|
Anh hếch đầu lên và nói, "Thật sao?"
Tôi gật đầu nói, "Vâng. Nơi đây… quá đặc sắc."
"Anh vui vì em nghĩ thế," anh nói, luồn tay qua mái tóc. "Anh thật sự vui vì em nghĩ thế."
Chúng tôi giữ nguyên trạng thái ấy một lúc lâu - khẽ dựa vào thành ghế, trò chuyện cùng nhau giữa không gian đó, quan sát mấy người lưa thưa ra đây chơi trong cái ngày kỳ lạ thế này - cho đến khi, tôi lẳng lặng lôi máy ảnh khỏi túi, đi ra giữa những thanh chắn ngăn các cầu cảng với bãi cát, và hướng về phía biển. Tôi chụp mươi bức ảnh vô mục đích, cảm thấy bản thân hoàn toàn thư giãn, đó là cách tôi luôn làm trước khi thực sự bắt đầu công việc. Tôi chụp trời, chụp cát, và chụp biển. Tôi chụp một bà trung niên có mái tóc dài mặc chiếc áo choàng vải tuýt màu nâu, thầm nghĩ rằng bà ấy không tiều tụy đến mức như kẻ lang thang, nhưng chắc chắn đang đau khổ với những chuyện không may xảy ra, buồn bã vì điều gì đó. Tôi quay người lại chụp dãy hàng mặt tiền chạy dọc cầu cảng, hầu hết đã đóng cửa, một số bỏ hoang hoàn toàn, và chụp một đàn hải âu đang quây tròn quanh một chiếc hộp sọc trắng đỏ đựng bắp rang bơ để tìm kiếm những hạt còn sót lại. Rồi, với ý tưởng chợt nảy ra sau chót, tôi chụp ảnh Leo, lúc này vẫn đang ngả lưng vào chiếc ghế dài, hai bàn tay gài lại sau đầu, khuỷu tay để lộ ra, quan sát và chờ đợi.
Anh khẽ vẫy tay và nháy mắt, nhếch môi cười khi tôi đi lại chỗ anh. "Bức ảnh cuối là về gã giữ chỗ đấy," anh nói, khi ấy tôi nhớ lại mấy tấm hình chụp anh trên băng ghế trong công viên Trung tâm, nhớ lại Margot đã nói về chúng với vẻ khinh khi, gọi anh là kẻ thiếu tự nhiên và bảnh chọe. Tôi nghĩ lại ngày hôm ấy, nhận ra rằng cô đã sai về khoảnh khắc đó, được lưu giữ lại trên tấm ảnh. Cô đã sai về rất nhiều điều.
Tôi quàng chiếc máy ảnh qua vai và ngồi xuống trở lại, thở một tiếng nghe buồn bã hơn tôi dự định.
Leo nhìn tôi với ánh mắt vờ nghiêm nghị trong khi thúc khuỷu tay sang tôi và bảo, "Nhớ điều anh đã nói chứ, Dempsey? Mọi người đến đây để quên đi muộn phiền."
Dempsey, tôi nghĩ, ngón tay cái bên trái với lên vuốt ve chiếc nhẫn cưới. Tôi cố nở nụ cười và nói, "Phải," trong khi ấy chúng tôi ngắm nhìn những con sóng tan ra, tan ra mãi. Sau một lúc, tôi hỏi Leo thủy triều đang lên hay xuống.
"Lên," anh trả lời ngay khiến tôi rất ấn tượng, đúng kiểu tôi vẫn thấy ấn tượng mỗi khi mọi người - đặc biệt đàn ông - biết từ trong bản năng họ đang huớng về đâu.
"Sao anh có thể chắc thế?" tôi hỏi, nghĩ rằng chúng tôi chưa quan sát đủ lâu để nhận ra hướng con nước.
"Không thấy cát ướt," Leo nói, trong lúc tiếng sấm ầm ầm lên phía xa. "Nếu nước xuống, chắc chắn phải có một dải cát ướt."
"Ồ, đúng vậy," tôi nói, gật đầu. Rồi nói tiếp, "Anh biết gì không?"
"Gì cơ?" Leo nói, gương mặt anh lóe lên đầy mong đợi - như thể anh đã sẵn sàng cho một lời tự thú lớn lao, hoặc có thể một điều gì đó sâu sắc.
Tôi mỉm cười và nói, "Em đang chết đói."
"Anh cũng thế," anh nói, cười tươi. "Bánh mì xúc xích nhé."
"Đây là quê hương của xúc xích, phải không?" tôi nói, nhớ lại một mẩu lịch sử của Coney Island mà tôi đã lượm lặt được đâu đó. Có thể từ chính Leo, rất nhiều năm trước.
"Chính xác," Leo mỉm cười.
Chúng tôi đứng lên và chậm rãi đi trở lại góc giao nhau của đại lộ Stillwell và đại lộ Sturf, nơi khởi nguồn của hiệu xúc xích Nathan, chỗ mà theo Leo là đã được xây dựng từ năm 1916. Chúng tôi bước vào trong, trông thấy một hàng người dài hơn ta tưởng vào lúc gần hai giờ chiều trong một ngày trái mùa du lịch thế này, cho dù có vì hãng xúc xích nổi tiếng bậc nhất thế giới chăng nữa. Tôi chụp mấy bức ảnh trong tiệm ăn, một số thực khách, và người đàn ông ướt đẫm mồ hôi đứng sau bếp nướng, khi ấy Leo hỏi tôi muốn ăn gì.
"Một bánh mì xúc xích," tôi nói, nhìn anh bằng ánh mắt hiển- nhiên- rồi.
"Có thể rõ hơn được không?" Leo hỏi, miệng cười thật rộng. "Một chiếc thập cẩm? Kẹp mỗi xúc xích? Có nước xốt? Khoai tây chiên?
"Bất kỳ loại gì mà anh ăn," tôi nói, xua tay từ chối lựa chọn.
"Bánh mì xúc xích pho mát, khoai tây chiên, root beer," Leo quyết định dứt khoát.
"Tuyệt vời," tôi nói, nhớ lại rằng anh luôn rất yêu thích loại nước ngọt đó.
Lát sau, khi Leo đã thanh toán xong và tôi đã lấy đủ khăn ăn, ống hút, các gói mù tạt và nước xốt cà chua nấm, chúng tôi chọn một bàn gần cửa sổ hướng ra ngoài đường, ngay lúc ấy trời đổ mưa.
"Lựa chọn thời điểm tuyệt vời đấy," Leo nói.
Tôi nhìn qua chiếc bàn sang anh, trong khi bỗng nhiên mường tượng ra hình ảnh Andy đang ngồi ở bàn làm việc, mặc vest và cà vạt. Tôi lấy làm ngạc nhiên trước sự đối lập giữa hai thế giới ấy - một quán bánh mì xúc xích ở Brooklyn và một văn phòng luật sư sáng bóng ở Buckhead. Tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn với sự đối lập giữa hai người đàn ông ấy - cái lối mà mỗi người gây rung động trong tôi.
"Không hẳn," tôi nói, níu giữ ánh mắt anh. "Lựa chọn thời gian cực kỳ chết tiệt thì có."
Leo ngước mắt nhìn lên từ món khoai tây chiên xắt khúc của anh, đầy ngạc nhiên. Rồi anh nhặt một miếng khoai, chỉ vào tôi, và nói, "Em."
"Không. Anh," tôi nói.
"Em," anh lại nói, cả quyết.
Đó chính xác là lối chúng tôi đã thường trò chuyện - thứ ngôn từ ẩn ý của chúng tôi, dường như vô nghĩa, nhưng lại thấm đầy ý nghiã. Đó là một lối mà tôi chưa bao giờ nói với Andy - người luôn quá rõ ràng, thẳng thắn. Tôi quyết định, ít nhất là lần thứ một trăm trong ngày hôm nay, rằng không có lối nào hay hơn lối nào; chỉ đơn giản là chúng khác nhau.
Leo và tôi đã kết thúc bữa trưa trong im lặng hoàn toàn. Rồi, không hề lưỡng lự, chúng tôi lại bước ra ngoài vào màn mưa lây rây nhè nhẹ, lang thang qua lại các đại lộ Surf, Neptune và Mermaid. Leo giương ô cho tôi trong khi tôi chụp vô số ảnh. Những tấm ảnh về các khu trò chơi đã đóng cửa. Về Lốc Xoáy trứ danh và Vòng quay Thần kỳ kinh điển, lớn đến phi tưởng. Về trò bóng rổ ba chọi ba. Về những chỗ đất trống bỏ hoang lác đác rác rưởi. Về con người - một ông bán thịt, một cô thợ may, một anh chàng làm bánh.
"Giống như vườn cổ tích ấy nhỉ," tôi nói.
"Ừ. Chỉ khi chúng ta có thể tìm thấy một tay thợ làm giá để nến," anh nói.
Tôi bật cười, để ý thấy hai cô gái đang xem bảng giá trên cửa sổ của một hiệu xăm mình.
"Ohh. Tớ thích hình hoa lan," một cô nói. "Nó trông cực tuyệt."
"Ừ… Nhưng tớ thích hình con bướm hơn," cô còn lại nói. "Mình xăm lên vai nhé? Màu tím thì sao?"
Tôi chụp hình họ, thầm nghĩ, Đừng làm thế. Rồi một ngày kia sẽ hối tiếc đấy.
Trời nhá nhem tối ở Coney Island, và cuối cùng tôi đã cảm thấy thỏa mãn, ít nhất là về những tấm hình. Mưa đã tạnh, mây cũng tan theo hết, hứa hẹn một đêm mùa thu hanh khô hiu gió. Leo và tôi trở lại chiếc ghế dài của chúng tôi, buồn , mệt và lạnh. Chúng tôi ngồi bên nhau thậm chí còn sát hơn trước, anh bất ngờ quàng tay qua vai tôi trong một cử chỉ mang lại cảm giác vừa thoải mái vừa lãng mạn. Tôi cố chống lại nỗi khao khát được ngã đầu lên vai anh, và nhắm mắt lại, nhận ra rằng khỏanh khắc này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều nếu tôi có thể phân loại cảm xúc của mình ngăn nắp hơn nữa. Nhưng nó không đơn giản hay rõ ràng như thế - và tôi tự hỏi đã có bao giờ mọi điều đơn giản rõ ràng hơn khi mà đó là chuyện của trái tim.
"Em đang nghĩ gì thế?" Leo nói, hơi thở ấm áp của anh phả trên tóc tôi.
Tôi đi sâu vào sự thật. "Em đang nghĩ về cái ngày tháng Mười hai năm ấy… khi anh trở lại," tôi nói nhẹ nhàng.
Leo lại thở, lần này sát cổ tôi, ký gửi một đợt sóng dại khờ cuộn lên khắp chân tay tôi.
"Em ước gì em đã biết," tôi nói.
"Anh cũng ước gì em đã biết," Leo nói. "Anh ước gì anh đã biết điều đó có thể tạo nên một sự khác biệt."
"Nó hẳn đã tạo nên một điều khác biệt," cuối cùng tôi xác minh, trong lòng dấy lên biết bao tiếc nuối và cay đắng, cảm giác tội lỗi và khát khao.
"Nó vẫn có thể khác đi mà," Leo nói, đặt tay lên cằm tôi, xoay lại để nhìn sâu vào mắt tôi.
"Leo… Em kết hôn rồi…" tôi nói, khẽ khàng quay mặt đi, nghĩ về Andy, những nguyện thề của chúng tôi. Tôi yêu anh biết bao nhiêu, dù cho tôi không yêu mọi thứ trong đời sống của chúng tôi. Dù cho tôi đang ở đây ngay lúc này.
Bàn tay Leo rơi xuống. "Anh biết điều đó, nhưng…"
"Nhưng sao?" tôi hỏi, kiệt sức với quá nhiều kiềm chế, suy xét miên man, băn khoăn, dò ý.
"Nhưng anh không cưỡng nổi… mong muốn lại được cùng em," anh nói.
"Bây giờ? Đêm nay?" tôi hỏi, đầy bối rối.
"Phải. Đêm nay," Leo nói. "Và ngày mai… Và ngày sau đó…"
Tôi hít thở mùi hương da thịt anh và gọi tên anh, không chắc mình đang kháng cự hay đồng thuận.
Anh lắc đầu, đặt ngón tay lên môi tôi, thì thầm, "Anh yêu em, Ellie."
Đó là một lời tuyên bố, nhưng nghe giống như một lời hứa hơn, và khi trái tim vỡ òa, tôi không cưỡng được mình nhắm mắt và nhắc lại điều tương tự.
|
|