Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mozilla199
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng] A Knight In Shining Armor | Jude Deveraux (#1 Top 100 Romances)

[Lấy địa chỉ]
71#
 Tác giả| Đăng lúc 2-4-2012 21:49:48 | Chỉ xem của tác giả
Ngồi xuống cạnh cô ta, Dougless đẩy mảnh vải trong cái giỏ cô mang theo ra. Bên trong là một miếng bánh mì lớn, bánh mì trắng, nhưng không giống như bánh mì trắng thời hiện đại. Nó nặng hơn, và còn rất mới, nhưng có những cái lỗ kỳ lạ ở trên vỏ bánh. Nó ngon tuyệt. Miếng pho mát có mùi thơm và còn mới. Bên trong một chiếc bình bằng da cứng là rượu vang có vị chua. Cũng có một cái ly có chân bằng vàng nữa.

“Không ai uống nước ư?”

“Nước rất tệ,” Honoria nói, xoay xoay cây-đàn-luýt-bụng-béo của cô ta.

“Tệ? Ý cô là không thể uống được?” Cô nhớ những ngôi nhà nhỏ tẹo cô đã thấy hôm qua. Nếu những người đó đến gần nguồn nước, nó chắc chắn là bị bẩn rồi. Thật kỳ lạ, cô luôn luôn nghĩ ô nhiễm nguồn nước là vấn đề của thế kỷ 20.

Dougless đã dành hai tiếng thật dễ thương với Honoria trong vườn ăn quả, ăn pho mát và bánh mì, nhấm nháp rượu lạnh từ chiếc lý có chân bằng bạc, ngắm nghía chỗ đồ trang sức trên váy áo của cô và của Honoria lấp lánh trong ánh mặt trời, và theo dõi những người làm vườn đi làm các công việc của họ. Cô không biết nhiều bài hát, nhưng cô luôn yêu thích những vở nhạc kịch ở Broadway và đã xem hầu hết chúng trên video, thế nên khi cô bắt đầu nghĩ về chúng, cô biết nhiều hơn cô nghĩ. Bên cạnh “I Could Have Danced All Night,” cô biết “Get Me to the Church on Time” từ vở Quý cô xinh đẹp của tôi (My Fair Lady). Cô khiến Honoria cười phá lên trước nhan để của bài hát từ vở Hair. Và cô biết “They Call the Wind Maria” từ vở Paint Your Wagon. Cô cũng biết bản nhạc nền của vở Hòn đảo của Gilligan (Gilligan Island), nhưng cô không biết hát chúng.

Sau bài hát thứ năm, Honoria giơ tay cô ta lên ra hiệu dừng lại. “Tôi phải viết chúng lại,” cô ta nói, sau đó quay trở lại ngôi nhà để lấy giấy và bút.

Dougless hài lòng ngồi nguyên tại chỗ cô đang ngồi, như một con mèo lười trong ánh nắng mặt trời. Không giống như cuộc sống thường lệ của mình, cô không cảm thấy sự thôi thúc phải ở đâu đó, hay làm gì đó.

Ở phía xa của vườn cây ăn quả một cánh cửa nhỏ mở ra và cô thấy Nicholas bước vào. Ngay lập tức, Dougless cảm thấy như bị báo động và tim cô bắt đầu chạy đua. Anh có thích bộ váy áo của cô không? Liệu anh có thích cô nhiều hơn không khi mà cô trông giống những người phụ nữ khác trong thế kỷ của anh?

Cô bắt đầu nhỏm dậy, nhưng sau đó cô thấy một phụ nữ trẻ xinh xắn cô chưa bao giờ thấy trước đây bước vào phía sau anh. Nicholas đang nắm tay cô ta khi hai bọn họ chạy xuống con đường mòn tới phía giàn nho ở góc đối diện của khu vườn. Không khó để thấy rằng họ là đôi tình nhân lỉnh đi để tới một nơi nào đó riêng tư.

Dougless đứng dậy, nắm tay cô siết chặt hai bên hông. Mẹ kiếp anh ta, cô nghĩ. Đây chính là những thứ đã đem lại cho anh ta tiếng tăng khủng khiếp như thế ở thế kỷ 20. Chẳng nghi ngờ gì, những cuốn sách lịch sử không có gì tốt đẹp để viết về anh ta.

Cơn bốc đồng đầu tiên của Dougless là chạy theo họ và nhổ tóc của ả đàn bà đó ra. Nicholas có thể không nhớ cô, nhưng điều đó không thay đổi thưc tế rằng Dougless là người phụ nữ anh yêu. Nhưng Dougless tự nhủ với bản thân mình, chẳng thành vấn đề. Cô sở hữu những ký ức tương lai của Nicholas để đặt dấu chấm hết cho sự nô giỡn này.

Cảm thấy như một vị thánh, tự nhủ với bản thân rằng cô đang làm điều này vì những gì tốt đẹp cho chính Nicholas, cô nhanh chóng bước về phía lùm cây. Cô nhận thức được rằng tất cả những người làm vườn đều dừng tay và đang nhìn theo cô.

Trong bóng một lùm cây kín đáo, Nicholas đã kéo váy của ả đàn bà đó lên trên cặp đùi trần của cô ta rồi, tay anh biến mất dưới đó. Áo jacket và áo sơ mi của anh mở tung, tay của ả đàn bà đó đang ở trong, và họ đang hôn nhau với một sự nhiệt tình vĩ đại.

“Well!” Dougless nói oang oang, bằng cách nào đó kiểm soát sự thôi thúc nhảy xổ vào hai bọn họ của cô. “Nicholas, em không tin rằng đây là cách cư xử của một quý ông.”

Người đàn bà đẩy ra trước và nhìn vào Dougless đầy ngạc nhiên. Cô ta bắt đầu đẩy Nicholas ra, nhưng anh dường như không có khả năng ngừng hôn cô ta.

“Nicholas!” Dougless nói một cách sắc lẻm bằng cái giọng sư phạm của cô.

Khi Nicholas quay người nhìn vào cô, cô thấy rằng mí mắt của anh hạ thấp xuống, và anh có cái nhìn ngái ngủ cô chỉ thấy khi anh làm tình với cô.

Dougless hít vào một hơi.

Khi anh nhìn thấy cô, vẻ mặt của Nicholas chuyển thành giận dữ, và anh thả rơi cái váy của người đàn bà.

“Tôi nghĩ cô tốt nhất nên rời đi,” Dougless, cả cơ thể cô run lên vì giận dữ, nói với người đàn bà.

Người đàn bà, nhìn từ Nicholas đến Dougless khi họ trừng mắt giận dữ với nhau, nhanh chóng ra khỏi lùm cây.

Nicholas nhìn từ đầu tới chân Dougless, và vẻ giận dữ trên khuôn mặt anh gần như khiến cô rút lui, nhưng cô giữ nguyên vị trí.

“Nicholas, chúng ta phải nói chuyện. Em phải giải thích với anh em là ai và tại sao em ở đây.”

Khi anh bước về phía cô, lần này cô có bước lùi lại. “Ngươi đã bỏ bùa mẹ ta,” anh nói bằng giọng thật thấp, “nhưng ngươi sẽ không bỏ bùa ta được đâu. Nếu ngươi còn đến giữa ta và những hành động của ta một lần nữa, ta sẽ cho ngươi nếm một cái gậy giặt đấy.”

Anh xô cô để bước qua mạnh đến nỗi Dougless gần như ngã chúi vào tường, và cô nhìn anh với trái tim trĩu nặng khi anh sải những bước dài đầy giận dữ xuống con đường mòn và ra ngoài theo cánh cửa ở trên tường. Làm thế nào cô được cho là phải hoàn thành bất cứ việc gì nếu anh không lắng nghe cô? Anh thậm chí còn không dành đến 10 phút trong sự bầu bạn của cô. Cô được cho là sẽ phải làm gì, bắt anh bằng dây thòng lọng ư? Đúng, cô nghĩ, trói anh lại và bảo anh cô tới từ tương lai và cô đã xuyên qua thời gian trở lại để cứu lấy cái cổ của anh—theo đúng nghĩa đen. “Và mình chắc là anh ta sẽ tin mình.” Cô thì thầm.

Honoria quay trở lại với một cái bàn gỗ đặt vừa trong lòng, một cái bút lông được cô ta đẽo một cách đầy chuyện nghiệp thành bút máy, mực và ba tờ giấy. Cô ta kéo ra những mảnh giấy ghi chú bài hát và yêu cầu Dougless viết lại nhạc. Ý kiến của cô ta về sự giáo dục của Dougless còn thấp hơn nữa khi cô ta nhận ra rằng Dougless không thể viết cũng như đọc các nốt nhạc.

“Gậy giặt là cái gì?” Dougless hỏi.

“Nó được dùng để quật bụi cho tung ra khỏi quần áo,” Honoria trả lời, viết những nốt nhạc xuống.

“Nicholas có… **, làm trò ngốc loanh quanh với mọi phụ nữ không?”

Honoria dừng chơi và nhìn Dougless. “Cô không nên đánh mất trái tim mình cho Ngài Nicholas. Một phụ nữ chỉ nên dâng tặng trái tim mình cho Chúa thôi. Con người sẽ chết đi, nhưng Chúa thì không.”

Dougless thở dài. “Đúng, nhưng trong khi chúng ta còn sống, con người có thể khiến sự sống của mình đáng giá hay là không.” Dougless định nói nữa, nhưng cô liếc nhìn lên, và đang đứng ở sân hiên của ngôi nhà, cô nhìn thấy đầu của ai đó, và nó trông giống…

“Cô gái đó là ai?” Dougless hỏi, chỉ tay.

“Cô ấy sẽ cưới Đức ngài Christopher khi cô ấy đến tuổi. Nếu cô ấy sống. Cô ấy là một đứa trẻ ốm yếu và không thường xuyên ra ngoài.”

Cô gái, từ khoảng cách này, trông giống y như Gloria, béo y như thế, có vẻ hay dằn dỗi y như thế. Dougless nhớ Lee đã nói rằng anh trai của Nicholas sẽ cưới nữ thừa kế người Pháp và đó là lý do tại sao anh ta từ chối lời đề nghị kết hôn của Lettice.

“Vậy là Nicholas sẽ cưới Lettice, và Christopher thì đính hôn với một đứa trẻ,” Dougless nói. “Nói cho tôi, nếu cô gái đó chết, liệu Kit có cân nhắc tới việc cưới Lettice không?”

Honoria trông có vẻ rụt rè trước việc Dougless tự nhiên dùng những cái tên thánh. “Đức ngài Christopher là người thừa kế tước hiệu bá tước, và ngài ấy có họ hàng với Nữ hoàng. Tiểu thư Lettice không cùng địa vị xã hội với ngài ấy.”

“Nhưng Nicholas thì có.”

“Ngài Nicholas là con trai thứ. Ngài ấy không thừa kế những sự sản cũng như tước hiệu. Với ngài ấy Tiểu thư Lettice là một đám tốt. Cô ấy cũng có họ hàng với Nữ hoàng, nhưng là họ xa. Mặc dù thế, của hồi môn của cô ấy không lớn lắm.”

“Nhưng nếu Lettice cưới Nicholas, sau đó xem nào, Christopher chết, Nicholas sẽ là bá tước, phải không?”

“Phải,” Honoria nói, và dừng viết những nột nhạc. Nhìn lên sân hiên, cô ta thấy nữ thừa kế người Pháp ốm yếu, lốm đốm, béo ú đi lại vào trong nhà. “Ngài Nicholas sẽ trở thành bá tước,” cô ta nói đầy suy tư.

(Hết chương 22)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

72#
 Tác giả| Đăng lúc 2-4-2012 21:52:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23


Đêm đó khi Dougless leo lên giường bên cạnh Honoria, cô kiệt sức. Không ngạc nhiên gì khi cô thấy chỉ có vài người béo và phụ nữ có vòng eo nhỏ xíu như thế. Giữa cái áo nịt ngực bằng thép và những hoạt động không ngớt, mỡ không có cơ hội để yên vị trên cơ thể một người.

Cô và Honoria đã rời khu vường để tham dự buổi lễ ở một nhà thờ nhỏ xinh xắn trên khoảng đất nền của ngôi nhà. Họ lắng nghe một mục sư ăn vận giàu có và họ dành phần lớn thời gian quỳ gối. Dougless không thể để tâm tới vị mục sư đang nói gì vì mải nhìn những bộ áo quần đẹp đến choáng váng của đàn ông và đàn bà ở quanh cô: lụa, sa tanh, gấm thêu kim tuyến, lông thú, đồ trang sức.

Trong nhà thờ cô đã có cái nhìn thoáng qua đầu tiên vào Christopher. Anh ta trông giống Nicholas, nhưng không trẻ và đẹp trai như thế. Nhưng có một sức mạnh lặng yên ở anh khiến Dougless nhìn anh chằm chằm. Khi anh liếc ngang qua cô, có quá nhiều thích thú trong mắt anh khiến Dougless phải nhìn ra chỗ khác, đỏ bừng. Cô không thấy Nicholas đang theo dõi hai bọn họ và cau mày.

Sau nhà thờ là đến bữa tối, bữa ăn mà Dougless dùng trong Phòng diện kiến (Presence Chamber) với Phu nhân Margaret, Honoria, và bốn người phụ nữ khác. Có súp rau thịt bò, một loại bia có vị chua chua buồn nôn, và thịt thỏ rán. Một người đàn ông, người mà Honoria nói là người quản gia, phải cắt những phần bị cháy xém ra khỏi vỏ của ổ bánh mì trước khi ông ta phục vụ nó cho họ, và do đó giải thích luôn những cái lỗ trên lớp vỏ bánh của ổ bánh mì lúc trước của Dougless.

Những người phụ nữ khác, Dougless học được rằng, là những thị nữ và hầu gái phục vụ phòng của Phu nhân Margaret. Nhiều nhất Dougless có thể nói, mọi người trong gia đình đều có những địa vị rành mạch, và người hầu có người hầu, là người có người hầu. Và, với sự ngạc nhiên của cô, họ cũng có giờ giấc thi hành nhiệm vụ rành mạch. Những kiến thức về người hầu của cô chỉ dựa trên những gì cô đã đọc về hộ gia đình thời Victorian, nơi mà người hầu làm việc từ sáng sớm đến khuya lắc khuya lơ, nhưng cô đã biết được nhờ việc hỏi Honoria, có nhiều người hầu trong gia đình Stafford đến nỗi không ai phải làm việc lâu hơn sáu tiếng một ngày.

Tại bữa tối, Dougless được giới thiệu, và những quý bà, quý cô háo hức hỏi cô về đất nước Lanconia và người bác là vua của cô. Dougless, quanh co với những lời nói dối, lầm bầm trả lời, sau đó hỏi những quý cô này về áo quần của họ. Cô nhận được một vài thông tin quyến rũ về các kiểu váy áo của Tây Ban Nha, Pháp, Anh, và thời trang của Ý. Dougless trở nên cực kỳ bị thu hút bởi đề tài này, và sớm nhận thấy bản thân cô lên kế hoạch may một chiếc áo váy kiểu Ý có một cái gọi là bum role phía dưới váy thay vì một cái váy phồng.

Sau bữa tối, người hầu dọn bàn, sau đó chuyển chúng sát vào tường, và Phu nhân Margaret yêu cầu được nghe những bài hát của Dougless. Những gì tiếp theo là một buổi tối tràn đầy năng lượng và ngập tiếng cười. Không có TV và những buổi biểu diễn chuyện nghiệp chưa bao giờ được xem, không một ai ngượng ngập về hát hay khiêu vũ hết. Dougless biết cô rất kinh khủng nếu so sánh với những người cô nghe thấy trên radio hay những bản thu âm, nhưng trước khi buổi tối kết thúc cô thấy mình đang hát solo.

Christopher đến tham gia với bọn họ, và Honoria dạy anh ta bài “They Call the Wind Maria,” bài mà anh đã chơi trên đàn luýt. Mọi người dường như đều biết chơi nhạc cụ, và trước đó Phu nhân Margaret và cả năm quý cô theo hầu bà đều chơi một giai điệu trên một loại nhạc cụ có hình dáng và âm thanh kỳ lạ. Nó là một kiểu như đàn guitar nhưng hình dáng lại như đàn violin, một chiếc violin ba dây, một chiếc piano nhỏ xinh, một chiếc đàn luýt khổng lồ, vài loại sáo, và một đôi tù và.

Dougless nhận thấy cô bị hấp dẫn bởi Kit. Anh ta giống Nicholas thật nhiều, Nicholas mà cô biết ở thế kỷ 20—chắc chắn không phải gã Nicholas ở thế kỷ 16 này, kẻ chạy từ người đàn bà này sang người đàn bà khác. Cô hát bài “Get Me to the Church on Time,” và Kit nhanh chóng bắt nhịp được với giai điệu. Không mất tí thời gian nào họ đã cũng nhau hát bài hát vui nhộn ấy.

Có một điểm là cô nhìn thấy Nicholas đứng cau có trên ngưỡng cửa. Anh từ chối bước vào, ngay cả khi Phu nhân Margaret ra hiệu cho anh.

Chỉ đến khi khoảng 9 giờ, khi Phu nhân Margaret nói đến giờ đi nghỉ rồi. Kit đã hôn tay Dougless và cô cười với anh ta; sau đó cô theo Honoria đi ra để đi ngủ.

Cô hầu gái của Honoria đến để giúp hai người phụ nữ cởi quấn áo. Dougless hít vài hơi thở sâu thật dễ thương sau khi cái áo nịt ngực bằng thép được cởi ra; sau đó mặc chiếc váy lót vải lanh dài cô đã mặc dưới áo váy cả ngày và một cái mũ vải nhỏ để bảo vệ mái tóc của mình, cô trèo lên giường cạnh Honoria. Khăn trải giường làm bằng vải lanh, ngứa ngáy và không được sạch lắm, nhưng tấm đệm được nhồi lông ngỗng và mềm mại như một tiếng thì thầm. Cô đã chìm vào giấc ngủ trước khi cô kéo tấm khăn phủ giường lên người mình.

Cô không biết mình đã ngủ bao lâu trước khi tỉnh dậy. Cô cảm thấy như thể có ai đó đang gọi cô, nhưng khi cô nâng đầu lên và lắng nghe, cô không nghe thấy ai hết, thế nên cô lại nằm xuống. Nhưng cái cảm giác ai đó muốn cô không chịu rời đi. Mặc dù căn phòng im ắng, cô không thể rũ bỏ đuợc cái cảm giác ai đó đang cần cô.

“Nicholas!” cô nói, bật thẳng dậy như một mũi tên.

Sau khi liếc lại cái lưng đang ngủ của Honoria, Dougless rón rén ra khỏi giường. Cô mặc một cái áo choàng bằng gấm thêu kim tuyến nặng nề đang ở tại chân giường vào; sau đó cô luồn chân vào đôi giày mềm mại, rộng rãi. Áo nịt ngực thời Elizabeth đệ nhất có thể là kẻ sát nhân những giầy lại là thiên đường.

Lặng lẽ, cô rời phòng, sau đó đứng bên ngoài cánh cửa đóng kín và lắng nghe. Không có một âm thanh nào, và với rơm rạ trải trên sàn nhà như thế, cô có thể nghe thấy bất cứ tiếng bước chân nào. Cô bắt đầu đi về phía bên phải vì cô cảm thấy tiếng gọi mạnh nhất về phía đó. Cô tới một cánh cửa đóng kín, đặt tay cô lên đó, nhưng không cảm thấy gì hết. Cánh cửa thứ hai cũng như vậy. Ở cánh cửa thứ ba cô có thể cảm thấy tiếng gọi là mạnh nhất.

Khi cô mở cửa, cô không hề ngạc nhiên khi thấy Nicholas đang ngồi trên ghế mặc bít tất dài bó sát, cái quần soóc phồng, và một chiếc áo sơ mi vải lanh to tướng mở banh đến tận eo. Ngọn lửa cháy rực trong lò sưởi, và anh đang cầm một chiếc cốc vại. Anh nhìn như thể đã uống được một lúc rồi.

“Anh muốn gì ở em?” cô hỏi. Cô còn hơn cả sợ hãi một chút anh chàng Nicholas này, khi anh dường như chẳng giống người đàn ông đã tới thế kỷ của cô.

Anh không nhìn vào cô, chỉ nhìn trân trân vào ngọn lửa.

“Nicholas, em sẵn lòng nói chuyện, nhưng nếu anh chỉ đối xử với em bằng cách im lặng như thế, vậy thì em muốn quay trở lại giường.”

“Ngươi là ai?” anh hỏi khẽ. “Sao ta lại biết ngươi?”

Cô ngồi trên chiếc ghế bên cạnh anh, đối diện với ngọn lửa. “Chúng ta có một mối liên hệ theo cách nào đó. Em không thể giải thích được nó. Em khóc cầu xin giúp đỡ và anh đến với em. Em cần anh và anh nghe thấy em gọi. Anh tặng cho em…” Tình yêu, cô gần như nói. Theo cách nào đó nó dường như đã lâu lắm rồi và người đàn ông này là một kẻ xa lạ đối với cô. “Dường như giờ là đến lượt em. Em đến để cảnh báo anh.”

Anh nhìn cô. “Cảnh báo ta? **, phải, ta không được dính líu đến mưu phản.”

“Anh không cần phải chỉ trích cay độc như thế. Nếu em có thể đi cả một quãng đường trở lại đây, điều tối thiểu anh có thể làm là lắng nghe. Đấy là, nếu anh có thể giữ tay mình khỏi ở phía dưới váy của đàn bà đủ lâu đến thế.”

Cô có thể thấy khuôn mặt anh chuyển sang màu đỏ vì thịnh nộ. “Callet!” anh nói dưới hơi thở của mình. “Ngươi là kẻ đã dùng ma thuật để làm mẹ ta mê mụ, kẻ đã phơi bày bản thân mình ra với anh trai ta, dám nói xấu về ta?”

“Tôi không phải phù thuỷ. Tôi đã nói với anh cả nghìn lần rồi. Tất cả những gì tôi đã làm là tôi phải làm những gì khiến bản thân tôi có thể ở lại trong nhà anh, để tôi có thể cảnh báo anh.” Đứng lên, cô cố gắng khiến bản thân mình bình tính lại. “Nicholas, chúng ta phải thôi cãi vã. Em được gửi quay lại để cảnh báo anh, nhưng nếu anh không nghe em, mọi thứ sẽ lại xảy ra cùng một cách nó đã ảy ra trước đây. Kit sẽ—”

Anh đứng lên, cắt ngang lời cô, sau đó ngả người chùm lên cô đầy đe doạ. “Khi ngươi đến với ta tối nay, ngươi có đến từ giường của anh trai ta không?”

Dougless không nghĩ một chút gì về những gì cô đã làm. Cô chỉ tát thẳng vào mặt anh.

Anh vồ lấy cô, ép cô vào anh, cơ thể anh cưỡng ép cơ thể cô lùi lại khi anh đặt môi anh lên môi cô, dữ dội, cáu giận.

Dougless không cho phép một gã đàn ông nào sử dụng bạo lực để hôn cô. Cô đẩy vào anh với tất cả sức lực của mình, nhưng anh không thả cô ra. Một bàn tay anh ở phần phía sau đầu cô, ép buộc đầu cô phải ngoảnh sang bên, trong khi tay kia của anh trượt tới eo lưng cô và đẩy cơ thể cô ép sát vào anh.

Khi môi anh chạm vào môi cô, Dougless thôi kháng cự lại anh. Đây là Nicholas, Nicholas mà cô đã yêu, người đàn ông thậm chỉ cả thời gian cũng không thể chia cắt được cô khỏi anh. Cánh tay cô vòng quanh cổ anh, và cô hé mở môi cô dưới môi anh. Khi cô hôn trả lại anh, cơ thể cô bắt đầu tan chảy vào cơ thể anh. Chân cô yếu ớt, run rẩy.

Môi anh di chuyển xuống cổ cô.

“Colin,” cô thì thầm, “Colin yêu dấu của em.”

Anh kéo khuôn mặt mình ra khỏi cô, trông đầy bối rối. Cô chạm vào phần tóc ở thái dương anh, trượt đầu ngón tay cô xuống má anh.

“Em nghĩ em đã mất anh rồi,” cô thì thầm. “Em nghĩ em sẽ không bao giờ được nhìn thấy anh nữa.”

“Em có thể nhìn thấy tất cả của ta nếu em muốn,” anh nói, mỉm cười; sau đó anh đặt tay xuống dưới đầu gối cô và bế cô đến giường anh. Anh duỗi dài ra bên cạnh cô và Dougless nhắm mắt lại khi tay anh trượt xuống dưới áo choàng của cô. Anh hôn tai cô, nhấm nháp dái tai cô, sau đó trượt lưỡi anh xuống điểm nhạy cảm ở cổ cô trong khi tay anh trượt vào bên trong áo choàng của cô để chạm vào ngực cô.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

73#
 Tác giả| Đăng lúc 2-4-2012 21:54:39 | Chỉ xem của tác giả
Khi ngón tay anh chà sát vào đỉnh vú cô, khi hơi thở của anh trên tai cô, anh thì thầm, “Kẻ nào gửi ngươi đến chỗ ta?”

“Mmm,”Dougless lầm bầm. “Chúa trời, em cho là thế.”

“Tên vị chúa ngươi thờ phụng là gì?”

Dougless khó có thể nghe thấy anh khi anh trượt một chân qua người cô. “God. Jehovah. Allah. Bất cứ ai.”

“Loại người nào thờ phụng vị chúa này?”

Dougless bắt đầu nghe thấy anh. Cô mở mắt. “Người? Chúa? Anh đang nói cái gì thế?”

Nicholas siết chặt lấy ngực cô. “Kẻ nào gửi ngươi tới nhà ta?”

Cô bắt đầu hiểu động cơ của anh khi làm tình với cô. Cô đẩy anh ra, và ngồi dậy, cô buộc lại váy và áo choàng của mình. “Tôi hiểu rồi,” cô nói, cố gắng kiểm soát cơn giận của mình. “Đây là cách anh luôn luôn đạt được những gì mình muốn từ đàn bà, phải không? Ở Thornwyck tất cả những gì anh phải làm là hôn tay tôi và tôi đồng ý bất cứ thứ gì anh muốn. Vậy là bây giờ anh quyết định là tôi đang mưu tính những chuyện không tốt, thế nên anh định quyến rũ để tôi thú nhận.”

Cô ra khỏi giường và đứng nhìn trừng trừng vào anh. Nhưng Nicholas nằm ườn ra trên giường, không buồn nản tí nào khi bị phát giác ra thủ đoạn của mình. “Để tôi nói cho anh vài thứ, Nicholas Stafford, anh không phải là người đàn ông tôi nghĩ anh là. Nicholas mà tôi biết là người đàn ông quan tâm đến danh dự và công lý. Tất cả những gì anh quan tâm là số lượng đàn bà anh có thể ngủ với.”

Cô đứng thẳng hơn. “Được rồi, tôi sẽ nói cho anh biết ai gửi tôi và lý do tại sao tôi lại ở đây.” Cô hít một hơi thật sâu. “Tôi đến từ tương lai, thật ra là thế kỷ 20, và anh đã đến vì tôi khi đó. Chúng ta đã cùng nhau trải qua vài ngày rất dễ thương.”

Miệng anh rơi ra và anh định nói, nhưng Dougless đã giơ tay cô lên. “Nghe tôi cho rõ vào. Khi anh đến với tôi thời gian ở đây là Tháng 9 năm 1564, bốn năm sớm hơn lúc này và anh đang ngồi trong tù đợi cuộc hành hình vì tội mưu phản của mình.”

Mắt Nicholas bắt đầu lấp lánh ngạc nhiên khi anh lăn xuống khỏi giường và nhặt cái cốc vại của anh lên. “Ta hiểu tại sao mẹ ta lại thấy ngươi đầy kinh ngạc. Kể thêm cho ta đi. Ta dính líu vào tội mưu phản như thế nào?”

Dougless siết chặt hai nắm tay của cô ở hai bên sườn. thật là khó để quan tâm tới gã đàn ông, kẻ đang cười mỉa mai đầy nhạo báng. “Anh không dính líu. Anh vô tội.”

“Ah, phải,” anh nói ra vẻ kẻ cả. “ta sẽ thế.”

“Anh đang tập hợp một đội quân để bảo vệ đất đai của mình ở xứ Wales, nhưng trong lúc vội vã, anh không làm đơn thỉnh cầu lên nữ hoàng xin cho phép thành lập quân đội. Có kẻ nào đó đã báo với bà ấy anh định dùng đội quân đó để chiếm lấy ngai vàng của bà.”

Nicholas ngồi xuống và nhìn lên cô, mắt anh chứa đầy kinh ngạc. “Làm ơn nói cho ta biết, kẻ nói dối với Nữ hoàng về đất đai ta không làm chủ và đội quân ta không sở hữu?”

Cô quá tức giận trước điệu bộ của anh đến nỗi cô muốn rời khỏi phòng. Tại sao phải để tâm tới việc cố gắng cứu anh ta kia chứ? Cứ để lịch sử ghi nhận rằng anh ta là cặn bã của xã hội. Anh ta đã là cặn bã của xã hội. “Chúng là đất đai và đội quân của anh vì Kit đã chết, và Robert Sydney và Lettice yêu dấu của anh đã nói dối Nữ hoàng.”

Gương mặt Nicholas thay đổi thành một cơn cuồng nộ lạnh băng. Anh lấn tới cô. “Ngươi bước vào gia đình này để đe doạ tính mạng của anh trai ta ư? Ngưoi nghĩ rằng quẳng những câu thần chú của ngươi lên ta để ta cảm thấy tất cả những gì người làm với hi vọng rằng ta sẽ lấy ngươi làm vợ và biến ngươi thành nữ bá tước hả? Ngươi không dừng trước bất cứ việc gì sao? Ngươi bôi nhọ thanh danh của vị hôn thê của ta cũng như bạn nối khố của ta để đạt được những khát vọng của mình sao?”

Cô lùi lại khỏi anh, e sợ anh lúc này. “Tôi không thể cưới anh vì cuộc đời tôi không thuộc về thế kỷ này. Tôi chắc chắn không thể lên giường với anh vì nếu tôi làm thế, tôi có thể sẽ bị biến mất, và nếu tôi biến mất bây giờ, tôi chắc chắn không gì sẽ thay đổi hết. Và bên cạnh đó, tôi không muốn cưới anh. Okay, vậy là tôi quay trở lại để đưa cho anh một tin nhắn và nó là thế đấy. Thế nên bây giờ có lẽ tôi sẽ may mắn và biến mất. Tôi hi vọng là tôi biến mất. Thật sự là tôi hi vọng không bao giờ gặp lại anh nữa.”

Cô túm lấy nắm đấm cửa, nhưng anh đã đóng sầm cánh cửa lại và không để cho cô rời đi.

“Ta sẽ theo dõi ngươi. Nếu anh trai ta chỉ bị đau một tí thôi, ta sẽ biết là ngươi gây ra nó và ngươi sẽ phải trả giá.”

“Tôi bỏ quên con búp bê hình nhân thế mạng của mình ở trên máy bay rồi. Giờ thì nếu anh không để tôi ra tôi sẽ hét lên đấy?”

“Nhớ lời ta, đàn bà.”

“Tôi hiểu anh một cách hoàn hảo, nhưng vì tôi không phải là phù thuỷ, tôi không có gì phải sợ hết, phải không? Giờ thì mở cửa và cho tôi ra ngay.”

Anh bước lùi lại, và Dougless, đầu ngẩng cao, rời khỏi phòng. Cô đi cả một quãng đường xuống hàng lang dẫn đến căn phòng cô chia sẻ với Honoria trước khi cô bắt đầu khóc. Cô nghĩ cô đã mất Nicholas khi anh quay trở lại thế kỷ 16, nhưng nó không hoàn toàn như thế này. Giờ thì anh thậm chí còn không giống người đàn ông cô đã biết và yêu trong một thời gian ngắn ngủi trước đây.

Cô không quay trở lại phòng ngủ của Honoria mà đi tới Phòng diện kiến, cuộn tròn trên ghế ngồi chỗ cửa sổ. Lớp kính cửa sổ hình lục giác nhỏ xíu quá dày và gợn sóng để nhìn được ra ngoài, nhưng Dougless không quan tâm tới việc nhìn ra ngoài. Cô sẽ mất người đàn ông mà cô yêu bao nhiêu lần đây? Liệu Nicholas, người đã đến với cô ở thế kỷ 20 có phải là người đàn ông vừa mới hôn cô không? Không kể đến diện mạo, hai người chẳng có điểm gì chung hết.

Một lần nữa, Dougless, cô tự nhủ với bản thân, mày đã ngã lòng với một người đàn ông không phù hợp rồi. Nếu anh không phải là người đàn ông đã đặt một chân vào tù, vậy thì anh là kẻ theo đuổi tất cả đàn bà ở quanh. Một phút trước Nicholas đang nguyền rủa Dougless vì là phù thuỷ, và phút tiếp theo anh đã đang hôn cô rồi.

Khi Nicholas quay trở lại lần trước, anh đã bị hành hình vì họ đã không có đủ thông tin. Sau đó cô cảm thấy rằng họ đáng lẽ đã tìm thấy những thông tin họ cần nếu cô không dành quá nhiều thời gian ghen tuông với Arabella. Nếu Dougless dành thời gian để nghiên cứu và hỏi những câu hỏi nhiều hơn nữa, cô đã có thể cứu mạng sống của Nicholas.

Thế nên bây giờ cô đã được cho cơ hội thứ hai, nhưng cô vẫn lặp lại cũng một lỗi lầm. Cô đang để cảm xúc che mờ không cho cô thấy phải làm như thế nào. Chuyện chuyển đổi hai người quay về và hướng tới xuyên qua thời gian không thể tin được, đầy lạ thường này đã xảy ra với cô và Nicholas để những sinh mạng và gia tài có thể được cứu. Nhưng tất cả những gì Dougless có thể nghĩ là liệu Nicholas có vẫn còn yêu cô hay không. Cô quẳng những nắm đấm ghen tuông như một cô nữ sinh học cấp ba vì một người đàn ông trưởng thành làm trò ngốc loanh quanh với một người đàn bà nào đó ở trong vườn nho.

Dougless đứng lên. Cô có một công việc cần phải làm và cô phải làm việc đó mà không cho phép những cảm xúc nhỏ mọn ngáng đường cô.

Cô quay trở lại phòng ngủ của Honoria và trượt vào giường ngủ bên cạnh cô ta. Hôm nay cô sẽ bắt đầu tìm kiếm xem cô có thể làm gì để ngăn cản ả Lettice Culpin bội bạc.

Dougless chỉ vừa mới nhắm mắt thì cánh cửa phòng ngủ bật mở và cô hầu gái của Honoria bước vào. Cô ta kéo màn ra khỏi chiếc giường bốn cọc, mở cánh cửa chớp của cửa sổ, lấy áo váy của Honoria và Dougless, cũng như những lớp váy lót ra khỏi chiếc rương ở cuối chân giường, và vuốt thẳng chúng. Vài phút sau Dougless đã bắt nhịp với một ngày hối hả, lại mặc chiếc váy đẹp thứ nhì của Honoria và ăn bữa sáng với thịt bò, bia và bánh mì. Honoria bắt đầu làm sạch răng của cô ta với vải lanh và một loại xà phòng nào đó, nhưng Dougless không muốn thử mùi vị của chúng, thế nên cô đưa cho Honoria một trong vài chiếc bàn chải miễn phí của khách sạn mà cô có trong túi của mình. Sau khi thuyết minh về công dụng của nó và một vài lời kêu toáng lên về kem đánh răng, cô và Honoria cùng nhau chải răng của họ, nhổ vào một cái chậu bằng đồng đỏ được gõ bằng búa rất dễ thương.

Sau bữa sáng trong phòng của họ, Dougless theo Honoria vào những hoạt động hối hả khi cô hộ tống Phu nhân Margaret trong việc chỉ đạo cả một gia đình to lớn. Có nghi lễ buổi sáng ở nhà thờ phải tham dự, sau đó là những gia nhân cần được xem xét đến. Dougless đứng bên cạnh và theo dõi một cách đầy kinh sợ khi Phu nhân Margaret xem xét kỹ lường từng vấn đề một, nói và lắng nghe mọi lời phàn nàn.

Dougless hỏi Honoria cả nghìn câu hỏi khi Phu nhân Margaret giải quyết một cách đầy hiệu quả và điêu luyện với có vẻ như là hàng trăm người làm: người phụ trách sảnh, người dẫn lối vào các phòng ngủ, người hầu bàn (marshals of the hall, yeomen of the chamber, yeomen waiters). Honoria giải thích rằng đây chỉ là những người đứng đầu mỗi bộ phận trong toàn gia đình, và mỗi một người này lại có rất nhiều người hầu khác bên dưới anh ta. Cô ta nói rằng Phu nhân Margaret không thường xuyên trong việc tự mình giải quyết những vấn đề với người hầu trong hộ gia đình.

“Có nhiều người hầu hơn thế này?” Dougless hỏi.

“Nhiều hơn nhiều, nhưng Sir Nicholas làm việc với họ.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

74#
 Tác giả| Đăng lúc 2-4-2012 21:56:13 | Chỉ xem của tác giả
Sử sách của các ngươi không đề cập gì tới chuyện ta là trưởng quản lý của anh trai mình ư? Dougless nhớ là Nicholas đã hỏi thế.

Sau một buổi sáng kiệt sức, vào khoảng 11 giờ, gia nhân được giải tán và Dougless theo Phu nhân Margaret, Honoria, và những quý cô khác xuống dưới nhà đến một nơi Honoria nói là phòng mùa đông. Có một chiếc bàn dài tuyệt đẹp nằm ở đây với một chiếc khăn trải bàn bằng vải lanh trắng như tuyết, và mỗi một chỗ ngồi được đặt bao gồm một đĩa đựng thức ăn to, một chiếc thìa, và một chiếc khăn ăn thật lớn. Ở trung tâm của chiếc bàn, những chiếc đĩa… Dougless khó có thể tin được vào mắt mình: những chiếc đĩa được làm bằng vàng. Những chiếc đĩa xa hơn về phía cuối bàn được làm bằng bạc, tiếp đó đến những chiếc đĩa bằng thiếc, cho đến hai chiếc đĩa cuối cùng được làm bằng gỗ. Có những chiếc ghế dựa phía sau những chiếc đĩa vàng và những chiếc ghế đẩu cho những thực khách khác. Không có một chút che đậy nào ai được xem là ở vào địa vị cao hơn người khác. Rõ ràng, bình đẳng không phải là một cái gì đó những người ở đây theo đuổi.

Dougless hạnh phúc khi thấy rằng Honoria dẫn cô tới một chiếc đĩa bằng bạc, và Dougless còn hài lòng hơn khi nhận thấy rằng bản thân mình ngồi đối diện với Kit.

“Ngươi định dành ngạc nhiên gì cho chúng ta tôi hôm nay đây?” anh ta hỏi.

Dougless nhìn vào đôi mắt xanh sâu thẳm của anh ta và nghĩ, Trò xoay chai thì sao? “Ah…” cô đã để hết tâm trí vào những rắc rối của Nicholas đến nỗi cô chẳng suy nghĩ gì nhiều đến công việc của mình. “Điệu vanxơ,” cô nói. “Nó là điệu nhảy dân tộc ở đất nước của tôi.”

Khi anh ta mỉm cười với cô, Dougless mỉm cười lại đầy ấm áp.

Sự tập trung của cô bị phá vỡ khi một người hầu bê vào một cái bình đựng nước, một cái chậu và một cái khăn bông cho mỗi khách để rửa tay của mình. Dougless thấy rằng, ở phía dưới Kit ba ghế là Nicholas, và anh đang nghiêm túc chuyện trò với một người phụ nữ cao, tóc đen, người trông không chính xác là tuyệt đẹp nhưng rất xinh xắn. Trong một khoảnh khắc, Dougless nhìn trừng trừng vào người phụ nữ, nghĩ xem cô đã nhìn thấy cô ta ở đâu trước đây rồi, nhưng cô không thể định hình cô ta được.

Quay đi, cô nhìn những người khác và nghĩ thật kỳ lạ khi thấy những phụ nữ không trang điểm, nhưng rõ ràng những phụ nữ này có chăm sóc da họ. Họ không phải chỉ ngủ dậy, rửa mặt và đi ra.

Ở bên kia của Nicholas là nữ thừa kế người Pháp, người sẽ kết hôn với Kit. Cô gái ngồi lặng yên, môi dưới của cô ta bĩu ra, vẻ cau có trên khuôn mặt mộc mạc của cô ta. Không một ai nói chuyện với cô ta, nhưng cô ta dường như không phiền gì. Đằng sau cô ta là một phụ nữ cao tuổi trong hung dữ lảng vảng, người mà, khi cô gái đụng vào làm khăn ăn của cô ta bị lệch đi, sửa thẳng lại nó.

Dougless bắt lấy ánh mắt của cô gái và mỉm cười, nhưng cô gái cau mày đáp trả, và người đàn bà hung dữ nhìn như thể Dougless đã đe doạ người được giao cho trông nom của bà ta. Dougless quay đi.

Khi thức ăn được mang lên, Dougless thấy rằng nó được trình bày với những nghi thức cao quý. Và nấu nướng như thế này xứng đáng với nghi thức. Món chính thứ nhất là thịt được bày trên những chiếc khay bạc khổng lồ: thịt bò quay, thịt bê, thịt cừu, thịt bò muối. Rượu vang, thứ được giữ lạnh trong những ống bằng đồng đựng nước lạnh, được rót vào những chiếc ly có chân bằng thuỷ tinh Venetian trong mờ lấp lánh.

Món chính tiếp theo là gia cầm: gà tây, gà trống thiến luộc, gà giò hầm tỏi tây, gà gô, gà lôi, chim cun cút và chim dẽ gà. Tiếp theo là đến cá: cá bơn, cá thu , tôm hùm, tôm nước ngọt, lươn.

Mọi thứ dường như đều được nấu với nước sốt, và tất cả chúng đều rất đậm đà và ngon tuyệt.

Món rau đến kế tiếp: củ cải, đậu xanh, dưa chuột, cà rốt, rau chân vịt. Dougless không thấy món rau ngon như những món khác vì chúng được nghiền nhão ra. Khi cô hỏi, cô được bảo rằng rau phải được nấu kỹ như thế để loại bỏ những chất độc có trong chúng.

Với mỗi món một loại rượu khác nhau được phục vụ, và người hầu tráng sạch cốc trước khi rót đầy chúng với loại rượu kế tiếp.

Salad đến sau móm rau. Không phải loại salad cô vẫn biết nhưng được nấu bằng dau diếp và thậm chí là nụ hoa violet.

Khi Dougless no đến nỗi cô muốn nằm xuống và ngủ hết cả buổi chiều, món tráng miệng được đem tới. Có bánh nhân hoa quả hình quả hạnh và bánh nướng nhân ngọt vị của gần hết các loại hoa quả có thể tượng tượng ra, và có bánh pho mát được xếp thành từng dãy với nữhng lớp kem cứmg. Những quả dâu tây mọng, ấm áp ánh mặt trời có hương vị thơm ngon hơn bất cứ thứ gì Dougless đã từng nếm ở thế giới hiện đại.

Lần duy nhất Dougless biết ơn đến cái áo nịt ngực bằng thép của cô, cái vật đã giữ cho cô khỏi nhồi nhét thức ăn vào bản thân mình.

Sau bữa ăn những bình đựng nước lại được mang đi quanh một lần nữa vì thức ăn đã đươk ăn bằng thìa và những ngón tay.

Cuối cùng, sau ba giờ, nhóm người chia ra và Dougless đi lạch bạch như vịt lên cầu thang về phòng của Honoria và ngã phịch xuống giường. “Tôi đang chết đây,” cô nói đầy thểu não. “Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể bước đi được nữa. Và lại nghĩ đến tôi đã mong đợi Nicholas hạnh phúc với một chiếc club sandwich vào bữa trưa.”

Honoria cười phá lên với cô. “Giờ thì chúng ta phải theo hầu Phu nhân Margaret.”

Dougless sớm phát hiện ra rằng người thời Elizabeth đệ nhất làm việc cũng vất vả như họ ăn vậy. Với tay đặt lên cái bụng no căng, Dougless theo Honoria xuống cầu thang, qua khu vườn trung tâm tuyệt đẹp, và ra ngoài chuồng ngựa. Dougless được giúp ngồi lên một con ngựa với yên ngồi nghiêng (dành cho phụ nữ, cả hai chân sẽ về cùng một bên mình ngựa_summerwind210), thứ mà cô có một rắc rối vĩ đại để bám được vào; sau đó Phu nhân Margaret, năm người phụ nữ theo hầu bà và bốn lính gác nam đeo kiếm và dao găm, khởi hành với nước kiệu điên rồ. Dougless đã có một thời gian khó khăn để theo kịp vì cô thật khó để giữ được thăng bằng, với một chân móc qua cái núm yên ngựa cao bằng gỗ và một cái khác ở bàn đạp thấp chỗ yên ngựa. Dougless biết anh chị em họ của cô ở Colorado sẽ không được tự hào lắm về cô vì cô dùng cả hai tay để túm lấy yên cương.

“Họ không có ngựa ở Lanconia sao?” một trong những người đàn ông hỏi cô.

“Ngựa thì có nhưng yên ngồi nghiêng thì không,” cô trả lời khi cô túm chặt lấy dây cương đầy sợ hãi.

Sau khoảng một giờ cô bắt đầu cảm thấy cảm giác như thể cô sắp sửa ngã lộn nhào bất cứ lúc nào giảm đi, thế nên cô có thể nhìn quanh mình. Đi từ căn nhà Stafford tuyệt đẹp tới vùng nông thôn nước Anh như đi từ lâu đài cổ tích đến khu ổ chuột, hoặc có lẽ từ Beverley Hills tới Calcutta.

Sạch sẽ không phải là một phần của cuộc sống của dân làng. Con người và vật nuôi sống ở cùng một toà nhà và cùng một cấp độ vệ sinh. Nhà bếp và nhà xí lõng bõng nước bị quẳng ra ngoài những cánh cửa của những căn nhà tối tăm nhỏ tẹo. Con người ở đây bẩn thỉu như thể chỉ một năm bụi bẩn và mồ hôi mới có thể khiến họ bẩn như thế. Áo quần của họ tồi tàn và cứng đơ bởi dầu mỡ và đã qua sử dụng.

Và bệnh tật! Dougless nhìn trân trân vào những người mà họ băng ngang qua. Họ đều bị sẹo đậu mùa, họ bị bướu cổ, bệnh ecpet mảng tròn, những vết lở loét lan trên khuôn mặt họ. Rất nhiều lần cô nhìn thấy những người bị què hay tàn tật. Và không một ai trên mười tuổi dường như còn đủ răng—và những chiếc răng họ có thường đều là màu đen.

Bữa ăn trưa vĩ đại của Dougless đe doạ đòi tuôn ra. Điều khiến cô cảm thấy tệ hơn những hình ảnh và mùi vị này là thực tế rằng hầu hết những bệnh tất này đều có thể được chữa trị bằng thuốc men thời hiện đại. Khi cô cưỡi ngựa, bám vào dây cương, cô có thể thấy rằng chỉ có vài người qua được độ tuổi 30, và một ý nghĩ chợt nảy ra với Dougless rằng nếu cô được sinh ra ở thế kỷ 16, cô sẽ chẳng thể sống nổi quá mười tuổi. Năm 10 tuổi cô bị viêm ruột thừa và đã bị yêu cầu phẫu thuật khẩn cấp. Không có phẫu thuật ở thế kỷ 16. Nhưng khi đó có thể cô còn không thể sống được sau khi sinh vì Dougless bị sinh ngược và mẹ cô thì bị xuất huyết. Khi cô nghĩ về điều này, cô nhìn những người này với con mắt mới. Những người này là những người sống sót, những người khoẻ mạnh nhất trong những người khoẻ mạnh.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

75#
 Tác giả| Đăng lúc 2-4-2012 21:57:29 | Chỉ xem của tác giả
Khi nhóm của Phu nhân Margaret cưỡi ngựa qua, dân làng ra khỏi lều của họ hay dừng làm việc trên cánh đồng để nhìn chăm chăm vào cuộc diễu hành của những người ăn mặc tuyệt đẹp trên những con ngựa bóng mượt của họ. Phu nhân Margaret và đoàn tuỳ tùng của bà vẫy vẫy tay với dân làng, và những người dân cười toe toét tới tận mang tai đáp lại. Chúng tôi là những ngôi sao nhạc rock, những ngôi sao điện ảnh và người thuộc hoàng gia, tất cả trộn chung vào làm một, Dougless nghĩ, và cô cũng vẫy tay với mọi người.

Họ cưỡi ngựa khoảng chừng hàng giờ cho tới khi mông của Dougless đau nhức và chân thì tê cứng trước khi họ dừng lại ở một khoảng rừng trống nhỏ xinh xắn, nhìn được xuống một cánh đồng đầy những chú cừu được chăn thả. Một trong những người giữ ngựa giúp Dougless xuống khỏi con ngựa của cô, và cô khập khiễng tới chỗ Honoria ngồi trên một tấm khăn trải trên nền đất ẩm ướt.

“Cô có thích cuộc dạo chơi bằng ngựa không?” Honoria hỏi.

“Nhiều như bệnh sởi và ho húng hắng vậy,” Dougless lầm bầm. “Tôi cho là Phu nhân Margaret đã khỏi cúm rồi?”

“Bà là người phụ nữ tràn trề sinh lực nhất.”

“Tôi có thể thấy điều đó.”

Họ ngồi bầu bạn trong yên lặng một lúc, Dougless nhìn khung cảnh xinh xắn và cố không nghĩ tới cuộc trạm chán của cô với Nicholas đêm hôm trước. Cô hỏi Honoria callet là gì và tìm ra nó là chỉ người đàn bà phóng đãng. Dougless cắn vào lưỡi mình trước một cơn giận mới được hình thành.

“Thế còn bạn nối khố?” cô hỏi Honoria.

“Người bạn từ sâu thẳm trong tim.”

Dougless thở dài. Vậy là Nicholas và Robert Sydney là “những người bạn từ sâu thẳm trong tim.” Không ngạc nhiêm gì Nicholas sẽ chẳng tin bất cứ điều gì xấu xa về người đàn ông đó. Một kiểu tình bạn, cô nghĩ. Nicholas lăn lộn trên bàn với vợ của Robert, và Robert lập kế hoạch khiến bạn mình bị hành hình.

“Robert Sydney là một gã pillicock,” Dougless lầm bầm.

Honoria trông như bị sốc. “Cô biết anh ta? Cô quan tâm đến anh ta?”

“Tôi không biết anh ta, và tôi chắc chắn là không quan tâm đến anh ta.”

Honoria trông bối rối đến độ Dougless hỏi pillicock nghĩa là gì. “Nó là một từ ngữ được dùng để biểu lộ sự yêu mến, nó ám chỉ một kẻ khá là lêu lổng.”

“Biểu lộ sự yêu mến? Nhưng—” cô ngắt ngang. Khi Nicholas hỏi cô quay về thế kỷ 16 để nấu ăn cho anh và cô đã thật là giận dữ, cô đã gọi anh bằng những cái tên mục nát và Nicholas đã bổ sung thêm “pillicock” vào danh sách. Anh chắc hẳn phải yêu thích việc nghe một phụ nữ giận dữ gọi anh bằng một từ ngữ chỉ sự yêu mến.

Cô mỉm cười trước ký ức đó. Anh chắc chắn thật sự là một gã pillicock.

Một trong số những người phụ nữ, người là cô hầu gái của cô hầu gái của Phu nhân Margaret, chuyền qua những chiếc bánh quy nhỏ làm từ quả hạnh nghiền.

Nhai chệu chạo, Dougless hỏi, “Người phụ nữ xinh xắn tóc đen ngồi cạnh Nicholas ở bàn ăn hôm nay là ai?”

“Phu nhân Arabella Sydney.”

Dougless bị nghẹn và ho, thổi phì phì những mảnh vụn. “Phu nhân Arabella? Cô ta ở đây đã lâu chưa? Cô ta đến khi nào? Khi nào thì cô ta rời?” Tấm bưu ảnh, Dougless nghĩ. Đó là nơi cô đã nhìn thấy người đàn bà ấy: Bức chân dung trong tấm bưu ảnh cô đã mua ở Bellwood.

Honoria mỉm cười. “Cô ấy tới tối qua và sẽ rời đi vào sáng sớm ngày mai. Cô ấy tham gia chuyến đi cùng chồng tới Pháp. Họ sẽ không quay trở lại hàng năm nữa, thế nên cô ấy tới chào từ biệt Phu nhân Margaret của tôi.”

Tâm trí Dougless chạy đua. Nếu Nicholas vẫn chưa cùng Arabella ở trên bàn và ngày mai Arabella sẽ rời đi, vậy thì chuyện đó sẽ phải là hôm nay. Cô phải dừng nó lại!

Bất thình lình, cô gập đôi người lại, tay đặt trên bụng, và bắt đầu rên riết.

“Cô bị sao thế?” Honoria hỏi, đầy quan tâm.

“Tôi ăn phải cái gì đó. Tôi phải quay trở về nhà.”

“Nhưng—” Honoria bắt đầu.

“Tôi phải.” Dougless thốt ra một vài tiếng rên rỉ nữa.

Nhanh chóng, Honoria đi tới chỗ Phu nhân Margaret và trở lại sau vài phút. “Chúng ta đã được phép rồi. tôi và một người giữ ngựa sẽ hộ tống cô.”

“Tuyệt. Đi nhanh lên.”

Honoria nhìn đầy quan tâm khi Dougless nhanh chóng tiến về phía những con ngựa. Khi người giữ ngựa giúp cô lên yên, Dougless trông chẳng ốm tí nào hết.

Dougless đáng lẽ phải quẳng chân cô qua cái yên lệch ngu ngốc, nhưng không có bàn đạp ở một bên, thế nên cô quấn chặt chân mình vào chỗ nhô ra ở phía trước, cầm lấy chiếc roi cưỡi ngựa nhỏ, và quất nó vào mông con ngựa. Cúi rạp người về phía trước, cô treo bám vào con ngựa khi nó phi như sấm sét xuống con đường bẩn thỉu đấy ổ gà.

Phía sau cô là người giữ ngựa và Honoria đang phi tới, cố hết sức có thể để theo kịp cô.

Dougless bắt con ngựa nhảy đến hai lần, một lần là qua một chiếc xe bò, một lần qua chiếc xe cút kít nhỏ bằng gỗ. Cô ghì cương sắc lẻm khi một đứa trẻ chạy ngang qua đường và xoay xở để tránh nó. Cô phi qua một bầy ngỗng làm dấy lên một tràng ồn ào huyên náo khủng khiếp.

Khi cô tới ngôi nhà, cô nhảy xuống khỏi yên ngựa, trượt chân bởi cái váy nặng nề, và ngã đập mặt xuống. Nhưng cô không phí lấy một giây khi cô nhỏm dậy và bắt đầu chạy, lao nhanh qua cánh cổng mở tung, sau đó chạy xuống bức tường gạch và lên cầu thang, băng ngang qua sân hiên và vào nhà thông qua cửa trước.

Ngay khi cô ở trong nhà, cô dừng lại và nhìn trừng trừng lên cầu thang? Ở đâu? Nicholas ở đâu? Arabella? Cái bàn?

Một giọng nói vang lên bên trái cô, và khi cô nghe thấy tiếng Kit, cô chạy tới chỗ anh ta. “Anh có biết chỗ nào có cái bàn, dài khoảng 6 feet, rộng 3 feet? Chân bàn được làm thành hình xoắn ốc.”

Kit mỉm cười trước sự khần cấp trong giọng nói của cô—và trước cái nhìn hoang dã của cô. Khuôn mặt cô nhễ nhại mồ hôi, cái mũ vải của cô nửa như rơi ra, và mái tóc màu vàng đỏ của cô xoã tung xuống vai. “Chúng tôi có rất nhiều bàn như thế.”

“Cái này rất đặc biệt.” Cô đang cố giữ bình tĩnh, nhưng cô dường như không thể làm thế. Và cô đang cố để thở, nhưng cái áo nịt ngực đang siết lấy phổi cô. “Nó ở trong phòng Nicholas hay dùng, và có một tủ áo trong phòng, một nơi rộng đủ để hai người có thể trốn được trong đó.”

“Tủ áo?” Kit nói, bối rối, và Dougless nhận ra rằng tủ áo nước Anh vào thời Elizabeth đệ nhất vẫn chưa là chỗ để treo quần áo.

Một người đàn ông lớn tuổi phía sau Kit thì thầm điều gì đó với anh, và Kit mỉm cười. “Phòng cạnh phòng ngủ của Nicholas có một cái bàn như thế. Cậu ấy thường—”

Dougless không nghe phần còn lại. Quẳng váy và váy lót qua cánh tay, cô chay lên cầu thang. Phòng ngủ của Nicholas theo chiều đi xuống cách hai phòng về bên phải và cạnh nó là một cánh cửa. Cô thử tay nắm, nhưng nó đã bị khoá. Cô chạy vào phòng anh và băng qua nó, nhưng cánh cửa nối hai phòng cũng bị khoá.

Cô đập mạnh vào cánh cửa với lòng bàn tay mở ta. “Nicholas! Nếu anh ở trong đó, để cho em vào. Nicholas! Anh có nghe thấy em không?”

Cô có thể thề cô nghe thấy tiếng động ở bên trong căn phòng. “Nicholas!” cô hét khi cô đấm sầm sầm và đá cánh cửa. “Nicholas!”

Khi anh mở cửa, anh có một con dao găm trông đầy chết chóc ở trong tay. “Mẹ ta vẫn khoẻ chứ?” anh hỏi.

Dougless đẩy anh để băng qua. Ở đó, dựa vào tường là chiếc bàn cô đã nhìn thấy ở thư viện của Harewood. Nó mới hơn bốn trăm năm, nhưng nó vẫn là cái bàn ấy. Và ngồi trên ghế, cố gắng để trông vô tội là Phu nhân Arabella.

“Ta sẽ có—” Nicholas bắt đầu.

Nhưng Dougless cắt ngang anh khi cô giật mở tung cánh cửa nhỏ bên trái cửa sổ. Ở đó, co cụm dựa vào cái giá sách, là hai người hầu. “Đây là lý do tại sao tôi muốn anh mở cửa,” cô nói với Nicholas. “Hai gã do thám này sẽ nhìn thấy hết mọi thứ hai người sắp sửa làm.”

Nicholas và Arabella thở hắt ra với cô, không nói nên lời.

Dougless nhìn vào hai người hầu. “Nếu một từ về chuyện này lọt ra ngoài, chúng ta sẽ biết ai là người kể. Các người có hiểu tôi không?”

Mặc kệ kiểu nói năng lạ lùng của Dougless, họ thật sự là có hiểu cô. “Giờ thì ra khỏi đây,” cô nói.

Nhanh như chuột nhắt, họ lon ton chạy ra khỏi phòng.

“Ngươi—” Nicholas bắt đầu.

Lờ tịt anh đi, Dougless quay sang Arabella. “Tôi đã cứu mạng cô, vì chồng cô sẽ nghe được về chuyện này và thậm chí anh ta sẽ—” Dougless hít một hơi thật sâu. “Tôi nghĩ cô tốt nhất nên đi đi.”

Arabella, không quen bị nói chuyện kiểu như thế, bắt đầu phản đối, nhưng sau đó cô ta nghĩ tới tính khí của chồng mình. Cô ta nhanh chóng rời khỏi căn phòng.

Khi Dougless quay sang Nicholas, cô thấy cơn thịnh nộ trên khuôn mặt anh—điều mà chẳng có gì mới mẻ hết, vì anh hiếm khi nhìn cô theo cách khác kể từ khi cô tới đây. Cô tặng cho anh một cái trừng mắt dữ dội, sau đó bắt đầu rời đi.

Cô không ra được tới cửa vì Nicholas đã đóng sầm nó vào mặt cô.

“Ngươi do thám ta?” anh hỏi. “Ngươi thích thú nhìn những gì ta làm với những người đàn bà khác?”

Đếm đến 10, Dougless nghĩ, hay tốt hơn là 20. Cô hít vào một hơi thật sâu. “Tôi không thích thú gì việc nhìn anh tự biến mình thành kẻ ngốc với đàn bà,” cô nói một cách bình tĩnh. “Tôi đã nói tại sao tôi ở đây. Tôi biết anh sắp… sắp có Arabella trên bàn vì anh đã làm thế. Những người hầu kể cho tất cả mọi người, John Wilfred viết lại câu chuyện, Arabella mang thai con anh, và Robert Sydney giết cô ấy. Giờ thì tôi đi được chưa?”

Cô theo dõi những cảm xúc chạy ngang qua khuôn mặt của Nicholas, giận dữ, hỗn độn, và Dougless cảm thấy thương cảm cho anh. “Em biết những gì em nói thật không thể nào tin được. Khi anh tới với em, em cũng không tin anh, nhưng Nicholas, em đến từ tương lai và em được gửi ngược lại thời đại này để ngăn cản sự huỷ hoại trong toàn bộ gia đình anh. Lettice—”

Cái nhìn của anh cắt ngang cô. “Ngươi bôi nhọ một người phụ nữ vô tội? Hay là ngươi ghen tuông với tất cả đàn bà ta chạm vào?”

Lời thề Dougless kiểm soát những cảm xúc của cô bay ra ngoài cửa sổ. “Anh, đồ con công phù phiếm! Tôi không thể ít quan tâm hơn tới chuyện anh ngủ với bao nhiêu đàn bà. Nó chẳng là gì với tôi hết. Anh không phải là người đàn ông tôi đã một lần biết. Thật sự là anh chỉ đàn ông bằng một nửa anh trai anh. Tôi được gửi ngược lại thời đại này để sửa sai thành đúng, và tôi sẽ làm tốt nhất tôi có thể, dù anh có phá ngang tôi như thế nào đi chăng nữa. Có lẽ nếu tôi ngăn cản được cái chết của Kit, điều đó sẽ cứu những sự sản của dòng họ Stafford, sau đó không một ai sẽ phải cố thay đổi anh khỏi trở thành một thần dê dâm đãng. Giờ thì để tôi ra khỏi đây.”

Nicholas không dịch chuyển khỏi phía trước cánh cửa. “Ngươi nói đến cái chết của anh trai ta. Nếu ngươi có ý phù phép—”

Dougless giơ tay lên trời và quay đi. “Tôi không phải là phù thuỷ. Anh không hiểu được điều đó à? Tôi chỉ là một người bình thường, không có gì đặc biệt, người bị mắc kẹt trong một tình huống vô cùng kỳ lạ.” cô quay lưng lại với anh. “Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra khi Kit chết. Anh nói anh đang luyện kiếm và anh cắt phải cánh tay mình, thế nên anh không thể cưỡi ngựa với anh ấy được. Anh ấy thấy một cô gái nào đó ở hồ nước và đuổi theo cô ta. Anh ấy bị chết đuối. Đấy là tất cả những gì tôi biết.” Ngoại trừ rằng Lettice có thể phải chịu trách nhiệm, Dougless nghĩ, nhưng cô không thêm điều đó vào.

Anh đang nhìn trừng trừng vào cô, ánh mắt anh đầy thù địch.

Giọng cô dịu dàng. “Khi anh đến với em, em cũng không tin anh,” cô lặp lại. “Anh kể cho em vài thứ không có trong những cuốn sách lịch sử, nhưng em vẫn không tin anh. Cuối cùng anh đưa em tới Bellwood và chỉ cho em cánh cửa bí mật chứa một hộp nhỏ bằng ngà. Không một ai, trong từng ấy năm của bao nhiêu đời chủ nhân khác nhau của toà lâu đài tìm thấy cánh cửa. Anh nói Kit đã chỉ cho anh cánh cửa một tuần trước khi anh ấy chết.” Cô không muốn nghĩ Kit sẽ chết.

Nicholas thở hắt ra với cô. Cô ta là phù thuỷ, vì chỉ mới gần đây thôi, Kit nhắc đến một cánh cửa bí mật ở Bellwood, cánh cửa mà anh ấy vẫn chưa chỉ cho em trai mình. Cô ta đã làm gì với Kit để thuyết phục anh ấy kể cho cô ta về cánh cửa mà theo luật chỉ được biết bởi những thành viên trong gia đình thôi?

Sự thật thì cô ta đaag làm gì trong gia đình và toàn bộ gia nhân của anh? Hôm qua anh đã nghe một người đàn ông làm việc ở chuồng ngựa hát một bài ca gì đó đầy ngớ ngẩn gọi là “Zip-A-Dee-Doo-Dah.” Ba trong số những người phụ nữ của mẹ anh giờ cũng dùng sơn trên mí mắt của họ điều mà họ nói rằng đến từ “Tiểu thư” Dougless. Mẹ anh—người mẹ thông thái, điềm đạm, ôn hoà của anh—nhận lấy thuốc từ tay cô ta với sự tin tưởng của một đứa trẻ nhỏ. Và Kit nhìn cô nàng tóc đỏ đó với cảm xúc mãnh liệt của con chim nhìn con mồi của mình.

Trong có vài ngày cô ta ở trong nhà của dòng họ Stafford, cô ta đã đảo lộn mọi thứ. Những bài hát, những điệu nhảy đầy táo bạo, những câu chuyện cô ta kể (gần đây người trong lâu đài bắt đầu nói chuyện về những người nào đó có tên là Scarlett và Rhett), thậm chí cách cô ta vẽ mặt cũng ảnh hưởng tới tất cả mọi người. Cô ta là một ả phù thuỷ, và cô ta đang dần dần đắt mũi tất cả mọi người dưới câu thần chú của cô ta.

Nicholas là người duy nhất toan thử để kháng cự lại cô ta. Khi anh cố gắng nói với Kit về quyền lực mà người đàn bà đó đang thu thập được, Kit đã cười phá lên. “Một vài câu chuyện và bài hát thì có hậu quả gì mới được cơ chứ?” Kit đã nói.

Nicholas không biết ả đàn bà đó muốn gì, nhưng anh không có ý dễ dàng rơi vào câu thần chú của cô ta những những người khác. Anh sẽ kháng cự lại cô ta, dù nó có khó khăn tới nhường nào đi chăng nữa.

Giờ thì, nhìn trân trân vào cô ta, anh biết rằng kháng cự lại cô ta sẽ chẳng bao giờ là dễ dàng hết. Mái tóc màu đỏ vàng của cô ta xoã xuống vai, và cô ta cầm chiếc mũ vải gắn những hạt ngọc trai nhỏ ở trong tay. Anh chưa bao giờ nhìn thấy người phụ nữ nào đẹp như cô ta hết. Lettice, có lẽ, có những đường nét hoàn hảo hơn, nhưng người phụ nữ này, cô nàng Dougless, kẻ chọc giận anh, có cái gì đó còn hơn thế, cái gì đó anh không thể gọi tên.

Từ khoảnh khắc đầu tiên anh nhìn thấy cô ta, nó đã như thể cô ta có bí mật nào đó để giữ lấy anh. Anh thích được kiểm soát với phụ nữ, thích hôn bọn họ và cảm thấy bọn họ tan chảy vào anh. Anh thích sự thách thức của việc chiến thắng một người phụ nữ khó khăn, và anh thích cái cảm giác quyền lực nó cho anh khi anh bước đi khỏi cô ta.

Nhưng từ lần đầu tiên người phụ nữ này đã hoàn toàn khác. Anh theo dõi cô ta còn nhiều hơn cô ta theo dõi anh. Anh nhận thức được mỗi lần cô ta nhìn Kit, mỗi cái nhìn cô ta tặng cho một người hầu đẹp trai nào đó, mỗi lần cô ta mỉm cười hay cười phá lên. Đêm qua trong phòng anh sự nhận thức được cô ta đã trở thanh một cơn đau, và sự nhận thức này khiến anh giận dữ đến độ anh khó có thể nói hay nghĩ mạch lạc được. Tác động của cô ta đến anh khiến anh nổi giận. Sau khi cô ta rời đi, anh đã không ngủ vì anh biết cô ta đang khóc. Nước mắt của đàn bà chưa bao giờ khiến anh bận lòng trước đây. Đàn bà luôn khóc lóc. Họ khóc lóc khi bạn rời bỏ họ, khi bạn không làm điều mà họ muốn, khi bạn nói với họ rằng bạn không yêu họ. Anh thích đàn bà như Arabella và Lettice, những người không bao giờ khóc vì bất cứ lý do nào hết.

Nhưng đêm qua người phụ nữ này đã dành cả đêm để khóc, và thậm chí ngay cả anh không thể nghe cũng như nhìn thấy cô ta, anh có thể cảm thấy những giọt nước mắt của cô ta. Ba lần, anh gần như đến với cô ta nhưng anh xoay xở để kéo căng bản thân mình lại. Anh không định để cho cô ta biết cô ta có được quyền lực chùm lên anh.

Còn về câu chuyện quá khứ và tương lai của cô ta, anh không quan tâm gì nhiều đến nó. Nhưng có cái gì đó về cô ta rất lạ. Anh không tin dù chỉ một giây phút nào cô ta là công chúa của Lanconian—cũng như anh không tin mẹ anh tin cô ta, nhưng Phu nhân Margaret thích những bài hát kỳ lạ và người phụ nữ này có cách nói chuyện thật lạ kỳ. Mẹ anh thích cái cách người phụ nữ này hành động như thể mọi thứ đều mới mẻ đối với cô ta, từ thức ăn đến áo quần đến những người hầu.

“…anh sẽ nói cho tôi, đúng không?”

Nicholas nhìn trừng trừng vào cô ta, anh không có bất cứ ý tưởng nào về những gì cô ta đang nói. Nhưng bất thình lình một đợt sóng khát khao cô ta ngập đầy mạch máu anh đến nỗi anh phải lùi lại dựa vào cánh cửa. “Ngươi sẽ không bỏ bùa ta như ngươi đã làm với gia đình ta,” anh nói cứ như thể anh có ý thuyết phục bản thân mình.

Dougless nhìn thấy khát khao trong đôi mắt anh, nhìn thấy cái cách mí mắt anh hạ thấp xuống. Bất chấp bản thân mình, tim cô bắt đầu đập mạnh. Mày chạm vào anh ấy và mày sẽ quay trở lại, cô tự nhủ với bản thân, nhưng mày không thể rời đi cho tới khi Kit an toàn và sự bội bạc của Lettice được phơi bày.

“Nicholas, em không có ý bỏ bùa anh, và em không làm gì với gia đình anh mà em không cần phải làm để sống sót.” Cô vươn tay ra để chạm vào anh. “Nếu anh chỉ cần nghe em thôi…”

“Nghe ngươi nói về quá khứ và tương lai?” anh nói với một nụ cười kinh bỉ. Anh cúi mặt xuống gần với cô. “Chú ý những gì ngươi làm, đàn bà, vì ta sẽ theo dõi ngươi. Khi những lời nói đến rằng ngươi không có người bác nào là vua hết, tự bản thân ta sẽ quẳng ngươi ra khỏi gia đình ta. Giờ thì ngươi tránh khỏi ta, và đứng có do thám ta nữa đấy.” Quay người, anh sầm sập ra khỏi phòng, bỏ lại Dougless một mình và cảm thấy không nơi nương tựa.

Cô nhìn qua căn phòng ngủ tới tấm lưng đang rút lui của anh. “Làm ơn, thưa Chúa,” cô cầu nguyện, “chỉ cho con làm cách nào để giúp Nicholas. Để con làm được điều con đã thất bại lần đầu tiên. Làm ơn chỉ cho con cách.”

Cảm thấy già nua hơn khi cô bước vào, cô rời khỏi căn phòng.

(Hết chương 23)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

76#
 Tác giả| Đăng lúc 4-4-2012 20:29:23 | Chỉ xem của tác giả
Chương 24



Vào buổi sáng, Dougless thấy Arabella ngay khi cô ta bước lên bục để leo lên con ngựa đen tuyệt đẹp của mình. Gần cô ta là một người đàn ông Dougless cho là chồng cô ta, Robert Sydney. Dougless muốn thấy anh ta, muốn thấy mặt của kẻ Nicholas coi là bạn anh, nhưng đã gửi người bạn của mình tới bục hành hình.

Sydney quay người, và Dougless hít một hơi thật sâu. Robert Sydney trông rất, rất giống Bác sĩ Robert Whitley, người đàn ông cô đã một lần hi vọng kết hôn cùng.

Dougless quay đi, tay cô run rẩy. Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, cô tự nhủ với bản thân. Không có gì hơn là trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng chiều muộn ngày hôm đó, cô nhớ lại cái cách, ở thế kỷ 20, Nicholas, khi anh lần đầu tiên nhìn thấy Robert, đã trông như thể anh nhìn thấy ma vậy. Và Robert đã nhìn Nicholas với tất cả sự ghét bỏ trong mắt anh ta.

Trùng hợp ngẫu nhiên, cô tự nhủ với bản thân lần nữa. Không có gì hơn.

Trong suốt hai ngày tiếp theo Dougless hiếm khi nhìn thấy Nicholas. Khi cô có thấy anh, anh đang quắc mắt nhìn cô từ ngưỡng cửa hay cau mày với cô ở phía bàn đối diện. Dougless bị giữ hết sức bận rộn bởi toàn bộ gia đình vì họ đã trở nên coi cô như TV, rạp chiếu phim, lễ hội, buổi hoà nhạc tất cả trộn vào làm một. Họ muốn những trò chơi, những bài hát, những câu truyện; những yêu cầu của họ về giải trí không thể thoả mãn được. Dougless không thể đi bộ trong vườn hay trong nhà mà không bị ai đó dừng cô lại và hỏi xin thêm một chút trò giải trí nữa. Cô bị giữ bận rộn hàng giờ dài dằng dặc để nhớ lại mọi thứ cô đã từng đọc hay nghe. Với sự giúp đỡ của Honoria, cô sáng chế ra một dạng bản thô của trò Cờ tỷ phú (Monopoly). Họ chơi vẽ hình đoán chữ (Pictionary) với những tấm thẻ bằng đá. Khi cô hết những tiểu thuyết hư cấu cô đã đọc, cô bắt đầu kể cho họ những câu truyện lịch sử về nước Mỹ—Phu nhân Margaret đặc biệt yêu thích chúng. Nathan Hale trở thành vị anh hùng được yêu thích của toàn bộ gia đình, và Phu nhân Margaret giữ Dougless thức đến nửa đêm một buổi tối để hỏi về Abraham Lincoln.

(Nathan Hale: một quân nhân thuộc Lục quân trong cuộc cách mạnh Hoa Kỳ. Ông được coi là điệp viên đầu tiên của Mỹ, được nhớ đến nhiều nhất bởi câu nói trước khi ông bị treo cổ sau trận Long Island: “Tôi chỉ hối tiếc có một điều là tôi chỉ có một cuộc đời để cống hiến cho đất nước tôi.” Abraham Lincoln: vị tổng thống thứ 16 của Mỹ)

Dougless cố hết sức có thể để ở nguyên trong lĩnh vực giải trí và không nói về tôn giáo hay chính trị. Sau cùng thì chỉ vài năm trước, Nữ hoàng Mary đã thiêu những kẻ theo tôn giáo đối lập. Kit đã hai lần hỏi cô về nông nghiệp ở đất nước cô, và mặc dù chỉ biết rất ít, cô vẫn có khả năng đưa ra một vài gợi ý về bón phân và nó có thể được sử dụng cho cây trồng như thế nào.

Dougless biết rằng những quý cô phục vụ Phu nhân Margaret thất kinh trước tình trạng giáo dục thảm thương của Dougless, trước tình trạng cô chỉ nói được có mỗi một thứ tiếng và việc cô không có khả năng chơi bất cứ loại nhạc cụ nào. Và họ không thể đọc được chữ viết tay của cô. Nhưng vì hầu hết mọi phần họ tha thứ cho cô.

Trong khi Dougless dạy thì cô cũng học nữa. Những người phụ nữ này không phải chịu áp lực phải trở thành mọi thứ cho mọi người như những người phụ nữ thế kỷ 20 phải chịu. Phụ nữ thế kỷ 16 không bị cho là một đoàn thể hành chính, một bà mẹ tha thiết, một bà chủ nhà và một đầu bếp sành ăn, cũng như một người tình sáng tạo với thân hình của một vận động viên. Nếu người phụ nữ đó giàu có, cô ta sẽ may vá, trông coi các công việc gia đình và tận hưởng bản thân mình. Tất nhiên cô ta không được trông mong sống quá tuổi 40, nhưng ít nhất trong suốt những năm có mặt trên trái đất của mình, cô ta không bị những áp lực liên miên của xã hội là phải làm nữa và trở thành nữa.

Khi những ngày ở thế kỷ 16 tại Anh quốc chồng chất lại, Dougless nhớ tới thời gian cô sống với Robert. Chuông đồng hồ đổ lúc 6 giờ sáng, và cô bổ nhào xuống sàn nhà. Cô phải cuống cuồng để hoàn thành những công việc thường ngày. Có những bữa ăn phải chuẩn bị, hàng tạp phẩm cần phải mua, một ngôi nhà để chỉnh chu lại cho ngay ngắn (Robert có một người phụ nữ dọn nhà một tuần một lần), và một cái bếp phải dọn sạch lần nữa, lần nữa và lần nữa. Và trong thời gian rảnh rỗi của mình cô có một công việc toàn thời gian để làm. Đôi lúc cô ước cô có thể ở trên giường trong ba ngày và đọc những về những vụ giết người bí ẩn, nhưng luôn có quá nhiều thứ để làm để không bị coi là lười nhác.

Bên cạnh đó, còn có cảm giác tội lỗi nữa. Nếu cô nghỉ ngơi, cô cảm thấy cô “nên” tới phòng tập để giữ cho đùi cô không bị vòng kiềng, hay cô “nên” lên kế hoạch một vài bữa tiệc tối tuyệt hảo cho bạn đồng nghiệp của Robert. Cô cảm thấy tội lỗi khi, kiệt sức, cô phục vụ pizza từ tủ lạnh cho bữa tối.

Nhưng bây giờ, ở đây trong thế kỷ 16 này, những áp lực của một ngày thời hiện đại dường như thật xa xôi. Mọi người không sống một mình và cách biệt. Ở đây không có một ngôi nhà chỉ với một người phụ nữ làm tới hai mươi công việc; đây là một ngôi nhà với một trăm bốn mươi hay chừng đó người để làm có lẽ là một vài công việc. Một người phụ nữ cô độc, mệt mỏi không phải nấu nướng, dọn dẹp, lau chùi, và vân vân, cộng them một công việc bên ngoài. Ở đây một người chỉ có một công việc.

Phụ nữ thời hiện đại có những cảm giác tội lỗi của riêng mình để khiến họ sầu khổ, nhưng những người ở thế kỷ 16 có những bệnh dịch, nỗi sợ hãi những thứ không biết, sự dốt nát về y học, và nhũng cái chết liên miên và luôn luôn thường trực ám ảnh họ. Người ở thế kỷ 16 thường xuyên chết, và cái chết luôn luôn ở cạnh những người thời Elizabeth đệ nhất. Đã có bốn cái chết trong toàn thể gia đình kể từ khi Dougless tới, và tất cả họ đều có thể tránh được với những phòng cấp cứu được trang bị đầy đủ. Một người đàn ông chết vì một chiếc xe ngựa đổ vào ông ta. Chảy máu trong. Khi Dougless nhìn thấy ông ta, cô sẽ cho đi bất cứ cái gì để trở thành bác sĩ và có khả năng cầm máu. Mọi người chết vì viêm phổi, cảm cúm, hay vì một vết bỏng dẫn đến nhiễm trùng. Dougless phân phát những viên aspirin, chấm nhẹ những vết thương với thuốc mỡ Neosporin, phân phối những thìa đầy Pepto-Bismol (một loại thuốc trị đau dạ dày) Cô chỉ có thể giúp mọi người một cách nhất thời, nhưng cô không thể làm gì với những chiếc răng sâu, với việc bị đứt dây chằng khiến con người bị què suốt đời, hoặc ruột thừa khi bị viêm và giết chết những đứa trẻ.

Cô cũng không thể làm gì về tình trạng nghèo đói. Một lần cô cố gắng nói chuyện với Honoria về sự khác biệt mênh mông giữa cách gia đình Stafford sống và cách dân làng sống. Đó là khi Dougless học về những luật lệ hạn chế chi tiêu. Ở nước Mỹ mọi người giả vờ là bình đẳng, nói rằng một người đàn ông sở hữu hàng triệu đô la cũng không tốt đẹp gì hơn một anh chàng nào đó đổ mồ hôi ra để kiếm sống. Nhưng không ai tin điều đó hết. Những tội phạm giàu có thoát ra với bản án nhẹ nhàng, những người nghèo khổ nhận được những bản án với mức khung cao nhất.

Ở thế kỷ 16 Dougless nhận thấy rằng ý tưởng về bình đẳng là một kháỉ niệm để hứng những tràng cười. Con người không bình đẳng, và theo luật pháp họ thậm chí còn không được phép ăn mặc bình đẳng. Không thể tin được, Dougless đã nhờ Honoria giải thích về những điều luật hạn chế chi tiêu này. Bá tước có thể mặc lông chồn zibeline, nhưng nam tước thì chỉ có thể mặc lông cáo bắc cực thôi. Nếu một người đàn ông có thu nhập 100 bảng một năm hoặc ít hơn, anh ta có thể dùng nhung may áo chẽn nhưng không được phép may áo choàng. Nếu anh ta chỉ làm ra 20 bảng một năm, anh ta chỉ có thể mặc áo chẽn bằng sa tanh hay gấm Đa-mát và áo choàng bằng lụa. Một người đàn ông làm ra 10 bảng một năm hay ít hơn không được phép mặc áo quần tốn quá 2 shilling một thước Anh (= 0.914m) Người hầu không được mặc áo choàng dài xuống quá bắp chân, và người học việc chỉ được phép mặc màu xanh da trời (đây là lý do tại sao tầng lớp thượng lưu hiếm khi mặc màu này).

Những quy định cứ tiếp diễn và tiếp diễn. Chúng bao phủ bởi thu nhập, loại lông thú, màu sắc, chất vải, kiểu. Dougless được phép mặc bất cứ thứ gì một nữ bá tước mặc vì cô là một trong những quý cô theo hầu Phu nhân Margaret. Cười phá lên trước tất cả những điều đó, Honoria nói rằng một người mặc những gì anh ta có thể chi trả được, nhưng nếu một người bị phát hiện ra, anh ta sẽ phải nộp phạt và kho bạc thành phố; sau đó anh ta quay trở lại mặc bất cứ thứ gì anh ta muốn.

Trong thể kỷ 20 Dougless chưa bao giờ quan tâm quá nhiều về áo quần. cô thích chúng dài và thoải mái, nhưng nếu hơn thế cô ít chú ý về chúng. Nhưng những bộ váy áo thời Elizabeth đệ nhất tuyệt đẹp này lại là một vấn đề khác! Chỉ trong vài ngày cô ở thế kỷ 16, cô đã nhận ra rằng mọi người bị ám ảnh bởi quần áo. Những quý cô theo hầu Phu nhân Margaret dành hàng giờ để bàn bạc về váy áo.

Một hôm có một thương nhân tới từ Ý, và ông ta và hai chiếc xe ngựa chở đầy vải vóc của mình đã được chào đón tại Phòng diện kiến (Presence Chamber) như thể ông ta đã khám phá ra thuốc trị những vết đốt của bọ chét vậy. Dougless đã nhận thấy bản thân cô tham gia đầy điên cuồng vào việc kéo ra những súc vải bó chặt và giơ chúng lên cho bản thân cô hay những người phụ nữ khác.

Cả Nicholas và Kit đều tham gia cùng họ. Như hầu hết đàn ông, họ thích được bao quanh bởi những người phụ nữ xinh đẹp, hào hứng, vui vẻ. Trước sự ngượng ngùng của Dougless, nhưng cũng với sự vui sướng của cô nữa, Kit đã chọn vải cho hai chiếc áo choàng cho cô, nói rằng đã đến lúc cô mặc quần áo của chính mình rồi.

Đêm đó ở trên giường, Dougless đã nằm thức một lúc và nghĩ thật khác biệt biết bao, nhưng cũng thật giống biết bao những người thời Elizabeth đệ nhất này với những người ở thời đại của cô. Từ việc đọc những cuốn tiểu thuyết có bối cảnh là thời Elizabeth đệ nhất, Dougless đã nghĩ mọi người chẳng làm gì ngoại trừ thảo luận chính trị. Thậm chí với TV, đài và những tờ báo, tạp chí ra hàng tuần, người Mỹ cũng không nhận được thông tin đầy đủ bằng một tay chơi trong những cuốn tiểu thuyết thời trung cổ dường như nhận được. Nhưng Dougless nhận ra những người này, như những người Mỹ bình thường, tập trung vào quần áo, buôn chuyện, và việc điều hành trơn chu một hộ gia đình khổng lồ và phức tạp hơn là nữ hoàng đang làm gì.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

77#
 Tác giả| Đăng lúc 4-4-2012 20:31:19 | Chỉ xem của tác giả
Cuối cùng, Dougless quyết định làm những gì cô có thể giúp, nhưng cô không tin công việc của cô sẽ thay đổi cuộc sống ở thế kỷ 16. Cô đã được gửi quay trở lại quá khứ để cứu Nicholas, và đó là kế hoạch cô tập trung vào. Cô là một người quan sát, không phải là một người truyền giáo.

Tuy nhiên, có một khía cạnh trong cuộc sống thời trung cổ mà Dougless không thể nào chịu đựng được, và đó là việc lười tắm rửa. Người ở đây rửa mặt, tay và chân, nhưng tắm toàn diện là một sự kiện hiếm có. Honoria cứ tiếp tục cảnh báo Dougless về việc tắm táp “thường xuyên” của cô (ba lần một tuần), và Dougless ghét một việc rằng người làm phải lôi bằng dây goòng bồn tắm vào phòng ngủ, sau đó kéo lê những thùng nước nóng. Sự thử thách của việc chuẩn bị cho việc tắm táp khổng lồ đến nỗi sau khi Dougless tắm, hai người nữa sẽ sử dụng bồn nước. Một lần Dougless là người tắm thứ ba và cô nhìn thấy những con giận nổi trên mặt nước.

Tắm táp đang gần trở thành nỗi ám ảnh của cô cho đến khi Honoria chỉ cho cô vòi phun nước ở khu vườn mê lộ. “Mê lộ” là hàng rào được trồng cây theo những thiết kế phức tạp, với những bông hoa rực rỡ trong những đường nhánh. Ở trung tâm của bốn mê lộ là một vòi phun đá cao chảy xuống một hồ bơi nhỏ. Khi Honoria ra hiệu cho một đứa bé đang làm cỏ trong vườn, nó chạy ra khuất sau bức tường; rồi trước sự thích thú của Dougless, nước chảy ra từ đỉnh của vòi phun và chảy xuống cái hồ. Đứa trẻ đã được ra lệnh quay bánh xe.

“Thật tuyệt vời.” Dougless đã nói. “Thật giống thác nước, hay một...” Mắt cô bắt đầu loé lên một tia hi vọng. “Hay giống một vòi hoa sen.” Trong khoảnh khắc đó một kế hoạch đã bắt đầu hình thành trong tâm trí cô. Cô nói chuyện riêng với đứa bé, người đã quay bánh xe và sắp xếp để trả cho nó một xu nếu nó gặp cô vào 4 giờ sáng hôm sau.

Thế nên, vào 4 giờ sáng ngày kế tiếp, Dougless rón rén ra khỏi phòng của Honoria, xuống cầu thang, và ra ngoài khu vườn mê lộ. Cô mang theo dầu gội và dầu xả, một cái khăn tắm và khăn rửa mặt. Đứa bé, mắt ngái ngủ nhưng mỉm cười, nhận lấy một xu (thứ mà Honoria đã đưa cho Dougless) và đi quay bánh xe. Dougless ngập ngừng trong một khoảnh khắc, cân nhắc xem liệu có cởi hết quần áo ra hay không, nhưng trời vẫn khá tối và phải mốt một lúc nữa trước khi phần còn lại của ngôi nhà thức giấc. Thế nên, cô trượt ra khỏi cái áo choàng đi mượn, chiếc áo sơ mi vải lanh dài và bước, trần truồng, vào phía dưới vòi phun.

Chưa bao giờ có một ai trong lịch sử lại thích thú với vòi hoa sen nhiều hơn thế! Dougless cảm thấy như thể ghét bẩn của cả một năm, chất nhờn và mồ hôi được gột sạch khỏi cô. Cô chưa bao giờ cảm thấy sạch sẽ khi sử dụng bồn tắm, và sau một tuần không tắm rửa, cô cảm thấy đầy bụi bẩn. Cô bôi dầu gội đầu ba lần, sau đó dùng dầu sả, cạo lông chân và dưới cánh tay, sau đó sả sạch. Thiên đường. Thiên đường tuyệt đối hoàn hảo.

Sau một lúc lâu cô bước ra khỏi vòi phun, huýt sáo cho cậu bé dừng quay bánh xe, sau đó lau khô và mặc áo choàng của cô vào.

Cô đang mỉm cười hết cỡ khi cô bắt đầu đi xuống trở lại con đường mòn quay về ngôi nhà. Có lẽ cô đang cười teo toét quá rộng để có thể nhìn ngó cho cẩn thận, hoặc có lẽ là trời vẫn còn quá tối để nhìn cho rõ, vì cô đâm sầm vào ai đó.

“Gloria!” cô nói khi cô nhận ra đó là nữ thừa kế người Pháp. “Ý cô là,” cô nói, lắp lắp, “Cô đoán cháu không phải là Gloria, đúng không? Mụ sư tử cái đó đâu rồi?” Dougless thở hắt ra trước những gì cô vừa nói. Cô hiếm khi nhìn thấy cô gái này, nhưng khi cô nhìn thấy, cô bé luôn bị hộ tống bởi một người giám hộ kiêm vú em cao kều, hống hách. “Cô không có ý—” Dougless bắt đầu xin lỗi.

Cô nàng nữ thừa kế không trả lời nhưng lướt ngang qua Dougless với mũi hếch lên trời. “Tôi đã đến tuổi tự chăm lo cho mình được rồi. Tôi không cần vú em nào hết.”

Dougless mỉm cười với cái lưng của cô gái mũm mĩm. Cô bé nghe giống hệt như Dougless hồi học lớp 5. Cả hai đều nghĩ mình đã đủ lớn để tự chăm lo được cho bản thân mình rồi. “Lẻn ra ngoài, phải không?” Dougless nói, mỉm cười.

Cô bé quay ngoắt lại và quắc mắt lườm Dougless, sau đó khuôn mặt cô bé dịu đi. “Bà ấy ngáy,” cô bé nói với một chút nụ cười; sau đó cô bé nhìn lại vòi phun nước. “Chị làm gì ở đây?”

Khi Dougless nhìn chiếc vòi phun, đầy khinh hãi, cô thấy cái hồ bơi nhỏ đầy bong bóng xà phòng. Với Dougless, những cái bong bóng là ô nhiễm, nhưng cô nàng nữ thừa kế dường như nghĩ rằng chúng thật tuyệt vời. Cô gái vốc một vốc tay đầy bọt xà phòng.

“Chị đi tắm,” Dougless nói. “Muốn tắm không?”

Cô gái khẽ nhún vai. “Không, sức khoẻ của tôi khá là mỏng mảnh.”

“Tắm táp thì không hại gì—” Dougless bắt đầu nhưng khự lại. Không làm công cuộc truyền giáo, nhớ chưa? Cô tự nhắc nhở bản thân. Chuyển đến đứng cạnh cô gái, Dougless nhìn đến cô bé trong ánh sáng buổi sớm. “Ai nói là em mỏng mảnh?”

“Phu nhân Hallet.” Cô bé nhìn Dougless. “Mụ sư tử cái của tôi.” Có hai lúm đồng tiền nhỏ xíu trên má cô bé.

Dougless cân nhắc những gì cô chuẩn bị nói, và cô biết cô đang có được một cơ hội, nhưng đứa trẻ trông như thể cô bé cần một người bạn. “Phu nhân Hallet nói em mỏng manh để bà ấy có thể bảo em ăn gì, nơi nào em có thể đến còn nơi nào thì không, và ai có thể là bạn em, ai thì không. Thực tế là bà ấy đã giữ em dưới ngón trỏ của bà ấy nhiều đến nỗi em phải lẻn ra ngoài trước lúc bình minh chỉ để ngắm khu vườn. Như thế có ổn không?”

Trong một khoảnh khắc, miệng cô gái rơi ra, nhưng sau đó cô bé cứng người lại và tặng cho Dougless một cái liếc kiêu kỳ. “Phu nhân Hallet bảo vệ tôi khỏi tầng lớp thấp hơn.” Cô bé nhìn từ đầu đến chân Dougless.

“Như là tôi hả?” Dougless hỏi, nén lại một nụ cười.

“Chị không phải là một công chúa gì hết. Phu nhân Hallet nói một công chúa không tự mình biểu diễn như chị làm. Bà ấy nói chị không có giáo dục. Chị thậm chí còn không nói tiếng Pháp.”

“Đó là những gì Phu nhân Hallet nói. Nhưng em nghĩ gì về chị?”

“Rằng chị không phải là một công chúa hay là chị không—”

“Không.” Dougless chen ngang. “Không phải những gì Phu nhân Hallet nói mà là em nghĩ gì?”

Cô gái há hốc mồm ra trước Dougless, rõ ràng là không biết phải nói gì.

Dougless mỉm cười với cô bé. “Em có thích Kit không?”

Cô gái nhìn xuống tay mình, và Dougless nghĩ khuôn mặt của cô bé đã chuyển sang màu đỏ. “Tệ đến thế hả?”

“Anh ấy không chú ý đến tôi,” côgái thì thầm, có nước trong giọng nói của cô bé. Khi đầu cô bé ngẩng lên và cô bé quắc mắt đầy ghét bỏ với Dougless, tại khoảnh khắc đấy cô bé trông giống Gloria nhiều đến kỳ quái. “Anh ấy nhìn chị.”

“Chị?” Dougless há hốc miệng vì kinh ngạc. “Kit không thích thú gì chị.”

“Tất cả đàn ông đều thích chị. Phu nhân Hallet nói chị sắp sửa trở thành một… một…”

Dougless nhăn mặt. “Đừng có nói cho chị. Chị đã bị gọi như thế rồi. Nghe này… tên em là gì?”

“Tiểu thư Allegra Lucinda Nicolletta de Couret,” cô bé nói đầy kiêu hãnh.

“Nhưng bạn bè gọi em là gì?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

78#
 Tác giả| Đăng lúc 4-4-2012 20:33:15 | Chỉ xem của tác giả
Cô gái nhìn bối rối trong một khoảnh khắc, sau đó mỉm cười. “Người vú nuôi đầu tiên gọi tôi là Lucy.”

“Lucy,” Dougless nói, mỉm cười, nhưng sau đó cô nhìn lên bầu trời đang sáng dần. “Chị đoán là chúng ta tốt hơn hết nên quay lại. Mọi người sẽ tìm kiếm… chúng ta mất.”

Lucy trông có vẻ giật mình, sau đó túm lấy chiếc váy nặng trịch, đắt tiền của cô bé và bắt đầu chạy. Cô bé rõ ràng là kinh hãi trước viễn cảnh bị tìm kiếm vì mất tích.

“Sáng mai nhé,” Dougless gọi với theo cô bé. “Cùng thời gian.” Cô không chắc Lucy có nghe thấy hay không.

Dougless trở lại ngôi nhà, lờ tịt đi cái nhìn của người làm trước mái tóc ướt đẫm và chiếc áo choàng của cô. Khi cô mở cánh cửa phòng ngủ của Honoria, cô thở dài. Giờ lại bắt đầu công đoạn đau đớn, dài dằng dặc của việc mặc váy áo, và ngay lúc này cô ước những chiếc quần jean và áo len dài tay dễ chịu và thoải mái của cô.

Sau bữa sáng cô lẻn ra khỏi những người phụ nữ khác để tìm Nicholas. Những người phụ nữ đang yêu cầu những bài hát mới, và cái kho bài hát nhỏ tẹo của Dougless đã rỗng không rồi. Cô đã xuống tới mức ngâm nga những giai điệu và thuyết phục những người phụ nữ tự sáng tác nên lời của chính họ. Nhưng hôm nay cô phải nói chuyện với Nicholas. Không một điều gì về cuộc hành hình sẽ thay đổi nếu cô không nói chuyện với anh.

Cô tìm thấy anh trong một căn phòng chỉ có thể là một văn phòng, ngồi tại một chiếc bàn bao quanh bởi giấy tờ. Anh hoá ra đang cộng một cột số.

Anh nhìn lên cô, nhướn một bên lông mày lên, sau đó nhìn lại xuống chỗ giấy tờ của anh.

“Nicholas, anh không thể lờ em đi. Chúng ta phải nói chuyện. Một lúc nào đó anh sẽ phải lắng nghe em.”

“Ta đang bận rồi. Đừng có quấy rầy ta với kiểu nói líu lo lố bịch của ngươi.”
“Líu lo! Lố bịch!” cố nói đầy giận giữ. “Điều em cần nói có ý nghĩa nhiều hơn thế.”

Anh tặng cho cô một cái nhìn khác nữa yêu cầu im lặng, sau đó quay trở lại với những cột số của anh.

Dougless liếc nhìn chỗ giấy tờ, nhưng những cột số chẳng có ý nghĩa gì với cô. Một vài chỗ là chữ số La mã, một vài chỗ được viết chữa j thay cho chữ i, và một vài chỗ là số Ả rập. Không ngạc nhiên gì là anh gặp khó khăn khi phải cộng chúng, cô nghĩ. Mở chiếc túi nhỏ thêu hoa được đeo ở eo cô, cô lấy ra chiếc máy tính chạy bằng năng lượng mặt trời của mình. Cô đem nó theo bên mình bởi vì Honoria và những quý cô khác đếm những mũi thêu của họ, thế nên Dougless thường cộng và trừ cho họ để những mẫu hoa văn của họ được cân dối. Nhưng cô có những điều quan trọng hơn để làm là giúp anh tình toán, cô nghĩ khi cô dặt cái máy tính xuống cạnh tay anh.

“Anh và Kit vừa đi xa vài ngày. Các anh tới Bellwood à? Anh ấy đã chỉ cho anh cánh cửa bí mật chưa?”

“Đức ngài Kit,” anh nói một cách dứt khoát, “không phải là mối bận tâm của ngươi. Cũng như không phải là của ta. Cũng như, với vấn đề đó, hộ gia đình của mẹ ta cũng không phải. Tiểu thư, ngươi không được chào đón ở đây.”

Cô đang đứng phía trên anh, nhìn xuống anh và cố nghĩ xem nên nói điều gì để khiến anh lắng nghe cô. Sau đó, khi cô theo dõi, một cách đầy giận dữ Nicholas giật lấy cái máy tính và bắt đầu bấm vào những cái nút. Anh bấm vào những con số, dí vào nút dấu cộng ở giữa chúng, sau đó ấn dấu bằng khi kết thúc. Vẫn nói, rõ ràng là thậm chí còn không chú ý anh vừa làm gì, anh viết tổng số xuống mảnh giấy của mình.

“Và hơn thế nữa—” anh nói khi anh bắt đầu cộng cột thứ hai.

“Nicholas,” cô thì thầm, “anh có nhớ.” Cô hít vào một hơi, sau đó to hơn, cô nói, “Anh có nhớ.”

“Ta chẳng nhớ gì hết,” anh nói một cách giận dữ, nhưng thậm chí là khi anh nói, anh nhìn trừng trừng xuống cái máy tính trong tay mình. Anh đã nhận ra anh đang sử dụng nó, nhưng lúc này ý thức việc nó là vật gì và nó sử dụng ra sao chảy tuột ra khỏi anh. Anh thả rơi nó như thể nó là một vật tà ma vậy.

Nhìn thấy anh sử dụng máy tính như là một khám phá đối với Dougless. Bằng cách nào đó, những gì anh trải nghiệm trong thế kỷ 20 đã bị chôn vùi trong ký ức của anh. Là bốn năm trước khi nó xảy ra, nhưng giờ cũng tình cờ là bốn trăm năm trước khi Dougless được sinh ra. Có quá nhiều những trải nghiệm đang xảy ra với cô đến nỗi cô không thể đặt câu hỏi về việc anh biết về cái máy tính. Nhưng nếu anh nhớ cái máy nhỏ xíu đó, vậy thì anh sẽ nhớ cô.

Cô quỳ xuống bên cạnh anh và đặt tay cô lên trên cánh tay anh. “Nicholas, anh có nhớ.”

Nicholas muốn dứt ra khỏi cô ta, nhưng anh không thể. Có chuyện gì với người đàn bà này vậy? anh tự hỏi bản thân mình. Cô ta xinh xắn, phải, nhưng anh đã từng nhìn thấy những người đàn bà còn xinh đẹp hơn. Anh chắc chắn đã từng ở quanh đàn bà còn ưa nhìn hơn cô ta. Nhưng người đàn bà này… người đàn bà này chưa bao giờ rời tâm trí anh.

“Làm ơn,” cô thì thầm, “đừng đóng tâm trí anh lại với em. Đừng chống lại em. Có thể nhớ lại nhiều hơn nếu anh cho phép bản thân mình.”

“Ta chẳng nhớ gì hết,” anh nói một cách kiên quyết, nhìn xuống mắt cô. Anh muốn gỡ tóc cô ra khỏi cái mũ vải nhỏ xíu, ra khỏi bím tóc của nó.

“Anh có nhớ. Nếu không thì làm sao anh có thể sử dụng cái máy tính được?”

“Ta không có—” anh bắt đầu, sau đó liếc nhanh xuống cái vật nằm trên đống giấy tờ. Nhưng anh biết điều đó, bằng cách nào đó, anh biết sử dụng nó, anh biết cách dùng nó tính toán. Anh giật cánh tay mình ra khỏi bàn tay của cô ta. “Để ta yên.”

“Nicholas, làm ơn nghe em nói,” cô khẩn nài. “Anh phải nói cho em biết liệu Kit đã chỉ cho anh cánh cửa ở Bellwood hay chưa. Thông tin đó sẽ cho chúng ta biết chúng ta có bao nhiêu thời gian cho đến khi anh ấy… anh ấy bị chết đuối.” Cho tới khi Lettice ra lệnh giết anh ấy, cô nghĩ. “Nó có thể là hàng tuần hay thậm chí là hàng tháng, nhưng nếu anh ấy đã chỉ cho anh cánh cửa… tai nạn của anh ấy chỉ còn được tính bằng ngày kể từ lúc đó. Làm ơn, Nicholas, đừng chống lại em trong chuyện này.”

Anh sẽ không cho phép cô ta kiểm soát anh. Anh sẽ không giống như phần còn lại của hộ gia đình và cho phép cô ta cầu xin những ân huệ. Ngay lúc này bất cứ hôm nào anh cũng mong đợi cô ta yêu cầu một túi vàng đổi lấy một bài hát nữa. Và mẹ anh bị cô ta làm cho say đắm đến nỗi bà không nghi ngờ gì sẽ cho cô ta vàng. Như nó đã thế, phu nhân Margaret cho người đàn bà này ăn mặc, quạt cầm tay và moi ra từ những chiếc rương đựng châu báu của dòng họ Stafford để cho cô ta mượn tất cả những thứ xa hoa này.

“Ta không biết cánh cửa nào hết,” Nicholas nói dối. Đã vài ngày kể từ khi Kit chỉ cho anh cánh cửa ở Bellwood. Việc ả đàn bà phù thuỷ này biết về điều đó là một bằng chứng nữa cho thấy cô ta không phải là người cô ta có vẻ như là.

Dougless ngồi lại trên gót chân cô, chiếc váy sa tanh màu xanh lá cuộn phồng lên xung quanh cô, và thở ra đầy nhẹ nhõm. “Tốt,” cô thì thầm. “Tốt.” Cô không muốn nghĩ rằng Kit sắp chết. Nếu Kit không chết, vậy thì có lẽ Lettice sẽ không có cơ hội để móc cái móc của cô ta vào Nicholas, và những hành động bất công to lớn đó sẽ được ngăn ngừa. Và bên cạnh đó, có lẽ sau khi Kit đã được cứu, cô sẽ được gửi trả lại thế kỷ 20.

“Ngươi quan tâm tới anh trai ta?” Nicholas hỏi, nhìn xuống cô.

Cô mỉm cười. “Anh ấy có vẻ như là một anh chàng sễ thương, nhưng anh ấy sẽ không bao giờ là…” Cô kéo dài giọng. Tình yêu của cuộc đời em, cô gần như nói điều đó. Nhìn vào trong đôi mắt màu xanh da trời của Nicholas, cô nhớ cái đêm mà họ đã làm tình. Cô nhớ tiếng cười của anh và sự thích thú của anh đối với thế giới hiện đại. Không nghĩ ngợi gì, cô chìa tay mình về phía anh. Anh dường như cũng không nghĩ ngợi gì khi anh nắm lấy tay cô và nâng những ngón tay cô lên môi anh.

“Colin,” cô thì thầm.

“Thưa ngài,” một giọng nói vang tới từ ngoài cửa. “Xin thứ lỗi.”

Nicholas thả rơi tay cô, và Dougless, biết rằng khoảnh khắc đó đã mất đi, nhỏm dậy và vuốt thẳng váy cô. “Anh sẽ nói cho em biết về cánh cửa, phải không? Chúng ta sẽ phải tiếp tục để mắt tới Kit,” cô nói khẽ.

Nicholas không nhìn cô. Tất cả những gì người đàn bà này nói là anh trai anh. Cô ta ám ảnh tâm trí anh, nhưng cô ta dường như chẳng có chút cảm xúc gì với anh. Những ý nghĩ của cô ta chỉ về một mình Kit thôi. “Đi đi,” anh lầm bầm, sau đó to hơn, “Đi và hát những bài hát của ngươi cho những người khác đi. Sẽ tốn hơn một bài hát để bỏ bùa ta. Và cầm cái này đi.” Anh nhìn cái máy tính như thể nó là một vật đến từ quỷ dữ.

“Anh có thể giữ nó và sử dụng nếu anh muốn.”

Anh chĩa ánh mắt dữ tợn về phía cô. “Ta không biết cách dùng.”

Với một tiếng thở dài, Dougless lầm lấy chiếc máy tính, sau đó rời khỏi phòng. Vậy là mọi cố gắng cô tạo nên để nói chuyện với Nicholas đã thất bại. Nhưng ít nhất cô bắt đầu hiểu anh nghĩ anh đang bảo vệ gia đình mình khỏi cô. Cô không thể không mỉm cười trước ý nghĩ đó. Nicholas cô yêu thật là nhiều cũng luôn đặt gia đình anh lên trước. Ở thế kỷ 20 anh đã muốn quay trở lại, xoá bỏ cuộc hành hình để cứu danh dự gia đình anh.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

79#
 Tác giả| Đăng lúc 4-4-2012 20:35:08 | Chỉ xem của tác giả
Người đàn ông này đã là Nicholas cô đem lòng yêu, cô nghĩ, mỉm cười. Trên bề mặt, những gì với người đàn bà ở trên bàn và trong vườn cây, anh dường như là kẻ chơi bời phóng đãng những cuốn sách lịch sử đã miêu tả. Và tất nhiên cô ghét sự tức giận và tình trạng thù dịch của anh về phía cô. Và nó không thể giúp đỡ tí nào rằng phần còn lại của gia đình không thể đối tốt với cô hơn, với chỉ có Nicholas là thù địch. Nhưng phía dưới tất cả những điều đó, cô biết rằng anh là người đàn ông cô đã đem lòng yêu, người đàn ông đặt những người khác lên trước bản thân anh ta.

Ý nghĩ này khiến cô tha thứ cho tình trạng thù địch của anh. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô có một động cơ ngấm ngầm về việc muốn đến gần gia đình anh? Thật không tốt khi tin tưởng như gia đình anh đã làm. Nicholas là người đúng. Anh không nên tin tưởng cô. Vì anh không có ý thức để nhớ cô trước đây, anh không có lý do gì để tin cô hết. Và chuyện gì với sợi dây liên hệ giữa họ và cái cách anh “nghe thấy” cô gọi anh những lần đó, anh có mọi lý do để tin cô là phù thuỷ.

Nhưng anh có nhớ, cô nghĩ. Anh nói anh chẳng nhớ gì hết, nhưng anh đã nhớ cái máy tính đủ để có thể sử dụng nó một cách chính xác. Cô băn khoăn liệu có điều gì khác anh nhớ và cô bắt đầu nghĩ đến những thứ chứa trong chiếc túi xách của cô. Cô có thể cho anh thấy vật gì nữa khiến anh có thể xua đi đám sương mù ở trong ký ức của anh?

Trong phòng diện kiến mọi người đều náo động. Có vẻ như là hàng hoá của người cung cấp thực phẩm đã tới. Dougless đã học được rằng đây là người đàn ông đã du hành khắp nơi ở Anh quốc để mua những thực phẩm đặc biệt cho gia đình Stafford, sau đó gửi chúng về một tháng một lần. Tháng này ông ta đã gửi về dứa và bột cacao, thứ đã được nhập khẩu từ Mexico tới Tây Ban Nha, sau đó tới Anh quốc. Cũng có đường của Brazil nữa.

Đứng phía sau và theo dõi khi những người phụ nữ kêu ầm lên trước những thứ cao lương mĩ vị, Dougless không thể không nghĩ tới cái cách thế kỷ 20 nhận được thức ăn. Người Mỹ có thể có bất kỳ loại thực phẩm nào trong bất cứ thời điểm nào trong năm.

Khi Dougless nhìn tới chỗ bột chocolate, được bọc cẩn thận trong lớp vải, cô nghĩ về bữa picnic kiểu Mỹ cô đã nấu cho Nicholas: thịt gà rán, salad khoai tây, trứng muối, và bánh chocolate hạnh nhân.

Bất thình lình một ý tưởng đánh trúng cô. Cô đã nghe được rằng mùi vị và vị ngon là một trong những ký ức mạnh mẽ nhất. Cô biết rằng một loại thức ăn cố định nào đấy gợi nhớ cho cô về bà ngoại mình, Amanda, vì luôn có một sự đa dạng đáng ngạc nhiên thực phẩm trong nhà của bà ngoại cô. Và mùi hương của hoa nhài luôn nhắc nhở Dougless về mẹ mình. Nếu Nicholas được phục vụ cùng một bữa ăn anh đã từng ăn ở thế kỷ 20, liệu nó có giúp anh nhớ lại thêm về khoảng thời gian anh đã ở bên cô không?

Dougless đi tới chỗ Phu nhân Margaret và xin phép được chuẩn bị bữa ăn tối. Phu nhân Margaret rất hài lòng với ý tưởng đó, nhưng kinh hãi trước ý tưởng rằng Dougless muốn tự mình làm việc trong nhà bếp. Bà đưa ra đề xuất rằng Dougless nói với Người hầu ở phòng thức ăn (Groom of the Pantry) cô muốn những gì và rằng cô nói với Người hầu ở nhà bếp (Groom of the Kitchen) (the one “for the mouth”) chứ đừng có tự mình đi xuống nhà bếp.

Dougless cố hết sức cô có thể để khăng khăng, bên cạnh đó Phu nhân Margaret đã khơi nên sự tò mò của cô về nhà bếp. Và Người hầu ở nhà bếp “for the mouth” là cái khỉ gì mới được cơ chứ?

Sau bữa trưa dài dằng dặc và sa hoa, Dougless đi xuống cầu thang dẫn tới nhà bếp và có cảm giác kính sợ trước những gì cô nhìn thấy: hết phòng này đến phòng khác với những lò lửa khổng lồ, những cái bàn vĩ đại, và rất nhiều, rất nhiều người đang hối hả chạy ngược chạy xuôi. Nhưng cô sớm khám phá ra rằng mỗi người đều có công việc của mình. Có hai người đồ tể, hai người thợ làm bánh, hai người ủ rượu, một người ủ rượu mạch nha, hai người sấy khô hoa bia để ủ bia, những chị thợ giặt, trẻ nhỏ để làm những công việc lặt vặt, và thậm chí một người đàn ông được gọi là thợ hồ để làm công việc là trát lại lớp vữa thạch cao khi chúng rơi xuống. Cũng có những người thư ký ghi lại mỗi xu được chi dùng. Và tất cả những người này đều có những người giúp việc khác nữa.

Một thân bò khổng lồ được vận chuyển đến cho nhà bếp trong một cái xe bò, sau đó được chuyển qua phòng xẻ thịt. Phòng chứa thức ăn dự trữ, to hơn cả ngôi nhà, được chất đầy với những thùng tô-nô. Những cây xúc xích to như cánh tay và dài vài feet được treo lủng lẳng ở trên trần nhà cao. Trong hai phòng, quay lưng lại một bức tường cao phía trên một lò sưởi đôi, là những chiếc giường tầng với đệm rơm là nơi rất nhiều người làm việc ở nhà bếp ngủ.

Người trưởng quản đưa cô qua những căn phòng, và sau khi Dougless có thể khép miệng cô lại một cách đầy kính sợ trước kích cỡ của nơi này và trước số lượng khổng lồ của những thức ăn được chuẩn bị trong phòng bếp, cô bắt đầu nói cho người đàn ông cô muốn làm gì.

Nuốt xuống, cô nhìn những thùng chất đầy gà được mang vào; sau đó một người đàn bà to béo bắt đầu vặn cổ chúng. Những cái vạc đầy nước được đun sôi để nhúng gà rồi vặt lông, và cô được bảo rằng những cái lông mềm nhất của giữ lại để dùng làm gối cho người hầu.

Cô ngạc nhiên vì khoai tây đã xuất hiện trong hộ gia đình thế kỷ 16 nhưng không được ăn thường xuyên. Nhưng dưới sự chỉ đạo của Dougless, những người phụ nữ nhanh chóng tiến hành việc gọt vỏ khoai tây, và những người khác luộc trứng, loại quả bé hơn trứng của thế kỷ 20 rất nhiều.

Để có bột mì làm bột nhão cho nón thịt gà và bánh sôcô la hạnh nhân, Dougless được đưa tới phòng xay bột. Bột mì ở đây được sàng liên tiếp qua những cái rây bằng vải, mỗi một chiếc chất lượng lại tăng lên. Dougless bắt đầu hiểu tại sao bánh mì trắng tinh, được gọi là manchet, lại được quý trọng như thế. Những địa vị thấp hơn trong hộ gia đình ăn bánh mì chất lượng thấp hơn. Bánh mì được sàng chỉ một lần vẫn còn rất nhiều cám—và đất bẩn—trong nó. Chỉ có gia đình và những người hầu cận gần gũi nhất mới được ăn bánh mì đã được sàng cho đến khi nó sạch hoàn toàn.

Dougless biết sẽ có đủ thịt gà, trứng, và khoai tây cho cả hộ gia đình, nhưng bánh sôcôla hạnh nhân với chocolate quý báu và đắt đỏ chỉ có thể cho những thành viên trong gia đình thôi. Một người đầu bếp giúp cô quyết định thịt gà được bọc bao nhiêu bột mì thô và bao nhiêu bột từ lần sàng tiếp theo và bao nhiêu bột từ lần tiếp theo nữa, và vân vân. Dougless sẽ không giao giảng về công bằng, đặc biệt khi cô biết loại bột tốt nhất không có cám trong đó và có biết bao nhiêu là vitamin đã bị mất đi, và do đó không bổ dưỡng như loại bột mì đã được sàng ít lần hơn. Dougless chỉ tập trung vào việc chuẩn bị một bữa ăn có thể nuôi cả một đội quân.

Bữa ăn, thứ thật dễ dàng khi chuẩn bị trong một nhà bếp hiện đại ở Anh quốc và xong trong một thời gian ngắn, thật không dễ dàng gì trong thế kỷ 16. Mọi thứ phải được làm trong một cái hũ lớn và từ các thứ tập nham khác. Không có mù tạt hay sốt mayonnaise từ những cửa hàng tạp hoá cho món trứng và khoai tây. Tất cả hạt tiêu, được bảo quản bởi chìa và ổ khoá, là ở dạng hạt, và ai đó phải nhặt lên những tảng đá, sau đó hạt tiêu khô được nghiền trong một chiếc cối giã có kích thước như một cái bồn tắm. Quả hạnh để làm bánh sôcôla hạnh nhân không đến trong một chiếc túi nhựa mà phải được lột vỏ.

Khi Dougless làm cùng, cô theo dõi và học hỏi. Khoảnh khắc sợ hãi duy nhất của cô tới khi cô nhìn thấy chảo bánh được lót bởi những tờ giấy đã được viết kín chữ. Cô theo dõi đầy kinh hoàng khi thấy bột nhão trộn chocolate được rót lên trên một chứng thư mà cô chắc chắn là đã được ký bởi Henry thứ bảy.

Khi bữa ăn đã gần như sẵn sàng để được phục vụ, Dougless biết rằng bữa ăn phải là một buổi picnic. Như thể cô đã luôn chỉ huy một đội quân, cô sai những người đàn ông tới vườn cây ăn quả để trải những chiếc khăn vải trên mặt đất, sau đó mang gối từ trên gác xuống.

Bữa tối diễn ra muộn vào tối hôm đó, không được phục vụ cho tới 6 giờ tối, nhưng từ vẻ mặt của mọi người khi họ bắt đầu nếm mọi thứ, họ nghĩ việc chờ đợi là xứng đáng. Họ ăn salad khoai tây bằng thìa và ngấu nghiến những đĩa đầy trứng deviled. Họ yêu món thịt gà tẩm ướp nhiều gia vị.

(deviled eggs: món trứng luộc được cắt làm đôi rồi lấy lòng đỏ trứng trộn với các thành phần khác như sốt mù tạt, mayonnaise… )

Dougless ngồi đối diện với Nicholas và theo dõi anh thật kỹ khi cô ăn. Nhưng nhiều nhất cô có thể thấy được, không gì làm cho ký ức loé lên.

Cuối bữa ăn, những người hầu hoan hỉ bê vào những chiếc đĩa bạc chồng cao những bánh sôcôla hạnh nhân dai dai. Ở miếng cắn đầu tiên có những giọt nước biết ơn trong mắt cửa vài thực khách.

Nhưng Dougless chỉ nhìn mỗi Nicholas. Anh cắn, anh nhai. Sau đó chậm rãi, anh nhìn Dougless, và tim cô như nả lên đến tận cổ. Anh có nhớ, cô nghĩ. Anh nhớ điều gì đó.

Nicholas đặt chiếc bánh sôcôla hạnh nhân xuống, sau đó không biết vì sao anh lại làm điều đó, anh thao chiếc nhẫn khỏi bàn tay trái của mình và chìa nó cho cô.

Dougless giơ bàn tay run rẩy ra và nhận lấy chiếc nhẫn. Nó là chiếc nhẫn bằng ngọc lục bảo, cùng chiếc nhẫn anh đã tặng cô cái ngày ở nhà của Arabellakhi cô lần đầu tiên làm bánh sôcôla hạnh nhân cho anh. Cô có thể thấy qua vẻ mặt của anh rằng anh cũng bối rối vì hành động của mình.

“Anh đã tặng cho em chiếc nhẫn này trước đây,” cô nói khẽ. “Khi em nấu bữa ăn này cho anh lần đầu tiên, anh đã tặng cho em cùng một chiếc nhẫn.”

Nicholas chỉ có thể nhìn cô trừng trừng. Anh bắt đầu yêu cầu cô giải thích, nhưng tràng cười của Kit đã phá vỡ khoảnh khắc say mê đó.

“Anh không đổ lỗi cho cậu.” Kit cười phá lên. “Những cái bánh này xứng đáng với vàng. Đây,” anh ta nói khi tháo ra một chiếc nhẫn bằng vàng đơn giản và trao nó cho Dougless.

Mỉm cười và cau mày cùng một lúc, cô nhận lấy chiếc nhần Kit đưa. Chiếc nhẫn đáng giá không gì sánh được so với chiếc nhẫn ngọc lục bảo của Nicholas, giá trị đã bị đảo ngược. Chiếc nhẫn của Nicholas đối với Dougless đáng giá hơn rất nhiều. “Cảm ơn,” cô lầm bầm, sau đó nhìn lại vào Nicholas. Nhưng anh lúc này đã nhìn đi chỗ khác và cô biết những gì anh nhớ lại đã mất rồi.

(Hết chương 24)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

80#
 Tác giả| Đăng lúc 4-4-2012 20:36:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25


“Cậu im lặng quá, em trai,” Kit nói, mỉm cười với Nicholas. “Cậu nên tới và vui vẻ một chút. Tối nay Dougless sẽ dạy chúng ta một trò chơi bài có tên là poker.”

Nicholas nhìn khỏi anh trai mình. Có cái gì đó đã xảy ra tối nay, anh nghĩ, cái gì đó anh không thể hiểu được. Vào bữa tối, anh đã cắn vào một trong những chiếc bánh chocolate mà người phụ nữ đó đã chuẩn bị và anh biết, khá là bất ngờ, không một lời lẽ nào hết, rằng cô ta không phải kẻ thù của anh.

Ngay cả khi anh đưa cho cô ta chiếc nhẫn của anh, anh tự nhủ với bản thân rằng anh đang trở thành một gã ngốc. Thông thường, khi nó có dính dáng đến đàn bà, anh chắc chắn rằng anh là người giữ thái độ đúng mực trong toàn bộ gia đình của mình. Anh là người duy nhất không tin rằng cô ta là món quà được chúa trời gửi tới. Và nếu những việc làm tốt đẹp của cô ta lại hoá ra là những hành động lừa lọc, anh sẽ là người duy nhất có thể nhìn thấy cô ta như con người thật của chính cô ta.

Nhưng tối nay, khi anh ăn chiếc bánh tuyệt diệu đó, những hình ảnh đã nhá lên vụt qua tâm trí anh. Anh nhìn thấy cô ta với mái tóc buông xoã, đôi chân trần, và ngồi trên một cái khung kim loại hai bánh lạ kỳ (là xe đạp đó -summerwind210). Anh nhìn thấy cô ta với nước chảy xuống trên khắp thân hình trần truồng, tuyệt đẹp của cô ta. Và anh nhìn thấy cô ta ấp chiếc nhẫn ngọc lục bảo của anh vào ngực cô ta và nhìn vào anh với cả tình yêu. Không nghĩ ngợi gì hết, anh đã tuột chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay mình và đưa nó cho cô ta, bởi vì, bằng cách nào đó, chiếc nhẫn dường như thuộc về cô.

“Nicholas?” Kit vẫn đang nói. “Em khoẻ chứ?”

“Vâng,” Nicholas nói said absently. “Em khoẻ.”

“Cậu có muốn cùng bọn anh tham gia trò chơi mới này không?”

“Không,” Nicholas lầm bầm. Anh không muốn ở gần người phụ nữ đó, không muốn cô ta là nguyên nhân khiến anh nhìn thấy những hình ảnh của một cái gì đó mà anh biết sẽ không xảy ra. Tốt nhất là anh nên tránh xa cô ta ra. Nếu anh dành thời gian với cô ta, có lẽ anh sẽ bắt đầu lắng nghe cô, thậm chí bắt đầu tin những câu chuyện ngớ ngẩn về quá khứ và tương lai của cô ta.

“Không, em không muốn đi,” anh nói với Kit. “Tối nay em phải làm việc.”

“Làm việc?” Kit hỏi, giọng anh đầy trêu chọc. “Không đàn bà? Để anh nghĩ xem nào, cậu không có cô nàng nào trên giường kể từ khi Tiểu thư Dougless tới phải không?”

“Cô ta không—” Nicholas bắt đầu. Anh bất thình lình có một hình ảnh khác của cô ta, mỉm cười cúi xuống anh, mái tóc cô ta mềm mại và xoã tung ra trên vai.

Kit cười phá lên đầy hiểu biết. “Nó đi theo cách đó, đúng không? Anh không thể đổ lỗi cho cậu được; người đàn bà đó tuyệt đẹp. Cậu có ý biến cô ấy thành nhân tình của cậu sau khi cậu kết hôn không?”

“Không!” Nicholas nói một cách đầy sức thuyết phục. “Người đàn bà đó chẳng là gì với em hết. Cứ đem cô ta đi với anh. Em ước không bao giờ phải nhìn thấy cô ta nữa, không bao giờ nghe thấy giọng nói của cô nữa. Em ước cô ta chưa bao giờ bước vào cuộc đời mình.”

Kit bước lùi lại, vẫn mỉm cười. “Vậy là đã bị sét đánh rồi,” anh ta nói, hiển nhiên là thích thú với sự cực khổ của Nicholas.

Nicholas bật ra khỏi ghế của mình, sắn sàng chiến đấu với giọng điệu giễu cợt, đầy hiểu biết của anh trai mình. Nhưng Kit đã lùi ra phía cửa, và khi Nicholas tới gần, Kit đã rời khỏi phòng, cười phá lên ầm ĩ khi anh đóng cánh cửa vào mặt em trai mình.

Nicholas lại ngồi xuống sau chiếc bàn và cố gắng hướng sự chú ý của mình vào những tài khoản trước mặt anh, nhưng tất cả nhưng gì anh có thể nghĩ được là người đàn bà tóc đỏ đó. Anh biết rằng lúc này cô ta đang cười lớn, ngạc nhiên trước những gì cô ta đang làm. Anh biết rằng, bằng cách nào đó, anh cảm thấy được rằng cô ta không hạnh phúc.

Anh bước về phía cửa sổ, mở chốt, sau đó nhìn xuống khu vườn. Không hề muốn, một hình ảnh đến với anh. Trong đôi mắt tâm trí của mình, anh nhìn thấy một khu vườn khác. Đó là buổi đêm, và trời đang mưa, và người phụ nữ đó đang gọi anh. Anh nhìn thấy những ngọn đèn, những ngọn đèn kỳ lạ màu xanh tía trên những cái cột, và anh nhìn thấy bản thân mình trong cơn mưa, râu ria nhẵn nhụi và đang mặc một bộ áo quần kỳ lạ.

Dứt ra khỏi cửa sổ, Nicholas đóng sầm nó lại, sau đó lấy tay chà lên mắt như thể sẽ làm sạch được tầm nhìn. Anh sẽ không để người đàn bà đó bỏ bùa anh. Anh sẽ không cho phép cô ta kiểm soát tâm trí mình!

Rời khỏi văn phòng, anh đi tới phòng ngủ của mình, rót cho mình một cốc đầy rượu vang trắng, sau đó uống cạn nó. Chỉ sau khi anh uống cạn cốc thứ hai và thứ ba của thứ chất lỏng đầy giúp ích này nhanh nhất có thể, anh mới cảm thấy hơi ấm của rượu vang chảy trong mạch máu của mình. Anh có thể làm ngập những hình ảnh của cô ta. Anh có thể uống cho tới khi anh không thể nghe thấy cô ta, nhìn thấy cô ta, ngửi thấy cô ta... hay nhớ đến cô ta.

Trong một lúc rượu vang có tác dụng và anh có thể làm yên những hình ảnh trong đầu mình. Thoả mãn, cảm thấy bình tĩnh, Nicholas duỗi dài trên giường của mình và ngủ ngay lập tức.

Nhưng sau đó những hình ảnh lại tới, lần này là dưới dạng những giấc mơ.

“Anh phải nói cho em biết nếu Kit chỉ cho anh cánh cửa,” anh nghe người đàn bà đó nói. “Nói cho em nếu anh cắt phải tay mình.” “Kit chết và anh là nguyên nhân gây nên điều đó.” “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh sai?” Giọng của người phụ nữ trở nên to hơn, khẩn thiết hơn. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh sai và Kit chết vì anh không chịu lắng nghe?”

Nicholas tỉnh giấc, mồ hôi nhễ nhại, và phần còn lại của buổi đêm anh nằm đó, mắc mở chong chong, sợ hãi phải ngủ lại. Phải làm điều gì đó với người phụ nữ này nếu cô ta không để cho anh ngủ. Phải làm điều gì đó.

(Hết chương 25)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách