Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Misty.Rain
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Xứ Sở Diệu Kỳ Tàn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới | Haruk

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:35:24 | Chỉ xem của tác giả

Chương 19:
(tiếp)


Một nhân viên bảo vệ trẻ và cao lớn muốn xem thẻ thông hành của cư dân trong nhà. Cô gái lấy một thẻ nhựa trong túi ra đưa. Anh ta cắm thẻ vào máy tính trên bàn, kiểm tra tên và số phòng hiện trên màn hình và bấm nút mở cửa cho chúng tôi vào.

“Đây là một ngôi nhà rất đặc biệt”, cô bé giải thích cho tôi trong khi đi qua tiền sảnh rộng bát ngát. “Tất cả những ai ở đây đều có một bí mật nào đó cần bảo vệ, vì vậy người ta đã lập một hệ thống canh gác riêng. Người ta có những công trình nghiên cứu nhạy cảm, hoặc tổ chức các buổi họp bí mật, đại khái như vậy. Ở cửa ra vào, người ta kiểm tra nhân thân của khách như vừa thấy, sau đó theo dõi qua camera để yên tâm là người nào cũng chỉ được đến nơi mình được phép. Giả sử có ai đó theo gót chúng tôi chăng nữa – không bao giờ người đó lọt vào nổi tòa nhà này.”
“Người ta biết rằng ông cô đào một cái hầm đi xuống lòng đất ngay trong tòa nhà chứ?”
“Không rõ. Có lẽ không ai biết đâu. Khi xây tòa nhà này, ông tôi cũng đã sai thiết kế một cái hầm đi thẳng từ văn phòng xuống dưới đất, nhưng chỉ một vài người biết thôi. Nói đúng là chỉ có chủ sở hữu ngôi nhà và kiến trúc sư biết. Họ bảo với công nhân xây dựng đó là đường thoát nước, và chỉnh sửa ra sao đó trong bản vẽ trước khi nộp cho phòng xây dựng.”
“Chắc là tốn rất nhiều tiền!”
“Nhất định rồi. Nhưng ông tôi thừa tiền”, cô bé nói. “Tôi cũng thế. Tôi giàu lắm. Chúng tôi đã trúng cổ phiếu mua bằng tiền thừa kế của bố mẹ tôi và tiền bảo hiểm.”
Cô rút chìa khóa trong túi và mở cửa thang máy. Chúng tôi đi vào khoang thang máy thênh thang kỳ quái.
“Trúng cổ phiếu?”, tôi hỏi.
“Vâng. Ông tôi đã chỉ cho tôi cách làm. Phải chú ý các dữ kiện nào, đánh giá tình hình thị trường ra sao, cách thức lập thuế, chuyển tiền ra nước ngoài, vân vân. Cổ phiếu rất thú vị. Ông đã mua cổ phiếu bao giờ chưa?”
“Tiếc là chưa”, tôi nói. Thậm chí tôi còn không biết cách gửi tiền có kỳ hạn.
“Ngày xưa ông tôi làm mối mai buôn cổ phiếu, đó là nghề kiếm được quá nhiều tiền nên ông trở thành nhà khoa học. Buồn cười nhỉ?”
“Buồn cười thật”, tôi nói.
“Ông tôi bắt tay vào việc gì cũng vào hạng kiệt xuất”, cô bé nói.
Như hôm đầu tiên, tốc độ chuyển động làm người ta không biết thang máy đi lên hay đi xuống. Mãi vẫn chưa đến. Và cảm giác bị camera theo dõi suốt buổi khiến tôi bức xúc.
“Giáo dục ở nhà trường quá kém hiệu quả, không đào tạo được nhân tài kiệt xuất, ông tôi nói thế. Ông nghĩ sao?”
“Có thể thế. Có lẽ ông cô nói đúng”, tôi nói. “Tôi học mười sáu năm trời ở phổ thông và đại học, nhưng kết quả thu được không ghê gớm lắm. Tôi không biết ngoại ngữ, không chơi nhạc cụ, không hiểu gì về cổ phiếu, và cưỡi ngựa cũng không biết nốt.”
“Sao ông không bỏ học? Lúc nào cũng có thể bỏ học cơ mà!”
“Đúng thế”, tôi nói và ngẫm nghĩ một lát. “Ngày xưa tôi không hề nghĩ đến khả năng đó. Gia đình tôi khác gia đình cô, cực kỳ tầm tầm bậc trung. Có nằm mơ tôi cũng không nghĩ ra rằng mình có thể leo lên đến hàng kiệt xuất.”
“Đó là một sai lầm”, cô nói. “Con người ta ai cũng có tiềm năng để trở nên kiệt xuất ở lĩnh vực nào đó, nhưng đa số không thực hiện được chỉ vì có những người chuyên vùi dập tiềm năng đó, thay vì thúc đẩy nó.”
“Như tôi”, tôi nói.
“Không, ông khác. Tôi có cảm tưởng ông là một người đặc biệt. Vỏ cảm xúc của ông cứng như đá, nhưng bên dưới có nhiều thứ còn chưa chín và tinh khôi như xưa.”
“Vỏ cảm xúc của tôi?”
“Đúng thế. Vì vậy chưa phải quá muộn. Khi nào làm xong vụ này, chúng mình sẽ chung sống với nhau nhé? Mình sẽ đi Hy Lạp, đi Romania hay Phần Lan, đến đâu mà mọi thứ hiền hòa, và cùng nhau cưỡi ngựa, hát hò. Tôi có đủ tiền mà. Và dần dần ông sẽ thành người kiệt xuất.”
“Tôi không biết”, tôi nói.
Khi ra khỏi thang máy, cô gái rảo bước đi trước như hôm đầu và gót giày cô khua lách cách. Trước mắt tôi, vòng mông tuyệt đẹp của cô đung đưa, và đôi bông tai sáng lấp lánh.
“Nhưng, giả sử chúng ta sẽ làm như thế”, tôi nói từ phía sau, “thì tôi sẽ được nhận mọi thứ từ cô, chứ cô chẳng được tôi cho gì cả. Tôi thấy thế tương đối bất công và không hợp lẽ.”
Cô chậm bước để tôi tiến lên ngang hàng. “Nhất định sẽ có gì đó mà ông có thể cho tôi”, cô nói.
“Ví dụ?”, tôi hỏi.
“Ví dụ - cái vỏ cảm xúc của ông. Tôi muốn làm quen nó kỹ hơn. Nó làm bằng gì, hoạt động ra sao, vân vân. Cho đến nay tôi chưa hề biết đến những thứ tương tự, và tôi nóng lòng muốn biết.”
“Chẳng có gì cao xa lắm đâu”, tôi nói. “Ai cũng giấu cái cảm xúc của mình dưới một lớp vỏ mỏng hay dày. Cô không thấu thị được tâm hồn rất bình thường của một người rất bình thường, chỉ vì cô chưa biết gì về thế giới bên ngoài.”
“Đúng là ông chẳng hiểu gì cả”, cô gái mũm mĩm nói. “Ông biết xáo dữ liệu, đúng không nào?”
“Đúng thôi, nhưng đó là một khả năng học được. Đại loại như biết dùng bàn tính hay chơi dương cầm thôi.”
“Không thể nói thế được”, cô gái nói. “Nhất định là ban đầu ai cũng nghĩ thế. Nếu được học hành tử tế thì bất cứ ai – nghĩa là những người đã qua kỳ sát hạch – cũng học được cách xáo dữ liệu. Ông tôi cũng tưởng thế. Thực tế là hai mươi lăm người thử việc khác được giải phẫu giống hệt như ông, học khóa huyến luyện giống hệt về xáo dữ liệu. Cho đến lúc đó mọi sự trôi chảy. Vấn đề về sau này mới phát sinh.”
“Đây là lần đầu tiên tôi được nghe chuyện này”, tôi nói. “Tôi được nghe người ta nói là tất cả diễn ra đúng kế hoạch…”
“Đó là cách giải thích công khai. Sự thật thì khác. Hai mươi lăm trong số hai mươi sáu ứng viên học xong khóa xáo dữ liệu đã chết, một năm hay một năm rưỡi sau khi kết thúc chương trình huấn luyện. Ông là người duy nhất còn sống sau hơn ba năm và vẫn xáo dữ liệu một cách thoải mái không vấn đề gì. Ông có còn tin mình là một người rất bình thường nữa không? Bây giờ ông là một người rất quan trọng!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:38:36 | Chỉ xem của tác giả

Chương 19
(tiếp)


Tôi im lặng đi một hồi dọc hành lang, tay đút túi quần. Việc này đã vượt xa tầm cá nhân tôi và lan rộng nữa. Không thể lường được nó còn tiến triển đến đâu.
“Vì sao mọi người chết cả?”, tôi hỏi cô gái.
“Tôi không biết. Nguyên nhân không rõ. Người ta biết có một công năng trong não trục trặc, nhưng không tìm được nguyên nhân.”
“Nhưng nhất định phải có một phỏng đoán chứ!”
“Ông tôi cho rằng hình như một người bình thường không chịu nổi tia chớp trong trung tâm ý thức hệ, vì vậy các mô não cố sinh ra một dạng kháng thể. Nhưng phản ứng này diễn ra quá nhanh và quá mạnh, dẫn đến cái chết. Thực tế thì quá trình đó phức tạp hơn, nhưng đó là lời giải thích có tính đại cương.”
“Vì lý do gì mà tôi sống sót?”
“Hình như ở ông các kháng thể đã tồn tại bẩm sinh. Đó là cái mà tôi gọi là vỏ cảm xúc của ông. Chúng đã có sẵn trong não ông, vì vậy ông đã sống sót. Để bảo vệ bộ óc, ông tôi đã thử tạo ra một vỏ nhân tạo; nhưng, như ông tôi kể lại, nó tỏ ra quá mỏng.”
Tôi suy nghĩ một hồi về chuyện này. “Có phải cái vỏ hay sinh các kháng thể hay cái gì đại loại như thế đã có từ khi sinh ra?”
“Có thể một phần bẩm sinh, một phần sau này được tạo ra, tôi nghĩ thế. Nhưng ông tôi không hé một lời nào nữa. Biết quá nhiều sẽ nguy hiểm cho tôi. Theo tính toán dựa trên giả thuyết của ông tôi thì trong số một triệu hay một triệu rưỡi người chỉ có một người sở hữu kháng thể ấy, và chỉ có thể phát hiện ra những người ấy khi huấn luyện cho họ khả năng xáo dữ liệu.”
“Nếu cho rằng giả thuyết của ông cô là đúng thì việc tôi nằm trong số hai mươi sáu người là một tình cờ vô cùng hy hữu?”
“Vì thế ông là một người khảo sát quan trọng, là chìa khóa để mở cửa.”
“Thực sự ông cô định làm gì với tôi? Những dữ liệu mà ông bảo tôi xáo trộn và cái đầu lâu thú một sừng có ý nghĩa gì?”
“Nếu tôi biết được thì chúng tôi có thể đưa ông tôi ra khỏi vòng nguy hiểm ngay lập tức rồi”, cô gái nói.
“Đưa tôi và thế giới”, tôi nói.
Văn phòng tương đối bề bộn, tuy không đến nỗi lộn phèo như nhà tôi. Giấy tờ vương vãi trên nền nhà, bàn giấy lật nhào, ngăn kéo văng ra ngoài giá, trên sofa bị rạch nát là đống quần áo lộn xộn lôi trong tủ ra của giáo sư và cô gái. Đồ của cô quả thực toàn màu hồng. Đủ mọi sắc hồng đậm nhạt, từ phơn phớt đến hồng tím.
“Khủng khiếp quá”, cô lắc đầu. “Chắc bọn từ dưới đất lên đấy.”
“Cô nghĩ là bọn ma đen?”
“Không, ma đen không lên mặt đất, và nếu chúng ở đây thì sẽ có mùi.”
“Có mùi?”
“Mùi cá và mùi bùn, rất khó ngửi. Không, không phải ma đen đâu. Có vẻ giống như bọn đập phá nhà ông hơn.”
“Có thể lắm”, tôi nói và ngó quanh. Trước cái bàn lật nghiêng, một nắm ghim giấy lóng lánh trong ánh đèn nê ông. Những cái ghim giấy này trước đó đã gợi tôi nhớ đến một cái gì; tôi làm bộ tìm kiếm trên sàn và cho một nhúm vào túi quần.
“Ở đây có cất đồ đạc quan trọng nào không?”
“Không. Toàn những thứ lặt vặt. Sổ sách kinh doanh, hóa đơn, tài liệu nghiên cứu ít quan trọng và những đồ tương tự. Không có gì đáng giá cả.”
“Hy vọng cái máy ngăn ma đen còn hoạt động.”
Trong đống bừa bãi trước cửa tủ - đèn pin, radio, máy thu băng cát xét, đồng hồ báo thức, cuộn băng dính, một hộp kẹo ho – cô gái lôi ra một vật trông như máy đo hiệu điện thế và bật tắt vài lần.
“Tốt. Vẫn chạy. Nhất định bọn nó cho là đồ vứt đi. Vả lại cũng là kỹ thuật đơn giản, không dễ hỏng được”, cô nói.
Cô đi vào góc phòng, ngồi thụp xuống, lật nắp một ổ cắm và bật công tắc. Rồi cô đứng dậy, khẽ áp bàn tay lên một chỗ trên tường. Một ô cửa sổ to bằng một cuốn danh bạ điện thoại mở ra, bên trong có một két sắt.
“Ngụy trang giỏi đấy chứ?” cô tự hào nói. Cô mở két sắt bằng mật mã bốn số. “Nhờ ông lấy hộ mấy thứ này ra bàn.”
Tôi nghiến răng dựng cái bàn giấy bị đổ lên rồi dọn các thứ trong két sắt ra. Đó là một chồng dày năm phân toàn sổ tiết kiệm, tín phiếu và giấy tờ, chằng dây cao su, chừng năm triệu yên tiền mặt, một túi vải nặng, một cuốn sổ tay bọc da đen, một phong bì nâu. Cô gái dốc phong bì ra bàn, một đồng hồ Omega cũ và một nhẫn vàng. Đồng hồ đen sạm, mặt kính bị vỡ.
“Của bố tôi đấy”, cô nói. “Nhẫn là của mẹ tôi. Còn thì cháy hết.”
Tôi gật đầu. Cô gái cho đồng hồ và nhẫn vào phong bì, cầm một xấp tiền đút và túi áo. “Tôi quên mất là ở đây có tiền mặt.” Rồi cô mở túi vải ra, lôi một bọc gói trong cái áo lót cũ ra mở cho tôi xem. Một khẩu súng lục tự động nhỏ. Trông cổ kính, nhưng nhất định không phải một đồ chơi mà là một vũ khí bắn được đạn thật. Hình như một khẩu Browning hay Berreta, mặc dù tôi không thạo súng lục lắm. Tôi biết loại súng này do xem phim. Ngoài ra còn một hộp đạn và một băng dự trữ.
“Ông bắn giỏi không?”, cô bé hỏi.
“Cô đùa đấy à?”, tôi giật mình đáp. “Tôi chưa bao giờ cầm một khẩu súng lục trong tay.”
“Tôi bắn giỏi. Tập tành mấy năm rồi. Mỗi lần về nhà nghỉ ở Hokkaido là tôi tập bắn một mình trên núi. Cách mười thước tôi có thể bắn trúng một tấm danh thiếp. Khá đấy chứ?”
“Khá”, tôi nói. “Vũ khí kiếm đâu ra vậy?”
“Ông dốt thật”, cô ngán ngẩm nói. “Có tiền là có hết. Ông không biết thế sao? Ông không biết bắn thì tôi giữ súng vậy. Được không?”
“Cứ việc. Nhưng lúc trời tối thì cẩn thận đừng nhỡ tay bắn vào tôi nhé. Sức tôi không chịu được thêm một vết thương nữa đâu.”
“Không lo. Tôi là người rất cẩn thận”, cô nói và đút súng lục vào túi áo bên phải. Khó hiểu tại sao túi áo không cộm lên, mặc dù cô nhét đủ thứ vào, mà cũng chẳng kéo lệch áo. Có mẹo nào đó chăng. Cũng có thể thợ may giỏi.
Tiếp theo cô mở sổ tay ở khoảng giữa, chăm chú và nghiêm nghị đọc một lúc lâu. Tôi thoáng nhìn vào nhưng chỉ thấy những hàng số và chữ cái khó hiểu, không rõ chúng có ý nghĩa trực tiếp nào.
“Sổ tay này của ông tôi”, cô bé nói. “Viết bằng một thứ mật mã chỉ riêng ông tôi và tôi hiểu. Trong này nói đến những gì ông tôi dự định làm trong ngày và những gì xảy ra. Ông tôi vẫn nói là nếu có gì xảy ra với ông thì cháu hãy đọc trong này. Hừm, gượm đã, ông rửa số hôm 29 tháng Chín phải không?”
“Chính xác”, tôi nói.
“Ở đó viết số 1. Có lẽ là bước thứ nhất. Tối khuya ngày 30 hay rạng ngày 31 ông xáo xong dữ liệu. Đúng không ạ?”
“Đúng.”
“Số 2. Bước thứ hai. Sau đó, đợi đã, ngày 2 tháng Mười. Mười hai giờ trưa. Số 3. Ở đây ghi ‘xóa chương trình’.”
“12 giờ trưa ngày 2 tháng Mười tôi phải đến chỗ ông. Có thể ông định xóa chương trình đặc biệt đã cấy vào người tôi. Để thế giới không bị diệt vong. Nhưng tình hình đã thay đổi. Có lẽ giáo sư đã bị giết hoặc bắt cóc đến một nơi nào đó. Đó là vấn đề quan trọng nhất trong lúc này.”
“Đợi một chút. Tôi xem thêm các ngày sau đó. Ông tôi đã mã hóa khá nhiều.”
Trong lúc cô gái đọc, tôi dọn các thứ trong ba lô và thay pin đèn. Áo mưa và ủng cao su quăng lung tung trên nền nhà, nhưng may mà không bị phá hỏng đến mức không dùng được. Qua thác mà không có áo mưa thì có lẽ ướt như chuột lột và chết cóng mất. Chưa kể là vết thương lúc đó lại bắt đầu hành hạ dữ hơn. Tôi nhét cả một đôi giày chạy màu hồng của cô gái vào ba lô. Đồng hồ của tôi chuẩn bị nhảy lên số 12 giờ trưa. Tính đến thời hạn để xóa chương trình như vậy chỉ còn đúng mười hai tiếng nữa.
“Nhiều con tính phức hợp quá. Thể tích dòng chảy. Tốc độ tan băng. Các giá trị sức bền và lỗi, toàn những thứ tôi không hiểu.”
“Bỏ qua những thứ cô không hiểu đi. Ta không có nhiều thì giờ nữa đâu”, tôi nói. “Đọc những gì cô có thể giải mã được.”
“Có gì để giải mã đâu?”
“Tại sao?”
Cô đưa tôi cuốn sổ và chỉ vào chỗ cần đọc. Ở đó không có mật mã, chỉ có một chữ X to tướng và ngày giờ. Sự chênh lệch về độ lớn giữa chữ X to quá khổ và hàng chữ số còn lại hầu như không đọc nổi nếu thiếu kính lúp làm tăng thêm ấn tượng kỳ quái.

“Ý nghĩa của nó là thời điểm tận cùng thế giới, tôi đoán vậy”, cô bé nói.
“Có thể là, và đúng hơn là: bước thứ tư. Nếu bước ba là xóa chương trình thì X không diễn ra. Nếu vì bất cứ lý do nào đó mà không thể xóa được thì chương trình sẽ chạy tiếp – cho đến khi có X.”
“Vậy thì bằng bất cứ lý do nào tôi và ông phải tìm được ông tôi, chậm nhất vào 12 giờ trưa ngày 2 tháng Mười, đúng không ạ?”
“Đúng thế, nếu phỏng đoán của tôi có lý.”
“Ông đoán đúng không?”
“Có lẽ đúng”, tôi khẽ nói.
“Ta còn bao nhiêu tiếng nữa”, cô hỏi, “đến thời điểm tận cùng thế giới hay đến vụ nổ Big Bang chẳng hạn?”
“Ba mươi sáu tiếng”, tôi nói. Không cần nhìn đồng hồ. Thời gian để trái đất quay một vòng rưỡi. Thời gian để phát hai số báo buổi sáng và một số báo buổi chiều. Thời gian để hai lần đồng hồ báo thức réo, hai lần cạo râu. Ba mươi sáu tiếng. Nếu một người sống 70 tuổi thì đó là 1 phần 7.033 cuộc đời. Khi ba mươi sáu tiếng đó trôi qua thì – có lẽ - thế giới sẽ lụi tàn.
“Bây giờ ta làm gì?”, cô bé hỏi.
Tôi lấy trong hộp thuốc rơi trước cửa tủ một viên thuốc giảm đau, chiêu ngụm nước trong phích rồi khoác ba lô lên.
“Trèo xuống thôi – chứ còn làm gì nữa?”, tôi nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:40:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20:
Cái Đích Của Những Con Thú


Đã có vài con trong đàn chết rồi. Buổi sáng sau trận tuyết lớn đầu tiên, thân hình mấy con thú già lông vàng điểm trắng nằm dưới một lớp tuyết dày năm phân. Ánh nắng ban mai xuyên thủng màn mây, khiến phong cảnh buốt giá cứng đờ sáng rực hẳn lên. Hơi thở trắng của bầy thú hơn một nghìn con phất phơ trong nắng.
Tôi bừng mắt trước khi trời sáng rõ và nhìn thấy thành phố trong bộ áo dài tuyết trắng. Một hình ảnh choáng ngợp. Tháp đồng hồ đen trồi lên trên nền phong cảnh trắng, chếch bên dưới là dòng sông uốn khúc. Mặt trời chưa lên, bầu trời còn giăng kín mây. Tôi khoác măng tô, xỏ găng tay, đi xuống thành phố qua những phố ngõ không một bóng người. Nhất định tuyết rơi không gây tiếng động trong khi tôi ngủ. Chưa thấy một vết chân nào giẫm lên. Tôi vốc một nắm tuyết. Tuyết mềm và xốp như đường mịn. Mấy vũng nước tù dọc sông đã đông cứng, đây đó tuyết rải trên lớp băng mỏng.
Ngoài hơi thở trắng của tôi, không có gì động đậy trong thành phố này. Không có gió thổi. Thậm chí không thấy lấy một con chim. Chỉ có tiếng chân tôi vọng lại từ tường nhà, nghe ồn ồn một cách thiếu tự nhiên như qua tăng âm.
Tôi gặp ông gác cổng trên quảng trường trước cổng thành. Ông nằm dưới chiếc xe đẩy mà ông và bóng của tôi đã cùng nhau sửa, đang tra mỡ vào trục. Trên xe chở các bình gốm dùng để đựng dầu cải. Người ta đã lấy thừng cột chúng vào thành xe cho khỏi đổ. Tôi không hiểu ông gác cổng cần nhiều dầu như vậy để làm gì.
Ông ngó dưới gầm xe ra và giơ tay chào. Trông có vẻ đang vui.
“Hôm nay cậu dậy sợm thế. Cơn gió lành nào đưa cậu tới đây vậy?”
“Tôi muốn ngắm phong cảnh ở đây khi có tuyết”, tôi nói. “Từ trên đồi nhìn xuống thấy gì cũng đẹp.”
Ông gác cổng cười phá lên và đặt bàn tay hộ pháp lên vai tôi như mọi khi. Tay ông không đeo găng.
“Cậu cũng lạ thật! Leo xuống tận đây để ngắm phong cảnh tuyết, trong khi từ giờ trở đi tha hồ mà ngắm tuyết cho đến khi phát ớn thì thôi.” Ông ngó về phía cổng thành một hồi, thở hơi trắng xóa như đầu tầu hơi nước. “Nhưng cậu đến cũng vừa vặn! Trèo lên tháp canh đi, ở ngoài kia sắp có rất nhiều thứ để xem. Lần đầu tiên trong mùa đông năm nay. Chú ý xem khi tôi thổi tù và nhé!”
“Lần đầu tiên?”
“Rồi cậu sẽ thấy.”
Không biết chuyện gì, tôi cứ thế leo lên tháp canh cạnh cổng thành và ngắm thế giới bên ngoài. Trên các ngọn cây táo phủ nhiều tuyết, trông như mây đọng. Cả rặng núi phía nam và phía bắc đều trắng toát, và rẻo đá không bị tuyết phủ hiện lên như vết sẹo trên sườn núi.
Như mọi khi, bầy thú ngủ ngay dưới chân tháp canh. Chúng nằm trên mặt đất, vó thu vào, sừng thẳng tắp trắng như tuyết chĩa về phía trước. Dường như giấc ngủ quá mê mệt để chúng nhận ra lưng phủ đầy tuyết.
Mây trên đầu tôi đang dần giãn mỏng đi, mặt trời bắt đầu hé ra và sưởi ấm mặt đất. Mặc dù vậy tôi vẫn cố bám lại trên tháp canh với đôi mắt nhạy cảm của mình để ngắm phong cảnh. Mới chỉ có vài tia mặt trời đơn lẻ như tia đèn pha nhỏ, mà tôi thì muốn xem “rất nhiều thứ” như lời ông gác cổng đã khuyên.
Rốt cuộc ông cũng mở cổng thành và thổi tù và như mọi hôi, một hồi dài và ba hồi ngắn. Bầy thú thức dậy sau âm thanh đầu tiên và quay về hướng tiếng tù và vọng đến. Nhìn những đám hơi trắng chúng thở ra có thể nhận ra là cơ thể chúng đang dồn năng lượng cho một ngày mới. Trong khi ngủ, chúng chỉ cần một phần rất nhỏ của lượng khí thở ấy.
Khi bầy thú biến mất qua cổng thành, tôi hiểu ông gác cổng định chỉ cho tôi xem gì. Một vài con thú vẫn nằm lại như ngủ quên. Giờ thì tôi nhận ra chúng đã chết cóng. Nhưng trông chúng không như chết rồi, mà còn đang chăm chú ngẫm nghĩ về những vấn đề lớn lao. Song chúng không tìm được giải pháp nào nữa. Từ mõm và mũi chúng không còn tỏa ra hơi thở trắng. Chúng đã ngừng mọi cử động, ý thức của chúng đã chìm đắm vào đêm đen mịt mù.
Những con khác đi qua cổng thành và bỏ lại các xác chết như những khối u nhọt của mặt đất, phủ tấm liệm bằng tuyết trắng. Chỉ có những cái sừng là vẫn chĩa lên một cách sinh động khó tả. Khi đi ngang qua, đa số các con thú còn sống sót cúi đầu thật thấp hoặc dũi mõm xuống đất. Chúng buồn bã vì cái chết của đồng loại.
Tôi đợt mặt trời lên cao hơn, đẩy gần hết bóng tường thành và lặng lẽ tỏa hơi ấm cho tuyết trên mặt đất dần tan. Suốt buổi tôi quan sát những xác chết im lìm. Tôi đợi ánh nắng sớm mai cũng làm tan chúng như tan đám tuyết, để chúng vùng dậy từ cõi chết và bắt đầu chuyến du hành mỗi sáng, tựa như chẳng có gì xảy ra.
Nhưng chúng không thức dậy. Chỉ lớp lông vàng ướt nhoẹt của chúng đón lấy tia nắng và tỏa sáng mãi mãi. Cũng là lúc mắt tôi bắt đầu thấy đau.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:41:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20
(tiếp)



Tôi trèo khỏi tháp canh, đi qua sông, leo lên Đồi Tây trở về nhà. Bây giờ tôi biết là mặt trời sáng sớm làm hại mắt hơn tôi tưởng. Tôi nhắm mắt lại; nước mắt đầm đìa tuôn thành dòng, không sao kìm nổi. Tôi vấp và khuỵu xuống. Tôi rửa mắt bằng nước lạnh – vô ích. Tôi kéo tấm rèm nặng che cửa sổ và ngó đăm đăm hàng vài tiếng đồng hồ vào những đường nét và hình bóng kỳ quái ẩn hiện trong bóng tối, trong khi vẫn nhắm mắt và không hề có cảm giác gì về khoảng cách.
Ông đại tá già gõ cửa lúc mười giờ và bưng khay cà phê vào. Thấy tôi nằm sấp trên giường, ông lấy một cái khăn ướt lạnh day mi mắt tôi. Tôi thấy đau nhói sau tai, nhưng hình như nước mắt bớt tiết ra.
“Cậu lại làm cái trò quỷ gì vậy hả?”, ông già hỏi. “Mặt trời sáng sớm chói hơn cậu tưởng. Nhất là khi có tuyết. Cậu thừa biết là mắt ‘người đọc mơ’ không chịu được ánh sáng chói, vậy tại sao còn ra ngoài làm gì?”
“Tôi ra chỗ bầy thú”, tôi nói. “Những con thú chết. Tám, chín con. Không, nhiều hơn.”
“Và sẽ còn nhiều nữa. Sau mỗi lần tuyết rơi.”
Tôi lật người lên, kéo chăn khỏi mặt và hỏi ông già: “Tại sao chúng dễ chết vậy?”
“Chúng yếu nhược vì lạnh và đói. Xưa nay vẫn thế.”
“Thế chúng có tuyệt chủng không?”
Ông già lắc đầu. “Chúng đã sống hàng bao nghìn năm ở đất này, và sẽ chẳng có gì thay đổi cả. Cứ mùa đông thì nhiều con chết, nhưng lại nhiều con sinh ra trong mùa xuân. Con già nhường chỗ cho con trẻ, chẳng có gì lạ. Số súc vật sống ở đây có hạn chế vì chúng chỉ có một lượng thức ăn nhất định do thành phố đem lại, đó là các loại cây cỏ mọc ở đây.”
“Tại sao chúng không chuyển đi nơi khác? Trong rừng có vô số cây cối, và nếu xuống miền Nam ít tuyết hơn thì ở đấy cũng bớt lạnh hơn. Chúng có bị trói lại ở đây đâu!”
“Tôi cũng không giải thích được điều ấy”, ông già nói. “Chỉ biết là bầy thú không thể rời khỏi thành phố. Chúng thuộc về đất này, bị cầm tù ở đây. Giống như tôi và cậu. Linh tính của chúng cho biết rằng chúng không thể rời bỏ thành phố, chúng biết, con nào cũng biết. Cũng có thể chúng không ăn được các loại cây cỏ khác với những loại mọc ở đây. Hoặc chúng không vượt qua nổi sườn đá vôi trải dài về phía Nam. Dù vì cớ gì chăng nữa, chúng hoàn toàn không thể đi khỏi chốn này.”
“Các xác chết thì sao?”
“Ông gác cổng sẽ đốt”, ông già đáp, sưởi ấm bàn tay to và xù xì của mình bên chén cà phê. “Thậm chí từ giờ trở đi đó sẽ là công việc chính của ông ấy. Trước tiên ông ấy cắt đầu những con chết, nạo óc và mắt ra rồi nấu đầu lâu trong một cái nồi lớn cho đến khi róc hết xương. Phần xác còn lại ông ấy sẽ chất đống, tưới dầu cải lên để thiêu.”
“Sau đó đầu lâu sẽ chứa các giấc mơ xưa và đặt trong kho thư viện, đúng không ạ?”, tôi hỏi ông già, mắt vẫn nhắm tịt. “Tại sao, tại sao lại dùng đầu lâu?”
Ông già không đáp. Tôi chỉ nghe tiếng ván sàn kẽo kẹt dưới bước chân ông. Ông chậm chạp đi xa giường và im lặng đứng đâu đó gần cửa sổ. Một hồi lâu, tất cả im phăng phắc.
“Cậu sẽ hiểu, nếu cậu hiểu các giấc mơ xưa là gì”, ông già nói. “Tôi định nói là tại sao những giấc mơ ấy được bảo quản trong đầu lâu thì tôi không giải thích cho cậu được. Cậu là người đọc mơ cơ mà. Cậu phải tự tìm câu trả lời.”
Tôi lấy khăn lau nước mắt và mở mắt ra. Hình ông già nhoèn nhoẹt bên cửa sổ.
“Trong mùa đông cậu sẽ hiểu rõ nhiều chuyện hơn”, ông già tiếp lời. “Cậu yêu hay ghét thì tùy cậu, song đó là tiến trình của muôn vật. Trời sẽ tiếp tục có tuyết và bọn thú sẽ tiếp tục chết. Không ai thay đổi được. Chiều nay cậu sẽ thấy cột khói bay lên từ đống xác thiêu. Suốt cả mùa đông, ngày nào cũng thế. Tuyết trắng và khói đen.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:45:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21: Lắc Bạc, Ben Johnson, Con Quỷ




Sau tủ tường là bóng tối tràn ngập như tôi đã chứng kiến buổi đầu, tuy nhiên lần này – có thể vì tôi đã biết đến sự tồn tại của ma đen – bóng tối dày đặc và lạnh giá hơn gấp bội. Không thể có đêm đen nào hoàn hảo hơn. Trước khi con người xua được bóng tối khỏi mặt đất bằng cách thắp sáng những con đường đô thị, lắp đèn nê ông quảng cáo và chiếu sáng ô kính bày hàng, có lẽ thế giới đầy những khoảng tăm tối như thế này.

Cô gái leo xuống thang trước tôi. Với chiếc máy đuổi ma đen cất rất sâu trong túi áo mưa và dây đeo đèn pin lớn vắt chéo vai, cô nhanh nhẹn trèo thang một mình vào bóng tối, đế ủng cao su của cô kêu kin kít. Một lát sau, tiếng cô vọng từ dưới lên xuyên qua tiếng nước chảy: “Được rồi, ông xuống đi!” Rồi cô hoa ánh đèn vàng lên. Hang hôm nay có vẻ sâu hơn so với ký ức của tôi. Tôi cất đèn pin đi và bắt đầu trèo xuống. Các bậc thang vẫn ướt như lần trước, phải chú ý để khỏi trượt chân. Vừa trèo xuống tôi vừa nhớ đến đôi trai gái trong chiếc Nissan Skyline và nghe nhạc của Duran Duran. Họ chẳng biết gì. Không thể hình dung ra tôi đang trèo xuống hang động tối đen với một chiếc đèn pin và dao găm, một tay ép lên vết thương. Họ chỉ biết đến đồng hồ tốc độ và những bản nhạc Pop vô hại đang leo lên hay tụt xuống trong bảng xếp hạng, và nghĩ đến lần làm tình sắp tới, nhớ lại lần làm tình vừa xong. Không phải là tôi định phê phán họ. Đơn giản là họ chẳng biết gì.

Giả sử chính tôi cũng chẳng biết gì thì tôi cũng đỡ phải làm việc này. Tôi tưởng tượng ra mình ngồi sau tay lái chiếc Skyline, cạnh cô gái, và phóng xe qua thành phố đêm trong tiếng nhạc của Duran Duran. Liệu cô gái khi làm tình có cởi hai lắc bạc ra không nhỉ? Hy vọng là không, tôi nghĩ bụng. Sau khi cô cởi quần áo, hai lắc bạc này phải ôm lấy khớp tay trái như một phần cơ thể cô vậy.

Nhưng có lẽ cô sẽ trút đôi lắc ra. Khi tắm thì phụ nữ trút mọi thứ trên mình xuống. Vậy thì tôi phải ngủ với cô ta trước khi tắm. Hoặc dặn cô đừng bỏ chúng ra. Tôi không rõ trong hai khả năng này nên làm gì hơn, nhưng nhất định tôi sẽ thuyết phục cô cứ giữ lắc trên tay. Rất quan trọng.

Tôi tưởng tượng ra mình sẽ ngủ với cô gái đeo lắc bạc. Do không thể nào nhớ ra mặt cô nên tôi tắt đèn trong phòng. Rất tối, khó nhận ra mặt cô ta. Sau khi tôi cởi chiếc áo lót óng ánh tím hay xanh hay trắng của cô ra, đôi lắc bạc là thứ duy nhất còn trên người cô. Chúng lấp lánh trong bóng tối, ngân lên một âm thanh rất trong trẻo và dễ chịu trên vải trải giường.
Trong khi leo xuống thang với những ý nghĩ đó trong đầu, tôi cảm thấy dương vật mình cộm lên dưới áo mưa. Sướng nhỉ, tôi thầm nghĩ. Tại sao lại vào đúng lúc này, trên cái thang khốn nạn này? Tại sao không vào lúc mình nằm trên giường cạnh cô thủ thư – cô gái bị giãn bao tử? Thật không ngờ hai cái lắc bạc vớ vẩn lại công hiệu như vậy. Và lại đúng vào thời điểm thế giới chuẩn bị đến bước tận cùng.

Khi tôi xuống đến chân thang và đi ra phiến đá phẳng, cô gái chiếu đèn ra xung quanh.
“Bọn ma đen đang lẩn quất đâu đây”, cô nói. “Nghe chắc chắn có tiếng chúng.”
“Nghe tiếng chúng?”
“Có tiếng nhem nhép rất khẽ, tựa như tiếng mang cá đóng mở. Khẽ thôi, nhưng nếu thật chú ý thì ta vẫn nghe được. Cộng thêm không khí xung quanh có mùi nữa.”
Tôi dỏng tai lên và hít hít nhưng không nghe và ngửi thấy gì.
“Phải quen rồi mới biết”, cô gái nói. “Khi ấy thậm chí người ta có thể nghe thấy chúng chuyện trò với nhau. Đúng hơn là nghe thấy sóng âm, như của loài dơi. Nhưng khác với dơi ở chỗ một phần tần số âm thanh ấy nằm trong khoảng nghe được đối với tai người. Bọn ma đen có thể chuyện trò với nhau thực sự.”
“Làm sao các ký hiệu sư có thể bắt liên lạc với ma đen? Cần phải có một ngôn ngữ chứ?”
“Chế ra một cái máy thì sẽ làm được. Máy này chuyển sóng âm của ma đen thành giọng nói và giọng người thành sóng âm. Chắc là bọn ký hiệu sư đã chế được một cái máy như thế. Kể cũng là một việc đơn giản đối với ông tôi, nhưng ông tôi không thích.”
“Tại sao vậy?”
“Vì ông tôi không muốn nói chuyện với bọn chúng. Ma đen là bọn xấu xa. Những gì chúng nói ra cũng xấu xa. Bọn chúng ăn xác thối và xác mục rữa và uống nước thải. Ngày xưa chúng sống dưới các nghĩa địa và ăn thịt người chết, cho đến khi người ta chuyển sang hỏa táng.”
“Nghĩa là chúng không ăn người sống?”
“Nếu chúng bắt được ai thì chúng ngâm vào nước và ăn những chỗ nào đã rữa ra.”
“Thú vị thật”, tôi thở dài. “Bây giờ tôi chỉ muốn quay lại thôi, muốn ra sao thì ra!”
Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục tiến lên dọc suối. Cô gái đi trước, tôi bám sau. Mỗi lần tôi hướng đèn pin vào lưng cô là bông tai to bằng cái tem thư của cô lại lóe sáng.
“Đôi bông tai này to thế, cô không thấy nặng à?”, tôi nói từ phía sau.
“Tôi quen rồi”, cô đáp
“Tôi không thấy thế. Không.”
“Thấy chưa.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:48:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21
(tiếp)


Chúng tôi im lặng hồi nhau. Cô gái đi nhanh như thuộc đường và chiếu sáng cho tôi. Tôi chiếu đèn vào từng chỗ đặt chân lên và theo sau cô một cách vất vả.
“Này, mỗi khi đi tắm cô có tháo bông tai ra không?”, tôi hỏi để khỏi bị bỏ rơi. Cô gái chỉ đi chậm lại khi nói chuyện.
“Không”, cô nói. “Tôi không tháo ra. Hoàn toàn khỏa thân, chỉ có bông tai thôi. Thế mới gợi cảm chứ?”
“Đúng”, tôi vội nói. “Tôi nghĩ thế.”
“Ông toàn làm từ phía trước? Mặt đối mặt?”
“Nói chung là thế.”
“Nhưng thỉnh thoảng cũng từ phía sau?”
“Đôi khi.”
“Còn có rất nhiều tư thế nữa, phải không? Làm ngồi, đàn ông ở dưới, ngồi trên ghế…”
“Thị hiếu vốn khác nhau, cơ hội cũng khác nhau.”
“Tôi không hiểu gì về tình dục”, cô nói. “Tôi chưa thấy bao giờ, và cũng chưa làm bao giờ. Không ai dạy tôi cả.”
“Tình dục không học được. Người ta phải tự khám phá”, tôi nói. “Nếu cô tìm được bạn trai và ngủ với anh ta thì mọi việc sẽ tự đến.”
“Tôi không thích thế”, cô nói. “Nói thế nào nhỉ… tôi thích quyền lực và sức mạnh. Tôi thích bị chế ngự, bị đè bẹp. Không thích việc sẽ tự đến.”
“Cô ở quá lâu bên cạnh một ông già, một người thiên tài và đầy quyền lực. Nhưng thế giới này không chỉ có những người như vậy. Đa số mọi người ở hạng trung bình, sống qua ngày đoạn tháng, ngơ ngác tìm đường. Như tôi chẳng hạn.”
“Ông không thế. Với ông thì được. Tôi đã nói hôm đầu tiên rồi, đúng không?”
Tôi quyết định gạt mọi ý nghĩ về tình dục ra khỏi đầu. Của tôi vẫn cương cứng, nhưng có ích gì đâu trong bóng tối đen thui dưới lòng đất này? Đã thế lại còn vướng víu trong khi đi. Tôi đổi đề tài. “Cái máy này phát ra sóng âm khó chịu đối với ma đen, phải không?”
“Đúng thế. Chừng nào ta phát sóng thì chúng nó không dám lại gần quá mười lăm thước. Ông đừng đi cách xa tôi quá mười lăm thước nhé. Không thì chúng sẽ tóm ông, dìm xuống giếng và ăn dần từ những chỗ bị thối rữa. Chắc là ông rữa trước tiên ở phần bụng, chỗ có vết thương. Bọn này có móng và răng cực kỳ sắc. Như một hàng lưỡi khoan vậy.”
Tôi vội tiến lên sát cô.
“Vết thương còn đau không?”, cô hỏi.
“Uống thuốc giảm đau rồi thì cũng đỡ một chút. Cử động mạnh lại nhói lên, nhưng nhìn chung cũng ổn”, tôi trả lời.
“Nếu mình tìm được ông tôi thì ông sẽ tắt cơn đau đi.”
“Ông cô? Làm thế nào?”
“Dễ thôi. Ông tôi hay làm với tôi. Ví dụ như khi tôi bị đau đầu kinh khủng. Ông phát một tín hiệu vào ý thức hệ để tắt cơn đau. Cảm giác đau là một thông điệp rất quan trọng đối với cơ thể, không nên bị tắt thường xuyên, nhưng lần này là trường hợp khẩn cấp mà.”
“Nếu được thì tôi rất hoan nghênh”, tôi nói.
“Tất nhiên là trước tiên phải tìm được ông tôi đã”, cô gái nói và vừa lia luồng đèn sáng quắc sang hai bên vừa vững chân tiến lên ngược suối. Hai bên vách đá toác ra nhiều kẽ nứt để lộ những con đường rẽ và vô số hang động kỳ bí. Nước rỉ ra từ những kẽ đá, tụ lại thành dòng lắt nhắt chảy dồn xuống suối. Hai bên bờ phủ đầy rêu ướt nhoét như bùn, có màu xanh đến khó hiểu. Tôi không thể đoán ra vì sao lớp rêu lại có nổi màu sắc ấy khi quá trình quang hợp không thể diễn ra. Rõ ràng lòng đất có quy luật riêng của nó.
“Cô có nghĩ rằng bọn ma đen biết chúng ta đang đi ở đây không?”
“Dĩ nhiên”, cô gái mũm mĩm thản nhiên nói. “Ở đây là nhà chúng mà lại. Không có gì xảy ra trong lòng đất mà chúng không biết cả. Chúng ở khắp nơi và quan sát chúng ta, tôi nghe tiếng chúng khắp nơi.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:49:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21


Tôi rọi đèn pin lên vách đá xung quanh nhưng không thấy gì ngoài những mỏm đá xù xì hình thù kỳ quái và rêu.
“Bọn nó nấp trong hang động và sau những khúc rẽ, nơi ánh sáng không xuyên tới được”, cô nói. “Chắc là cả ở phía sau mình.”
“Máy phát tín hiệu chạy bao lâu rồi?”, tôi hỏi.
“Mười phút”, cô nhìn đồng hồ và nói. “Mười phút hai mươi giây. Không lo, năm phút nữa là mình đến nơi.”
Đúng năm phút sau chúng tôi đến trước thác nước. Như lần trước, hầu như nó không gây ra tiếng động nào. Máy tắt âm thanh có lẽ vẫn hoạt động. Chúng tôi trùm mũ lên đầu, thắt chặt dây dưới cằm, đeo kính bảo hộ và đi xuyên qua thác nước không tiếng ồn.
“Lạ thật”, cô gái nói. “Máy tắt âm thanh vẫn chạy, như vậy phòng thí nghiệm không hề bị phá. Giả sử bọn ma đen đột nhập vào đây thì chúng đã đập bét nhè mọi thứ. Bọn nó căm thù phòng thí nghiệm này lắm.”
Như để xác nhận lời phỏng đoán ấy, cửa phòng thí nghiệm vẫn khóa chặt. Nếu bọn ma đen lọt được vào trong thì khó có thể chúng đóng cửa lại cẩn thận khi ra khỏi. Không – nhất định ai khác đã bất ngờ tấn công vào đây.
Cô gái thận trọng xoay ổ khóa số trên cửa rồi mở ra bằng một chìa khóa điện. Trong phòng tối om và lạnh lẽo, có mùi cà phê. Cô nhanh tay đóng cửa, cài then và bật đèn sau khi chắc chắn là cửa đã khóa chặt.
Phòng thí nghiệm ở trạng thái bừa bộn hệt như văn phòng bên trên và nhà tôi. Giấy tờ bay lộn xộn trên sàn, đồ gỗ lật nhào, bát đĩa tan tành, thảm bị lật lên, và ai đó đổ cả một xô đầy cà phê lên trên. Không rõ vì sao giáo sư nấu nhiều cà phê như vậy.
Có một sự khác biệt căn bản với văn phòng bên trên và nhà tôi: người ta đã phân biệt rạch ròi những gì cần phá và những gì không. Những gì cần phá thì đúng là nát như tương, phần còn lại thì không hề chạm tay. Máy tính, điện thoại, fax, máy tắt âm và máy phát điện thì không hề suy suyển, bật lên là chạy ngay. Chỉ có máy phát sóng âm loại lớn để đuổi ma đen là bị tháo mất vài phụ tùng, nhưng trông có vẻ dễ sửa.
Phòng đằng sau cũng tương tự: thoạt trông thì cực kỳ hỗn độn, nhưng có tính toán cẩn thận. Dãy đầu lâu súc vật vẫn nằm nguyên trên giá, tất cả máy đo quan trọng cũng vậy. Riêng các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm rẻ tiền và dễ thay thế là bị phá hủy tàn bạo.
Cô bé kiểm tra két sắt. Cửa két không khóa. Cô lấy cả hai tay bới ra những gì còn sót lại từ đống giấy tờ - một nắm tro trắng – và tung hết xuống đất.
“Chắc là bộ phận tự hủy đã hoạt động”, tôi nói. “Bọn chúng không lấy được gì đi cả.”
“Ông nghĩ bọn chúng là ai?”
“Đó là bàn tay người”, tôi nói. “Bọn ký hiệu sư hay bọn nào đó đã hợp lực với ma đen đến đây mở cửa; nhưng cái đống hỗn loạn này là do bàn tay con người làm ra. Chỉ có người lọt vào đây thôi. Để dùng phòng thí nghiệm theo ý của mình – tôi đoán chúng định làm tiếp các thí nghiệm của giáo sư – chúng không phá các máy móc quan trọng. Sau đó khóa cửa lại để bọn ma đen không vào phá phách.”
“Tôi nghĩ là bọn chúng không lấy được gì quan trọng cả, phải không?”
“Có lẽ đúng thế”, tôi nói và nhìn khắp lượt phòng. “Trừ ông cô ra. Và chính ông mới là thứ quan trọng nhất. Giờ thì ta không còn khả năng tìm ra giáo sư đã cấy gì vào người tôi. Vào ngõ cụt rồi.”
“Không”, cô gái mũm mĩm đáp, “bọn chúng không bắt được ông tôi đâu. Không sợ. Phòng thí nghiệm có một lối thoát bí mật. Nhất định ông tôi đã thoát ra đường đó và đem theo một máy phát sóng đuổi ma đen như chúng ta đã dùng.”
“Sao cô biết?”
“Tôi không chứng minh được nhưng tôi biết. Ông tôi là người vô cùng cẩn trọng, không dễ gì để lọt vào tay bọn chúng. Nhất định khi nghe có ai mở cửa là ông tôi đã chạy qua cửa thoát đó.”
“Nghĩa là bây giờ ông ở ngoài kia – trên mặt đất?”
“Không”, cô nói. “Sự việc cũng lại không đơn giản như vậy. Đường thoát hiểm lắt léo như ma trận và đi qua ổ ma đen, ra đến ngoài thì nhanh nhất cũng cần tối thiểu năm tiếng. Máy phát sóng chạy được nửa tiếng, vậy thì ông tôi vẫn đang ở đâu đó trên đường.”
“Trừ phi ông đã bị bọn ma đen bắt.”
“Tôi không tin lắm. Ông tôi đã dự phòng trường hợp xấu nhất và xây một hầm boong ke tuyệt đối an toàn trước bọn ma đen. Có lẽ ông tôi đang trú ở đó và đợi ta đến.”
“Thế mới đúng là cẩn trọng”, tôi nói. “Và cô biết boong ke này ở đâu chứ?”
“Tôi nghĩ là có biết. Ông tôi đã giải thích rất kỹ đường đến đó. Ngoài ra trong sổ tay này cũng có một sơ đồ, kèm chỉ dẫn các vị trí nguy hiểm.”
“Ví dụ như…”
“Tôi nghĩ ông không nên biết thì hơn”, cô nói. “Có những người đâm ra hoảng hốt khi biết chuyện.”
Tôi thở dài và thôi không hỏi về những mối nguy hiểm ấy nữa. Ngay bây giờ tôi cũng đã hoảng lắm rồi.
“Đi mất bao lâu thì đến được chỗ bọn ma đen không vào được?”
“Hăm lăm, ba mươi phút. Từ đó trở đi còn khoảng một tiếng hay một tiếng rưỡi nữa thì đến chỗ ông tôi ẩn náu. Đoạn đường này thì an toàn. Vấn đề là đi đến đó ra sao. Ta phải thật khẩn trương, chừng nào còn đủ pin.”
“Nếu giữa đường hết pin thì sao?”
“Thì chỉ còn cách cần xin may mắn nữa thôi”, cô gái nói. “Phải vừa khua đèn pin để bọn khốn khiếp ấy không dám lại gần vừa chạy thật nhanh. Bọn chúng sợ ánh sáng gắt. Nhưng chỉ cần vòng sáng bị gián đoạn là chúng tung nanh vuốt tóm được ông. Hoặc tôi.”
“Nghe được đấy”, tôi chán nản nói. “Pin nạp đủ chưa?”
Cô kiểm tra vạch hiển thị trên máy phát sóng và nhìn đồng hồ. “Còn năm phút nữa.”
“Thế thì nhanh chân lên”, tôi nói. “Theo phỏng đoán của tôi thì bọn ma đen sẽ báo cho các ký hiệu sư là ta đang ở đây, và lập tức chúng sẽ quay lại ngay.”
Cô gái trút bỏ áo mưa và ủng, mặc áo khoác dã chiến và giày thể thao mà tôi đã đem theo. “Ông cũng nên thay đồ đi. Bây giờ ta phải gọn nhẹ thì mới thoát được.”
Tôi cũng cởi áo mưa, khoác áo gió ra ngoài áo len rồi kéo khóa lên sát cổ. Sau đó tôi khoác ba lô lên và thay ủng cao su bằng giày chạy. Đã gần mười hai giờ rưỡi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 11:50:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21


Cô bé vào phòng sau, ném tất cả các mắc áo trên tủ tường xuống đất, nắm cả hai tay vào thanh sắt treo mắc áo để vặn. Có tiếng nghiến kèn kẹt như bánh răng bập vào nhau. Vặn thêm một vòng nữa cùng chiều thì phía dưới vách hậu hiện ra một lỗ hổng vuông, cạnh dài chừng bảy mươi phân. Bóng tôi trong lỗ đặc kịt như có thể chạm tay vào được. Mùi ẩm mốc lạnh lẽo phả vào phòng.
“Có mẹo không?”, cô bé nói với tôi, tay vẫn bám thanh sắt.
“Rất mẹo ấy chứ”, tôi nói. “Không ai ngờ có một đường thoát ở vị trí này.”
Cô đi đến bên tôi, vươn người lên và hôn vào dưới tai tôi. Người tôi bỗng ấm lên, vết đau cũng đỡ hẳn. Chắc là cô đã chạm vào một chỗ đặc biệt. Hoặc đã quá lâu tôi không được một cô gái mười bảy tuổi nào hôn.
“Ta phải tin là mọi sự trôi chảy thì chẳng có gì trên thế giới này làm ta sợ nữa cả”, cô nói.
“Khi lớn tuổi rồi thì những niềm tin kiểu ấy cũng giảm sút”, tôi nói. “Giống như hàm răng vậy. Không nhất thiết người ta trở nên do dự hoặc trơ lì, nhưng niềm tin cứ thế giảm sút.”
“Ông sợ à?”
“Phải”, tôi nói. Rồi tôi khom người nhìn xuống vào lỗ hổng lần nữa. “Tôi luôn có vấn đề trong bóng tối và những chỗ chật hẹp.”
“Quay lại thì không được rồi. Ta phải chui vào thôi, đúng không?”
“Nhìn một cách logic thì đúng thế”, tôi nói. Có cảm giác như cơ thể đang rời khỏi tôi. Hồi đi học, đôi lần khi chơi bóng rổ tôi đã có cảm giác đó. Khi tôi cố chỉnh chuyển động của mình theo đường bóng chữ chi thì đầu óc không theo kịp.
Cô nhìn chằm chằm vạch pin trên máy phát sóng.
“Ta đi thôi”, rốt cuộc cô nói. Pin đã nạp đầy.
Như ban nãy, cô đi trước và tôi bám theo. Trong khung cửa, cô quay lại ấn một cần gạt để đóng cửa. Ô vuông sáng càng lúc càng nhỏ đi, chỉ còn một rãnh hẹp rồi biến hẳn. Tôi đứng trong một bóng đêm hoàn hảo hơn bất cứ sự tăm tối nào từng biết trong đời. Một bóng đêm mà đèn pin trở nên bất lực, họa chăng chỉ khoan được một lỗ sáng tí xíu run rẩy.
“Tôi không hiểu một điều”, tôi nói. “Vì sao ông cô lại chọn đường thoát hiểm xuyên qua giữa ổ ma đen?”
“Vì đó là đường chắc chắn nhất”, cô gái nói và chiếu đèn vào tôi. “Ở giữa ổ, bọn ma đen có khu thánh địa, chúng không được phép bước vào.”
“Một dạng tông giáo?”
“Tôi nghĩ thế. Ông tôi cũng nói vậy. Nhưng bản thân tôi chưa tới đó bao giờ. Nhưng người ta không thể gọi đó là tín ngưỡng, vì nó quá thô thiển, nhưng nhất định là một dạng tôn giáo. Chúa của chúng là một con cá. Một con cá khổng lồ không mắt.” Cô chiếu đèn pin về phía trước. “Nhưng ta đi tiếp thôi, không còn nhiều thì giờ nữa.”
Trần hang hạ thấp đến nỗi tôi phải đi lom khom. Phần lớn vách đá trơn nhẵn, chỉ có vài cạnh sắc, mặc dù vậy tôi bị va đầu vào mấy lần đau điếng. Không có thì giờ để thấy đau nữa. Tôi hướng đèn pin vào lưng cô gái và đi tiếp, cố không bị lạc cô khỏi tầm mắt. Dù dáng người mập mạp, cô nhanh nhẹn và có vẻ như cực kỳ dai sức. Bản thân tôi khá có sức chịu đựng nhưng chạy trong tư thế lom khom khiến vết thương đau như xé. Tựa như có ai đó thọc mũi dùi băng vào bụng dưới. Áo tôi đẫm mồ hôi, dính chặt vào người. Nhưng thà đau còn hơn mất dấu cô và tụt lại trong bóng đêm này.
Với mỗi bước chân, cảm giác thân thể không hẳn thuộc về mình càng tăng lên. Có lẽ nguyên nhân là tôi không nhìn thấy chính mình. Thậm chí đưa tay lên trước mắt cũng không thấy.
Không nhìn thấy chính mình là một điều kỳ quặc. Một lát sau người ta sẽ tự hỏi thân thể mình phải chăng là một dạng giả định. Cộc đầu vào trần đá thì dĩ nhiên tôi vẫn đau, và vết thương ở bụng cũng không ngừng nhói lên. Vẫn cảm thấy nền đất dưới chân. Nhưng đó là cái đau thuần túy, là xúc giác thuần túy. Nó là những khái niệm bắt nguồn từ cái giả định được gọi là “thân thể”. Hoàn toàn có thể là thân thể đã chết rồi và các khái niệm vẫn tồn tại. Tương tự như trường hợp một người sau khi bị phẫu thuật cưa chân mà vẫn cảm thấy ngứa ở ngón chân đã mất.
Vài lần tôi toan chiếu đèn pin vào mình để chắc chắn thân thể mình vẫn còn đó, nhưng rồi lại thôi vì sợ mất bóng cô gái. Thân thể mi vẫn còn đó mà, đồ ngốc – tôi tự nhủ. Giả sử nếu nó đã chết rồi thì chỉ còn lại cái mà tôi có thể gọi là linh hồn thì chắc là tôi khỏe khoắn hơn mới phải. Làm gì có sự giải thoát, nếu tâm hồn cứ đeo đẳng mãi vết thương ở bụng, loét dạ dày và viêm trĩ? Nếu linh hồn không thoát được khỏi xác thì có lý do gì để nó được tồn tại?
Với những ý nghĩ đó trong đầu, tôi bám chân cô gái mũm mĩm, theo chiếc áo khoác dã chiến xanh lá cây ôm khít thân hình, chiếc váy hồng ló ra bên dưới và đôi giày chạy màu hồng. Đôi bông tai tòng teng lấp lánh trong ánh đèn pin như một đôi đom đóm chập chờn bay quanh đầu cô.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 12:03:16 | Chỉ xem của tác giả

Chương 21



Cô gái vẫn đi tiếp, không quay lại nhìn tôi lấy một lần và không nói một câu. Tựa như quên bẵng là tôi có mặt. Cô cứ đi, thoăn thoắt lia đèn pin vào các khúc rẽ và hang động.
Đến một ngã ba cô dừng bước, rút sơ đồ từ túi ngực ra và chiếu đèn vào hướng đi tiếp. Nhân dịp đó tôi tiến lên ngang hàng.
“Ổn cả chứ? Mình vẫn đi đúng đường chứ?”, tôi hỏi.
“Ổn cả. Ít nhất là cho đến lúc này. Mình đi đúng đường”, giọng cô tự tin.
“Sao cô tin chắc vậy?”
“Vì mình đi đúng đường”, cô nói và chĩa đèn chiếu xuống đất. “Đây này, ông nhìn xem!”
Tôi ngồi thụp xuống và nhìn chằm chằm vào vòng tròn sáng. Trong những khe lõm trên nền đá có những chỗ lấp lánh ánh bạc. Tôi cầm một mảnh lấp lánh đó lên – một chiếc ghim giấy.
“Thấy chưa!”, cô nói. “Ông tôi đi đường này. Ông biết là mình sẽ đến và đánh dấu đường đi đấy.”
“À!”, tôi nói.
“Được mười lăm phút rồi. Ta đi tiếp nào.”
Qua mấy ngã ba nữa, chỗ nào cũng có ghim giấy chỉ hướng, nhờ vậy chúng tôi không lạc hướng và ngoài ra không mất thì giờ quý báu.
Thỉnh thoảng trên đường có những hố sâu. Chúng được đánh dấu trên sơ đồ bằng bút dạ đỏ; cứ đến gần là chúng tôi đi chậm lại và lấy đèn soi kỹ nền đất. Những hố này có đường kính chừng năm, bảy chục phân, dễ dàng đi vòng tránh hoặc nhảy qua. Một lần tôi thử gạt hòn đá to bằng nắm tay ở miệng hố rơi vào, nhưng mãi lâu sau không nghe tiếng gì. Dường như nó rơi tận sang Brazil hay Argentina. Dạ dày tôi co thắt lại khi hình dung ra mình trượt chân rơi vào một hố như vậy.
Đường đi ngoằn ngoèo rắn lượn, thỉnh thoảng có lối rẽ, toàn thoai thoải xuống. Tuy không dốc hẳn nhưng liên tục giảm độ cao. Tôi có cảm tưởng cứ sau mỗi bước chân là mình lại bị cướp mất một chút thế giới ban ngày sáng sủa trên kia.
Một lần chúng tôi ôm nhau. Đột ngột cô gái dừng chân, quay lại, tắt đèn pin và choàng hai tay ôm tôi. Rồi cô lần tay tìm môi tôi để hôn lên. Tôi cũng ôm cô và khẽ siết vòng tay. Thật lạ lùng khi người ta ôm nhau trong màn đêm đen như mực. Tôi nhớ Stendhal từng viết về chuyện ôm nhau trong đêm. Đúng, sách của Stendhal. Nhưng tôi quên khuấy đầu đề. Tôi cố vắt óc nhưng không sao nhớ ra. Liệu Stendhal có bao giờ ôm một phụ nữ trong đêm chưa nhỉ? Tôi tự nhủ, nếu sau vụ này tôi còn sống sót và thế giới chưa tàn lụi thì tôi nhất định sẽ tìm cuốn đó của Stendhal.
Hương dưa bở tỏa ra từ gáy cô gái đã bay mất. Cổ cô thơm mùi đặc trưng của một cô bé mười bảy. Thấp hơn chút nữa có mùi hôi. Mùi tôi và mùi cuộc đời tôi ngấm vào chiếc áo dã chiến. Mùi những món ăn tôi đã nấu, mùi cà phê bị dây lên, mùi mồ hôi tôi toát ra. Tất cả đã quyện chặt vào áo. Trong bóng đen dưới lòng đất sâu thẳm này, với cô bé mười bảy tuổi trong vòng tay, cuộc đời ấy như ảo ảnh, mơ hồ và vĩnh viễn trôi đi. Tôi có thể nhớ rằng nó đã từng diễn ra. Nhưng tôi không bao giờ có dịp sống lại nó lần nữa.
Chúng tôi đứng như thế rất lâu. Thời gian trôi đi vùn vụt, nhưng tôi không lấy thế làm lo ngại. Chúng tôi chia sẻ nỗi sợ bằng vòng tay ôm. Đó là điều duy nhất có ý nghĩa.
Cuối cùng cô áp chặt vào người tôi, môi cô hé mở, lưỡi cô mềm mại và hơi thở của cô ngập tràn miệng tôi. Lưỡi cô liếm lấy lưỡi tôi. Ngón tay cô luồn vào tóc tôi. Mười giây sau hay lâu hơn, tất cả chấm dứt, cô đột ngột tách khỏi tôi. Một sự tuyệt vọng vô bờ ụp xuống người tôi, đem lại cảm giác như một nhà du hành vũ trụ bị bỏ rơi trong vũ trụ mênh mang.
Tôi bật đèn pin. Cô gái đứng đó. Cô cũng bật đèn của mình. “Đi thôi”, cô nói. Rồi cô quay lại và đi tiếp như lúc nãy. Tôi còn cảm thấy môi cô áp trên miệng mình. Và nhịp tim cô đập trên ngực mình.
“Tôi hôn giỏi đấy chứ?”, cô nói, không quay lại nhìn.
“Thậm chí rất giỏi”, tôi nói.
“Nhưng thiếu một cái gì đó, phải không?”
“Đúng”, tôi nói. “Có gì đó thiếu.”
“Gì vậy?”
“Tôi không rõ”, tôi nói.
Sau năm phút trên con đường thoai thoải chúng tôi đến một bãi rộng trống trải. Ở đây có mùi lạ, và tiếng chân vang lên cũng khác. Khi vỗ tay, tiếng vang tựa như méo mó hình bầu dục và lồi lên ở khoảng giữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 12:04:43 | Chỉ xem của tác giả

Chương 21


Trong lúc cô xem sơ đồ, tôi quét đèn xem xét xung quanh. Trần hang như một mái vòm, bãi trống có hình tròn làm đế. Một hình tròn hoàn hảo, rõ ràng là nhân tạo. Vách nhẵn nhụi, không hề có góc cạnh hay lồi lõm nào. Đúng giữa bãi trống có một vết lõm nông, đường kính khoảng một thước và chứa đầy chất lỏng sền sệt lạ mắt. Trong không khí có mùi hôi, không gắt lắm, nhưng khó chịu như hơi thở chua chua trong miệng người.
“Có vẻ như đây là cửa vào thánh địa”, cô bé nói. “Ở đây là mình an toàn cái đã. Ma đen không vào sâu hơn được.”
“Thế là tốt rồi. Nhưng mình có quay ra được không?”
“Chuyện ấy cứ để ông tôi lo. Thế nào ông tôi cũng có giải pháp. Ngoài ra mình còn hai máy phát sóng, đủ để xua bọn khốn nạn một thời gian. Trong lúc dùng một máy thì lại nạp pin cho máy kia, nghĩa là chẳng có gì phải lo. Và cũng không có áp lực thời gian nữa.”
“Ra thế”, tôi nói.
“Ông không thấy lạc quan hơn à?”
“Có, có một chút”, tôi nói.
Ở lối vào thánh địa, hai bên vách đá được tạc thành bức phù điêu tinh tế. Mỗi bên là một con cá khổng lồ vặn mình, miệng con này đớp đuôi con kia. Những con cá kỳ bí. Đầu vồng lên như khoang lái của phi cơ ném bom. Ở vị trí của hai mắt là hai chùm xúc tu mạnh mẽ. So với thân hình thì miệng chúng quá lớn, vạch một đường thẳng đến tận bờ mang. Dưới đó, sát bụng là một bộ phận chìa ra, giống như phần gốc của một sinh vật bị cưa chân. Thoạt tiên tôi tưởng đó là bộ phận hút bám, nhưng nhìn kỹ thì ra ở đầu có ba móng sắc. Chưa bao giờ tôi thấy cá có móng vuốt cả. Vây lưng có hình thù cổ quái, còn vảy dựng đứng như gai.
“Đây có phải là các linh vật không? Hay chúng có thật?”, tôi hỏi người đồng hành.
“Ai mà biết được”, cô nói là lại cúi xuống nhặt mấy ghim giấy lên. “Ít nhất thì ta cũng không lạc đường. Giờ thì kiếm đường vào đi.”
Tôi đi theo cô, không cưỡng nổi chiếu đèn lên những bức phù điêu cá lần nữa. Tôi hơi bị choáng khi thấy bọn ma đen tạc được những phù điêu tinh xảo đến như vậy trong bóng đêm dày đặc. Và thực tế chúng nhìn được trong đêm không hề làm giảm nỗi ngạc nhiên của tôi khi ngắm tác phẩm. Có lẽ lúc này chúng cũng đang theo dõi nhất cử nhất động của chúng tôi.
Trong thánh địa, đường đi hơi dốc lên, và vòm hang ngày càng cao hơn cho đến khi không nhìn thấy nữa trong ánh đèn pin chiếu lên.
“Bắt đầu đến núi”, cô nói. “Ông có kinh nghiệm leo núi không?”
“Ngày xưa tuần nào tôi cũng đi leo núi, nhưng chưa bao giờ leo trong đêm cả.”
“Hình như cũng không dốc lắm”, cô bé nói và cất sơ đồ vào túi ngực. “Không nên gọi là núi, mà là một quả đồi thì đúng hơn. Đối với bọn ma đen thì đây là Núi Thiêng. Ông tôi kể thế. Ngọn núi duy nhất trong lòng đất.”
“Ta sẽ làm vấy bẩn nó với sự hiện diện ở đây?”
“Hoàn toàn ngược lại. Ngọn núi này mới chính là bẩn. Ở đây tập trung mọi thứ bẩn thỉu. Có thể nói đây là chiếc hộp của Pandora dưới lớp vỏ đất khô cứng. Và ta sẽ đi xuyên qua.”
“Nghe có vẻ như khó lòng sống sót quay trở ra.”
“Ông hãy can đảm lên. Khi đã có lòng tin thì chẳng có gì trên thế giới này làm ta sợ nữa cả, tôi đã nói với ông rồi đó. Ông hãy đánh thức những ký ức tươi đẹp, nhớ đến những người mà ông yêu mến, nghĩ lại những lúc ông đã khóc, hồi tưởng thời thơ ấu và các dự định tương lai, những bài hát mà ông thích, cái gì cũng được. Rồi mọi sợ hãi sẽ tan biến.”
“Ben Johnson có được không?
“Ben Johnson là ai?”
“Là diễn viên trong nhiều phim ngày xưa của John Ford, một kỵ sĩ tài ba. Ông ta cưỡi ngựa như thánh.”
Cô cười khúc khích. “Ông là người tuyệt vời. Tôi thật sự thích ông rồi đấy.”
“Tôi quá lớn tuổi đối với cô”, tôi nói. “Với lại tôi chẳng biết chơi nhạc cụ nào.”
“Sau này thoát khỏi đây tôi sẽ dạy ông cưỡi ngựa.”
“Cảm ơn”, tôi nói. “Bây giờ cô đang nghĩ gì?”
“Tôi nghĩ về nụ hôn lúc nãy”, cô nói. “Vì vậy mà tôi hôn ông đấy. Ông không biết sao?”
“Không.”
“Ông biết ở đây ông tôi nghĩ gì không?”
“Không.”
“Chẳng nghĩ gì cả. Ông tôi có thể dọn cho đầu óc trống rỗng. Những thiên tài đều có khả năng đó. Nếu đầu óc trống rỗng thì cái Ác không lọt vào được.”
“Thế à”, tôi nói.
Như cô gái nói, đường ngày càng dốc dựng, rốt cuộc chúng tôi phải chống cả hai tay để leo lên. Suốt buổi tôi nghĩ đến Ben Johnson. Ben Johnson trên lưng ngựa. Tôi nghĩ đến tất cả các cảnh phi ngựa. Ben Johnson trong phim Fort Defiance và She Wore a Yellow Ribbon và Wagonmaster và Rio Grande. Ben Johnson trên thảo nguyên cháy nắng, mây trên trời trắng tinh như vẽ. Dưới thung lũng là những đàn trâu. Phụ nữ đi ra cửa và chùi tay vào yếm trắng. Một dòng sông. Ánh sáng run rẩy trong gió. Và Ben Johnson phi như bay qua cảnh đó. Ống kính di động lướt theo cùng, bắt hình kỵ sĩ dũng mãnh.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách