|
Chương 9
Phần 5
“Chiếc đầu lâu ấy được tìm thấy hồi 1917 ở mặt trận Nga. Vào tháng Chín. Một tháng trước khi nổ ra Cách mạng tháng Mười, trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Dưới thời nội các Kersenski. Ngay trước khi phái Bolsevich ra tay hành động. Một người lính ở mặt trận Ucraina bắt được chiếc đầu lâu trong khi đào công sự. Anh ta cho là một cái đầu lâu bò hay tuần lộc gì đó và quẳng đi. Thiếu chút nữa thì nó lại tiếp tục bị chôn vùi trong bóng đêm lịch sử, nếu không có một viên đại úy đi qua. Viên sĩ quan này chỉ huy đơn vị của anh lính nọ và là nghiên cứu sinh ngành sinh học tại Đại học Tổng hợp Petrograd. Anh ta đem đầu lâu về hầm mình để nghiên cứu kỹ lưỡng và phát hiện ra nó khác tất cả những đầu lâu động vật mà anh đã từng thấy. Anh báo tin đó ngay cho trưởng khoa Sinh học ở Đại học Tổng hợp Petrograd và xin cử một toán chuyên gia, nhưng họ không bao giờ xuất hiện. Cũng chẳng lạ: nước Nga ngày ấy đang đảo điên, mặt trận thiếu lương thực, đạn dược, thuốc men, lính tráng làm binh biến khắp nơi, quả không phải là điều kiện để một toán chuyên gia tới đó nghiên cứu. Và nếu có đến chăng nữa thì họ cũng chẳng có đầu óc và thì giờ để nghiên cứu cẩn thận. Quân Nga đang thua liểng xiểng hết trận này đến trận khác, hỏa tuyến ngày càng bị đẩy lùi về phía sau, và quân Đức tràn tới lấp chỗ trống ngay.”
“Viên đại úy thì sao?”
“Tháng Mười một năm đó người ta treo cổ anh ta lên cột điện báo. Từ Ucraina đến Matxcơva người ta trồng san sát các cột ấy để duy trì liên lạc, hầu hết các sĩ quan nguồn gốc tư sản đều bị treo cổ lên đó. Viên đại úy cũng chung số phận, mặc dù chỉ là một nghiên cứu sinh và không dính dáng gì đến chính trị cả.”
Tôi hình dung ra bình nguyên Nga bao la với dãy cột điện báo, dưới mỗi cột treo cổ một sĩ quan.
“Nhưng ngay trước khi phe Bolsevich giành được chính quyền, anh ta đã kịp trao đầu lâu cho một người lính đáng tin cậy được chuyển về tuyến sau vì trúng thương, gợi ý sẽ thưởng cho anh ta một khoản hậu hĩnh nếu đem về nộp cho một giáo sư ở Đại học Tổng hợp Petrograd. Sau khi rời bệnh xá, mãi đến tháng Hai năm sau người lính mới đến được trường, nhưng vào thời điểm ấy trường đã bị đóng cửa. Sinh viên đang hăm hở làm cách mạng, đa số giáo sư đã trốn hay bị sa thải, chẳng ai nghĩ ngôi trường sẽ được mở lại nữa. Người lính quyết sau này sẽ kiếm tiền với cái đầu lâu và gửi nhờ ở nhà anh rể là thợ may yên ngựa ở Petrograd, sau đó đi ba trăm cây số về quê. Vì những lý do mà em không biết, anh ta không bao giờ quay lại Petrograd lần thứ hai, vì vậy mọi người cũng quên luôn chiếc đầu lâu nằm trong kho của xưởng da.
Năm 1935 nó lại ra ánh sáng, khi Petrograd được đổi tên thành Leningrad. Lenin đã mất, Trotsky lưu vong, quyền hành trong tay Stalin. Trong thành phố ít ai còn đi ngựa, ông thợ bán nửa diện tích nhà xưởng đi và mở cửa hiệu bán trang bị khúc côn cầu trong phần nhà sót lại.”
“Khúc côn cầu?”, tôi hỏi. “Ở Liên Xô của thập niên ba mươi?”
“Em làm sao biết được? Trong sách nói thế. Nhưng Leningrad thời hậu cách mạng khá hiện đại, tại sao không có người chơi khúc côn cầu?”
“Thôi được”, tôi nói.
“Dù sao đi nữa, ông thợ da phải dọn kho và mở cái hộp mà ông em rể gửi lại từ năm 1918. Trên cùng là bức thư gửi cho vị giáo sư ở Đại học Tổng hợp Petrograd, trong đó nhờ thưởng xứng đáng cho người chuyển thư. Tất nhiên ông thợ da đến Đại học Tổng hợp – bấy giờ đã mang tên Đại học Tổng hợp Leningrad, tất nhiên – và xin vào gặp giáo sư. Ông này lại là người Do Thái và đã bị đày đi Siberia sau khi Trotsky bị hạ bệ. Giờ thì ông thợ da chẳng còn ai để xin trả công nữa, bụng bảo dạ, cứ giữ nó lại cho hậu thế thì cũng chẳng được xu nào, và tìm một ông giáo sư sinh học khác, kể ngọn ngành câu chuyện rồi trao lại cho trường cái đầu lâu để được vài đồng như bố thí.”
“Ít nhất thì sau mười tám năm, cái đầu lâu cũng đến được trường đại học”, tôi nói.
“Anh để em kể xong đã”, cô nói. “Ông giáo sư này xoay ngang xoay dọc và săm soi cái đầu lâu cho đến khi rút ra kết luận hệt như viên đại úy trước đó mười tám năm – không thể xếp con vật này vào một loài đã biết hoặc ít nhất được dự đoán là đã từng tồn tại. Hình dáng đầu lâu thì tương ứng nhất với hươu, xem hàm răng thì biết nó là loài móng guốc ăn cỏ, hai má có vẻ dày hơn hươu. Khác biệt rõ nhất giữa loài này với hươu, không nghi ngờ gì, là cái sừng mọc giữa trán. Nói ngắn gọn, đó là một con thú một sừng.”
“Nghĩa là sừng còn dính trên hộp sọ?”
“Vâng, sừng vẫn còn. Tất nhiên không ở dạng ban đầu, chỉ còn một mẩu gốc thôi. Dài khoảng ba phân, phần còn lại đã gãy nhưng mẩu gốc cho phép phỏng đoán là sừng phải dài đến hai mươi phân và thẳng, như sừng linh dương. Đường kính đáy gốc sừng, anh đợi chút, là hai phân.”
“Hai phân”, tôi lặp lại. Đường kính của vết lõm trên cái đầu lâu ông già đưa tôi đo đúng hai phân.
“Petrow – tên ông giáo sư – đi ngay Ucraina với một nhóm trợ lý và nghiên cứu sinh, tổ chức khảo cứu tại địa điểm phát hiện đầu lâu. Tuy không tìm được một đầu lâu thứ hai, nhưng ông lại phát hiện ra một số thực trạng lý thú ở khu vực này. Vùng đồi núi cao trung bình này có tên gọi chung là cao nguyên Voltafil, một trong số những trọng điểm chiến lược hiếm hoi giữa các bình nguyên đơn điệu ở miền Tây Ucraina. Vì vậy trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, quân Đức và Áo đã có những cuộc giao tranh dai dẳng với quân Nga để giành nhau từng tấc đất. Và trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai bom đạn của cả hai phe tàn phá đến biến dạng các quả đồi – nhưng đó là chuyện về sau này. Điểm thu hút sự chú ý của giáo sư Petrow là xương động vật khai quật được ở đây rất khác biệt với các loài động vật địa phương. Từ đó ông lập một giả thuyết, xưa kia đây không phải là cao nguyên, mà có dạng thung lũng với núi bao quanh và là nơi có một số dạng sinh thể đặc biệt sinh sống. Cái mà anh gọi ngắn gọn là thế giới đã mất ấy.”
“Miệng núi lửa?”
“Đúng thế. Một cao nguyên nằm giữa những vách đá dốc đứng. Trải qua hàng trăm nghìn năm, đá lở xuống bồi thành những quả đồi bình thường, và chính trong quá trình ấy, xa cách mọi vận động tiến hóa và mọi kẻ thù tự nhiên, con thú một sừng đã lặng lẽ sống. Cao nguyên có nhiều nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ, về lý thuyết thì giả thuyết này hoàn toàn có cơ sở. Giáo sư Petrow đệ lên Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô một luận án với nhan đề ‘Nghiên cứu các hình thái sinh học ở cao nguyên Voltafil’, với sáu mươi ba minh chứng về trắc địa, sinh học và động vật học cũng như về kỳ lân. Hồi đó là tháng Tám 1936.
Kết quả thật đáng buồn. Không ai thèm quan tâm. Thêm vào đó là Đại học Tổng hợp Matxcơva đang chành chọc với Đại học Tổng hợp Leningrad giành vị trí hàn lâm đầu tàu và cánh Leningrad đang mất đất, vì vậy những công trình nghiên cứu kiểu ‘phi biện chứng’ bị quẳng vào sọt rác. Nhưng không ai dám phủ nhận sự tồn tại của thú một sừng: vì nó không phải là giả thuyết, mà hiển hiện hai năm rõ mười. Vậy là một loạt chuyên viên nghiên cứu cái đầu lâu một năm liền, cho đến khi họ buộc phải đi đến kết luận rằng đây không phải là đồ rởm, mà là sương sọ của một con thú một sừng, chuyện rõ như ban ngày. Cuối cùng thì một tiểu ban trong Viện Hàn lâm Khoa học tuyên bố, đây là đầu lâu của một con hươu có dị tật, chẳng có ý nghĩa gì về lịch sử tiến hóa, vô giá trị để trở thành đề tài nghiên cứu khoa học. Họ gửi về Đại học Tổng hợp Leningrad trả cho giáo sư Petrow. Chấm hết.
Giáo sư Petrow thì kiên tâm đợi gió xoay chiều, mong có ngày kết quả nghiên cứu khoa học của ông được công nhận, nhưng rồi hy vọng này cũng tắt ngóm với sự kiện Đức tấn công Liên Xô năm 1941. Petrow qua đời năm 1943 trong tuyệt vọng. Chiếc đầu lâu bị thất tán năm 1941 trong trận giao tranh ở Leningrad. Trường Đại học Tổng hợp bị san thành bình địa bởi đạn Đức và bom Nga, nói gì đến chuyện đi tìm một cái đầu lâu thú vật. Đó là thời điểm mà bằng chứng duy nhất về sự tồn tại của thú một sừng tan thành mây khói.”
“Nghĩa là không còn bằng chứng nào cả?”
“Không, ngoài các hình ảnh.”
“Hình ảnh?”
“Vâng, ảnh chụp đầu lâu. Giáo sư Petrow đã chụp gần một trăm bức. Một số đã thoát khỏi khói lửa chiến tranh và nghe nói là nằm trong kho lưu trữ của Đại học Tổng hợp Leningrad. Đây là một trong những bức ảnh ấy.”
Cô trao sách cho tôi, và tôi nhìn bức hình cô chỉ cho. Tương đối mờ, nhưng đủ nhận ra hình đầu lâu. Nó nằm trên mặt bàn phủ khăn trắng, cạnh một đồng hồ đeo tay để so sánh kích thước. Một khoanh tròn trắng vẽ lên giữa đầu lâu đánh dấu vị trí gốc sừng. Không nghi ngờ gì, đây là một đầu lâu cùng kiểu với đồ vật mà ông già cho tôi. Giống tuyệt đối – ngoài chuyện tiêu bản của tôi thiếu sừng. Tôi nhìn lên chiếc đầu lâu trên nóc ti vi. Nhìn từ xa, chiếc đầu lâu phủ T-Shirt trông như con mèo ngủ. Tôi suy tính có nên cho cô biết tôi đang sở hữu cái đầu lâu ấy, nhưng rốt cuộc lại thôi. Một bí mật càng bí mật hơn nếu ít người biết.
“Chiếc đầu lâu ấy có thực sự bị phá hủy trong chiến tranh?”, tôi hỏi.
“Ai biết được”, cô vừa nói vừa lấy ngón tay xoắn lọn tóc trên trán. “Trong sách nói, chiến sự rất ác liệt, từng khu phố của Leningrad lần lượt bị san bằng, và khu phố của trường đại học thuộc những vị trí bị tàn phá nặng nhất. Dĩ nhiên không thể loại trừ khả năng giáo sư Petrow đã đem nó đi giấu trước khi chiến sự nổ ra, hoặc bọn Đức lấy làm chiến lợi phẩm… Dù thế nào thì từ đó trở đi không ai nhìn thấy nó nữa.”
Tôi xem bức hình lần nữa rồi gấp sách lại, đặt ra đầu giường. Tôi suy nghĩ một hồi, liệu chiếc đầu lâu trên nóc ti vi kia có chính là tiêu bản mà người ta từng cất giữ ở Leningrad, hay của một con thú một sừng khác được khai quật ở nơi nào khác. Đơn giản nhất là hỏi trực tiếp ông già, ông đã sở hữu nó từ lâu. Và vì sao ông đem tặng tôi. Đằng nào thì tôi cũng phải đến tìm ông lần nữa để nộp các kết quả đã xáo trộn thành chuỗi số ngẫu nhiên, khi ấy tôi sẽ hỏi ông. Cho đến lúc đó thì vắt óc làm gì cho mệt.
Trong lúc tôi ngẫm nghĩ và nhìn lên trần nhà, cô gái đặt đầu lên ngực tôi và rúc sát vào tôi. Tôi vòng tay ôm cô. Sau khi gấp lại chương về thú một sừng, tôi thấy trong người khỏe khoắn hơn một chút, tuy rằng tâm trạng ấy không lây sang dương vật. Dường như không để ý nó cương hay không, cô vẽ bằng ngón tay cơ man những họa tiết vẩn vơ lên bụng tôi.
|
|