Vì muốn giữ lời hứa, trở về Trường An gặp cha, mẹ đã phải trả một giá rất đắt, những hy sinh của mẹ, không ai có thể tưởng tượng nổi. Cha vừa nghe chuyện vừa liên tục đưa tay áo lên lau nước mắt, rồi cha bật khóc nức nở. Tất cả những điều này, khi lớn lên tôi đã được nghe chú Chinh Viễn và cô Tuyết Tuyết kể lại. Và khi ấy, tôi đã khóc nức nở như cha bây giờ. Mẹ là người phụ nữ kiên cường nhất, dũng cảm nhất mà tôi từng gặp. Vì tình yêu, mẹ sẵn sàng hy sinh tất cả. Trên đời này, có được mấy người phụ nữ đủ dũng khí để làm việc đó?

Mắt cha đỏ hoe, cha nắm chặt tay tôi trong nỗi sợ hãi tột cùng:

- Mẹ con… có phải… đã… đã…

- Cha, bệnh của mẹ có thể chữa trị được.

Tôi vỗ nhẹ vào bàn tay cha, an ủi:

- Con là con trai mẹ, con có thể hiến tủy của con cho mẹ. Khoa học kỹ thuật tiến bộ là thế, phẫu thuật cấy ghép tủy rất phổ biến, sẽ không ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con đâu. Nhưng, mẹ không đồng ý…

- Vì sao?

Tôi trầm ngâm một lúc, thở dài:

- Mẹ bảo, ông bà ngoại đã qua đời, con cũng đã trưởng thành nên người. Mẹ không còn gì phải luyến tiếc nữa, mẹ có thể an tâm xuống địa ngục tìm cha rồi. Mẹ bảo, cha đã chờ mẹ hơn một nghìn sáu trăm năm nơi địa ngục, mẹ không muốn cha phải chờ mẹ thêm nữa…

Những giọt nước mắt vặn mình, tràn qua khóe mắt, lăn xuôi gò má gầy guộc, nhỏ xuống chiếc áo cà sa màu nâu sòng của cha, như những giọt hoa sen.

- Vậy nên, con đến tìm cha…

Bây giờ đến phần quan trọng nhất, tôi hồi hộp quá, phải lấy hơi nhiều lần mới đủ bình tĩnh để nói tiếp:

- Cha và mẹ không cần phải chờ đợi để được gặp nhau nơi địa ngục, sự chờ đợi ấy quá ư gian nan, mờ mịt. Nếu khi còn sống, cha mẹ vẫn có thể được ở bên nhau, liệu cha có sẵn lòng đưa ra một quyết định vô cùng quan trọng?

Cha nhìn tôi bằng ánh mắt kinh ngạc, sững sờ nhưng cũng tràn đầy kỳ vọng. Tôi cắn môi, chậm rãi giải thích:

- Cha hãy đến thời đại của con, cả nhà ta sẽ được đoàn tụ. Như thế, mẹ sẽ có lý do và dũng khí để tiếp tục cuộc sống.

Cha quá đỗi bất ngờ, nghiền ngẫm lời tôi nói hồi lâu, không sao bình tĩnh lại được. Tôi biết, cha rất khó có thể tiếp nhận điều này trong chốc lát, nên phải giải thích ngay:

- Tất nhiên không phải đi ngay bây giờ. Tài liệu ghi chép về cha viết rằng, cha mất tại Trường An vào ngày hai mươi tháng tám, năm Hoằng Thủy thứ mười một, hưởng thọ sáu mươi tuổi. Vua Diêu Hưng hỏa táng cha bên ngoài vườn Tiêu Dao theo nghi thức quốc tang, lửa tàn, xác tan, nhưng lưỡi cha vẫn còn nguyên.

Cha chau mày:

- Lửa tàn, xác tan, nhưng lưỡi vẫn còn nguyên ư?

- Rất ly kỳ, phải không cha? Chính nhờ đoạn sử này, mà con đã đặt ra câu hỏi: vì sao lửa tàn, xác tan mà lưỡi vẫn còn nguyên vẹn?

Tôi mỉm cười, cầu mong những điều tôi nói tiếp theo đây không khiến cha hoảng sợ:

- Bởi vì đó không phải là thi thể thật của cha.

Cha bàng hoàng ngẩng lên nhìn tôi:

- Con… ý con là, khi ấy, cha… đã tới tương lai ư?

Tôi gật đầu:

- Với trình độ khoa học kỹ thuật ở nơi con sống, việc tạo ra một người giả trông giống hệt người thật và đầu lưỡi không bị thiêu hủy không có gì khó khăn cả.

Tôi hồi hộp nhìn cha:

- Cha đồng ý không cha? Sau khi hoàn thành sứ mạng được Phật tổ giao phó, cha sẽ biến mất hoàn toàn khỏi thời đại này bằng một cái chết giả, sau đó bắt đầu một cuộc sống mới ở thời đại của mẹ và con?

Cha im lặng không nói, mà chìm sâu vào suy tư, dường như cha vẫn chưa thể tiếp nhận nổi lời đề nghị này. Tôi tiếp tục khuyên giải:

- Ở thời đại của con, người ta sống đến tám mươi, chín mươi thậm chí một trăm tuổi là chuyện hết sức bình thường. Cha cùng con vượt thời gian trở về đó, không tránh khỏi bị nhiễm xạ. Vì vậy, khi cha đến nơi, chú Chinh Viễn sẽ sắp xếp để những nhân viên y tế giỏi nhất kiểm tra sức khỏe và điều trị mọi chứng bệnh trong cơ thể cha. Còn con, sau khi trở về, sẽ lập tức tiến hành phẫu thuật cấy ghép tủy sống cho mẹ. Cha mẹ hoàn toàn có thể vui sống cùng nhau ở thời đại của con thêm mấy mươi năm nữa.

Tôi đọc thấy trong mắt cha nỗi bất an, bèn vội vàng giải thích:

- Cha ơi, cha đừng lo lắng. Chuyện này chỉ có chú Chinh Viễn và cô Tuyết Tuyết biết thôi. Họ đã thề sẽ giữ kín bí mật. Nên sẽ không ai có thể biến cha thành mẫu vật thí nghiệm cả. Không ai ở thời đại của con biết được thân phận thật của cha.

Tôi ngừng lại một lát, nắm lấy đôi tay đang run lên của cha:

- Cha mẹ yêu nhau cả đời, nhưng chưa bao giờ được ở bên nhau dài lâu đến thế. Con tin rằng, cha rất mong muốn được ở bên mẹ những năm tháng cuối cùng, đúng không cha?

Cha ngước nhìn tôi, đôi đồng tử màu xám nhạt lấp lánh ánh sáng dị thường:

- Bốn năm sau, con sẽ phải vượt thời gian một lần nữa, đúng không?

Cha không trả lời câu hỏi của tôi, lại băn khoăn về vấn đề này, khiến tôi không khỏi sững sờ:

- Vâng, nếu cha đồng ý, con phải quay về chuẩn bị mọi thứ. Chú Chinh Viễn đang cho chế tác thêm một bộ áo khoác chống phóng xạ theo kích cỡ của cơ thể con và một chiếc đồng hồ vượt thời gian. Con cũng phải chuẩn bị chế tạo người giả nữa. Nhưng tất nhiên, việc quan trọng nhất là: con mang tin tức của cha về cho mẹ. Như thế, mẹ mới chịu làm phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật xong, sức khỏe ổn định trở lại, con sẽ vượt thời gian trở về năm 409 sau Công nguyên, tức là con sẽ quay lại đây trước ngày hai mươi, tháng tám, năm Hoằng Thủy thứ mười một, nhà Diêu Tần.

Cha ngẫm ngợi một lát, rồi đột nhiên nhìn tôi:

- Hai lần đi về như thế, lẽ nào sức khỏe của con không bị ảnh hưởng?... Mẹ con có đồng ý không?

Cha thở dài, xót xa:

- Cha không đành lòng…

Tôi sững người, sau đó thì vô cùng cảm động, thì ra cha đang day dứt vì điều này. Tôi mỉm cười, an ủi cha:

- Cha ơi, con là thanh niên trai tráng, con hoàn toàn có thể chịu đựng được. Mẹ con ở lại nơi đây một thời gian dài, nên phóng xạ mới tích tụ trong cơ thể, mẹ lại không được chữa trị kịp thời, nên mới nghiêm trọng như vậy. Nhưng con thì khác, cả hai lần vượt thời gian con đều lưu lại đây không lâu, sau khi trở về con sẽ lập tức kiểm tra sức khỏe, sẽ không sao đâu cha.

Cha rời khỏi chiếc giường gỗ thấp, chầm chậm bước đến bên cửa sổ, ngoài trời tuyết bắt đầu rơi, những chùm nhỏ đập rào rạt vào khung cửa. Cha dõi mắt về một điểm đến trong tưởng tượng, trầm mặc hồi lâu. Bóng cha cao gầy, lom khom, và cô liêu.

Tôi đứng lên, lại gần cha, rút trong tay áo ra một tờ giấy in chữ, ngập ngừng, do dự:

- Cha ơi, đây là danh sách những cuốn kinh văn mà cha dịch, cha có muốn…

- Không cần đâu…

Cha quay đầu lại, sắc mặt ảm đạm, nhìn tờ giấy trên tay tôi, lắc đầu:

- Xem hay không xem cũng chẳng thay đổi được điều gì. Vả chăng không xem, cha sẽ được tự do suy tưởng…

Tôi ngượng ngùng rụt tay lại, xé bỏ tờ giấy. Cha rảo bước về phía chiếc bàn làm việc, nhấc cuốn kinh văn lên đọc, sau đó mỉm cười hồn hậu với cậu con trai đang ngơ ngẩn nhìn mình:

- Con mau lại đây mài mực giúp cha đi nào!

Tôi ngạc nhiên nhìn cha, cha mỉm cười:

- Chỉ còn bốn năm nữa thôi, cha phải tranh thủ thời gian…

Tôi vui mừng khôn tả, gật đầu lia lịa, chạy lại, ngồi xổm bên cạnh cha, nhiệt tình phụ việc. Chỉ tiếc tôi không sành khoản nghiên mực, bút lông, nên chân tay cứ lóng nga lóng ngóng, khiến mực dây ra đầy tay, tôi lại đưa tay lên lau trán. Cha dừng bút, nhìn tôi, mỉm cười. Lúc đầu tôi không hiểu, đột nhiên, cha cầm bút lông chấm một cái lên trán tôi, sau đó bật cười sảng khoái. Tôi đưa tay lên quệt, hai tay dính đầy mực. Tưởng tượng ra gương mặt mình nhem nhuốc, hẳn rất tức cười, lòng ham vui và sự ranh mãnh trong tôi trỗi dậy. Tôi nhúng đầu ngón tay vào nghiên mực, rồi quệt lên má cha.

Khuôn mặt nho nhã của cha bỗng dưng xuất hiện một vệt mực dài, trở nên rất khôi hài. Tôi ngỡ ngàng, sau đó thì cười ha hả. Cha thấy tôi cười, không nín nổi, cũng bật cười theo, nụ cười chứa nặng nỗi bể dâu.

Hai cha con cứ cười mãi với nhau như thế. Trong không gian ngập tràn tiếng cười ấy, dường như có một luồng hơi ấm lạ kỳ lan tỏa khắp cơ thể tôi. Thì ra, ở bên cha, không cần phải gò bó, nghiêm cẩn như tôi tưởng tượng.

- Rajiva…

Cha nắm tay tôi thật chặt, nụ cười vẫn rạng rỡ, ánh mắt lấp lánh:

- Cha xin lỗi vì đã không ở bên chăm sóc con. Cha đã để cho hai mẹ con phải chịu nhiều vất vả…

- Không đâu cha. Chỉ vì cha không có cách nào khác thôi.

Tôi mỉm cười:

- Mẹ bảo cha là người cha tốt nhất trên đời…

Sống mũi cay xè, không muốn rơi nước mắt trước mặt cha, tôi vội cúi xuống, tiếp tục mài mực.

Cha nhìn tôi đầy âu yếm, giọng cha dịu dàng:

- Hai mươi tuổi con vẫn còn đi học. Bây giờ con vẫn đang là học sinh ư?

Tôi tự hào khoe với cha:

- Hai mươi tuổi con đã học xong thạc sĩ rồi. Mẹ muốn con học tiếp lên tiến sĩ. Nhưng trong thời gian học thạc sĩ con đã được cấp bằng sáng chế, không muốn lãng phí thời gian, con đã mở công ty khi chưa tốt nghiệp thạc sĩ. Sau đó con huy động vốn từ các ngân hàng, để đầu tư vào dự án của con. Hiện tại công ty của con đang hoạt động rất tốt, và đã lên sàn.

Quá nhiều thuật ngữ hiện đại, tôi bèn giải thích để cha hiểu thế nào là bằng cấp, bằng sáng chế, công ty, lên sàn… nhiều vấn đề cha không hiểu, nhưng có thể nhanh chóng lý giải theo cách của mình. Tôi càng ngày càng cảm thấy kính phục cha, so với cha, tôi còn rất kém cỏi.

- Cha ơi, khi cha mẹ ở Lương Châu, đã phải trải qua trận đói khủng khiếp, cha mẹ đã phải tận mắt chứng kiến hàng vạn thậm chí là hàng chục vạn người chết đói. Cha mẹ muốn cứu giúp họ nhưng đành lực bất tòng tâm. Khi mẹ kể cho con nghe về giai đoạn lịch sử này, con đã hạ quyết tâm sẽ theo đuổi công việc mà có thể giúp cho nhân loại giảm thiểu tai ương. Bởi vậy, con đã chọn theo học chuyên ngành nghiên cứu về giống cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Ngay từ khi học đại học, con đã bắt đầu nghiên cứu, làm thế nào để nâng cao hiệu suất giống cây trồng.

Tôi vừa giải thích cho cha nghe từ mới, vừa cố gắng miêu tả một cách dễ hiểu nội dung công việc của mình:

- Cha ơi, lương thực được trồng cấy trên đất đai, đúng không?

Cha ngạc nhiên nhìn tôi, rồi gật đầu.

Tôi mỉm cười, tiếp tục:

- Công ty của con là một tòa nhà gồm mấy chục tầng. Mỗi tầng lại được phân lớp thành nhiều dây chuyền sản xuất khác nhau, hoa màu được gieo trồng trên những dây chuyền sản xuất đó. Ánh sáng nhân tạo sẽ được chiếu vào những khu vực cần thiết, nhiệt độ, độ ẩm đều được điều tiết bởi bàn tay con người. Tất cả các nhân viên trong công ty của con đều là các kỹ sư nông nghiệp. Lương thực không phải được trồng cấy trên đất canh tác như trước nữa, nên sẽ không bị phá hoại bởi thiên tai. Lương thực được sản xuất liên tục theo phương thức sản xuất công nghiệp, nuôi cấy công nghệ cao và môi trường nhân tạo, nhờ bàn tay lao động của các công nhân. Công nghệ nuôi trồng này đã được phát triển rộng khắp trên thế giới. Dân số thế giới ở thời đại của con đông gấp hàng nghìn lần so với thời đại của cha, đất đai là nguồn tài nguyên quý hiếm, nên phải áp dụng phương pháp khoa học này để tận dụng tối đa nguồn đất đai hữu hạn, sản xuất ra khối lượng lương thực nhiều nhất có thể, đáp ứng nhu cầu sinh tồn của số dân khổng lồ ấy.

Tôi hoa chân múa tay, say sưa kể về công việc của mình, tôi đặc biệt hưng phấn khi trò chuyện về chuyên môn. Nhưng vì có quá nhiều thuật ngữ khoa học hiện đại, tôi phải dành ra không ít thời gian để giải thích cho cha hiểu. Cha kiên trì lắng nghe, gặp phải những khái niệm mới, cha khiêm tốn đề nghị tôi giải thích cặn kẽ. Cuối cùng thì cha cũng hiểu được một phần. Cha tấm tắc khen ngợi những công nghệ tiên tiến đáng kinh ngạc của con người thời hiện đại, rồi gật gù khen ngợi tôi:

- Con làm vậy là đúng…

Tôi nhận được vô số lời khen ngợi, ca tụng cũng như bằng khen, phần thưởng. Nhưng không có lời khen nào quý giá bằng lời khen của cha tôi. Tôi cảm thấy vô cùng ấm áp, hân hoan, thoải mái và sung sướng. Tôi chợt nghĩ, đây phải chăng chính là “tình thân”…

- Cha ơi, cha đi nghỉ thôi.

Tôi ngó đồng hồ, đã quá nửa đêm. Tôi còn trẻ nên thức khuya một chút cũng không sao, nhưng cha thì khác. Ngày nào cha cũng phải dậy từ rất sớm, hơn nữa cha đã năm mươi sáu tuổi rồi.

- Cha chưa buồn ngủ.

Cha mỉm cười đôn hậu:

- Cha vẫn muốn nghe con kể chuyện…

- Cha ơi, ngày mai con sẽ kể tiếp, con ở lại đây với cha mười ngày kia mà. Sau đó, con sẽ trở về trước ngày sinh nhật lần thứ năm mươi của mẹ, mang theo tin tức của cha làm quà tặng sinh nhật mẹ.

Tôi giúp cha thu dọn chồng ảnh trên bàn. Cha đứng lên, đến bên tủ quần áo, lấy ra một chiếc hộp hình vuông, thận trọng mở nắp. Thấy tôi tò mò ngó nghiêng, cha lần lượt nhấc từng thứ một lên cho tôi xem.

Đó là một chồng ảnh, bên trên là ảnh tôi hồi nhỏ, từ khi lọt lòng cho đến lúc đến trung tâm nghiên cứu, đi đắp người tuyết với mẹ; một cuốn sổ cũ mèm, mép giấy đã sờn bạc. Cha mở cuốn số tay, cho tôi xem bức ảnh mẹ chụp cùng ông bà ngoại.

Mẹ tôi khi ấy rất trẻ, nụ cười trong sáng, thuần khiết tựa bầu trời xanh. Ngoài ra, trong hộp còn có mấy chiếc dao cạo râu đã hoen gỉ, những chiếc tất mùa đông rách tươm, bạc màu, một chồng giấy tốc ký, mà bên trên là hình ảnh của mẹ ở đủ mọi tư thế, dáng điệu, được vẽ bằng bút chì. Tôi bật cười. Hồi trẻ, mẹ ngây ngô, đáng yêu quá!

Cha cầm một tờ giấy lên, mở ra cho tôi đọc, mỉm cười hỏi:

- Con còn nhớ không?

Tôi chăm chú ngắm nhìn những nét chữ bé bỏng, thơ dại, nhưng khá công phu, nắn nót, rồi bật cười thích thú:

- Nhớ chứ ạ!

Cha xếp gọn từng thứ một, bàn tay mân mê lau chùi, nhưng thực tế là không có một hạt bụi nào vương trên những kỷ vật ấy. Rồi cha thận trọng xếp từng thứ một vào trong hộp lần lượt theo thứ tự, phía trên cùng là chồng ảnh mà tôi vừa mang tới cho cha. Đóng nắp lại, bàn tay cha mân mê, vuốt ve lớp vỏ hộp nhẵn bóng, ánh mắt hiền từ, dịu dàng, rồi cha ngẩng lên nhìn tôi và cười:

- Những năm qua, mỗi ngày cha đều mang ra ngắm nghía một lần. Chớp mắt đã ngần ấy năm rồi…

Cha đưa tay lên chấm nước mắt, tay áo trôi xuống dưới khuỷu tay, để lộ chiếc vòng mã não giống hệt của tôi, ánh nến bập bùng, chiếu rọi những hạt trong suốt màu đỏ, lấp la lấp lánh. Chuỗi hạt này là kết tinh lời thề nguyền của cha dành cho mẹ…

Tối hôm đó, tôi đã thức để canh giấc ngủ cho cha. Tôi phải nghiêm khắc yêu cầu rất nhiều lần, cha mới chịu nằm xuống. Tôi ngồi bên cạnh cha, khe khẽ kể cho cha nghe về cuộc sống của tôi và mẹ. Mí mắt cha trĩu nặng, giọng tôi nhỏ dần, nhỏ dần, rồi ngừng hẳn. Tôi ngắm nghía gương mặt cha chìm trong giấc ngủ. Gương mặt đã trải bao mưa nắng của đời người ấy, trên đuôi mắt, trên trán, trên cổ đều vằn vện những nếp nhăn, nhưng khí chất toát ra từ cha vẫn nồng đượm như hương rượu đã ủ qua nhiều năm tháng.

Khóe môi cha khẽ uốn cong lên, hình như cha đang mơ một giấc mơ rất đẹp. Tôi kéo chăn đắp cho cha, rồi trải đệm xuống nền nhà, ngồi gác cằm bên giường, ngắm nhìn cha. Tâm hồn tôi, bỗng nhiên êm đềm lạ kỳ, như thể có thứ gì đó mềm ấm như bông vừa nhẹ nhàng vệt qua. Đêm đầu tiên gặp cha, tôi cứ thế ngồi bên giường, ngắm cha mãi không thôi, cho đến khi gục xuống, mỉm cười, chìm vào giấc ngủ…


“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

107#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:28:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 98 - Rung động và từ bỏ





- Để tôi giúp cô.

Cô gái quỳ bên mương nước, cầm trong tay một cành cây, đang ra sức vớt thứ gì đó. Cô mặc chiếc áo màu vàng nhạt, dáng người nhỏ nhắn, xinh xắn. Nghe thấy có tiếng gọi, cô gái vẫn giữ nguyên tư thế chống hai tay xuống đất, chỉ ngoảnh đầu lại nhìn. Đó là một gương mặt xinh đẹp, trẻ măng, chừng mười bảy, mười tám tuổi. Nếu tách biệt riêng rẽ thì các nét trên gương mặt cô gái không có gì nổi trội, nhưng khi kết hợp với nhau, chúng lại tạo nên một vẻ đẹp hồn nhiên, đáng yêu, đôi mắt to, sáng long lanh khiến cô bé trở nên rất mực sống động, lí lắc, dễ thương.

Trái tim tôi bỗng lạc nhịp. Tôi vốn nghĩ, những người phụ nữ thuần khiết giống như mẹ tôi là rất hiếm, nào ngờ trở về thời kỳ loạn lạc của hơn một nghìn sáu trăm năm về trước, lại gặp được một thiếu nữ trong sáng, thuần khiết như bầu không khí trong vắt, không gợn chút ô nhiễm nào của thời cổ đại thế này.

Các cô gái ở thời đại của tôi rất mau già, học cấp ba đã bắt đầu tập tành trang điểm, đi thẩm mỹ viện. Nên mỹ nữ giống như sản phẩm của ngành công nghiệp, được sản xuất và cho ra lò hàng loạt. Đẹp thì vẫn đẹp, nhưng giống nhau như đúc từ một khuôn ra, nên không thể biết được, đằng sau lớp hóa trang ấy, đâu mới là gương mặt thật của các cô.

Bởi vậy, tôi cứ mê mải ngắm nhìn cô gái với vẻ đẹp hoàn toàn tự nhiên này bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Cô gái cũng nhìn tôi chăm chú, nhưng chắc chắn không phải vì ngưỡng mộ hay thích thú gì, mà là vì kinh ngạc vô chừng. Cái miệng nhỏ xinh của cô khẽ hé mở, trông đáng yêu vô cùng. Tôi cứ nghĩ các cô gái ở thời cổ đại rất hay bẽn lẽn, thẹn thùng, thế nhưng cô bé này lại nhìn tôi chằm chằm không chớp mắt, tôi thấy rất thú vị.

- Cô đánh rơi cái gì xuống mương nước thế?

Tôi đến bên cạnh cô gái, quỳ xuống giống cô, mỉm cười hỏi.

- Một chiếc còi của trẻ con.

Cô gái sực tỉnh, không nhìn tôi chăm chú nữa, chỉ tay về phía một hòn đá dưới nước, bên cạnh có một chiếc còi hình con chim.

- Nếu không vớt lên được, đêm nay hai đứa quỷ sứ ấy sẽ không tha cho tôi.

Vành môi cô gái khẽ uốn lên, vẻ mặt rầu rĩ. Tôi mỉm cười, không nghĩ ngợi gì cả, thò tay xuống nước. Mùa đông nên nước lạnh như băng, buốt đến tận xương tủy, khiến tôi rùng cả mình. Cô gái khẽ kêu lên một tiếng, không muốn cô gái phải thất vọng, tôi tiếp tục nhoài người ra phía trước. Cơ hồ, sợ tôi ngã xuống mương, cô gái kéo ngược cánh tay còn lại của tôi. Tôi cười thầm, nếu tôi mà rơi xuống nước, thì sức vóc nhỏ bé của cô gái có ngăn nổi không? Tôi tiếp tục vươn ra xa, cuối cùng thì cũng bắt được. Tôi ra sức giữ thăng bằng và thu tay về. Vẫn trong tư thế nửa quỳ nửa ngồi, tôi chìa thành quả ra trước mặt cô gái.

Cô gái mừng rỡ reo lên, cầm lấy chiếc còi trên tay tôi, rồi đột nhiên, hai bàn tay nhỏ xíu của cô gái nắm chặt lấy tay tôi, chà lấy chà để:

- Tay thầy lạnh quá, khéo ốm mất.

Cô gái cúi đầu, ra sức chà tay cho tôi, để lộ chiếc cổ ngọc ngà, xinh đẹp. Có điều gì bất thường đang xáo trộn trong tim tôi. Cô gái đột ngột ngẩng đầu trong lúc tôi đang mãi vân du trên cổ cô, khiến tôi bị bất ngờ, mặt nóng ran. Cô bé thấp hơn tôi gần một cái đầu, ngước gương mặt dễ thương lên nhìn tôi, sau đó, dường như nhận ra điều gì, thình lình buông tay tôi ra.

Cô gái lùi lại một bước, đằng hắng vài tiếng, xoay đảo đôi đồng tử long lanh, khẽ cúi xuống vái lạy tôi:

- Cảm ơn thầy!

Tôi giật mình, ngơ ngác, mãi về sau mới nhớ ra lúc này tôi đang đóng vai một hòa thượng. Tôi chùi bàn tay ướt sũng vào áo cà sa, cô gái đưa cho tôi một chiếc khăn:

- Thầy dùng cái này đi…

Giọng cô gái trong trẻo, thánh thót, rất dễ thương.

- Tên tôi là Rajiva.

Tôi không thích bị gọi là “thầy” chút nào.

- Rajiva ư?

Cô gái nghiêng đầu ngẫm ngợi:

- Không giống pháp danh chút nào.

Tôi ậm ừ một tiếng, chán nản nói với cô gái:

- Pháp danh của tôi là Đạo Tiêu. Nhưng cô cứ gọi Rajiva là được rồi.

Nghĩ một lát, tôi bổ sung thêm:

- Tôi thích tên gọi ở nhà của mình hơn.

Cô gái gật đầu, tiếp tục quan sát tôi. Ánh mắt trong veo, hồn nhiên và rất mực trong sáng.

- Trông thầy rất giống pháp sư.

Đến lượt tôi sững người. Tôi cứ nghĩ, cô gái chăm chú nhìn tôi vì bị hấp dẫn bởi vẻ điển trai của tôi, giống như nhiều cô gái ở thời đại mà tôi sống. Nào ngờ, nguyên nhân chính lại là vì tôi giống cha tôi. Chúng tôi gặp nhau trong khuôn viên nơi ở của cha, vậy chắc là cô ấy biết cha. Cô ấy là ai nhỉ?

- Chị Lạc Tú!

Tiếng trẻ con lảnh lót vang lên, hai đứa bé chừng ba, bốn tuổi, ăn mặc giống hệt nhau, lũn cũn chạy đến, nhào vào vòng tay cô gái trước mặt tôi.

Vậy là tôi biết rồi. Cô ấy là Lạc Tú, thiếu nữ Lương Châu cuối cùng được mẹ giữ lại, cưu mang. Còn hai đứa bé xinh như thiên thần này, chính là cặp song sinh của Sơ Nhụy: Dung Tình và Dung Vũ. Tất nhiên là tôi chẳng thể phân biệt được hai đứa nhóc này.

Lạc Tú đưa chiếc còi cho bọn trẻ, rồi quay sang cảm ơn tôi một lần nữa. Sau đó dắt tay hai đứa bé, ra về. Tôi mỉm cười nhìn theo bóng cô gái, tiếp tục hành trình đến chùa Thảo Đường. Buổi sáng lúc tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên giường của cha, nhưng không thấy bóng dáng cha đâu, tôi đoán là cha đã đến chùa. Tôi muốn cha nghỉ ngơi thêm một ngày vì đêm qua cha thức rất khuya, nhưng xem ra, cha mẹ giống hệt nhau, đều là những người hết lòng vì công việc.

Tôi rảo bước về phía chùa Thảo Đường, chợt nhớ ra chiếc khăn của Lạc Tú trên tay mình, bèn cất vào tay áo, cảm giác thật ngọt ngào, dễ chịu. Cứ nghĩ tới gương mặt thuần khiết, dễ thương của cô gái, tôi lại tủm tỉm cười một mình. Hình như, tôi chưa bao giờ như vậy…

Vừa đặt chân vào đại điện chùa Thảo Đường đã nhận thấy bầu không khí khác lạ. Lão Giác Hiền đang tranh luận với cha chuyện gì đó. Tôi tìm thấy Đạo Hằng ở một góc khuất, vội đến bên cậu ta hỏi han tình hình. Cậu ta cho biết, ngày mai Diêu Hưng sẽ dẫn theo Diêu Hoằng đến chùa nghe giảng kinh, Giác Hiền một mực đòi luận chiến với cha trước mặt nhà vua.

- Sư đệ Giác Hiền, việc biện luận phân tranh thắng thua có ý nghĩa gì đâu. Ta muốn dành thời gian để phiên dịch cuốn kinh “Duy Ma Cật sở thuyết”. Cuốn kinh này có ý nghĩa rất quan trọng với ta, nên ta không muốn lãng phí thời gian vào việc tranh biện.

Giọng cha được đẩy lên ở một âm vực khá cao, điều đó chứng tỏ, lòng kiên nhẫn của cha đã bị thử thách ở mức tối đa.

- Bộ kinh văn này có ý nghĩa to lớn với sư huynh ư?

Giác Hiền cười mỉa mai, cao giọng:

- Sư huynh muốn mượn gương đại sư Duy Ma Cật để biện hộ cho hành vi sai trái của mình chứ gì? Sư huynh không tuân thủ giới luật, xem thường người tu hành, lại còn đưa phụ nữ đến chốn Phật đường trang nghiêm, đó là hành vi bất kính với Phật tổ.

Cha giật mình, sắc mặt tái nhợt. Tôi bật dậy, nắm chặt hai tay, định xông lên phía trước. Nhưng Đạo Hằng kiên quyết ghìm tôi lại:

- Đạo Tiêu, sư đệ làm gì vậy? Đệ xông lên đó liệu có giúp được pháp sư không?

Lời nói của Đạo Hằng đã khiến tôi sực tỉnh, tôi ngồi phịch xuống. Đúng vậy, tôi không thể hành động lỗ mãng, làm vậy sẽ chỉ khiến cha thêm khó xử. Nhưng tôi tức phát khóc, nắm chặt nắm đấm, đập điên cuồng xuống nền nhà. Lão hòa thượng đáng ghét này, dám sỉ nhục mẹ ta ư!

Mắt cha đỏ ngầu, chân tay run lên vì giận dữ, cha gắng sức hít thở thật sâu mấy lần để giữ giọng bình tĩnh, mà rằng:

- Được, ta đồng ý tranh biện.

Tôi ghé vào tai Đạo Hằng, thì thào:

- Đệ là người thân của pháp sư, nếu sư huynh muốn nhận ngài làm thầy, đệ sẽ cầu xin pháp sư để sư huynh được toại nguyện.

- Thật chứ?

Cậu ta kêu lên sung sướng, tôi phải nháy mắt ra hiệu để cậu ta hạ thấp giọng xuống.

- Nhưng sư huynh phải giúp đệ việc này.

Tôi hất hàm về phía lão hòa thượng đáng ghét đang đứng trên kia.

- Vì muốn khuếch trương thanh thế, Giác Hiền thu nhận rất nhiều đệ tử ở thành Trường An, bất kể xuất thân, tốt xấu. Vậy nên, trong số các đệ tử của ông ta, có không ít kẻ đầu trộm đuôi cướp. Sư huynh hãy vờ xin làm đệ tử của Giác Hiền, tìm ra những kẻ xấu xa đó, rồi âm thầm trình báo lên Điện hạ. Sau đó, pháp sư chắc chắn sẽ nhận huynh làm đệ tử.

- Được!

Đạo Hằng đập tay vào nhau, háo hức muốn thực hiện ngay kế hoạch.

- Giác Hiền o ép pháp sư trước mặt mọi người, thật quá quắt, chẳng có chút phong thái của bậc danh sư gì cả. Bần tăng cảm thấy rất bất mãn, bần tăng nhất định phải đòi lại công bằng cho pháp sư!

Giờ nghỉ trưa, tôi tìm gặp Tăng Triệu. Tuy không biết chính xác quan hệ của tôi và cha, nhưng thấy tôi giống hệt cha, lại được tận mắt chứng kiến cảnh cha con tôi nhận nhau, nên cậu ta đoán rằng, xuất thân của tôi rất đặc biệt, vì vậy, tỏ ra rất mực cung kính với tôi.

Tôi nghiêm nghị nói với cậu ta rằng: tám vị đệ tử của pháp sư phải dốc toàn lực đuổi Giác Hiền ra khỏi Trường An, bằng không, khi danh dự và tôn nghiêm của sư phụ bị tổn hại nặng nề, họ làm sao co thể ngẩng cao đầu.

Tăng Triệu hoàn toàn đồng tình với tôi, vì cậu ta cũng hết sức bất bình với Giác Hiền. Mẹ là ân nhân cứu mạng của Tăng Triệu, Giác Hiền sỉ nhục mẹ cũng tức là sỉ nhục mẹ nuôi của cậu ta. Chúng tôi bàn bạc chi tiết mọi việc suốt cả buổi trưa, tôi còn giới thiệu Đạo Hằng làm quen với Tăng Triệu. Kết thúc giờ tụng kinh buổi tối, tôi thấy Tăng Triệu lập tức tập trung Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Duệ, Đạo Hằng, Đàm Ảnh, Tuệ Quán và Tuệ Nghiêm lại. Có vẻ như tối nay họ sẽ tổ chức một hội nghị nho nhỏ.

Trên đường trở về nơi ở cùng cha, tôi nghiến răng, thầm rủa: Lão Giác Hiền đáng ghét, ông không còn được vênh vang bao lâu nữa đâu.

Nhưng, cứ nghĩ đến việc, người đời sau sẽ đổ toàn bộ trách nhiệm trong việc xua đuổi Giác Hiền ra khỏi thành Trường An lên đầu cha tôi, tôi lại không khỏi bứt rứt. Thực tế là cha không hề hay biết chuyện này. Nhưng các học giả ngày sau đều cho rằng, chính cha là người chỉ đạo việc này. Mà thôi, lão Giác Hiền còn ở lại Trường An ngày nào, tôi còn cảm thấy tức anh ách và khó chịu ngày ấy.

Buổi tối, tôi đến tìm Lạc Tú để trả lại khăn tay cho cố ấy. Cũng mượn cớ này để chơi đùa cùng Dung Tình, Dung Vũ, để được ngắm nhìn nụ cười thuần khiết, trong sáng của cô ấy, vì mỗi lúc như thế, tôi lại quên hết mọi ưu phiền…

Đại điện hôm nay chật kín người, Diêu Hưng cùng Thái tử Diêu Hoằng và rất đông hoàng thân quốc thích ngự trên những vị trí cao nhất dành cho khách quý. Ngay khi cuộc tranh biện giữa cha và Giác Hiền bắt đầu, mọi người đều há hốc miệng, tròn xoe mắt. Bởi vì, vốn tiếng Hán của Giác Hiền rất hạn chế, ông ta chỉ có thể bập bõm được những từ đơn giản, nên ông ta yêu cầu tranh biện bằng tiếng Phạn. Nhà sư Bảo Vân, người tinh thông tiếng Phạn phụ trách việc phiên dịch. Nhà sư vừa ghi chép vừa diễn giải ý tứ của hai vị.

Theo ghi chép của Bảo Vân, thì nội dung cuộc tranh biện như sau:

“Kumarajiva hỏi: Vì sao nói rằng các “pháp” vốn là không?

Giác Hiền đáp: Vì vật chất vốn do vô số hạt bụi li ti hợp thành, mà không có bản tính, nên đều là không.

Kumarajiva lại hỏi: Nếu dùng vô số hạt bụi li ti mà hợp thành vật chất, rồi bảo rằng nó vốn là không, thì làm sao chứng minh được rằng, hạt bụi vốn không tồn tại?

Giác Hiền đáp: Nhiều người trong chúng ta thường cố gắng phá hủy hạt bụi. Nhưng tôi không làm thế.

Kumarajiva lại hỏi: Vậy thì hạt bụi có bất diệt không?

Giác Hiền đáp: Nhìn từ góc độ của một hạt bụi, thì thấy nhiều hạt bụi đều sẽ bị tiêu diệt. Nhìn từ góc độ của nhiều hạt bụi, thì thấy một hạt bụi cũng sẽ bị tiêu diệt”.

Tiếp sau đó thì không có bất cứ ghi chép nào cả. Bởi vì Bảo Vân không hiểu gì. Và hầu hết những người có mặt trong đại điện khi ấy cũng không hiểu gì. Có lẽ chỉ có tám vị đại đệ tử của cha là nghe hiểu được đôi chút. Cuộc biện luận giữa cha và Giác Hiền được coi là cuộc biện luận trừu tượng nhất, khó hiểu nhất trong lịch sử Phật giáo.

Cha và Giác Hiền, người hỏi người đáp, tranh luận suốt hơn một giờ đồng hồ, vẻ nghiêm túc trên gương mặt hai người thật đáng nể sợ. Tuy nghe không hiểu, nhưng không ai dám lên tiếng, dường như ai nấy đều nín thở quan sát biểu cảm trên gương mặt hai người. Điều mà mọi người có thể thấy rõ ràng là mồ hôi đầm đìa trên trán Giác Hiền, trong khi gương mặt cha vẫn điềm nhiên, bình thản. Nhưng cho tới khi cuộc biện luận kết thúc, hai người vẫn nhìn nhau lạnh lùng, và không ai trong số họ công bố kết quả. Cuộc biện luận ấy chỉ được ghi chép lại với đoạn hội thoại ngắn ngủi phía trên, không ai biết rốt cuộc ai thắng hay ai thua, và nó đã trở thành một nghi án ly kỳ không có đáp án của lịch sử…

- Cô thấy không, thế là hết sạch vết bẩn rồi nhé!

Tôi lắc mạnh chiếc bình gốm đựng vỏ trứng ngâm giấm, sau đó dừng lại một lát:

- Cô nhìn xem.

Lạc Tú vô cùng kinh ngạc, miệng há hốc nhìn chiếc bình trong vắt. Cô ấy lắc thử chiếc bình, rồi nở nụ cười tươi như hoa, nhìn tôi bằng cặp mắt sáng long lanh, dễ thương không tả nổi. Đột nhiên tôi rất muốn được hôn cô ấy, nhưng đã kịp kìm chế, sau đó, hướng dẫn cô ấy một cách nghiêm túc, cách lắc bình cho thật đều.

Sau khi trở về nơi ở của cha, tôi thường tìm cớ để đến gặp Lạc Tú. Tuy chúng tôi cách nhau hàng nghìn năm thời gian, và có rất nhiều suy nghĩ của tôi mà cố ấy không hiểu, nhưng cô ấy rất biết lắng nghe, và luôn khích lệ tôi tiếp tục câu chuyện bằng nụ cười thuần khiết, trong sáng của cô ấy. Mỗi lần thấy cô ấy cười, tôi cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng, tựa hồ như được đắm mình trong làn gió mơn man, cảm giác thư thái thấm vào từng tế bào. Tôi yêu thích vô cùng cảm giác ấy.

Sau khi rửa sạch bình gốm, chúng tôi cùng rời khỏi nhà bếp, sóng bước trên hành lang dẫn về căn phòng của cô ấy. Đêm nay bầu trời lặng gió, hàng ngàn ngôi sao nhấp nháy trên nền trời xanh thẫm, mai chắc sẽ nắng to lắm đây.

- Vì sao các ngôi sao lại biết nhấp nháy?

Tiếng nói êm êm vang lên bên tai tôi. Tôi ngước nhìn bầu trời đêm đầy sao, đắm chìm vào thế giới tinh cầu lung linh, huyền hoặc. Lẽ ra tôi nên trả lời rằng: bởi vì ánh sáng của các ngôi sao phải xuyên qua bầu khí quyển bảo vệ trái đất vốn luôn biến động về mật độ.
- Bởi vì, các vì sao cũng giống như con người, thường chớp mắt khi gặp phải chuyện buồn.

Tôi quay sang nhìn cô ấy, trong bóng đêm tịch mịch, gương mặt của cô ấy đẹp một cách phiêu linh, lạ thường. Khi cô ấy ngẩng lên, tôi thấy rõ chiếc cằm nhọn xinh xẻo và các đường nét thanh tú trên gương mặt cô ấy. Đột nhiên, tôi có linh cảm bất ổn rằng, mình không thể tiếp tục đứng đây ngắm nhìn trời sao thêm nữa, vì rất có thể, tôi sẽ phạm sai lầm…

- Rajiva!

Đó là cha! Cha đứng trên dãy hành lang nhìn tôi và Lạc Tú, giọng cha nhẹ nhàng, nhưng cũng đủ khiến tôi giật mình. Lạc Tú ngượng ngùng, cúi chào cha, rồi nhanh chóng rời gót. Tôi thấp thỏm lo âu bước về phía cha.

Hai cha con cùng nhau trở về phòng, cha không nói gì cả. Tôi cũng không biết phải nói gì lúc này, nên đành im lặng.

- Rajiva!

Cuối cùng thì cha cũng chịu lên tiếng.

- Lạc Tú là một cô gái ngoan!

- Vâng.

Tôi biết điều đó chứ.

Cha dừng bước, nhìn tôi, giọng cha thâm trầm:

- Cha không phản đối chuyện của con và Lạc Tú. Có điều, con phải suy nghĩ cho thật kỹ…

Đèn lồng treo trên lối đi soi rọi nét ưu buồn trong mắt cha, tiếng thở dài não nề vang lên:

- Liệu con có chịu đựng nổi cuộc tình mà những tháng năm chia li nhiều hơn gặp mặt, và phải dùng tính mạng của mình để đánh đổi những lần hội ngộ ít ỏi, giống như cha và mẹ con không…

Tôi đứng sững lại, ngước nhìn đôi mắt nhuốm bi thương, dâu bể của cha, tim thắt lại, tôi cắn môi, khẽ đáp:

- Con hiểu, thưa cha…

Đêm đó tôi không sao chợp mắt nổi, lời cha nói cứ quẩn quanh mãi trong tâm trí tôi. Tôi có đủ dũng cảm để sẵn sàng chịu đựng không? Tôi có dám không?

Có lẽ chuyện tình yêu của cha mẹ đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi, khiến tôi không sao chấp nhận được lối sống “tàu nhanh” của các bạn đồng trang lứa. Có vô số các cô gái vây quanh tôi, nhưng tôi không hề có cảm xúc với họ. Bởi vì ánh mắt họ dành cho tôi chứa nặng nhiều thứ khác, ngoài tình cảm. Mẹ tôi là giáo sư lịch sử nổi tiếng. Bản thân tôi chưa đến hai mươi tuổi đã có công ty riêng. Tôi lại cao ráo, đẹp trai. Tất cả những ưu điểm này gộp lại có thể đánh đổ bất cứ cô gái nào. Nhưng, thử hỏi có bao người trong số họ thực sự quan tâm, trân trọng con người thực của tôi, tâm hồn tôi, cảm xúc của tôi, mà không phải ngoại hình, gia thế, điều kiện kinh tế của tôi. Có ai trong số họ sẵn sàng hi sinh tất cả, bất chấp mọi khó khăn để yêu tôi giống như mẹ tôi yêu cha tôi?

Tôi đã thử hẹn hò với nhiều cô gái khác nhau, nhưng các mối quan hệ đó đã chấm dứt sau chỉ ba lần gặp gỡ. Không ai trong số các cô gái xinh đẹp, kiểu cách ấy là bóng hình thuần khiết, trong sáng mà tôi hằng mong đợi và tìm kiếm. Tôi không ngờ hình bóng ấy lại xuất hiện ở thời đại cách tôi hơn một nghìn năm về trước. Tôi nghe rất rõ tiếng trái tim mình thổn thức. Nhưng, liệu tôi có dám không?

Tôi trằn trọc không yên, tôi vùng dậy, đến bên khung cửa sổ, ngắm nhìn bầu trời đầy sao. Thực ra tôi đã biết được câu trả lời: tôi không dám!

Ngay từ đầu tôi đã biết điều này, nhưng tôi cố tình né tránh câu hỏi khắc nghiệt này. Tuy tôi vô cùng ngưỡng mộ tình yêu của cha mẹ, nhưng tình yêu “sống chết có nhau” ấy có lẽ chỉ thuộc về cha mẹ mà thôi. Tôi và những người sống quanh tôi, chẳng thể học theo họ, bởi vì không ai có đủ dũng khí để làm như họ…

Đến lúc phải buông tay rồi, hãy làm điều đó khi mà cả hai còn chưa kịp sa vào lưới tình. Sau năm ngày nữa tôi sẽ ra đi. Hãy xem cuộc gặp gỡ này là một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời. Lần tiếp theo tôi trở lại đây, cô ấy đã hai mươi mốt tuổi, chắc chắn đã có gia đình.

Kể từ buổi tối đó, tôi không đến tìm Lạc Tú nữa. Nếu có tình cờ gặp, tôi cũng chỉ chắp tay cúi chào, giữ khoảng cách nhất định với cô ấy. Tôi thấy đau lòng khi bắt gặp vẻ thất vọng trong mắt cô ấy, nhưng tôi có thể chịu đựng được. Dù sao thì cũng chỉ có vài ngày ở bên nhau. Tôi tin rằng, cô ấy sẽ dần lãng quên tôi thôi…

Đạo Hằng và tám đệ tử của cha làm việc rất hiệu quả. Chỉ vài ngày sau đó, Đạo Hằng đã điều tra ra lai lịch những kẻ phạm tội trong số các đệ tử của Giác Hiền và đã mật báo với Diêu Hưng. Diêu Hưng nổi trận lôi đình, hạ lệnh trừng phạt nghiêm khắc. Tin tức lan truyền khắp nơi trong thành Trường An. Giác Hiền bị chỉ trích nặng nề từ cả hai phía: người tu hành và dân chúng. Đám đệ tử hèn kém của ông ta, kẻ nửa đêm bỏ trốn, kẻ mai danh ẩn tích. Chỉ trong vòng nửa ngày, đã hầu như chẳng còn ai. Giác Hiền không thể tiếp tục ở lại Trường An được nữa. Đúng lúc đó, sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn mời ông ta giảng đạo, Giác Hiền bèn dẫn theo bốn mươi đệ tử, những người bằng lòng đi theo ông ta, lên núi Lô Sơn.

Khi cha biết chuyện thì Giác Hiền đã chuẩn bị ra đi, danh tiếng đã bị hủy hoại, ông ta không còn mặt mũi nào để gặp cha nữa. Cha lập tức đến tìm tôi, tôi thừa nhận không giấu giếm. Cha biết tôi vì muốn đòi lại công bằng cho mẹ nên mới làm vậy, nên chỉ trách móc vài câu rồi thôi. Sau khi Giác Hiền ra đi, cha thường hay thở dài, lúc nào cha cũng nói hay, nói tốt về ông ta, nào là ông ta là người tinh thông Thiền pháp, và là dòng tu chính phái so với cha.

Tôi nói để cha yên tâm, rằng Giác Hiền đến Nam triều, được Lưu Dục rất mực nể trọng. Ông ấy còn hợp tác với đại sư Pháp Hiển (người vừa chu du Ấn Độ về) dịch thuật kinh Phật. Ông ấy giỏi về Thiền pháp, nên các cuốn kinh văn mà ông ấy phiên dịch đã trở thành kinh văn kinh điển của phái Du-già Đại Thừa sau này.

Cũng bởi vậy, công lao của ông ấy đối với Phật giáo Trung Nguyên nói chung và với Phật giáo Nam triều nói riêng là rất lớn.

Vì tôi khẩn thiết đề nghị, nên cha đã đồng ý thu nhận Đạo Hằng làm vị đệ tử cuối cùng. Tất nhiên, mọi người ở thời đại ấy cũng đều cho rằng tôi là một trong số các đệ tử của cha. Có người đặt cho tôi, Đạo Hằng và tám đệ tử khác của cha biệt hiệu “Thập môn thập triết”. Thấy tôi giống cha, nhiều người đoán già đoán non tôi là họ hàng thân thích của cha, nhưng không ai hay biết, tôi chính là con trai của cha.

Trước khi đi, tôi nói rằng tôi phải về Khâu Từ. Đạo Hằng đến từ biệt tôi, mặt mày ủ dột. Cậu ta bảo, vì việc mật báo kẻ gian với Diêu Hưng, cậu ta đã có cơ hội gặp mặt nhà vua vài lần. Diêu Hưng hỏi cậu ta một số câu hỏi liên quan đến việc triều chính, nào ngờ cậu ta trả lời đâu ra đấy. Diêu Hưng mừng như bắt được vàng, ép cậu ta hoàn tục, phò trợ nhà vua công việc triều chính. Mấy hôm nay cậu ta đang đau đầu vì chuyện này.

Tôi bật cười nói với cậu ta rằng, sư phụ của cậu có thể giúp cậu. Đạo Hằng ra về với gương mặt tươi cười rạng rỡ. Tôi thì thở dài ngán ngẩm, đúng là cha sẽ giúp cậu ta cầu xin với Diêu Hưng. Nhưng về sau, khi lâm vào tình cảnh quẫn bách, nhà vua đã o ép Đạo Hằng hoàn tục, khiến cậu ta không còn cách nào khác, đành phải ẩn cư trong núi sâu.

Diêu Hưng đã rơi vào tình cảnh suy vi. Hai năm trước thua trong cuộc chiến với Thác Bạt Khuê, hai năm sau, Hách Liên Bột Bột làm phản. Tuổi già của Diêu Hưng phải sống trong cảnh thù trong giặc ngoài, chẳng được yên ổn. May mà cha không phải chứng kiến sự diệt vong của nhà Diêu Tần.

- Cha viết xong chưa?

Cha ngẩng lên, xúc động, “ừ” một tiếng, đưa cho tôi tờ giấy vừa viết xong. Tôi sững sờ khi nhìn những con chữ trên giấy. Cha ngồi lặng lẽ suy tưởng cả đêm bên bàn làm việc, vậy mà chỉ viết ra hai chữ này thôi ư?

Đó là hai chữ Hán rất đẹp: Chờ ta.

Tôi cứ nghĩ đó sẽ là một bức thư tình nồng nàn kia. Vậy mà, sau rốt, chỉ có duy nhất hai chữ: “Chờ ta”. Có lẽ, đối với cha mẹ, không cần phải nói thêm bất cứ lời hẹn thề to tát gì nữa. Chỉ hai chữ “Chờ ta” là đủ rồi…

Tôi thận trọng gấp gọn tờ giấy, đút vào ba lô, nở nụ cười hãnh diện:

- Chắc chắn mẹ sẽ rất thích món quà sinh nhật lần thứ năm mươi này.

Tôi tin tưởng tuyệt đối rằng, sau khi đọc được thư của cha, mẹ sẽ đồng ý tiến hành phẫu thuật cấy ghép tủy…

Tôi định đến chào từ biệt Lạc Tú, nhưng nghĩ đi nghĩ lại lại thôi. Tôi không nên làm phiền cô ấy, hai chúng tôi chưa từng bắt đầu, thì việc gì phải kết thúc?

Cha tiễn tôi đi, cha đã rất thành thạo trình tự của việc này. Ngàn vạn lời căn dặn, cuối cùng chỉ lắng đọng trong câu nói ngắn gọn này:

- Cha ơi, vì mẹ con, trong thời gian bốn năm tới, cha nhất định phải giữ gìn sức khỏe.

Cha nhìn tôi, gật đầu cả quyết.


“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

108#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:33:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 99 - Trước lúc lâm chung




- Chào thầy Đạo Tiêu!

Tôi quay lại, ai đó trông rất quen đang chầm chậm lại gần. Vẫn là gương mặt xinh đẹp, đôi mắt thuần khiết, tựa bầu trời trong trẻo của thời cổ đại ấy, nhưng mái tóc đã được búi cao, vận đồ thiếu phụ, nét hồn nhiên, ngây thơ khuất dạng, sức hút toát ra từ cô gái này là vẻ chín chắn, chững chạc. Gặp lại cô ấy trái tim tôi vẫn rộn ràng như xưa.

Đang dung dăng dung dẻ, dắt tay tôi tíu tít như chim non, nhưng vừa nhìn thấy Lạc Tú là hai đứa nhóc Dung Tình, Dung Vũ lập tức buông tay tôi ra, lao về phía trước, nhào vào lòng Lạc Tú. Cô ấy rất mực tình cảm và yêu chiều hai đứa trẻ, rút khăn lau miệng cho chúng, ánh mắt dịu dàng giống hệt mẹ tôi hồi trẻ.

Tôi thoáng buồn, vì cô ấy không gọi tôi là Rajiva như trước kia nữa mà trịnh trọng gọi tôi là “thầy Đạo Tiêu”. Tôi chầm chậm cất bước đến bên cô ấy, niềm nở:

- Lạc Tú, bốn năm rồi không gặp, cô vẫn ổn chứ?

Cô ấy ngước lên, đôi mắt thuần khiết, dịu dàng nhìn tôi rất lâu. Khoảnh khắc ấy, tôi thật sự ghen tị với người chồng của Lạc Tú. Cô ấy bảo người đánh xe bế hai đứa bé lên xe trước, sau đó quay lại, nhìn tôi cười hiền hòa:

- Tôi vẫn ổn.

Bỗng dưng cô ấy đỏ mặt, khẽ cúi đầu, để lộ chiếc cổ ngọc ngà. Giọng nói cất lên trong trẻo:

- Chồng tôi rất yêu thương tôi, chúng tôi có một cậu con trai rồi...

Tôi sững sờ, nhưng lấy lại bình tĩnh ngay sau đó. Cô ấy đã hai mươi mốt tuổi, vào thời đại này, phụ nữ hai mươi mốt tuổi đều đã làm mẹ. Nhưng, vì sao, khi nghe tin cô ấy có con, tôi lại buồn như vậy?

Tôi nhẹ lắc đầu, xua tan những ý nghĩ vơ vẩn, nhìn vào mắt cô ấy, khẽ hỏi:

- Cô nhận nuôi hai nhóc Dung Tình, Dung Vũ, liệu chồng cô có...

Cô ấy lắc đầu, nụ cười hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt:

- Chồng tôi biết chuyện từ lâu rồi, chàng nhất định sẽ đối xử với Dung Tình, Dung Vũ như với con đẻ.

Tôi thầm thở than, cô ấy quả nhiên đã lấy được một người chồng tốt tính. Nghe cha nói, Lạc Tú đã tự mình lựa chọn. Chồng cô ấy tuy chỉ là một viên quan nhỏ nhưng tính tình cương trực, lương thiện và rất thật lòng với cô ấy, người đó cũng thề rằng sẽ không lấy vợ lẽ. Một cô gái xinh đẹp, dịu hiền như cô ấy, chắc chắn phải lấy được một người xứng đôi vừa lứa. Cha con tôi có thể hoàn toàn yên tâm giao Dung Tình, Dung Vũ cho cô ấy chăm sóc.

- Bệnh tình của pháp sư sao rồi?

- Không ổn.

Tôi lắc đầu, thở dài:

- Thầy tôi chuyến này e khó qua khỏi. Bởi vậy, thầy sai tôi đưa hai đứa bé gửi gắm cô chăm sóc. Nếu thầy có bề gì, chúng sẽ không phải bơ vơ, nheo nhóc.

- Thầy cứ yên tâm. Tôi chăm bẵm Dung Tình, Dung Vũ từ nhỏ đến lớn, tôi coi chúng như con, sẽ không có chuyện bạc đãi chúng đâu.

Cô ấy trở nên nghiêm túc và trịnh trọng lạ thường khi nói ra lời hứa đó. Rồi quay sang an ủi tôi:

- Pháp sư mệnh lớn phước lớn, Phật tổ nhất định sẽ phù hộ cho ngài.

Tôi giật mình khi nhìn vào gương mặt êm dịu như nước của cô ấy. Vì sao ở thời đại của tôi lại khó tìm được cô gái nào thuần khiết như vậy?

Tôi cứ đứng ngây ra đó, khi xe ngựa lăn bánh đưa cô ấy dần xa. Trong lòng không nguôi nỗi bi ai, tôi không đủ dũng cảm như cha mẹ, để có thể vượt qua sự ngăn trở của không gian và thời gian, đến bên và bình thản nắm lấy tay cô ấy, nên đành nhìn cỗ xe ngựa đưa cô ấy đi xa dần, xa dần.

Hoàng hôn mùa hạ, tiếng ve kêu râm ran, gió rì rào mát rượi, nhưng chẳng thể xua tan nỗi trống vắng, hụt hẫng trong lòng tôi. Sau lần chia tay này, chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại. Chỉ vài năm nữa thôi, thành Trường An sẽ trở thành “địa ngục chốn nhân gian”. Tôi rất muốn căn dặn Lạc Tú, nhưng thiết nghĩ, có nơi nào trên mảnh đất Trung Nguyên này là thật sự an toàn đâu!

Chợt nhớ đến những vần thơ của Thôi Hộ, lòng tôi buồn ảo não:

“Cửa đây, năm ngoái cũng ngày này

Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây

Má phấn giờ đâu, đâu vắng lá

Hoa đào còn bỡn gió xuân đây”.[1]

[1] Bản dịch thơ của Tản Đà.

Lạc Tú, cầu mong vợ chồng cô, cùng Dung Tình, Dung Vũ và em bé (mà tôi chưa được gặp mặt) của cô được bình an trong thời buổi loạn lạc này ...

- Đạo Tiêu!

Tiếng ai sao mà quen vậy nhỉ, tôi thở dài, quay đầu lại, nhìn thấy một thân hình béo tốt, phương phi đang lao về phía mình trên con đường rợp bóng cây. Mới bốn năm mà cậu ta béo quay như vậy!

- Đạo Tiêu, nghe tin đệ trở lại, ta vội đến tìm đệ.

Cậu ta vừa thở hổn hển vừa lao đến trước mặt tôi, tròn xoe mắt nhìn kỹ tôi:

- Đệ về đây khi nào thế? Sao trông đệ không khác lúc xưa chút nào.

Tôi bật cười lớn:

- Đệ về đây hôm qua.

Đối với tôi, thời gian mới trôi qua nửa năm, nên tất nhiên là trông tôi không khác gì rồi.

Đạo Hằng khoác tay, sốt sắng kéo tôi đi về nơi ở của cha:

- Đệ chưa hay tin gì của sư phụ phải không? Sức khỏe của thầy giảm sút đi rất nhiều, thầy phải nằm dưỡng bệnh nhiều ngày rồi. Ta nghe bảo, tối qua thầy đã triệu tập tất cả các đệ tử Khâu Từ tụng kinh cho thầy. Không biết bữa nay thế nào?

- Đệ gặp sư phụ rồi, hôm qua đệ đã nghỉ ở chỗ thầy.

Tôi từ tốn giải thích. Hôm qua, chính tôi đã đề nghị Tăng Triệu triệu tập tất cả các đệ tử của cha ngồi thiền ngoài phòng ngủ của cha, tụng kinh suốt đêm. Việc làm đó quả nhiên đã kinh động đến vua Diêu Hưng ở Trường An, ngài sẽ nhanh chóng về đây trong hôm nay.

- Nếu không nhờ bệ hạ, ta chẳng thể bái sư học đạo. Những tri thức ta được sư phụ truyền dạy trong bốn năm qua còn nhiều hơn cả những gì ta học được trong ba mươi năm trước đó.

Cậu ta thở dài, giọng chân thành:

- Cảm ơn đệ, Đạo Tiêu!

- Này Đạo Hằng, Bệ hạ còn ép buộc sư huynh hoàn tục không?

Cậu ta thở dài ngao ngán, giọng buồn bã:

- Ta luôn có linh cảm rằng cái tên Lưu Bột Bột kia sẽ làm phản. Ta đã khuyên Bệ hạ không nên giao binh quyền cho hắn, nhưng ngài không chịu nghe. Hai năm trước, Lưu Bột Bột quả nhiên đã phản bội ngài, Bệ hạ vô cùng ân hận, đã đến tìm và ép buộc ta hoàn tục, trợ giúp ngài việc chính sự. Nếu không có sư phụ đứng ra khuyên giải nhà vua, chắc ta cũng sẽ bỏ nơi đây mà ra đi như đệ.

Những năm cuối đời Diêu Hưng không còn đủ sáng suốt trong việc cai trị và ra quyết sách, trong triều không còn hiền thần, nên ngài đặt rất nhiều kỳ vọng vào Đạo Hằng. Bề ngoài trông cậu ấy vô tư, hồn nhiên là thế, nhưng cậu ấy là người rất có đầu óc phán đoán, chỉ có điều, cậu ấy chẳng hề đam mê chính trị.

- Nếu Bệ hạ vẫn tiếp tục o ép, sư huynh hãy lên núi ở ẩn đi.

Tôi tiết lộ “thiên cơ” mà lòng không khỏi bồn chồn, day dứt.

Diêu Hưng không thể trụ thêm được lâu nữa. Những năm cuối đời, khi vua cha còn chưa khuất núi, đám con trai của Diêu Hưng đã ra sức hãm hại lẫn nhau để tranh ngôi đoạt vị. Sau khi Diêu Hưng qua đời, Thái tử Diêu Hoằng kế vị chưa đầy một năm, nhà Hậu Tần đã bị Lưu Dục đánh bại, Diêu Hoằng bỏ mạng. Những bi kịch này diễn ra vào năm 417 sau Công nguyên, cách thời điểm này chỉ còn tám năm. Nếu lên núi ở ẩn, Đạo Hằng có thể sẽ tránh được cuộc chiến loạn bi thảm này.

Đạo Hằng lắc đầu, thở dài:

- Người xưa nói: “Ai biếu ta của cải sẽ hại tinh thần ta, ai cho ta danh vọng sẽ hại thân ta”. Nếu Bệ hạ nhất quyết dồn ta đến chân tường, ta cũng chỉ còn cách đó.

Đạo Hằng cùng tôi trở về nơi ở của cha. Có rất đông người đang đứng trong phòng khách và bên ngoài phòng ngủ của cha. Họ là các đệ tử của cha, nét mặt ai nấy đều trĩu nặng ưu tư, nhưng không ai dám vào trong, vì sợ làm phiền cha.

Tôi bảo Đạo Hằng đứng chờ ở bên ngoài, rồi một mình bước vào. Trong phòng chỉ có cha và Tăng Triệu. Cha đang nằm nghiêng trên chiếc giường gỗ thấp, cầm cuốn kinh văn trên tay, miệng lẩm nhẩm đọc, Tăng Triệu đang miệt mài ghi chép bên giường cha.

- Cha!

Tăng Triệu nhìn tôi đầy kinh ngạc, tôi vội vàng đổi cách xưng hô:

- Kìa thầy, thầy nên nghỉ ngơi đi, dừng việc dịch kinh lại.

- Không còn nhiều thời gian nữa, cuốn “Đại phẩm bát nhã” vẫn chưa hiệu đính xong, bằng mọi giá, ta phải hoàn thành.

Cha cười hiền hòa với tôi, rồi quay sang hỏi Tăng Triệu:

- Xong chưa con?

Tăng Triệu gác bút, lau mồ hôi lấm tấm trên trán, thở một hơi, đáp:

- Thưa thầy, cuối cùng cũng đã xong. Thầy mau nghỉ ngơi đi!

Cha lắc đầu:

- Con đi gọi tất cả các đệ tử vào đây. Ta có vài lời muốn nói.

Căn phòng hầu như không còn chỗ trống, không khí ngột ngạt, oi nồng, nhưng dường như không ai bận tâm đến điều đó, vì ai nấy đều chăm chú nhìn cha bằng cặp mắt đỏ hoe. Sắc mặt của cha rất kém, có lẽ vì những ngày qua cha đã phải làm việc thâu đêm suốt sáng. Cha kêu tôi đỡ dậy, rồi ngồi xếp bằng trong tư thế thiền trên giường, đưa mắt nhìn khắp lượt các đệ tử, bắt đầu cất tiếng:

- Duyên Phật đã đưa ta và các vị tề tựu về đây. Chỉ e kiếp này, ta khó lòng tận tâm tận lực cùng các vị trau dồi Phật pháp được nữa, đành hẹn các vị ở kiếp sau. Ta lấy làm day dứt khôn nguôi.

Giọng cha nhỏ nhẹ, trầm ấm, nhưng trĩu nặng dư vị của lời chia biệt. Trong các số nhà sư, đã có người bật khóc nức nở:

- Thầy ơi!

Cha ngắm nhìn thật kỹ từng người một bằng ánh mắt nhân từ, khẽ thở dài:

- Ta sở học nông cạn mà dám gánh vác sứ mệnh dịch thuật và truyền bá kinh Phật vốn rất nặng nề, thế nên, đến nay mới chỉ dịch được hơn ba trăm cuốn kinh luận. Trong số đó, duy chỉ còn cuốn “Thập tụng luật” là chưa hiệu đính xong, mà vẫn giữ nguyên bản dịch ban đầu, nhưng ta dám tin bản dịch không có gì sai sót. Mong là ngày sau, những kinh văn này sẽ được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian.

Các đệ tử của cha không kìm nén nổi nữa, đã khóc òa dữ dội. Tiếng khóc thương vang động căn phòng nhỏ bé, khiến tôi không khỏi nghẹn ngào. Tôi phải gắng sức mới có thể giữ được bình tĩnh và đưa mắt gợi ý với cha.

Cha nhìn tôi, nhưng rồi không nói tiếp nữa. Tôi sốt ruột quá, đành cất tiếng:

- Thưa thầy, kinh văn mà thầy chuyển dịch không thể có bất cứ sai sót nào. Đêm qua, trước bàn thờ Phật, thầy đã thề rằng: Nếu kinh văn không có lỗi sai nào, thân này hỏa thiêu xong, lưỡi này vẫn nguyên vẹn.

Lời tôi vừa dứt, ai nấy đều kêu lên thảng thốt, nỗi bi thương càng trở nên nặng nề, và chỉ một lát sau, tiếng kêu khóc vang lên dữ dội. Cha lừ tôi một cái, nhưng không nói thêm gì cả. Tôi cùng với Tăng Triệu mời mọi người ra ngoài để cha được nghỉ ngơi. Các đệ tử lần lượt quỳ lạy từ biệt cha, sau đó thì ra về trong tiếng khóc than rền rĩ. Sau khi căn dặn Tăng Triệu đôi câu, cha bảo cậu ta ra ngoài. Nhìn theo bóng dáng gầy guộc, mảnh khảnh của Tăng Triệu, nước mắt cha ứa ra, tôi nghe thấy tiếng thở dài ảo não.

- Cha ơi, có cần mang theo gì nữa không?

Tôi khẽ hỏi cha sau khi đã đặt chiếc hộp gỗ chứa đựng hơn bốn mươi năm tình duyên của cha mẹ vào ba lô.

Cha nhìn khắp lượt căn phòng, khẽ lắc đầu.

Quốc sư Kumarajva qua đời tại Trường An vào ngày hai mươi tháng Tám năm Hoằng Thủy thức mười một đời Diêu Tần.

Ngọn lửa bốc cháy ngùn ngụt, chỉ trong chốc lát đã nuốt trọn thi thể đặt trên đất. Ba nghìn nhà sư ngồi xếp bằng tụng kinh cầu siêu quanh đống lửa, tiếng khóc xen trong âm thanh tụng niệm. Vua Diêu Hưng khóc đỏ hoe cả hai mắt, Thái tử Diệu Hoằng phải dìu vua cha.

Lửa cháy suốt hơn hai giờ đồng hồ, thiêu rụi mọi thứ. Tăng Triệu cùng các đệ tử khác vừa than khóc vừa thu dọn tàn tro, tất cả đã tan thành tro bụi. Nhưng Đạo Sinh bỗng nhiên kêu lên:

- Mọi người xem này!

Lạ kỳ thay trong đống tro tàn ấy, khi mà hình hài của người quá cố đã hoàn toàn tan biến, thì chiếc lưỡi vẫn còn nguyên vẹn. Tất cả mọi người đều xúm lại, vua Diêu Hưng kinh ngạc, thảng thốt, nhìn trân trối vào chiếc lưỡi mềm, còn nguyên như của người sống, rồi kêu lên thảm thiết:

- Trẫm mất quốc sư, quốc gia mất đi rường cột.

Đại đệ tử người Khâu Từ của cha là Badyetara trợn tròn mắt nhìn chiếc lưỡi, rồi bật khóc thê thảm, gào lên với các tăng sĩ người Hán:

- Các người chỉ học được một phần mười tri thức của sư phụ mà thôi!

Sau lời nói của Badyetara, tất cả các tăng sĩ đều quỳ xuống quanh chiếc lưỡi, gào khóc thảm thiết, tiếng kêu thương vang động núi đồi, gió lay hàng thông rào rào, hòa cùng tiếng khóc thê lương bất tận của con người...

Kinh văn mà pháp sư Kumarajiva chuyển dịch sang tiếng Hán gồm có:

“Trung luận”, “Bách luận”, “Thập nhị môn luận”, “Kinh bát nhã”, “Kinh pháp hoa”, “Đại trí độ luận”, “Kinh Duy Ma”, “Kinh hoa thủ”, “Thành thực luận”, “Kinh a di đà”, “Kinh vô lượng thọ”, “Kinh thủ lăng nghiêm tam muội”, “Kinh thập trụ”, “Kinh tọa thiền tam muội”, “Kinh Di Lặc thành Phật”, “Kinh Di Lặc hạ sinh”, “Thập tụng luật”, “Thập tụng giới bản”, “Bồ Tát giới bản”, Phật Tạng, Bồ Tát Tạng, ... Về tổng số các bộ kinh dịch, theo ghi chép của cuốn “Xuất tam tạng kí tập” – quyển 2, thì tổng cộng có 35 bộ, 297 quyển. Theo ghi chép của cuốn “Khai nguyên lục” – quyển 4, thì tổng cộng có 74 bộ, 384 quyển. Ngoài ra, pháp sư còn chú giải cho các cuốn luận như “Thành thực”, “Thập trụ”, “Trung”, “Thập nhị môn”.

Phần lớn các bản dịch của pháp sư Kumarajiva đều được lưu truyền rộng rãi cho đến tận thế kỷ XXI, chỉ có một bộ phận nhỏ bị thất lạc. Chùa Thảo Đường tọa lạc ở chân núi phía Bắc ngọn núi Khuê Phong, thuộc huyện Hộ, tỉnh Thiểm Tây ngày nay chính là đạo tràng dịch kinh do pháp sư Kumarajiva chủ trì năm xưa. Trong chùa có thập Xá lị Kumarajiva, là nơi lưu giữ xá lị của ngài.


“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

109#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:39:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 100 - Không phụ Như Lai - không phụ Nàng



Tôi lái xe trên đường cao tốc Bàn Sơn, trời trong gió mát, thoải mái dễ chịu làm sao. Đỗ xe giữa một rừng tre trúc um tùm, thanh vắng, sau đó xuống xe, cuốc bộ, tôi chầm chậm cất bước, men theo con đường nhỏ rợp bóng cây. Hương thơm thanh thanh của mùi bùn đất lẫn trong gió mát ru vỗ tôi, tôi nhắm mắt hít hà thỏa sức, cảm giác như không khí bụi bặm trong phổi mình được thanh lọc triệt để. Mỗi lần đến nơi đây, tôi đều có cảm giác thanh thản, nhẹ nhõm, bình yên vô cùng, tôi sẽ tắt điện thoại di động, không để bất cứ ai làm phiền mình. Hôm nay là ngày gia đình tôi đoàn tụ.

Dòng suối trong veo, chảy róc rách qua các bậc đá trên lối đi, chốc chốc lại có chú chim cất cao tiếng hót thánh thót rồi vút bay lên không trung. Có một căn nhà nhỏ ở cuối lối đi. Đằng sau bức tường trát bùn dân dã là một vườn rau củ quả tươi xanh mơn mởn, dưới giàn nho xanh tốt là một chiếc bàn tròn và những chiếc ghế mây. Căn nhà đơn sơ, thanh tịnh, nằm bên cạnh chùa Thảo Đường với lối kiến trúc giả cổ là căn nhà của cha mẹ và tôi.

Tôi cắm chìa khóa vào ổ, mở cửa, gọi lớn:

- Cha ơi mẹ ơi, con về rồi!

Ngoài những vật dụng thiết yếu là đồ điện tử hiện đại, còn lại hầu hết đồ đạc trong nhà đều là những vật dụng xưa cũ. Nhà bếp, phòng khách, phòng ngủ đều đã được lau dọn sạch sẽ. Chiếc hộp gỗ mà cha nâng niu như bảo bối luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất trên bàn đọc sách của cha. Chiếc hộp đã cũ mèm, bạc màu, nhưng không vương một hạt bụi.

Ra ngoài cũng không tìm thấy, tôi định rút điện thoại gọi cho mẹ, nhưng lại đút vào trong túi. Họ còn có thể đi đâu được nữa? Chắc chắn đã đến ngôi chùa ở ngọn núi phía trước để tụng kinh rồi. Sư sãi trong chùa đều tin rằng cha mẹ tôi là cư sĩ. Họ vô cùng khâm phục cha về sự thông tuệ Phật pháp và thường mời cha đến chùa giảng kinh. Có lẽ hôm nay cha được mời đến đó.

Tôi bước vào đại điện của ngôi chùa nghìn năm tuổi ấy, cả một biển người đang xếp bằng tụng kinh niệm Phật. Họ đang tụng niệm “Kinh kim cương”, cuốn kinh mà tôi thuộc nhất. Lặng nghe âm thanh tụng niệm trầm bổng tựa như một bản đồng ca ấy, sống mũi tôi bỗng nhiên cay xè vì xúc động. Cuốn kinh này trải qua 1650 thời gian, vẫn tràn đầy sức sống và được lưu truyền rộng khắp.

- “Tu Bồ Đề, nếu có người đem bảy thứ châu báu với số lượng lớn đến nỗi, chứa đầy các thế giới, nhiều tới vô lượng a tăng kỳ đề bố thí, thì phước đức cũng không bằng phước đức của một người con trai hay một người con gái nhà lành, khi người này phát tâm bồ đề, đọc tụng thọ trì kinh này và đem thuyết giảng cho người khác nghe, dù chỉ là một bài kệ bốn câu trong ấy. Thuyết giảng theo tinh thần nào? Thuyết giảng mà không kẹt vào “tướng”, như như và không động. Vì sao thế?”

“Tất cả pháp hữu vi

Như mộng huyễn, bào ảnh

Như sương, như chớp lòe

Hãy quán chiếu như thế”.

“Sau khi nghe Phật dạy kinh này, thượng tọa Tu Bồ Đề và các vị khất sĩ, nữ khất sĩ, Ưu bà tắc, Ưu bà di và tất cả các giới Trời, Người và A tu la đều rất hoan hỷ, tin tưởng và tiếp nhận để thực hành”.[1]

[1] Bản dịch “Kinh kim cương” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Kết thúc buổi tụng niệm, tất cả các sư tăng và cư sĩ cùng làm lễ vái lạy Đức Phật. Trong số họ có hai ông bà lão đứng lên. Bà lão tóc bạc trắng, quàng chiếc khăn lụa màu sắc còn tươi nguyên. Ông lão cao lớn, gầy gò, dáng điệu lom khom, nhưng phong thái an nhiên, bất phàm, tựa như một tiên ông. Ông lão đưa tay khoác lên chiếc ba lô mang theo bên mình, để lộ chuỗi hạt mã não rực đỏ trên cổ tay.

Ông lão và bà lão nhìn nhau, mỉm cười, dắt tay nhau ra khỏi đại điện. Tôi tươi cười bước tới, đón chiếc ba lô từ vai cha, mỗi tay nắm một vị, thong thả đi về phía cổng chùa.

~ END ~


“Tất cả các pháp hữu vi

Như bóng bọt nước có gì khác đâu

Như sương như điện lóe mau

Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”


Không Phụ Như Lai - Không Phụ Nàng
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

110#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 12:45:10 | Chỉ xem của tác giả
Không Phụ Như Lai Không Phụ Nàng


- Cuối cùng Rajiva cũng làm được, đây chính là khát vọng một đời của Rajiva. R&NT đã có 1 kết thúc viên mãn.
Không biết Rajiva có phải xuống 18 tầng địa ngục chịu phạt hay được lên cõi cực lạc nhưng chỉ cần biết dù thế nào thì 2 con người ấy sẽ luôn bên nhau, luôn kiên trì bền bỉ theo đuổi khát vọng của đối phương.

Chúc các ban niềm vui khi đọc tác phẩm này, và hiểu được nhiều thật nhiều những triết lý nhân văn trong tác phẩm

- Đức Phật Và Nàng - Hoa Sen Xanh đã phát hành. Các bạn tìm đọc nhé. Mình cũng chưa đọc.

Bình luận

chia sẽ thêm nhiều truyện hay nữa nhá  Đăng lúc 7-5-2013 11:11 PM
cố lên ss  Đăng lúc 7-5-2013 11:09 PM

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
hoaquynh + 5 Cảm ơn bạn

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách