Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Papillon Người Tù Khổ Sai | Henry Charrière

[Lấy địa chỉ]
151#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 16:05:13 | Chỉ xem của tác giả
Chương 43

Nước Venezuela, Các ngư dân ở Irapa

Tôi đã khám phá ra một thế giới mới, những con người, một nền văn minh hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Những phút đầu tiên trên đất Venezuela vô cùng cảm động, và phải một tài năng hơn hẳn cái vốn liếng chữ nghĩa ít ỏi của tôi mới giải thích, diễn đạt, vẽ lên nổi cái không khí tiếp đón nồng nhiệt mà những người dân hào hiệp ở đây đã giành cho chúng tôi.

Đàn ông, da trắng hay da đen, nhưng đa số là da màu sáng như màu da trắng bị rám nắng vài ngày, hầu hết mặc quần xắn đến đầu gối.
   - Tội nghiệp, sao trông các ông thảm hại đến vậy - cánh đàn ông nói.
Làng dân chài nơi chúng tôi đến là làng Irapa, một công xã thuộc một bang tên là Sucre. Các cô gái và các thiếu phụ, hơi nhỏ người nhưng duyên dáng vô cùng, và cả các bà già nữa không trừ một ai, đều biến thành nữ y tá, xơ từ thiện hay mẹ bảo trợ chúng tôi. Họ tập họp ở một căn nhà đã mắc sẵn năm cái võng len, kê sẵn bàn cho chúng tôi, họ lấy dầu ca-cao xoa lên thân thể chúng tôi từ đầu đến chân, không bỏ sót một centimét da bị tróc. Chúng tôi lả đi vì đói và mệt, vì phải nhịn ăn quá lâu ngày nên bị mất nhiều nước. Những người vùng ven biển này biết là chúng tôi cần ngủ nhưng cũng phải cho ăn chút ít một.

Mỗi đứa chúng tôi nằm trên võng, vừa ngủ, vừa được các nữ y tá bất ngờ bón cho ăn từng miếng. Tôi quá mệt mỏi, khi được đặt lên võng, những chỗ da bị trơ thịt ra được xoa dầu ca-cao rồi, sức lực của tôi đã hoàn toàn tan biến đâu mất và tôi cứ mơ mơ màng màng ngủ, ăn và uống mà không biết gì hết. Một món gì giống cháo bột sắn ở quê tôi không được dạ dày rỗng tuếch của tôi tiếp thu. Mà không phải chỉ mình tôi như vậy. Tất cả chúng tôi đã nhiều lần nôn ra một phần hay tất cả những món ăn mà các bà các chị đã đưa vào mồm chúng tôi từng muỗng một. Dân trong làng này nghèo xác xơ. Nhưng tất cả mọi người, không trừ một ai, đều giúp đỡ chúng tôi.

Ba ngày sau, do được tập thể này săn sóc và do tuổi còn trẻ, chúng tôi đã gần lại người. Chúng tôi ngồi dậy hàng giờ dưới mái lán lợp bằng lá dừa râm mát, các bạn tôi và tôi đã trò chuyện với người làng. Họ không dư dả để cho chúng tôi có quần áo mặc ngay một lúc. Và những nhóm nhỏ đã được hình thành. Nhóm này chuyên lo cho Guittou, nhóm nọ, cho Deplanque. Độ gần mười lo cho tôi. Những ngày đầu, họ cho chúng tôi mặc đủ thứ đồ hú họa, cũ kỹ nhưng rất sạch. Bây giờ, mỗi khi có điều kiện, họ mua cho chúng tôi chiếc áo sơ-mi mới, cái quần dài, sợi thắt lưng hay đôi giày vải. Trong số phụ nữ săn sóc tôi có những cô gái trẻ, dân tộc Anh- điêng pha trộn với máu Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha. Một cô tên là Tibisay, cô kia là Nenita. Các cô đã mua cho tôi một cái áo sơ mi, một cái quần dài, một đôi giày vải mà họ gọi là “aspargate”, đế giày bằng da, không có gót, phần che chân là sợi vải tết lại. Chỉ có cổ chân và gót chân được bao bọc còn ngón chân thì để hở.
    - Không cần hỏi các anh từ đâu đến. Cứ trông các anh xăm mình, chúng tôi cũng biết là các anh đã vượt ngục từ trại giam của Pháp.
Điều đó lại càng làm tôi cảm động hơn.

Chao ôi! Biết chúng tôi là tù vì đã phạm tội nặng, lại vượt khỏi một trại tù mà sách báo đã mô tả tình trạng khắc nghiệt của nó, những người dân bình thường này cho việc cứu trợ, giúp đỡ chúng tôi là tự nhiên sao? Khi người ta giàu có hay khá giả mà đi cho quần áo, khi gia đình và bản thân mình không thiếu thốn gì mà cho một người lạ ăn uống, thế cũng đã là tốt lắm rồi. Đằng này chia đôi một mẩu bánh ngô hay bánh sắn nướng lấy ở lò nhà, trong lúc chính mình và gia đình mình cũng chưa đủ ăn, rồi chia sẻ bữa ăn đạm bạc không đủ nuôi sống được gia đình mình, với những người xa lạ, hơn thế nữa, với những kẻ trốn tránh công lý như chúng tôi, lại càng đáng khâm phục.

Sáng nay, tất cả mọi người, đàn ông lẫn đàn bà, đều nín lặng. Họ có vẻ bực bội và lo âu. Có chuyện gì vậy? Tibisay và Nenita đang ở cạnh tôi. Sau mười lăm ngày, lần đầu tiên tôi đã có thể cạo râu. Chúng tôi ở cùng những con người hết sức tận tình này đã được tám ngày. Các vết bỏng của tôi đã lên da non cho nên tôi mới dám cạo. Vì bộ râu của tôi, các cô các bà chẳng biết tuổi tác của tôi ra sao. Khi thấy tôi còn trẻ. Họ rất mừng và nói thẳng điều đó ra một cách chất phác. Tôi đã ba mươi lăm tuổi nhưng trông chỉ độ hăm tám, ba mươi. Phải, đúng là những người đàn ông, đàn bà mến khách này có chuyện gì lo lắng cho chúng tôi, tôi cảm thấy thế.
   - Có chuyện gì vậy Tibisay, nói cho tôi nghe, có chuyện gì vậy?
   - Các quan chức ở bên Quiria sắp tới đây: ở đây không có ủy viên dân sự. Chẳng hiểu tại sao, nhưng cảnh sát ở bên ấy đã được tin các anh ở đây. Họ sắp tới.

Một người phụ nữ da đen, cao và đẹp, đi với một thanh niên mình trần, quần xắn tới đầu gối, đã đến gặp tôi. Anh thanh niên có một thân hình lực sĩ cân đối, chị da đen, “La Negrita” (ở Venezuela không hề có phân biệt chủng tộc hay tôn giáo và đấy là một lối gọi âu yếm rất thông dụng đối với phụ nữ da màu) đã hỏi tôi:
   - Ông Henri ơi (Senor Enriquez) cảnh sát sắp đến đây. Tôi không biết họ sẽ làm điều tốt hay xấu cho ông. Ông có muốn trốn một thời gian vào núi không? Em tôi có thể dẫn ông đến một căn nhà nhỏ mà không ai tìm được ông. Tibisay, Nenita và tôi có thể hàng ngày đem thức ăn cho ông và tin cho ông biết tình hình.
Cảm động đến tột độ, tôi muốn hôn tay người con gái cao thượng này nhưng chị đã rút tay lại, và chị nhẹ nhàng giản dị hôn má tôi.

Lát sau, một tốp người ngựa phi nước đại đến. Tất cả đều mang một con dao dài, loại dao đẵn mía, đeo bên trái như đeo kiếm, một thắt lưng to bản đựng đầy đạn và một khẩu súng ngắn to đựng trong bao đeo bên phải. Họ xuống ngựa. Một người mặt như Mông Cổ mắt xếch kiểu người Anh- điêng, da màu đồng đỏ, cao và gầy, chừng bốn mươi tuổi, đầu đôi mũ rơm to, tiến về phía chúng tôi.  
  - Chào các ông. Tôi là xếp dân sự, cảnh sát trưởng đây
   - Chào ông.
   - Còn các người kia, sao các người không báo cho chúng tôi biết là có năm người dân Cayenne vượt ngục đến ở đây? Người ta nói là họ ở đây đã được tám ngày. Trả lời đi!
   - Chúng tôi chờ khi nào họ đi lại được và các vết bỏng của họ lành đã.
   - Chúng tôi đến để dẫn họ về Guiria đây. Sẽ có xe tải đến ngay.
   - Ông uống cà phê nhé?
   - Được, cám ơn ông.

Tất cả ngồi thành vòng tròn uống cà phê. Tôi nhìn cảnh sát trường và các nhân viên của ông. Họ không có vẻ ác. Tôi có cảm giác là họ phải làm theo lệnh của cấp trên mà không tán thành lệnh đó.
   - Các ông vượt ngục từ Đảo Quỷ phải không?
   - Không, chúng tôi từ Georgetown ở Guyane thuộc Anh đến.
   - Tại sao các ông không ở đấy?
   - Chỗ ấy kiếm ăn cực lắm.
Ông ta mỉm cười nói:
   - Các ông cho là ở đây dễ chịu hơn là ở với người Anh?
   - Phải, vì chúng tôi cũng gốc La-tinh như ông.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

152#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 16:06:26 | Chỉ xem của tác giả
Một nhóm bảy, tám người tiến lại vòng tròn của chúng tôi. Đứng đầu là một người trạc năm mươi tuổi, tóc bạc trắng, cao hơn một mét bảy mươi lăm, da màu sô-cô-la rất sáng. Đôi mắt to đen biểu lộ trí thông minh và một sức mạnh tinh thần khác thường. Tay phải ông ta đặt trên cán con dao dài đeo bên đùi.
   - Ông cảnh sát trưởng định làm gì đối với những người này?
   - Tôi sẽ giải họ về nhà tù ở Guiria.
   - Sao ông không để họ sống với gia đình chúng tôi? Mỗi gia đình sẽ nhận một người.
   - Không thể được, vì đây là lệnh của tỉnh trưởng.
   - Nhưng họ có phạm tội gì trên đất Venezuela đâu?
   - Tôi công nhận điều đó. Dù sao đây cũng là những người rất nguy hiểm vì họ phạm tội rất nặng mới phải đi đày ở nhà tù khổ sai. Ngoài ra họ còn vượt ngục không có giấy tờ căn cước, chắc chắn cánh sát nước họ sẽ đòi họ khi biết họ ở Venezuela.
   - Chúng tôi muốn giữ họ lại với chúng tôi.
   - Không thể được, vì đây là lệnh của tỉnh trưởng.
   - Cái gì cũng có thể được. Ông tỉnh trưởng biết gì về những con người khốn khổ này? Không có ai là đồ bỏ. Dù có phạm tội gì, đến một lúc nào đó trong đời người ta, cũng có cơ hội phục hồi nhân phẩm để trở thành người tốt, có ích cho xã hội, có phải thế không các ông, các bà?
   - Đúng vậy - đàn ông, đàn bà đều đồng thanh đáp - Các ông cứ để họ ở lại với chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp họ làm lại cuộc đời. Tám ngày qua, chúng tôi đã hiểu họ khá đủ : chắc chắn đây là những người tốt.
   - Có những người văn minh hơn chúng ta đã giam họ vào ngục để họ không làm gì có hại, - viên cảnh sát trưởng nói.
   - Theo ông thì thế nào là văn minh, thưa ông cảnh sát trường? - Tôi hỏi - Ông tưởng có thang máy, máy bay, xe điện ngầm, là người Pháp chúng tôi văn minh hơn những người đã tiếp đón và săn sóc chúng tôi? Ông nên biết rằng theo ngụ ý của tôi, văn minh của nhân loại là có được một tâm hồn cao thượng, sự thông cảm với con người. Ở làng này, sống giữa thiên nhiên, đúng là người ta thiếu những lợi ích của nền văn minh máy móc, nhưng đối với con người, người ta lại có tâm hồn cao thượng hơn, có sự thông cảm hơn; tuy không được hưởng lợi ích của sự tiến bộ, họ lại có ý thức về lòng kính Chúa thương người cao hơn tất cả những kẻ tự nhận là văn minh ở trên đời này. Tôi quý một người thất học ở xóm này hơn là một cứ nhân văn học tại trường Sorbonne ở Paris, nếu anh cử nhân kia một ngày nào đó đầu óc giống như viên biện lý đã kết tội tôi. Một đằng là con người thật sự, còn kẻ kia đã quên mất mình là người rồi.
   - Tôi hiểu anh. Nhưng tôi chẳng qua cũng là cái phận chỉ đâu đánh đấy. Xe đến rồi. Tôi xin tất cả hãy giúp tôi sao cho mọi việc đều êm đẹp.

Mỗi nhóm phụ nữ ôm hôn người mà họ chăm sóc, Tibisay, Nenita La và Negrita vừa hôn tôi vừa khóc như mưa như gió. Đàn ông đều bắt tay chúng tôi, biểu lộ nỗi đau khổ của họ khi thấy chúng tôi phải vào tù.
   - Xin tạm biệt, dân làng Irapa, giòng giống cực kỳ cao thượng đã can đảm đương đầu với chính quyền của nước mình để bảo vệ những kẻ khốn khổ hôm qua còn xa lạ với mình. Miếng bánh mà tôi ăn ở nhà các vị, miếng bánh mà các vị đã dám nhịn để dành cho chúng tôi, miếng bánh tượng trưng cho tình nhân loại anh em, đối với tôi là tấm gương cao cả của thời xưa: “Không được giết người, hãy làm điều lành cho những người đang đau khổ dù có vì vậy mà phải thiếu thốn, hãy luôn luôn giúp người bất hạnh hơn mình”.
Sau này nếu có ngày tôi được tự do, tôi sẽ cố sức giúp đỡ người khác, như những người đầu tiên tôi gặp ở Venezuela đã dạy tôi. Tôi còn gặp nhiều người như thế trong tương lai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

153#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 16:33:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 44

Nhà lao El Dorado

Hai giờ sau, chúng tôi đến một khu làng lớn ở cửa biển, tự xưng là thành phố và lấy tên là “Guiria”. Xã trưởng đích thân trao chúng tôi cho cảnh sát địa phương. Tại Sở cảnh sát chúng tôi được đối xử cũng tạm được, nhưng lại bị hỏi cung, và người hỏi cung, chẳng hiểu biết gì, nhất định không công nhận là chúng tôi từ Guyane thuộc Anh, nơi chúng tôi đã được tự do, đến đây. Ngoài ra khi y bảo chúng tôi giải thích cho y biết tại sao chúng tôi đến Venezuela trong tình trạng cùng quẩn và kiệt lực đến thế này, sau chuyến đi ngắn ngủi từ phố George đến vịnh Paria, y cho là chúng tôi đã giỡn mặt y khi chúng tôi kể chuyện gặp bão ở biển.
   - Hai tàu chở chuối đã bị đắm mất tiêu cả người lẫn hàng, trong cơn gió lốc, một tàu hàng chở bốc-xít cũng bị đắm, tất cả thủy thủ đều chết, thế mà các anh trên cái thuyền dài có năm mét, bị mưa bão vùi dập, lại thoát được? Ai tin nổi chuyện này? Ngay người điên đi ăn xin ở chợ cũng không nghe được. Các anh nói dối. Có một cái gì ám muội trong những điều các anh vừa kể.
   - Xin ông cứ hỏi tin tức ở thành phố George thì biết.
   - Tôi không muốn người Anh cười tôi.

Viên thư ký hỏi cung đần độn và ương bướng, đa nghi và kiêu căng, không biết đã báo cáo thế nào, và gửi báo cáo đi cho ai. Dù sao thì một buổi sớm kia, chúng tôi cũng bị gọi dậy từ năm giờ, bị xích tay và đưa lên xe đến một địa điểm xa lạ. Làng Guiria nằm trong vịnh Paria, đối diện với Trinidad như tôi đã nói. Nó còn có lợi thế là ở cửa sông Orenoque, một con sông rất lớn, gần bằng sông Amazon. Năm đứa chúng tôi bị xích trong một chiếc xe tải trên đó còn có mười cảnh sát viên, đi về hướng Ciudad Bolivar, thủ phủ quan trọng của bang Bolivar. Chuyến đi trên những con đường đất hết sức nhọc nhằn, cảnh sát cũng như tù, bị xóc lên xóc xuống, xô đi xô lại như những bao tải đựng hồ đào trên mái xe, còn lắc lư hơn ngồi trên cộ lết, cuộc hành trình kéo dài năm ngày.

Đêm thì mọi người ngủ trên xe, sáng hôm sau lại tiếp tục phóng như điên đến một nơi nào chẳng biết. Cuộc hành trình đến sụn xương sống này, vượt qua hơn một ngàn ki-lô-mét cách bờ biển đến một vùng rừng nguyên thủy, theo một đường lộ bằng đất từ Guidad Bolivar đến El Dorado. Khi đến làng El Dordo, thì cả lính lẫn tù đều phờ phạc. Nhưng El Dorado là gì? Trước hết đó là niềm hy vọng của dân Tây Ban Nha đi chinh phục Châu Mỹ, thấy dân Anh- điêng ở vùng này có vàng, đã chắc mẩm là ở đấy có một núi vàng, hay ít ra cũng là núi nửa đất, nửa vàng. Cuối cùng, El Dorado chỉ là một làng nằm trên con sông đầy những giống cá chuyên ăn thịt, chỉ trong vài phút có thể ăn nghiến ngấu hết một con người hay một con thú, những con cá điện, gọi là trembladores, cứ lượn quanh mồi, người hay vật, truyền điện rất nhanh vào mồi để rồi hút máu của nạn nhân mà thịt xương đã bị giòng điện phân hủy.

Ở giữa sông có một hòn cù lao, và trên cù lao có một trại giam. Đó là nhà tù khổ sai El Dorado của xứ Venezuela. Khu giam tù khổ sai này là nơi cực nhọc, man rợ và vô nhân dạo nhất mà tôi được thấy trong đời, vì ở đây tù nhân bị đánh đập tàn nhẫn. Đó là một khuôn đất vuông vắn mỗi bề dài một trăm năm mười mét lộ thiên, có dây thép gai bao quanh. Gần bốn trăm nhân mạng nằm giữa trời trong mưa nắng vì quanh khu đất này chỉ có vài tấm tôn kẽm. Không nghe chúng tôi nói lấy một lời, không giải thích gì về quyết định này, họ tống chúng tôi vào trại giam El Dorado, ba giờ trưa, khi chúng tôi còn chết mệt vì chuyến đi xa và bị xích trong xe. Ba giờ rưỡi, chúng hỏi tên và ghi tên chúng tôi, họ gọi chúng tôi lại giao cho hai đứa trong bọn tôi mỗi đứa một cái xẻng, ba đứa kia mỗi đứa một cái cuốc. Năm tên lính, súng và roi gân bò trong tay, có một hạ sĩ chỉ huy, đứng vây quanh chúng tôi, buộc chúng tôi phải đến nơi làm việc, nếu không sẽ bị đánh.

Chúng tôi hiểu ngay rằng đây là do chỉ huy trại giam muốn ra oai với chúng tôi. Lúc này mà kháng lệnh là rất nguy hiểm. Cứ làm đã, rồi sau sẽ hay. Đến chỗ làm việc của tù nhân, họ bắt chúng tôi đào một đường hào ra phía đường giao thông mà họ đang mở ở giữa rừng. Chúng tôi làm tùy theo sức từng người, không nói gì, cũng không ngẩng đầu lên. Chúng tôi nghe thấy tiếng chửi rủa và những tiếng đánh đập dã man mà tù nhân luôn luôn phải chịu đựng. Không một ai trong bọn chúng tôi bị đánh một roi gân bò. Buổi làm việc ngay khi vừa đến trại giam là để cho chúng tôi thấy rõ các tù nhân bị đối xử ra sao.

Hôm ấy là thứ bảy. Sau giờ làm, còn đầy mồ hôi và bụi đất, chúng tôi bị đưa vào trại, vẫn không qua một thủ tục nào.
   - Năm thằng dân Cayenne lại đây. - Tên hạ sĩ giám thị gọi.
Tên này là người lai, cao một mét chín mươi, tay cầm một cây roi gân bò. Nó là một tên đần độn thô lỗ chỉ chuyên giữ trật tự ở bên trong trại giam. Họ chỉ cho chúng tôi chỗ mắc võng ở nơi trống trải gần cổng ra vào trại giam, nhưng tại đấy cũng có một cái mái tôn, ít ra chúng tôi cũng được che nắng che mưa. Đa số tù nhân là người Colombia, số còn lại là dân Venezuela. Không một trại cải hối nào của tù khổ sai có thể ví với cái cảnh ghê tởm của trại lao động khổ sai này. Một con lừa bị đối xử như những người ở đây chắc phải chết mất. Nhưng gần như tất cả mọi người đều khỏe mạnh, vì thức ăn thức uống ở đây rất dồi dào và ngon lành.

Bọn chúng tôi họp ngay một cuộc hội nghị quân sự nhỏ.Nếu có ai trong bọn chúng tôi bị lính đánh, tốt nhất là chúng tôi ngưng làm việc, nằm ra đất và dù bị đối xử ra sao cũng không đứng dậy. Thế nào cũng phải có một người chỉ huy đến và chúng tôi sẽ hỏi tại sao chúng tôi không phạm tội gì mà lại phải ở trong trại giam khổ sai này? Hai người đã mãn hạn tù là Guittou và Barrière đã lên tiếng đòi phải trả họ về Pháp. Rồi chúng tôi quyết định gọi hạ sĩ giám thị đến. Tôi sẽ nói chuyện với y. Y được mệnh danh là Negro Blanco (Mọi Trắng). Guittou đi kiếm y. Tên đao phủ tới, tay vẫn cầm roi gân bò. Cả năm chúng tôi vây quanh y.
   - Các anh muốn gì?
Tôi nói:
   - Chúng tôi chỉ nói với anh một lời thôi, chúng tôi sẽ không phạm một lỗi gì trái với quy chế ở đây, do đó anh không có lý do gì để đánh bất cứ ai trong chúng tôi. Vì chúng tôi thấy anh đánh bất kể ai, đôi khi chẳng có lý do gì, chúng tôi mời anh đến để nói với anh rằng, ngày nào anh đánh một người trong bọn chúng tôi anh sẽ chết ngay. Anh hiểu chưa?
   - Rồi, - tên Mọi Trắng nói.
   - Một kiến nghị cuối cùng nữa.
   - Gì thế - Y nói, giọng nghe đùng đục.
   - Nếu những gì tôi vừa nói với anh cần được nhắc lại cho người khác, thì người đó phải là một sĩ quan chứ không thể là lính được.
   - Đồng ý, - y nói rồi đi.

Sự việc này xảy ra ngày chủ nhật là ngày mà tù nhân không phải đi làm. Một sĩ quan tới.
   - Tên anh là gì? - Papillon.
   - Anh chỉ huy những người dân Cayenne này à?
   - Chúng tôi có năm người, ai cũng là chỉ huy cả.
   - Thế thì tại sao người nói chuyện với giám thị lại là anh?
   - Vì tôi nói tiếng Tây Ban Nha khá hơn mọi người kia.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

154#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 16:35:27 | Chỉ xem của tác giả
Đấy là một đại úy quân cảnh vệ quốc gia. Y nói với tôi rằng y không phải là chỉ huy đơn vị này. Có hai sĩ quan cao cấp nhưng họ không có mặt ở đâỵ Kể từ khi chúng tôi đến, y giữ quyền chỉ huy. Hai viên sĩ quan kia thứ ba mới về.
   - Anh đã nhân danh anh và nhân danh các bạn anh, dọa giết giám thị nếu các anh bị y đánh. Có đúng thế không?  
   - Đúng thế đấy, và lời đe dọa đó cần được coi là một lời hứa chắc. Bây giờ tôi nói thêm cho ông biết là chúng tôi sẽ không bao giờ tạo ra lý do để các ông trừng phạt thể xác chúng tôi. Đại úy cũng biết là không có tòa án nào xét xử chúng tôi vì chúng tôi không phạm tội gì ở Venezuela cả.
   - Tôi không biết. Các ông đến trại không có giấy tờ gì hết, chỉ có một giấy của giám đốc ở làng viết là “những người này phải làm việc ngay sau khi đến nơi”.
   - Vậy thì ông hãy đối xử cho công bằng, vì ông là quân nhân, và ông phải đợi cấp chi huy của ông đến đã. Ông phải báo cho lính của ông biết và đối xử với chúng tôi khác với các tù nhân khác. Tôi nhắc lại để ông biết chúng tôi không phải và không thể là những kẻ bị đem ra tòa xử vì chúng tôi không hề phạm tội gì ở Venezuela.
   - Được, tôi sẽ ra lệnh như vậy. Tôi mong rằng các ông không nói dối tôi.

Tôi có thì giờ nghiên cứu các tù nhân suốt buổi chiều chủ nhật đầu tiên này. Điều thứ nhất làm tôi ngạc nhiên là tất cả tù nhân đều khỏe mạnh về thể xác. Điều thứ hai là họ bị đánh như cơm bữa nên họ quen chịu đựng đến nỗi ngay cả chủ nhật là ngày nghỉ, họ có thể dễ dàng tránh được việc đó bằng cách giữ mình cẩn thận, nhưng hình như họ đi tìm một khoái cảm bệnh tật trong khi đùa với lửa một cách ngông cuồng. Họ không ngừng phạm những điều cấm kỵ: chơi xúc xắc, vào nhà tiêu hôn hít một cậu pê- đê, ăn cắp của bạn, ăn nói thô tục với những người đàn bà trong làng vẫn mang quà bánh hay thuốc lá cho tù nhân. Mấy người đàn bà này cũng trao đổi hàng hóa với họ. Một cái rổ đan, một đồ vật chạm được đem đổi lấy ít tiền hay vài bao thuốc lá. Thế mà cũng có những tù nhân tìm cách cướp giật qua hàng rào dây thép gai những thức mà các bà đưa ra mời chào rồi chạy biến lẫn vào đám đông, không chịu đưa ra món hàng mà lẽ ra họ phải đem đổi.

Kết quả là những hình thức roi vọt, được áp dụng bừa bãi chẳng đâu vào đâu đã làm cho da thịt họ chai lì, tạo nỗi khiếp sợ trong trại giam mà chẳng có lợi gì đối với trật tự xã hội, cũng như chẳng cải tạo được những con người khốn khố này. Nhà giam cấm cố ở đảo Sant-Joseph với cảnh im ắng của nó còn ghê rợn hơn thế này. Ở đây, sự sợ hãi chỉ trong chốc lát, tù nhân có thể nói chuyện với nhau ban đêm, ngoài giờ làm việc và ngày chủ nhật, lại được ăn uống đầy đủ, cho nên rất có thể chịu đựng được án tù của mình, vốn không bao giờ quá năm năm.

Chúng tôi hút thuốc, uống cà phê và trò chuyện với nhau cho qua ngày chủ nhật. Vài tù nhân người Colombia mon men đến gần. Chúng tôi gạt họ đi một cách nhã nhặn nhưng kiên quyết, phải để cho mọi người thấy chúng tôi là một loại tù đặc biệt, nếu không thì hỏng hết. Sáu giờ sáng hôm sau, ngày thứ hai, ăn xong bữa sáng thịnh soạn, chúng tôi đi làm cùng các tù khác. Sau đây là cách khởi đầu công việc, hai hàng người đứng đối diện với nhau, năm mươi tù nhân, năm mươi lính, mỗi tên lính phụ trách một tù nhân. Giữa hai hàng người là năm mươi dụng cụ, cuốc, xẻng hay rìu. Hai hàng người theo dõi nhìn nhau. Hàng tù nhân thì lo lắng, hàng lính thì hung hãn.

Viên đội hô: “Tên Mỗ... lấy cuốc. Kẻ khốn khổ đó hối hả vác cuốc lên vai, và đâm đầu chạy đi làm việc. Viên đội lại hô “numéro” có nghĩa là (đội viên số một, hai ba v.v... ” tên lính mang số đó lao theo người tù và lấy roi gân bò quất y. Cảnh tượng hãi hùng này diễn ra một ngày hai lần. Trên đường từ trại giam đến nơi làm việc, người ta có cảm giác đấy là những kẻ chăn lừa chạy theo đánh con lừa của mình chăn. Chúng tôi chờ đến lượt mình, lo sợ đến lạnh người. May thay, nó không như thế."Năm người Cayenne, lại đây! Các anh trẻ, cầm cuốc, còn hai người già kia cầm hai cái xẻng đây". Chúng tôi bắt đầu đi không phải chạy nhưng cùng là rảo bước, có năm tên lính và một tên cai giám sát, và cứ thế chúng tôi đến công trường lao dịch của trại.

Ngày lao động hôm nay dài và nản hơn ngày đầu tiên. Những người bị chú ý nhiều nhất đã kiệt sức, la hét như điên và quỳ xuống lạy van, xin lính đừng đánh họ. Buổi chiều, họ phải gom những mớ củi cháy dớ thành một đống lớn. Một số phải quét dọn ở phía sau. Mỗi tên lính dùng roi gân bò quật người tù y phải giám sát để người này nhặt các mảnh vụn rồi chạy đem đến khu trung tâm trại. Phải chạy như ma đuổi, một số tù phát điên thật sự và trong lúc vội vã đôi khi họ cầm củi ở đầu còn cháy đỏ. Tay bị bỏng, bị quất roi tới tấp, nhiều khi họ dẫm cả bàn chân đất lên đống than hồng hay một cành củi còn bốc khói ở dưới đất, cành tượng quái dị này kéo dài ba giờ.

Không ai trong bọn tôi phải tham gia việc dọn sạch bãi đất mới khai quang này. Cũng là may, vì chúng tôi vừa cắm đầu cuốc đất, vừa nhắn nhau bằng những câu ngắn gọn là mỗi đứa chúng tôi sẽ nhảy xổ vào năm tên lính, kể cả giám thị, cướp súng của chúng và bắn vào lũ man rợ đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

155#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 17:51:43 | Chỉ xem của tác giả
Hôm nay thứ tư, chúng tôi không ra chỗ làm việc. Hai sĩ quan chỉ huy đội cảnh vệ quốc gia gọi chúng tôi lên bàn giấy. Hai quân nhân này rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi đến El Durado mà không có tài liệu gì chứng tỏ là có một tòa án nào đã gửi chúng tôi đến đây. Họ hứa với chúng tôi là ngày mai sẽ hỏi lên giám đốc cơ quan hình sự. Cũng không lâu la gì, hai viên thiếu tá chỉ huy đội cánh vệ trại giam này quả là nghiêm khắc, có thể nói là trấn áp, nhưng lại đứng đắn, vì họ đòi giám đốc trại phải đích thân đến giải thích cho chúng tôi rõ.

Ông ta đã đến, cùng đi với người em rể tên là Russian và hai sĩ quan đội cảnh vệ quốc gia:
   - Francesé. Tôi là giám đốc trại El Dorado đây. Các anh muốn nói với tôi điều gì vậy?
   - Trước hết, tòa án nào đã ra lệnh giam chúng tôi vào trại lao động khổ sai này? Bao nhiêu lâu và về tội gì? Chúng tôi đến Irapa ở Venezuela bằng đường biển. Chúng tôi không phạm một tội nhỏ nào. Vậy thì chúng tôi ở đây vì lẽ gì? Và các ông bắt chúng tôi phải làm khổ sai là nghĩa lý gì?
   - Trước hết, hiện nay đang là thời chiến, vậy chúng tôi phải biết rõ các anh là ai.
   - Đúng, nhưng điều đó không giải thích được việc chúng tôi bị tống vào trại giam này.
   - Các anh đã trốn tránh pháp luật của nước Pháp vì vậy chúng tôi cần phải biết rõ họ có đòi lại các anh không.
   - Tôi thừa nhận điều đó, nhưng tôi vẫn cứ hỏi: tại sao lại đối xử với chúng tôi như chúng tôi đang phải chịu án?
   - Bây giờ các anh tạm ở đây căn cứ vào điều luật về “vaguesét maleantes” (vegueset maleantes - tiếng Tây Ban Nha), (luật đối với những người vô cư đi lang thang) trong khi còn điều tra thêm về các anh.

Cuộc tranh luận sẽ còn kéo dài nếu một sĩ quan không đưa ý kiến riêng của mình ra để cắt đứt vấn đề.
   - Thưa ông giám đốc, thật ra chúng ta không thể đối xử với năm người này như các tù nhân khác. Trong khi chờ báo cáo về Caracas về hoàn cảnh đặc biệt này, tôi đề nghị sử dụng những người này vào việc khác chứ đừng bắt họ làm đường.
   - Những người này nguy hiểm lắm, họ đe dọa sẽ giết giám thị nếu họ bị đánh. Có đúng không?
   - Thưa ông giám đốc, chúng tôi không chỉ đe dọa người đó đâu: chúng tôi sẽ giết ngay bất cứ kẻ nào dại dột đánh một người trong chúng tôi.
   - Nếu là lính thì sao?
   - Cũng vậy thôi. Chúng tôi không làm gì để phải chịu một chế độ như thế này. Luật lệ và chế độ lao tù của nước chúng tôi có thể khủng khiếp và vô nhân đạo hơn của các ông, nhưng bị đánh như súc vật, chúng tôi quyết không chấp nhận.

Viên giám đốc đắc ý quay về phía các sĩ quan của mình: “Các ông đã thấy họ là những người nguy hiểm chưa?” Viên thiếu tá lớn tuổi hơn ngập ngừng một chút rồi kết luận, làm mọi người kinh ngạc:
   - Những người Pháp vượt ngục này nói có lý, không điều gì ở Venezuela chứng minh được là họ phải chịu đựng các hình phạt tuân theo luật lệ của trại giam này. Tôi công nhận họ nói đúng. Cho nên có hai diện, thưa ông giám đốc: hoặc ông cho họ làm việc gì khác với các tù nhân thường, hoặc họ không đi làm việc. Để họ chung với mọi người, có ngày họ sẽ bị lính đánh thôi.
   - Chúng ta sẽ xét việc đó sau. Bây giờ, cứ để họ ở lại trại. Mai, tôi sẽ cho các ông biết phải làm gì.
Viêm giám đốc cùng người em rể ra về. Tôi cảm ơn các sĩ quan. Họ cho chúng tôi thuốc lá và hứa trong buổi điểm danh tối sẽ thông tri cho sĩ quan và binh lính là tuyệt đối không được đánh chúng tôi bất cứ vì lý do gì.

Chúng tôi ở đây đã được tám ngày. Chúng tôi không phải làm việc. Hôm qua chủ nhật, đã xảy ra một sự việc khủng khiếp. Những người tù Colombia đã rút thăm để xem ai phải giết tên giám thị Mọi Trắng. Thăm rơi vào một người trạc ba mươi tuổi. Họ đã làm cho anh ta một cái muỗng bằng sắt, cán được mài trên nền xi- măng thành một mũi xiên rất nhọn, hai cạnh đều sắc. Người ấy đã can đảm nhận lời cam kết. Anh đâm tên Mọi Trắng ba nhát ở gần tim. Viên giám thị được cấp tốc đưa đi bệnh viện, thủ phạm giết người bị trói vào một cây cột ở giữa trại. Bọn lính đi tìm các vũ khí khác. Như một lũ điên, chúng dùng roi vọt quất tứ tung. Trong cơn tức giận sôi sục, do tôi chưa cởi quần kịp cho nó soát, một tên lính đã quật một roi gân bò vào đùi tôi. Barriére liền cầm một chiếc ghế dài và giơ lên toan phang vào đầu nó. Một tên lính khác dùng lưỡi lê đâm suốt qua cánh tay anh trong lúc tôi cũng đá vào bụng tên lính đã đánh tôi làm y nằm sóng soài ra đất.

Tôi vừa nắm lấy khẩu súng rớt dưới đất thì một có tiếng hô lớn:
   - Ngừng lại tất cả! Không được đụng đến mấy người Pháp. Anh người Pháp cũng bỏ súng xuống!  
Đó là đại úy Floran đã gặp chúng tôi hôm đầu tiên chúng tôi đến trại. Ông ta can thiệp đúng vào lúc tôi sắp bắn vào đám lính. Không có ông, chúng tôi chắc có thể giết được một hai tên lính, nhưng chúng tôi cũng bỏ xác một cách ngu ngốc ở cái xứ Venezuela sơn cùng thủy tận này, trong khi chúng tôi đã đi gần tới đích. Nhờ có sự can thiệp kiên quyết của viên đại úy, bọn lính rời nhóm chúng tôi để đi hành hung chỗ khác. Và đến đây chúng tôi đã chứng kiến một chuyện ghê tởm cực kỳ khó lòng có thể tưởng tượng được.

“Tội nhân” bị trói vào một cái cột ở giữa trại giam và bị ba người, một tên giám thị và hai tên lính, đánh liên tục đến nhừ tử, từ năm giờ chiều đến sáu giờ sáng hôm sau. Đánh đập một con người cho đến chết cũng mất khá nhiều thời gian. Những lúc ngừng đánh (chỉ mấy giây thôi), là để hỏi tội nhân xem tòng phạm là những ai, ai đã đưa cái muỗng, ai đã mài sắc nó. Anh ta không tố giác ai, mặc dầu người ta đã hứa với anh là hễ anh nói ra, cuộc tra tấn sẽ ngưng ngay. Anh ta ngất đi nhiều lần. Họ đổ hàng xô nước cho anh tỉnh lại. Mức độ cao nhất là lúc bốn giờ sáng. Những kẻ tra tấn thấy da thịt nạn nhân không phản ứng nữa dù chỉ là co lại khi bị đánh, nên họ đã dừng lại.
   - Nó đã chết chưa? - Một sĩ quan hỏi.
   - Không biết nữa.
   - Cởi trói ra, bắt nó quỳ sấp xuống.
Bị bốn tên lính giữ chặt, người tựa quỳ ở tư thế gần như bò bốn chân. Bấy giờ một tên đao phủ lấy roi gân bò quất một phát thẳng theo các khe giữa hai mông đít, đầu ngọn roi chắc còn đi xa tới quá bộ phận sinh dục. Cú đánh của kẻ tra tấn điêu luyện này làm tội nhân cuối cùng phải rên lên một tiếng. Viên sĩ quan nói:
   - Tiếp tục đánh. Nó chưa chết.
Anh ta bị đánh cho đến sáng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

156#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 17:53:25 | Chỉ xem của tác giả
Trận đòn xứng đáng với thời Trung Cổ này, có thể làm chết một con ngựa, lại không làm tội nhân chết hẳn. Sau khi họ để anh ta yên một giờ không đánh, và sau khi họ dội vài xô nước vào người, anh ta vẫn còn sức để đứng dậy, tuy cũng được bọn lính đỡ thêm. Anh ta đứng thẳng một lát, không cần tựa vào ai, viên y tá đến cạnh, tay cầm một ly nước:
   - Uống tí thuốc xổ đi, mày sẽ hồi lại, - một sĩ quan ra lệnh.
Tội nhân do dự rồi uống liều thuốc một hơi. Một phút sau, anh ta ngã vật ra, vĩnh viễn nằm xuống. Trong cơn hấp hối, từ miệng anh thốt ra một câu: “Đồ ngốc, chúng nó đầu độc mày rồi”.

Tất cả các tù nhân, kể cả chúng tôi, không có ý định làm gì,dù động đậy một ngón tay. Mọi người, không trừ ai, đều khiếp sợ. Đây là lần thứ hai trong đời, tôi muốn chết đi cho xong. Trong khoảng vài ba phút, tôi chú ý đến khẩu súng của một tên lính đứng gần tôi cầm hờ hững. Tôi chỉ kìm lại được khi nghĩ rằng có thể chưa kịp lên qui-lát và bắn vào đám lính thì đã chết rồi. Một tháng sau. Mọi Trắng lại trở về, và hơn bao giờ hết vẫn là nỗi khiếp sợ của trại giam. Tuy nhiên số nó đã được định đoạt là phải chết ở El Dorado. Một đêm, một người lính gác đã chĩa súng vào nó khi thấy nó đi qua.
   - Qùy xuống, - người lính ra lệnh.
Mọi Trắng tuân theo.
   - Cầu kinh đi, mày sẽ chết.
Người đó để nó cầu một bài kinh ngắn rồi hạ nó bằng ba phát súng. Có những tù nhân nói rằng người lính kia ghê tởm thấy tên đao phủ này đánh các tù nhân quá ư man rợ nên đã giết nó. Lại có người kể rằng Mọi Trắng đã tố giác người lính nọ với cấp trên của anh ta, nói rằng nó đã biết anh ta từ hồi ở Caracas trước lúc đi quân dịch, theo nó hồi ấy anh ta là một thằng kẻ cắp. Nó đã được chôn cất gần người tù tội nhân. Người lính đó chắc đã từng là kẻ cắp nhưng hắn cũng là một con người có lòng dũng cảm và một phẩm giá khác thường.

Tất cả những sự việc ấy đã làm cho quyết định về chúng tôi bị chậm lại. Các tù nhân khác cũng không được đưa đi làm việc trong mười lăm ngày. Barrière được một bác sĩ trong làng chữa cho khỏi vết thương do lưỡi lê đâm. Lúc này chúng tôi đã được kính nể. Hôm qua Chapar đã đi làm đầu bếp cho giám đốc ở trong làng. Guittou và Barrière đã được trả tự do vì tin tức về chúng tôi đã được thông báo từ Pháp. Vì hai người đã mãn hạn tù nên họ được thả. Tôi đã khai một tên Ý. Tên thật của tôi cùng với dấu tay và án tù chung thân của tôi đã được thông báo. Deplanque với án hai mươi năm cũng như án của Chapar đều được thông báo, vị giám đốc có vẻ tự hào khi cho chúng tôi biết tin tức nhận được từ bên Pháp, ông nói:
   - Tuy nhiên, vì các anh không làm việc gì xấu ở Venezuela, nên các anh chỉ bị giữ một thời gian, sau đó các anh sẽ được trả tự do. Nhưng muốn được vậy, các anh phải làm việc, có thái độ tốt: các anh đang ở trong thời kỳ cần theo dõi.

Nhiều lần nói chuyện với tôi, các sĩ quan phàn nàn về việc khó kiếm ra rau tươi ở trong làng. Trại có một khu nông nghiệp nhưng không có rau, mà chỉ trồng lúa, bắp, đậu đen thôi. Tôi đề nghị sẽ trồng cho họ một vườn rau nếu tôi có hạt giống. ý kiến được chấp thuận ngay. Điều lợi nhất: Deplanque và tôi được ra khỏi trại, và vì có thêm hai người tù biệt xứ bị bắt giữ ở Luidad Bolivar, nên họ đã nhập bọn với chúng tôi. Một người tên Toto, là dân Paris, người kia dân Corse. Bốn chúng tôi đã làm hai căn nhà nhỏ bằng gỗ tốt, mái lợp lá cọ. Deplanque và tôi ở một căn, hai cậu nọ ở căn kia.Toto cùng tôi làm những cái bàn cao, bốn chân bàn đặt trong những cái lon đổ dầy dầu hôi để kiến không lên ăn hạt giống. Chúng tôi đã có ngay những cây cà chua, cà tím, đưa tây và đậu xanh. Chúng tôi bắt đầu cấy lên trên những tấm ván vì cây con đã đủ sức chống được kiến.

Để trồng cà chua mới, chúng tôi đào một cái hố lúc nào cũng có nước ở bên vườn. Làm như vậy cho cây luôn có độ ẩm và ngăn cách loại ký sinh vốn rất nhiều ở nơi đất chưa được khai thác này.
   - Cái gì thế này nhỉ,- Toto gọi tôi. - Anh thử xem hòn đá cuội này, nó sáng biết chừng nào.
   - Cậu rửa sạch đi xem.
Rửa xong cậu ta đưa cho tôi coi. Đó là một viên thạch anh, to bằng gạt đậu. Rửa sạch rồi, mặt cắt của nó bóng hơn nhiều vì nó có một lớp vỏ kết rất cứng bao quanh.
   - Có phải là kim cương không nhỉ?
   - Câm miệng đi Toto, nếu là kim cương thì không phải ba hoa, mày không thấy nếu chúng ta may mắn vớ được một cái mỏ kim cương thì sẽ ra sao à? Giấu đi, để tối về xem sao.

Buổi chiều, tôi dạy toán cho một viên hạ sĩ đang chuẩn bị thi lên cấp sĩ quan. Con người rất mực cao thượng và thẳng thắn ấy (anh đã chứng tỏ những đức tính ấy trong tình bạn dài hai mươi lăm năm với tôi, bây giờ là đại tá Fransciseo Bolsgno Utrera)
   - Francisco, có biết cái gì đây không? Có phải thạch anh không?
   - Không phải - Sau khi xem xét rất tỉ mi anh nói - Đây là kim cương. Anh giấu kỹ đừng cho ai trông thấy. Anh tìm thấy nó ở đâu?
   - Dưới gốc cà chua.
   - Lạ thật. Có phải anh lấy nước ở sông lên tưới cà chua không? Khi múc nước sông anh có cào xuống đáy làm cho cát lẫn vào nước không?
   - Rất có thể như vậy.
   - Vậy thì đúng rồi. Viên kim cương này anh đã mang từ dưới sông Rio Caroni lên đấy. Anh có thể tiếp tục kiếm dưới sông đi, nhưng cũng để ý xem trong vườn có còn những viên khác không, vì không bao giờ người ta lại chỉ tìm được có một viên đá quý. Đã kiếm ra một viên ở đâu thì thế nào cũng còn những viên khác.

Toto bắt tay ngay vào việc. Chưa bao giờ cậu ta làm nhiều như vậy, đến nỗi hai anh bạn kia, vốn không được chúng tôi kể lại việc này, phải nói:
   - Làm vừa vừa thôi Toto, xách nước sông kiểu đó thì chẳng bao lâu sẽ lao lực mà chết. Đã thế lại còn tha cả cát về nữa.
   - Để cho đất tươi hơn các cậu ạ, - Toto đáp, - Đất có lẫn cát, lọc nước tốt hơn.
Mặc cho chúng tôi trêu chọc. Toto cứ tiếp tục sách nước không ngừng. Một hôm vào lúc giữa trưa cậu ta bị ngã ngay trước chỗ chúng tôi đang ngồi ở bóng râm. Trong đống cát văng tứ tung, có một viên đá to bằng hai hạt đậu. Một lần nữa lớp vỏ bộc bị vỡ, nếu không cũng chẳng ai biết. Cậu ta vồ lấy viên đá một cách quá vội vã.
   - Này, có phải kim cương không? - Deplanque nói - bọn lính bảo là dưới sông có kim cương và vàng đấy.
   - Bởi vậy tôi mới xách nhiều nước thế chứ. Các anh cũng thấy là tôi không ngốc chứ. - Toto nói, mãn nguyện vì đã biện minh được cho sự hăng hái của mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

157#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 18:01:46 | Chỉ xem của tác giả
Nói tóm lại trong sáu tháng Toto đã có được sáu bảy ca-ra kim cương. Tôi có độ mười hai ca-ra cộng thêm hơn ba chục viên đá nhỏ, và như vậy đã là hàng kinh doanh được rồi, theo lối nói lóng của dân thợ mỏ. Nhưng một hôm tôi kiếm được một viên hơn sáu ca-ra, sau này đưa về Caracas dũa đi còn được gần bốn ca-ra. Hiện tôi vẫn còn giữ nó và đeo thường xuyên ở tay. Deplanque và Antartaglia cũng gom góp được vài viên đá quý. Tôi vẫn còn cái plan trong nhà giam cũ, và tôi đã cất cả vào đấy. Bọn họ thì lấy những khúc sừng trâu nhọn đầu để làm chỗ giấu các vậy báu nho nhỏ ấy. Chẳng ai biết gì về việc này, trừ ông đại tá tương lai, lúc này đang là hạ sĩ Francisco Bolagno.

Cà chua và các cây khác mọc đều, các sĩ quan trả tiền rất sòng phẳng số rau mà hàng ngày chúng tôi đem lên bếp của họ. Chúng tôi được tương đối tự do. Không có ai canh gác khi chúng tôi làm việc và ngủ ở hai căn nhà nhỏ. Chúng tôi không bao giờ đi vào trại giam. Chúng tôi được kính nể và đối xử tử tế. Tất nhiên mỗi lần gặp giám đốc là chúng tôi lại năn nỉ để ông cho chúng tôi được hưởng tự do. Lần nào ông cũng đáp: “Sắp sửa rồi”. Nhưng chúng tôi ở đây đã được tám tháng mà vẫn chẳng có gì thay đổi. Tôi đã bắt đẩu tính chuyện trốn đi. Toto không chịu, cả mấy cậu kia cũng vậy. Để nghiên cứu giòng sông, tôi kiếm được một cuộn dây và cái lưỡi câu. Tôi bán các loại cá, đặc biệt loại cá Caribes chuyên ăn thịt, có con nặng đến một ký, hàm răng bố trí như răng cá mập, và cũng khủng khiếp như thế. Hôm nay, có chuyện náo động, Gaston Duranton, còn gọi là thằng Khoèo, đã trốn biệt mang theo bảy mươi ngàn bolivar trong két sắt của giám đốc. Câu chuyện về gã giang hồ này khá độc đáo.

Khi còn nhỏ, nó đã ở nhà trừng giới ở đảo Cleron, làm thợ ở xưởng giày tại đó. Một bữa, sợi dây cu-roa dùng để chuyển chiếc giầy đặt trên đầu gối đưa xuống dưới chân nó bị đứt. Nó bị gãy xương hông. Vì chữa chạy không chu đáo, cái xương hông chỉ liền có một nửa: suốt quãng dời niên thiếu và một phần tuổi trưởng thành chân nó cong queo, người nó vẹo một bên. Nhìn nó đi thật là khổ tâm. Thằng nhỏ gày ốm, thân hình vẹo vọ, khó nhọc kéo lê cái chân không còn điều khiển được nữa. Nó vào trại giam năm hai mươi lăm tuổi. Vì phải sống những thời gian dài ở các trại cải tạo, nên không có gì lạ khi ra khỏi đấy, nó trở thành kẻ cắp.Ai cũng gọi nó là thằng Khoèo. Không mấy người biết tên nó là Gaston Duranton. Nó khoèo, vậy người ta gọi nó là thằng Khoèo có sao đâu.

Tuy vậy vẹo vọ như vậy, nhưng nó cũng vượt ngục ra khỏi trại giam và đến được Venezuela. Chuyện ấy xảy ra dưới thời lão độc tài Gomez. Rất ít tù khổ sai thoát khỏi sự đàn áp của lão ta. Chỉ có vài trường hợp ngoại lệ, trong đó phải kể đến trường hợp bác sĩ Bougrat vì bác sĩ đã cứu được tất cả dân chúng đảo ngọc trai “Margarita” khỏi bệch dịch sốt vàng da. Thằng Khoèo bị bọn “Sagrada”, tức đội cảnh sát đặc biệt của Gomez bắt và đưa đi làm đường ở Venezuela. Các tù nhân Pháp và Venezuela bị xích vào những hòn lê có in lõm hình hoa huệ Toulon. Mỗi khi tù nhân khiếu nại điều gì, thì người ta lại nói với hắn: “Nhưng mà những thứ dây xích, xì ga ma-ni, hòn lê này là từ trước của mày đem sang đấy chứ? Trông bông huệ kìa!"(*Hoa huệ vốn là biểu trưng của Vương quốc Pháp kể từ triều đại nhà Capet). Tóm lại, thằng Khoèo trốn khỏi trại lưu động làm đường. Vài ngày sau, nó bị bắt, và bị đưa trả về nơi giam lưu động nọ.

Trước tất cả tù nhân, nó phải nằm sấp trần truồng để chịu một trăm roi gân bò. Rất hiếm người chịu đựng nổi trên tám mươi roi. Điều may cho nó là nó gầy ốm, và khi nó nằm bụng sát đất roi không đánh vào gan, bộ phận dễ bị dập nếu bị đánh mạnh. Lệ thường ở đây, sau mỗi lần bị roi vọt hai mông đít bị băm nát, là phải xát muối vào vết thương rồi để nằm ngoài nắng. Nhưng người ta cũng lấy lá cây dày để che đầu cho nó, vì người ta chấp nhận cho nó chết vì đòn roi chứ không thể để cho nó chết nắng được. Thằng Khoèo lại sống sót được sau nhục hình kiều thời Trung cổ này và lần đầu tiên nó đứng lên, thì lạ thay, nó không còn “khoèo” nữa. Trận đòn đã làm cho chỗ xương nối lệch lại trật khớp và trở về đúng chỗ. Lính và tù đều reo lên coi đó là một phép mầu, và chẳng còn ai hiểu ra sao nữa. Ở cái đất nước mê tín này, người ta cho là Chúa đã thưởng cho nó vì đã chịu đựng sự tra tấn một cách xứng đáng.

Từ ngày ấy, nó không bị xích, cũng không phải đeo hòn lê nữa. Nó được che chở và chuyển sang việc phân phối nước cho các tù khổ sai. Thân hình nó đã mau lớn, nở nang và ăn được nhiều, nó trở thành một thanh niên cao lớn như lực sĩ. Nước Pháp biết là có những tù khổ sai phải làm đường ở Venezuela. Cho rằng những năng lực này sẽ được áp dụng tốt hơn hết ở Guyane thuộc Pháp, thống chế Franchet d'Esperey được cử đi công cán để đề nghị với vị độc tài đang vui vì không phải bỏ tiền mà cũng có nhân công - trả lại những người đó cho nước Pháp. Gomez chấp nhận, và một chiếc tàu đã cập bến Puerto Cabelle để đón những người này về.

Ở đấy, có những pha hài hước kinh khủng vì có những người từ các nông trường làm đường ở khắp nơi đến chưa biết chuyện thằng Khoèo.
   - A! Marcel khỏe chứ!
   - Cậu là ai nhỉ?
   - Thằng Khoèo.
   - Cậu rỡn mặt với tôi đấy hả!  
Tất cả những ai được Gaston chào hỏi đều trả lời như vậy khi thấy chàng trai cao dẹp vững vàng trên đôi chân thẳng tắp này. Thằng Khoèo còn trẻ và thích đùa nên luôn miệng gọi những ai nó quen trong khi mọi người xuống tàu, và dĩ nhiên, không ai thừa nhận là thằng Khoèo lại có thể đứng thẳng dậy được. Ở trại tù khổ sai, tôi được chính nó và những tù khác ở đảo Royale kể lại chuyện này. Nó lại vượt ngục năm 1943, và trôi giạt về El Dorado. Vì nó đã sống ở Venezuela rồi, nên dĩ nhiên nó không để lộ chuyện nó còn là tù, và nó được giao việc nấu bếp thay cho Chapar chuyển sang làm vườn.

Nó ở trong làng cùng với giám đốc, nghĩa là ở bên kia sông. Trong phòng làm việc của giám đốc có một cái két sắt đựng tiền của trại. Ngày hôm đó, nó lấy cắp bảy mươi ngàn bolivar, tương đương với gần hai mươi ngàn đô-la lúc bấy giờ. Do đó xảy ra chuyện náo động ở khu vườn chúng tôi: ông giám đốc, ông em rể và hai viên chỉ huy đội cảnh vệ làm rùm beng lên. Ông giám đốc muốn đưa chúng tôi vào trại. Hai viên sĩ quan không chịu. Họ bảo vệ chúng tôi cũng là bảo vệ việc tiếp tế rau xanh của họ. Chúng tôi cuối cùng cũng thuyết phục được ông giám đốc là chúng tôi không cung cấp được cho ông tin tức gì cả; nếu chúng tôi biết được thì chúng tôi có thể cũng đã đi với nó, rằng mục đích của chúng tôi là được tự do ở Venezuela chứ không phải ở Guyane thuộc Anh, địa điểm duy nhất mà nó có thể đến được.

Lần theo vết đàn kền kền đã ăn xác nó, người ta tìm thấy thằng Khoèo chết trong rừng cách trại bảy mươi ki-lô-mét, rất gần biên giới Guyane thuộc Anh. Cách giải thích thứ nhất, cách giản tiện thứ nhất, là nó đã bị người Anh- điêng giết. Về sau, có một người bị bắt ở Giudad bolivar trong khi đang đổi những tờ giấy bạc năm trăm bolivar mới tinh. Nhà Ngân hàng đã phát số tiền cho giám đốc trại El Dorado nắm được số hiệu của tập giấy bạc và thấy đấy chính là số tiền bị mất cắp. Tên kia thú nhận và tố giác hai tên khác. Nhưng không sao bắt được hai tên này. Đó là câu chuyện về cuộc đời và cái chết của anh bạn thân của tôi, Gaston Duranton, còn gọi là thằng Khoèo.

Một số sĩ quan lén lút dùng tù nhân vào việc mò vàng và kim cương ở dòng sông Rio Caroni. Cũng có kết quả khả quan, không nhiều lắm nhưng cũng đủ để kích thích những kẻ đi tìm kim cương. Phía dưới vườn tôi có hai người làm việc suốt ngày với cái nón kiểu Tàu lật ngửa, đầu nhọn ở dưới, vành tròn ở trên. Vì kim cương nặng nhất nên nó lắng xuống đáy nón. Đã có một người chết vì đã lấy cắp của “chu”. Chuyện tai tiếng này làm việc khai thác “mỏ” lén lút phải chấm dứt.

Ở trại có một người, xăm khắp cả thân trên. Trên cổ có dòng chừ: “Đù mẹ thợ hớt tóc”. Tay phải y bị liệt. Miệng y méo xệch và cái lưỡi to thường thè lè ra, dớt dãi chảy dòng dòng làm ai cũng thấy là y bị chứng liệt nửa người. Y là người ở đâu? Không ai biết. Y đến đây trước chúng tôi. Y ở đâu tới? Có điều chắc chắn y là tù khổ sai hay là dân bị biệt xứ đã vượt ngục. Trên ngực y có xăm dòng chữ Bat d'Af (tức Bataillon d'Afrique - tiểu đoàn Phi châu viết tắt). Dòng chữ cái đó cũng như “Đù mẹ thợ cắt tóc” ở phía gáy, làm người ta biết ngay mà không sợ lầm rằng y là tù khổ sai. Lính và tù đặt tên cho y là Picolino.

Y được đối xử tử tế và ngày ngày nhận ba lần xuất ăn chu đáo, có cả thuốc lá. Đôi mắt xanh của y rất sinh động, và cái nhìn của y không phải lúc nào cũng buồn. Khi y nhìn người nào y mến, đồng tử mắt y long lanh lên vì vui thích. Ai nói gì với y, y hiểu hết, nhưng y không nói được, cũng không viết được; tay phải y bị liệt còn bàn tay trái của y lại mất ngón cái và hai ngón khác nữa. Cái thân tàn ma dại này đứng bám lấy hàng rào dây thép gai hàng giờ liền, đợi tôi mang rau đi ngang, vì đấy là con đường ngày ngày tôi qua lại để mang rau đến bếp của sĩ quan. Buổi sáng, mỗi lần đem rau đến đó, bao giờ tôi cũng dừng lại nói chuyện với Picolino.

Y đứng dựa vào dây thép gai, nhìn tôi bằng đôi mắt xanh rất đẹp, đầy sức sống, trong một thân thể gần như đã chết. Tôi ôn tồn nói chuyện với y, và y dùng đầu và mi mắt để lộ cho tôi thấy là y đã hiểu chuyện của tôi. Bộ mặt tê liệt của y lóe sáng lên một chút, và đôi mắt long lanh ấy muốn nói với tôi biết bao nhiêu điều. Bao giờ tôi cũng cho y một vài món quà: một mớ cà chua, rau diếp, hay dưa leo, ăn ngay được với nước sốt dầu giấm, hay một quả dưa bở nhỏ, một con cá nướng lò than. Y không đói, vì thức ăn ở nhà tù Venezuela rất dồi dào, nhưng những món của tôi cũng lạ miệng so với bữa ăn chính thức. Cùng với quà tặng đó, bao giờ tôi cũng kèm theo vài điếu thuốc. Việc thăm hỏi ngắn ngủi của tôi với Picolino đã trở thành một thói quen cố định làm cho lính và tù gọi y là “Con trai của Papillon”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

158#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 20:13:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương kết

Tự do

Điều lạ thường, người dân Venezuela có sức lôi cuốn và hấp dẫn tôi đến mức tôi quyết định tin tưởng họ. Tôi không vượt ngục nữa. Là tù nhân, tôi chấp nhận hoàn cảnh bất thường này, hy vọng có ngày tôi sẽ được là một phần tử trong dân tộc họ. Nói ra có vẻ ngược đời. Tuy cách họ đối xử với tù nhân man rợ như vậy không khuyến khích tôi sống chung với họ được nhưng tôi hiểu rằng họ coi các hình phạt đối với thể xác là bình thường với tù nhân cũng như với lính. Lính phạm lỗi cũng bị quất roi gân bò. Rồi vài ngày sau, vẫn người lính đó lại nói chuyện với viên giám thị, cai đội hay sĩ quan đã đánh mình bình thường như không có chuyện gì xảy ra.

Chế độ tàn bạo ấy là do tên độc tại Gomez thống trị nhiều năm trường đã để lại cho họ. Tập quán này còn tồn tại đến mức một người đứng đầu một đơn vị dân sự cũng phạt dân chúng trong phạm vi của mình bằng cách cho vài roi gân bò. Nhờ một cuộc cách mạng mà tôi đã đến gần với tự do hơn. Một cuộc đảo chính nửa dân sự, nửa quân sự đã làm tổng thống nước Cộng hòa, tướng Angarita Medina, một trong những người theo chủ nghĩa tự do lớn nhất của Venezuela, phải rút khỏi vị trí của mình. Ông ta quá tốt và quá dân chủ, đến nỗi không biết cách hay không nỡ chống lại cuộc đảo chính. Hình như ông dứt khoát không chịu để xảy ra một cuộc đổ máu giữa những người Venezuela với nhau chỉ để ông duy trì được chức vị của mình. Chắc chắn là người quân nhân dân chủ lớn này không hay biết những gì diễn ra ở El Dorado. Dù sao thì một tháng sau ngày Cách mạng, tất cả các sĩ quan đều được thay đổi. Một cuộc điều tra về cái chết “của tội nhân” do thuốc xổ được tiến hành.

Ông giám đốc cùng người em rể của ông biến mất, và một nhà cựu luật sư kiêm nhà ngoại giao đến thay thế.
   - Được rồi, Papillon, ngày mai tôi sẽ trả tự do cho anh, nhưng tôi muốn anh đem cậu Picolino khốn khổ ấy theo anh vì anh vẫn lo cho cậu ấy. Cậu ta không có giấy căn cước, tôi sẽ cấp. Còn giấy căn cước (cédula) của anh đây là hợp lệ, với tên thật của anh. Điều kiện như sau: anh phải sống một năm ở một làng nhỏ rồi mới được đến ở một thành phố lớn. Đây không phải là quản thúc mà là để người ta có thể xem anh sống ra sao và xem cách anh chống chọi với đời như thế nào. Nếu trong vòng một năm, người chủ sự hành chính ở vùng đó cấp cho anh giấy chứng nhận về hạnh kiểm tốt thế là ông ta đã chấm dứt tình trạng cư trú bắt buộc (confinamiente) của anh. Tôi cho rằng Caracas sẽ là một thành phố lý tưởng đối với anh. Dù sao anh cũng được phép cư trú hợp pháp ở nước này. Chúng tôi không cần biết quá khứ của anh. Chỉ cần anh chứng minh với mọi người là anh xứng đáng được trở thành một người đáng kính nể. Tôi hy vọng trong năm năm nữa, anh sẽ là đồng bào của tôi do anh xin nhập tịch để có một tổ quốc mới. Cầu Chúa sẽ ở bên anh! Cảm ơn anh đã cáng dáng cái thân tàn ma đại của Picolino. Tôi chỉ có thể trả tự do cho nó nếu có ai ký nhận sẽ đảm nhận nó. Mong rằng nếu được nằm bệnh viện nó sẽ khỏi được.

Thế là bây giờ ngày mai, Picolino và tôi được trả tự do thật sự. Tim tôi nóng ran lên, tôi đã vĩnh viễn chiến thắng “Con đường của sự thối nát”, lúc đó là tháng 8 năm 1944. Tôi chờ đợi ngày này từ mười ba năm. Tôi lui về căn nhà nhỏ ở khu vườn. Tôi xin lỗi các bạn tôi, tôi muốn được ngồi lại một mình. Cảm xúc của tôi quá mãnh liệt, quá đẹp đẽ nên tôi không thể bộc lộ trước mặt người khác được. Tôi xem đi xem lại tấm căn cước mà ông giám đốc trao cho tôi: hình của tôi ở góc trái, trên là số 1728629, cấp ngày 3 tháng 4 năm 1944. Đứng giữa là tôi, phía dưới là tên tục. Phía sau là ngày sinh: 10 tháng 11 năm 1096. Giấy căn cước hoàn toàn hợp lệ, còn được giám đốc Sở Căn cước ký tên và đóng dấu đàng hoàng. Tình trạng: là “cư dân”. Từ “cư dân” thật là tuyệt vời, thế có nghĩa là tôi được cư trú ở Venezuela.

Tim tôi đập mạnh. Tôi muốn quỳ xuống tạ ơn trời. Tôi không biết cầu nguyện, cũng chưa được rửa tội. Tôi cầu trời nào chứ? Vì tôi có theo đạo nào đâu? Chúa lòng lành của những người theo đạo Cơ đốc ư? Hay đạo Tin lành? Hay đạo của người Do Thái? Của người Hồi? Tôi sẽ chọn ông Trời nào để hiến dâng lời cầu nguyện mà tôi phải hoàn toàn tự đặt ra vì tôi không biết trọn vẹn một bài kinh nào? Nhưng tại sao hôm nay tôi lại phải hỏi xem nên cầu ông Trời nào nhỉ? Trong đời tôi đã chẳng luôn luôn cầu nguyện (cũng có lúc nguyền rủa nữa) Đức Chúa Hài đồng Giêsu nằm trong cái giỏ cạnh bốn con lừa và con bò? Có phải trong tiềm thức, tôi còn thù oán các xơ bà tốt bụng ở Colombia chăng? Vậy thì sao không chỉ nghĩ đến Đức giám mục cao cả có một không hai ở Curacao, Đức Cha Irenée de Bruyne, hay xa hơn nữa, vị linh mục nhân hậu ở nhà tù Conciergerie?

Ngày mai tôi sẽ được tự do, hoàn toàn tự do. Năm năm nữa, tôi sẽ nhập quốc tịch Venezuela vì chắc chắn là tôi sẽ không phạm một lỗi nào trên đất nước đã cho tôi nơi ẩn náu và đã tin tôi. Trong đời, tôi phải lương thiện gấp đôi tất cả mọi người. Quả thật sở dĩ tôi không phạm tội giết người mà vẫn có một ngài chưởng lý, mấy tên cảnh sát và mười hai viên bồi thẩm bị thịt tống tôi đi tù, chẳng qua vì tôi là một kẻ du đãng. Vì tôi thật sự là một kẻ giang hồ nên người ta mới dễ dàng thêu dệt quanh nhân cách của tôi một mớ hổ lốn những điều bịa đặt. Mở két bạc của người khác không phải là một nghề đáng tin cậy, và xã hội có quyền cũng như có bổn phận phải tự bảo vệ. Sở dĩ tôi đã có thể ném vào con đường của sự thối nát, - tôi phải thành thật thú nhận như vậy - là vì tôi sống như một kẻ thường xuyên có khả năng rơi vào đấy. Cách trừng phạt tôi như vậy không xứng đáng với một dân tộc như dân tộc Pháp, xã hội có quyền tự vệ chứ không có quyền trả thù một cách hèn hạ như vậy, tất cả những việc đó lại là chuyện khác. Không thể xóa sạch quá khứ của tôi bằng cách lấy một mảnh giẻ lau đi, tôi phải tự khôi phục danh dự của mình đối với bản thân mình trước đã, rồi sau đó, đối với mọi người xung quanh. Vậy thì hỡi Papi, hãy cảm ơn Chúa lòng lành của những người Cơ đốc đi, hãy hứa với Người một điều gì cực kỳ quan trọng.

Lạy Chúa, xin người tha tội cho con nếu con không biết cầu nguyện nhưng Người hãy trông vào con, Người sẽ thấy là con không đủ chữ nghĩa để bày tỏ lòng biết ơn của con đối với Người đã đưa con đến chốn này. Cuộc đấu tranh thật là khó khăn, vượt qua nỗi đắng cay mà người ta đã bắt con phải chịu không phải dễ dàng, nếu con vượt qua được tất cả mọi trở ngại và sống khỏe mạnh cho đến ngày lành hôm nay, chắc chắn là có bàn tay Người đã phù hộ cho con. Con biết làm gì đây để chứng tỏ con thành thật biết ơn Người? "- Từ bỏ việc trả thù." Tôi đã nghe thấy hay tưởng chừng nghe thấy câu trả lời này? Tôi không rõ, nhưng nó đã tát mạnh vào mặt tôi khiến tôi phải công nhận là hình như tôi có nghe trả lời như vậy thật.
   - Không! Điều ấy thì không! Người đừng bắt con làm như vậy. Những kẻ đó đã làm con đau khổ quá nhiều. Làm sao con có thể tha thứ cho bọn cảnh sát gian xảo, cho tên làm chứng điêu ngoa Polein? Thôi không cắt lưỡi lão chưởng lý vô nhân đạo? Không thể được. Không, không và không! Con rất ân hận đã làm trái ý người nhưng bằng bất kỳ giá nào, con sẽ trả thù.

Tôi đi ra ngoài, tôi sợ yếu lòng, tôi không muốn thoái chí. Tôi đi vài bước trong vườn. Toto sửa sang cho thân cây đậu cuốn quanh mấy cái sào. Toto, dân thủ đô Paris chứa chan hy vọng đối với hạ lưu ở đường Lappe, Antartaghia, tên móc túi, sinh ra ở đảo Carse nhưng trong nhiều năm đã nẫng túi tiền của dân Paris, và Deplanque, tên sát nhân người Dijon đã giết một thằng cũng làm ma-cô như nó, cả ba người đến gần tôi Họ ngắm tôi, mặt mày họ rạng rỡ vì thấy tôi cuối cùng đã giành được tự do. Chẳng bao lâu nữa cũng sẽ đến lượt họ.
   - Cậu không mang về chai rượu vang hay rượu rum nào để ăn mừng việc cậu đi à?
   - Xin lỗi, tớ bị xúc động quá nên quên. Các cậu tha thứ cho tớ nghe.
   - Không, Papi ơi, không có gì phải tha thứ cả, tôi sẽ pha cà phê nóng cho tất cả đây?
   - Anh Papi, anh bằng lòng rồi nhé, bây giờ anh đã được hoàn toàn tự do sau bao nhiêu năm đấu tranh. Chúng tôi đều mừng cho anh.
   - Tôi hy vọng rồi cũng đến lượt các cậu.
   - Chắc chắn là như vậy rồi, - Toto nói. - Đại úy nói với tôi rằng cứ mười lăm ngày, ông lại trả tự do cho một người trong bọn ta.
   - Được tự do rồi, anh định làm gì đây? Tôi do dự một hai giây, rồi tuy sợ bị những kẻ cùng cảnh tù đày kia thấy mình lố bịch, tôi cũng can đảm đáp:
   - Tớ sẽ làm gì à? Cũng chẳng có gì phức tạp lắm: tớ bắt đầu lao động và sẽ luôn luôn làm ăn lương thiện. Đất nước này đã tin cậy tớ, tớ mà phạm tội gì thì xấu hổ lắm.
Tường sẽ nhận được một lời mỉa mai, ai dè cả ba người đều cùng thú thật:.
   - Tôi cũng vậy, tôi quyết định sẽ sống cho đúng đắn. Papillon ạ, anh nói đúng, sẽ khó đấy, nhưng phải làm như vậy và dân Venezuela cũng xứng đáng được chúng mình kính nể.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

159#
 Tác giả| Đăng lúc 9-1-2012 20:14:40 | Chỉ xem của tác giả
Tôi không tin ở tai tôi nữa. Toto, tên lưu manh hạ lưu ở khu Bastille cũng có những ý nghĩ như thế ư? Thật là bất ngờ, Antartaglia suốt đời chỉ đi móc túi người khác cũng phản ứng như vậy sao? Thật tuyệt vời. Và Deplanque ma cô chuyên nghiệp lại không dự định tìm một người phụ nữ nào để lợi dụng khai thác họ ư? Cái đó còn lạ hơn. Tất cả chúng tôi cùng phá lên cười.
   - Chà! Lại có chuyện như vậy nữa sao. Thật là đáng giá ngàn vàng, nếu nay mai cậu trở về khu Montmartre, ra Quảng trường Trắng mà kể lại chuyện này thì chẳng ai tin đâu.
   - Những tay anh chị trong giới chúng ta sẽ tin đấy. Họ hiểu mà. Chỉ có bọn trưởng giả mới không chịu tin. Đại đa số dân Pháp không chịu thừa nhận rằng một người có quá khứ như chúng ta có thể trở thành người tốt về mọi mặt. Đấy là điều khác nhau giữa dân Venezuela và dân chúng ta. Tớ đã kể cho các cậu nghe luận điểm của một ngư dân nghèo ở Irapa: bác ta đã giải thích cho khu trưởng rằng không có người nào là đồ bỏ cả và phải tạo cơ hội cho người ta trở thành lương thiện.

Những ngư dân hầu hết là mù chữ ở vịnh Paria, bên lề thế giới, lọt thỏm vào giữa cái cửa sông Orénoque mênh mông, có một triết lý nhân văn mà nhiều đồng bào của chúng ta không có nổi. Qúa nhiều tiến bộ về máy móc, một cuộc sống bon chen, một xã hội chỉ theo đuổi một lý tưởng duy nhất là làm sao có được nhiều phát minh về máy móc, tiến tới một cuộc sống ngày càng dễ dãi hơn, tiện nghi hơn. Thường thức các phát minh về máy móc cũng giống như mút kem, chỉ lôi cuốn người ta thèm khát nhiều tiện nghi hơn nữa và đấu tranh liên tục để đạt tới cái đích đó. Những cái đó giết chết tâm hồn, lòng trắc ẩn, sự thông cảm, và sự cao thượng. Người ta không còn thì giờ để quan tâm đến người khác, lại càng ít thì giờ hơn để quan tâm đến những kẻ phạm tội. Ngay các nhà cầm quyền ở chốn này cũng khác ở nước ta, vì họ chịu cả trách nhiệm vê sự yên tĩnh công cộng. Dù họ có thể bị gặp nhiều điều phiền phức lớn lao nhưng họ cũng nghĩ rằng cứ phải làm liều một chút để cứu lấy một con người. Và như thế thật tuyệt vời.

Tôi có một bộ đồ xanh nước biển do học trò của tôi bây giờ là đại tá, tặng: Anh ta đã vào trường sĩ quan được một tháng, sau khi lọt vào số ba người đỗ dầu trong cuộc thi tuyển. Tôi sung sướng thấy mình cũng góp phần vào thành công của anh bằng các bài tôi đã giảng cho anh. Trước khi đi, anh đã tặng tôi mấy bộ quần áo còn mới của anh, vừa khít với tôi. Tôi ra đi, ăn vận chững chạc nhờ Francisco Bolagno, hạ sĩ của quân cảnh vệ quốc gia, nay đã là chủ gia đình và đã là bố. Viên sĩ quan này, ngày nay đã là đại tá, trong hai mươi sáu năm liền đã dành cho tôi một tình bạn chân thành và không bao giờ phai nhạt. Ông là biểu trưng chân chính của tính cương trực, cao thượng, và của những tình cảm cao cả nhất mà một con người có thể có được. Tuy ở một địa vị cao trong thứ bậc quân sự, ông luôn luôn biểu lộ tình bạn trung thành của ông đối với tôi và sẵn sàng giúp tôi bất cứ việc gì. Tôi đã chịu ơn đại tá Francisco Bolagno Utrera rất nhiều.

Phải, tôi sẽ làm hết cách để trở thành người lương thiện và giữ sao cho mình mãi lương thiện. Chỉ có một điều phiền phức là tôi chưa làm việc bao giờ, tôi không biết làm gì cả. Tôi phải làm bất cứ việc gì để kiếm sống. Cũng không dễ, nhưng chắc chắn là tôi sẽ làm được. Ngày mai tôi sẽ trở thành một người như những người khác. Công tố viên! Ngươi đã thua ta rồi: ta đã thoát hẳn ra khỏi con đường của sự thối nát. Tôi trăn trở hồi lâu trên võng, thao thức trong đêm cuối cùng của cuộc đời tù tội long đong. Tôi ngồi dậy, đi ra thăm cái vườn mà tôi đã bỏ biết bao nhiêu công sức để săn sóc trong những tháng qua. Trăng sáng như ban ngày. Nước sông lặng lẽ chảy ra biển. Không có tiếng chim: chúng đang ngủ. Trời đầy sao, nhưng trăng sáng quá, phải đứng quay lưng lại phía trăng mới thấy được sao. Trước mặt tôi là bóng tối của rừng, chỉ có một điểm sáng mờ mờ là làng El Dorado.

Cảnh tĩnh mịch sâu lắng của thiên nhiên làm cho tôi thư thái. Nỗi bồn chồn đã lắng dịu dần và đêm thanh vắng đã đem lại cho tôi sự thanh thản mà tôi đang cần. Tôi tưởng tượng thấy rất rõ nơi mà ngày mai tôi từ xà-lan đặt chân lên mảnh đất của Simon Bolivar, người đã giải phóng nước này khỏi sự thống trị của Tây Ban Nha và đã để lại cho các thế hệ sau những tình cảm nhân đạo và sự thông cảm đã làm cho tôi có thể bắt đầu được sống lại. Tôi đã ba mươi bảy tuổi, tôi còn trẻ. Thể trạng của tôi hoàn hảo. Tôi chưa bao giờ ốm nặng, thần kinh tôi hoàn toàn bình thường. Tôi dám nói vậy. Con đường thối nát mà không để lại trong tôi những dấu vết sa đọa. Tôi cho đó chủ yếu là do tôi không bao giờ thực sự thuộc về nó cả. Trong những tuần tự do đầu tiên, tôi không những phải tìm cách kiếm sống cho mình, mà còn phải săn sóc và nuôi sống Picohno. Đối với tôi, trách nhiệm ấy thật nặng nề. Tuy cậu ta là gánh nặng đối với tôi, tôi sẽ giữ lời hứa với giám đốc trại giam, cho đến khi nào đưa được Picolino vào bệnh viện, nơi có những người chuyên môn giỏi chữa bệnh cho cậu, mới thôi.

Tôi có nên báo tin cho bố tôi biết là tôi đã được tự do không? Đã nhiều năm, ông cụ không biết gì về tôi. Không biết bây giờ ông cụ ở đâu? Những tin tức duy nhất mà ông cụ có được về tôi là do cảnh sát đến hỏi mỗi lần tôi vượt ngục. Không, tôi không được hấp tấp. Tôi không có quyền làm vết thương có lẽ đã thành sẹo sau bao nhiêu năm nay, lại rớm máu. Tôi sẽ viết thư cho ông cụ khi nào tôi đã ổn định, đã có một vị trí nhỏ vững vàng, không có vấn đề gì rắc rối, khi tôi đã có thể nói với ông cụ: “Thưa ba, con của ba đã được tự do, đã trở thành một người tốt và lương thiện. Con đã sống như thế này, bằng cách này. Ba không phải cúi đầu khi nghĩ về con nữa, và cũng vì thế cho nên con mới viết thư này để nói với ba là con luôn luôn yêu thương và tôn kính ba”. Đang có chiến tranh, không biết quân Đức có chiếm đóng làng chúng tôi không? Ardèche không phải là một vùng có chút gì quan trọng về chiến lược của nước Pháp. Chắc chúng cũng chẳng chiếm đóng hết cả tỉnh này. Ở đấy phỏng chúng kiếm được cái gì ngoài hạt dẻ ra. Phải, chỉ khi nào tôi tự thấy mình đã xứng đáng tôi mới viết thư, hay nói cho đáng tôi mới viết thư, hay nói cho đúng hơn mới tìm cách viết thư về nhà.

Tôi sẽ đi đâu bây giờ? Tôi sẽ định cư ở một làng gần mỏ vàng tên gọi là Le Callao. Tôi sẽ sống ở đó một năm - thời gian người ta đòi hỏi tôi phải sống trong một cộng đồng nhó. Rồi tôi sẽ làm gì? Ai mà biết được: Mi đừng đặt trước những vấn đề như vậy. Dù phải cuốc đất để kiếm miếng ăn, mi cũng phải làm, có thế thôi. Tôi phải tập sống tự do, việc này sẽ không dễ đâu. Mười ba năm rồi, không kể mấy tháng ở Georgetown, tôi không phải lo đến chuyện kiếm ăn. Dù sao hồi ở Georgetown, tôi cũng đã xoay xở được. Cuộc phiêu lưu vẫn tiếp tục, tôi phải nghĩ ra phương kế để mà sống, dĩ nhiên là không làm hại đến ai. Rồi sẽ tính sau! Nào, cứ đến Le Callao đã.

Bảy giờ sáng. Ánh nắng đẹp vùng nhiệt đới, bầu trời xanh không gợn một bóng mây, chim hót líu lo sáng ngời niềm vui sống. Các bạn tôi đã về tựu ở cổng vườn. Picolino mặc quần áo thường, cạo râu sạch sẽ. Tất cả mọi thứ: cảnh thiên nhiên, vật và người đều toát lên niềm vui và đều mừng cho tôi được tự do. Có một thiếu úy cùng đến với nhóm bạn bè tôi: anh ta sẽ cùng đi với chúng tôi đến làng El Dorado.
   - Chúng ta hãy hôn nhau, rồi anh đi đi, - Toto nói. Như vậy sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người.
   - Từ biệt các bạn thân mến, nếu có dịp đi qua Le Callao các bạn đến tìm tôi nhé. Nếu tôi có nhà riêng thì đó cũng là nhà của các bạn.
   - Từ biệt Papi, chúc anh gặp may mắn nhé!
Chúng tôi đi nhanh xuống bến và lên xà-lan. Picolino đi khá vững vàng. Cậu ta chỉ bị liệt từ hông trở lên, chứ chân thì không sao. Mười lăm phút sau, chúng tôi đã qua sông.
   - Giấy tờ của Picolino đây. Anh bạn Pháp, chúc anh may mắn nhé. Từ giờ phút này anh được tự do Adios!

Rứt bỏ những xiềng xích đeo đẳng mình đã mười ba năm cũng chẳng khó khăn gì. “Anh được tự do từ giờ phút này”. Người ta đã quay mặt đi, không giám sát anh nữa. Chỉ có thế thôi. Chúng tôi leo nhanh con đường đá cuội từ bờ sông đi lên. Chúng tôi chỉ có một gói nhó, ở trong có ba cái áo sơ-mi và một cái quần dài để thay đổi. Tôi mặc bộ com-lê màu xanh hàng hải, sơ-mi trắng, thắt ca-vát xanh cùng màu với áo ngoài. Nhưng dĩ nhiên làm lại cuộc đời không phải như khâu lại chiếc khuy áo. Và nếu giờ đây, hai mươi lăm năm sau, tôi đã có vợ, có một con gái, đã sống sung sướng ở Caracas, đã là công dân Venezuela, thì đó là do trải qua biết bao nhiêu chuyện khác, bao nhiêu thành công và đổ vỡ, nhưng là của một người tự do và một công dân đứng đắn. Sau này có lẽ tôi sẽ có dịp kể những chuyện đó, và còn nhiều chuyện ly kỳ nữa không thể kể ở đây.


Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách