Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Gumi
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Mọi Điều Ta Chưa Nói | Marc Levy

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:28:52 | Chỉ xem của tác giả
.. Đám đông càng trở nên náo động. Tất cả đều rảo bước về phía bức tường. Một vài người bắt đầu đào bới nó với những dụng cụ tạm bợ, tuốc nơ vít, đá, gậy cuốc, dao nhíp, phương tiện không đáng kể, nhưng phải làm cho chướng ngại vật sập đổ. Thế rồi, cách em chỉ vài mét, điều khó tin đã xảy ra; một trong số những nghệ sĩ vi ô lông xen vĩ đại nhất thế giới có mặt tại Berlin. Được báo về sự biến đang diễn ra, ông ta đến nhập hội với bọn em, với các anh. Ông ấy mang đàn ra và bắt đầu chơi. Vẫn là đêm hôm ấy hay là sáng hôm sau nhỉ? Chẳng hề chi, những nốt nhạc của ông cũng đã chọc thủng bức tường. Những nốt fa, nốt la, nốt si, một giai điệu du dương bay tìm về phía các anh, chừng ấy sải trên đó phảng phất bầu không khí tự do. Em không còn là người duy nhất òa khóc nữa, anh biết đấy. Đêm đó em đã nhìn thấy rất nhiều nước mắt. Nước mắt của người mẹ và đứa con gái đang ôm nhau thật chặt, quá xúc động vì cuộc hội ngộ sau hai mươi tám năm ròng bặt vô âm tín, không được chạm vào nhau, không được cảm nhận làn hơi của nhau. Em đã chứng kiến những ông bố tóc bạc trắng ngỡ như nhận ra con trai họ giữa hàng nghìn người khác. Em đã chứng kiến những người dân Berlin ấy, chỉ những giọt nước mắt mới có thể giải thoát họ khỏi nỗi đau chồng chất. Thế rồi bỗng nhiên, giữa tất cả mọi thứ, em nhìn thấy khuôn mặt anh hiện ra, phía cao trên bức tường, gương mặt anh xám xịt vì bụi, và đôi mắt anh. Vậy nên anh là người đầu tiên mà em nhìn thấy, anh một chàng trai Đông Đức, và em là cô gái miền Tây đầu tiên anh gặp.

° ° °

- Julia! Anthony Walsh hét lên.

Cô chậm rãi quay về phía ông, không thốt lên nổi một lời, rồi lại quay sang nhìn bức tranh.

° ° °

Anh giữ nguyên tư thế cheo leo ấy hàng phút dài, ánh mắt ta ngây dại không thể rời nhau. Anh có thế giới mới này đang dâng tặng cho anh mọi thứ, và anh nhìn em chăm chú, như thể ánh mắt của chúng ta được nối với nhau bằng một sợi dây néo căng và vô hình. Em khóc như một cô ngốc còn anh thì mỉm cười với em. Anh trèo qua tường và nhảy xuống, em làm như những người khác và em dang rộng vòng tay ra với anh. Anh ngã lên em, cả hai ta đã ngã lăn ra mặt đất mà anh chưa bao giờ đặt chân đến. Anh xin em thứ lỗi bằng tiếng Đức còn em đáp trả anh bằng câu chào tiếng Anh. Anh đứng thẳng dậy rồi phủi bụi trên vai em, như thể trước giờ anh vẫn luôn làm thế. Anh nói với em vài từ mà em chẳng hiểu được chút nào. Thế nên thỉnh thoảng anh lại lắc lắc đầu. Em bật cười, vì trông anh rất ngộ mà em thì còn ngộ hơn cả anh. Anh giơ tay ra và anh phát âm rõ ràng cái tên mà rồi đây em sẽ gọi biết bao lần, cái tên mà bấy lâu nay em không còn gọi nữa. Tomas.

° ° °

Trên bờ kè, một người phụ nữ xô vào cô, không buồn dừng lại. Julia không mảy may để ý đến bà ta. Một người bán đồ trang sức vội phe phẩy trước mặt cô một chuỗi hạt bằng gỗ sáng màu, cô chậm rãi lắc đầu, không để lọt vào tai bất cứ lời chào mời nào đang tuôn ra từ miệng ông ta như người ta nguyện kinh. Anthony đưa mười đô la cho nữ họa sĩ rồi đứng dậy. Cô đưa ông xem tác phẩm vừa hoàn thành, nét mặt diễn tả chính xác, bức tranh giống nguyên mẫu như lột. Hài lòng, ông lại thò tay vào túi và trả gấp đôi giá ban đầu. Ông tiến vài bước về phía Julia.

- Từ mười phút nay con ngắm cái gì mà chăm chú vậy?

° ° °

Tomas, Tomas, Tomas, em đã quên cái cảm giác dễ chịu khi gọi tên anh. Em đã quên giọng nói của anh, hai lúm đồng tiền của anh, nụ cười của anh, cho đến khi nhìn thấy bức tranh này, nó giống anh và nhắc em nhớ đến anh. Em những mong anh không bao giờ đi đưa tin về cuộc chiến tranh này. Giá như em biết được, cái ngày anh nói với em rằng anh muốn trở thành phóng viên, giá như em biết được mọi chuyện sẽ kết thúc ra sao, em hẳn đã nói với anh rằng đó là một ý tưởng tồi.

Anh sẽ đáp rằng cái nghề mang lại sự thật về thế giới không thể là một nghề tồi, ngay cả khi nội dung bức ảnh là sự bạo tàn, nhất là khi nó gây xúc cảm. Bằng một giọng lúc này đã trở nên trịnh trọng, anh hẳn sẽ thốt lên rằng nếu như giới báo chí biết được sự thật ở bên kia bức tường, các nhà cầm quyền ở nước chúng em sẽ đến để phá bỏ nó từ lâu rồi. Nhưng họ biết chứ, Tomas, họ biết số phận của từng người trong các anh, họ lấy việc dò xét chúng làm thú tiêu khiển; các nhà cầm quyền ở nước bọn em không có được cái dũng khí đó, và em nghe thấy anh nói với em rằng cần phải được lớn lên như em đã lớn lên, trong những thành phố nơi người ta có thể nghĩ mọi chuyện, nói mọi chuyện mà không phải e sợ gì thì mới không chấp nhận mạo hiểm. Chúng ta đã tranh luận cả đêm cho đến sáng, và cả ngày tiếp theo. Giá như anh biết em nhớ những cuộc tranh luận của chúng ta đến thế nào, Tomas.

Vì không đủ lý lẽ nên em đã phải đầu hàng, như em đã đầu hàng vào cái ngày em ra đi. Làm sao ngăn được anh, người thiếu thốn tự do đến thế? Anh nói đúng, Tomas ạ, anh đã theo đuổi một trong những nghề đẹp nhất đời. Anh đã gặp Massoud 1 chưa nhỉ? Bây giờ khi cả hai đều đã ở trên trời; ông ta rốt cuộc đã đồng ý cho phỏng vấn chưa, cuộc phỏng vấn có bõ công sức không anh? Ông ta qua đời sau anh chỉ vài năm. Có đến hàng nghìn người viếng ông ấy trong thung lũng Panchir 2, trong khi không ai có thể tập hợp những mảnh còn sót lại của thi hài anh. Cuộc đời em sẽ ra sao nếu quả mìn đó không hất tung đoàn xe chở anh, nếu em không sợ hãi, nếu em không bỏ mặc anh trước đó một thời gian?

° ° °

Anthony đặt tay mình lên vai Julia.

- Con đang nói chuyện với ai vậy?

- Không ạ, cô giật nảy mình và đáp.

- Con giống như bị ám ảnh bởi bức tranh này và môi con đang run lên.

- Cứ mặc con, cô thì thầm.

° ° °

Đã có một thời điểm bối rối, một khoảnh khắc khó xử. Em đã giới thiệu anh làm quen với Antoine và Mathias và nhấn mạnh quá đáng vào chữ "bạn", đến mức em đã nhắc đi nhắc lại nó tới sáu lần để anh nghe thấy. Làm thế thật ngu ngốc, lúc bấy giờ tiếng Anh không phải sở trường của anh. Có thể anh đã hiểu, anh mỉm cười và ôm hôn họ. Mathias ôm anh trong vòng tay và chúc mừng anh. Antoine bằng lòng với một cái bắt tay, nhưng cậu ấy cũng cảm động không kém bạn mình. Bốn người chúng ta cùng đi trong thành phố. Anh tìm kiếm ai đó, em cứ ngỡ đó là một phụ nữ, hóa ra đó là cậu bạn ngày bé của anh. Bởi vì người bạn ấy đã cùng gia đình vượt qua bức tường từ mười năm trước, kể từ đó anh không gặp lại cậu ta. Nhưng làm sao tìm lại được một người bạn trong số hàng nghìn người đang ôm hôn nhau, đang hát, đang uống và nhảy múa giữa các đường phố này? Anh đã nói, thế giới này rộng lớn, tình bạn thì bao la. Em không rõ liệu là do âm điệu của anh hay sự ngây ngô trong câu nói của anh, nhưng Antoine coi thường anh; còn em thì thấy câu châm ngôn của anh rất thú vị. Phải chăng cuộc đời vốn luôn đầy đọa anh đã giữ lại ở anh những giấc mơ thơ ấu mà ở bọn em sự tự do đã dập tắt chúng? Bọn em đã quyết định giúp đỡ anh và đã cùng nhau chạy đôn chạy đáo khắp các đường phố Tây Berlin. Anh bước đi quả quyết như thể lâu nay hai người bọn anh đã hẹn gặp nhau ở đâu đó rồi. Dọc đường, anh để ý nhìn từng gương mặt, xô đẩy những khách qua đường, quay lại nhìn liên tục. Mặt trời còn chưa mọc khi Antoine dừng lại giữa một quảng trường và kêu lên "Nhưng ít ra chúng tôi cũng có thể biết tên của cái gã mình đã tìm kiếm hàng giờ qua như những gã đần chứ?" Anh không hiểu câu hỏi của cậu ấy, Antoine còn kêu to hơn "tên, Name, Vorname!" Anh nổi khùng, và anh đáp trả bằng cách gào lên "Knapp!". Đó là tên người bạn anh đang tìm kiếm. Thế là Antoine, đã giúp anh hiểu rằng anh ấy không phải bực với anh, đến lượt mình cũng gào toáng lên "Knapp! Knapp!".

Phá lên cười ngặt nghẽo, Mathias cũng nhập hội với cậu ấy và em cũng hét lên "Knapp, Knapp". Anh ngó bọn em, như thể bọn em đã phát điên rồi đến lượt anh cũng cười phá lên, đến lượt anh cũng nhắc lại "Knapp, Knapp". Bọn mình gần như nhảy nhót, miệng hát đến váng óc tên của người bạn mà anh tìm kiếm từ mười năm nay.

Giữa đám đông khổng lồ này, một gương mặt quay lại nhìn. Em đã thấy ánh mắt các anh giao nhau, một người đàn ông trạc tuổi anh đang nhìn anh chăm chú. Em gần như ghen tị vì điều đó.

Như hai con sói bị sẻ bầy rồi gặp lại nhau ở khúc quanh của một khu rừng, các anh cứ đứng sững ra như như vậy mà nhìn nhau. Thế rồi Knapp gọi tên anh. "Tomas phải không?" Bóng của hai người đổ xuống đường phố Tây Berlin trông thật đẹp. Anh ghì siết người bạn trong vòng tay. Niềm vui hiện lên trên gương mặt các anh thật tuyệt vời. Antoine bật khóc, Mathias dỗ dành cậu ấy. Nếu như họ đã chia cắt lâu đến thế, niềm hạnh phúc được đoàn tụ ở nơi họ cũng sẽ giống như vậy, Mathias cam đoan với Antoine thế. Antoine càng khóc nức lên rồi nói với Mathias rằng không thể có chuyện đó được, bởi lẽ họ chưa quen nhau được lâu đến thế. Anh gục đầu lên vai bạn thân nhất của mình. Anh thấy em đang nhìn đăm đắm, lập tức anh đứng thẳng dậy và nhắc lại với em "Thế giới rộng lớn, nhưng tình bạn thì bao la", và Antoine không thể nín khóc được.

Chúng ta đã ngồi ở sân hiên của một quán bar. Cái lạnh cào cấu trên má nhưng chúng ta không đếm xỉa gì đến nó. Knapp và anh ngồi hơi tách ra một chút. Mười năm trong đời phải bắt kịp, điều này đòi hỏi nhiều từ ngữ, đôi khi là những khoảng lặng. Cả đêm chúng ta không rời nhau, ngày hôm sau cũng vậy. Sáng hôm sau, anh đã giải thích với Knapp là anh cần phải lên đường. Anh không thể nán lại lâu hơn nữa. Bà anh vẫn đang sống ở bên kia. Anh không thể bỏ bà lại một mình, anh là chỗ dựa duy nhất của bà. Mùa đông năm ấy bà đã tròn trăm tuổi, em hy vọng bà cũng đã gặp lại anh trên đó, nơi lúc này anh đang sống. Em yêu quý bà anh vô cùng! Bà quá đẹp khi tết mái tóc dài bạc trắng của bà trước khi đến gõ cửa phòng chúng ta. Anh đã hứa với bạn là sẽ sớm quay lại, nếu mọi việc không trở lại như trước kia. Knapp trấn an anh rằng những cánh cổng sẽ không bao giờ đóng lại nữa và anh đã đáp "Có lẽ vậy, nhưng nếu bọn mình phải đợi mười năm có lẻ mới gặp lại nhau lần nữa thì tớ sẽ vẫn nghĩ đến cậu mỗi ngày".

Anh đứng dậy và anh cảm ơn bọn em vì món quà bọn em đã tặng cho anh. Bọn em có làm được gì đâu, nhưng Mathias bảo anh rằng có gì đâu, rằng cậu ấy rất vui vì đã tỏ ra có ích; Antoine đề nghị bọn em sẽ đi cùng anh đến chốt thông hành giữa Tây và Đông.

Chúng ta lại lên đường; chúng ta đi theo tất cả những người, giống như anh, đang quay trở về nhà, bởi lẽ, dù có cách mạng hay không, gia đình họ và căn nhà của họ vẫn đang ở nửa kia của thành phố.

Dọc đường đi anh đã nắm tay em trong tay anh, em để anh làm thế và chúng ta tay trong tay đi như thế hàng cây số.

° ° °

- Julia, con đang rùng mình và con đến nhiễm lạnh mất. Giờ thì chúng ta về đi thôi. Ta có thể mua bức tranh ấy nếu con muốn, rồi con ngồi ngắm nó bao lâu tùy thích, nhưng chọn chỗ nào ấm áp ấy.

- Không, nó là vô giá, phải để nó lại đây. Vài phút nữa thôi, bố làm ơn, rồi chúng ta sẽ đi.

° ° °

Từ bên này và bên kia chốt kiểm soát, một vài người vẫn miệt mài đào bới bức tường bê tông. Đến đây thì phải chào tạm biệt nhau. Anh tạm biệt Knapp trước tiên. "Hãy gọi cho tớ nhanh nhé, ngay khi có thể", anh ấy nói thêm và đưa cho anh tấm danh thiếp. Phải chăng vì anh ấy là nhà báo nên anh cũng muốn làm nghề ấy? Phải chăng đó là lời hứa giữa hai người ngày còn thơ ấu? Em đã hỏi anh câu ấy đến trăm lần, và lần nào anh cũng lẩn tránh không trả lời, gửi đến em một trong những cái cười nửa miệng anh vẫn dành cho em mỗi khi em làm anh phát bực. Anh bắt tay Antoine và Mathias rồi anh quay sang em.

Tomas ạ, giá như anh biết rằng ngày hôm ấy em đã lo sợ thé nào, sợ không bao giờ biết được làn môi anh. Anh đã bước vào đời em như hè sang, không báo trước, với những tia sáng người ta thường gặp vào mỗi buổi bình minh. Anh đã áp tay lên má em, những ngón tay anh vuốt dọc theo khuôn mặt em và anh đặt trên mỗi mi mắt em một nụ hôn. "Cảm ơn." Đó là từ duy nhât anh nói trong khi anh đã đi xa mất rồi. Knapp nhìn chúng ta, em đã bắt gặp ánh mắt của anh ấy. Như thể anh ấy ngóng đợi một lời từ em, vài từ lẽ ra anh ấy đã có thể tìm ra để vĩnh viễn xóa đi những năm tháng đã ngăn cách hai người. Những năm tháng ấy đã sắp đặt cuộc sống của các anh theo hai cách hoàn toàn khác biệt; anh ấy quay về với tờ báo của mình còn anh quay lại miền Đông.

Em đã hét lên "Dẫn em theo với! Em muốn biết người bà khiến anh lại ra đi", và em không đợi anh trả lời; em lại nắm tay anh và cam đoan rằng phải hợp toàn bộ sức mạnh trên thế gian này thì ai đó mới có thể gỡ tay em ra được. Knapp nhún vai và trước vẻ sửng sốt của anh, anh ấy nói: "Giờ thì đường thông rồi, hãy trở lại lúc nào tùy thích!".

Antoine những muốn ngăn em, theo cậu ấy thì đây là một hành động điên rồ. Có thể lắm, nhưng em chưa từng cảm nhận một cơn cuồng dại nào như vậy. Mathias huých khuỷu tay cậu ấy, cậu ấy đang xen vào chuyện gì cơ chứ? Cậu ấy chạy về phía em và ôm lấy em. "Khi nào quay về Paris nhớ gọi cho bọn tớ nhé," cậu ấy vừa nói vừa viết vội cho em số điện thoại của mình vào một mẩu giấy. Đến lượt mình, em cũng ôm cả hai người bọn họ, rồi chúng ta đi. Từ đó đến giờ em chưa từng trở lại Paris, Tomas ạ.

Em đã theo anh; buổi sáng sớm ngày 11 tháng Mười một ấy, tranh thủ sự hỗn loạn đang ngự trị, chúng ta đã qua biên giới lần nữa và buổi sáng hôm đó em có lẽ là nữ sinh viên Mỹ đầu tiên bước sang lãnh thổ Đông Đức, và nếu không phải thế đi nữa thì em vẫn là người hạnh phúc nhất.

Anh biết đấy, em vẫn giữ lời hứa. Anh còn nhớ quán cà phê tồi tàn đó, nơi anh đã cam đoan với em rằng, nếu một ngày nào đó số phận lại chia cắt chúng ta, em phải sống hạnh phúc bằng bất cứ giá nào không? Em biết rõ là anh nói điều này bởi đôi khi cái cách em yêu anh khiến anh nghẹt thở, bởi anh đã phải chịu cảnh thiếu thốn tự do quá lâu để chấp nhận cho em gắn kết đời em với đời anh. Và ngay cả khi em ghét anh vì đã làm hoen ố hạnh phúc của em bằng điều tồi tệ nhất thì em vẫn giữ lời đã hứa.

Cuối cùng thì em cũng sắp kết hôn, Tomas ạ, em lẽ ra đã kết hôn vào thứ Bảy tuần rồi, đám cưới đã bị hoãn lại. Đó là một câu chuyện dài, nhưng chính nó đã dẫn em tới đây. Có lẽ là bởi em cần phải thấy lại gương mặt anh lần cuối. Ở nơi xa ấy anh hãy ôm hôn bà giúp em.

° ° °

- Tình huống này thật nực cười, Julia ạ. Nếu con tự thấy được bộ dạng mình, trông hệt như bố con lúc bị đơ pin ấy! Con đứng bất động ở đó từ hơn mười lăm phút rồi, và con nói lầm rầm...

Thay cho câu trả lời, Julia lánh ra chỗ khác. Anthony Walsh rảo bước để bắt kịp cô.

- Sau cùng bố có thể biết đã xảy ra chuyện gì được chứ? Ông cố nài khi đã sóng bước bên cô.

Nhưng Julia vẫn chìm đắm trong im lặng.

- Xem này, ông nói tiếp và chìa bức chân dung ra cho con gái, giống kinh khủng. Cầm đi, cho con đấy, ông vui vẻ nói thêm.

Julia phớt lờ ông và tiếp tục đi về phía khách sạn.

- Được, bố sẽ tặng nó cho con sau vậy! Có vẻ như bây giờ không phải lúc thích hợp.

Và vì Julia vẫn không nói gì, Anthony Walsh thêm luôn:

- Tại sao bức tranh con ngắm hết sức chăm chú ấy lại gợi cho bố nhớ lại điều gì đó nhỉ? Bố cho là điều này không phải là không liên quan đến thái độ khác lạ của con, khi ở dưới đê chắn sóng đằng kia. Bố không biết nữa, nhưng trên gương mặt ấy có nét gì đó rất quen.

- Bởi vì nắm đấm của bố đã giáng xuống khuôn mặt đang được nhắc đến, cái ngày bố đến Berlin tìm con ấy. Bởi đó là khuôn mặt của người đàn ông con yêu khi mới mười tám tuổi và bố đã tách con khỏi anh ấy khi bố ép con phải về New York cùng bố!

--------------------------------
1        Ahmed Chah Massoud (1953-2001): chỉ huy Liên minh miền Bắc Afghanistan và thủ lĩnh Quân đội Hồi giáo, đội quân đã chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của Quân đội Xô Viết và sau đó là chế độ Taliban từ năm 1996 đến 2001.
2         Một địa danh nằm ở Đông Bắc Afghanistan.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:30:05 | Chỉ xem của tác giả
11


Nhà hàng gần như đã kín chỗ. Một nam nhân viên phục vụ tận tâm đã đem ra cho họ hai ly sâm banh. Anthony không đụng đến ly của mình, Julia uống cạn một hơi phần rượu của mình trước khi quay sang uống nốt ly rượu của bố và ra hiệu cho anh bồi rót thêm. Thậm chí trước cả khi người ta đem thực đơn ra cho họ, cô đã chuếnh choáng hơi men rồi.

- Con nên dừng lại ở đó thôi, Anthony khuyên khi thấy cô gọi đến ly rượu thứ tư.

- Tại sao? Vang nhiều bọt lắm và có vị rất tuyệt!

- Con say rồi.

- Chưa đâu, cô nói và cười khẩy.

- Con nên cố gắng uống ít hơn một chút. Con muốn làm hỏng bữa tối đầu tiên của hai bố con ta ư? Con không cần phải làm cho mình ốm đâu, chỉ cần nói con muốn về là đủ.

- Làm gì có chuyện đó! Con đói đấy chứ!

- Nếu muốn con có thể gọi một khay đồ ăn phục vụ tại phòng cơ mà.

- Câu này cũng vậy, con cho rằng con thực sự không còn ở tuổi để nghe những loại câu ấy.

- Ranh con, con hoàn toàn có cùng cái cách cư xử khi con cố khiêu khích bố. Và con có lý, Julia ạ, chúng ta không còn ở cái tuổi để diễn cái trò ấy nữa, cả con lẫn bố.

- Nghĩ đi nghĩ lại, đó là lựa chọn duy nhất mà bố đã không quyết định thay con!

- Việc gì thế?

- Tomas!

- Không, anh ta là quyết định đầu tiên, sau đó con đã đưa ra nhiều lựa chọn khác, nếu con còn nhớ được.

- Bố đã luôn muốn kiểm soát đời con.

- Đó là căn bệnh rất nhiều ông bố mắc phải, và đồng thời, đó là một lời trách móc khá mâu thuẫn khi nhằm vào một người mà con đã lên án là vắng mặt nhiều đến thế.

- Con muốn chẳng thà bố vắng mặt còn hơn, bố hài lòng vì không có mặt ở đó còn gì!

- Con say rồi, Julia, con nói lớn tiếng và điều ấy làm phiền đến mọi người.

- Làm phiền sao? Bởi vì không phải làm phiền khi bố bất thần xuất hiện trong căn hộ ở Berlin; khi bố đã gào thét đến mức làm bà của người đàn ông mà con yêu phải khiếp sợ, để bà nói cho bố biết chúng con đang ở đâu; khi bố xô sập cánh cửa phòng ngủ trong khi chúng con đang yên giấc và đấm vỡ quai hàm Tomas vài phút sau? Như thế không phải là làm phiền chắc?

- Cứ cho làm thế là quá đáng đi, bố nhượng bộ con chuyện ấy.

- Bố nhượng bộ con chuyện ấy sao? Có phải là làm phiền không khi bố nắm tóc con lôi ra tận xe đang chờ sẵn ngoài phố? Khi bố vừa dẫn con đi ngang đại sảnh của sân bay vừa lắc cánh tay con đến mức con giống như một con búp bê đã bị tháo khớp? Khi bố khóa thắt lưng con lại vì sợ con sẽ rời khỏi máy bay đang bay, tất cả những chuyện đó không phải là gây phiền toái hay sao? Khi đến New York rồi, bố đã quẳng con vào phòng, như một tên tội phạm, trước khi khóa trái cửa lại, như thế không phải là làm phiền sao?

- Có những lúc bố tự hỏi phải chăng rốt cuộc bố đã cư xử không phải khi qua đời vào tuần trước!

- Con xin bố, đừng lại bắt đầu với những từ ngữ khoa trương của bố!

- Nhưng điều này chẳng hề liên quan đến cách nói chuyện hay tuyệt của con, bố đnag nghĩ đến chuyện hoàn toàn khác.

- Chẳng hạn chuyện gì?

- Đến thái độ của con từ khi con thấy bức tranh giống với Tomas.

Julia mở to hai mắt.

- Chuyện đó thì liên quan gì đến việc bố qua đời?

- Câu này nghe vui thật, con không thấy sao? Cứ cho là khi không cố ý làm chuyện ấy, bố đã ngăn được con kết hôn vào thứ Bảy! Anthony Walsh kết luận với nụ cười tươi rói.

- Và chuyện đó khiến bố hoan hỉ đến mức ấy?

- Vì đám cưới của con bị dời lại ấy à? Cho đến ban nãy, bố thật sự lấy làm tiếc chuyện này, còn giờ thì khác rồi...

Bối rối với hai vị khách nói chuyện quá to tiếng, người phục vụ can thiệp và đề nghị ghi lại những món họ gọi. Julia gọi một suất bít tết.

- Độ chín thế nào ạ? Anh bồi hỏi.

- Dĩ nhiên là tái rồi! Anthony Walsh đáp.

- Thế còn ông?

- Anh có pin không? Julia hỏi.

Và vì người phục vụ đứng nghệt ra, Anthony Walsh giải thích với anh ta là ông không ăn tối.

- Kết hôn là một chuyện, ông nói với con gái, nhưng cho phép bố được nói với con rằng chia sẻ cả đời mình với một ai đó lại là chuyện khác. Cần phải yêu thương thật nhiều, thật nhiều không gian. Một vùng lãnh thổ mà người ta tạo ra cho hai con người và là nơi người ta không nên cảm thấy chật chội.

- Nhưng bố là ai mà phán xét tình cảm con dành cho Adam? Bố không hề biết gì về anh ấy.

- Bố không nói với con về Adam, mà về chính con, về khoảng không gian con sẽ có khả năng dành cho cậu ta; và nếu chân trời của các con đã bị che khất bởi ký ức về một người khác, ván đánh cược về một cuộc sống chung còn lâu mới thắng được.

- Và bố biết mánh gì đó trong chuyện này, phải không?

- Mẹ con mất rồi, Julia ạ, bố không chịu trách nhiệm gì trong chuyện ấy, ngay cả khi con vẫn tiếp tục quở trách bố.

- Tomas cũng mất rồi, và ngay cả khi bố chẳng liên quan gì đến chuyện đó thì con vẫn cứ luôn giận bố. Vậy nên bố thấy đấy, nếu xét về mặt không gian, cho Adam và con, bọn con có cả vũ trụ này để thoải mái cơ mà.

Anthony Walsh húng hắng ho, vài giọt mồ hôi rịn ra lấm tấm trên trán ông.

- Bố đổ mồ hôi sao? Julia hỏi, ngạc nhiên.

- Đó là một sự loạn năng về mặt công nghệ nhẹ, bố đâu cần đến nó, ông nói và khẽ chận chiếc khăn ăn lên mặt. Lúc đó con mới mười tám tuổi, Julia ạ, và con muốn chung sống với một tay cộng sản mà con mới chỉ quen biết có vài tuần!

- Bốn tháng!

- Vậy thì là mười sáu tuần!

- Và anh ấy là người Đông Đức chứ không phải cộng sản.

- Càng hay!

- Chính bởi vậy nên nếu có điều gì đó con sẽ không bao giờ quên thì là đôi khi con đã từng ghét bố đến thế!

- Chúng ta đã thống nhất rồi mà, không có thời quá khứ chưa hoàn thành giữa hai bố con mình, con nhớ chứ? Đừng sợ phải nói với bố trong thì hiện tại; ngay cả khi chết rồi thì bố vẫn luôn là bố của con, hay những gì còn lại của người bố đó...

Anh bồi bàn phục vụ món cho Julia. Cô yêu cầu anh ta rót đầy ly rượu. Anthony Walsh đặt bàn tay chặn trên ly rượu.

- Tôi cho là chúng tôi còn nhiều chuyện để nói với nhau.

Người phục vụ rời đi không cố nài thêm.

- Lúc ấy còn sống ở Đông Berlin, mấy tháng trời bố không nhận được tin tức gì của con. Điểm dừng chân tiếp theo của con sẽ là ở đâu vậy, Matxcơva chăng?

- Làm thế nào bố tìm ra con?

- Tác phẩm con đăng trên một tờ báo Tây Đức. Ai đó đã tế nhị gửi cho bố một bản sao.

- Ai thế ạ?

- Wallace. Đó có lẽ là cách anh ta lấy lại tín nhiệm sau khi đã lén bố giúp con rời Mỹ.

- Bố biết chuyện đó rồi sao?

- Nếu không thì là thế này, có lẽ anh ta cũng lo lắng hco con và cho rằng đã đến lúc đặt dấu chấm hết cho những biến cố này trước khi con thực sự gặp nguy hiểm.

- Con chưa từng gặp nguy hiểm, con yêu Tomas.

- Đến một độ tuổi nào đó, người ta hăng tiết lên vì tình yêu dành cho người khác, nhưng thường vẫn vì tình yêu dành cho chính bản thân mình! Con đã được thu xếp để học ngành luật ở New York, con đã bỏ tất cả để đến theo học vẽ ở trường Mỹ thuật tại Paris; đến được đó rồi thì con lại lên đường sang Berlin, bố không biết sau bao lâu; con phải lòng một gã cha căng chú kiết, thế rồi, như có phép màu, vĩnh biệt trường Mỹ thuật, con lại muốn trở thành phóng viên và nếu trí nhớ của bố hoạt động tốt, như chuyện tình cờ, cậu ta cũng muốn trở thành phóng viên, kỳ cục thế đấy...

- Chuyện đó thì ảnh hưởng gì đến bố?

- Chính bố đã bảo Wallace trả cho con hộ chiếu cái ngày con đến hỏi anh ta, Julia ạ, và bố ở ngay phòng kế bên trong lúc con tới lấy lại nó trong ngăn kéo bàn làm việc của bố.

- Tại sao lại phải lòng vòng như thế, sao bố không đích thân giao nó cho con?

- Bởi vì quan hệ giữa hai bố con ta hoàn toàn không được tốt đẹp gì cho cam, nếu con còn nhớ. Vả lại, cứ cho là bố làm thế đi, điều này hẳn sẽ phá hỏng sở thích phiêu lưu của con. Khi để cho con ra đi trong sự chống đối trọn vẹn đối với bố, chuyến đi của con mới có được sự thú vị, phải không nào?

- Bố thực sự đã nghĩ đến tất cả những điều này ư?

- Bố đã chỉ cho Wallace nơi để giấy tờ tùy thân của con, và bố thực sự đã ở tỏng phòng khách; còn với mọi chuyện diễn ra sau đó, có lẽ từ phía bố có một chút lòng tự ái bị tổn thương.

- Bố mà tổn thương sao?

- Thế còn Adam? Anthony Walsh bẻ lại.

- Adam chẳng liên quan gì tới tất cả những chuyện này.

- Bố nhắc để con nhớ, cũng lạ là chính bố lại phải nói con biết điều này, rằng nếu bố không chết thì hôm nay con đã trở thành vợ của cậu ta. Thế nên bố sẽ thử trình bày lại câu hỏi của mình theo cách khác, nhưng trước tiên con nhắm mắt lại được không?

Không hiểu bố mình muốn dẫn dắt câu chuyện đến đâu, Julia lưỡng lự, nhưng trước thái độ nằn nì của ông, cô làm theo.

- Nhắm chặt hơn nữa vào. Bố muốn con hoàn toàn chìm trong bóng tối.

- Chúng ta đang chơi trò gì vậy?

- Ngoại lệ một lần thôi, hãy làm như bố yêu cầu, chuyện này sẽ không mất nhiều thời gian đâu.

Julia nhắm nghiền hai mắt và bóng tối xâm chiếm cô.

- Cầm lấy dĩa của con và ăn đi.

Thích thú, cô thuận lòng làm theo. Bàn tay cô sờ soạng trên khăn trải bàn, cho đến khi cô gặp được vật cần tìm. Bằng một cử chỉ vụng về, tiếp đó, cô tìm cách xiên chiếc dĩa vào một miếng thịt nằm trong đĩa của mình và không hề có ý niệm gì về thứ đang đưa lên miệng, cô mở hé miệng.

- Có phải vị của món ăn này đổi khác đi bởi vì con không nhìn thấy nó?

- Có lẽ vậy, cô đáp trong khi vẫn giữ mắt nhắm nghiền.

- Bây giờ, hãy làm điều này vì bố và nhất là vẫn nhắm mắt đấy nhé.

- Con nghe bố đây, cô nói giọng êm dịu.

- Hãy nghĩ đến một khoảnh khắc hạnh phúc.

Và Anthony im lặng, quan sát gương mặt của con gái.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:31:08 | Chỉ xem của tác giả
Hòn đảo của những viện bảo tàng, em còn nhớ, chúng ta cùng nhau dạo chơi. Khi anh giới thiệu em với bà của anh, câu đầu tiên bà hỏi là về nghề nghiệp của em. Cuộc nói chuyện không dễ dàng, anh dịch những lời bà nói sang vốn tiếng Anh sơ sài của anh còn em lại không nói được ngôn ngữ của anh. Em đã giải thích với bà rằng em là sinh viên trường Mỹ thuật Paris. Bà mỉm cười và đi tìm trong tủ com mốt của bà một tấm bưu ảnh có in một bức tranh của Vladimir Radskin, một họa sĩ người Nga mà bà yêu thích. Thế rồi bà ra lệnh cho chúng ta ra ngoài hít thở khí trời, tận hưởng cái ngày đẹp trời này. Anh đã không kể gì với bà về chuyến đi đặc biệt của mình, không một lời về cái cách mà chúng ta đã gặp nhau. Và khi chúng ta ra đến cửa căn hộ của hai bà cháu anh, bà hỏi anh rằng có phải anh đã gặp lại Knapp hay không. Anh ngần ngừ hồi lâu, nhưng nét mặt anh đã thừa nhận cuộc hội ngộ của hai người. Bà mỉm cười và nói với anh rằng bà lấy làm mừng cho anh.

Ngay khi ra ngoài phố, anh đã nắm tay em, và mỗi khi em hỏi anh chúng ta chạy đi đâu mà nhanh đến thế, anh lại đáp, "Đến đây, đến đây". Chúng ta đã vượt cây cầu nhỏ bắc qua sông Spree.

Hòn đảo của những viện bảo tàng, em chưa từng thấy các tòa nhà dành cho nghệ thuật tập trung với mật độ dày đặc đến thế. Em cứ ngỡ đất nước của anh được xây nên chỉ toàn bằng màu xám, vậy mà ở đây, mọi thứ đều khoe sắc. Anh đã dẫn em đến trước Altes Museum. Tòa nhà là một khối vuông rộng mênh mông, nhưng khi chúng ta vào đến bên trong, không gian lại có hình dạng của một đình tròn. Em chưa bao giờ thấy một kiểu kiến trúc nào giống thế, lạ lùng thế, gần như không thể tin nổi. Anh đã dẫn em đến trung tâm của đình tròn đó, bảo em xoay người trọn một vòng; rồi vòng thứ hai, thêm vòng nữa và anh buộc em xoay mỗi lúc một nhanh hơn, cho đến khi em phát chóng mặt. Anh đã dừng điệu van điên rồ ấy lại bằng cách ôm chặt em trong vòng tay và anh nói, thế đấy, đây chính là sự lãng mạn kiểu Đức, một vòng tròn ở chính giữa một hình vuông, để chứng tỏ rằng mọi sự khác biệt đều có thể dung hòa. Thế rồi anh đưa em đến tham quan viện bảo tàng Pergame.

° ° °

- Thế nào, Anthony hỏi, con đã tìm lại được khoảnh khắc hạnh phúc ấy chưa?

- Rồi ạ, Julia trả lời, hai mắt vẫn nhắm chặt.

- Con thấy ai trong kỷ niệm đó?

Cô mở choàng mắt.

- Con không phải trả lời bố đâu, Julia, câu trả lời thuộc về con. Bố sẽ không sống cuộc đời con thay cho con nữa.

- Tại sao bố làm vậy?

- Bởi vì mỗi lần nhắm mắt lại, bố lai nhìn thấy gương mặt mẹ con.

- Tomas đã hiện ra trong bức chân dung giống với anh ấy, như một hồn ma, một cái bóng bảo con hãy ra đi thanh thản, rằng con có thể kết hôn mà không cần nghĩ tới anh ấy nữa, không hối tiếc. Đó là một dấu hiệu.

Anthony húng hắng ho.

- Đó chỉ là một bức ký họa bằng chì than thôi mà, khỉ thật! Nếu bố vứt cái khăn ăn ra xa, dù nó có trúng vào giá đựng ô nơi lối vào hay không thì điều đó cũng chẳng thay đổi chuyện gì hết. Dù giọt rượu cuối cùng có rơi đúng vào cốc của người phụ nữ đang ngồi cạnh chúng ta đây hay không thì nội trong năm nay cũng đừng gả cô ấy cho cái gã u mê đang ngồi ăn tối cùng cô ấy. Đừng nhìn bố như thể bố là người sao Hỏa, nếu cái gã đần không nói chuyện với bạn gái lớn tiếng đến thế để cố gây ấn tượng với cô ấy, bố đã không nghe thấy cuộc trò chuyện của họ từ đầu bữa đến giờ.

- Bố nói thế bởi vì bố chưa từng tin vào những dấu hiệu của cuộc sống! Nhu cầu kiểm soát mọi chuyện ở bố là quá lớn!

- Những dấu hiệu đó không tồn tại, Julia ạ. Bố đã ném hàng nghìn tờ giấy vo viên vào giỏ giấy loại ở văn phòng, chắc mẩm rằng nếu bố ném trúng mục tiêu thì ước nguyện của bố sẽ thành hiện thực; ấy vậy mà cuộc gọi bố chờ đợi không bao giờ đến! Bố đã đẩy vụ đánh cược ngu ngốc ấy đi xa đến mức tự nhủ rằng cần phải ném trúng liên tiếp ba hay bốn lần mới xứng đáng với phần thưởng; sau hai năm kiên trì thực hành, bố có thể cho cả một ram giấy hạ cánh chính giữa một cái giỏ đặt cách xa mười mét, và vẫn chẳng có gì hết. Một buổi tối, ba khách hàng quan trọng đi cùng bố đến một bữa tối bàn chuyện làm ăn. Trong khi một trong những người hùn vốn với bố ra sức lên danh sách cho họ tất cả những vùng lãnh thổ nơi có người phụ nữ mà bố vẫn hằng ngóng đợi; bố hình dung ra những đường phố mà cô ấy dạo bước qua mỗi sáng khi rời khỏi nhà. Khi rời khỏi nhà hàng, một trong số họ, một người Trung Quốc, và con làm ơn đừng hỏi bố tên của ông ta, đã kể cho bố nghe một truyền thuyết rất thú vị. Hình như nếu ta nhảy vào giữa một vũng nước có phản chiếu trăng rằm, Nguyệt thật sẽ ngay lập tức dẫn ta đến với người ta mong nhớ. Con phải thấy vẻ mặt của người hùn vốn với bố khi bố chụm chân nhảy vào rãnh nước ven đường. Vị khách hàng của bố ướt như chuột lột, ngay đến mũ của ông ta cũng nhỏ nước thành giọt. Thay vì tạ lỗi, bố lưu ý ông ta rằng mẹo này không ổn lắm! Người phụ nữ mà bố trông ngóng không xuất hiện. Thế nên, đừng nhắc với bố về những dấu hiệu ngu ngốc mà người ta bám riết lấy khi đã mất hết lý trí để tin vào Chúa.

- Con cấm bố nói những điều như vậy! Julia kêu lên. Khi còn nhỏ, con hẳn đã nhảy vào cả hàng nghìn vũng nước, cả nghìn rãnh ven đường để bố trở về nhà vào buổi tối. Giờ đã quá muộn để kể cho con những chuyện kiểu này rồi. Tuổi thơ ấu của con trôi qua lâu rồi!

Anthony Walsh nhìn con gái, vẻ mặt rầu rĩ, Julia sẽ không nguôi giận. Cô xô chiếc ghế về phía sau, đứng bật dậy và rời khỏi nhà hàng.

- Bỏ qua cho con bé nhé, ông nói với người bồi bàn và đặt mấy tờ bạc trên bàn. Tôi cho là tại rượu sâm banh của các anh đấy, quá nhiều bọt!

° ° °

Họ quay về khách sạn. Không thốt ra lấy một lời khuấy động không gian tĩnh lặng của đêm. Họ đi ngược lên đầu phố, ngang qua những con phố hẹp của thành phố cổ kính. Julia đi không hoàn toàn thẳng đường. Đôi lúc cô chệch choạng trên một phiến gạch lát vượt quá mặt đường. Anthony ngay lập tức giơ tay ra để đỡ cô, nhưng cô đã giữ được thăng bằng và gạt phăng cử động tay của ông không để ông chạm vào cô.

- Tôi là một phụ nữ hạnh phúc! Cô vừa nói vừa đi loạng choạng. Hạnh phúc và viên mãn! Tôi được làm công việc yêu thích, sống trong căn hộ yêu thích, có một người bạn thân yêu thích và sắp kết hôn với người đàn ông mà tôi yêu! Viên mãn! Cô ấp úng lặp lại.

Mắt cá chân của cô khuỵu xuống. Julia vừa kịp vịn tay rồi để mình trượt theo chiều dài của một cột đèn đường.

- Cứt thật! cô ngồi trên vỉa hè làu bàu.

Julia lờ tịt bàn tay bố cô đang chìa ra để giúp cô đứng lên. Ông quỳ gối rồi ngồi xuống bên cạnh cô. Con phố nhỏ vắng tanh và cả hai cứ ngồi nguyên đó, tựa lưng vào cột đèn đường. Mười phút trôi qua và Anthony lôi từ túi áo khoác ra một gói nhỏ.

- Gì vậy? cô hỏi.

- Kẹo.

Julia nhún vai rồi quay đầu nhìn ra chỗ khác.

- Bố cho là có hai hay ba chú gấu nhỏ bằng sô cô la đang dạo chơi ở dưới đáy đấy... Theo tin mới nhận thì chúng đang chơi với một dải giấy cuộn bằng cam thảo.

Julia vẫn không phản ứng, nên ông làm bộ cất lại gói kẹo vào túi, nhưng cô bèn giật ngay lấy nó từ tay ông.

- Khi còn nhỏ, con đã nhận nuôi một con mèo hoang, Anthony nói trong khi Julia đang ngốn đến chú gấu con thứ ba. Con cưng nó lắm, nó cũng vậy, được liền tám hôm cho đến khi nó lại đi mất. Con có muốn bố con mình về ngay bây giờ không?

- Không, Julia đáp, miệng vẫn nhai tóp tép.

Cỗ xe được đóng vào một con ngựa có bộ lông màu hung đi ngang qua trước mặt họ. Anthony giơ tay chào người xà ích.

° ° °

Một giờ sau họ về đến khách sạn, Julia đi ngang qua đại sảnh và dùng thang máy bên phải trong khi Anthony bước vào thang máy bên trái. Họ gặp lại nhau nơi thềm nghỉ của tầng trên cùng, cùng nhau sánh bước đi trong hành lang tới tận cửa căn phòng dành cho vợ chồng mới cưới, Anthony nhường lối cho con gái. Cô đi thẳng vào phòng ngủ của mình và Anthony cũng vào phòng riêng.

Julia ngay lập tức buông mình xuống giường và lục tìm trong túi xách lấy điện thoại di động. Cô nhìn giờ trên đồng hồ đeo tay rồi gọi cho Adam. Chỉ nghe thấy tin nhắn trả lời tự động, cô đợi đến cuối thông điệp rồi gác máy trước khi tiếng chuông nhỏ cài sẵn vang lên. Cô bấm số của Stanley.

- Anh thấy là em đang khỏe khoắn.

- Em nhớ anh kinh khủng, anh biết đấy.

- Anh chẳng biết gì về chuyện ấy cả. Chuyến đi thế nào?

- Em nghĩ ngày mai em sẽ về.

- Đã về rồi ư? Em đã thấy cái mà em tìm kiếm chưa?

- Phần cốt lõi, em cho là thế.

- Adam vừa rời khỏi nhà anh, Stanley thông báo bằng giọng ra vẻ trịnh trọng.

- Anh ấy đến gặp anh á?

- Đó chính xác là điều anh vừa nói với em còn gì, em uống rượu à?

- Một chút ạ.

- Em khỏe đến mức ấy ư?

- Ồ vâng! Sao tất cả mọi người đều muốn em phải không ổn kia chứ?

- Anh thì cho rằng mình là người duy nhất đấy chứ!

- Anh ấy muốn gì thế?

- Anh cho là nói về em, nếu không thì vì cậu ta đang chuyển mục tiêu; nhưng trong trường hợp đó, Adam đã uổng phí cả buổi tối rồi, cậu ta không thuộc gu của anh.

- Adam đến để nói với anh về em?

- Không, cậu ta đến để anh nói với cậu ta về em. Đó là điều mọi người vẫn làm khi nhớ người mà họ yêu quý.

Stanley nghe thấy tiếng thở của Julia trong ống nghe.

- Cậu ta đang buồn, em thân mến ạ. Anh không có thiện cảm đặc biệt gì với cậu ta, anh chưa bao giờ giấu em điều ấy, nhưng anh không muốn thấy một gã đàn ông phải khốn khổ.

- Tại sao anh ấy buồn? cô hỏi bằng giọng thành thực hối lỗi.

- Hoặc là em đã hoàn toàn trở nên ngu ngốc, hoặc là em thật sự say rồi! Cậu ta tuyệt vọng, vì sau khi hủy hôn có hai ngày, vị hôn thê của cậu ta... Chúa chứng giám anh ghét cay ghét đắng khi cậu ta gọi em như vậy, đó là một từ đáng bỏ xó lâu rồi... tóm lại, vị hôn thê của cậu ta đã ra đi mà không hề để lại cho cậu ta địa chỉ hay giải thích cho sự trốn tránh này. Nói thế đã đủ sáng rõ chưa hay em muốn anh gửi chuyển phát nhanh cho em một ống aspirin?

- Trước tiên, không phải em ra đi mà không để lại địa chỉ, và em đã ghé qua gặp anh ấy...

- Vermont ấy à? Em dám nói với cậu ta rằng em đi Vermont cơ đấy! Em gọi đấy là một địa chỉ?

- Có vấn đề gì với Vermont sao? Julia hỏi bằng giọng bối rối.

- Không, tóm lại là không trước khi anh hành động dại dột.

- Anh đã làm gì vậy? Julia nín thở hỏi.

- Anh nói là em đang ở Montréal. Làm sao em lại muốn anh tưởng tượng ra một chuyện ngu xuẩn như thế chứ! Lần sau nếu em có nói dối thì nhớ báo trước cho anh, anh sẽ dạy em vài bài và ít ra chúng ta cũng phối hợp cho nhuần nhuyễn.

- Cứt thật!

- Em nhổ ngay cái câu ấy ra khỏi miệng cho anh...

- Các anh ăn tối cùng nhau à?

- Anh đã đãi cậu ta một món nấu qua loa chẳng ra gì...

- Stanley!

- Thế thì sao nào? Anh cũng sẽ không để cho cậu ta chết đói mà! Anh không biết em đang làm gì ở Montréal, cũng không biết em đang ở cùng ai, và anh thừa hiểu chuyện đó chẳng can hệ gì đến mình, nhưng em làm ơn gọi cho Adam, đó là điều tối thiểu nên làm.

- Hoàn toàn không phải như anh nghĩ đâu, Stanley!

- Ai nói với em là anh nghĩ? Nếu điều này có thể khiến em yên tâm, anh đã hứa với cậu ta rằng chuyến đi của em chẳng có liên quan gì đến chuyện hai người cả, rằng em đi là để lần theo dấu vết của bố em.Em thấy đấy, để nói dối thì cần phải có chút tài năng cơ!

- Nhưng em thề với anh là anh không nói dối!

- Anh đã nói thêm là cái chết của bố em đã giày vò em và chuyện em có thể khép lại những cánh cửa vẫn đang hé mở dần về quá khứ của em là điều tối quan trọng đối với cuộc sống chung của hai người. Chẳng ai cần gió lùa trong cuộc sống tình ái của mình hết, có đúng thế không nào?

Julia lại lần nữa im bặt.

- Thế nào, cuộc thám hiểm của em về câu chuyện của bố Walsh tiến hành đến đâu rồi? Stanley nói tiếp.

- Em cho là đã khám phá ra thêm một chút về tất cả những điều đã khiến em ghét ông.

- Tuyệt! Còn gì nữa?

- Có lẽ một chút về những điều khiến em yêu quý ông.

- Và em muốn quay về ngay ngày mai?

- Em không biết, có lẽ tốt hơn em nên tìm gặp Adam.

- Trước khi...?

- Ban nãy em vừa đi dạo, có một nữ họa sĩ chuyên vẽ chân dung...

Julia kể cho Stanley nghe về phát hiện tại khu cảng cũ của Montr é al và, khác với lệ thường, anh bạn không bắt cô phải nghe một trong những lời đối đáp sắc lẻm của anh.

- Anh thấy đấy, đã đến lúc em nên quay về, phải không? Chuyện em rời khỏi New York chẳng mang lại kết quả gì hết. Vả lại nếu mai em không quay về thì ai sẽ mang lại vận may cho anh đây?

- Em muốn một lời khuyên thích hợp không? Cứ viết ra giấy tất cả những cái đang hiện ra trong đầu em, rồi hãy làm ngược lại hoàn toàn! Chúc ngủ ngon, em thân mến.

Stanley gác máy. Julia rời khỏi giường để đi vào phòng tắm, cô không nghe thấy tiếng bước chân bố cô rón rén trở lại phòng ngủ của ông.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:32:35 | Chỉ xem của tác giả
12


Một bầu trời đỏ nhạt ló rạng trên Montréal. Gian khách nằm chính giữa phòng khách sạn tắm trong một luồng sáng êm dịu. Có tiếng gõ cửa, Anthony mở cửa cho người phục vụ tầng và để anh ta đẩy chiếc bàn lưu động vào giữa phòng. Người đàn ông trẻ tuổi định bày bộ đồ điểm tâm nhưng Anthony đã nhét vào túi anh ta vài đô la và nắm quyền điều khiển chiếc bàn đẩy lưu động. Người phục vụ đi ra, Anthony chú ý để cánh cửa khép lại không gây ra tiếng động. Ông phân vân lựa chọn giữa cái bàn thấp và cái bàn một chân gần cửa sổ mang lại tầm nhìn toàn cảnh tươi đẹp. Ông quyết định chọn quang cảnh rồi thận trọng trải khăn bàn, bày đĩa, bộ đồ ăn, bình nước cam vắt, bát ngũ cốc, giỏ bánh kiểu thành Viên, và một đóa hồng vươn lên kiêu hãnh trong chiếc lọ đơn bông. Ông lùi về sau một bước, chỉnh lại đóa hoa mà ông nhận thấy bị cắm hơi lệch, bình sữa sẽ khá hơn khi được đặt gần giỏ bánh. Ông đặt vào đĩa của Julia một cuộn giấy được trang trí bằng một sợi ruy băng đỏ, rồi phủ kín lại bằng chiếc khăn ăn. Lần này, ông đứng lùi lại đến hơn một mét và kiểm tra xem bàn ăn đã có bố cục hài hòa chưa. Sau khi đã thắt nút cà vạt cho chặt, ông đến gõ nhẹ cửa phòng ngủ của cô con gái và thông báo rằng bữa sáng dành cho Quý bà đã dọn xong. Julia làu bàu hỏi bây giờ là mấy giờ.

- Đã đến giờ con dậy rồi; chiếc xe bus của trường sẽ qua trong mười lăm phút nữa, con sẽ lại lỡ chuyến xe mất thôi!

Vùi mình dưới tấm chăn lông kéo đến tận mũi, Julia mở một bên mắt và vươn mình. Đã lâu rồi cô không được ngủ kỹ thế này. Cô vò cho tóc xù lên, mắt vẫn nheo lại trong lúc đợi thị giác của cô làm quen với ánh sáng ban ngày. Cô vùng dậy rồi lập tức ngồi thụp xuống mép giường vì cảm thấy chóng mặt. Chiếc đồng hồ báo thức đặt trên bàn đầu giường chỉ tám giờ.

- Sao sớm thế? Cô lẩm nhẩm khi bước vào phòng tắm.

Và trong khi Julia tắm qua dưới vòi hoa sen, Anthony Walsh, ngồi trong một chiếc ghế phô tơi của phòng khách nhỏ, ngắm dải ruy băng màu đỏ thò ra khỏi mép đĩa và thở dài.

° ° °

Chuyến bay của hãng hàng không Air Canada cất cánh lúc 7h10 tại sân bay Newark. Giọng cơ trưởng vang lên lạo xạo trên loa để thông báo máy bay bắt đầu hạ cánh xuống Montréal. Máy bay sẽ tới cửa trả khách theo đúng giờ đã định. Trưởng bộ phận chiêu đãi viên tiếp lời ông đọc những điều lệnh thông thường buộc phải tuân thủ để hạ cánh. Adam vươn vai trong giới hạn có thể. Anh gập kệ ăn lại rồi nhìn qua ô cửa kính. Máy bay đang bay trên không phận Saint-Laurent. Từ xa hiện rõ lên đường rìa xung quanh thành phố và người ta có thể nhận ra đường nét nổi bật của đồi Mont-Royal. Chiếc MD-80 chao cánh, Adam thắt chặt dây bảo hiểm. Phía trước ghế của tổ lái, những cọc tiêu của đường băng đã hiện ra.

° ° °

Julia thắt dải dây lưng của áo choàng tắm và bước vào phòng khách nhỏ. Cô ngắm bữa sáng đã được bày biện đâu vào đấy trên bàn rồi mỉm cười với Anthony đang nhấc ghế mời cô ngồi.

- Bố đã gọi cho con trà Earl Grey, ông vừa nói vừa rót đầy tách của cô. Cậu trai phục vụ phòng đã đề xuất với bố trà đen, đen đậm, vàng, trắng, xanh lục, hun khói, Trung Hoa, Tứ Xuyên, Đài Loan, Triều Tiên, Sri Lanka, Ấn Độ, Nepal và bố còn quên đến bốn mươi tên gọi khác mà cậu ta đã dẫn ra với bố, trước khi bố dọa sẽ tự tử nếu cậu ta tiếp tục.

- Earl Grey sẽ rất hợp, Julia đáp và giở khăn ăn của mình ra.

Cô nhìn cuộn giấy có ruy băng buộc ngoài rồi quay lại nhìn bố mình, vẻ dò hỏi.

Anthony ngay lập tức giật lấy nó từ tay cô.

- Con sẽ mở nó ra sau bữa sáng.

- Cái gì vậy? Julia hỏi.

- Đó, ông nói, tay chỉ những chiếc bánh kiểu thành Viên, những cái dài và xoắn gọi là bánh sừng bò, những cái hình chữ nhật có nổi lên hai nốt nhỏ màu hạt dẻ, đó là bánh mì sô cô la, còn những con ốc sên với những quả khô rắc bên trên, là bánh mì nho.

- Con đang nói về cái thứ bố giấu sau lưng kìa, với một sợi ruy băng màu đỏ.

- Để sau, bố vừa nói với con rồi đấy thôi.

- Thế tại sao bố lại để sẵn trong đĩa ăn của con?

- Bố đổi ý rồi, để sau thì hay hơn.

Julia tranh thủ lúc Anthony quay lưng lại với cô để chụp lấy cuộn giấy ông đang cầm trên tay bằng một động tác nhanh gọn.

Cô tháo sợi dây ruy băng rồi mở cuộn giấy ra. Gương mặt của Tomas lại lần nữa mỉm cười với cô.

- Bố mua nó khi nào vậy? cô hỏi.

- Hôm qua, lúc bố con ta rời bến tàu. Con đi đằng trước và không để ý đến bố. Bố đã thưởng cho họa sĩ một món hậu hĩnh, cô ấy nói rằng bố có thể lấy nó, khách hàng không ai mua và cô ấy cũng không dùng gì đến nó.

- Tại sao?

- Bố nghĩ chuyện này sẽ khiến con vui, con đã ngắm nó rất lâu còn gì.

- Con muốn biết tại sao bố lại thực sự mua nó, Julia gạn hỏi.

Anthony ngồi trên tràng kỷ, nhìn con gái chăm chú.

- Bởi vì bố con ta cần phải nói chuyện. Bố từng hy vọng chúng ta sẽ không bao giờ tranh luận về chuyện này và phải thú thật rằng bố đã do dự khi đề cập đến. Vả lại bố không hình dung dù chỉ một giây rằng cuộc dạo chơi của bố con ta lại đưa bố đến với hoặc này và có nguy cơ bị tổn hại, bởi vì bố đã dự đoán được phản ứng của con; nhưng bởi vì các dấu hiệu, như con đã nói về chúng hay đến thế, đã dẫn đường cho bố... vậy nên bố cần phải thú nhận với con một chuyện.

- Bố thôi những lời điệu đàng kiểu cách và nói thẳng vào vấn đề đi, cô nói bằng giọng đanh thép.

- Julia, bố cho là Tomas chưa hẳn đã chết.

° ° °

Adam đang cáu tiết. Anh đã cố tình không mang theo hành lý để rời khỏi sân bay sớm nhất có thể, nhưng những hành khách của một chiếc 747 đến từ Nhật Bản đã tràn ngập các quầy thủ tục hải quan. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Hàng người chạy dài phía trước cho phép anh dự kiến sẽ mất khoảng hơi hai mươi phút trước khi nhảy được lên một chiếc taxi.

"Sumimasen!" Cái từ vừa thoáng hiện trong trí nhớ của anh bật ra đúng lúc. Người trao đổi thư từ với anh trong một nhà xuất bản Nhật dùng nó thường xuyên đến mức Adam đã đi đến kết luận rằng xin lỗi hẳn là một truyền thống của đất nước này. "Sumimasen, xin thứ lỗi", anh lặp lại đến mười lần trong lúc len lỏi giữa những hành khách của chuyến bay của hãng JAL; và thêm mười Sumimasen nữa, Adam trình được hộ chiếu của mình với nhân viên hải quan Canada, người này đóng con dấu vào tấm hộ chiếu rồi lập tức đưa lại cho anh. Bất chấp lệnh cấm sử dụng điện thoại di động cho đến khi ra khỏi khu vực giao trả hành lý, anh lấy điện thoại ra từ túi áo vest, bật lên rồi bấm số của Julia.

° ° °

- Bố tin chắc là chuông điện thoại của con đấy, chắc con để điện thoại trong phòng, Anthony nói bằng giọng bối rối.

- Đừng lảng sang chuyện khác. Bố hiểu cái cụm "chưa hẳn đã chết" chính xác như thế nào vậy?

- Còn sống cũng sẽ là một từ thích hợp...

- Tomas còn sống ư? Julia hỏi, giọng run rẩy.

Anthony gật đầu xác nhận.

- Làm sao bố biết chuyện ấy?

- Nhờ lá thư của cậu ta; thường thì những người không còn sống trên thế gian này không thể viết thư được. Trừ bố ra, con nên nhớ... Bố chưa kịp nghĩ đến, nhưng đó vẫn là một điều tuyệt vời...

- Thư nào? Julia hỏi.

- Lá thư con nhận được từ cậu ta sáu tháng sau vụ tai nạn khủng khiếp đó. Nó được gửi qua bưu điện Berlin, tên cậu ta có ghi ở mặt sau phong bì mà.

- Con chưa từng nhận được thư của Tomas. Nói với con là chuyện này không đúng đi?!!

- Con không thể nhận thư vì con đã rời khỏi nhà và bố không thể chuyển thư cho con được vì con đã bỏ đi không để lại địa chỉ. Bố cho là chuyện này dù sao cũng là một lý do bổ sung chính đáng để thêm vào danh sách của con.

- Danh sách nào cơ?

- Danh sách những lý do khiến con đã ghét bố.

Julia đứng dậy và đẩy chiếc bàn bày bữa sáng ra xa.

- Ta đã nói là không có thời quá khứ hoàn thành giữa hai chúng ta, bố nhớ không? Thế nên bố có thể đặt cái câu cuối cùng này ở thời hiện tại, cô hét lên và rời khỏi phòng khách.

Cánh cửa phòng ngủ của cô đóng sập lại và Anthony, còn lại một mình giữa căn phòng, ngồi vào chỗ cô ngồi ban nãy.

- Lãng phí quá! Ông lẩm nhẩm khi nhìn chiếc giỏ đựng bánh kiểu thành Viên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:33:41 | Chỉ xem của tác giả
Lần này thì không thể giở trò gian lận trong hàng người chờ taxi nữa rồi. Một người phụ nữ mặc đồng phục đang chỉ định xe cho từng hành khách. Adam phải đợi đến lượt mình. Anh lại bấm số của Julia lần nữa.

° ° °

- Tắt điện thoại hoặc nhấc máy đi, nghe khó chịu lắm! Anthony nói và bước vào phòng ngủ của Julia.

- Bố ra khỏi đây ngay!

- Julia! Chuyện xảy ra đã gần hai chục năm rồi, khỉ thật!

- Và suốt gần hai chục năm bố không tìm được dịp nào để nói với con về chuyện đó ư? Cô hét lên.

- Hai mươi năm, bố con ta có quá ít dịp để nói chuyện với nhau! Ông đáp bằng giọng không khoan nhượng. Và dù sao bố cũng không rõ bố đã nhắc đến chuyện đó hay chưa nữa! Để làm gì kia chứ? Cho con thêm một cớ nữa để làm đứt quãng những gì con đang thực hiện hay sao? Con đã có một công việc đầu tiên ở New York, một căn hộ nhỏ trên đường số 42, một cậu bạn trai đang theo học ngành sân khấu, nếu bố không nhầm và rồi một cậu bạn trai khác trưng bày những bức tranh khủng khiếp trong khu Queens, vả lại con đã chia tay cậu ta ngay trước khi chuyển chỗ làm và đổi kiểu tóc, hay là ngược lại ấy nhỉ?

- Làm sao bố biết được tất cả những chuyện đó?

- Không phải vì con không bao giờ quan tâm đến cuộc sống của bố mà bố thoát khỏi cảnh lúc nào cũng xoay xở để dõi theo cuộc sống của con.

Anthony nhìn con gái hồi lâu và quay trở ra phòng khách. Đến ngưỡng cửa thì cô gọi ông quay lại.

- Bố mở nó ra rồi sao?

- Bố không bao giờ cho phép mình đọc thư từ của con, ông nói mà không quay lại nhìn.

- Bố đã cất nó đi?

- Lá thư hiện đang nằm ở trong phòng con, à mà bố đang nói về căn phòng con ở hồi con sống ở nhà. Bố đã cất nó vào ngăn kéo bàn học của con, bố nghĩ nó vẫn nằm chờ ở đó.

- Tại sao bố không nói gì với con khi con quay về New York?

- Thế tại sao đã về đến New York mà con vẫn phải chờ đến sáu tháng sau mới điện thoại cho bố biết hả Julia? Mà con gọi cũng chỉ vì đoán được rằng bố đã nhận ra con đứng sau quầy kính cửa hàng tạp hóa ở SoHo phải không? Hay bởi vì sau ngần ấy năm biệt tích, cuối cùng con đã bắt đầu hơi nhớ bố chăng? Nếu con cho rằng giữa hai bố con ta bố luôn là người giành phần thắng thì con nhầm rồi đấy.

- Bởi vì đối với bố đây chỉ là một cuộc chơi?

- Bố không mong như vậy, khi còn bé con rất tài khoản đánh hỏng đồ chơi.

Anthony đặt một chiếc phong bì lên giường cô.

- Bố để lại cho con thứ này, ông nói thêm. Chắc lẽ ra bố nên nói với con chuyện này sớm hơn, nhưng bố đã không làm được chuyện đó.

- Cái gì vậy? Julia hỏi.

- Vé máy bay về New York cho hai bố con ta. Sáng nay trong lúc con ngủ bố đã nhờ người thường trực khách sạn. Bố đã nói với con rồi đấy, bố đoán trước được phản ứng của con và bố cho là chuyến đi của chúng ta dừng tại đây. Con thay quần áo đi, cầm lấy túi xách rồi xuống sảnh gặp bố. Bố sẽ đi thanh toán hóa đơn.

Anthony đi ra và nhẹ nhàng khép cửa lại.

° ° °

Xa lộ xe chen như mắc cửi, chiếc taxi rẽ vào phố Saint-Patrick. Giao thông ở đó cũng tắc nghẽn hệt như vậy. Tài xế đề nghị quay lại đường 720 xa hơn một chút rồi rẽ sang đại lộ René-Lévesque. Adam vội cuống cuồng không cần biết đi theo lộ trình nào, miễn sao đến đích nhanh nhất. Người tài xế thở dài, khách hàng có sốt ruột cũng vô ích, ông không thể làm gì thêm. Phải ba mươi phút nữa họ mới đến nơi, có thể chưa đến thế tình hình giao thông được cải thiện một khi đã vượt qua cửa ngõ thành phố. Và hình như một vài người thấy cánh lái xe taxi không được tử tế cho lắm thì phải..., ông vặn to tiếng radio để kết thúc cuộc trò chuyện giữa họ.

Mái của một tòa tháp trong khu phố thương mại của Montr é al đã hiện ra, khách sạn không còn xa nữa.

° ° °

Túi khoác trên vai, Julia đi ngang đại sảnh và bước một bước dứt khoát về phía quầy tiếp tân. Người thường trực lập tức rời khỏi quầy đến gặp cô.

- Bà Walsh! Ông ta nói và dang rộng vòng tay. Ông nhà đang đợi bà bên ngoài, chiếc limousine ông bà gọi đến hơi trễ một chút, hôm nay những đám tắc đường thật kinh khủng.

- Cảm ơn, Julia đáp.

- Tôi lấy làm tiếc, bà Walsh ạ, là ông bà chia tay chúng tôi sớm hơn dự kiến, tôi hy vọng chất lượng phục vụ của chúng tôi không liên quan gì trong cuộc ra đi này chứ? Ông ta hỏi, giọng tiếc nuối.

- Bánh sừng bò chỗ các ông thật tuyệt! Julia đập lại chan chát. Và dứt khoát một lần nhé, không phải bà, mà là cô!

Cô ra khỏi khách sạn và nhận thấy Anthony đang đứng đợi trên vỉa hè.

- Xe không nên đến muộn mới phải, ông nói, đây nó đây rồi.

Một chiếc Lincoln màu đen đang đỗ ngang tầm họ. Trước khi xuống xe đón khách, người tài xế mở cốp xe phía sau. Julia mở cửa xe và ngồi vào ghế hành khách. Trong khi nhân viên phụ trách hành lý sắp xếp hai chiếc túi của họ, Anthony đi vòng qua đuôi xe. Một chiếc taxi nhấn còi, chỉ cách vài centimet nữa là chiếc xe hất ngã ông.

° ° °

- Mấy người này đi đứng không để ý gì cả! người tài xế càu nhàu và cho xe đỗ sóng đôi trước khách sạn Saint-Paul.

Adam đưa cho ông một nắm đô la rồi, không chờ tiền trả lại, vội vàng tiến về cánh cửa xoay. Anh tự giới htieuej ở quầy tiếp tân rồi hỏi phòng của cô Walsh.

Bên ngoài, một chiếc limousine màu đen kiên nhẫn chờ cho chiếc taxi chăn bện cạnh khởi hành. Người tài xế taxi vẫn chưa nổ máy vì mải đếm tiền và hoàn toàn không có vẻ gì là vội.

- Ông bà Walsh đã rời khách sạn rồi, cô nhân viên tiếp tân trả lời Adam với vẻ tiếc nuối.

- Ông bà Walsh ấy à? Adam nhắc lại, kéo dài giọng ở từ "ông" để nhấn mạnh.

Người thường trực ngước mắt nhìn trời và tự giới thiệu với anh.

- Tôi có thể giúp ông chăng? Ông hỏi, giọng bồn chồn.

- Có phải đêm qua vợ tôi đã lưu lại trong khách sạn chỗ ông?

- Bà nhà ấy ạ? Người thường trực hỏi và nhìn xéo qua vai Adam.

Chiếc limousine vẫn chưa xuất phát.

- Cô Walsh ấy mà!

- Đúng là cô ấy đã lưu lại chỗ chúng tôi đêm qua, nhưng cô ấy đi rồi.

- Một mình chứ?

- Tôi không tin là đã nhìn thấy cô ấy đi cùng ai, người thường trực đáp, mỗi lúc một lúng túng hơn.

Một tràng còi xe khiến Adam quay người nhìn ra phố.

- Thưa ông? Người thường trực lên tiếng để lần nữa thu hút sự chú ý của anh về phía mình. Chúng tôi có thể mời ông một bữa nhẹ chăng?

- Nhân viên lễ tân chỗ ông vừa bảo tôi rằng ông bà Walsh đã rời khỏi khách sạn kia mà! Vậy là có hai người, cô ấy đi một mình hay là không nào? Adam hỏi bằng giọng cương quyết.

- Nhân viên của chúng tôi hẳn đã nhầm, người thường trực khẳng định và trợn mắt nhìn cô thiếu nữ, chúng tôi có nhiều khách nghỉ mà... Một tách cà hay có lẽ một tách trà chăng?

- Cô ấy đi lâu chưa?

Người thường trực kín đáo liếc lần nữa ra ngoài phố. Cuối cùng thì chiếc limousine màu đen cũng đã chuyển bánh. Ông thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy chiếc xe đi xa dần.

- Được một lúc rồi, tôi nghĩ thế, ông trả lời. Chúng tôi có những món nước quả ép tuyệt lắm! Để tôi dẫn ông đến phòng phục vụ điểm tâm, ông là khách mời của khách sạn chúng tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:35:23 | Chỉ xem của tác giả
13


Họ không trao đổi với nhau một lời nào về chuyến đi. Julia chúi mũi vào ô cửa kính.

° ° °

Mỗi lần ngồi trên máy bay, em lại ngóng đợi gương mặt anh hiện ra giữa những đám mây, lần nào cũng lại hình dung ra những đường nét của anh trong những hình dạng trải ra trong bầu trời. Em đã viết cho anh hàng trăm lá thư, nhận hàng trăm lá thư từ anh, mỗi tuần hai lá. Chúng ta đã thề sẽ gặp lại nhau, ngay khi em đủ khả năng tài chính. Thời gian rảnh sau giờ học, em làm việc kiếm tiền để quay về bên anh. Em đã phục vụ trong các nhà hàng, xếp chỗ cho người xem trong các phòng chiếu phim, không thì sẽ là phát tờ rơi; và làm việc gì em cũng nghĩ đến buổi sáng khi rốt cuộc em cũng có thể đặt chân đến Berlin, trên sân bay nơi anh đang đợi em.

Biết bao đêm em đã ngủ thiếp đi trong ánh mắt anh, trong ký ức về những tràng cười đã bám riết chúng ta trên những đường phố của thành phố màu xám? Đôi khi, lúc anh để em lại một mình với bà anh, bà bảo em rằng chớ có tin vào tình yêu giữa anh và em. Rằng nó sẽ không bền đâu. Giữa hai ta có quá nhiều khác biệt, giữa cô gái miền Tây là em và cậu trai miền Đông là anh. Nhưng mỗi lần anh trở về và ôm em trong vòng tay, em lại nhìn bà qua bờ vai anh và mỉm cười với bà, chắc mẩm rằng bà đã lầm đấy thôi. Khi bố ép em ngồi lên chiếc xe đậu dưới khung cửa sổ nhà anh, em đã thét gọi tên anh, em những muốn anh nghe thấy tiếng em. Buổi tối hôm chương trình thời sự thông báo về "vụ rắc rối" tại Kaboul đã cướp đi sinh mạng của bốn phóng viên, trong đó có một người Đức, thậm chí ngay lúc ấy em đã biết rằng họ đang nhắc đến anh. Máu đã rời khỏi cơ thể em. Và trong nhà hàng nơi em đang lau chùi cốc chén đằng sau một cái quầy bằng gỗ cũ kỹ, em đã bất tỉnh nhân sự. Người dẫn chương trình nói rằng chiếc ô tô chở anh đã nổ tung vì cán phải một quả mìn của quân đội Xô Viết còn sót lại. Như thể số phận đã muốn bắt kịp anh, không bao giờ để anh đi về phía tự do của mình. Những tờ báo không đưa ra lời giải thích rõ ràng nào, bốn nạn nhân, thế là đủ với thiên hạ; danh tính của những người thiệt mạng thì có gì là quan trọng, cuộc sống của họ, tên của những người mà họ bỏ lại trong niềm thiếu vắng. Nhưng em vẫn biết rằng người Đức mà họ nhắc tới chính là anh. Em phải mất đến hai ngày mới gặp được Knapp; hai ngày không thể nuốt nổi bất cứ thứ gì.

Thế rồi rốt cuộc anh ấy cũn gọi lại cho em; nghe giọng anh ấy, em lập tức hiểu rằng anh ấy đã mất đi một người bạn, còn em thì mất đi người mình yêu. Bạn thân nhất của anh ấy, anh ấy nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Anh ấy cảm thấy có lỗi vì đã giúp anh trở thành phóng viên; còn em, cõi lòng tan nát, em an ủi anh ấy. Anh ấy đã giúp anh trở thành người như anh muốn. Em nói với anh ấy rằng anh đã tự trách mình biết mấy vì chưa bao giờ tìm ra đủ lời để cảm ơn anh ấy. Thế là, Knapp và em đã nói về anh, để anh không hoàn toàn rời bỏ bọn em. Chính anh ấy nói với em rằng thi thể của anh sẽ không bao giờ được nhận dạng. Một nhân chứng kể lại rằng khi quả mìn được phát nổ, chiếc xe tải chở các anh đã bị thổi tung. Những mảnh tôn vụn phủ đầy mặt đường suốt hàng chục mét, và chính tại đấy các anh đã chết, chỉ còn lại một miệng hố rộng hoác, một bộ khung xe rời rã, những chứng nhân cho tính phi lý và tàn ác của con người. Knapp không tha thứ cho mình vì đã cử anh tới đó, tới Afghanistan. Một sự thay thế vào phút chót, anh ấy nói giữa những tiếng thổn thức. Giá như chỉ cần anh không có mặt ngay gần bên anh ấy khi anh ấy đang tìm một người có thể mau chóng lên đường. Nhưng em biết rằng anh ấy đã tặng anh món quà đẹp nhất mà anh có thể mong chờ. Xin lỗi, xin lỗi, Knapp vừa khóc nấc lên vừa nhắc đi nhắc lại, còn em thì tuyệt vọng, em không thể nhỏ ra dù chỉ một giọt nước mắt, khóc lóc sẽ tước mất của em thêm chút nữa về anh. Em đã không bao giờ có thể gác máy, Tomas ạ, em đặt ống nghe lên giá, cởi bỏ tấm tạp dề rồi em đi ra phố. Em cứ bước về phía trước mà không biết mình đang đi đâu. Xung quanh em, thành phố sôi động như không có chuyện gì xảy ra.

Ai ở đây có thể biết rằng sáng nay, trong vùng ngoại ô Kaboul, một người đàn ông ba mươi tuổi tên là Tomas đã chết tan xác vì cán phải một quả mìn? Ai bận tâm đến chuyện đó? Ai có thể hiểu được rằng em sẽ không còn gặp lại anh nữa, rằng thế giới của em sẽ không bao giờ giống như trước nữa?

Em không ăn gì từ hai ngày nay, em nói với anh rồi nhỉ? Có hề chi. Em sẽ nói mọi chuyện hai lần để tiếp tục kể anh nghe về em, để nghe anh kể em nghe về anh. Đến một góc phố, em ngã sụp xuống.

Anh có biết rằng nhờ có anh mà em đã quen Stanley, cái người đã trở thành bạn thân nhất của em, thậm chí là ngay từ giây phút bọn em gặp nhau không? Anh ấy bước ra từ căn phòng kế bên phòng em. Anh ấy bước đi, vẻ thẫn thờ, trong hành lang bệnh viện dài dằng dăc; cánh cửa phòng em đang để ngỏ, anh ấy dừng lại, nhìn em lúc ấy đang nằm buồn thiu trên giường, rồi anh ấy mỉm cười với em. Không một anh hề nào trên thế gian này có thể tô vẽ cho gương mặt mình một nụ cười sầu thảm đếm vậy. Môi anh ấy run run. Bỗng nhiên, anh ấy khẽ nói bốn từ mà em vẫn không cho phép mình thốt ra lời; nhưng, với anh ấy, dường như em có thể biến nó thành một lời thú tội bởi vì em chưa hề quen anh ấy. Tâm sự với một người chưa từng quen không giống như tâm sự với một người thân cận, nó không khiến sự thật trở nên không thể đảo ngược, đó chỉ là một sự ruồng bỏ mà ta có thể xóa đi với cục tẩy của sự không hay biết: "Anh ấy chết rồi" Stanley nói, và em đáp lại anh ấy, "Vâng, anh ấy chết rồi". Anh ấy nói với em về bạn trai của mình, còn em nói với anh ấy về anh. Em và Stanley, bọn em đã quen nhau như thế, vào cái ngày mà cả hai bọn em đều mất đi người mình yêu. Edward chết vì Sida còn anh thì chết vì một đại dịch khác vẫn đang tiếp tục tàn phá nhân loại. Anh ấy ngồi ở cuối giường em, hỏi em rằng liệu em có thể khóc không, và vì em đã nói với anh ấy sự thật, anh ấy cũng thú nhận rằng mình cũng không thể khóc nổi. Anh ấy chìa tay ra cho em, em nắm lấy bàn tay ấy và bọn em đã nhỏ những giọt nước mắt đầu tiên, những giọt nước mắt đã kéo anh ra xa khỏi em, và kéo Edward ra xa khỏi anh ấy.

° ° °

Anthony Walsh từ chối đồ uống do tiếp viên hàng không đem đến. Ông liếc nhìn về phía cuối máy bay. Khoang hành khách hầu như thưa thớt, nhưng Julia vẫn muốn ngồi cách ông mười hàng ghế, cô ngồi bên ô cửa kính, ánh mắt vẫn đăm đắm nhìn ra bầu trời.

° ° °

Sau khi xuất viện, em đã bỏ nhà đi, buộc một dải ruy băng màu đỏ quanh chồng thư ngót trăm lá của anh. Em cất chúng vào ngăn kéo bàn trong phòng riêng. Em không cần phải đọc lại chúng mới nhớ thương. Em chất quần áo đầy một va li rồi ra đi mà không nói lời từ biệt bố em, không thể tha thứ cho ông vì đã chia lìa hai ta. Khoản tiền dành dụm tích cóp này là để một ngày kia gặp lại anh, em đã dùng nó để sống xa ông. Vài tháng sau, em bắt đầu sự nghiệp hình họa và bắt đầu cuộc sống không anh.

Stanley và em gặp gỡ nhau thường xuyên. Tình bạn giữa bọn em nảy sinh từ đó. Ngày ấy, anh ấy bán hàng tại một khu chợ trời ở Brooklyn. Bọn em đã hình thành thói quen mỗi tối gặp nhau ở giữa cầu. Đôi khi bọn em đứng đó hàng giờ liền, tựa người vào lan can cầu, ngắm những con tàu diễu qua trước mắt, xuôi hay ngược dòng nước; có những lúc, bọn em lại dạo bộ dọc hai bờ sông. Anh ấy kể em nghe về Edward, còn em kể anh ấy nghe về anh và khi ai đã về nhà nấy, anh ấy mang theo một chút về hai người các anh trong hành lý đêm của mình.

Em đã tìm kiếm hình bóng anh trong những bóng cây đổ dài trên vỉa hè vào buổi sáng, những đường nét của gương mặt anh trong những tia phản chiếu trên sông Hudson; em đã tìm kiếm vô vọng những lời nói của anh trong mọi làn gió thổi qua thành phố. Trong hai năm liền, em cũng đã thăm lại mỏi khoảnh khắc chúng ta có tại Berlin, đôi khi em cười vì chúng ta, nhưng không bao giờ ngừng nghĩ về anh.



Em chưa hề nhận được lá thư anh gửi, Tomas ạ, lá thư hẳn đã báo cho em biết là anh vẫn còn sống. Em không biết anh viết gì cho em. Đã ngót hai chục năm trôi qua và em có cái cảm giác lạ lùng là anh vừa gửi lá thư đó cho em hôm qua. Có lẽ là sau ngần ấy tháng bặt tin nhau, anh cho em hay rằng anh quyết định sẽ không bao giờ đợi em ở một sân bay nào nữa. Rằng thời gian trôi qua kể từ ngày em ra đi đã trở nên quá dài. Rằng có thể đã tới lúc tình cảm giữa hai ta phai nhạt; tình yêu rồi cũng có lúc kết thúc đối với những ai đã quên hơi của người kia. Có lẽ anh đã thôi không còn tin vào tình yêu nữa, nếu không thì có lẽ là em đã đánh mất anh. Hai mươi năm hay ngót quãng thời gian đó để đến nơi là quá dài đối với một bức thư.

Chúng ta không còn như trước nữa. Em sẽ lại vượt qua quãng đường từ Paris đến Berlin chăng? Chuyện gì sẽ xảy ra khi ánh mắt của chúng ta giao nhau lần nữa, anh ở phía này của bức tường và em ở phía bên kia? Anh có dang rộng vòng tay đón em, như đã làm với Knapp vào một buổi tối tháng Mười một năm 1989 không? Chúng ta sẽ lại chạy khắp những con đường của một thành phố, nó thì đã trẻ lại trong khi chúng ta thì lại già đi. Hôm nay đôi môi anh có còn dịu ngọt như trước không? Lá thư ấy có lẽ nên nằm lại trong ngăn kéo bàn viết, có lẽ như thế sẽ tốt hơn.

° ° °

Tiếp viên hàng không vỗ nhẹ vào vai cô. Đã đến lúc phải thắt chặt dây an toàn, máy bay đang tiến lại gần New York.

° ° °

Adam đành phải trải qua một phần thời gian trong ngày tại Montréal. Nữ nhân viên của hãng hàng không Air Canada đã gắng hết sức để tỏ ra lịch thiệp với anh, than ôi, chiếc ghế trống duy nhất để quay trở lại New York được tìm thấy trên một chuyến bay cất cánh lúc bốn giờ chiều. Nhiều lần anh đã thử gọi cho Julia nhưng đều gặp lời nhắn cài sẵn của cô.

° ° °

Xa lộ khác, lần này qua cửa kính xe người ta có thể nhận ra những tòa tháp của Manhattan. Chiếc Lincoln chui vào đường hầm cùng tên.

- Bố có cái cảm giác lạ thường là không được chào đón tại nhà con gái mình nữa. Nếu phải chọn giữa căn phòng áp mái dột nát của con với những căn hộ của bố, bố thà ở nhà mình còn hơn. Thứ Bảy bố sẽ quay lại để nằm vào hòm trước khi họ đến mang nó đi. Tốt hơn là con gọi cho Wallace, để yên tâm rằng ông ấy sẽ không ở đó, Anthony nói và chìa ra cho Julia mẩu giấy có ghi một số điện thoại.

- Quản gia của bố vẫn ở trong nhà bố hả?

- Bố không biết đích xác thư ký riêng của bố đang làm gì. Từ khi chết đi, bố chưa có dịp nào để hỏi ông ấy về thời gian biểu mới. Nhưng nếu con muốn tránh cho ông ấy một cơn nhồi máu, sẽ là sáng suốt khi ông ấy không có mặt tại nhà lúc chúng ta quay về. Và dù con có nói với ông ấy chuyện gì đi nữa, sẽ tiện hơn nhiều cho bố nếu con cho ông ấy một lý do hợp lý để đi đến tận chân trời góc bể cho đến cuối tuần.

Thay cho câu trả lời, Julia bằng lòng bấm số của Wallace. Một thông báo giải thích rằng vì chủ nhân vừa qua đời, ông sẽ đi nghỉ một tháng. Không thể để lại tin nhắn cho ông. Trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến việc làm ăn của ngài Walsh, xin liên lạc trực tiếp với công chứng viên của ông.

- Bố có thể yên tâm được rồi, đường thông hè thoáng! Julia nói và cất điện thoại di động vào túi áo.

Nửa tiếng sau, chiếc xe đỗ dọc theo vỉa hè, trước dinh thự riêng của Anthony Walsh. Julia ngắm nhìn mặt tiền tòa dinh thự và ánh mắt cô ngay lập tức hướng lên một khung cửa sổ tầng ba. Chính tại nơi đó, vào cuối một buổi chiều, khi ở trường về, cô đã trông thấy mẹ mình nghiêng người qua ban công trong một tư thế rất nguy hiểm. Cô sẽ làm gì nếu không phải là thét gọi tên bà? Mẹ cô, khi nhìn thấy con gái, đã vẫy vẫy tay chào cô, như thể cử chỉ này sẽ xóa sạch mọi dấu vết của việc bấy giờ bà sắp làm.

Anthony mở chiếc va li nhỏ của mình ra và giơ lên một chùm chìa khóa.

- Họ giao cho bố cả chìa khóa nhà nữa sao?

- Cứ cho là bọn bố đã dự kiến giả thuyết con không muốn giữ bố trong nhà riêng, cũng không hủy bố trước thời hạn... Con mở cửa nhé? Không nên chờ đến lúc một người hàng xóm nhận ra bố!

- Bởi vì bây giờ bố lại còn quen biết hàng xóm của mình hay sao? Chuyện này cũng mới đây!

- Julia!

- Thôi được, cô thở dài và xoay nắm đấm cửa của cánh cửa sắt uốn nặng trịch.

Ánh sáng ùa vào cùng cô. Mọi thứ đều nguyên vẹn, như vẫn được sắp đặt trong những ký ức xưa cũ nhất của cô; những viên gạch lát ca rô màu đen và trắng trong đại sảnh tạo thành một bàn cờ khổng lồ. Bên phải, nhịp cầu thang bằng gỗ tối màu dẫn lên gác vẽ nên một đường cong duyên dáng. Lan can bằng gỗ lúp, được chạm trổ bởi bàn tay của một nghệ nhân danh tiếng trong giới, bố cô rất thích thú khi dẫn tên người thợ đó ra khi dẫn khách đi tham quan những diện tích sinh hoạt chung trong ngôi nhà. Phía cuối, cánh cửa mở thông sang phòng ăn và phòng bếp, chỉ riêng hai phòng này thôi cũng đã rộng hơn bất cứ nơi nào Julia đã sống kể từ khi bỏ nhà ra đi. Bên trái là phòng làm việc nơi bố cô thường ngồi điền những sổ sách chứng từ cá nhân, những tối hiếm hoi mà ông có mặt ở nhà. Những dấu hiệu cho thấy sự giàu sang có mặt ở khắp mọi nơi này đã đưa Anthony Walsh ra xa khỏi quãng thời gian ông phục vụ cà phê trong một tòa tháp tại Montréal. Trên bức tường lớn, một bức chân dung vẽ cô hồi nhỏ. Liệu rằng hôm nay, trong đôi mắt cô có còn lại vài tia sáng của ánh mắt nhìn mà một họa sĩ đã nắm bắt được khi cô mới lên năm? Julia ngước đầu để ngắm nhìn khối kiến trúc ô lõm trên trần nhà. Nếu đây đó có vài mạng nhện để rủ xuống những góc cạnh của gỗ lát tường thì cảnh bài trí đã mang hơi hướng ma quái, nhưng ngôi nhà của Anthony Walsh luôn được bảo dưỡng một cách hoàn hảo.

- Con còn nhớ phòng riêng của con nằm ở bên chái nào không? Anthony hỏi khi bước vào phòng làm việc. Bố để con tự tìm tới đó nhé, bố chắc là con vẫn còn nhớ đường. Nếu con đói, chắc vẫn còn gì đó để ăn tạm trong tủ bếp, các loại mứt hoặc vài món đồ hộp. Bố chết chưa lâu đến mức ấy.

Và ông nhìn Julia đang leo cầu thang hai bậc một, bàn tay lướt đi trên tay vịn, hệt như thói quen ngày cô còn bé; và khi đến thềm nghỉ, hệt như khi còn nhỏ, cô quay lại để xem có ai dõi theo mình không.

- Gì thế? Cô hỏi khi đứng nhìn ông từ trên đầu cầu thang.

- Không có gì, Anthony đáp và mỉm cười.

Rồi ông bước vào phòng làm việc.

Hành lang trải dài trước mắt cô. Cánh cửa đầu tiên dẫn vào phòng mẹ cô. Julia đặt bàn tay lên nắm đấm cửa, tay nắm xoay chầm chậm và nảy lên hết sức khẽ khàng đúng lúc cô từ bỏ ý định bước vào bên trong. Cô tiến bước cho đến cuối hành lang mà không rẽ vào đâu nữa.

° ° °

Một thứ ánh sáng màu trắng sữa kỳ lạ lan tỏa trong căn phòng. Những tấm màn cửa bằng voan che kín các khung cửa sổ bay phấp phới trên tấm thảm với màu sắc nguyên vẹn. Cô tiến lại gần chiếc giường, ngồi xuống mép giường và dụi mặt vào gối, hít thật sâu mùi thơm tỏa ra từ áo gối. Ký ức về những đêm trôi qua dưới tấm ga trải giường, lén lút đọc sách với một cây đèn pin chợt ùa về; những buổi tối khi mà các nhân vật được sáng tạo ra nhảy múa sôi động trên những tấm rèm cửa, khi cửa sổ để mở. Chừng ấy hình bóng đồng lõa đến theo cách đó và lấp đầy những lúc giấc ngủ chưa đến. Cô duỗi hai chân và nhìn quanh một lượt. Chiếc đèn chùm, giống như một vật chuyển động nhưng quá nặng để những chiếc cánh màu đen của nó có thể xoay mình khi cô trèo lên một chiếc ghế và thổi vào đó. Gần cái tủ, chiếc rương bằng gỗ nơi cô lèn chặt ních những cuốn vở, vài bức ảnh, mấy tấm bưu ảnh về những xứ sở mang cái tên thần diệu, được mua ở tiệm bán đồ văn phòng phẩm hoặc đổi bằng những xứ sở mà cô có nhiều bản trùng lặp; sao phải đi đến cùng một nơi những hai lần trong khi còn bao nhiêu nơi khác để khám phá cơ chứ? Ánh mắt cô hướng về phía giá sách trên đó những cuốn sách giáo khoa của cô được xếp gọn ghẽ, thẳng hàng, được dồn sát lại bằng hai món đồ chơi cũ, một con chó màu đỏ và một con mèo màu xanh lơ từ bấy lâu nay không hề quen biết. Trang bìa màu đỏ lựu của một cuốn sách giáo khoa lịch sử, bị bỏ quên từ cuối năm cấp hai, mời gọi cô ngồi vào bàn học. Julia rời khỏi giường và lại gần bàn.

Mặt gỗ bị mũi nhọn của com pa cào xước, cô đã ngồi hàng giờ liền để chơi lông bông như thế, chép cẩn thận vào các cuốn vở một chuỗi dài không đổi, ngay khi Wallace gõ cửa để kiểm tra xem cô có làm đầy đủ bài tập về nhà không. Hàng trang liền chỉ toàn "tôi chán, tôi chán, tôi chán". Tay nắm bằng sứ của ngăn kéo mang hình một ngôi sao. Chỉ cần hơi nhấc lên là ngăn kéo trượt ra dễ dàng. Cô mở hé ra. Một cây bút dạ màu đỏ lăn xuống đáy ngăn. Julia lập tức thọc tay vào. Độ mở không rộng lắm, và đồ xác láo đã vuột mất. Julia bị cuốn vào cuộc chơi, bàn tay cô tiếp tục dò dẫm thám hiểm bên trong ngăn kéo.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:37:35 | Chỉ xem của tác giả
Ngón cái của cô nhận thấy trong đó chiếc ê ke, ngón út của cô nhận biết một chuỗi hạt thắng được ở chợ phiên, quá xấu để có thể đem ra trưng. Ngón đeo nhẫn vẫn ngập ngừng. Có phải con ếch gọt bút chì hay con rùa trục cuộn băng dính? Ngón giữa sượt nhẹ qua một mặt giấy. Ở góc, phía trên bên phải, một đường nổi rất mảnh hé lộ mép răng cưa của một con tem. Năm tháng trôi qua đã làm đường viền bị bong nhẹ. Trên phong bì cô đang lướt ngón tay trong góc tối của ngăn kéo bàn, cô lần theo những dòng chữ được viết nên bằng nét bực của một chiếc bút lông. Ra sức để không mất dấu nét chữ, như trong trò chơi đoán biết những chữ được vạch ra bằng đầu ngón tay trên da của một người mà ta yêu, Julia nhận ra nét chữ của Tomas.

Cô tóm lấy chiếc phong bì, bóc niêm và lôi từ đó ra một bức thư.

Tháng Chín 1991,

Julia,

Anh đã sống sót qua cơn điên loại của loài người. Anh là người duy nhất thoát nạn trở về từ một cuộc phiêu lưu ảm đạm. Như anh đã kể với em trong thư trước, bọn anh rốt cuộc đã lên đường tìm kiếm Massoud. Anh quên khuấy trong tiếng nổ ngay lúc này đây vẫn còn vang vọng trong anh là tại sao anh lại muốn gặp ông ấy đến thế. Anh đã quên lòng nhiệt tình đã thúc đẩy anh đi đến chỗ quay phim sự thực về ông ấy. Anh chỉ còn thấy nỗi căm hận đã sượt qua anh và cướp mất mạng sống của những người bạn đồng hành với anh trong chuyến đi đó. Dân làng đã lôi được anh ra từ đống đổ nát, cách nơi lẽ ra anh đã phải chết hai chục mét. Tại sao luồng hơi đó lại chỉ hất tung anh lên trong khi cũng chính nó đã khiến những người khác chết tan xác? Anh không bao giờ biết được. Vì ngỡ là anh đã chết, họ đặt anh nằm lên một chiếc xe bò. Nếu một cậu bé cưỡng lại được mong muốn tháo chiếc đồng hồ của anh để đeo vào tay mình, bất chấp nỗi sợ hãi đến mức ấy, nếu cánh tay anh không cử động và cậu bé không hét lên, hẳn là họ đã đem anh đi chôn rồi. Nhưng anh đã nói với em rồi mà, anh đã sống sót qua cơn điên loạn của loài người. Người ta kể rằng khi cái chết đã chọn ai đó, người ta sẽ nhìn lại cả cuộc đời mình. Khi nó nuốt chửng rồi thì người ta không nhìn thấy gì như thế nữa. Trong cơn mê sảng luôn đồng hành với những cơn sốt của anh, anh chỉ nhìn thấy gương mặt em. Anh những muốn khiến em phải ghen khi nói với em rằng cô y tá chăm sóc anh là một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, nhưng đó lại là một người đàn ông và bộ râu dài của ông không có gì là hấp dẫn cả. Anh đã trải qua bốn tháng trời trên một giường bệnh tại Kaboul. Da anh phỏng rộp, nhưng anh không viết cho em để than phiền đâu.

Năm tháng trời không gửi thư cho em, thế là quá nhiều khi chúng ta đã quen viết cho nhau hai lá mỗi tuần. Năm tháng im lặng, gần nửa năm im lặng, còn dài hơn thế nhiều khi đã bao lâu nay chúng ta không được gặp mà cũng không được chạm vào nhau. Yêu nhau mà phải xa nhau thế này thật quá tàn nhẫn, thế nên ngày nào chuyện này cũng cứ ám ảnh tâm trí anh.

Knapp đã bay sang Kaboul ngay khi cậu ấy biết tin. Em phải chứng kiến cảnh cậu ấy khóc như thế nào khi bước vào phòng bệnh chung, và anh cũng đã có phần khóc như vậy, anh thừa nhận với em điều đó. Thật may là người bị thương nằm giường kế bên đang say giấc, nếu không, bọn anh sẽ bị xem như loại người nào giữa những người lính có lòng dũng cảm bền bỉ này? Nếu cậu ấy không gọi cho em trước khi lên đường thì cũng là vì anh đã yêu cầu cậu ấy đừng làm vậy. Anh biết cậu ấy đã báo cho em biết về cái chết của anh, chính anh sẽ đích thân nói với em rằng anh còn sống. Có lẽ lý do thực sự không phải vậy, có lẽ bằng cách viết thư cho em, anh muốn để em được tự do theo đuổi cái đám tang của câu chuyện của chúng ta, nếu như em đã biết đến nó.

Julia, tình yêu của chúng ta nảy sinh từ những điều khác biệt giữa hai ta, từ cái ham thích khám phá mà chúng ta lại tìm được mỗi sáng khi thức dậy. Và bởi anh đang nhắc với em về buổi sáng,em sẽ không bao giờ biết được số giờ anh đã trải qua để ngắm em say giấc, ngắm em mỉm cười đâu. Bởi em mỉm cười trong giấc ngủ, ngay cả khi em không biết điều ấy. Em sẽ không bao giờ đếm được số lần em nép mình vào anh, nói mơ những từ anh không hiểu nổi; có đến cả trăm lần, đó là con số chính xác đấy.

Julia, anh biết rằng cùng nhau vun đắp là một cuộc phiêu lưu khác. Anh không ưa gì bố em và rồi anh lại muốn hiểu tâm trạng của ông. Nếu ở vào cùng một hoàn cảnh, liệu anh có hành động như bố em không? Nếu em sinh cho anh một đứa con gái, nếu em bỏ lại anh một mình với con bé, nếu con bé phải lòng một người nước ngoài sống trong một thế giới được tạo nên bởi chẳng gì hết, hoặc bởi tát cả những thứ khiến anh khiếp sợ, có lẽ anh cũng sẽ hành động như ông. Anh không bao giờ muốn kể em nghe về những năm tháng sống đằng sau bức tường, anh không muốn phá hỏng bất cứ giây phút nào trong thời gian ta bên nhau bằng những ký ức về điều phi lý, em xứng đáng được nghe những điều tốt đẹp hơn là những câu chuyện buồn về điều tệ hại nhất mà con người có thể tạo ra, nhưng bố em chắc chắn biết về sự tồn tại của những điều như thế và đó không phải là điều ông mong muốn cho em.

Anh hận bố em vì đã bắt cóc em và bỏ lại anh với khuôn mặt đầu máu trong phòng, không thể giữ em lại. Anh đã giận dữ đấm vào những bức tường nơi giọng nói của em vẫn còn âm vang, nhưng anh đã muốn hiểu. Làm thế nào để nói cho em biết là anh yêu em mà không thử ít ra là một lần?

Em đã quay lại với cuộc sống của em, trước sức ép từ mọi phía. Em còn nhớ không, em lúc nào cũng nhắc đến những dấu hiệu mà cuộc sống vẽ nên trước mắt chúng ta, anh thì anh không tin vào những dấu hiệu ấy, nhưng cuối cùng em đã thuyết phục được anh, ngay cả khi tối nay, lúc anh viết cho em những dòng này, tại đây, đó lại chính là nguyên do của điều tệ nhất.

Anh đã yêu em như con người em vốn thế, và không bao giờ anh muốn em đổi khác, anh yêu em không cần phải hiểu mọi chuyện, anh tin rằng thời gian sẽ cho anh cơ hội để hiểu; có lẽ từ đầu đến cuối tình yêu này, đôi khi anh quên không hỏi em liệu em có yêu anh đến mức chọn lựa tất cả những thứ đã chia cắt chúng ta hay không. Cũng có thể là em không bao giờ để anh có đủ thời gian để hỏi em câu đó, lại càng không dành thời gian để tự đặt ra cho mình câu hỏi đó. Nhưng thời điểm này đã đến, bất chấp ý chí của chúng ta.

Ngày mai anh sẽ quay lại Berlin. Anh sẽ bỏ lá thư này vào thùng thư đầu tiên anh nhìn thấy. Nó sẽ đến với em trong vài ngày nữa như mọi lần; và nếu anh tính chính xác, sẽ vào khoảng ngày 16 hay 17 gì đó.

Em sẽ thấy trong chiếc phong bì này một thứ mà anh vẫn giữ bí mật về nó, anh đã muốn gửi cho em tấm ảnh chụp anh, nhưng lúc này anh không được phogn độ lắm, vả lại làm vậy về phần anh sẽ là hơi tự phụ. Thế nên đây chỉ là một chiếc vé máy bay. Em thấy đấy, em sẽ không cần làm việc suốt nhiều tháng dài đằng đẵng để trở về bên anh nữa, nếu em vẫn còn muốn làm vậy. Anh cũng đã dành dụm tiền để đến tìm em. Anh đã mang chiếc vé bên người đến tận Kaboul này, lẽ ra anh nên gửi nó cho em, nhưng như em thấy đấy... Nó vẫn còn hợp thức.

Anh sẽ đợi em tại sân bay Berlin vào ngày cuối cùng hàng tháng.

Nếu chúng ta gặp lại nhau, anh sẽ giữ lời hứa, sẽ không bắt cóc đứa con gái mà anh sẽ hạ sinh cho anh khỏi người đàn ông mà một ngày nào đó con bé sẽ chọn. Và dù cho người ấy có khác biệt đến thế nào, anh sẽ thấu hiểu cái người đã đánh cắp con bé khỏi anh, anh sẽ thấu hiểu con gái anh bởi anh đã yêu người mẹ sinh ra nó.

Julia, anh sẽ không bao giờ trách giận em đâu, anh sẽ tôn trọng quyết định của em, dù nó là gì đi nữa. Nếu em không đến, nếu anh có phải đơn độc rời khỏi sân bay, vào ngày cuối cùng của tháng, hãy biết rằng anh sẽ thấu hiểu, anh viết cho em chính là để nói với em điều này.

Thế nên, anh sẽ không bao giờ quên gương mặt tuyệt vời mà cuộc sống đã tặng cho anh vào một buổi tối tháng Mười một, một buổi tối khi niềm hy vọng quay trở lại, anh trèo lên một bức tường để rồi ngã vào vòng tay em, anh người đến từ phía Đông và em người đến từ phía Tây.

Em đang và sẽ mãi lưu lại trong ký ức của anh như điều đẹp đẽ nhất từng xảy đến với anh. Khi viết cho em những từ này anh mới hiểu là anh yêu em nhiều bao nhiêu.

Có lẽ là hẹn sớm gặp lại. Dù sao chăng nữa, em vẫn còn đó, em sẽ luôn còn đó. Ở đâu đó, anh biết rằng em đang hít thở, và thế đã là quá nhiều rồi.

Anh yêu em,

Tomas.

Một gói nhỏ với lớp giấy bọc bên ngoài đã ngả vàng rơi ra từ phong bì. Julia mở ra. Trên lớp giấy màu đỏ của một chiếc vé máy bay có dòng chữ được nhập bằng máy: Fraülein Julia Walsh, New York - Paris - Berlin, 29 tháng Mười một 1991. Julia cất lại tấm vé và bì thư vào ngăn kéo bàn. Cô mở hé cửa sổ rồi quay lại nằm dài trên giường. Tay gối sau đầu, cô nằm như thế hồi lâu ngắm nhìn những tấm rèm của phòng mình, hai vạt vải nơi những người bạn cũ của cô dạo chơi, những tòng phạm của nỗi cô độc thuở xưa được tìm lại.

° ° °

Đầu giờ chiều, Julia rời phòng mình để xuống phòng ăn. Cô mở ngăn tủ bếp nơi Wallace lúc nào cũng xếp đầy những lọ mứt. Cô vớ một gói bánh bít cốt trên giá, chọn một hũ mật ong rồi đến ngồi ở bàn bếp. Cô nhìn dấu múc bằng thìa trong hỗn hợp sền sệt vàng sánh. Dấu vết lạ thường, hẳn là do Anthony Walsh để lại khi ông dùng bữa sáng cuối cùng trong đời. Cô hình dung ra ông, ngồi ở chỗ mà cô đang ngồi bây giờ, một mình trước tách cà phê trong căn bếp rộng thênh này, đang đọc một tờ báo. Hôm ấy ông nghĩ đến chuyện gì nhỉ? Bằng chứng lý thú về một quá khứ đã khép lại từ nay. Tại sao các chi tiết bề ngoài không đáng kể này lại khiến cô nhận thức được, có lẽ là lần đầu tiên, rằng bố mình đã qua đời? Thường thì chỉ cần một chuyện không đâu, một đồ vật được tìm thấy, một thứ mùi, để gợi lại nơi bạn ký ức về một người đã mất. Và giữa không gian rộng lớn này, cũng là lần đầu tiên, tuổi thơ ấu của cô, dù có đáng bị rẻ rúng, cũng khiến cô phải nhớ. Có tiếng ho nơi cửa ra vào, cô ngước nhìn, Anthony Walsh đang mỉm cười với cô.

- Bố vào được chứ? Ông hỏi và ngồi vào bàn đối diện cô.

- Bố cứ tự nhiên!

- Bố đặt mua bên Pháp đấy, mùi oải hương, con vẫn thích loại mật ong này chứ?

- Như bố thấy đấy, có những thứ không hề thay đổi.

- Cậu ấy nói gì với con trong thư vậy?

- Con cho là chuyện đó chẳng liên quan gì tới bố.

- Con đã quyết định chưa?

- Bố đang nói đến chuyện gì kia?

- Con biết rõ mà. Con định trả lời cậu ta như thế nào?

- Sau hai mươi năm, như thế là hơi muộn rồi, đúng không?

- Con đặt ra câu hỏi ấy cho con hay cho bố vậy?

- Hôm nay, Tomas hẳn đã kết hôn, đã có con. Con có quyền gì để lại xuất hiện trong đời anh ấy?

- Con trai, con gái, hoặc có lẽ là sinh đôi chăng?

- Gì kia?

- Bố hỏi con xem tài tiên đoán của con có cho con biết gia đình nhỏ đáng yêu của cậu ta giống với cái gì không thôi. Thế nào, con trai hay con gái?

- Nhưng bố đang lảm nhảm gì vậy?

- Sáng nay con còn ngỡ cậu ta đã chết, giờ đây có lẽ con phỏng đoán hơi nhanh để quyết định cái mà cậu ta đã làm với cuộc đời mình đấy nhỉ.

- Hai mươi năm, khỉ thật, chứ chúng ta không nói đến quãng thời gian sáu tháng đâu!

- Mười bảy năm! Quá thừa thời gian để ly dị nhiều lần, trừ khi cậu ta cũng lệch lạc như cậu bạn buôn đồ cổ của con. Cậu ta tên gì ấy nhỉ, Stanley à? Phải rồi, Stanley!

- Và bố dám lôi chuyện đó ra làm trò cười!

- Chao ôi, trò cười, cách xóa bỏ mọi yếu tố bất lợi của thực tế khi nó ập đến mới tuyệt làm sao; bố không còn nhớ ai đã nói thế, nhưng câu này rất đúng. Bố hỏi con lần nữa, con đã quyết định chưa?

- Chẳng có gì để mà quyết định cả, giờ đã là quá muộn rồi. Con sẽ phải nói điều đó với bố bao nhiêu lần nữa đây, bố nên vui vì điều này mới phải chứ?

- Quá muộn chỉ tồn tại khi mọi chuyện là bất khả vãn hồi. Là quá muộn để nói với mẹ con tất cả những điều bố muốn bà biết trước khi rời bỏ bố và bố rất muốn mẹ con viết cho bố một bức thư trước khi bà ấy mất trí. Về chúng ta, bố và con, quá muộn sẽ là thứ Bảy tới, khi bố tắt ngúm như một món đồ chơi tầm thường đã hết pin. Nhưng nếu Tomas vẫn còn sống, vậy thì xin lỗi đã nói trái lời cô, thì chưa phải là quá muộn. Và nếu con còn nhớ dù chỉ là chút ít phản ứng của mình khi hôm qua nhìn thấy bức tranh ấy, nhớ chút ít về điều đã dẫn dắt chúng ta đến đây vào sáng nay, thì đừng núp sau cái cớ là đã quá muộn. Hãy tìm cho mình một cái cớ khác đi.

- Chính xác thì bố đang tìm kiếm điều gì vậy?

- Bố chẳng tìm kiếm gì cả. Con thì ngược lại, có lẽ là tìm Tomas của con chăng, trừ phi...

- Trừ phi gì kia?

- Không có gì, thứ lỗi cho bố, bố cứ nói, bố nói hoài nhưng chính con mới là người có lý.

- Đây đúng là lần đầu tiên con nghe thấy bố nói là con có lý đấy, con tò mò muốn biết đó là chuyện gì.

- Không, biết cũng chẳng ích gì đâu, bố cam đoan với con đấy. Quá dễ để tiếp tục than vãn rên rỉ về chuyện có lẽ đã xảy ra. Bố đã nghe đủ kiểu nói dóc thông thường, "số phận đã muốn khác đi, vậy đấy" và bố miễn cho con những câu đại loại "tất cả là lỗi của bố em, ông ấy thực sự muốn làm hỏng đời em". Xét cho cùng, sống trong một bi kịch, đó là một cách để tồn tại như mọi cách khác.

- Bố làm con phát sợ đấy! Trong một phút con đã ngỡ bố coi trọng con.

- Căn cứ vào cách cư xử của con thì nguy cơ xảy ra việc đó là cực nhỏ!

- Và ngay cả khi con muốn viết cho Tomas đến chết đi được, ngay cả khi con tìm được một địa chỉ nào đó để gửi thư cho anh ấy sau mười bảy năm đi chăng nữa, thì con cũng sẽ không đời nào làm vậy với Adam, làm vậy sẽ thật đê tiện. Bố không nghĩ là anh ấy đã nghe đủ những lời dối trá cho cả tuần rồi hay sao?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 18:38:41 | Chỉ xem của tác giả
- Nhất định là thế rồi! Anthony đáp bằng một vẻ còn hơn cả mỉa mai.

- Lại chuyện gì nữa đây?

- Con có lý. Nói dối do sơ suất rõ ràng là hay hơn, chính trực hơn! Vả lại điều này sẽ đem lại cho con và cậu ta cơ hội để chia sẻ điều gì đó. Cậu ta sẽ không còn là người duy nhất phải nghe con nói dối nữa.

- Và con có thể biết bố đang nghĩ tới ai không?

- Đến con chứ ai! Mỗi tối khi nằm ngủ cạnh cậu ta mà con có dù chỉ là một cảm giác nhung nhớ thoáng qua dành cho người bạn phía Đông của con, hấp, một lời nói dối nho nhỏ; một giây phút tiếc nuối nhỏ xíu, hấp, một lời nói dối nho nhỏ khác; mỗi khi con tự đặt cho mình câu hỏi để biết liệu rốt cuộc con có nên quay trở lại Berlin để biết đích xác hay không, hấp, lời nói dối nho nhỏ thứ ba. Chờ đã, để bố tính nhé, bố luôn sẵn khiếu trong môn toán mà; cứ cho là ba suy nghĩ nho nhỏ mỗi tuần, hai ký ức thoáng qua và ba sự so sánh giữa Tomas và Adam, chúng ta có ba cộng hai cộng ba được tám, nhân với năm mươi hai tuần, nhân tiếp với ba mươi năm chung sống, bố biết mà, bố lạc quan đấy, nhưng thế là... Thành ra mười hai nghìn bốn trăm tám mươi hai lời dối trá. Không tồi chút nào cho một cuộc sống lứa đôi!

- Bố đang tự mãn lắm hả? Julia hỏi và vỗ tay một cách xấc xược.

- Con không cho việc sống với một ai đó mà không chắc chắn về tình cảm của chính mình, là một lời nói dối, một sự phản bội hay sao? Con có hình dung cuộc sống sẽ như thế nào khi hai đứa cong ần gũi mà như đã trở nên xa lạ?

- Bởi vì bố thì biết nó như thế nào ư?

- Mẹ con đã gọi bố là ông trong suốt ba năm cối đời, và khi bố bước vào phòng bà ấy, mẹ con đã chỉ cho bố nhà tắm ở đâu vì ngỡ bố là thợ sửa ống nước. Con có muốn đưa bố mượn bút chì màu để bố vẽ cho con một bức tranh không?

- Mẹ thực sự đã gọi bố là ông sao?

- Những ngày đẹp trời thì đúng là như vậy, những ngày xấu trời, mẹ con gọi cảnh sát vì một kẻ lạ mặt đã đột nhập vào nhà bà.

- Bố thực sự muốn mẹ viết thư cho bố trước khi...?

- Đừng e sợ những từ thích đáng. Trước khi mất trí chứ gì? Trước khi chìm đắm trong cơn điên? Câu trả lời là có, nhưng chúng ta không ngồi đây để nhắc đến mẹ con.

Anthony chăm chú nhìn cô con gái hồi lâu.

- Thế nào, thứ mật ong này ngon không?

- Ngon ạ, cô nói và ăn ngon lành miếng bánh bít cốt.

- Hơi rắn hơn thường lệ phải không?

- Vâng, hơi cứng hơn.

- Bọn ong trở nên lười nhác hơn từ khi con bỏ nhà này đi đấy.

- Đó là một khả năng, cô đáp và mỉm cười. Bố muốn chúng ta nói về bọn ong không?

- Tại sao không nhỉ?

- Bố nhớ mẹ nhiều lắm phải không?

- Dĩ nhiên, hỏi gì lạ vậy?

- Người phụ nữ khiến bố co chân nhảy vào rãnh nước bên đường ấy, chính là mẹ phải không?

Anthony lục túi trong áo vest và lấy ra một bọc nhỏ. Ông đẩy nó trượt trên mặt bàn đến chỗ Julia ngồi.

- Gì thế ạ?

- Hai vé máy bay đi Berlin, chuyển tiếp tại Paris, vì vẫn chưa có đường bay thẳng. Máy bay của chúng ta sẽ cất cánh lúc năm giờ chiều, con có thể đi một mình, không đi, hoặc bố có thể đi cùng con, tùy con quyết định; chuyện này cũng mới lạ, phải không nào?

- Sao bố làm vậy?

- Con đã làm gì với mẩu giấy của mình rồi?

- Giấy nào ạ?

- Lời nhắn của Tomas mà con lúc nào cũng giữ trên người ấy, nó xuất hiện như có phép thần mỗi khi con dốc mọi thứ trong túi ra; cái mẩu giấy nhàu nhĩ lần nào cũng buộc tội bố về chuyện tàn ác bố gây ra cho con ấy.

- Con làm mất rồi.

- Cậu ta viết gì trong ấy thế? Chao ôi, mà đừng trả lời bố làm gì, tình yêu là một điều tầm thường thảm hại. Con thực sự đã để thất lạc mẩu giấy đó rồi à?

- Con đã nói với bố rồi còn gì!

- Bố không tin, những kiểu đồ vật này không bao giờ mất hẳn được. Ngày nào đó chúng sẽ lại trở ra, từ sâu trong tim. Nào, đi sửa soạn hành lý của con đi.

Anthony đứng lên và rời khỏi phòng. Tới ngưỡng cửa, ông quay lại.

- Nhanh lên nào; con không cần ghé qua nhà đâu, nếu thiếu đồ gì chúng ta sẽ mua khi tới nơi. Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, bố đợi con bên ngoài, bố đã gọi xe rồi. Bố như là có một cảm giác quen thuộc kỳ lạ khi nói với con câu này, bố có nhầm không nhỉ?

Rồi Julia nghe tiếng bước chân bố cô vang lên trong đại sảnh của ngôi nhà.

Cô đưa hai tay ôm đầu và thở dài. Qua những ngón tay không khép chặt, cô nhìn hũ mật ong để trên bàn. Cô cần phải đến Berlin, không phải để lần theo dấu Tomas, mà là để tiếp tục du ngoạn cùng bố cô. Và cô thành thực thề rằng đây không phải viện cớ hay lấy lý do thoái thác gì, và ngày nào đó chắc chắn Adam sẽ hiểu.

Trở về phòng, khi cô lấy lại chiếc túi xách để cuối giường, ánh mắt cô hướng về phía giá sách. Một cuốn sách lịch sử bìa màu đỏ lựu vượt ra khỏi hàng. Cô ngần ngừ, cầm lấy cuốn sách và làm rơi ra một chiếc phong bì màu xanh lơ được giấu trong đó. Cô cất phong bì vào túi hành lý, đóng cửa sổ lại và ra khỏi phòng.

° ° °

Anthony và Julia đến ngay trước khi kết thúc thời gian đăng ký. Cô tiếp viên giao cho họ thẻ lên máy bay và khuyên họ hãy nhanh lên. Vào giờ đã muộn thế này, cô không thể đảm bảo họ sẽ đến được cửa máy bay trước lần gọi hành khách sau chót.

- Chân cẳng tôi lại đang thế này thì nguy rồi, Anthony tuyên bố và nhìn cô, vẻ sầu não.

- Ông gặp khó khăn khi di chuyển sao? người phụ nữ trẻ hỏi vẻ lo lắng.

- Ở tuổi tôi, cô ạ, âu cũng là lẽ thường ấy mà, ông đáp với vẻ kiêu ngạo và trình ra tờ giấy chứng nhận đang mang máy trợ tim trên người.

- Xin các vị đợi ở đây, cô tiếp viên vừa nói vừa nhấc điện thoại của mình lên.

Vài phút sau, một chiếc xe con chạy bằng điện đưa họ tới phòng chờ của chuyến bay tới Paris. Với sự hộ tống của một nhân viên đi kèm, qua cửa an ninh lần này chỉ còn là một trò trẻ con.

- Bố lại bị lỗi hả? Julia hỏi ông khi họ phóng hết tốc lực trong những hành lang dài của sân bay.

- Con im đi, khỉ thật, Anthony thì thào, con sẽ làm chúng ta bị phát hiện mất, chân bố chẳng làm sao hết!

Và ông tiếp tục câu chuyện dở dang với người tài xế, như thể cuộc đời của người này khiến ông thực sự say mê. Chưa đến mười phút sau, Anthony và con gái ông đã trở thành những người đầu tiên lên máy bay.

Trong khi hai nữ tiếp viên hàng không đang giúp đỡ Anthony Walsh ngồi vào chỗ, một cô kê gối dựa sao lưng, cô kia đề nghị ông dùng thêm chăn, Julia quay lại cửa lên xuống máy bay. Cô thông báo với người nam tiếp viên hàng không đứng ở đó là cô cần gọi một cuộc điện thoại cuối cùng. Bố cô đang ở trên máy bay, cô sẽ quay lại trong vài phút nữa. Cô lộn trở lại quãng đường cầu thang nhỏ hẹp dẫn xuống máy bay và rút điện thoại di động ra.

- Thế nào, chúng ta đang ở đâu trong chuyến du lịch bí hiểm đến Canada đây? Stanley nói ngay khi nhấc máy.

- Em đang ở sân bay.

- Em đã về rồi sao?

- Em đi mà!

- Đến đây, em thân mến, anh hẳn đã lỡ mất một chặng rồi!

- Em vừa về sáng nay, không có thời gian ghé qua thăm anh, tuy nhiên em thề với anh rằng em rất muốn làm như vậy.

- Và ta có thể biết là lần này em đi đâu không, Oklahoma, Wisconsin chăng?

- Stanley, nếu anh tìm lại được một lá thư của Edward, một lá thư anh ấy tự tay viết trước khi chết, mà anh chưa từng được đọc, anh sẽ mở nó ra chứ?

- Anh nói với em rồi, Julia à, những lời cuối cùng của Edward ấy là để nói với anh rằng anh ấy yêu anh. Anh có thể muốn biết gì hơn nữa nào? Những lời xin lỗi chắc, những tiếc nuối khác chắc? Vài lời đó từ anh ấy đáng giá tất cả những gì bọn anh đã quên không giãi bày cùng nhau.

- Vậy thì anh sẽ đặt lại phong bì vào chỗ cũ ư?

- Anh nghĩ là phải, nhưng anh chưa từng khám phá ra lời nhắn nào của Edward trong căn hộ của bọn anh. Edward viết không nhiều, em biết đấy, thậm chí danh sách những đồ cần mua cũng không có, luôn là anh phải lo những việc đó. Em không tưởng tượng được hồi ấy chuyện này đã khiến anh cáu tiết đến mức nào đâu, ấy thế mà, hai mươi năm sau, mỗi lần đi chợ, anh đều mua loại sữa chua anh ấy ưa thích nhất. Nhớ những chuyện kiểu ấy lâu đến vậy thật là ngu ngốc phải không?

- Có lẽ là không.

- Em tìm thấy một bức thư của Tomas à, đúng thế không? Em nhắc với anh về Edward mỗi lần em nghĩ đến cậu ta mà, mở nó ra đi!...

- Tại sao, bởi vì anh thì không làm như thế mà!

- Thật buồn vì hai mươi năm làm bạn rồi mà em vẫn chưa hiểu ra rằng anh là tất cả, chỉ trừ tấm gương để em noi theo thôi. Hãy mở lá thư ấy ngay hôm nay, đọc nó vào ngày mai nếu em thích, nhưng nhất là đừng hủy nó đi. Có lẽ anh đã nói dối em một chút; nếu Edward để lại cho anh một lá thư, anh sẽ đọc nó cả trăm lần, hàng giờ liền, để chắc chắn hiểu được mỗi từ viết trong đó, ngay cả khi anh biết rõ rằng anh ấy sẽ không bao giờ dùng bằng ấy thời gian để viết cho anh. Bây giờ em có thể nói với anh là em đi đâu được chưa? Anh nóng lòng muốn biết đầu số điện thoại nơi anh có thể gặp được em tối nay.

- Là sáng mai thì đúng hơn và anh cần phải bấm số 49.

- Đầu số nước ngoài hả?

- Của Đức, ở Berlin.

Một khoảnh khắc yên lặng. Stanley hít vào thật sâu trước khi tiếp tục cuộc trò chuyện.

- Em đã phát hiện ra điều gì đó trong lá thư em vừa mở ư?

- Anh ấy vẫn còn sống!

- Dĩ nhiên rồi..., Stanley thở dài. Và em gọi cho anh từ phòng chờ sân bay để hỏi rằng liệu em có lý không khi lên đường tìm lại cậu ấy, thế chứ gì?

- Em gọi cho anh từ cầu thang lên máy bay... và em cho là anh đã trả lời câu hỏi của em rồi.

- Vậy thì đi thôi, cô ngốc ạ, đừng bỏ lỡ chuyến bay này.

- Stanley này?

- Lại chuyện gì nữa thế?

- Anh có giận không?

- Ôi không, anh ghét khi đã biết em quá rõ như thế này, chỉ thế thôi. Em còn câu hỏi ngớ ngẩn nào khác không?

- Anh làm thế nào mà...

- Mà trả lời được các câu hỏi trước cả khi em nói ra miệng chứ gì? Những kẻ ác khẩu sẽ nói với em rằng anh đàn bà hơn cả em, nhưng em có quyền nghĩ đó là bởi vì anh là bạn thân nhất của em. Giờ thì đi đi, trước khi anh kịp nhận ra rằng anh sẽ nhớ em kinh khủng.

- Đến nơi em sẽ gọi cho anh, em hứa.

- Ừ, ừ, được đấy!

Nữ tiếp viên hàng không ra hiệu cho Julia rằng cần phải lên máy bay ngay lập tức, phi hành đoàn sẽ không chỉ chờ chêm mỗi mình cô để đóng cửa máy bay. Và khi Stanley muốn biết cái điều anh phải nói với Adam nếu cậu ta gọi thì Julia đã gác máy rồi.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 22:41:02 | Chỉ xem của tác giả
14


Những khay thức ăn đã được dọn đi, tiếp viên hàng không giảm độ sáng đèn khiến khoang hành khách chìm trong một quầng tối mờ. Từ đầu chuyến đi đến giờ, Julia chưa nhìn thấy bố mình động vào thứ đồ ăn nào, cũng không ngủ, thậm chí không cả nghỉ ngơi. Điều đó hẳn là bình thường với một cỗ máy, nhưng ý nghĩ kỳ cục đó mới khó chấp nhận làm sao. Vì lẽ đây chính là những chi tiết duy nhất nhắc cô nhớ rằng chuyến đi này sẽ chỉ tặng cho hai người họ vài ngày giành giật được của thời gian. Phần đông hành khách đều đang ngủ, số khác đang theo dõi một bộ phim trên màn hình nhỏ trước mặt; ở hàng cuối cùng, một người đàn ông đang tra cứu tài liệu dưới ánh sáng của một ngọn đèn ngủ. Anthony lật xem một tờ báo, Julia nhìn qua cửa kính những tia phản chiếu ánh bạc của mặt trăng lên cánh máy bay và đại dương lao xao trong màn đêm xanh thẳm.

° ° °

Sang xuân, em đã quyết định thôi học ở trường Mỹ thuật, quyết định không quay về Paris nữa. Anh đã làm tất cả để can ngăn em, nhưng ý em đã quyết, em sẽ trở thành nhà báo giống như anh và cũng giống như anh sáng nào em cũng đi tìm một công việc để làm, ngay cả khi đối với một cô gái người Mỹ, điều đó là vô vọng. Từ vài ngày nay, những tuyến xe điện lại nối hai nửa thành phố với nhau. Mọi thứ xung quanh chúng ta, tất thảy đều hối hả; mọi người xung quanh chúng ta, ai ai cũng nhắc đến chuyện thống nhất đất nước của anh để tạo thành một nước Đức duy nhất, như trước kia, khi mọi thứ trên đời chưa thuộc về chiến tranh lạnh. Những kẻ từng làm tay sai cho mật vụ dường như đã biến mất cùng với tài liệu lưu trữ của chúng. Vài tháng trước, chúng đã tiến hành thủ tiêu tất cả những thứ giấy tờ có thể gây liên lụy, tất cả những hồ sơ do chúng lập nên về hàng triệu đồng bào của anh và chính anh, anh đã là một trong số những người đầu tiên biểu tình để ngăn chặn chúng.

Anh cũng được đánh số trên một hồ sơ nào đó chứ? Hồ sơ đó vẫn còn nằm im lìm trong một vài tài liệu mật có chứa những bức ảnh chụp lén anh trên phố, hay tại nơi làm việc, danh sách những người anh thường gặp gỡ, tên của bạn bè anh, tên bà anh? Tuổi trẻ của anh là khả nghi trong mắt những nhà cầm quyền thời bấy giờ chăng? Làm sao chúng ta lại có thể để mặc như thế, sau tất cả những bài học về những năm chiến tranh? Đó là cách duy nhất mà thế giới của chúng ta tìm ra để phục thù hay sao? Anh và em, chúng ta có mặt trên đời này quá muộn để hận thù nhau, chúng ta có quá nhiều thứ để sáng tạo nên. Buổi tối, khi chúng ta đi dạo trong khu phố nhà anh, em thường thấy anh tiếp tục sợ hãi. Nỗi sợ chạy xuống anh ngay khi anh nhìn thấy dù chỉ một bộ quân phục hoặc một chiếc ô tô mà tốc độ chạy theo anh là quá chậm rãi. "Đi thôi, chúng ta đừng nán lại đây nữa," lúc bấy giờ anh nói; và anh dẫn em đến náu trong con hẻm nhỏ đầu tiên gặp, trong cái cầu thang đầu tiên cho phép chúng ta tẩu thoát, cho phép thoát khỏi một kẻ thù vô hình. Và khi em chế giễu anh, anh liền nổi giận, anh bảo em rằng em không hiểu gì hết, không biết tất cả những điều mà chúng có thể gây ra. Đã bao lần em bắt gặp ánh mắt anh nhìn quanh căn phòng của một nhà hàng nhỏ, nơi em dẫn anh đến ăn tối? Đã bao lần anh nói với em rằng, ta hãy rời khỏi đây thôi, khi nhìn thấy gương mặt ủ rũ của một khách hàng gợi cho anh nhớ về quá khứ đáng lo ngại. Tha lỗi cho em, Tomas, anh có lý, em không biết thế nào là sợ hãi. Tha lỗi cho em đã cười phá lên khi anh buộc chúng ta náu mình dưới những trụ cầu, bởi vì một đoàn xe quân sự đang vượt sông. Em đã không biết, em đã không thể hiểu nổi, không ai trong số bọn em có thể hiểu.

Khi anh chỉ tay vào một ai đó trong tàu điện, căn cứ vào ánh mắt của anh em hiểu rằng anh đã nhận ra một trong số những kẻ từng làm tay sai cho mật vụ.

Cởi bỏ bộ quân phục, từ bỏ quyền lực và vẻ ngạo nghễ của mình, những cựu thành viên Stasi 1 hòa lẫn vào thành phố của anh, tập quen với sự tầm thường trong cuộc sống của những con người mới hôm qua vẫn còn bị chúng vây dồn, rình mò, phán xét và đôi khi là tra tấn, và điều ấy đã kéo dài hàng bao năm. Từ khi bức tường sụp đổ, phần đông chúng đã tự bịa ra cho mình một quá khứ để người ta không nhận ra chúng, những kẻ khác vẫn âm thầm tiếp tục con đường của mình và đối với nhiều người trong số chúng, những ăn năn dằn vặt tiêu tan theo năm tháng, cùng với ký ức về những tội ác chúng đã gây ra.

Em còn nhớ buổi tối chúng ta đến thăm Knapp. Cả ba người chúng ta đã đi dạo trong một công viên. Knapp không ngừng hỏi anh về cuộc sống của anh, mà không biết rằng lòng anh đau xót thế nào khi phải trả lời những câu hỏi đó. Anh ấy khẳng định rằng bức tường Berlin đã trải bóng của nó sang tận miền Tây nơi anh ấy sống, trong khi anh thì anh lớn tiếng nói rằng chính miền Đông, nơi anh sống, mới là nơi bức tường bê tông giam hãm. Làm sao các cậu tập quen được với sự tồn tại kiểu ấy, Knapp gạn hỏi. Và anh mỉm cười, hỏi anh ấy rằng liệu có phải anh ấy đã quên mọi chuyện rồi chăng? Knapp lại phản công dồn dập bằng một loạt câu hỏi, thế nên anh đầu hàng và trả lời những câu hỏi anh ấy đặt ra. Thế rồi, hết sức kiên nhẫn, anh kể anh ấy nghe về một cuộc sống trong đó nhất nhất mọi chuyện đều được tổ chức, đảm bảo an toàn, nơi không một trách nhiệm nào phải được gánh vác, nơi nguy cơ phạm lỗi là rất thấp. "Chúng tớ biết đến tình trạng ai ai cũng có việc làm, Nhà nước có mặt ở khắp mọi nơi," anh nói và nhún vai. "Những nền độc tài chuyên chính đều hoạt động như thế mà," Knapp kết luận. Điều này phù hợp với nhiều người, tự do là một món tiền cược khổng lồ, phần đông mọi người đều khao khát được tự do, nhưng không còn biết sử dụng nó thế nào nữa. Và em còn nghe các anh bàn luận trong quán cà phê tại Tây Berlin, rằng ở phía Đông ai nấy đều đang khôi phục lại cuộc sống trong những căn hộ êm ái theo cách riêng của mình. Cuộc đàm đạo của các anh trở nên sôi nổi khi bạn anh hỏi anh rằng theo anh thì có bao nhiêu người đã cộng tác với Stasi trong những năm đen tối này; chưa bao giờ các anh thống nhất với nhau về con số ấy. Knapp cho rằng cả thảy có khoảng ba mươi phần trăm dân số. Anh bào chữa cho sự thiếu hụt của mình, làm sao anh biết chuyện đó được, anh chưa từng làm việc cho Stasi cơ mà.

Tha lỗi cho em, Tomas nhé, anh có lý, em phải chờ tới khi đang trên đường đi về phía anh mới cảm nhận được nỗi sợ.

° ° °

- Sao con không mời bố đến dự đám cưới? Anthony hỏi và đặt tờ báo xuống đầu gối.

Julia giật bắn mình.

- Bố xin lỗi, bố không muốn làm con giật mình. Tâm trí con để ở nơi khác sao?

- Không, con chỉ đang mải nhìn bên ngoài thôi.

- Chỉ có màn đêm thôi mà, Anthony đáp lại sau khi nghiêng người sang phía cửa kính.

- Vâng, nhưng đang có trăng tròn.

- Hơi cao để nhảy xuống nước phải không?

- Con đã gửi cho bố thiệp báo mà.

- Như với hai trăm người khác. Đó không phải là cách bố gọi là mời bố mình đến dự cưới. Bố được xem như người sẽ dẫn con đến trước bàn thờ Chúa, chuyện đó có lẽ xứng đáng để chúng ta gặp nhau và trực tiếp bàn bạc.

- Bố và con, chúng ta đã bàn bạc được chuyện gì từ hai mươi năm nay nào? Con đợi bố gọi cho con, con hy vọng bố đề nghị con giới thiệu chồng tương lai của mình với bố.

- Hình như bố gặp cậu ta rồi mà.

- Tình cờ thôi, trên một cầu thang cuốn trong trung tâm thương mại Bloomingdales'; đó không phải là cái con gọi là làm quen. Tóm lại là bố chẳng quan tâm gì đến anh ấy hay đến cuộc đời con hết.

- Cả ba người chúng ta đã đi uống trà, nếu bố nhớ không nhầm.

- Bởi vì anh ấy đã mở lời với bố, vì anh ấy muốn làm quen với bố. Suốt hai mươi phút ấy bố giành hết phần nói còn gì.

- Cậu ta không được hoạt khẩu cho lắm nhỉ, giới hạn tự kỷ, bố cứ ngỡ cậu ta câm.

- Bố có hỏi anh ấy dù chỉ một câu không?

- Còn con, con chưa bao giờ hỏi bố câu nào, chưa bao giờ con xin bố lời khuyên nào kia mà, Julia?

- Làm thế liệu có ích gì cơ chứ? Để nghe bố giải thích cái điều mà bố đã làm hồi bằng tuổi con hay để bố nói ra điều con nên làm? Con có thể câm nín cho tới khi tận thế để một ngày kia rốt cuộc bố hiểu ra rằng con chưa bao giờ muốn giống như bố.

- Có lẽ con nên ngủ đi, Anthony Walsh nói, ngày mai sẽ dài lắm đấy. Vừa đến Paris là chúng ta sẽ phải đổi máy bay trước khi tới đích.

Ông kéo tấm chăn đắp lên tận vai Julia rồi tiếp tục đọc báo.

° ° °

Máy bay vừa hạ cánh xuống đường băng của sân bay Charles-de-Gaulle. Anthony chỉnh đồng hồ theo múi giờ Paris.

- Bố con ta sớm tới hai giờ đồng hồ do chênh lệch múi giờ, chuyện này sẽ không gây khó khăn gì.

Vào lúc đó, Anthony còn chưa biết chiếc máy bay tưởng như sẽ đến trạm cuối E lại được lái về phía một cổng thuộc trạm cuối F; mà cổng này lại được trang bị một cầu thang lên xuống không tương hợp với máy bay của hai bố con, tiếp viên hàng không giải thích chính vì vậy mà một chiếc xe buýt sẽ được điều động và chở họ tới trạm cuối B.

Anthony giơ ngón tay ra hiệu cho trưởng bộ phận tiếp viên đến gặp ông.

- Lối cửa E chứ! ông nói.

- Gì kia ạ? người này hỏi.

- Trong thông báo vừa rồi, các vị đã nói là lối cửa B, tôi cứ ngỡ là chúng ta phải đến lối cửa E chứ.

- Rất có thể, trưởng bộ phận tiếp viên đáp, chúng ta chẳng hiểu gì ý nhau cả.

- Hãy gỡ bỏ nghi ngờ này giúp tôi, chúng ta đúng là đang ở sân bay Charles-de-Gaulle chứ?

- Ba cánh cửa khác nhau, không có cầu thang chuyên dụng và xe buýt cũng không thấy đâu, đừng nghi ngờ gì nữa!

Bốn mươi lăm phút sau khi hạ cánh, cuối cùng họ cũng xuống được khỏi máy bay. Còn phải qua trạm kiểm soát xuất nhập khẩu và tìm cho ra trạm cuối nơi chuyến bay đến Berlin cất cánh.

Hai sĩ quan cảnh sát hàng không có nhiệm vụ kiểm tra hàng trăm hộ chiếu của hành khách vừa từ ba chuyến bay đổ xuống. Anthony nhìn giờ trên bảng hiển thị.

- Trước chúng ta còn hai trăm người nữa, bố e là chúng ta không thể kịp giờ.

- Thì chúng ta sẽ bay chuyến sau! Julia đáp.

Qua trạm kiểm soát rồi, họ chạy khắp một loạt hành lang cùng thang cuốn.

- Nếu có cuốc bộ từ New York thì chúng ta cũng phải đến nơi rồi, Anthony càu nhàu.

Vừa nói dứt câu, ông ngã khuỵu xuống.

Julia đã cố đỡ ông, nhưng cú ngã bất ngờ đến mức cô trở tay không kịp. Cầu thang cuốn tiếp tục tiến lên trước, mang theo Anthony vẫn nằm sóng soài.

- Bố ơi, bố ơi, tỉnh lại đi! cô vừa hét lên, hốt hoảng, vừa lay người ông.

Tiếng lách cách của điện tử lưới ở bo mạch vang lên rõ rệt. Một hành khách chạy vội lại để giúp Julia. Họ cùng nâng Anthony dậy và đặt ông nằm xa ra một chút. Người đàn ông cởi áo vest ra và kê xuống dưới đầu Anthony vẫn đang nằm bất động. Ông ta đề nghị gọi cấp cứu.

- Không, chớ có gọi! Julia van vỉ. Không sao đâu, chỉ là một cơn khó ở thôi mà, tôi quen với chuyện này rồi.

- Cô chắc chứ? Chồng cô có vẻ ốm lắm.

- Đây là bố tôi đấy chứ! Ông bị tiểu đường, Julia nói dối.

- Bố ơi, tỉnh lại đi, cô vừa nói vừa lay người ông lần nữa.

- Để tôi bắt mạch cho ông ấy xem sao.

- Đừng đụng vào ông ấy! Julia thét lên hốt hoảng.

Anthony mở một bên mắt.

- Chúng ta đang ở đâu thế này? ông hỏi và cố gắng đứng lên.

Người đàn ông đã giúp Julia ban nãy đỡ ông dậy. Anthony đứng dựa lưng vào tường trong lúc lấy lại thăng bằng.

- Giờ là mấy giờ rồi?

- Cô chắc chắn đây chỉ là một cơn khó ở đơn thuần chứ, ông ấy có vẻ không được bình thường cho lắm...

- Nói đi nào, làm ơn! Anthony, vừa lấy lại sức liền vặc lại.

Người đàn ông lấy lại áo vest của mình và bỏ đi.

- Dẫu sao bố cũng nên cảm ơn người ta chứ, Julia trách ông.

- Tại sao, vì thằng cha ấy dùng khổ nhục kế tán tỉnh con khi giả bộ cấp cứu cho bố à, còn gì nữa nào!

- Bố thật không chịu nổi, bố làm con sợ hết hồn!

- Có gì đâu, con muốn bố làm sao nữa, bố chết rồi mà! Anthony kết luận.

- Con muốn biết chính xác chuyện vừa xảy ra với bố.

- Bố cho là một lỗi tiếp xúc, hoặc một lỗi giao thoa nào đó. Phải báo cho họ mới được. Nếu ai đó tắt bố bằng cách cúp điện thoại di động của mình, chuyện này sẽ trở nên rầy rà đây.

- Con sẽ không bao giờ kể lại được những chuyện lúc này con đang trải qua, Julia nói và nhún vai.

- Ban nãy bố mơ hay con gọi bố là bố thế nhỉ?

- Bố mơ đấy! cô đáp, trong khi ông kéo cô về khu vực làm thủ tục.

Họ chỉ còn hơn mười lăm phút để qua cổng kiểm soát an ninh.

- Ôi chà! Anthony nói khi mở tấm hộ chiếu của mình ra.

- Lại chuyện gì nữa thế?

- Thẻ chứng nhận đeo máy trợ tim của bố, bố không thấy đâu nữa.

- Lẽ ra nó phải ở trong túi áo của bố chứ.

- Bố vừa lục cả hai túi rồi, chẳng thấy đâu cả!

Vẻ phật ý, ông nhìn những khung cổng quét trước mặt.

- Nếu đi qua mấy cái cổng đó, bố sẽ tập hợp toàn bộ lực lượng cảnh sát tại sân bay này mất.

- Vậy thì tiếp tục tìm trong hành lý của bố xem sao! Julia sốt ruột.

- Đừng cố nài, bố đã bảo với con là bố làm mất rồi còn gì, hẳn là nó rơi trên máy bay, lúc bố gửi áo vest cho cô tiếp viên. Bố xin lỗi, bố không thấy có hướng giải quyết nào cả.

- Chúng ta không đến tận đây để lúc này lại quay trở lại New York. Mà, dù sao đi nữa, chúng ta sẽ làm thế nào đây?

- Thuê một chiếc xe và đi vào thành phố. Từ giờ đến đó bố sẽ tìm cách.

Anthony đề nghị con gái đặt một phòng nghỉ đêm trong khách sạn.

- Trong hai tiếng nữa, New York sẽ thức giấc, con chỉ việc gọi cho bác sĩ điều trị của bố, ông ấy sẽ fax cho con một bản sao.

- Bác sĩ của bố chưa biết là bố đã chết sao?

- Ôi không, đúng là ngốc thật nhưng bố đã quên không báo cho ông ấy biết đấy!

- Sao không vẫy một chiếc taxi nhỉ? cô hỏi.

- Một chiếc taxi ở Paris ấy à? Con chưa biết thành phố này rồi!

- Bố đúng là có những điều tiên nghiệm về mọi chuyện!

- Bố không cho đây là lúc thích hợp để tranh luận; bố nhìn thấy tiệm cho thuê xe rồi đây, chỉ cần một chiếc ô tô nhỏ là đủ cho hai chúng ta. Mà không, chọn một chiếc xe bốn chỗ đi, vấn đề đẳng cấp đấy!

Julia đầu hàng. Đã quá mười hai giờ trưa khi cô rẽ vào đường nối dẫn đến ngã tư xa lộ A1. Anthony nghiêng người về phía kính chắn gió, chăm chú quan sát những tấm biển chỉ đường.

- Rẽ phải thôi! ông ra lệnh.

- Paris ở bên trái chứ, điều ấy được viết bằng chữ in hoa kìa.

- Bố cảm ơn con, bố vẫn còn biết đọc mà, cứ làm theo lời bố đi! Anthony càu nhàu và ép cô bẻ lái.

- Bố điên thật! Bố chơi trò gì thế? cô hét lên khi chiếc xe chệch khỏi làn đường một cách nguy hiểm.

Giờ thì đã quá muộn để đổi làn đường. Trong một bản hợp xướng các loại còi xe, Julia nhận thấy mình đang đi theo hướng Bắc.

- Láu cá lắm, chúng ta đang chạy xe về hướng Bruxelles, Paris đã ở đằng sau rồi.

- Bố biết chứ! Và nếu con không quá mệt để lái một mạch, sáu trăm kilomet sau khi đến Bruxelles, chúng ta sẽ đến Berlin, trong chín tiếng nữa nếu bố nhẩm chính xác. Tệ nhất là chúng ta sẽ đỗ lại dọc đường, để con ngủ một chút. Trên xa lộ thì không phải vượt qua cổng quét kiểm soát an ninh, đây chính là giải pháp tình thế cho vấn đề của chúng ta; còn thời gian, chúng ta không còn nhiều đâu. Chỉ còn bốn ngày nữa trước khi phải quay về, tuy nhiên với điều kiện là bố chưa bị hỏng hóc.

- Bố đã nảy ra ý định này từ trước khi chúng ta thuê xe, phải thế không? Chính vì thế mà bố muốn thuê một chiếc xe bốn chỗ!

- Con có muốn gặp lại Tomas hay không nào? Vậy thì lái xe đi, bố không cần chỉ đường cho con, con vẫn nhớ đường phải không?

Julia bật radio trong xe, chỉnh âm lượng mức tối đa và tăng tốc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 27-12-2011 22:42:16 | Chỉ xem của tác giả
Trong vòng hai mươi năm, tuyến xa lộ đã thay đổi diện mạo của chuyến đi. Hai tiếng đồng hồ sau khi khởi hành, họ vượt qua Bruxelles. Anthony không được hoạt bát cho lắm. Thỉnh thoảng ông lẩm nhẩm trong miệng khi nhìn cảnh vật. Julia tranh thủ lúc ông không chú ý để nghiêng kính chiếu hậu về phía ông, như thế cô có thể nhìn thấy ông mà không để ông nhận ra. Anthony vặn nhỏ tiếng radio.

- Ở trường Mỹ thuật con có vui không? ông hỏi cô, phá vỡ bầu không khí yên lặng.

- Con có ở lại đó lâu đâu, nhưng con thích mê nơi con sống. Quang cảnh từ phòng con nhìn ra đẹp đến khó tin. Bàn làm việc của con hướng ra mái của Đài Thiên văn.

- Bố cũng mê mẩn Paris. Ở đó bố có nhiều kỷ niệm. Thậm chí bố tin rằng mình muốn giã biệt cuộc sống này tại đó.

Julia húng hắng ho.

- Có chuyện gì thế? Anthony hỏi, bỗng nhiên vẻ mặt con rất lạ. Bố lại nói chuyện gì không nên sao?

- Không đâu, bố yên tâm.

- Có mà, bố thấy rõ là thái độ con rất khác thường.

- Chuyện này... chuyện này thực sự không dễ nói ra chút nào, cực kỳ khó nói là đằng khác.

- Đừng bắt bố phải van xin con, nói đi nào!

- Bố mất tại Paris, bố ạ.

- Vậy ư? Anthony thốt lên ngạc nhiên. Này, bố còn chưa biết chuyện ấy đâu nhé.

- Bố không có ký ức nào về chuyện ấy ư?

- Chương trình để truyền cho bộ nhớ của bố dừng lại ở chuyến khởi hành tới châu Âu. Sau thời điểm này là một hố đen khổng lồ. Bố cho rằng như vậy tốt hơn, ký ức về cái chết của bản thân thì chẳng có gì là hay ho cả. Cuối cùng thì bố cũng nhận thấy giới hạn thời gian được định ra cho cỗ máy này là một điều bất tiện nhưng cần thiết. Và không chỉ thiết yếu đối với các gia đình.

- Con hiểu, Julia đáp, ngượng nghịu.

- Bố nghi ngờ đấy. Tin bố đi, tình huống này không chỉ kỳ quặc đối với con thôi đâu, và thời gian càng trôi qua, tất cả những chuyện này càng khiến bố cũng phải hoang mang. Hôm nay là thứ mấy rồi nhỉ?

- Thứ Tư.

- Ba ngày, con thấy đấy, tiếng tíc tắc chết tiệt khi chiếc kim giây lượn quanh trong đầu các con. Con có biết bố chết thế nào...

- Một cơn ngưng tim trước đèn đỏ.

- Vẫn còn may mắn vì bấy giờ không phải là đèn xanh, không thì bố bị nghiền nát rồi.

- Lúc đó đang đèn xanh!

- Khỉ thật!

- Không vì thế mà xảy ra tai nạn nào hết, nếu điều này có thể an ủi được bố.

- Thẳng thắn mà nói, chuyện đó chẳng an ủi bố chút nào. Bố có đau đớn không?

- Không, người ta cam đoan với con rằng cơn đau chỉ trong chớp nhoáng.

- Phải rồi, rốt cuộc thì người ta luôn nói thế với gia đình các nạn nhân để làm yên lòng họ. Ôi chao, mà chung quy thì nói vậy phỏng có ích gì nữa nhỉ. Chuyện quá khứ rồi mà. Ai còn nhớ cách mọi người chết cơ chứ? Nhớ được cách họ sống đã là tốt lắm rồi.

- Ta đổi chủ đề nhé? Julia nài nỉ.

- Nếu con muốn, nhưng bố thấy chuyện này buồn cười thì đúng hơn, khi có thể chuyện trò với ai đó về cái chết của chính mình.

- Ai đó được nhắc đến ở đây chính là con gái bố và thực ra trông bố chẳng có vẻ gì là vui cả.

- Đừng có bắt đầu nói đúng nữa đi, xin con đấy.

Một tiếng sau, chiếc xe đã tiến vào lãnh thổ Hà Lan, nước Đức chỉ còn cách bảy mươi kilomet nữa.

- Mánh này của họ thật tuyệt, Anthony nói tiếp, chẳng còn biên giới nữa, người ta hầu như ngỡ mình được tự do. Nếu con đang hạnh phúc ở Paris thì tại sao lại ra đi?

- Một quyết định khinh suất nhất thời, ngay giữa đêm; lúc ấy con cứ nghĩ chỉ mất vài ngày sẽ quay về. Thoạt tiên, đó chỉ là cuộc dạo chơi giữa bạn bè với nhau.

- Con quen họ lâu rồi à?

- Mới quen được mười phút.

- Rõ là thế! Và mấy người bạn ấy thường ngày làm nghề gì?

- Cũng là sinh viên như con, học trường Sorbonne.

- Bố hiểu rồi, và tại sao lại là nước Đức? Tây Ban Nha hay Ý không phải vui hơn sao?

- Một khát khao được tham gia cách mạng. Antoine và Mathias đã được dự đoán được sự sụp đổ của bức tường. Có lẽ không được chắc chắn đến mức ấy, nhưng có chuyện gì đó hệ trọng diễn ra tại Đức và bọn con muốn đến tận nơi chứng kiến.

- Bố có thể bỏ lỡ điều gì trong việc dạy dỗ con được nhỉ, để con lại khao khát làm cách mạng đến thế? Anthony nói và phát vào đầu gối.

- Bố đừng tự trách mình, đó hẳn là điều duy nhất bố đã thực sự thành công mà.

- Đó là một cách nhìn nhận thôi! Anthony lẩm bẩm và lại quay ra cửa kính xe.

- Sao bây giờ bố mới hỏi con tất cả những câu này?

- Bởi vì con, con chẳng hỏi bố câu nào cả. Bố thích Paris vì đó là nơi bố đã hôn mẹ con lần đầu tiên. Và bố có thể khẳng định với con rằng chuyện đó không dễ dàng chút nào.

- Con không chắc là mình muốn biết chi tiết chuyện ấy đâu.

- Nếu con biết bà ấy xinh đẹp thế nào. Lúc ấy bố mẹ mới hai mươi lăm.

- Bố làm thế nào để đến được Paris. Con tưởng hồi còn trẻ bố không đồng xu dính túi cơ mà?

- Hồi 1959, bố thực hiện nghĩa vụ quân sự tại một căn cứ đặt tại châu Âu.

- Ở đâu?

- Berlin chứ đâu! Và bố không có lấy một ký ức hạnh phúc nào về quãng đời đó.

Khuôn mặt Anthony lại quay sang với phong cảnh đang diễu qua bên ngoài.

- Không cần phải nhìn con qua kính thế đâu, bố biết đấy, con đang ngồi ngay bên cạnh bố đây mà, Julia nói.

- Thế còn con, chỉnh kính chiếu hậu vào đúng chỗ đi, như thế con sẽ nhìn thấy những chiếc ô tô đang đi đằng sau trước khi vượt chiếc xe tải tiếp theo!

- Bố đã gặp mẹ ở đó sao?

- Không, bố mẹ quen nhau tại Pháp. Khi được giải ngũ, bố đã đi tàu đến Paris. Bố hằng mơ được nhìn thấy tháp Eiffel trước khi về nước mà.

- Và bố đã yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên?

- Không tồi chút nào, nhưng vẫn thấp hơn những tòa nhà chọc trời của chúng ta.

- Con đang nói về mẹ cơ mà.

- Lúc bấy giờ mẹ con đang là vũ công của một phòng trà lớn. Bản sao hoàn hảo của GI kiểu Mỹ bất chấp gốc gác Ailen của họ và của vũ công đến từ cùng một xứ.

- Mẹ là vũ công ấy ạ?

- Bluebell Girl! Cả đoàn đang trong buổi biểu diễn đặc biệt tại phòng trà Lido trên đại lộ Champs-Élysées. Một anh bạn đã mua được vé cho cả nhóm bọn bố. Mẹ con diễn mở màn. Giá mà con được thấy bà ấy trên sân khấu khi đang nhảy điệu claquet, bố có thể cam đoan với con rằng mẹ con không cần phải ghen với Ginger Rogers.

- Tại sao mẹ chưa bao giờ kể chuyện đó?

- Gia đình ta không thuộc loại hay chuyện, ít ra con cũng thừa hưởng cái nét tính cách này.

- Làm thế nào bố quyến rũ được mẹ?

- Bố tưởng con không muốn biết chi tiết cơ mà? Nếu con chạy xe chậm lại một chút, bố sẽ kể cho mà nghe.

- Con đâu có đi nhanh! Julia đáp và nhìn vào kim đồng hồ trên bảng tốc độ đang chỉ gần 140 kilomet giờ.

- Vấn đề cảnh sắc thôi! Bố đã quen với hệ thống xa lộ trong nước nơi ta kịp ngắm cảnh vật trên đường. Nếu tiếp tục chạy xe thế này, con sẽ phải có một chiếc cờ lê để tháo ngón tay bố ra khỏi tay nắm cửa xe.

Julia nhấc chân khỏi cần tốc độ và Anthony hít thở thật sâu.

- Lúc ấy bố đang ngồi ở bàn kê sát sân khấu. Các buổi diễu kéo dài liên tục suốt mười tối; bố không bỏ lỡ một buổi nào trong số đó, kể cả Chủ nhật, cái ngày diễn cả chiều lẫn tối. Bố xoay xở, bồi dưỡng cho bà xếp chỗ một món hậu hĩnh, để lúc nào cũng được ngồi đúng vị trí đó.

Julia tắt radio gắn trên xe.

- Lần cuối cùng bố nhắc con này, dựng lại kính chiếu hậu và chú ý nhìn đường đi! Anthony ra lệnh.

Julia ngoan ngoãn làm theo.

- Đến ngày thứ sáu, mẹ con đã nhận ra mánh của bố. Mẹ con thề với bố là đã nhận ra từ ngày thứ tư, nhưng bố chắc chắn đó là ngày thứ sáu. Dẫu sao, bố nhận thấy mẹ con đã nhìn bố nhiều lần trong suốt buổi biểu diễn. Không phải khoe đâu, thậm chí mẹ con còn suýt hụt một bước nhảy. Ở điểm này cũng vậy, bà ấy luôn thề với bố rằng rắc rối này không hề liên quan đến sự có mặt của bố. Cái lời từ chối không chịu thừa nhận này, chỉ là tính hay làm đỏm của mẹ con. Thế nên bố đã gửi hoa đến phòng hóa trang cho bà ấy, để bà ấy có thể nhận được, khi buổi diễn kết thúc; tối nào cũng một bó hồng xưa nhỏ, và không bao giờ kèm danh thiếp.

- Tại sao thế?

- Nếu không ngắt lời bố, con sẽ hiểu ngay thôi. Sau buổi biểu diễn cuối cùng, bố đứng đợi mẹ ở lối ra dành cho các diễn viên. Một nhành hồng trắng nơi khuyết áo.

- Con không thể tin là bố từng làm những chuyện như vậy! Julia thốt lên và phì cười.

Anthony quay ra cửa sổ và không nói thêm lời nào nữa.

- Sau đó thì sao ạ? Julia gạn hỏi.

- Kết thúc câu chuyện!

- Kết thúc câu chuyện thế nào cơ ạ?

- Con giễu cợt nên bố ngừng kể chứ sao!

- Nhưng con không giễu cợt chút nào mà!

- Thế cái điệu cười khẩy ngu ngốc ấy là gì vậy?

- Ngược lại với những gì bố nghĩ, chỉ là vì con chưa bao giờ hình dung ra bố ở tuổi thanh niên lại hết sức lãng mạn như thế.

- Con đỗ xe ngay ở trạm dừng chân tiếp theo cho bố, bố sẽ đi bộ nốt quãng đường còn lại! Anthony kêu lên, khoanh tay trước ngực, vẻ mặt cau có.

- Bố kể tiếp đi, hoặc là con sẽ tăng tốc đấy!

- Mẹ con đã quen với những người hâm mộ chờ ở đầu hành lang này rồi, một gã nhân viên an ninh hộ tống các nữ vũ công ra tận xe ca đưa đón họ về khách sạn. Bố đứng ngay giữa lối đi, hắn bảo bố tránh ra, bằng một giọng bố cho rằng hơi quá hách dịch. Bố liền giơ nắm đấm ra.

Julia không kìm được liền cười phá lên.

- Tuyệt lắm! Anthony giận điên người nói, bởi vì đã như thế, con sẽ không được nghe thêm một lời nào nữa.

- Bố, con van bố đấy, cô tươi cười nói. Con xin lỗi, nhưng con không kìm được.

Anthony quay đầu lại và nhìn cô đăm đăm.

- Lần này thì bố không mơ, đúng là con đã gọi bố?

- Có lẽ thế, Julia nói và lau khô mắt. Bố kể tiếp đi!

- Bố báo trước để con biết, Julia ạ, nếu bố nhìn thấy dù chỉ một nụ cười hé, là kết thúc ngay đấy! Nhất trí không?

- Xin hứa, cô nói và giơ cao tay phải.

- Mẹ con can thiệp, mẹ con dẫn bố ra xa khỏi đoàn và xin tài xế xe ca chờ một chút. Bà ấy hỏi bố đang làm gì ở đây, vào mỗi buổi biểu diễn, ngồi cùng một bàn như vậy. Bố cho là ngay lúc ấy mẹ con chưa nhìn thấy bông hồng trắng cài trên khuyết áo bố, bố bèn tặng nó cho mẹ. Mẹ con hết sức ngạc nhiên, khi phát hiện ra bố là tác giả của những bó hồng mỗi tối, đến mức bố đã tranh thủ quãng thời gian đó để trả lời cho câu hỏi của mẹ.

- Bố nói gì với mẹ vậy?

- Rằng bố đến để cầu hôn mẹ con.

Julia quay sang nhìn bố cô, ông ra lệnh cho cô tập trung nhìn đường.

- Mẹ con cười phá lên, trong giọng cười có những tiếng vang mà con cũng có khi ban nãy con cười nhạo bố. Khi hiểu ra là bố thực sự chờ câu trả lời, mẹ con ra hiệu cho tài xế lái xe đi không cần đợi nữa rồi đề nghị bố bắt đầu bằng cách mời bà ấy ăn tối. Bố mẹ đã dạo bộ cho tới một quán bia trên đại lộ Champs-Élysées. Bố có thể nói với con rằng khi thả bộ trên đại lộ đẹp nhất thế giới bên mẹ con,bố không phải là không hãnh diện. Con phải thấy những ánh mắt dõi theo bà ấy. Bố mẹ đã trò chuyện suốt bữa tối, nhưng đến cuối bữa, bố rơi vào một tình huống tệ hại và bố cứ ngỡ đến đó tất cả mọi hy vọng của bố đều tiêu tán.

- Sau khi cầu hôn quá chóng vánh như thế, con không hiểu bố còn có thể làm điều gì ấn tượng hơn?

- Chuyện hết sức phiền toái, bố không có gì để thanh toán hóa đơn, bố đã kín đáo lục hết các túi nhưng hoài công, không có lấy một xu. Khoản tiền dành dụm trong thời gian tại ngũ đã dốc hết vào việc mua vé của Lido và mua hoa.

- Bố làm thế nào mà thoát ra được?

- Bố đã gọi đến tách cà phê thứ bảy, quán bia đóng cửa, mẹ con tạm thời vắng mặt để trang điểm lại. Bố đã gọi người bồi bàn đến, quyết định thú nhận với ông ta rằng bố không có gì để thanh toán, sẵn sàng van xin ông ấy đừng làm lớn chuyện, đặt lại chiếc đồng hồ đeo tay và giấy tờ làm tin, hứa sẽ quay lại thanh toán hóa đơn ngay khi có thể, chậm nhất là cuối tuần. Ông ấy đã chìa ra cho bố một chiếc cốc nhỏ, thay cho hóa đơn tính tiền, trong đó có lời nhắn của mẹ con.

- Lời nhắn nói gì?

Anthony mở ví và lấy ra một mảnh giấy đã ố vàng, ông giở nó ra trước khi đọc bằng một giọng từ tốn.

- Em không giỏi nói lời tạm biệt và em chắc rằng anh cũng vậy. Cảm ơn vì buổi tối thú vị này, hồng xưa là loài hoa em yêu thích. Bọn em sẽ tới Manchester vào cuối tháng Hai và em sẽ rất vui nếu được gặp lại anh trong khán phòng. Nếu anh đến, lần này em sẽ để anh mời em ăn tối. Con thấy đấy, Anthony kết luận khi đưa mảnh giấy cho Julia, bên dưới là chữ ký của mẹ con.

- Ấn tượng thật! Julia khẽ thốt lên, tại sao mẹ lại làm vậy?

- Bởi vì mẹ con thấu hiểu hoàn cảnh của bố.

- Hiểu thế nào?

- Một gã trai uống đến bảy tách cà phê vào lúc hai giờ sáng và không tìm ra lời nào để nói trong khi quán bắt đầu tắt đèn rồi...

- Bố đã đến Manchester sao?

- Trước tiên bố đã làm việc để thay đổi tình hình tài chính đôi chút. Bố làm hết việc này đến việc khác. Năm giờ sáng bố đã có mặt ở khu Halles để bốc dỡ các sọt hàng, xong việc, bố chạy đến một quán cà phê trong khu phố để phụ việc. Đến trưa, bố tháo tạp dề để khoác lên người bộ đồng phục nhân viên bán hàng thực phẩm. Bố sút mất năm ki lô và kiếm đủ tiền để sang Anh mua một chỗ trong nhà hát nơi mẹ con biểu diễn, và nhất là đủ tiền để đãi mẹ con một bữa ra trò. Bố đã thắng ván cược khó chơi là giành chỗ ở hàng ghế đầu. Ngay khi tấm màn nhung được vén lên, mẹ con mỉm cười với bố.

"Sau buổi biểu diễn, bố mẹ gặp nhau trong một quán rượu cổ của thành phố. Bố mệt lử. Bố phát ngượng khi nhớ lại chuyện đó, nhưng bố đã ngủ gục trong khán phòng và bố thấy rõ là mẹ con cũng nhận ra điều ấy. Tối hôm đó, ngồi vào bàn, bố mẹ hầu như không nói chuyện. Bố mẹ chỉ trao đổi những khoảng im lặng; và khi bố ra hiệu gọi người bồi bàn mang hóa đơn ra, mẹ con nhìn bố chăm chú và chỉ nói đúng một từ "Vâng". Đến lượt mình, bố nhìn mẹ, ngạc nhiên, và mẹ lặp lại từ "vâng" ấy, rõ ràng hơn đến mức giờ bố vẫn còn nghe thấy. "Vâng, em rất muốn làm vợ anh". Chương trình biểu diễn ở Manchester kéo dài hai tháng. Mẹ con vĩnh biệt đoàn và bố mẹ lên tàu thủy về nước. Bố mẹ đã kết hôn khi về đến nơi. Một vi linh mục và hai nhân chứng mà bố mẹ tìm được trong nhà thờ. Không một thành viên nào trong gia đình hai bên đến dự. Ông nội con không bao giờ tha thứ cho bố vì đã cưới một vũ công làm vợ.

Anthony cẩn thận cất mảnh giấy ố vàng vào chỗ cũ.

- Này, bố lại tìm ra giấy chứng nhận mang máy trợ tim rồi này! Bố ngốc quá đi mất! Thay vì kẹp lại vào hộ chiếu, bố đã dại dột nhét nó vào ví.

Julia lắc đầu, vẻ hoài nghi.

- Bố nghĩ chuyến đi tới Berlin lần này là một cách đúng đắn để tiếp tục chuyến đi của chúng ta sao?

- Con biết về bố ít đến nỗi phải hỏi bố câu này sao?

- Và chuyện thuê xe, vờ mất tờ giấy chứng nhận, bố cố tình làm thế để chúng ta cùng nhau vượt quãng đường này chứ gì?

- Và dù bố có tính trước tất cả những chuyện này đi nữa, đó cũng không phải là một ý tồi, đúng không?

Một tấm biển chỉ đường thông báo họ vừa tiến vào lãnh thổ Đức. Nét mặt sa sầm, Julia chỉnh kính chiếu hậu vào đúng chỗ.

- Có chuyện gì thế, con không nói gì nữa ư? Anthony hỏi.

- Cái ngày trước hôm bố xuất hiện ở phòng bọn con để hành hung Tomas, hai đứa con đã quyết định kết hôn. Chuyện không thành vì bố con không chịu được cảnh con gái mình muốn cưới một người đàn ông không cùng tầng lớp với ông.

Anthony quay về phía cửa kính.

--------------------------------
1        Bộ An ninh Quốc gia, là cơ quan cảnh sát chính trị, tình báo, gián điệp và phản gián của Cộng hòa Dân chủ Đức trước kia.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách