Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Misty.Rain
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Xứ Sở Diệu Kỳ Tàn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới | Haruk

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2012 22:52:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Phần 2




Có lẽ đó là lý do khiến tôi không cương lên được. Từ 1964 là năm Nhật Bản đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic, chưa bao giờ xảy ra chuyện đến phút quyết định mà tôi không cương lên được.

“Anh đừng bận tâm, thực sự là không có gì ghê gớm đâu”, cô an ủi tôi. Sau món tráng miệng chúng tôi uống whiskey và bia, nghe vài đĩa nhạc rồi chui vào giường. Tôi đã ngủ với rất nhiều phụ nữ, nhưng trong số đó không có cô nào làm thủ thư. Tôi đoán cô lên giường với tôi vì được tôi thết đãi tử tế. Tuy nhiên, như đã nói, anh bạn nhỏ của tôi không chiến đấu được. Nghĩ đến lượng thực phẩm mà cô nhồi vào bao tử và hiện đang được nghiền bóp là đoạn dưới của tôi cứ thế nguội ngắt.


Cô rúc tấm thân trần truồng vào người tôi và lấy ngón tay giữa miết lên miết xuống chừng mười phân trên mỏ ác tôi. “Ai cũng có lần bị, anh không việc gì phải bận tâm nhiều.”

Nhưng cô càng xoa dịu tôi bao nhiêu thì đầu óc tôi càng quay cuồng bấy nhiêu quanh thực tế là dương vật tôi không cương lên được. Tôi đã có lần đọc ở đâu đó là dương vật trong trạng thái bình thường trông thẩm mỹ hơn lúc cương, nhưng đó chỉ là một an ủi yếu ớt.

“Anh ngủ với phụ nữ lần cuối là khi nào?”

Tôi lọ mọ lục lọi trong trí nhớ một hồi. “Gượm đã, ờ, cách đây hai tuần”, tôi nói.

“Và lần đó ổn chứ?”

“Dĩ nhiên”, tôi nói. Dạo này dường như ai cũng quan tâm đến đời sống tình dục của tôi. Có lẽ đây là mốt mới chăng.

“Cô ấy là bạn gái anh?”

“Gái gọi. Gọi điện đến.”

“Mỗi lần anh ngủ với cô gái loại ấy… anh có cảm giác mình làm một điều gì xấu xa không?”

“Hừm… không.”

“Từ tối ấy đến giờ anh có ... không?”

“Không”, tôi nói. Trong mười bốn ngày qua tôi bận bù đầu, đến tận hôm nay mới có thì giờ để lấy cái áo vest đắt tiền từ hiệu giặt là về.
Cô lắng nghe tôi kể và gật đầu đầy thuyết phục. “Có lẽ vì thế đấy?”

“Vì anh không ...?”

“Vớ vẩn, đồ ngốc ạ”, cô nói. “Tất nhiên là vì công việc! Anh đã tối tăm mặt mũi vì công việc, đúng không?”

“Ừ, hôm kia anh đã không ngủ hăm sáu tiếng liền.”

“Anh làm việc gì?”

“Ngành máy tính”, tôi nói. Tôi toàn trả lời như thế khi bị hỏi về nghề nghiệp. Thứ nhất là cũng chẳng sai, và thứ hai là hầu hết mọi người chẳng hiểu mấy về máy tính để hỏi tiếp.

“Anh bị ức chế vì làm việc trí não trong một quãng thời gian dài, vì vậy tạm thời bị trục trặc. Hoàn toàn bình thường.”

“Ra thế”, tôi nói. Có lẽ cô có lý. Tình trạng kiệt sức của tôi cộng với tất cả các sự kiện bất thường trong hai ngày vừa qua, và mới rồi là sự ngong miệng khủng khiếp đến sởn tóc gáy của cô mà tôi buộc phải mục sở thị đã khiến tôi tạm thời liệt dương. Có thể lắm.

“Anh áp tai vào bụng em mà xem”, cô nói. Và lật chăn ra.

Cô có một cơ thể đẹp, nhẵn nhụi, thon thả, không đâu ra một gam mỡ thừa. Ngực cô cũng không quá to. Nghe lời cô, tôi áp tai lên phần bụng phẳng lì giữa ngực và rốn cô. Như một phép lạ, bụng cô chứa nhiều thức ăn như vậy mà vẫn chẳng vồng lên tẹo nào. Da cô mỏng, mềm và ấm.

“Anh nghe thấy gì không?”, cô hỏi.

Tôi nín thở lắng nghe. Nhưng ngoài tiếng mạch máu đập khe khẽ thì tôi chẳng nghe thấy gì. Chỉ có cảm tưởng như khi nằm trong một khu rừng im ắng và lắng nghe tiếng rìu chặt gỗ xa xăm.

“Chẳng nghe thấy gì cả”, tôi nói.

“Anh không nghe dạ dày làm việc à?”, cô nói. “Nó đang tiêu hóa đấy.”

“Anh cũng không biết tường tận, nhưng anh nghĩ là quá trình tiêu hóa không gây ra tiếng động lớn. Dịch vị có tác dụng phân hủy, thế thôi. Tất nhiên có cả một ít nhu động nữa, nhưng chắc chắn không ầm ĩ lên đâu.”

“Có thể, nhưng cảm giác của em thì rất rõ là dạ dày đang làm việc cật lực. Anh nghe kỹ lần nữa đi.”

Tôi vừa tập trung cao độ vào bên tai áp trên bụng cô vừa ngắm phần bụng dưới và đám lông mu xoăn ngược lên. Nhưng không hề thấy tiếng gì từ dạ dày. Chỉ có tiếng mạch đập sau những khoảng cách đều đặn. Trong The Enemy Below cũng có một cảnh như thế. Bí mật như chiếc tàu ngầm do Curd Furgens chỉ huy, dạ dày khổng lồ của cô tiến hành tiêu hóa dưới vành tai tôi đang chăm chú theo dõi.

Tôi thôi nghe, nhấc đầu khỏi bụng cô, ngả ra gối và quàng tay ôm cô. Tóc cô thơm ngát.

“Anh có nước tonic không?”, cô hỏi.

“Trong tủ lạnh”, tôi nói.

“Em muốn uống vodka pha tonic, được không?”

“Tất nhiên.”

“Anh có muốn uống gì không?”

“Giống em.”

Cô trèo khỏi giường và  đi vào bếp. Trong khi cô pha hai cốc vodka với tonic, tôi đi chọn ca sĩ ưa thích nhất, Johnny Mathis, đĩa Teach Me Toninght. Rồi ư ử ngân theo trên đường về giường. Tôi và dương vật dặt dẹo của tôi và Johnny Mathis.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2012 22:55:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Phần 3



“Anh bao nhiêu tuổi?”, cô hỏi khi mang đồ uống về giường.

“Ba lăm”, tôi nói. “Độc thân. Ngày xưa lắm rồi đã từng có gia đình. Không con cái. Không người yêu.”

“Em hăm chín. Năm tháng nữa thì tròn ba mươi.”

Tôi nhìn cô lần nữa. Chắc không bao giờ tôi nghĩ rằng cô suýt soát ba mươi.

“Trông em trẻ hơn, nhưng em đúng hăm chín thật!”, cô nói. “Này anh, có phải thật ra anh là cầu thủ bóng chày không?”

Tôi giật mình suýt làm sóng cả cốc vodka tonic vừa đặt lên môi. “Bóng chày?”, tôi nói. “Anh bỏ chơi bóng chày mười lăm năm nay rồi. Sao em nghĩ thế?”

“Em cứ nghĩ là đã có lần thấy anh trong ti vi. Mà em thì chỉ xem chương trình bóng chày và thời sự thôi. Hay anh có việc gì bên thời sự?”

“Anh chưa có mặt trong bản tin thời sự bao giờ.”

“Quảng cáo?”

“Không”, tôi nói.

“Thế thì phải có ai đó trông giống anh… ít nhất thì trông anh cũng không như thợ máy tính”, cô nói. “Tiến hóa, kỳ lân, và những chuyện tương tự, cũng không sao, nhưng trong túi quần có dao bấm!”

Cô chỉ vào quần tôi vứt dưới sàn nhà. Một đầu dao ló ra khỏi túi quần.

“Việc của anh liên quan đến xử lý dữ liệu sinh học, công nghệ sinh học. Liên quan đến lợi nhuận công nghiệp. Dạo này người ta chuyên đi ăn cắp dữ liệu của nhau, vì vậy anh phải cẩn trọng.”

“Ra thế”, cô nói, nhưng vẻ mặt không hoàn toàn thuyết phục. “Ta bỏ qua đi. Nói chuyện thú một sừng thì hơn. Đó là lý do chính để anh gọi em, phải không?”

Tôi gật đầu, đặt hai cốc đã uống cạn xuống đất. Cô nhặt hai quyển sách ở đầu giường. Một quyển mang đầu đề Khảo cổ động vật của tác giả Burtland Cooper, quyển kia là Về những sinh thể ảo của Jorge Luis Borges.

“Trước khi đến đây em đã đọc lướt qua cả hai quyển. Tóm gọn lại, quyển này (cô cầm Về những sinh thể ảo lên) nói về thú một sừng như một sản phẩm của trí tưởng tượng, đại khái như con rồng hay nàng tiên cá, trong khi quyển này (cô giơ Khảo cổ động vật lên) đại diện cho một khía cạnh khoa học, lấy xuất phát điểm là không ai dám bảo thú một sừng chưa bao giờ tồn tại. Về chính con kỳ lân thì tiếc là cả hai quyển đều không nói được gì nhiều. Thậm chí quá ít, nếu so với các mô tả về rồng và các chú lùn. Nguyên nhân theo em có thể thú một sừng là một sinh vật rất trầm lặng… Thư viện chúng em không còn tài liệu gì hơn, thật tiếc.”

“Thế là hoàn toàn đủ rồi. Quan trọng là anh đã nắm được đại ý. Rất cảm ơn em!”

Cô đưa tôi cả hai quyển.

“Em có thể tóm tắt cho anh những gì viết trong đó không?”, tôi nói. “Truyền miệng dễ nắm tổng quát hơn.”

Cô gật đầu, giở ngay quyển Về những sinh thể ảo ra. “Nói về ý nghĩa của rồng thì ta cũng mù mờ như về ý nghĩa của vũ trụ vậy”, cô đọc. “Đó là lời tựa.”

“Không tồi”, tôi nói.

Cô lật một trang gần cuối đã được đánh dấu trước. “Điểm đầu tiên người ta phải nhớ là có hai giống kỳ lân. Giống thứ nhất là giống châu Âu, bắt nguồn từ Hy Lạp, giống thứ hai từ Trung Hoa. Chúng khác nhau ở bề ngoài, và cũng được con người ghi nhận trên hai phương cách hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn người Hy Lạp miêu tả kỳ lân như sau:
‘Mình ngựa, đầu hươu, chân voi, đuôi giống lợn đực. Tiếng hí của kỳ lân trầm, trán mọc một cái sừng đen, dài khoảng chín chục phân. Truyền rằng không thể bắt được con thú này.’

Ngược lại, kỳ lân Trung Hoa được miêu tả như sau:

Thân hươu, đuôi bò, móng ngựa. Sừng mọc ở trán, khá ngắn, và bằng thịt. Lông trên lưng có năm màu, còn bụng chỉ có màu nâu hoặc vàng.’


Khá khác biệt, anh có thấy thế không?”

“Đúng đấy”, tôi nói.

“Không chỉ bề ngoài, mà về bản chất của thú một sừng và ý nghĩa người ta gán cho nó cũng khác nhau hoàn toàn giữa phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây người ta thú một sừng là một con vật rất dữ và hiếu chiến. Chả gì thì nó cũng có sừng dài đến chín chục phân, nghĩa là suýt soát một thước. Theo Leonardo da Vinci, chỉ có một cách để bắt được nó, đó là phải biết lợi dụng khoái cảm nồng nàn của nó. Người ta đặt một trinh nữ trước mặt nó, và sự đam mê khiến nó quên tấn công để rồi gục đầu vào lòng thiếu nữ ấy; thế thì sẽ bắt được nó. Cái sừng có ý nghĩa gì, chắc anh đã hiểu?”
“Anh có thể đoán được.”


“Còn kỳ lân Trung Hoa thì lại là một con vật linh thiêng, đem lại may mắn, thuộc về bộ Tứ Linh cùng với Long, Phượng và Quy, và nó đứng hàng cao nhất trong ba trăm sáu lăm sinh vật đi bộ dưới đất. Kỳ lân là một con vật cực kỳ hiền lành, thậm chí nó còn chú ý lúc chạy để đừng giẫm lên một sinh vật bé bỏng nào, và chỉ ăn cỏ khô chứ không bao giờ đụng đến cỏ tươi. Nó sống lâu chừng một nghìn năm và sự hiện diện của nó báo hiệu một đại hiền triết chào đời. Thân mẫu của Khổng Tử chẳng hạn, bà mang thai khi nhìn thấy kỳ lân.

Bảy mươi năm sau, thợ săn hạ được một con kỳ lân, thấy sừng của nó còn vương một mảnh từ dải lụa mà mẹ Khổng Tử đã thắt vào. Khổng Tử ngắm con kỳ lân và khóc, vì Ngài cảm nhận được ý nghĩa trong cái chết của con vật huyền bí vô tội này, và vì quá khứ của Người nằm trong dải lụa ấy.’



Anh thấy có lý thú không? Vào thế kỷ mười ba, kỳ lân lại tái xuất hiện lần nữa trong lịch sử Trung Hoa. Quân đội Thành Cát Tư Hãn ngày đó đang lập kế hoạch đánh Ấn Độ. Một nhóm thám thính chạm trán giữa sa mạc một con kỳ lân. Nó có đầu ngựa với một sừng giữa trán, bộ lông xanh lá cây, mình hươu và nói tiếng người: Đã đến lúc Đại Hãn của các ngươi nên quay trở về đất mình.

‘Một trong các đại thần người Hán của Thành Cát Tư Hãn được vời đến tham vấn, và ông nói, đây là “Giác thụy” – một chi đặc biệt của kỳ lân. “Từ bốn trăm năm nay, đại quân chiến đấu trên đất phương Tây”, ông nói. “Trời ghét cảnh đầu rơi máu chảy nên đã đưa Giác thụy ra cảnh báo chúng ta. Hãy vì trời mà gìn giữ sơn hà; chính điều đó sẽ đem lại sung sướng vô biên.” Và Thành Cát Tư Hãn gạt bỏ mọi kế hoạch đánh chiếm.’


Phương Đông và phương Tây có quan điểm khác biệt đến thế về cùng một con vật. Đối với phương Đông nó là yên ổn và hòa bình, còn phương Tây nhìn thấy trong nó sự hung hãn và nhục cảm. Nhưng dù thế nào đi nữa, thú một sừng là một con vật hư cấu, và chính vì bản chất hư cấu ấy mà người ta gán cho nó những ý nghĩa trọng đại tùy theo ý thích.”

“Thực sự không có loại thú một sừng nào hay sao?”

“Trong giống cá heo có một loài tên là kỳ lân biển, nhưng kỳ thực nó không mang một cái sừng, mà chỉ là một cái răng hàm trên mọc trên đầu, dài chừng hai thước rưỡi, thẳng tắp và xoắn ốc quanh trục. Tuy vậy kì lân biển là một loài động vật có vú đặc biệt sống dưới biển, thời Trung Cổ có lẽ người ta không bao giờ nhìn thấy. Trong các giống loài vô cùng phong phú của động vật có vú từng xuất hiện và lại biến mất hồi Đại Trung sinh có không ít con trông giống kỳ lân. Ví dụ như trong đoạn này…” Cô cầm cuốn Khảo cổ động vật lên và giở tới một trang ở phần ba cuối sách. “Có hai loài nhai lại sống ở lục địa Bắc Mỹ hồi Đại Trung sinh, nghĩa là vào khoảng hai mươi triệu năm trước. Hình bên trái là con cyntetokerus, bên phải là con curanokerus, cả hai con đều có ba sừng, nhưng trong đó một sừng đứng riêng hẳn.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2012 22:57:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Phần 4




Tôi cầm lấy quyển sách để xem minh họa. Cyntetokerus trông như lai giống giữa một con ngựa nhỏ và hươu, nó có hai sừng như bò và một sừng dài trên mõm, đầu tẽ hình chữ Y. So với nó thì hộp sọ của curanokerus tròn hơn, nó mang cặp sừng như hươu, nhưng còn thêm một cái sừng dài, nhọn, chĩa ra phía sau, đầu uốn cong. Cả hai con thú trông khá buồn cười một cách khó tả.


“Cuối cùng thì các giống vật ấy có số sừng lẻ hầu như tuyệt chủng gần hết”, cô nói và lấy lại sách. “Động vật có một sừng hay số sừng lẻ, nếu ta xét riêng động vật có vú, một là cực hiếm, hai là ngoại lệ tiến hóa, hoặc nói ngược lại, chúng là những đứa con hoang của lịch sử phát triển. Ngoài mảng động vật có vú ra, ví dụ như loài khủng long, cũng có động vật ba sừng, nhưng đó là ngoại lệ tuyệt đối. Cái sừng, xét cho cùng, là một vũ khí lợi hại, nhưng ba cái thì thừa. Anh hãy tưởng tượng ra cái dĩa: càng nhiều răng thì chọc càng khó. Và khi một trong các sừng chạm phải vật cứng thì xét riêng về cơ học có thể không sừng nào đâm vào đối thủ được cả. Khi con thú ba sừng của chúng ta phải chống lại nhiều kẻ tấn công thì rất khó xiên vào một con rồi lại rút sừng ra để quay sang con khác.”

“Trở lực lớn hơn, mất thời gian hơn”, tôi nói.


“Chính xác”, cô nói và ấn ba ngón tay vào ngực tôi. “Đó là nhược điểm của nhiều sừng. Định lý số một: một hay hai sừng sẽ hữu hiệu hơn ba sừng hoặc nhiều hơn. Giờ thì ta xét đến nhược điểm của loài một sừng. Nhưng có lẽ trước đó em cho anh thấy tại sao hai sừng lại cần thiết. Lợi thế đầu tiên là phù hợp với sự đối xứng phải-trái của cơ thể con vật. Mô hình hành vi của mọi động vật đều dựa trên sự cân bằng phải-trái, đồng nghĩa với việc chia lực sang hai nửa. Mũi và vòi có hai lỗ, và thực tế là mồm cũng hoạt động theo hai nửa đối xứng phải-trái. Rốn thì chỉ là một, song đó là một cơ quan bị thoái hóa.”

“Dương vật thì sao?”


“Dương vật và âm hộ hợp thành một đôi. Như bánh mì và xúc xích.”


“Ra thế”, tôi nói. Ra thế đấy.


“Quan trọng hàng đầu là mắt. Cả khi tấn công lẫn phòng thủ, đôi mắt là bộ chỉ huy, do vậy sừng càng gần mắt càng tốt. Ví dụ điển hình nhất là con tê giác. Về nguyên tắc, nó là thú một sừng, nhưng cận thị nặng. Nguyên nhân vì nó chỉ có một sừng. Một dạng quái thai. Dù có nhược điểm ấy nó vẫn sống sót đến hôm nay vì nó là loài ăn cỏ và có lớp giáp kiên cố. Hầu như nó không cần tự vệ. Về mặt này và cũng về hình thể, tê giác giống như khủng long ba sừng. Thú một sừng thì, như ta thấy trong ảnh, rõ ràng không thuộc vào nhóm này. Nó không có giáp bọc, nó hoàn toàn… nói thế nào nhỉ…”


“Yếm thế”, tôi nói.


“Đúng thế. Như một con nai. Nếu lại còn cận thị nữa thì cầm bằng cái chết. Khứu giác và thính giác có thể phát triển đến mấy cũng vô dụng, một khi bị cắt đường tháo chạy thì thú một sừng hết đời. Tấn công một con thú một sừng cũng dễ như dùng súng bắn tỉa siêu hạng để hạ một con vịt què. Một nhược điểm nữa của thú một sừng là, nếu sừng hỏi thì toi. Tựa như đi ô tô qua sa mạc mà không đem lốp dự trữ vậy. Anh hiểu ý em chứ?”


“Hiểu.”


“Thêm một điểm yếu nữa: khó lấy đà để húc. Anh hãy tưởng tượng ra răng cửa và răng hàm. Rất khó đợp mạnh bằng răng hàm, phải không? Như em đã nhắc đến, đó là vấn đề của sự cân bằng. Người ta cần trọng lượng dồn vào tứ chi, càng bơm nhiều sức vào đó thì toàn cơ thể càng ổn địn. Giờ thì anh hiểu tại sao cấu trúc thú một sừng nhiều khiếm khuyết rồi chứ?”
“Hoàn toàn rõ rồi”, tôi nói. “Em biết cách giải thích rất giỏi.”


Mặt cô rạng rỡ. Cô miết ngón tay lên ngực tôi. “Nhưng đó chưa là tất cả. Về lý thuyết, thú một sừng luôn có một tình huống rất khó thoát khỏi họa diệt chủng và tiếp tục sống sót. Đó là điểm quan trọng nhất. Tình huống nào, anh có biết không?”
“Nó không có kẻ thù tự nhiên”, tôi nói.


“Tuyệt vời”, cô nói và thưởng luôn một nụ hôn. “Được, vậy anh hãy cho em biết một điều kiện để tránh được kẻ thù tự nhiên.”


“Môi trường sống của thú một sừng phải được cách biệt, không để các loài vật khác xâm nhập vào”, tôi nói. “Ví dụ như trên một cao nguyên, như trong Thế giới đã mất của Conan Doyle, hay dưới một thung sâu. Hoặc được vách đá thật cao vây quanh, như dưới đáy của miệng núi lửa.”


“Khá lắm”, cô nói và gõ ngón tay vào vùng tim tôi. “Hiện nay có những ghi chép về việc phát hiện một chiếc đầu lâu thú một sừng, và hiện trường có các điều kiện đúng như anh nói.”


Bất giác tôi nghẹn cổ một cách vô thức, tôi đã tiến gần tâm điểm của sự kiện.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2012 22:58:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Phần 5



“Chiếc đầu lâu ấy được tìm thấy hồi 1917 ở mặt trận Nga. Vào tháng Chín. Một tháng trước khi nổ ra Cách mạng tháng Mười, trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Dưới thời nội các Kersenski. Ngay trước khi phái Bolsevich ra tay hành động. Một người lính ở mặt trận Ucraina bắt được chiếc đầu lâu trong khi đào công sự. Anh ta cho là một cái đầu lâu bò hay tuần lộc gì đó và quẳng đi. Thiếu chút nữa thì nó lại tiếp tục bị chôn vùi trong bóng đêm lịch sử, nếu không có một viên đại úy đi qua. Viên sĩ quan này chỉ huy đơn vị của anh lính nọ và là nghiên cứu sinh ngành sinh học tại Đại học Tổng hợp Petrograd. Anh ta đem đầu lâu về hầm mình để nghiên cứu kỹ lưỡng và phát hiện ra nó khác tất cả những đầu lâu động vật mà anh đã từng thấy. Anh báo tin đó ngay cho trưởng khoa Sinh học ở Đại học Tổng hợp Petrograd và xin cử một toán chuyên gia, nhưng họ không bao giờ xuất hiện. Cũng chẳng lạ: nước Nga ngày ấy đang đảo điên, mặt trận thiếu lương thực, đạn dược, thuốc men, lính tráng làm binh biến khắp nơi, quả không phải là điều kiện để một toán chuyên gia tới đó nghiên cứu. Và nếu có đến chăng nữa thì họ cũng chẳng có đầu óc và thì giờ để nghiên cứu cẩn thận. Quân Nga đang thua liểng xiểng hết trận này đến trận khác, hỏa tuyến ngày càng bị đẩy lùi về phía sau, và quân Đức tràn tới lấp chỗ trống ngay.”



“Viên đại úy thì sao?”


“Tháng Mười một năm đó người ta treo cổ anh ta lên cột điện báo. Từ Ucraina đến Matxcơva người ta trồng san sát các cột ấy để duy trì liên lạc, hầu hết các sĩ quan nguồn gốc tư sản đều bị treo cổ lên đó. Viên đại úy cũng chung số phận, mặc dù chỉ là một nghiên cứu sinh và không dính dáng gì đến chính trị cả.”


Tôi hình dung ra bình nguyên Nga bao la với dãy cột điện báo, dưới mỗi cột treo cổ một sĩ quan.


“Nhưng ngay trước khi phe Bolsevich giành được chính quyền, anh ta đã kịp trao đầu lâu cho một người lính đáng tin cậy được chuyển về tuyến sau vì trúng thương, gợi ý sẽ thưởng cho anh ta một khoản hậu hĩnh nếu đem về nộp cho một giáo sư ở Đại học Tổng hợp Petrograd. Sau khi rời bệnh xá, mãi đến tháng Hai năm sau người lính mới đến được trường, nhưng vào thời điểm ấy trường đã bị đóng cửa. Sinh viên đang hăm hở làm cách mạng, đa số giáo sư đã trốn hay bị sa thải, chẳng ai nghĩ ngôi trường sẽ được mở lại nữa. Người lính quyết sau này sẽ kiếm tiền với cái đầu lâu và gửi nhờ ở nhà anh rể là thợ may yên ngựa ở Petrograd, sau đó đi ba trăm cây số về quê. Vì những lý do mà em không biết, anh ta không bao giờ quay lại Petrograd lần thứ hai, vì vậy mọi người cũng quên luôn chiếc đầu lâu nằm trong kho của xưởng da.


Năm 1935 nó lại ra ánh sáng, khi Petrograd được đổi tên thành Leningrad. Lenin đã mất, Trotsky lưu vong, quyền hành trong tay Stalin. Trong thành phố ít ai còn đi ngựa, ông thợ bán nửa diện tích nhà xưởng đi và mở cửa hiệu bán trang bị khúc côn cầu trong phần nhà sót lại.”


“Khúc côn cầu?”, tôi hỏi. “Ở Liên Xô của thập niên ba mươi?”


“Em làm sao biết được? Trong sách nói thế. Nhưng Leningrad thời hậu cách mạng khá hiện đại, tại sao không có người chơi khúc côn cầu?”


“Thôi được”, tôi nói.


“Dù sao đi nữa, ông thợ da phải dọn kho và mở cái hộp mà ông em rể gửi lại từ năm 1918. Trên cùng là bức thư gửi cho vị giáo sư ở Đại học Tổng hợp Petrograd, trong đó nhờ thưởng xứng đáng cho người chuyển thư. Tất nhiên ông thợ da đến Đại học Tổng hợp – bấy giờ đã mang tên Đại học Tổng hợp Leningrad, tất nhiên – và xin vào gặp giáo sư. Ông này lại là người Do Thái và đã bị đày đi Siberia sau khi Trotsky bị hạ bệ. Giờ thì ông thợ da chẳng còn ai để xin trả công nữa, bụng bảo dạ, cứ giữ nó lại cho hậu thế thì cũng chẳng được xu nào, và tìm một ông giáo sư sinh học khác, kể ngọn ngành câu chuyện rồi trao lại cho trường cái đầu lâu để được vài đồng như bố thí.”


“Ít nhất thì sau mười tám năm, cái đầu lâu cũng đến được trường đại học”, tôi nói.


“Anh để em kể xong đã”, cô nói. “Ông giáo sư này xoay ngang xoay dọc và săm soi cái đầu lâu cho đến khi rút ra kết luận hệt như viên đại úy trước đó mười tám năm – không thể xếp con vật này vào một loài đã biết hoặc ít nhất được dự đoán là đã từng tồn tại. Hình dáng đầu lâu thì tương ứng nhất với hươu, xem hàm răng thì biết nó là loài móng guốc ăn cỏ, hai má có vẻ dày hơn hươu. Khác biệt rõ nhất giữa loài này với hươu, không nghi ngờ gì, là cái sừng mọc giữa trán. Nói ngắn gọn, đó là một con thú một sừng.”


“Nghĩa là sừng còn dính trên hộp sọ?”


“Vâng, sừng vẫn còn. Tất nhiên không ở dạng ban đầu, chỉ còn một mẩu gốc thôi. Dài khoảng ba phân, phần còn lại đã gãy nhưng mẩu gốc cho phép phỏng đoán là sừng phải dài đến hai mươi phân và thẳng, như sừng linh dương. Đường kính đáy gốc sừng, anh đợi chút, là hai phân.”


“Hai phân”, tôi lặp lại. Đường kính của vết lõm trên cái đầu lâu ông già đưa tôi đo đúng hai phân.


“Petrow – tên ông giáo sư – đi ngay Ucraina với một nhóm trợ lý và nghiên cứu sinh, tổ chức khảo cứu tại địa điểm phát hiện đầu lâu. Tuy không tìm được một đầu lâu thứ hai, nhưng ông lại phát hiện ra một số thực trạng lý thú ở khu vực này. Vùng đồi núi cao trung bình này có tên gọi chung là cao nguyên Voltafil, một trong số những trọng điểm chiến lược hiếm hoi giữa các bình nguyên đơn điệu ở miền Tây Ucraina. Vì vậy trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, quân Đức và Áo đã có những cuộc giao tranh dai dẳng với quân Nga để giành nhau từng tấc đất. Và trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai bom đạn của cả hai phe tàn phá đến biến dạng các quả đồi – nhưng đó là chuyện về sau này. Điểm thu hút sự chú ý của giáo sư Petrow là xương động vật khai quật được ở đây rất khác biệt với các loài động vật địa phương. Từ đó ông lập một giả thuyết, xưa kia đây không phải là cao nguyên, mà có dạng thung lũng với núi bao quanh và là nơi có một số dạng sinh thể đặc biệt sinh sống. Cái mà anh gọi ngắn gọn là thế giới đã mất ấy.”


“Miệng núi lửa?”


“Đúng thế. Một cao nguyên nằm giữa những vách đá dốc đứng. Trải qua hàng trăm nghìn năm, đá lở xuống bồi thành những quả đồi bình thường, và chính trong quá trình ấy, xa cách mọi vận động tiến hóa và mọi kẻ thù tự nhiên, con thú một sừng đã lặng lẽ sống. Cao nguyên có nhiều nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ, về lý thuyết thì giả thuyết này hoàn toàn có cơ sở. Giáo sư Petrow đệ lên Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô một luận án với nhan đề ‘Nghiên cứu các hình thái sinh học ở cao nguyên Voltafil’, với sáu mươi ba minh chứng về trắc địa, sinh học và động vật học cũng như về kỳ lân. Hồi đó là tháng Tám 1936.

Kết quả thật đáng buồn. Không ai thèm quan tâm. Thêm vào đó là Đại học Tổng hợp Matxcơva đang chành chọc với Đại học Tổng hợp Leningrad giành vị trí hàn lâm đầu tàu và cánh Leningrad đang mất đất, vì vậy những công trình nghiên cứu kiểu ‘phi biện chứng’ bị quẳng vào sọt rác. Nhưng không ai dám phủ nhận sự tồn tại của thú một sừng: vì nó không phải là giả thuyết, mà hiển hiện hai năm rõ mười. Vậy là một loạt chuyên viên nghiên cứu cái đầu lâu một năm liền, cho đến khi họ buộc phải đi đến kết luận rằng đây không phải là đồ rởm, mà là sương sọ của một con thú một sừng, chuyện rõ như ban ngày. Cuối cùng thì một tiểu ban trong Viện Hàn lâm Khoa học tuyên bố, đây là đầu lâu của một con hươu có dị tật, chẳng có ý nghĩa gì về lịch sử tiến hóa, vô giá trị để trở thành đề tài nghiên cứu khoa học. Họ gửi về Đại học Tổng hợp Leningrad trả cho giáo sư Petrow. Chấm hết.


Giáo sư Petrow thì kiên tâm đợi gió xoay chiều, mong có ngày kết quả nghiên cứu khoa học của ông được công nhận, nhưng rồi hy vọng này cũng tắt ngóm với sự kiện Đức tấn công Liên Xô năm 1941. Petrow qua đời năm 1943 trong tuyệt vọng. Chiếc đầu lâu bị thất tán năm 1941 trong trận giao tranh ở Leningrad. Trường Đại học Tổng hợp bị san thành bình địa bởi đạn Đức và bom Nga, nói gì đến chuyện đi tìm một cái đầu lâu thú vật. Đó là thời điểm mà bằng chứng duy nhất về sự tồn tại của thú một sừng tan thành mây khói.”


“Nghĩa là không còn bằng chứng nào cả?”


“Không, ngoài các hình ảnh.”

“Hình ảnh?”


“Vâng, ảnh chụp đầu lâu. Giáo sư Petrow đã chụp gần một trăm bức. Một số đã thoát khỏi khói lửa chiến tranh và nghe nói là nằm trong kho lưu trữ của Đại học Tổng hợp Leningrad. Đây là một trong những bức ảnh ấy.”


Cô trao sách cho tôi, và tôi nhìn bức hình cô chỉ cho. Tương đối mờ, nhưng đủ nhận ra hình đầu lâu. Nó nằm trên mặt bàn phủ khăn trắng, cạnh một đồng hồ đeo tay để so sánh kích thước. Một khoanh tròn trắng vẽ lên giữa đầu lâu đánh dấu vị trí gốc sừng. Không nghi ngờ gì, đây là một đầu lâu cùng kiểu với đồ vật mà ông già cho tôi. Giống tuyệt đối – ngoài chuyện tiêu bản của tôi thiếu sừng. Tôi nhìn lên chiếc đầu lâu trên nóc ti vi. Nhìn từ xa, chiếc đầu lâu phủ T-Shirt trông như con mèo ngủ. Tôi suy tính có nên cho cô biết tôi đang sở hữu cái đầu lâu ấy, nhưng rốt cuộc lại thôi. Một bí mật càng bí mật hơn nếu ít người biết.


“Chiếc đầu lâu ấy có thực sự bị phá hủy trong chiến tranh?”, tôi hỏi.


“Ai biết được”, cô vừa nói vừa lấy ngón tay xoắn lọn tóc trên trán. “Trong sách nói, chiến sự rất ác liệt, từng khu phố của Leningrad lần lượt bị san bằng, và khu phố của trường đại học thuộc những vị trí bị tàn phá nặng nhất. Dĩ nhiên không thể loại trừ khả năng giáo sư Petrow đã đem nó đi giấu trước khi chiến sự nổ ra, hoặc bọn Đức lấy làm chiến lợi phẩm… Dù thế nào thì từ đó trở đi không ai nhìn thấy nó nữa.”

Tôi xem bức hình lần nữa rồi gấp sách lại, đặt ra đầu giường. Tôi suy nghĩ một hồi, liệu chiếc đầu lâu trên nóc ti vi kia có chính là tiêu bản mà người ta từng cất giữ ở Leningrad, hay của một con thú một sừng khác được khai quật ở nơi nào khác. Đơn giản nhất là hỏi trực tiếp ông già, ông đã sở hữu nó từ lâu. Và vì sao ông đem tặng tôi. Đằng nào thì tôi cũng phải đến tìm ông lần nữa để nộp các kết quả đã xáo trộn thành chuỗi số ngẫu nhiên, khi ấy tôi sẽ hỏi ông. Cho đến lúc đó thì vắt óc làm gì cho mệt.
Trong lúc tôi ngẫm nghĩ và nhìn lên trần nhà, cô gái đặt đầu lên ngực tôi và rúc sát vào tôi. Tôi vòng tay ôm cô. Sau khi gấp lại chương về thú một sừng, tôi thấy trong người khỏe khoắn hơn một chút, tuy rằng tâm trạng ấy không lây sang dương vật. Dường như không để ý nó cương hay không, cô vẽ bằng ngón tay cơ man những họa tiết vẩn vơ lên bụng tôi.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2012 22:59:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Tường Thành


Vào một chiều nhiều mây, khi tôi đến túp lều của ông gác cổng thì bóng tôi đang mải giúp ông sửa chiếc xe cút kít. Họ đẩy nó ra bãi trống, tách những tấm ván cũ ở đáy và bên thành ra để thay mới. Ông gác cổng thành thạo bào ván trong khi bóng lấy búa đóng đinh. Có lẽ thể trạng của nó không thay đổi mấy từ khi chúng tôi tách khỏi nhau. Ít nhất là về cơ bắp thì không, nhưng các cử động của nó có vẻ hơi gượng, và quanh mắt xuất hiện những nếp nhăn phiền não.


Khi tôi lại gần, cả hai dừng tay ngẩng lên.


“Có chuyện gì?”, ông gác cổng hỏi.


“Tôi muốn nói chuyện một phút với ông”, tôi nói.


“Tôi sắp xong rồi, cứ vào nhà đi, tôi vào ngay”, ông gác cổng nói, mắt vẫn nhìn xuống tấm ván đang bào. Bóng nhìn thoáng về phía tôi rồi lập tức quay lại làm việc. Hình như nó giận tôi lắm.


Tôi đi vào nhà, ngồi ở bàn đợi ông gác cổng. Mặt bàn bừa bộn như mọi khi. Ông gác cổng chỉ dọn dẹp khi sắp mài dao. Chén đĩa bẩn, tẩu thuốc, bột cà phê và vỏ bào – mọi thứ ngổn ngang bừa bãi. Chỉ có những con dao trên giá là thành hàng thành lối.


Mãi vẫn không thấy ông gác cổng vào. Tôi tì cùi tay vào lưng ghế và ngán ngẩm ngó lên trần. Ở thành phố này người ta luôn có quá nhiều thì giờ. Nhiều phát điên lên được. Và người ta tự động nghĩ ra nhiều cách đặc biệt để giết thời gian.


Bên ngoài vẫn vang tiếng bào và đóng đinh.


Rồi thì cửa cũng mở ra – nhưng người đi vào không phải là ông gác cổng, mà là bóng tôi.


“Tôi không có nhiều thì giờ”, bóng nói khi đi ngang mặt tôi, “tôi chỉ vào kho lấy đinh.”


Bóng biến sau cánh cửa cuối phòng, lấy hộp đinh ra.


“Nghe này”, bóng nói trong khi kiểm tra độ dài của đinh trong hộp. “Thứ nhất: cậu vẽ bản đồ thành phố, nhưng không theo các dữ kiện người khác đưa cho, mà cậu phải tự đi khắp nơi và vẽ những gì mắt cậu nhìn thấy lên giấy. Tất cả. Không bỏ bất cứ chi tiết nhỏ nhất nào.”


“Thế thì lâu lắm”, tôi nói.


“Cho cậu thời gian đến hết mùa thu. Rồi cậu đem đến đây cho tôi”, bóng hấp tấp nói. “Thứ hai: tôi cần chú thích đi kèm. Cậu phải ghi chép thật chính xác vị trí của tường thành, Rừng Đông, điểm chảy vào và chảy ra của sông. Xong, rõ chưa?”
Nói xong bóng đã lại biến qua cửa, không nhìn tôi lấy một lần. Khi bóng ra khỏi, tôi nhẩm lại những gì bóng nói: vị trí tường thành, Rừng Đông, điểm sông chảy vào và chảy ra. Vẽ bản đồ là một sáng kiến khá hay. Tôi sẽ làm quen cả thành phố và dùng thời gian một cách có ý nghĩa. Nhưng thích nhất là tôi vẫn được bóng tin tưởng.


Một lúc sau ông gác cổng vào. Ông lấy khăn lau mồ hôi và tay bẩn rồi ngồi phịch xuống ghế đối diện.


“Nào, có chuyện gì?”


“Tôi muốn đến thăm bóng.”


Ông gác cổng gật gù vài lần, nhồi tẩu thuốc và đánh diêm châm.


“Bây giờ thì chưa được”, ông nói. “Rất tiếc vì còn sớm quá. Cậu phải đợi tới khi ngày ngắn đi. Lúc ấy thì không sao.” Trong khi nói chuyện, ông bẻ gập que diêm tàn và ném nó vào cái đĩa trên bàn. “Cũng tốt hơn cho cậu, cứ tin tôi. Cứ thân thiện với bóng nhiều quá chỉ tổ đẻ ra lắm vấn đề. Tôi đã chứng kiến khối chuyện rồi. Tôi nói vậy là muốn tốt cho cậu thôi, hãy kiên nhẫn một ít lâu nữa.”


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2012 23:01:06 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Phần 2



Tôi chỉ im lặng gật đầu. Đằng nào ông cũng chẳng chiều tôi, và tôi thì cũng chớp nhoáng bắt liên lạc được với bóng. Giờ thì tôi có thể yên tâm đợi ông gác cổng cho mình một cơ hội mới.


Ông nhỏm dậy đi ra bồn rửa mặt và uống liền mấy cốc sứ to đầy nước.


“Công việc vẫn ổn chứ?”


“Cũng tạm. Tôi đang làm quen dần.”


“Thấy chưa”, ông gác cổng nói. “Cái chính là phải làm việc cho tử tế. Nhàn cư vi bất thiện.”


Tôi nghe tiếng bóng đóng đinh bên ngoài.


“Ta đi dạo một lát nào”, ông gác cổng nói. “Tôi chỉ cho cậu xem cái này.”


Tôi theo ông ra ngoài. Bóng của tôi ngồi trên xe và đóng đinh mấy tấm ván cuối cùng lên thành xe. Từ trục xe và bánh, cái xe bây giờ mới tinh.


Ông gác cổng đi chéo qua quảng trường, đưa tôi đến dưới một tháp canh cạnh tường thành. Trời chiều ngột ngạt, mây đen từ phía tây kéo đến. Áo ông gác cổng dính bết mồ hôi trên cơ thể hộ pháp của ông và bốc mùi chua lòm.


“Thế này mới gọi là tường thành chứ”, ông gác cổng đập tay mấy lần lên tường như âu yếm vỗ một con ngựa. “Cao bảy thước và bao quanh toàn thành phố. Chỉ có chim chóc mới vượt qua nổi. Không có lối nào ra vào trừ cổng thành kia. Ngày xưa còn có Cửa Đông, bây giờ xây bít lại rồi. Tường xây bằng gạch sành, nhưng không phải gạch thường, nhìn đây này! Không ai có thể phá hỏng hay chỉ cào xước được nó. Kể cả thần công, động đất hay cuồng phong!”


Ông vừa nói vừa nhặt một thanh gỗ dưới đất và rút dao ra đẽo. Dao ăn vào gỗ như cắt giấy, chẳng mấy chốc đã hiện hình một cái chêm.


“Cậu xem đây”, ông gác cổng nói. “Không có mạch vữa giữa các viên gạch – loại gạch này không cần thứ đó, người ta đặt khít nhau đến mức không còn chỗ cho một sợi tóc.” Ông lấy đầu nhọn của chêm gỗ quét dọc mạch nối, nhưng không ấn vào được lấy một li. Ông vứt nó đi, cạo mũi dao lên gạch. Không để lại một vết xước nào, chỉ có tiếng kin kít chói tai. Ông ngắm mũi dao và đút trở lại vào vỏ.


“Không người nào và không thứ gì có thể để lại một vết xước trên tường thành. Cũng không ai trèo lên nổi. Vì sao? Vì đây là một tường thành hoàn hảo. Cậu hãy ghi nhớ. Không ai ra được khỏi đây. Có ý nghĩ ngu xuẩn nào trong đầu thì quẳng nó đi.”
Ông đặt bàn tay hộ pháp lên vai tôi.


“Tôi cũng biết là không đơn giản cho cậu, nhưng nói cho cùng thì ai ai cũng phải trải qua một lần. Cậu cũng thế. Nhưng sau đó đến sự siêu thoát, Không còn trăn trở, không ngờ vực, không đau khổ - tất cả biến mất trong nháy mắt và trở nên vô nghĩa. Đây là chốn tận cùng thế giới. Thế giới chấm dứt ở đây, không còn đường nào đi tiếp nữa. Cả cậu cũng không đi đâu được nữa”, ông vỗ vai tôi lần nữa.


Trên đường về, khoảng đến giữa Cầu Cũ, tôi tựa lên thành cầu và ngắm dòng nước, ngẫm nghĩ lời ông gác cổng.

Tận cùng thế giới.


Nhưng tại sao tôi đã quay lưng lại với quá khứ và đến chốn tận cùng thế giới này? Tôi cố hết sức mà không nhớ lại được các tình huống, ý nghĩa và mục đích. Một cái gì đó, một thế lực nào đó đã đưa tôi tới chốn này. Một thế lực vô nghĩa và hùng mạnh nào đó. Vì nó mà tôi mất bóng mình và trí nhớ của mình, và đang sắp mất cả tâm hồn.


Dưới chân tôi nước chảy róc rách. Cây liễu trên bãi cát bồi rủ cành chấm xuống nước và thanh thản đung đưa trong dòng chảy. Nước sạch và trong vắt. Ở một quãng lặng dưới chân vách đá có thể thấy cá. Nhờ ngắm sông trôi mà tôi lấy lại được sự yên tĩnh nội tâm. Một sự cứu rỗi luôn kiến hiệu.


Có một cầu thang từ cầu xuống bãi bồi. Dưới bóng liễu là một chiếc ghế băng, cạnh đó thường có vài con vật uể oải nằm nghỉ. Tôi hay trèo xuống đó và đem cho chúng mấy mẩu bánh mì nhét trong túi quần. Thoạt tiên chúng nhát, nhưng rồi chúng lại vươn cổ ra và ăn bánh mì trên tay tôi. Cũng chỉ những con thật già và thật nhỏ mới ăn trên tay tôi.


Mùa thu càng dài, một nỗi buồn nào đó càng ngập đầy mắt chúng, những đôi mắt trông như hồ thẳm. Tán lá đổi màu và cây cỏ héo khô báo cho những con vật sắp bắt đầu một thời kỳ đói nghiệt ngã lê thê. Và như ông già tiên đoán, cả tôi cũng đứng trước một thời kỳ nghiệt ngã lê thê.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2012 15:47:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11

Mặc Quần Áo, Hỗn Độn




Kim đồng hồ chỉ chín rưỡi, cô gái dạy thu áo quần vương vãi trên nền nhà và chậm rãi mặc vào. Tôi nằm chống một tay lên giường và ngắm cô qua khóe mắt. Không một động tác thừa và uyển chuyển như con mèo, cô mặc từng thứ một, nhẹ nhàng, im lặng. Cô kéo khóa váy lên, từ từ cài khuy áo từ trên xuống, sau đó ngồi xuống mép giường và đi tất. Rồi cô hôn lên má tôi. Nhiều phụ nữ có cách cởi quần áo vô cùng quyến rũ, nhưng phụ nữ có cách mặc quần áo cũng quyến rũ như thế thì hiếm hơn. Khi cô mặc xong và lấy tay vuốt mái tóc dài ra phía sau, không khí trong phòng như thay đổi.


“Cảm ơn anh mời ăn”, cô nói.


“Anh cảm ơn em mới phải”, tôi nói.


“Bao giờ anh cũng nấu nhiều như thế à?”, cô hỏi.


“Nếu không quá bận”, tôi nói. “Khi nào bận việc thì anh không nấu. Anh ăn những gì còn trong bếp hoặc ra nhà hàng.”
Cô ngồi xuống ghế, lấy thuốc lá trong túi ra, châm một điếu. “Em hầu như không bao giờ tự nấu cho mình. Em không thích làm bếp. Với lại chỉ nghĩ đến lúc về nhà sau bảy giờ tối và phải nấu một đống đồ rồi ăn sạch chỗ ấy là em đã ngán tận cổ. Lúc ấy có cảm giác là người ta chỉ sống để ăn thôi, anh có thấy thế không?”



Tôi nói, nghe cũng có lý.


Trong khi tôi mặc quần áo, cô lấy một cuốn sổ tay trong túi ra và viết gì đó bằng bút bi, xé trang sổ ra đưa tôi. “Số điện thoại của em”, cô nói. “Nếu anh muốn gặp em hay có nhiều đồ ăn hay bất cứ chuyện gì thì gọi em. Em sẽ đến.”


Khi cô đi khỏi nhà với ba quyển sách thư viện về động vật có vú, căn phòng đột nhiên im ắng lạ thường, im ắng đến khó chịu. Tôi đi ra trước ti vi, lấy T-Shirt xuống và ngắm nghía chiếc đầu lâu thú một sừng lần nữa. Và tôi có cảm tưởng rằng nó chính là chiếc đầu lâu bí ẩn mà viên đại úy bộ binh xấu số ở mặt trận Ucraina nhặt được, cho dù không hề có một minh chứng nhỏ nhoi nào. Tôi càng ngắm lâu thì càng tin chắc vào một dạng nghiệp chướng bao phủ quanh nó.


Có thể do tôi vừa nghe xong câu chuyện nên tưởng tượng ra quá nhiều chăng. Không có chủ ý rõ rệt, tôi nhấc chiếc kẹp bằng thép lên và gõ nhẹ vào cái đầu lâu.


Sau đó tôi rửa cốc chén và lau bàn bếp. Đã đến lúc lập dãy số ngẫu nhiên. Để không bị quấy rầy, tôi bật máy trả lời điện thoại, cắt chuông cửa và tắt hết ánh sáng trong nhà, chỉ bật mỗi đèn cây trong bếp. Công việc này đòi hỏi phải tập trung cao độ ít nhất hai tiếng liền.


Mã số cho danh mục ngẫu nhiên của tôi là “Tận cùng thế giới”. “Tận cùng thế giới là tiên đề của một kịch bản mang tính cá nhân sâu sắc, trên cơ sở kịch bản này, tôi tiến hành chuyển hoán các số đã được sửa sang ngôn ngữ máy tính. Tất nhiên, “kịch bản” này không giống chút nào những thứ ta vẫn thấy trên ti vi hay ở nhà hát. Mọi chuyện xảy ra hỗn độn, không theo một mạch truyện nào.


Cái tên “kịch bản” chẳng có gì khác một danh hiệu đặt tạm vì lý do tiện lợi. Nội dung vở này là gì thì tôi không rõ, người ta không báo cho tôi biết. Tôi chỉ biết đầu đề là “Tận cùng thế giới”. Không biết gì hơn.


Các nhà khoa học của Hệ thống đã ấn định kịch bản này. Sau một năm học khóa dự bị và đỗ kỳ sát hạch toán sư cuối cùng, người ta đã cho tôi vào máy đông lạnh hai tuần. Trong thời gian này, họ khám nghiệm các sóng não của tôi, tách ra một thứ có thể gọi là “lõi ý thức hệ” và biến nó thành vở kịch mã số để tạo ra các dữ liệu tình cờ, sau đó cấy lại vào não. Qua đó ý thức hệ của tôi hoàn toàn biến thành một cơ cấu kép. Một mặt thì tổng ý thức hệ tồn tại như một sự hỗn độn, mặt khác thì lõi ý thức hệ cấy vào đó – như hạt trong quả mơ muối – tồn tại trong dạng hỗn độn tích nén.


Nhưng người ta không cho tôi biết hạt nhân ý thức hệ mang nội dung gì.


“Anh không việc gì phải biết”, họ nói. “Khi có nhu cầu, anh có thể kích hoạt lõi đó. Vì kịch bản mã hóa ‘Tận cùng thế giới’ là chính anh. Song anh không được phép biết nội dung vở kịch. Tất cả diễn ra ngay trong một đại dương đầy hỗn độn, và anh ngoi ra khỏi đó với hai bàn tay trắng. Chính sự thiếu vắng đó của ý thức hệ là cái chúng tôi cần. Anh hiểu chứ?”


“Tôi hiểu”, tôi nói.


Sau đó họ dạy tôi cách xáo trộn dữ liệu. Việc này phải làm một mình, trong đêm, bụng không no và không đói. Nghe ba lần liền một âm tiết đã định trước. Bằng cách đó tôi có thể kích hoạt kịch bản “Tận cùng thế giới”. Khi đã kích hoạt rồi, ý thức hệ của tôi sẽ chìm vào hỗn độn. Chìm trong sự hỗn độn ấy, tôi ngồi xáo trộn dữ kiện, làm xong thì “Tận cùng thế giới” bị giải trừ và tôi lại thoát khỏi sự hỗn độn. Việc xáo dữ kiện cũng hoàn thành, và tôi cũng không nhớ gì nữa. Khi sắp xếp dữ liệu đã xáo trộn lại cho đúng tình trạng ban đầu thì đơn giản là làm mọi thứ theo chiều đảo ngược. Âm tiết cũng được đảo ngược.


Đó là chương trình người ta đã cấy vào tôi. Tôi chỉ hoạt động như một đường hầm dẫn đến cõi vô thức. Tất cả diễn biến thông qua một mình tôi. Vì vậy khi xáo dữ liệu tôi luôn có cảm giác yếm thế và phải phơi mình cho mọi công kích. Khác với lúc rửa số. Rửa số thì mất thì giờ và mệt, nhưng trong khi làm việc tôi có thể tự hào về mình vì việc này đòi hỏi sự tập trung sử dụng toàn bộ khả năng của tôi.


Ngược lại, công tác xáo dữ liệu hoàn toàn không dính dáng gì đến khả năng hay có gì đáng tự hào cả. Tôi bị sử dụng. Ai đó sử dụng ý thức hệ của tôi – cái ý thức hệ mà tôi không nhận biết – để xử lý một cái gì đó mà tôi cũng không nhìn thấy. Có cảm giác là khi xáo dữ liệu kỳ thực tôi không được gọi mình là toán sư nữa.


Tất nhiên tôi không có quyền ấn định phương pháp tính toán như mình muốn. Người ta cấp cho tôi hai giấy phép, một cho rửa số và một cho xáo số. Và họ ấn định cách tiến hành công việc. Nếu tôi không thích thì phải đổi nghề. Tôi đâu muốn thế. Trừ phi có vấn đề gì xích mích với Hệ thống và phải ra đi, hầu như không có nghề nào khác cho phép ta phát triển khả năng một cách tự do và độc lập như nghề này, và thu nhập cũng xứng đáng. Sau mười lăm năm có một khoản tiết kiệm đủ để sống phần đời còn lại một cách vô ưu. Vì mục đích ấy, tôi luôn đăng ký tham gia các kỳ sát hạch mà nghe tỷ lệ trượt đã thấy choáng, và đỗ hết. Vì mục đích ấy, tôi đã cắn răng qua các khóa đào tạo nghiệt ngã.


Trong khi xáo số, chất cồn không hại gì, thậm chí người ta còn khuyên dùng một lượng vừa phải để giảm căng thẳng. Riêng tôi thì luôn chú ý không uống một giọt nào trước khi bắt đầu. Thêm nữa là từ sau khi phương pháp này bị “đóng băng” tôi đã nghỉ hơn hai tháng không sử dụng rồi, nên cẩn thận thì hơn. Tôi tắm nước lạnh, tập mười lăm phút bài thể dục nặng, sau đó uống hai tách cà phê đen. Nói chung thế là đủ để tiêu hết lượng cồn dư trong cơ thể.


Tôi mở két lấy ra danh sách số đánh máy và một máy ghi âm cỡ nhỏ, đặt tất cả lên bàn bếp. Sau đó tôi xếp ngay ngắn năm bút chì vót nhọn và vở ghi chép, trước khi ngồi xuống ghế.


Trước tiên tôi bật máy ghi âm. Tôi đeo ống nghe lên, để bộ đếm chạy lên số 16, rồi ngược về số 9, lại xuối tiếp lên số 26. Sau mười giây tự chỉnh, bộ đếm tắt đi và tín hiệu được phát ra. Hễ làm khác tiến trình đó thì âm tiết thu trên băng sẽ tự động bị xóa.


Xong chu trình quy định, tôi đặt vở ghi chép qua bên phải, các số đã rửa qua bên trái. Công tác chuẩn bị thế là hoàn tất. Chấm đèn đỏ sáng lên ở những nơi có thể thâm nhập là cửa đi và cửa sổ, báo hiệu hệ thống báo động đã bật. Mọi việc đều ổn. Không có lỗi nào. Tôi vươn tay ấn nút PLAY trên máy ghi âm, tín hiệu vang lên, sự hỗn độn xuất hiện nhẹ nhàng ấm áp và hút tôi vào.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2012 15:59:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12

Bản Đồ Chốn Tận Cùng Thế Giới




Sau hôm nói chuyện với bóng mình, tôi bắt tay vào lập bản đồ ngay.


Trước tiên tôi trèo lên đỉnh Đồi Tây trong ánh hoàng hôn và ngắm toàn cảnh. Nhưng ngọn đồi này không đủ cao để nhìn thấy cả thành phố và thị lực của tôi đã kém đi đáng kể; tôi không thể thấy hết tường thành chạy vòng vèo đến đâu, chỉ đoán chừng quy mô của thành phố.


Nó không lớn cũng không nhỏ. Có nghĩa là nó không lớn quá mức mà trí tưởng tượng và tầm hiểu biết của tôi có thể nắm được, song cũng chẳng nhỏ đến độ nhìn một lần là hết. Chuyến đi lên Đồi Tây không đem lại cho tôi nhận thức nào hơn. Bức tường cao vây quanh nó, con sông cắt nó làm hai nửa bắc và nam. Ánh chiều nhập nhoạng nhuộm xám mặt sông. Cuối cùng là tiếng tù và vang lên, và tiếng gõ móng của bầy thú phủ trùm lên tất cả.


Để xác định vị trí tường thành, thì tôi không còn cách nào khác là đi bộ dọc theo nó. Nhưng nói dễ hơn làm. Tôi chỉ có thể ra khỏi nhà vào những ngày nhiều mây hay vào buổi tối, và phải hết sức cẩn trọng khi đi đến những khu xa Đồi Tây. Vì rất có thể bỗng dưng quang quẻ khi tôi đang trên đường, hoặc ngược lại, đổ mưa như trút nước. Vì thế tôi đề nghị ông đại tá kiểm tra hộ tình hình thời tiết mỗi sáng. Thường là dự báo của ông chính xác.


“Tôi cũng chẳng có gì để suy nghĩ thời tiết cả”, ông đại tá nói, không giấu vẻ tự hào. “Người ta hiểu đôi chút về thời tiết, nếu ngày nào cũng theo dõi các chuyển động của mây.”


Nhưng chính ông cũng không lường trước được những thay đổi thời tiết đột ngột, những chuyến đi của tôi tới một nơi xa vẫn và sẽ vẫn nguy hiểm.


Ngoài ra, bụi rậm, cây cối hay đá núi thường ngăn không cho tôi đi sát tường thành và quan sát tỉ mỉ mọi thứ. Nhà dân tập trung dọc theo bờ sông ở trung tâm, và hễ rời khỏi khu dân cư này là bắt đầu khó tìm ra đường đi. Cả những đường mòn mà tôi còn cắn răng luồn lách qua được cũng thường xuyên bị chặn đứng bởi những bụi gai rậm rạp, khiến tôi phải khó nhọc đi vòng hay quay lại lối cũ.


Tôi quyết định bắt đầu chuyến khảo cứu từ điểm chót phía tây thành phố, đó là khu vực quanh Cửa Tây và túp lều của ông gác cổng, từ đó đi theo chiều kim đồng hồ vòng quanh thành phố. Thoạt tiên mọi sự trôi chảy, đơn giản hơn nhiều so với mong đợi. Từ cửa thành trông về hướng bắc dọc theo tường thành là đồng ruộng mênh mông bằng phẳng, cỏ mọc rậm cao đến ngang hông, đường đi xuyên qua gọn ghẽ như thêu lên vải.


Nghĩa là không có trở ngại gì đáng kể. Ngoài đồng có nhiều tổ chim, trông có vẻ là chim chiền chiện. Đôi khi chúng bay vụt lên, lượn vòng kiếm thức ăn trên trời rồi lại quay về tổ. Có cả mấy con thú một sừng, nhưng không nhiều. Chỉ nhìn thấy đầu và lưng. Chúng chậm chạp di chuyển trên đồng cỏ non, trông xa như trôi trên mặt nước.


Đi được một đoạn và đến chỗ tường thành quành phải, tôi thấy ở phía Nam có những doanh trại cũ hoang tàn. Những ngôi nhà hai tầng trần trụi và sơ sài, cứ ba chiếc một hàng. Xa một chút nữa còn thấy một khóm nhà, nhỏ hơn nhà ở khu công chức một ít – có lẽ nhà của các sĩ quan. Nhà nằm sau dãy tường đá thấp, giữa chúng có cây mọc, nhưng giờ đây thì cỏ đã mọc cao trùm lên tất cả, không một bóng người. Chắc ngày xưa các cựu binh về hưu ở khu công chức đã sống ở đây. Phải có gì đó xảy ra khiến họ chuyển tới nhà công vụ ở Đồi Tây và bỏ hoang khu doanh trại nọ. Những cánh đồng mênh mông hình như dạo ấy là bãi tập và thao trường, vì đây đó trong cỏ rậm còn thấy di tích những hầm trú ẩn và trụ đá của cột cờ.



Tôi cứ thế tiến về phía Đông, cho đến khi đồng ruộng bằng phẳng dần chuyển thành rừng. Thoạt tiên chỉ có vài lùm cây mọc đây đó giữa bãi cỏ, nhưng chẳng bao lâu chúng dồn thành bụi rậm. Đa số là những cành nhỏ bện vào nhau đâm lên đến ngang vai hay đầu mới xòe tán. Mặt đất phủ kín các loại cây cỏ khác nhau, đôi chỗ thoáng hiện một vài nhánh hoa không màu. Rồi dần dần đã thấy rừng, và triền đất trở nên cằn cỗi. Giữa các bụi cây là đủ loại cây khác nhau cao hàng thước. Ngoài tiếng líu lo thi thoảng vang lên của một con chim tí hon chuyền từ cành nọ sang cành kia, tôi không còn nghe thấy tiếng động nào khác.


Tôi lò dò từng bước nhỏ để vạch đường, nhưng bụi rậm ngày càng dày đặc hơn, trên đầu tôi lá cành đan chằng chịt che hết tầm nhìn, khiến tôi không thể thấy được tường thành chạy tiếp hướng nào. Tôi bỏ cuộc, lần theo một con đường mòn về hướng nam để trở lại thành phố, đi qua Cầu Cũ về nhà.



Bây giờ đã vào thu, nhưng ngoài một đường chu vi cực kỳ thô sơ tôi chưa vẽ được thêm nét nào lên giấy. Nhìn về đại thể, có thể nói thành phố này hình bầu dục, trải dài từ tây sang đông, nhô cao ở phía bắc và nam với Rừng Bắc và Đồi Nam. Sườn đông của Đồi Nam là một diện tích sỏi đá gập ghềnh chạy dài đến tận chân tường thành và chắn gọn khu đất tiếp giáp. Phía đông thành phố là một khu rừng mênh mông phủ cả hai bên bờ sông, quá u ám, rậm rịt và thù nghịch so với Rừng Bắc. Chỉ có một đường duy nhất xuyên qua, đường này chạy dọc sông ra đến Cửa Đông – ít nhất là ở đây tôi có thể quan sát dải đất dọc tường thành từ cự li gần hơn. Cửa Đông, như ông gác cổng đã nói, bị xây bịt kín, không sao qua được.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2012 16:09:37 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12
(tiếp)




Dòng sông bắt nguồn từ dãy núi phía Bắc, với sức chảy khá mạnh, xuất hiện đột ngột dưới chân tường bên cạnh Cửa Đông, chảy tiếp thẳng về hướng tây xuyên qua trung tâm và tạo ra một số bãi cát bồi đẹp mắt gần Cầu Cũ. Ba cây cầu bắc ngang sông: Cầu Đông, Cầu Cũ và Cầu Tây. Cầu Cũ cao tuổi nhất, lớn nhất và cũng đẹp nhất. Ngay dưới chân Cầu Tây là một khúc ngoặt gấp về hướng Nam, ở đây sông từ tốn vòng vào một vòng cung lượn sát tường thành phía nam, tựa như muốn chảy ngược lại. Ngay trước tường thành, sông bào mòn một mặt Đồi Nam và xói thành một thung sâu. Nhưng sông không bỏ lại tường thành phía nam sau lưng mình, mà dồn lại thành một cái hồ, để rồi ngấm xuống các hang động đá vôi dưới đó. Vô số các mạch ngầm của nó – theo lời ông đại tá kể lại – xuyên thủng lỗ chỗ nền hoang mạc bằng đá vôi trải dài vô tận bên ngoài tường thành.



Tất nhiên công việc đọc mơ của tôi vẫn được song song tiến hành. Đúng sáu giờ tôi đẩy cổng vào thư viện, ăn tối cùng cô thủ thư rồi đọc các giấc mơ xưa.


Cho đến nay tôi đã có thể đọc được năm, sáu giấc mơ mỗi tối. Hiện tại tôi đã có khả năng lần theo mớ tia rối rắm đến tận những nhánh rẽ nhỏ nhất, cũng như nắm bắt toàn bộ câu chuyện và những rung động rõ ràng hơn. Ý nghĩa của việc đọc mơ thì tôi vẫn chưa rõ, cũng như tôi chưa hiểu những “giấc mơ xưa” này đã hình thành theo nguyên lý nào. Tuy nhiên qua điệu bộ của cô thủ thư tôi nhận ra thành tích của mình cũng không đến nỗi nào. Bây giờ tôi có thể nhìn thẳng vào ánh sáng do đầu lâu phát ra mà không bị nhức mắt nữa, và tôi cũng không bị chóng kiệt sức. Những đầu lâu tôi đã đọc xong được cô thủ thư đặt lên giá. Hôm sau quay trở lại thư viện tôi sẽ không thấy chúng đâu nữa.


“Anh tiến bộ nhanh đấy!”, cô nói. “Công việc suôn sẻ hơn em nghĩ.”


“Còn bao nhiêu đầu lâu nữa?”


“Nhiều vô kể. Một nghìn, hay hai nghìn cũng nên. Em chỉ cho anh xem nhé?”


Cô đưa tôi đi vòng sau quầy vào kho. Đó là một phòng rộng và sơ sài, như một phòng học, kê san sát giá tủ và nhìn vào nơi ấy cũng chỉ thấy các hộp sọ động vật trắng ớn. Hình ảnh này không hợp với một kho sách thư viện, tôi liên tưởng ngay đến nghĩa địa. Im ắng và lạnh lẽo như trong mồ.


“Tuyệt vời”, tôi nói, “vậy anh cần bao nhiêu năm để đọc hết chỗ này đây?”


“Anh không cần đọc tất cả”, cô nói. “Anh cứ đọc được bao nhiêu thì tùy. Còn lại bao nhiêu thì người đọc mơ kế nhiệm sẽ đọc. Cho đến lúc ấy, các giấc mơ xưa cứ ngủ tiếp.”


“Và em cũng hỗ trợ người đọc mơ kế nhiệm?”


“Không, em chỉ được phép giúp anh. Quy định là thế. Một thủ thư chỉ được giúp một người đọc mơ. Nghĩa là, nếu anh thôi đọc mơ thì em cũng rời khỏi thư viện.”


Tôi gật. Tôi không biết vì sao, nhưng tôi thấy như thế là hoàn toàn tất yếu, không thể khác được. Chúng tôi đứng dựa vào tường và ngắm những dãy đầu lâu trắng trên giá một hồi lâu.


“Em đã đến bờ hồ phía nam thành phố lần nào chưa?”, tôi hỏi bâng quơ.


“Đã có lần em tới đó, nhưng lâu lắm rồi. Hồi còn nhỏ em được mẹ dắt đến. Những người bình thường thì không được phép. Nhưng mẹ em khác. Sao anh hỏi?”


“Anh muốn đến đó xem.”


Cô lắc đầu. “Hồ ấy rất nguy hiểm, nguy hiểm hơn anh tưởng. Mà anh cũng không được phép đến đó đâu. Cũng chẳng có lý do gì, vì hồ rất chán. Tại sao anh muốn ra đó?”


“Anh muốn tìm hiểu làm quen nơi này một chút. Từ đầu này đến đầu kia. Nếu em không muốn đưa anh đi thì anh đi một mình vậy.”


Cô nhìn tôi một lát, rồi thở dài nhượng bộ: “Thôi được. Có vẻ như đằng nào anh cũng không nghe lời người khác nói với anh, còn em thì không thể để anh đi một mình. Nhưng anh hãy nhớ kỹ một điều: em sợ cái hồ ấy lắm, thực ra em không bao giờ muốn tới đó lần nữa. Có gì đó trái tự nhiên, chắc chắn là thế.”


“Sẽ không xảy ra chuyện gì đâu”, tôi nói. “Hai chúng ta cùng đi, và sẽ cẩn trọng. Em không việc gì phải sợ cả.”


Cô lắc đầu. “Anh không biết đâu, vì anh chưa từng ở đó. Nguy hiểm lắm. Nước trong hồ không bình thường, nó dụ dỗ người ta xuống chỗ sâu. Không đùa đâu, em nói tuyệt đối nghiêm túc đấy!”


“Anh sẽ chú ý để ta không lại gần quá”, tôi hứa và nắm tay cô. “Anh chỉ muốn nhìn một lần. Từ xa cũng được.”


Vào một ngày tháng Mười mặt trời xầm xì, sau bữa trưa chúng tôi đi về phía Nam. Dưới thung lũng sâu mà con sông tạo ra nhờ xói vào sườn tây của Đồi Nam, đường đi bị các bụi cây dày đặc mọc kín, vì vậy chúng tôi bắt buộc phải đi vòng qua phía đông của Đồi Nam. Mặt đất phủ kín lá rụng kêu lép nhép dưới chân chúng tôi vì sáng sớm nay có mưa. Trên đường đi chúng tôi chạm trán hai con thú một sừng đi ngược lại. Chúng lẳng lặng đi qua, không chú ý đến chúng tôi, đầu phủ lông vàng nhẹ nhàng lúc lắc qua phải qua trái.


“Thức ăn không đủ nữa”, cô nói. “Mùa đông sắp đến, chúng vất vả đi tìm quả và hạt. Vì vậy chúng liều mạng mò vào tận đây.”


Sườn dốc của Đồi Nam đã ở sau lưng chúng tôi; kể từ đây sẽ không thấy thú một sừng nữa, cũng chẳng có đường mà đi. Chúng tôi bay qua những cánh đồng cô quạnh khô cằn và những khu nhà bị bỏ hoang, đi tiếp về hướng tây; dần dần có tiếng động từ hồ vọng đến tai, ngày càng to.


Âm thanh khác hẳn với những gì tôi từng nghe trong đời. Không phải tiếng thác nước, không phải tiếng gió hú, cũng không phải tiếng gầm gào dưới lòng đất. Nó giống tiếng thở dài mãnh liệt từ một cổ họng hùng vĩ hơn. Đôi khi chỉ là tiếng rên nhè nhẹ, nhưng rồi lại là tiếng than van, thỉnh thoảng khựng lại hay ằng ặc như bị chẹn cổ.


“Nghe cứ như hồ nước định hét lên điều gì đó với ta”, tôi nói.


Cô chỉ im lặng quay sang nhìn tôi. Rồi cô lại dùng tay đeo găng gạt bụi rậm ra lấy đường đi tiếp. “Đường xấu hơn ngày xưa nhiều”, cô nói. “Lần cuối cùng không khó đi như hôm nay. Ta quay về thì hơn.”


“Mình đã đến được đây rồi. Nào, ta cứ đi tiếp đi, đến khi nào không đi được nữa thì thôi.”


Đường khấp khểnh dốc lên dốc xuống, giữa những bụi rậm chúng tôi định hướng theo tiếng thở dài của hồ nước và tiến thêm được mười phút nữa thì đột ngột bụi rậm tẽ ra. Trước mắt chúng tôi một đồng cỏ bằng phẳng trải dài đến tận mép nước. Phía tay phải là thung lũng sâu do dòng sông bào mòn. Ở nơi thung lũng mở ra, lòng sông tỏa rộng, nước chảy qua bụi rậm và qua cả đồng cỏ nơi chúng tôi đang đứng. Ở vị trí đồng cỏ bắt đầu và sông vào khúc quành, dòng chảy đột ngột khựng lại, nước dần dần đổi màu sang sắc lam đậm tiềm ẩn tai ương rồi phồng ra, như một con rắn vừa nuốt con mồi, thành một cái hồ bát ngát. Tôi đi dọc bờ tới hồ.


“Đừng đến gần!”, cô nói và khẽ kéo tay tôi. “Tuy người ta không thấy sóng và mặt hồ nom rất thanh bình lặng lẽ, nhưng dưới bề mặt ấy là những vũng xoáy rất xiết, đã túm được anh thì chúng sẽ kéo anh xuống và không bao giờ nhả ra nữa.”


“Không rõ sâu chừng nào nhỉ?”


“Anh không thể tưởng tượng ra nó sâu đến mức nào. Xoáy nước ngày càng nạo sâu xuống lòng đất, như một mũi khoan phá, khiến hồ ngày một sâu hơn. Người ta kể rằng ngày xưa bọn tà giáo và tội nhân bị ném xuống đó…”


“Sao nữa?”


“Chúng không bao giờ nổi lên nữa. Chắc anh đã nghe kể về những hang động dưới đáy hồ rồi chứ? Một khi đã bị hút xuống cái họng ấy thì người ta sẽ vĩnh viễn phải loanh quanh trong bóng đêm của hang động.”


Cả vùng đất nằm ngột ngạt dưới tiếng thở nặng nề do hồ phun lên tựa những làn hơi nước. Nghe như có tiếng than vãn và rên rỉ của vô số sinh linh vọng lên từ đáy hồ.


Cô nhặt một miếng gỗ to bằng bàn tay lên, nhắm vào giữa hồ và ném. Miếng gỗ bập bềnh đúng năm giây trên bề mặt, chợt rung lên bần bật và biến mất tăm, tựa như bị một bàn tay từ bên dưới túm lấy và lôi tuột xuống nước. Không thấy nó nổi lên.
“Thấy chưa, em nói rồi mà – bây giờ anh đã tin là dưới đó có xoáy nước chưa?”


Chúng tôi ngồi xuống cỏ, cách mép nước chừng mười thước, ăn bánh mì tôi mang theo trong túi. Nhìn từ xa, phong cảnh xung quanh không đem lại gì khác ngoài sự tĩnh lặng hiền hòa. Hoa thu lấm tấm sặc sỡ trên nền cỏ, lá cây đỏ rực – và giữa phong cảnh ấy là mặt hồ phẳng như gương, không một gợn sóng nhỏ. Phía bên kia hồ là vách đá vôi vút cao, đội bức tường thành đen bằng gạch. Ngoài tiếng thở của hồ, tất cả đều im phăng phắc. Thậm chí cây cối cũng không rì rào.


“Tại sao anh muốn có một tấm bản đồ bằng được?”, cô hỏi. “Anh sẽ không thể rời khỏi thành phố được nữa, có bản đồ hay không có cũng thế.” Cô phủi vụn bánh trên lòng và nhìn ra hồ. “Anh muốn đi khỏi đây à?”


Tôi im lặng gật đầu. Thế có nghĩa là “không” hay nghĩa là tôi chưa quyết định được, tự tôi cũng không biết. Cả điều này tôi cũng không biết!


Tôi nói: “Anh không biết. Anh chỉ muốn tìm hiểu thành phố. Muốn biết diện mạo nó, lịch sử hình thành của nó, và mọi người sống như thế nào. Muốn biết cái gì điều khiển anh. Sau đó là gì nữa thì anh cũng không biết.”


Cô chầm chậm lắc đầu, sang trái, sang phải, rồi nhìn sâu vào mắt tôi. “Không có cái gì gọi là ‘sau đó’ đâu”, cô nói. “Anh không biết à? Đây đích thực là chốn tận cùng thế giới. Chúng ta sẽ vĩnh viễn ở lại đây.”


Tôi nằm xuống cỏ và nhìn lên trời. Bầu trời mà tôi nhìn lên được thì luôn luôn phủ mây. Sáng sớm nay trời mưa, cỏ còn ướt và lạnh, mặc dù vậy hương thơm ấm áp của đất vẫn trùm quanh tôi.


Có tiếng vỗ cánh – mấy con chim mùa đông bay lên từ bụi rậm và biến mất sau bức tường thành. Chỉ có chim mới vượt nổi tường thành. Mây dày nặng trĩu chăng thấp, báo hiệu một mùa đông khắc nghiệt đã đợi trước cửa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2012 16:35:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13

Frankfurt, Cửa,

Một Tổ Chức Độc Lập




Như mọi khi, trạng thái tỉnh táo quay lại và bắt đầu từ rìa ngoài của tầm nhìn. Trước tiên là cánh cửa nhà tắm phía rìa bên phải, sau đó đến chiếc đèn cây ở rìa bên trái ấn định chỗ của chúng trong ý thức của tôi đang dần dần tụ vào giữa như lớp băng phủ trên mặt hồ. Tâm điểm tầm nhìn là chiếc đồng hồ báo thức, kim chỉ 11 giờ 26. Chiếc đồng hồ báo thức này tôi được tặng khi đến dự một đám cưới. Để tắt chuông, người ta phải đồng thời bấm nút đỏ bên trái và nút đen bên phải, đó là cách duy nhất để chấm dứt chế độ báo thức – một cơ cấu độc đáo khả dĩ tránh một hành động thường gặp là người ta còn lơ mơ ngủ và vươn tay tắt chuông để gà gật tiếp. Quả thật là nếu muốn ấn cùng lúc cả hai nút tôi phải nhỏm dậy và đặt đồng hồ lên đùi, nghĩa là không tránh được chủ động tiến một, hai bước chân vào thế giới của sự tỉnh táo.


Chiếc đồng hồ báo thức này, tôi nhắc lại lần nữa, người ta tặng tôi ở một đám cưới nào đó. Đám cưới ai thì tôi không nhớ nữa. Hồi đó tôi chưa đến ba mươi và còn bạn bè, cho dù cũng không nhiều, có khi đi dự mấy đám cưới liền trong năm, và vào một dịp nào đó tôi được tặng chiếc đồng hồ này. Tự nguyện thì chắc tôi chẳng bao giờ đi mua cái đồ nhiễu nhương ấy, vì muốn tắt thì phải bấm hai nút cùng một lúc. Bình thường ra, tôi tỉnh dậy không mấy khó khăn.


Khi tầm nhìn của tôi bắt đầu quy tụ vào chiếc đồng hồ báo thức, tôi bất giác đặt nó lên đùi và ấn cả hai tay lên nút đỏ và nút đen. Làm xong tôi mới nhận thấy đồng hồ không đổ chuông. Tôi không nằm trên giường, vậy thì cũng không đặt báo thức, mà chỉ để nó ở bàn bếp như thỉnh thoảng vẫn làm. Tôi đã xáo dữ liệu. Không có lý do gì để phải đặt chuông báo thức.



Tôi đặt nó lên bàn và ngó quanh. Không có gì biến chuyển trong phòng. Các chấm đèn sáng đỏ cho thấy hệ thống báo động đang ở trạng thái bật, đầu kia mặt bàn là tách cà phê đã cạn. Trên đĩa lót mà cô thủ thư dùng làm gạt tàn còn cắm đầu mẩu của điếu cuối cùng cô hút trước khi ra đi. Một điếu Marlboro Light. Không dính son môi. Nếu tôi không nhầm thì cô không son phấn gì cả.


Sau đó tôi ngắm cuốn vở ghi chép và bút chì nằm ngay trước mặt. Trong năm cây bút chì độ cứng F vót nhọn thì hai bị gãy ngòi, hai viết mòn vẹt, chỉ còn một cây vẫn nhọn như cũ. Ngón giữa tay phải hơi tê vì viết quá nhiều. Việc xáo dữ liệu đã hoàn tất. Mười sáu trang vở đặc kín những hàng số.


Theo đúng quy định, tôi đo số lượng dữ liệu với các cột số đã xáo và đốt danh mục ban đầu trong bồn rửa tay. Tôi nhét quyển sổ vào hộp an toàn rồi cất túi cùng máy ghi âm vào két sắt. Sau đó tôi ra ngồi ngoài sofa phòng khách và thở dài. Tôi đã xong nửa nhiệm vụ, và bây giờ tối thiểu sẽ có cả một ngày rảnh.


Tôi rót hai đốt ngón tay whiskey vào cốc, nhắm mắt và uống thành hai hớp. Rượu trôi vào họng nóng cháy, qua thực quản xuống dạ dày. Rồi máu chuyển hơi nóng đi khắp cơ thể. Trước tiên nó làm nóng ngực và má lên, sau đó đến hai bàn tay và cuối cùng xuống chân. Tôi vào phòng tắm đánh răng, uống hai cốc nước và đi tiểu, sau đó tôi ra bếp vót nhọn bút chì và xếp chúng ngay ngắn cạnh nhau trên bàn.


Tôi đặt đồng hồ báo thức vào đầu giường và tắt máy trả lời điện thoại. Đồng hồ chỉ 11 giờ 57. Ngày mai tôi không phải làm gì cả ngày. Tôi vội cởi quần áo, chui vào đồ ngủ, nằm lên giường, kéo chăn lên tận cằm và tắt đèn. Giờ thì được ngủ mười hai tiếng liền nhé, tôi nghĩ. Ngủ mười hai tiếng liền không bị quấy rầy. Kệ cho chim chóc hót ca, cho mọi người lên tàu tới chỗ làm việc, ở một xó nào đó trên thế giới núi lửa phun trào, một đơn vị vũ trang Israel triệt hạ một làng ở Trung Đông – tôi cứ phải ngủ cái đã.


Sau đó tôi ngẫm nghĩ xem mình sẽ sống một cuộc đời như thế nào sau khi không làm toán sư nữa. Tôi đã tiết kiệm đủ tiền, cộng thêm lương hưu nữa là đủ sống một cuộc đời yên ổn. Tôi sẽ học tiếng Hy Lạp và học đàn vi ô lông xen. Tôi sẽ phóng ô tô lên núi, đặt chiếc đàn vi ô lông xen ở băng sau, và tha hồ tập đàn trên núi.


Nếu may mắn một chút thì thậm chí tôi có thể mua một ngôi nhà nho nhỏ trên núi. Một túp lều xinh xắn có bếp tử tế. Ở đó tôi sẽ đọc sách, nghe nhạc, xem các băng video cũ và nấu ăn. Nghĩ đến nấu ăn là tôi lại nhớ tới cô gái tóc dài ở quầy thông tin thư viện. Kể ra cũng hay nếu cô ta cùng ở đó, trong túp lều sơn cước của tôi. Tôi nấu, và cô ăn.


Trong khi nghĩ về bếp núc, tôi thiếp đi. Đột ngột như trời sập. Chiếc vi ô lông xen, túp lều, bếp – tất cả vỡ tung và tan biến vào hư không. Chỉ còn lại mình tôi, mê mệt như chết.


Ai đó khoan một lỗ vào đầu tôi và lấy một cái que bằng giấy xoắn lại cứng ngắc thọc vào gáy lộn lên. Cái que giấy dài ngoằng thọc vào đầu tôi ngày càng sâu. Tôi vung tay gạt nó đi nhưng chẳng được, nó ngoáy vào mỗi lúc một sâu hơn.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách