Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: camngoc
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Kế Hoạch Hoàn Hảo | Sidney Sheldon

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 13-12-2011 12:10:56 | Chỉ xem của tác giả
Đó là vị trí uy tín nhất trong truyền hình.
Khuôn mặt Dana bừng sáng. "Có, tôi rất thích".
Leslie gật đầu. "Được, vậy là cô sẽ theo dõi ở đó".
Dana đứng dây. "Xin một lần nữa cảm ơn bà".
"Chúc may mắn".
Dana và Matt rời văn phòng của Leslie. "Chúng ta sẽ đi xem chỗ làm việc mới của cô nhé". Ông dẫn nàng đến toà nhà số 4, nơi mọi người đang chờ để chào đón nàng. Phải mất đến mười lăm phút Dana mới rời được đám đông những người đầy thiện chí ấy.
"Dana là phóng viên mới ở mục nhà trắng của anh đấy". Matt nói với Philip Cole.
"Tuyệt, tôi sẽ chỉ cho cô xem văn phòng của cô".
"Cô đã ăn trưa chưa?" Matt hỏi.
"Chưa, tôi..."
"Tại sao chúng ta không cùng ăn nhỉ?"
Phòng ăn dành cho nhân viên nằm ở tầng sáu. Nó thật rộng rãi, thoáng đãng và kê rất nhiều bàn ghế.
Matt đưa Dana đến một bàn ở góc phòng. "Bà Stewart có vẻ dễ thương nhỉ?" Dana nói.
Matt định nói điều gì đó, nhưng lại thôi.
"à, ừ, chúng ta gọi món đi".
"Tôi không đói".
"Cô đã ăn rồi à?".
"Chưa".
"Thế cô có ăn sáng không?".
"Không".
"Dana... thế cô ăn bữa gần nhất là lúc nào?".
Nàng lắc đầu. "Tôi không nhớ, nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng cả".
"Không được. Tôi không thể để một phóng viên mới của chuyên mục nhà trắng lại chết vì đói được".
Người phục vụ đến bên bàn. "Ông đã sẵn sàng gọi món chưa, ôn Baker?"
"Rồi". Ông lướt nhìn thực đơn. "Cô Evans đây sẽ dùng thịt hun khói, rau diếp và bánh nhân thịt, cà chua", ông quay sang nàng, "cô dùng bánh ngọt hay kem?"
"Kh...ô..ng".
"Còn tôi thì cho món bò chiên".
"Vâng, thưa ông".
Dana ngó xung quanh. "Mọi thứ ở đây như không phải là thật. Mọi chuyện ở kia mới là cuộc sống. Matt ạ. Thật kinh khủng. Không ai ở đây thèm quan tâm đến nơi đó".
"Đừng nói vậy, Dana. Mọi người ở đây tất nhiên là có quan tâm. Nhưng chúng ta không phải là tên sen đầm quốc tế. Chúng ta chỉ cố gắng ở mức có thể mà thôi".
"Thế thì chưa đủ", Dana giận dữ la to.
"Dana..." Matt khựng lại. Cô ấy hình như đang không ở đây, mà ở một nơi rất xa, rất xa; như đang nghe thấy những âm thanh mà ông không thể nghe, nhìn thấy những cảnh tượng mà ông không thể nhìn. Họ cứ ngồi lặng đi như thế cho đến khi người phục vụ mang đồ ăn tới.
"Đây rồi".
"Matt, tôi thực sự không đói mà..."
"Cô sẽ ăn hết", Matt ra lệnh.
Jeff Connors đang tiến lại gần bàn. "Chào Matt"
"Ô, chào Jeff".
Jeff nhìn Danna. "Xin chào cô".
Matt nói với nàng. "Dana, đây là Jeff Connors. Cậu ta là trưởng ban biên tập mục Thể thao".
Dana gật đầu.
"Tôi là người rất hâm mộ cô, cô Evansa. Rất mừng là cô đã được cứu thoát".
Dana gật đầu lần nữa.
Matt mời. "Cậu có muốn nhập bọn không?"
"ồ, rất hân hạnh". Anh ta kéo ghế nói với Dana. "Tôi đã không bỏ lỡ một chương trình nào của cô cả. Chúng thật xuất sắc".
Dana lầm bầm. "Cảm ơn".
Jeff là một vận động viên nổi tiếng ở công ty chúng ta đấy, Dana. Cậu ấy chơi trong đội bóng chày".
Lại một cái gật đầu nhẹ.
"Nếu cô rỗi, Jeff nói, "thứ sáu này, đội Orioles sẽ chơi với đội Yankees ở Baltinmore đấy. Nó..."
Và lần đầu tiên Dana quay sang nhìn thẳng vào anh ta. "Nghe sôi động nhỉ. Mục đích của cuộc chơi chỉ là đánh quả bóng và sau đó chạy vòng quay sân trong khi đội kia cố gắng chặn anh lại phải không?"
Jeff nhìn nàng bối rối. "Vâng, nhưng..."
Dana đứng bật dậy, giọng nàng run lên. "Tôi đã nhìn thấy người ta chạy vòng quanh một cái sân, nhưng không phải vì trờ chơi, mà vì chính mạng sống của mình, bởi có kẻ đang nhả đạn vào họ. Nàng như bị kích động. "Đó không phải là trò chơi và càng không phải là trò bóng chày ngu ngốc của các anh".
Mọi người trong phòng đều quay lại cả nhìn nàng.
"Anh cút đi". Dana nức nở lao ra khỏi phòng.
Jeff quay sang Matt Baker. "Tôi... tôi thành thật xin lỗi. Tôi không có ý..."
"Đó không phải là lỗi của anh. Cô ấy vẫn chưa bình tĩnh lại được. Chỉ có Chúa mới biết cô ấy đã phải chịu đựng những gì".
Dana lao về văn phòng mình và đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống, cố gắng giữ cho mình bình tĩnh lại. Ôi trời ơi! Mình đã cư xử như một con điên. Họ sẽ mắng mình, và thế thì cũng đáng. Tại sao mình lại gay gắt với anh ta. Tại sao mình lại gây nên một chuyện tồi tệ như thế. Đây không phải là chỗ của mình nữa rồi. Chẳng còn chỗ nào dành cho mình nữa rồi. Nàng gục đầu xuống bàn, khóc nức nở.
Vài phút sau, có ai đó mở cửa bước vào. Dana ngước lên. Đó là Jeff Connors. Anh ta bưng một khay đựng thịt hun khói, rau diếp, một lát bánh kẹp thịt, cà chua và một khoanh pho mát.
Cô đã quên bữa trưa này", anh nói thật nhẹ nháng. Dana lau nước mắt, gắng sức nói.
Tôi... tôi xin lỗi. Tôi thực sự xin lỗi. Tôi không có quyền..."
"Cô có quyền", anh nói khẽ, "dù sao đi nữa, ai cần đi xem cái trò bóng chày cổ lỗ kia làm gì, phải không?" Anh đặt khay lên bàn. "Tôi ăn trưa cùng cô nhé".
"Cám ơn, nhưng tôi không đói".
Anh thở dài. "Cô lại đặt tôi vào thế khó xử rồi, cô Evans. Matt nói cô phải ăn, cô không muốn làm tôi mất việc đấy chứ?"
Dana cố tạo nên nụ cười. "Không đâu", nàng bẻ nửa chiếc bánh xăng-đuých và cắn một miếng nhỏ.
"To hơn nào". Dana cắn một miếng nhỏ nữa.
"To hơn nữa đi". Nàng ngước mắt nhìn anh.
"Anh thực lòng muốn tôi ăn bánh này à?"
"Đúng thế đấy", anh ngắm nàng cắn một miếng to hơn nữa. "Tốt rồi, à, tiện đây, nếu cô không làm gì tối thứ sau, tôi không biết mình đã nói chưa, nhưng có trận giữa Oriles và Yankees. Cô đi chứ?"
Dana nhìn anh và gật đầu. "Vâng".
Ba giờ chiều hôm đó, khi Dana bước vào cổng Nhà trắng, người hướng dẫn bảo nàng. "Ngài Tager muốn gặp cô, cô Evans. Tôi sẽ cho người đưa cô đến văn phòng của ông ấy".
Dana đi theo người dẫn đường qua một hành lang dài hun hút đến văn phòng của Peter Tager. Ông ta đang chờ nàng. "Ngài Tager..."
"Tôi không ngờ được gặp cô sớm thế, cô Evans. Người ta không cho cô nghỉ ngơi một chút sao?"
"Không phải, mà vì tôi không muốn nghỉ", Dana nói. Tôi... tôi cần phải làm việc".
"Mời cô ngồi", nàng ngồi xuống ghế đối diện, "Tôi có thể mời cô uống gì đây?"
"Không, cám ơn ngài, tôi vừa ăn trưa". Nàng thầm cười khi nghĩ đến anh chàng Jeff Connors. "Ngài Tager, tôi muốn cảm ơn ngài và Tổng thống Russell vì đã cứu tôi thoát chết".
Nàng ngập ngừng. "Tôi biết là Tribune đã không được thiện chí lắm với Tổng thống, và tôi..."
Peter khoát tay. "Chà, đó là chuyện chính trị. Tổng thống sẽ không tha thứ cho bọn chúng vụ này đâu. Cô có biết chuyện về nàng Helen thành Troy không?"
"Có ạ".
Ông ta mỉm cười. "ờ, mà có lẽ chúng tôi cũng sẽ gây chiến với cô đấy. Cô là một người quan trọng".
"Tôi không thấy thế".
"Tôi muốn cô biết rằng cả tôi và Tổng thống đều rất hài lòng khi biết cô sẽ làm việc tại Nhà trắng".
"Cảm ơn ngài".
Peter nói tiếp. "Tiếc là Tribune không hoà hợp với Tổng thống Russell và cô lại chẳng làm được gì để thay đổi tình hình đó. Nhưng dù vậy, ở cấp độ cá nhân, nếu có gì Tổng thống hoặc tôi có thể giúp... chúng tôi đánh giá cô rất cao".
"Cảm ơn ngài, tôi xin ghi nhớ".
Cửa phòng mở. Oliver bước vào. Dana và Peter đứng dậy.
"Ôi, ngồi xuống đi". Tổng thống nói. Ông bước về phía Dana. "Mừng cô trở về".
"Cảm ơn Tổng thống, và tôi thực sự muốn cảm ơn ngài".
Oliver cười. "Nếu không bảo vệ được sinh mạng của một con người thì làm Tổng thống mà làm gì. Tôi nói thẳng với cô nhé, cô Evans, không ai trong chúng tôi hâm mộ tờ báo của cô đâu, nhưng chúng tôi lại hâm mộ cô đấy".
"Xin cảm ơn ngài".
"Peter sẽ dẫn cô đi một vòng quanh đây. Nếu có vướng mắc gì, chúng tôi sẽ giúp cô".
"Ngài thật tốt quá".
"Nếu cô không ngại, tôi muốn cô gặp ông Werner, bộ trưởng bộ ngoại giao. Tôi muốn cô kể cho ông ta nghe tình hình ở Sarajevo rồi ông ta sẽ làm báo cáo vắn tắt cho tôi".
"Tôi rất vui được làm điều đó".
Khoản một tá người ngồi trong phòng họp riêng của bộ trưởng bộ ngoại giao, lắng nghe Dana kể lại những gì nàng biết.
"Hầu hết nhà cửa ở Sarajevo đều bị phá hỏng hoặc huỷ hoại... không điện, không nước. Người ta tháo bình ắc quy ô tô để chạy tivi..
"Đường xá trong thành phố bị nghẽn lại bởi những chiếc ô tô, xe thồ, xe đạp bị trúng bom. Phương tiện giao thông duy nhất là đôi chân.
"Khi có mưa, mọi người lấy nước từ những cống rãnh trên đường phố và trữ trong thùng...
"Không có bất kỳ sự tôn trọng nào đối với hội chữ thập đỏ hay các nhà báo. Trong cuộc chiến này đã có hơn bốn mươi nhà báo thiệt mạng và hàng tá người bị thương. Không biết liệu cuộc khởi nghĩa chống lại Slobodan Milosevic có thành công hay không, nhưng cảm nhận chung là thái độ của ông sẽ suy sụp thảm hại do chính cuộc sống của những người dân ở đây đã quá tồi".
Cuộc họp kéo dài khoảng hai tiếng. Đối với Dana, nàng vừa có cảm giác đau buồn lại vừa thấy phấn chấn. Bởi nàng đã miêu tả đựoc chân thực những gì xảy ra tại đó, nàng thấy như mình đang sống lại khung cảnh sinh động ấy, nhưng đồng thời, nàng cũng thấy thật nhẹ nhàng vì được kể nó ra.
Bộ trưởng ngoại giao nói. "Cảm ơn cô nhiều, cô Evans, vì đã cho chúng tôi rất nhiều thông tin, ông ta mỉm cười. "Mừng cô trở về an toàn".
"Tôi cũng vậy, thưa bộ trưởng".
Tối thứ sau, Dana ngồi cạnh Jeff Connors trong khu vực dành cho giới báo chí, theo dõi trận bóng chày. Đây là lần đầu tiên kể từ khi trở về, nàng có thể nghĩ tới một cái gì đó không phải là chiến tranh. Vừa theo dõi diễn biến trên sân, nàng vừa nghe tiếng người tường thuật. "Đây là giờ phút gay go của trận đấu... Nelson đang ném bóng. Adomar đánh dọc xuống bên trái sân. Palmeiro đang lại gần anh ta. Tỷ số đang là 2 và 1. Nelson ném bóng vào giữa rồi... Palmeiro lao tới đón bóng... Một cú đánh tuyệt vời! Cứ như cả bức tường đã bay theo trái bóng... kết thúc... Palmeiro đang...".
ở lượt đấu thứ bảy, Jeff hỏi. "Cô có thích trận đấu này?".
Dana ngước mắt lên nhìn anh. "Vâng, tôi thích".
Sau trận đấu, họ trở lại D.C. và dùng bữa tối ở quán "Hai mươi - mười lăm".
Tôi muốn xin lỗi anh lần nữa vì cách cư xử hôm trước". Dana nói. "Chỉ vì tôi đã trải qua cuộc sống ở một nơi mà...", nàng dừng lại vì không biết phải nói thế nào, "nơi mà người ta phải đối mặt giữa sống và chết. Tất cả thật kinh khủng, bởi không ai ngăn cản cuộc chiến đó cả, người dân không còn biết hy vọng vào cái gì nữa".
Jeff nhẹ nhàng. "Dana, cô đừng để mình quá bị ám ảnh bởi cuộc chiến đó nữa. Cô phải tiếp tục sống, và sống ở đây".
"Tôi biết chỉ là ... không dễ dàng lắm".
"Tất nhiên là vâyl Tôi muốn giúp cô, cho phép tôi nhé?"
Dana nhìn anh một lúc lâu rồi đáp. "Xin hãy giúp em".
Hom sau, Dana lại hẹn đi ăn trưa với Jeff.
"Em tới đón anh nhé", anh đề nghị và cho nàng địa chỉ.
"Được thôi". Dana tự hỏi không biết Jeff đang làm gì ở đó. Vùng này nổi tiếng là một địa danh không lấy gì làm tốt đẹp cho lắm. Dana đã tìm được câu trả lời khi họ tới nơi. Hai đội bóng đang vây lấy Jeff, toàn những cầu thủ con nít từ 9 tuổi đến 13 tuổi trong những trang phục nhiều màu sắc Dana đậu xe ngoài rìa để xem.
Jeff đang hướng dẫn lũ trẻ. "Nhớ là đừng có vội vàng. Khi người ta ném bóng, hãy tưởng tượng là quả bóng đến ta rất chậm, vì thế nên ta có thừa thời gian để đánh. Hãy để cái đầu chỉ đạo cánh tay nhé...".
Jeff ngó ra và thấy Dana. Anh vẫy vẫy. "Thôi nhé, các chàng trai, hôm nay tạm thế nhé".
Một cậu bé hỏi. "Người yêu của chú đấy à, chú Jeff".
"ồ, nếu chú may mắn". Jeff mỉm cười. "Tạm biệt nhé". Anh bước đến bên xe Dana.
"Không khác gì một câu lạc bộ", nàng nhận xét.
"Chúng khá lắm. Anh đến đây hướng dẫn chúng tuần một lần".
Nàng mỉm cười. "Em cũng thích thế", và nàng đột nhiên tới Kemal. Không biết giờ này cậu bé có khoẻ không và đang làm gì.
Dần dần Dana nhận thấy mình mỗi ngày một thích Jeff Connors hơn. Anh nhạy cảm, thông minh và hài hước. Nàng luôn được vui vẻ bên anh. Ký ức kinh hoàng về Sarajevo đang dần nhạt nhoà đi. Một buổi sáng, nàng thức dậy và không còn thấy ác mộng nữa. Khi nàng kể cho Jeff nghe điều này, anh cầm tay nàng thì thầm. "Đó mới chính là người con gái của anh".
Dana băn khoăn không biết có nên hiểu xa hơn câu nói đó không.
Có một bức thư viết tay chờ Dana tại văn phòng.
"Cô Evans, đừng lo lắng cho cháu, cháu đang hạnh phúc, không cô đơn chút nào. Cháu không nhớ ai cả. Và cháu sẽ gửi trả lại cô những bộ quần áo cô mua cho cháu vì cháu không cần đến nữa. Cháu đã có quần áo của mình rồi. Tạm biệt cô. Bức thư ký tên "Kemal".
Thư có dấu bưu điện ở Paris, đầu bì thư có dòng chữ "Ngôi nhà Xavier cho các cậu bé". Dana đọc đi đọc lại. Rồi nàng nhấc điện thoại. Phải đến bốn tiếng sau Dana mới gặp được Kemal.
Giọng cậu bé có vẻ dò xét. "Xin chào".
"Kemal, cô là Dana Evans đây. Không có tiếng trả lời. "Cô đã nhận được nhận được thư của cháu". Im lặng. "Cô chỉ muốn nó là cô mừng khi thấy cháu hạnh phúc và đang sống cuộc sống tốt đẹp". Dana chờ một lúc rồi tiếp tục. "Cô ước gì mình cũng được hạnh phúc như cháu. Cháu có biết tại sao cô không hạnh phúc không? Vì cô nhớ cháu, cô nghĩ về cháu rất nhiều".
"Không, cô không nhớ cháu", Kemal kêu lên, "cô không thèm quan tâm đến cháu".
"Không đúng thế, vậy cháu có muốn đến Washington để sống với cô không?"
Im lặng thật lâu. "Cô có... có ý định đó sao?"
"Đúng, thế cháu có thích vậy không?"
"Cháu... cậu bé bật khóc.
"Cháu có thích không? Kemal?"
"Có... có, cô ạ".
"Cô sẽ thu xếp nhé".
"Cô Evans?"
"Gì hả cháu?"
"Cháu yêu cô"
Dana và Jeff đi bên nhau trong công viên West Potomac. "Em nghĩ là mình sẽ sống với một người nữa", và nàng thông báo với anh, "cậu ta sẽ sống ở đây với em trong tuần tới".
Jeff nhìn nàng ngạc nhiên. "Cậu ta?"
Dana thấy mình hài lòng trước phản ứng của anh. "Vâng, tên cậu ấy là Kemal, mười hai tuổi".
Và nàng kể cho anh nghe câu chuyện.
"Cậu bé cậu có vẻ tuyệt vời đấy nhỉ?"
"Đúng thế, nó đã trải qua một địa ngục trần gian, Jeff ạ, em muốn nó quên đi".
Anh nhìn nàng và nói. "Anh cũng muốn giúp nó".
Đêm đó, lần đầu tiên họ ngủ cùng nhau.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 13-12-2011 13:36:26 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16 -

Có hai Washington D.C. Một là thành phố của vẻ đẹp kỳ diệu: những công trình kiến trúc, bảo tàng thế giới, các tượng đài kỷ niệm những nhân vật vĩ đại trong quá khứ: Lincoln, Jefferson, Washington... Một thành phố của những công viên xanh mướt, những bông hoa tươi thắm và khoảng trời êm dịu.
Còn một Washington D.C khác là nơi của những kẻ vô gia cư, một thành phố, với tỉ lệ tội phạm cao nhất đất nước, một mê cung của nạn cướp của và giết người.
Monroe Arms là một khách sạn trang nhã, nằm kín đáo, không xa ngã tư đường 27 và đường K. Khách sạn không quảng cáo. Nó sống chủ yếu nhờ những khách quen. Một chủ hãng bất động sản tên là Lard Cameron đã xây dựng khách sạn này từ vài năm trước.
Jeremy Robinson, giám đốc điều hành khách sạn đang xem xét sổ đăng ký khách trọ với vẻ lúng túng hiện rõ. Ông kiểm tra lại họ tên những khách thuê các phòng hạng sang để chắc chắn là không xảy ra một sơ suất nào.
ở phòng 325, một diễn viên tên tuổi đã lu mờ đang diễn tập cho một vở kịch sẽ được trình diễn ở nhà hát quốc gia. Theo tờ Washington Post, bà ta đang hy vọng được nổi danh trở lại.
ở phòng 425, nằm đúng trên đầu phòng nữ diễn viên kia, một thương gia nổi tiếng, đến Washington rất đều đặn. Tên ở sổ đăng ký của ông ta là J.L Smith, nhưng vẻ ngoài ông lại khiến người ta liên tưởng đến một sắc dân nào đó ở vùng Trung Cận Đông. Ông là vị khách vô cùng hào phóng.
Phòng 525 là ngài William Quint, một nghị sĩ đảng Cộng hoà, hành tung rất bí ẩn.
Bên trên nữa, phòng 625, là người bán hàng của công ty phần mềm máy tính, đến Washington mỗi tháng một lần.
Đăng ký tại phòng 725 là Pat Murphy, một chuyên gia vận động hành lang cỡ quốc tế.
Gần đây, mọi việc đều tốt đẹp, Jeremy Robinson nghĩ. Những người khách quen thuộc đối với ông. Nhưng phòng 825, phòng hạng nhất nằm ở tầng cao nhất, thì hơi khó hiểu. Đó là căn phòng được dành cho những khách quen lại vừa quan trọng nhất. Nó chiếm trọn một tầng, được bài trí bằng vô số đồ cổ giá trị, những bức tranh quý, và có thang máy riêng dẫn thẳng đến gara ở tầng hầm. Vì thế, những vị khách muốn giấu tên và có thể đến và đi không ai hay biết.
Đeieù làm Jeremy Robinson bối rối là cái tên vị khách trong phòng này ghi ở sổ đăng ký của khách sạn: Eugenne Gant. Thực sự có ai mang tên như vậy không, hay chỉ là một người thích đọc Thomas Walfe đã chọn nó làm bí danh?
Carl Gorman, nhân viên trực ngày, người tiếp nhận vị khách tên Gart đã nghỉ vài giờ trước đây và không ai tìm thấy anh ta đâu. Robinson rất ghét sự khó hiểu. Ai là Eugene Gant và tại sao lại được ở dãy phòng sang trọng bậc nhất này.
ở phòng 325 tầng ba, Dame Gisella Barrett đang một mình tập vở. ở tuổi 60, bà có vẻ ngoài khá bắt mắt. Đó là một diễn viên sân khấu đã từng được khán giả ngưỡng mộ và các nhà phê bình đề cao suốt một dải, từ phía Tây London đến Manhattan. Vẻ đẹp rực rỡ của một thời vẫn còn vương lại trên gương mặt đã thoáng vài nét nhăn của sự chua xót.
Dame Bisella đã đọc bài báo trên tờ Washington Post, nói rằng bà trở lại Washington để tái tạo danh tiếng. Một sự nổi danh trở lại! Dame Barrett cảm thấy phẫn nộ. Sao họ dám? Mình đã mất nó đâu.
Thực sự là vậy, lần cuối cùng bà xuất hiện trên sân khấu cách đây đã hơn 20 năm. Một diễn viên vĩ đại thì phải có một đạo diễn cùng một nhà sản xuất tài ba lẫy lừng. Cánh đạo diễn ngày nay quá non nớt đối với uy quyền tối cao của sân khấu thực thụ. Còn các nhà sản xuất lừng danh của Anh quốc như H.M Tenant, Binkie, Beaumont, C.B. Cochran đều không còn nữa. Thậm chí những nhà sản xuất được coi là tài năng của Mỹ như Helburn, Belasco và Golden cũng đã ra đi. Còn gì để nói khi nhà hát bây giờ nằm trong tay những kẻ nhiều tiền va chỉ sử dụng nó như một công cụ kiếm tiền. Những ngày xa xưa thật đáng để nuối tiếc. Đâu cả rồi những người viết kịch bản với ngòi bút toả ánh hào quang? Dame Bisella đã là một ngôi sao không thể thay thế với vai Ellie Dunn trong vở "Ngôi nhà có trái tim tan vỡ" của Berna Shaw.
Các nhà phê bình sân khấu đã không tiếc lời khen ngợi mình. Thật tội nghiệp George. Anh ấy không thích bị gọi George. Phải là Bernard cơ. Mọi người cứ nghĩ về anh ấy như về một biểu tượng của sự chua chát, đắng cay. Nhưng họ đâu biết, ẩn sau cái vẻ ngoài đó lại là một tâm hồn Ai-len đầy lãng mạn. Anh đã luôn gửi cho mình những bông hồng nhung tươi thắm. Mình cho là anh ấy quá nhút nhát nên không thể tiến xa hơn được. Có thể anh ấy sợ mình sẽ từ chối.
Bà đang chuẩn bị đóng một vai quyền lực nhất - Lady Machbeth - cho sự xuất hiện trở lại này. Đó là sự lựa chọn hoàn hảo.
Dame Bisella đặt ghế sau bức tường nhìn ra ban công. Như thế bà sẽ không bị dòm ngó từ bên ngoài.
Bà ngồi xuống, hít một hơi dài, bắt đầu nhập vào nhân vật. Một nhân vật của Shakespeare. Chỉ bà mới xứng đáng với tầm vóc của vai diễn này.
... "Vì chúa, sao lại ngu ngốc đến vậy? Sau bao nhiêu năm tôi ở khách sạn này, lẽ ra các người phải biết..."
Giọng nói gay gắt phát ra từ cửa sổ căn phòng tầng trên.
Trong phòng 425, J.L. Smith, một tay buôn vũ khi đang lớn tiếng mắng người phục vụ.
"... Món ăn tôi đặt luôn là món trứng cá Beluga, Beluga, rõ chưa!". Ông ta chỉ vào đĩa trứng cá trên bàn xe đẩy. "Món này chỉ đáng cho bọn xếp cảng cá ăn".
"Tôi thành thật xin lỗi, ngài Smith. Tôi sẽ xuống bếp và..."
"Không phải bận tâm nữa". J.L. Smith ngắm nghía cái khuy tán Rolex bằng kim cương của mình. "Tôi không còn thời gian. Tôi có một cuộc hẹn quan trọng đang chờ". Ông ta tiến ra cửa và sau ít phút nữa sẽ có mặt ở văn phòng của ngài chưởng lí. Hôm qua chính ngài ta đã kết tội ông mười lăm lần hối lộ cho Bộ trưởng bộ quốc phòng. Nếu họ đủ chứng cứ buộc tội thì ông sẽ bị ba năm tù giam kèm theo mức phạt là một triệu đô la.
ở phòng 525 ngài nghị sĩ William Quint, thuộc thế thệ thứ ba của một gia đình danh giá ở Washington đang có cuộc gặp gỡ với ba thành viên khác trong nhóm điều tra của ông.
"Việc mua bán và sử dụng ma tuý ở thành phố này đã hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát". Quint nói, "Chúng ta phải đưa nó trở lại khuôn khổ". Quay sang Dalton Isaak, ông hỏi. "Theo anh, bọn nào tiếp nhận ma tuý?"
"Các băng nhóm của các lãnh địa. Bọn Brentwood đang trả giá cao hơn bọn Fouteeth Street và bọn Simple City, dẫn đến vụ thanh toán hồi tháng trước với bốn cái xác nằm lại..."
"Ngừng lại. Và ngay lập tức". Quint nhấn mạnh, không giấu vẻ giận dữ xen lẫn lo lắng". FBI đã gọi cho tôi còn viên cảnh sát trưởng đã hỏi tôi về kế hoạch tảo thanh đợt này".
"Ngài trả lời họ ra sao?"
"Như mọi lần thôi. Rằng chúng ta đang ngập đầu ngập cổ vào việc điều tra". Ông ta quay sang viên trợ lý. "Sắp xếp một cuộc gặp với bọn Brentwood. Bảo chúng, nếu còn muốn chúng ta chống lưng phải san sẻ công bằng mối hàng với bọn khác". Ông ta lại quay sang viên trợ lý khác. "Chúng ta thu được bao nhiêu tháng trước".
"Mười triệu tại chỗ và mười triệu từ ngoài vào".
"Phải tăng lên nữa. Cái thành phố này đang trở nên ngày càng đắt đỏ".
ở phòng 625, Norman Haff đang trần truồng trên chiếc giường tối om xem phim con heo phát trên kênh ti vi mạch kín của khách sạn. Gã có màu da xanh rớt cùng một vòng eo khổng lồ đầy bia, da thịt thì bèo nhèo. Gã chồm lên bạn tình.
"Hãy nhìn họ đang làm gì kìa, Irma", gã thì thào. "Em có muốn anh làm như thế không?" Gã sờ nắn xung quanh vòng eo bạn tình, mắt vẫn dán chặt vào màn hình....
Gã tắt pin và nằm vật ra, thở hổn hển, cảm thấy thật tuyệt. Gã sẽ cùng Irama một lần nữa vào buổi sáng, trước khi tháo hơi và xếp "nàng" vào va li.
Normal là người chào hàng, cái nghề luôn phải rong ruổi đến những nơi lạ lẫm, nơi mà gã không có ai làm bầu bạn. Và gã đã "tìm ra" Irma cách đây vài năm. "Nàng" là tất cả những gì đàn bà mà gã cần. Những đồng nghiệp ngốc nghếch của gã đi vòng quanh nước Mỹ, mất không biết bao nhiêu tiền cho đám đĩ rạc cũng chỉ để đạt tới cái kết quả gã vừa đạt được. Song, hơn hẳn bọn họ, gã có thể thoả mãn bất kỳ lúc nào gã muốn, lại khỏi phải lo chuyện bệnh tật gì.
ở tầng trên, phòng 725, gia đình Pat Murphy vừa đi ăn tối về. Tim Murphy, mười tuổi, đang đứng trên ban công nhìn ra công viên. "Ngày mai mình trèo lên đỉnh đài tưởng niệm, bố nhé?" Cậu bé nài nỉ.
Em trai Tim phản đối. "Không. Em muốn đến Viện Smithsonian.
"Trụ sở Smithsonian", ông bố sửa lại.
"Gì cũng được. Con muốn tới đó".
Đây là lần đầu tiên bọn trẻ được đến thủ đô, dù bố chúng, mỗi năm có tới hơn 6 tháng sống ở đây. Pat Murphy là một chuyên gia vận động hành lang và sắp tới sẽ là một trong những nhân vật quan trọng hàng đầu ở Washington.
Ông bố của Murphy là thị trưởng một thị trấn nhỏ ở Ohio và Pat đã lớn lên với niềm say mê chính trị. Pat có cậu bạn thân tên là Joey. Họ học cùng nhau, đi trại hè cùng nhau và cũng chia sẻ mọi thứ. Nghĩa là không thể còn gì thân thiết hơn. Nhưng tất cả đã thay đổi trong một kì nghỉ, khi bố mẹ Joey đi vắng nhà và Joey đến ở cùng Pat Murphy. Nửa đêm, Joey mò đến phòng Pat, chui vào giường. "Pat", cậu ta thì thầm, "dậy đi".
Pat mở mắt. "Chuyện gì? Chuyện gì xảy ra thế?"
"Mình thấy cô đơn", Joey thì thầm. "Mình... muốn cậu".
Pat Murphy bối rối. "Để làm gì?"
"Cậu không hiểu à? Mình yêu cậu. Mình muốn cậu". Và cậu ta hôn môi Pat.
Pat kinh hãi vì phát hiện ra điều khủng khiếp là Joey mắc bệnh đồng tính. Không bao giờ Pat nói chuyện với Joey nữa.
Pat Murphy ghê tởm sự đồng tính; họ là những kẻ đồng dâm, là quái vật. Chúa nguyền rủa chúng khi chúng đi dụ dỗ những đứa trẻ ngây thơ. Ông biến nỗi căm ghét và ghê tởm thành một chiến dịch lớn, lâu dài, chống lại đến cùng các ứng cử viên mà ông chắc chắn là biết họ mang bệnh đồng tính, rao giảng về những tội ác, những nguy hiểm mà nó mang đến cho con người.
Hồi trước, ông ta thường đến Washington một mình, nhưng lần này vợ ông cứ nhất định đòi cho bà và lũ trẻ đi theo.
"Em muốn cuộc sống của anh ở đó ra sao", bà ta nói và cuối cùng Pat đành phải nhượng bộ.
Giờ đây, ông ta đứng nhìn bà vợ và lũ trẻ, thầm nghĩ, đây là lần cuối ta nhìn thấy chúng bay. Sao ta lại có thể phạm một sai lầm ngu dốt thế nhỉ? Thôi được, nó cũng sắp kết thúc rồi. Gia đình ông đang bàn kế hoạch ngày mai, nhưng làm gì có cái ngày mai đó. Trước khi họ thức dậy thì ông đã đang trên đường đến Brazil rồi.
Alan đang chờ ông ta.
ở phòng 825, căn phòng đế vương, là một sự im lặng tuyệt đối. Thở, hắn tự nhủ. Mình phải thở... thở chậm hơn nữa... chậm hơn nữa... Hắn sắp rơi vào cơn hoảng loạn và cứ đứng nhìn chăm chăm vào thân hình mảnh dẻ, không một mảnh vải che thân của cô gái trẻ sóng sượt trên nền nhà, nghĩ. Đó không phải là lỗi của mình. Cô ta bị trượt ngã.
Đầu cô gái bị vỡ khi va vào góc bạn bịt sắt, máu tràn xuống trán. Hắn đã bắt mạch cổ tay cô, nhưng không có dấu hiệu gì. Thật không tin nổi khi cô bé mới sung sướng, quằn quại trong tay hắn...
Mình phải thoát khỏi đây. Ngay bây giờ! Hắn nhanh chóng mặc quần, áo. Chuyện này không chỉ là một vụ scandal bình thường mà nó sẽ làm rung chuyển cả thế giới. Họ chắc không thể lần ra mình ở đây.
Mặc xong quần áo, hắn vào phòng tắm, nhúng ướt chiếc khăn và lau chùi tất cả mọi chỗ mà hắn có thể chạm đến.
Khi đã chắc chắn mình không để lại dấu vết nào, hắn nhìn quanh một lần cuối. Chiếc xắc tay của cô bé! Hắn nhặt lên rồi đi đến cuối phòng, nơi có thang máy riêng.
Hắn bước vào trong, gắng trấn tĩnh lại. Hắn bấm nút "G", và vài giây sau đã ở trong gara. Không có ai. Hắn đang bước tới chiếc ôtô của mình, đột nhiên nhớ ra và nhanh chóng quay lại thang máy. Rút chiếc khăn tay, hắn lau những cái nút bấm. Hắn đứng khuất trong bóng tối, nhìn quanh một lần nữa để chắc chắn chỉ có một mình hắn. Cuối cùng, khi đã thấy an tâm, hắn bước tới ôtô, mở cửa và ngồi vào. Động cơ nổ êm. Chiếc xe phóng ra khỏi garage.
Cô hầu buồng Filipina phát hiện ra xác chết nằm sõng soài trên trên nền nhà.
“Odios ko, Kawawa naman iyong babae!” (tiếng địa phương – tỏ ý sợ hãi, kinh hoàng) Cô ta làm dấu thánh, lao ra khỏi phòng, la hét ầm ĩ.
Ba phút sau, giám đốc điều hành Jeremy Robinson và Thom Peters, quản lý khách sạn đã có mặt tại 825, căn phòng sang trọng hạng nhất. Họ đứng nhìn chằm chằm vào cái xác lõa lồ của cô gái.
“Chúa ơi,” Thom nói, “Cô ta chỉ 16, 17 là cùng.” Ông ta quay sang người giám đốc. “Tốt hơn hết là ta gọi cảnh sát?”
“Đợi đã!” Cảnh sát. Báo chí. Dư luận. Trong một thoáng suy nhĩ, Robinson băn khoan không biết có thể đưa cái xác một cách im lặng ra khỏi khách sạn hay không.
“Thôi dược, hãy làm như vậy.” Cuối cùng Jeremy Robinson đồng ý với vẻ miễn cưỡng.
Thom Perters rút ra chiếc khăn tay và dùng nó để lót bàn tay nhấc điện thoại.
“Cậu đang làm cái gì vậy?” Robinson kêu lên. “Đây không phải là án mạng mà chỉ là một tai nạn.”
“Chúng ta chưa biết là gì cơ mà?” Peters trả lời.
Anh ta quay số và chờ.
“Cảnh sát phải không? Có một xác chết ở khách sạn Monroe Arms.”
Thanh tra Nick Reese có vẻ ngoài như một viên cảnh sát đường phố: cao lớn, vạm vỡ, cái mũi gẫy, dấu tích cho người ta biết ông đã từng là võ sĩ quyền Anh. Nick bắt đầu sự nghiệp là một nhân viên trong cảnh sát thủ đô Washington, sau tiến dần lên, từ hạ sĩ tới trung úy, rồi sĩ quan tuần tra cao cấp. Ông được bổ nhiệm là thanh tra D2 rồi D3 và trong 10 năm qua là người phá được nhiều vụ án nhất của phòng.
Thanh tra Reese lặng lẽ quan sát hiện trường. Trong phòng còn có 6 người đàn ông khác. “ Đã ai động vào cái xác chưa?” Ông rùng mình, hỏi.
Robinson nhún vai. “Chưa.”
“Cô ta là ai?”
“Tôi không biết.”
Reese quay sang nhìn viên giám đốc. “Một cô gái trẻ chết trong căn phòng hạng nhất của ông mà ông lại chẳng biết gì về cô ta? Thế khách sạn này có sổ đăng ký khách không?”
“Tất nhiên là có, ông thanh tra ạ, nhưng trường hợp này...” Robinson ngập ngừng.
“Trường hợp này...?”
“Ông Eugene Gant đã đăng ký phòng này.”
“Ông ta là ai?”
“Tôi không biết.”
Thanh tra Reese không thể kiên nhẫn được nữa.
“Thử xem nhé. Người đặt phòng này bắt buộc phải trả tiền... tiền mặt, thẻ tín dụng hay là cái quái gì đó đi nữa. Và người tiếp nhận ông Gant này vào chắc hẳn phải nhìn thấy ông ta. Ai tiếp nhận?
“Gorman, nhân viên trực ngày.”
“Tôi muốn nói chuyện với anh ta.”
“Tôi... tôi sợ là không thể.”
“Hả? Sao thế?”
“Hôm qua anh ta đi nghỉ rồi.”
“Gọi anh ta ngay.”
Robinson thở dài. “Anh ta nào có nói với ai là mình đi đâu.”
“Khi nào anh ta quay về?”
“Hai tuần nữa.”
“Tôi sẽ coi ông là người không muốn hợp tác. Tôi không có ý định đợi đến 2 tuần mà muốn có những câu trả lời ngay bây giờ. Chắc hẳn ai đó phải nhìn thấy có người ra vào phòng này chứ?”
“Không chắc thế!” Robinson nói có vẻ hối lỗi. “Bên cạnh thang máy chung, phòng này còn có một thang máy riêng dẫn thẳng xuống gara ở tầng trệt. Tôi không hiểu nổi những chuyện này. Đó... rõ ràng là một tai nạn. Có thể cô ta là một con nghiện đã dùng thuốc quá liều rồi bị ngã...”
Một viên thám tử tiến đến gần thanh tra Reese. “Tôi đã kiểm tra tủ quần áo. Váy cô ta mặc là của hãng GAP, giày hãng Wild Pais. Chẳng nói lên điều gì cả.”
“Không có gì để nhận biết cô ta là ai à?”
“Không. Nếu cô ta có xắc tay thì nó cũng biến mất rồi.”
Thanh tra Reese xem xét lại xác chết lần nữa. Ông ta quay qua một viên cảnh sát gần đó. “Lấy cho tôi miếng xà phòng. Nhớ nhúng vào nước.”
Viên cảnh sát tròn mắt nhìn. “Gì ạ?”
“Một miếng xà phòng ướt.”
“Vâng thưa ngài.”
Thanh tra Reese quỳ xuống cạnh cái xác và quan sát chiếc nhẫn trên tay cô gái. “Nó giống như một chiếc nhẫn của học sinh thường đeo...”
Reese nhẹ nhàng chà miếng xà bông ướt dọc theo ngón tay cô gái và cẩn thận tháo chiếc nhẫn ra. Ông xoay xoay chiếc nhẫn, vừa quan sát nó vừa lẩm bẩm. “Đây là một chiếc nhẫn của trường trung học Denver. Có những chữ cái trên đó, P.Y.” Ông quay sang bảo người đứng cạnh. “Kiểm tra đi. Gọi cho trường trung học Denver để tìm hiểu cô bé là ai. Phải nhanh. thật nhanh. Thắng thua là ở sự nhanh chậm đó.”
Thám tử Ed Nelson, người giám định vân tay, nói với Reese. “Rõ ràng là có vấn đề, Nick ạ. Chúng tôi đã cố hết sức nhưng không thể lấy nổi dấu vân tay nào ở đây. Ai đó đã cố tình xóa hết đi.”
“Vậy thì ai đó đã phải ở đây khi cô bé bị chết. Tại sao hắn ta không gọi bác sĩ? Sao hắn ta phải lau dấu vân tay ? Và còn nữa, cô bé con này làm cái quái gì ở căn phòng đắt tiền này?”
Ông quay sang Robinson. “Phòng này được thanh toán bằng gì?”
“Nó được trả bằng tiền mặt theo như sổ sách của chúng tôi ghi lại. Một người được ủy thác mang tiền đến còn việc đặt phòng thì qua điện thoại.”
Một ai đó lên tiếng. “Bây giờ chúng ta có thể mang xác đi dược hứa Nick?”
“Đợi một chút. Có tìm thấy dấu hiệu bạo lực nào không?”
“Mới chỉ thấy chấn thương trên trán. Nhưng tất nhiên chúng tôi sẽ làm khám nghiệm pháp y.”
“Có dấu vết gì nữa không?”
“Không. Tay chân cô bé rất sạch.”
“Có bị hãm hiếp không?”
“Chúng tôi sẽ kiểm tra.”
Thanh tra Reese thở dài. “Vật tất cả những gì chúng ta có ở đây là một nữ sinh từ Denver đến Washington để rồi bị giết trong một khách sạn sang trọng bậc nhất thành phố. Ai đó đã lau hết những dấu tay rồi biến mất. Mọi thứ đều chúng tỏ là một sự mờ ám. Tôi muốn biết ai thuê phòng này?”
Ông ra lệnh. “Giờ đã có thể đưa cô bé đi được.” rồi quay sang thám tử Nelson. “Anh đã kiểm tra dấu tay ở thang máy riêng chưa?”
“Rồi. Thang máy từ phòng này dẫn thẳng xuống gara. Chỉ có hai nút bấm và đều đã được lau sạch.”
“Kiểm tra gara chưa?”
“Cũng rồi. Không có gì đặc biệt cả.”
“Kẻ làm việc này đã chứng tỏ hắn rất có kinh nghiệm trong việc che xóa dấu vết. Một kẻ đầy tiền án tiến sự, hoặc một VIP thích tham giavào các trò tiêu khiển bệnh hoạn.” Ông quay sang Robinson. “Ai thường thuê phòng này?”
Robinson miễn cưỡng đáp. “Phòng này thường dành cho những khách quan trọng nhất. Vua, thủ tướng...” Ông ngập ngừng, “...các tổng thống.”
“Trong vòng 24 giờ qua có cuộc điện thoại nào từ phòng này không?”
“Tôi không biết.”
Reese rất bực bội. “Nhưng các ông sẽ ghi lại chứ, nếu có?”
“Tất nhiên rồi.”
Thám tử Reese nhấc máy. “Tổng đài, tôi là thanh tra Nick Reese. Tôi muốn biết có cuộc gọi nào từ phòng 825, phòng bậc nhất, trong vòng 20 tiếng qua... Tôi sẽ đợi.”
Ông quan sát viên thám tử phủ một tấm vải lên xác cô gái rồi đặt cô lên chiếc giường đẩy. “Chúa ơi,” Reese nghĩ. “Cô bé thậm chí còn chưa bắt đầu cuộc sống.”
Ông nghe tiếng người trực tổng đài. “Thanh tra Reese?”
“Tôi đây.”
“Hôm qua có một cú gọi từ phòng đó. Một cuộc gọi nội hạt.”
Reese rút sổ và bút chì ra. “Đọc số máy đi.” Ông lẩm nhẩm nhắc theo . “4-5-6-7-0-4-1...”
Reese vừa đặt bút xuống bỗng sững lại. Ông nhìn chằm chằm vào quyển sổ. “Ôi khỉ thật!”
“Chuyện gì vậy?” thám tử Nelson hỏi.
Reese ngước lên. “Đó là số điện thoại của Nhà Trắng.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 14:08:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17 -

Hôm sau, đang bữa sáng, Jan hỏi. “Anh ở đâu tối hôm qua thế, Oliver?” Oliver thót tim. Nhưng chắc là câu hỏi tình cờ thôi. Bà chẳng thể biết chuyện gì đã xảy ra. Không một ai biết. Không một ai. “Anh có cuộc họp với...”
Jan cắt ngang. “Cuộc gặp đó đã hủy bỏ. Nhưng mãi 3 giờ sáng anh mới về. Em đã tìm anh khắp các phòng. Anh ở đâ vậ?”
“À, có chuyện xảy ra. Sao thế? Em có cần... Có gì không ổn à?”
“Bây giờ thì không có gì.” Jan nói vẻ mệt mỏi. “Oliver, anh không chỉ làm khổ em mà anh còn đang làm tổn hại đến chính anh đấy. Anh đã đi quá xa. Em không muốn thấy anh mất tất cả. Anh không thể...” Đôi mắt bà giàn giụa nước.
Oliver đứng lên và đi đến choàng tay quanh người bà. “Được rồi, Jan. Mọi thứ vẫn ổn. Anh yêu em biết bao.”
Mình làm mọi việc theo cách của mình, Oliver nghĩ. Chuyện xảy ra tối qua chẳng phải lỗi của mình. Chính cô ta đã gọi mình. Lẽ ra mình không nên gặp cô ấy. Ông đã rất cẩn trọng, không để cho ai nhìn thấy. Mình hoàn toàn trong sạch. Oliver tự khẳng định.
Peter Tager rất lo lắng cho Oliver. Ông ta biết mình không thể nào ngăn chặn được tính háo sắc của Oliver. Có những đêm Peter Tager phải bày vẽ ra những cuộc họp đòi hỏi có mặt tổng thống tham dự, ở rất xa Nhà Trắng, và còn phải xoay sở để đội đặc vụ không kè kè bên cạnh ngài trong vài giờ.
Khi Peter Tager phàn nàn về chuyện này với Nghị Sĩ Davis, ông ta nói: “À, Oliver là người thuộc diện máu nóng. Đôi khi ta cũng đành chịu bó tay. Tôi thực sự khâm phục nhân cách của anh, Peter ạ. Tôi cũng biết gia đình có ý nghĩa ra sao với anh, biết những chuyện nhăng cuội của tổng thống khiến anh khó xử thế nào. Nhưng chúng ta đừng phán xử vội. Anh hãy cố gắng giữ cho mọi chuyện càng bí mật càng tốt.”
Thanh tra Nick Reese rất ghét vào phòng khám nghiệm tử thi sặc mùi chết chóc và mùi foóc-môn. Nhân viên điều tra Helen Chuan, một phụ nữ với vẻ ngoài hấp dẫn đang chờ ông ở đó.
“Chào em.” Reese nói. “Đã xong chưa?”
“Có kết quả sơ bộ cho anh đây, nick. Cô bé không chết bởi vết thương trên trán. Tim cô ta đã ngừng đập trước khi va đầu vào bàn. Cô bé chết vì đã dùng quá liều methylenedioxymethamphetamine.”
Viên thám tử thở dài. “Em nói thế thì có trời mà hiểu, Helen ạ.”
“Xin lỗi. Ngoài đường người ta gọi nó là thuốc Thần Tiên – Ecstasy.” Cô đưa cho ông bản báo cáo. “Đây là những gì mà bọn em có thể kết luận trong lúc này.”
BIÊN BẢN KHÁM NGHIỆP TỬ THI
Tên tử thi: Jane Doe – Hồ sơ số C-Lg61
Tóm lược:
I. Phần tim bị mở rộng.
A. Cardiomegaly (750 gm)
B. Mở rộng bên trái tim (2.3 cm)
C. Gan bị sung huyết (2750 gm)
D. Phủ tạng ứ huyết (350 gm)
II. Nhiễm độc thuốc phiện cấp.
Tắc nghẽn máu cấp toàn phủ tạng.
III. Về chất độc (xem báo cáo riêng)
IV. Xuất huyết não (xem báo cáo riêng )
Kết kuận (nguyên nhân gây chết):
- Phần tim bị mở rộng
- Nhiễm độc thuốc phiện cấp.
Nick Reese ngẩng lên. “Như vậy, nếu dịch nôm na cái bản đầy thuật ngữ y học này ra thì là cô bé đã chết vì dùng quá liều thuốc Ecstasy đó hả?”
“Đúng thế.”
“Có bị xâm phạm tình dục không?”
“Heln Chuan ngập ngừng một chút. “Màng trinh bị rách và có dất vết của tinh dịch cùng một chút máu ở đùi.”
“Như vậy là bị hãm hiếp rồi.”
“Tôi không cho là thế!”
Reese nhướn mày.
“Không có dấu hiệu của bạo lực.”
Thanh tra Reese nhìn helen bối rối. “Cô đang muốn nói gì vậy?”
“Jane Doe là một cô gái trinh tiết và đây là lần đầu tiên cô ta quan hệ tình dục.”
Thanh tra im lặng phân tích thông tin. Ai đã có thể thuyết phục một cô nữ sinh trinh trắng lên căn phòng sang trọng đó để làm tình với hắn ta nhỉ? Cô bé phải biết người đó, nếu không, hắn ta phải rất nổi tiếng hoặc là người đầy quyền lực.
Điện thoại reo. Helen Chuan nhấc máy. “Văn phòng điều tra đây.” Cô ta nghe một lúc rồi đưa ống nghe cho Reese. “Của anh đấy.”
Nick Reese cầm máy. “Reese đây.” Vẻ mặt ông bỗng rạng rỡ: “Ồ, vâng, bà Holbrook. Cảm ơn bà đã gọi lại. Đó là một chiếc nhẫn của trường bà với hai chữ P.Y. Bà có nữ sinh nào mang chữ cái như thế không?... Tôi rất quan tâm. Cám ơn bà. Tôi sẽ đợi.”
Ông ngước lên hỏi Helen. “Em chắc là cô ta không bị cưỡng hiếp chứ?”
“Em không thấy có dấu vết của sự cưỡng ép Không một chút nào cả.”
“Liệu có thể là sau khi cô ta chết không??”
“Em nghĩ là không.”
“Có tiếng bà Holbrook trong điện thoại. “Thanh tra Reese?”
“Vâng.”
“Theo như máy vi tính lưu trữ, chúng tôi có một nữ sinh với chữ cái P.Y. Tên cô ta là Pauline Young.”
“Bà có thể mô tả cô ta chứ, bà Holbrook?”
“Sao, à vâng. Pauline 18 tuổi. Cô ta thấp, béo, tóc đen...”
“Được rồi.” Không phải cô ta. “Chỉ có duy nhất một cô mang tên tắt ấy sao?”
“Chỉ có một cô gái tên vậy thôi.”
Ông bám vội lấy ý đó. “Tức là còn có một nam học sinh cũng tên như vậy.”
“Vâng. Paul Yerby. Cậy ta nhiều tuổi hơn. Nhưng giờ thì Paul đang ở Washington.”
Tim Reese đập mạnh. “Cậu ta ở đây ư?”
“Vâng. Cả lớp cậu ta đến Washington để thăm Nhà Trắng và...”
“Và tất cả họ đang ở tại thủ đô à?”
“Đúng thế!”
“Ở khách sạn Lombardy. Họ chịu giảm giá nếu đi cả nhóm. Tôi đã nói chuyện với các khách sạn khác nhưng họ chẳng...”
“Cám ôn bà rất nhiều, bà Holbrook.”
Nick Reese đặt ống nghe xuống rồi quay sang Helen. “Cho anh biết khi nào cuộc khám nghiệm hoàn tất nhé?”
“Tất nhiên. Chúc anh may mắn, Nick.”
Ông gật đầu. “Anh nghĩ là anh vừa gặp may đấy.”
Khách sạn Lombardy nằm trên đại lộ Pennsylvania, ngay gần Nhà Trắng, gần một số đài tưởng niệm và ga tàu điện ngầm. Thám tử Reese bước vào phòng chính của khách sạn được bài trí theo kiểu cổ và hỏi nhân viên lễ tân:
“Ởû đây có ai là Paul Yerby không?”
“Xin lỗi. Chúng tôi không tiết lộ...”
Reese lia thẻ thanh tra ra. “Tôi đang rất vội anh bạn ạ.”
“Vâng , thưa ngài.” Anh ta nhìn bản đăng ký của khách. “Có ông Yerby ở phòng 315. Tôi sẽ...?”
“Không cần, tôi muốn làm anh ta ngạc nhiên. Đừng động vào điện thoại đấy.”
Reese theo thang máy lên tầng 3, đi dọc hành lang, rồi dừng lại trước phòng 315. Ông nghe thấy tiếng nói từ trong phòng vọng ra. Ông cởi khuy áo jacket rồi gõ vào cánh cửa. Một thanh niên ở độ tuổi mới lớn ra mở.
“Chào ông!”
“Cậu là Paul Yerby.”
“Không.” Cậu ta quay vào trong. “Paul, có ai tìm cậu này.”
Nick Reese bước nhanh vào phòng. Một chàng trai mảnh dẻ, với quần jean áo len chui cổ, đi từ phóng tắm ra.
“Cậu là Paul Yerby?”
“Vâng. Ông là ai?”
Reese rút phù hiệu ra. “Thanh tra Nick Reese. Có một vụ giết người.”
Mặt chàng trai biến sắc. “Tôi... Tôi giúp gì được cho ông?”
Nick Reese cảm nhận được nỗi sợ hãi. Ông rút chiếc nhẫn của nạn nhân ra. “Đã bao giờ cậu nhìn thấy chiếc nhẫn này chưa, Paul?”
“Chưa.” Paul vội nói. “Tôi...”
“Nó có các chữ cái của tên cậu đây.”
“Thật sao? Ồ, vâng...” Cậu ta ngập ngừng. “Tôi đoán là của tôi. Chắc tôi đã để mất đâu đó.”
“Hay đã đưa nó cho ai?”
Cậu ta mấp máy môi :“Ừm, vâng, chắc thế...”
“Hãy về trụ sở cảnh sát với tôi, Paul.”
Paul lộ vẻ căng thẳng. “Tôi bị bắt à?”
“Để làm gì chứ?” Thám tử Reese đáp. “Phải cậu đã gây rta tội ác không?”
“Đương nhiên là không. Tôi...”
“Vật thì sao tôi lại bắt cậu?”
“Tôi... tôi không biết. Tôi không biết tại sao tôi phải cùng về đồn với ông?”
Cậu Paul liếc về phía cánh cửa đang mở. Thanh tra Reese kéo cánh tay cậu ta. “Hãy cùng tôi đi một cách trật tự nhé. Đừng làm gì dại dột.”
Cậu bạn học ở cùng phòng hỏi. “Cậu có muốn mình gọi cho mẹ cậu hay ai đó không, Paul?”
Paul lắc đầu thiểu não. “Không. Đừng gọi cho ai cả.” Giọng cậu ta thì thào.
Tòa nhà Henry I. Daly, số 300 đại lộ Indiane, NW. Washington cao 6 tầng, gạch xám, trông rất mất cảm tình, được chọn làm trụ sở cảnh sát của thành phố. Ban điều tra các vụ án giết người ở tầng 3. Trong khi Paul Yerby đang phải chụp ảnh và lấy vân tay, thanh tra Reese tìm gặp đại úy Otto Miller.
“Tôi nghĩ rằng mình đã tìm ra được manh mối vụ án ở Monroe Arms.”
Miller ngả người ra ghế. “Tiếp tục đi.”
“Tôi đã tóm được bạn trai của cô bé. Cậu ta có vẻ hoảng sợ. Bây giờ chúng ta sẽ cùng hỏi han cậu ta một chút.”
Đại úy Miller hất đầu về chồng giấy ngất ngưởng trên bàn. “Mình phải giải quyết cái đống này trong vài tháng tới đây. Đưa cho mình biên bản xét hỏi thôi.”
“Cũng được!” Thanh tra Reese quay ra.
“Nick... nhớ đọc trước cho cậu ta nghe các quyền lợi nhé.”
Paul Yerby được đưa vào phòng thẩm vấn. Đó là một căn phòng nhỏ với một cái bàn, 4 cái ghế tựa và một máy camera. Một tấm kính chỉ nhìn được từ ngoài vào để các nhân viên có thể theo dõi cuộc thẩm tra từ phòng bên.
Paul Yerby ngồi đối diện với Nick Reese cùng hai thám tử nữa; Doug Hogan và Edga Bernstein.
“Cậu có biết là chúng tôi sẽ ghi lại toàn bộ cuốc đối thoại không?” Reese hỏi.
“Có, thưa ngài.”
“Cậu có quyền có người biện hộ. Nếu không đủ tiền, chúng tôi sẽ chỉ định một người cho cậu.”
“Cậu có muốn một luật sư đại diện không?” Thám tử Berstein hỏi thêm.
“Tôi không cần luật sư.”
“Thôi được. Cậu có quyền im lặng. Những gì cậu nói ở đây đều sẽ có thể là bằng chứng chống lại cậu trước tòa, rõ chưa?”
“Rõ rồi, thưa ngài.”
“Tên chính thức của cậu là gì?”
“Paul Yerby.”
“Điïa chỉ?”
“Số 23 đường Marion, Denver, Colorado. Nhưng tôi có làm gì sai đâu. Tôi...”
“Không ai nói cậu làm sai. Chúng tôi chỉ muốn biết một vài thông tin thôi, Paul ạ. Cậu sẽ giúp chúng tôi chứ?”
“Vâng, nhưng tôi...Tôi không biết tất cả... những cái này là về chuyện gì?”
“Cậu không biết gì à?”
“Không, thưa ngài.”
“Cậu có bạn gái nào không, Paul?”
“Ừm... Ông biết đấy...”
“Không tôi chả biết gì cả. Sao cậu không nói cho chúng tôi biết đi?”
“À được. Tôi gặp gỡ các cô gái...”
“Ý cậu là hẹn hò chứ gì? Cậu đưa các cô gái ấy đi chơi à?”
“Vâng.”
“Cậu có hẹn riêng với cô gái nào không?”
Im lặng.
“Cậu có người yêu không, Paul?”
“Có.”
“Tên cô ấy là gì?” Thanh tra Berstein hòi.
“Chloe.”
“Chloe, gì nữa?” Reese gặng.
“Chloe Houston.”
Reese ghi lại.
“Địa chỉ cô ấy, Paul?”
“6-0-2 đường Oak, Denver.”
“Tên bố mẹ cô ta là gì?”
“Cô ấy sống với mẹ.”
“Tên bà ấy là gì?”
“Jackie Houston. Bà ấy là thống đốc bang Colorado.”
Ba thám tử cảnh sát nhìn nhau. Quỷ thần ơi! Đó là những gì chúng ta cần!
Reese giơ chiếc nhẫn ra. “Nhẫn này của cậu hả, Paul?”
Cậu ta xem xét chiếc nhẫn một lát rồi trả lời một cách miễn cưỡng. “Đúng.”
“Cậu đã tặng Chloe à?”
Paul nuốt khan, đầy căng thẳng. “Tôi... tôi cho là thế.”
“Cậu chắc chứ?”
“Tôi nhớ rồi, vâng, đúng thế đấy.”
“Cậu đến Washington với một nhóm bạn cùng lớp, đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Chloe có trong nhóm đó không?”
“Có, thưa ông.”
“Thế bây giờ Chloe đang ở đâu hả Paul?” Thám tử Bernstein hỏi.
“Tôi... tôi không biết.”
“Cậu gặp cô ấy lần cuối cùng là khi nào?” Đến lượt Hogan hỏi.
“Cách đây 2 ngày.”
“Cách đây hai ngày à?” Reese hỏi.
“Vâng.”
“Ở đâu ?” Bernstein hỏi.
“Ở Nhà Trắng.”
Ba người nhìn nhau ngạc nhiên. “Cô ấy ở Nhà Trắng ư?”
Reese hỏi lại.
“Vâng, thưa ông, chúng tôi có một chuyến tham quan Nhà Trắng. Mẹ của Chloe đã xếp đặt chuyện này.”
“Và Chloe có ở đó với cậu?” Thám tử Hogan hỏi.
“Vâng.”
“Có chuyện gì không bình thường xảy ra trong chuyến tham quan đó không?”
“Ông muốn nói gì ạ?”
“Các cậu có gặp hay nói chuyện với ai trong khi tham quan không?”
“Ồ, thì tất nhiên là người hướng dẫn rồi.”
“Chỉ có thế thôi?” Reese hỏi.
“Đúng vậy.”
“Chloe có đi cùng các cậu trong suốt thời gian đó không?”
“Có...” Yerby ngập ngừng một chút, “à mà không, cô ấy có tách ra một lúc để tìm phòng vệ sinh dành cho nữ. Cô ấy đi khoảng 15 phút. Khi quay lại, cô ấy...” cậu ta dừng bặt.
“Cô ấy làm sao?” Reese hỏi.
“Không, chỉ là quay lại thôi.” Cậu ta rõ ràng là đang nói dối.
“Này, con trai,” Thanh tra Reese nhẹ nhàng. “Cậu có biết là Chloe đã chết không?” Cả 3 cùng chăm chú theo dõi Paul.
“Không, Chúa ơi, không thể như thế được. Tại sao?” Mặt Yerby nhăn nhúm lại vì nỗi đau quá bất ngờ.
“Cậu không biết thật à?”
“Không, tôi,,, tôi không thể tin được.”
“Cậu có liên quan gì đến cái chết của Chloe không?”
“Tất nhiên là không. Tôi... tôi yêu Chloe.”
“Cậu đã bao giờ ngủ với cô ấy chưa?”
“Không. Chúng tôi còn... đợi. Chúng tôi sắp lằm đám cưới .”
“Nhưng thỉnh thoảng 2 người chắc có dùng chất kích thích chứ.”
“Không, chúng tôi chưa bao giờ dùng thứ đó.”
Cửa bật mở và thám tử Harry Carter với thân hình to lớn bước vào. Anh ta đến bên Reese, thì thầm điều gì đó. Reese gật đầu, rồi ông nhìn Yerby chằm chằm.
“Cậu nhìn thấy Chloe lần cuối cùng vào lúc nào?”
“Thì tôi đã nói rồi, ở Nhà Trắng.” Cậu ta ngọ nguậy trên ghế, vẻ lúng túng.
“Thanh tra Reese cúi sát xuông Yerby, gằn giọng.
“Các dấy tay của cậu đầy rẫy trong căn phòng sang trọng nhất ở khách sạn Monroe Arms. Chúng làm sao mà tự đến được đấy.”
Paul Yerby ngồi đó mặt tái mét.
“Cậu có thể thôi dối trá được rồi đấy. Chúng tôi đã nắm được tẩy cậu rồi.”
“Tôi... tôi không làm điều đó.”
“Cậu đã đặt phòng ở khách sạn Monroe Arms hả?” Thám tử Bernstein hỏi.
“Không phải tôi.” Cậu ta nhấn mạnh chữ “tôi”.
Thám tử Reese chộp ngay lấy. “Thế cậu biết ai đặt chứ?”
“Không!” Câu trả lời buột ra rất nhanh.
“Cậu thừa nhận cậu đã ở phòng đó không?” Thám tử Hogan hỏi.
“Phải, nhưng ... nhưng khi tôi đi thì Chloe vẫn còn sống.”
“Tại sao cậu lại bỏ đi?” Thám tử Hogan không buông.
“Cô ấy yêu cầu tôi. Cô ấy... cô ấy đang chờ ai đó.”
“Thôi đi nào, Paul. Chúng tôi biết chính cậu đã ghiết cô ta.” Thám tử Bernstein nói nhẹ nhàng.
“Không!” Paul run lên. “Tôi thề là không hề liên quan đến chuyện đó. Tôi chỉ lên đấy với Chloe và ở lại có một lúc thôi.”
“Bởi vì cô ấy đang chờ ai đó?” Thanh tra Reese hỏi.
“Đúng. Cô ấy... Cô ấy có vẻ như rất sốt ruột.”
“Cô ấy có nói sẽ gặp ai không?” Hogan hỏi?
Cậu ta mấy máy môi. “Không!”
“Cậu đang nói dối. Cô ấy có bảo với cậu.” Hogan sẵng. “Cậu nói cô ấy sốt ruột. Về chuyện gì vậy?” Thanh tra Reese quay lại vấn đề làm ông chú ý.
Paul lại mấy máy môi. “Về ... về người đàn ông cô ấy sẽ gặp ở đó, trong bữa ăn tối.”
“Người đàn ông đó là ai, Paul?” Thám tử Bernstein hỏi.
“Tôi không thể nói cho các ông.”
“Sao không?” Thám tử Hogan hỏi.
“Tôi đã hứa với Chloe là sẽ không nói với ai.”
“Nhưng Chloe đã chết.”
Mắt Paul Yerby đã rưng rưng. “Tôi không thể tin điều đó.”
“Hãy nói tên người đàn ông đó.” Thám tử Reese.
“Tôi không thể. Tôi đã hứa.”
“Vậy thì đây là những gì sắp đến với cậu. Cậu sẽ phải nằm trong trại giam đêm nay. Sáng mai, nếu cậu nói tên người đàn ông, chúng tôi sẽ thả cậu. Nếu không , chúng tôi sẽ kết tội cậu đã giết người.” Thám tử Reese nói như kết luận.
Họ chờ đợi câu trả lời.
Im lặng.
Nick Reese ra hiệu cho Bernstein. “Dẫn cậu ta đi.”
Thám tử Reese quay lại văn phòng của đại úy Miller.
“Tôi có một tin xấu và một tin rất tồi tệ.”
“Tôi không có thời gian đâu, nick.”
“Tin xấu là tôi không biết chắc cậu ta có phải là người đưa Eestacy cho cô bé hay không. Tin tồi hơn là mẹ cô gái làm thống đốc Colorado.”
“Ôi trời ơi! Báo chí khoái vụ này lắm đây.” Đại úy Miller hít một hơi dài. “Tại sao cậu không cho rằng chàng trai đó gây ra?”
“Cậu ta thú nhận đã có ở cùng cô gái nhưng lại nói rằng cô ấy bảo cậu ta đi vì đang chờ ai đùó. Bọn trẻ thừa thông minh để kể ra câu chuyện ngu ngốc này. Tôi tin chắc cậu ta biết người đàn ông mà Chloe Houston đang đợi, song không chịu nói ra là ai.”
“Cậu có ý gì không?”
“Đây là lần đầu tiên cô bé, tên Chloe, đến Washington. Họ đã dạo một vòng quanh Nhà Trắng. Cô bé không quen ai ở đây. Bỗng cô ta đòi đi vệ sinh. Không có nhà vệ sinh công cộng ở Nhà Trắng. Muốn đi, phải ra ngoài, đến khu dành cho khách ở Elipse góc đường số 15 và đường E hoặc đến trung tâm cho khách tham quan Nhà Trắng. Cô bé sẽ phải mất tới 15 phút. Tôi nghĩ rằng trong khi chạy loanh quanh tìm kiếm, Chloe đã gặp một ai đó trong Nhà Trắng, ai đó mà cô bé có thể nhận ra. Có thể kẻ đó đã nhiều lần xuất hiện trên TV chẳng hạn. Cho dù ai thì cũng phải là một nhân vật quan trong. Hắn dẫn Chloe đến toa lét riêng và gây ấn tượng với cô bé, đến nỗi cô bé đã đồng ý gặp hắn ở Monroe Arms.”
Đại Úy Miller trầm tư. “Có lẽ tôi nên gọi Nhà Trắng. Họ yêu cầu phải thông báo kịp thời chuyện này. Cứ tiếp tục với chàng trai đó nghe. Tôi muốn biết tên của người đàn ông kia.”
“Được rồi.”
Khi thanh tra Reese bước ra khỏi, đại úy Miller vớ lấy điện thoại và quay số. Vài phút sau, ông ta nói , “Vâng, thưa ngài, chúng tôi đang tạm giữ một nhân chứng. Cậu ta bị giam trong xà lim ở đồn cảnh sát, đại lộ Indiana. Vẫn chưa, thưa ngài. Tôi nghĩ là cậu ta sẽ khai trong ngày mai thôi... Vâng, thưa ngài tôi hiểu.”
Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, thanh tra Nick Reese đén xà lim của Paul Yerby thì thân hình cậu ta đã treo lủng lẳng trên một thanh ngang
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 14:09:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18 -

NẠN NHÂN MƯỜI SÁU TUỔI – ĐƯỢC XÁC
NHẬN LÀ CON GÁI THỐNG ĐỐC BANG
COLORADO
BẠN TRAI CỦA CÔ BỊ CẢNH SÁT NGHI NGỜ
VÀ GIAM GIỮ.
CẢNH SÁT ĐANG TRUY LÙNG NHÂN CHỨNG
Hắn đọc những dòng tít trên và giật mình hoảng sợ. 16 tuổi ư? Cô ta trông có vẻ lớn hơn thế. Vậy hắn phạm tội gì nhỉ? Sát nhân? Hoặc có thể là tội ngộ sát. Thêm vào đó là tội quan hệ tình dục với lứa tuổi vị thành niên.
Hắn ngắm nhìn cô gái trần truồng bước ra khỏi phòng tắm khách sạn với nụ cười bẽn lẽn. “Em chưa làm chuyện này bao giờ.”
Hắn quàng tay quang người cô, vuốt ve. “Anh hạnh phúc vì được là người đầu tiên cùng em, em yêu.” Trước đó, hắn đã rót ra ly rượu có pha Ecstasy. Hắn mời cô. “Uống một chút đi. Nó sẽ làm cho em cảm thấy sung sướng hơn.” Và rồi họ làm tình với nhau. Sau đó, cô gái kêu thấy người khó chịu. Cô ta vùng ra khỏi giường, loạng choạng đập đầu vào góc bàn. Một vụ tai nạn. Tất nhiên cảnh sát sẽ không đơn giản tin vào cái sự tật đó. Nhưng nó cũng chẳng có gì liên quan đến mình cả. Không gì hết.
Sự việc diễn ra như trong mơ, như một cơn ác mộng đã xảy ra với ai đó chứ không phải với hắn. Nhưng một khi đã được in lên mặt báo thì nó là chuyện có thật.
Xuyên qua những bức tường của văn phònng, hắn vẫn có thể nghe thấy tiếng tiếng còi xe cảnh sát trên đại lộ Pennsylvania bên ngoài Nhà Trắng. Hắn nhìn những người xung quanh. Ai nấy đều đang cắm cúi với công việc của mình. Vài phút nữa là đến giờ họp nội các. Hắn hít một hơi thật sâu. Mình phải lấy lại can đảm mới được.
Trong phòng Bầu Dục có phó tổng thống Alvin Wicks, Sime Lombardo và Peter Tager.
Tổng thống Oliver bước vào và ngồi xuống bên bàn. “Xin chào quí vị.”
Một lời chào bình thường.
Peter Tager hỏi. “Ngài đã dọc tờ Tribune chưa, thưa tổng thống?”
“Chưa.”
“Xác một cô gái vừa được phát hiện ở khách sạn Monroe Arms. Tôi e rằng đó là một tin xấu.”
Oliver đột nhiên thấy mình cứng đờ người trên ghế. “Chuyện thế nào?”
“Cô gái tên là Chloe Houston, con gái của thống đốc Jackie Houston.”
“Ôi! Lạy Chúa!” Tổng thống như buột mồm nói.
Cả 3 người kia đều ngạc nhiên trước phản ứng đó. Oliver nhanh chóng nhận ra điều đó. “Tôi... tôi có quen Jackie Houston... Từ lâu rồi. Đó... đó thật là một tin khủng khiếp. Khủng khiếp quá.”
Sime Lombardo nói. “Cho dù tội ác xảy ra ở Washington thì cũng không thuộc phần trách nhiệm của chúng ta. Cái tờ Tribune này lại đang định bắt Nhà Trắng chúng ta gánh trách nhiệm ấy đây.”
Melvin Wicks lên tiếng. “Có cần làm gì để bà Leslie Steward này ngậm mồm lại không?”
Oliver đang hồi tưởng lại buổi tối thú vị bên Jackie năm nào. “Không cần,” Oliver nói, “tự do báo chí mà, thưa quí vị.”
Peter Tager quay sang hỏi. “Thế còn bà thống đốc...”
“Chuyện đó để tôi lo.” Tổng thống nói rồi bấm nút nội đàm.
“Cho tôi nói chuyện với thống đốc Houston ở Denver.”
“Chúng tôi đã tiến hành xem xét tình hình.” Peter Tager tiếp tục, “Tôi sẽ thu thập những con số chứng minh tình trạng tội phạm trong nước đã giảm, và ngài cũng vừa đệ trình xin Quốc Hội chi thêm ngân sách cho lực lượng cách sát, và vân vân...”
Những lời lẽ vang lên thật rỗng tuếch, đến ngay cả ông ta cũng nhận thấy.
“Một sự lựa chọn thật không đúng lúc,” Melvin Wicks nói.
Điện thoại nội đàm kêu. Oliver nhấc máy. “Alô!” Ông nghe giây lát rồi đặt xuống. “Bà thống đốc đang trên dường tới đây.” Ông nhìn Peter Tager. “Peter, anh xem xét giùm tôi bà ta bay chuyến nào rồi đón giúp về đây.” Peter gật gật đầu, mắt vẫn không rời tờ báo, la lên:
“Đây rồi. Đây là bài xã luận của tờ Tribune. Lời lẽ thật lỗ mãng.” Peter Tager chuyển cho Oliver trang báo có đăng bài xã luận. “NGÀI TỔNG THỐNG BẤT LỰC TRONG VIỆC KIỂM SOÁT TỘI ÁC TẠI THỦ ĐÔ. Đấy, bắt đầu là vậy đấy.”
“Mẹ kiếp con mụ Leslie Steward,” Sime Lombardo khẽ rủa. “Phải có người nói chuyện phải quấy với mụ ta mới được.”
Tại văn phòng tổng biên tập Washington Tribune, Matt Baker đang đọc lại bài xã luận công kích tổng thống Russell có thái độ nhu nhược trước làn sóng tội phạm của nước Mỹ thì Frank Lonergan bước vào. Lonergan trạc 40 tuổi, là một phóng viên có biệt tài về những vụ phạm pháp hình sự. Có thể do anh ta từng làm việc trong ngành cảnh sát. Anh hiện là một trong những phóng viên điều tra bậc nhất.
“Frank, cậu viết bài xã luận này đấy à?”
“Đúng vậy.”
“Đoạn này nói về tình hình tội phạm ở Minnesota giản 25%. Không thể chấp nhận được. Mà sao cậu lại chỉ nói về Minnesota?”
Lonergan đáp. “Đó là gợi ý của nàng công chúa tuyết.”
“Kỳ cục thật.” Matt Baber cắn cảu nói. “Tôi sẽ nói chuyện với bà ta.”
Lúc Matt Baker bước vào văn phòng của Leslie Stewart thì nàng đang nói chuyện điện thoại.
“...Tôi sẽ gửi tới để anh sắp xếp lại các chi tiết, nhưng tôi muốn chúng ta hãy tăng số tiền cho ông ta, càng nhiều càng tốt. Đằng nào nghị sĩ Embry của bang Minnesota cũng đi ăn trưa với tôi hôm nay và tôi sẽ lấy danh sách đó từ chỗ ông ta. Cám ơn.” Nàng đặt máy xuống.
“Ồ, Matt.”
Matt Baker bước lại sát bàn Leslie. “Tôi muốn nói chuyện về bài xã luận này.”
“Được đấy chứ, phải không?”
“Thối lắm, Leslie ạ. Sặc mùi bôi nhọ. Tổng thống chẳng phải chịu trách nhiệm gì hết về tình hình tội phạm ở Washinton, D.C. Đã có ngài thị trưởng lo chuyện đó, và còn cả cảnh sát nữa. À, còn chuyện tội phạm giảm 25% ở Minnesota là cái quái quỷ gì vậy? Bà lấy ở đâu ra con số này?”
Leslie Stewart ngả người ra ghế, bình tĩnh đáp. “Matt, đây là tờ báo của tôi. Và tôi sẽ nói bất kỳ điều gì tôi muốn. Oliver Russell là một tổng thống tồi. Gregory Embry có thể đảm nhiệm vai trò ấy tốt hơn nhiều. Chúng ta sẽ giúp ông ấy vào Nhà Trắng.”
Nhận thấy vẻ biến đổi trên khuôn mặt Matt, nàng hạ giọng. “Thôi nào Matt. Tờ Tribune là cánh tay phải của kẻ chiến thắng. Ông ta đang trên đường tới đây đấy. Liệu anh có muốn đi ăn trưa cùng chúng tôi không?”
“Không! Tôi không thích những kẻ ăn đồ bố thí.” Ông quay người rời khỏi văn phòng.
Phía ngoài hành lang, Matt Baker đụng với nghị sĩ Embry. Ông thượng nghị sĩ ở độ tuổi 50, nom ra vể vênh vang lắm.
“Ồ, chào ngài nghị sĩ. Xin chúc mừng ngài.”
Embry nhìn Matt, bối rối.
“Cảm ơn. Nhưng vì chuyện gì vậy?”
“Vì ngài đã làm giảm dược 25% nạn tội phạm trong bang.” Nói rồi Matt Baker bỏ đi, để lại sau lưng ông thượng nghị sĩ với vẻ mặt sững sờ.
Bữa ăn trưa diễn ra tại một nhà hàng trang trí nội thất theo kiểu cổ do Leslie Stewart đặt trước. Khi nàng và nghị sĩ Embry bước vào, người quản lý vội chạy ra đón.
“Bữa trưa đã sẵn sàng, thưa bà Stewart. Bà có dùng chút rượu không?”
“Tôi thì không,” Leslie trả lời. “Còn ông nghị sĩ thì thế nào?”
“Ồ, thường là tôi không uống vào ban ngày, nhưng hôm nay thì xin bà một ly Martini.”
Leslie Stewart thừa biết nghị sĩ Embry uống rượu suốt ngày. Nàng có cả đống tư kiệu về ông ta. Ông ta có một vợ, 5 đứa con và một cô nhân tình người Nhật. Mong muốn của ông ta là thành lập một tổ chức quân sự bí mật ngay tại bang mình. Song những điều đó đều chẳng có nghĩa gì vói Leslie. Điều quan trọng hơn cả là ngài nghị sĩ Gregory Embry rất có hứng thú với những vụ làm ăn lớn. Một mình. Tự mình làm. Vàrất có lòng tin ở mình. Và Washington chính là món hàng số một. Lesli hiểu rõ điều này và nàng rắp tâm hỗ trợ ông ta ở canh bạc đó. Trở thành tổng thống, Embry không thể quên ơn nàng.
Họ đang ngồi bên bàb ăn. Nghị sĩ Embry nhấp ngụm Martini thư hai.
“Tôi muốn cảm ơn bà về bài báo vừa rồi, thật là một cử chỉ đẹp.”
Leslie cười tươi. “Đó là mong muốn của tôi. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp ông đánh bại Oliver Russell.”
“Ồ, tôi nghĩ là mình đang gặp may.”
“Tôi cũng nghĩ vậy. Dân tình đã bắt đầu mệt mỏi về những vụ scandal của tổng thống. Tôi cho rằng chỉ cần thêm một chuyện nữa trước ký bầu cử, chắc chắn ông ta sẽ mất hết tín nhiệm.”
Nghị sĩ Embry đăm đăm nhìn Leslie thăm đò. “Bà có nghĩ tình hình sẽ như vậy không?”
Leslie gật đầu, nhẹ nhàng nói, “Tôi không ngạc nhiên về điều đó.”
Bữa trưa hôm ấy quả là ngon.
Cú điện thoại gọi đến là của Antonio Valdez – trợ lý phòng điều tra. “Bà Stewart, có phải bà muốn nhờ tôi tìm và tập hợp tài liệu về vụ Chloe Houston cho bà không?”
“Đúng vậy.”
“Cấp trên yêu cầu giữ bí mật, nhưng vì bà là chỗ thân quen nên tôi nghĩ...”
“Anh đừng lo. Tôi sẽ cẩn thận. Cho tôi biết thông tin về giải phẫu tử thi đi.”
“Nguyên nhân cái chết là do một loại ma túy dạng lỏng có tên là Ecstasy.”
“Gì cơ?”
“Ecstasy. Cô bé đã uống ruợu pha với chất đó.”
”Anh có một bất ngờ nho nhỏ dành cho em đây. Anh muốn em thử nó. Đây là Ecstasy ở dạng lỏng... Một người bạn đã cho anh...”
Và xác người phụ nữ được tìm thấy trên sông Kentucky được xác định chết là do uống quá liều Ecstasy...
Leslie ngồi thừ người ra, tim đập thình thịch.
Đó là ý Chúa.
Leslie cho gọi Frank Lonergan tới. “Tôi muốn anh theo dõi vụ Chloe Houston. Theo tôi thì tổng thống có thể dính líu vào vụ đó.”
Frank Lonergan chằm chằm nhìn bà chủ, khinh ngạc. “Tổng thống ư?”
“Trong vụ này có vài uẩn khúc gì đó. Tôi tin chắc vậy. Chàng trai bị bắt giữ thì cứ khăng khăng đây là một vụ tự tử. Mà cậu ta cũng đã chết. Tôi muốn anh kiểm tra lại thời gian của tổng thống vào buổi chiều và tối hôm xảy ra vụ án. Hãy cầu Chúa để ông ta đủ chứng cứ ngoại phạm. Tôi muốn việc này phải hành động kín đáo. Tuyệt đối bí mật. Và anh chỉ báo cáo cho mình tôi thôi.”
Frank Lonergan hít một hơi thật sâu. “Bà biết chuyện này nghĩa là gì không?”
“Hãy bắt đầu ngay đi. À Frank nà.”
“Tôi đây.”
“Hãy tìm trên Internet giúp tôi về cái chất gọi là Ecstasy. Xem nó có liên hệ gì với Oliver Russell không.”
Trên trang y tế của mạng Internet, mục về ma túy, Lonergan tìm thấy tư liệu về Miriam Friedland, cựu thư ký của Oliver Russell. Cô ta đang nằn điều trị tại bệnh viện ở Frankfort, bang Kentucky. Lonergan lập tức gọi điện tới. Bác sĩ nói. “Cô Friedman mới mất cách 2 hôm. Từ lúc vào viện tới khi chết, cô ấy không một lần tỉnh.”
Frank Lonergan gọi điện tới văn phòng của thống đốc Houston.
“Tôi rất tiếc.” Nhân viên thư ký nói, “bà thống đốc đang trên đường tới Washington.”
10 phút sau, Frank Lonergan có mặt ở sân bay quốc gia. Anh đã đến muộn.
Hành khách từ trên máy bay bước xuống. Lonergan nhìn thấy Peter Tager tiến lại chào một phụ nữ tóc vàng, quyến rũ, trạc 40 tuổi. Họ vừa đi vừa trò chuyện, tới chiếc Limousine đang chờ sẵn. Tager mở cửa xe. Bà khách gật đầu như cám ơn rồi ngồi vào.
Đứng từ xa, Lonergan thầm nghĩ: mình sẽ phải nói chuyện với quí bà này.
Anh cho xe quay về thành phố và phôn từ xe hơi. Đến lần gọi thứ 3, anh được biết là bà thống đốc đã đặt phòng tại khách sạn Four Seasons.
Khi Jackie Houston được dẫn vào phòng đọc sách nhỏ nằm ngay cạnh phòng Bầu Dục, Oliver Russell đã đợi bà tại đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 14:14:39 | Chỉ xem của tác giả
Tổng thống nắm lất tay bà. “Jackie, tôi rất lấy làm tiếc. Thật không có lời nào để chia buồn cùng bà.”
Cũng đã 17 năm trôi qua kể từ lần cuối cùng họ gặp nhau. Họ đã quen nhau trong một văn phòng luật sư ở Chicago, Hồi đó bà vừa tốt nghiệp trường luật, là một cô gái trẻ, hấp dẫn. Rất nhanh chóng họ có một cuộc tình ngắn ngủi, nồng cháy , không dễ quên.
17 năm đã qua. Còn Chloe thì vừa tròn 16 tuổi.
Ông không dám hỏi Jackie điều đang cắn rứt mình. Ta cũng chẳng muốn biết. Họ im lặng nhìn nhau. Tới lúc Oliver nghĩ rằng bà đang sắp nói về quá khứ, ông quay mặt nhìn ra chỗ khác.
Jackie Houston nói. “Cảnh sát nghĩ rằng Paul Yerby có dính dáng tới cái chết của Chloe.”
“Có lẽ vậy.”
“Không đâu.”
“Không ư?”
“Paul yêu Chloe lắm. Thằng bé chẳng nỡ làm điều gì hại nó cả.” Giọng bà như nghẹn lại. “Chúng nó... chúng nó đang định làm đám cưới.”
“Theo những gì tôi biết thì cảnh sát đã tìm thấy dấu vân tay của chàng trai này trong phòng khách sạn, nơi cô bé bị giết.”
Jackie Houston nói. “Báo chí viết rằng... chuyện đó xảy ra ở dãy phòng Đế Vương tại khách sạn Monroe Arms.”
“Đúng thế.”
“Oliver, Chloe chỉ có ít tiền học bổng. Còn bố của Paul thì là một nhân viên đã về hưu. Thế thì chúng nó lấy tiền ở đâu mà thuê được dãy phòng đế vương ấy?”
“Tôi... tôi cũng không hiểu.”
“Cần phải sáng tỏ chuyện này. Tôi sẽ không bỏ cuộc chừng nào chưa tìm được kẻ gây cái chết của con gái tôi.” Bà chau mày. “Chiều hôm đó, Chloe có hẹn với ông phải không? Ông có tới gặp con bé không?”
Tổng thống chần chừ một lát. “Không! Tôi cũng rất muốn gặp Chloe, Không may hôm đó lại có việc đột xuất nên dành phải hủy cuộc hẹn với cháu.”
Tại một căn hộ ở phía đầu kia thành phố. Trên giường, đôi tình nhân đang quấn chặt lấy nhau.
“Em không sao chứ, JoAnn?”
“Em khỏe, Alex ại.”
“Trông em có vẻ lơ đãng thế nào ấy. Em đang nghĩ gì vậy?”
“Chẳng gì cả.” JoAnn McGrath nói.
“Thật không?”
“Ừ, thật ra thì em đang nghĩ tới cô gái tội nghiệp bị giết hại trong khách sạn em.”
“À, anh cũng có có đọc về vụ đó. Cô bé là con gái một thống đốc đấy.”
“Đúng thế .”
“Cảnh sát có tìm ra người đã ở cùng cô ấy không?”
“Không. Họ cũng đã thẩm vấn hết thẩy mọi người trong khách sạn.”
“Cả em ư?”
“Vâng. Tất cả những gì em có thể nói với cảnh sát là một cú điện thoại.”
“Điện thoại gì vậy?”
“Có ai đó ở dãy phòng Đế vương ấy đã gọi điện đến Nhà Trắng.”
“Đột nhiên hắn sững lại. Rồi hắn nói thản nhiên. “Chuyện đó chẳng có nghĩa gì. Ai mà chẳng có việc phải gọi tới Nhà trắng. Nào em yêu, làm cho anh nóng lên đi.”
Frank Lonergan vừa từ sân bay về tới tòa soạn thì điện thoại cấm tay của anh reo. “Lornegan đây.”
“Chào ngài phóng viên. Cổ họng ngắn đây. Ngài vẫn bỏ tiền mua tin đấy chứ?”
Đó là Alex Coopper, kẻ chuyên sống bằng nghề bán tin. Chính Lonergan đã đặt cho gã cái bí danh Cổ họng ngắn. Anh ỡm ờ.
“Còn tùy thuộc vào độ sốt dẻo và tin cậy của nó.”
“Nó sẽ làm anh nhảy dựng lên đây. Tôi muốn 5 000 đôla.”
“Tạm biệt nhé, cổ họng ngắn.”
“Đừng vội cúp máy. Đó là tin về cô gái bị giết ở khách sạn Monroe Arm.”
Điều đó đột nhiên cuốn hút Franck Lonergan. “Có chuyện gì về cô gái?”
“Ta nên gặp nhau ở đâu nhỉ, ngài phóng viên?”
“Đúng nửa tiếng nữa, tại nhà hàng Ricco’s.”
Hai giờ chiều, Frank Lonergan và Alex Cooper đều cùng có mặt tại điểm hẹn. Lonergan không thích làm việc với Alex vì hắn là con người không đàng hoàng. Nhưng từ trước tới giờ hắn rất được việc. Tuy vậy, với “vụ” này, Lonergan cũng không chắc ở hắn lắm.
“Hy vọng anh không làm mất thì giờ của tôi.” Lonergan nói.
“Ồ, tôi không nghĩ đây là chuyện lãng phí thời gian. anh nghĩ gì nếu tôi nói rằng có sự liên quan giữa Nhà Trắng với hung thủ, kẻ đã giết cô gái?” Một vẻ khoái trá hiện ra trên khuôn mặt Alex.
Frank Lonergan cố kiềm chế. “Tiếp đi.”
“5000 đô chứ?”
“1000”
“Hai.”
“Được, anh nói đi.”
“Cô bồ của tôi trực điện thoại tại Monroe Arms.”
“Tên cô ấy là gì?”
“JoAnn McGrath.”
Lonergan ghi lại vào sổ. “Rồi sao?”
“Có ai đó ở dãy phòng đế vương đã gọi điện tới Nhà trắng vào thời điểm cô gái ở đó.”
“Tôi nghĩ tổng thống có liên quan tới vụ này” lời của Leslie Stewart vang lên.
“Độ tin cậy của thông tin này?”
“Chắc như đinh đóng cột.”
“Tôi sẽ kiểm tra lại. Nếu đúng thì anh sẽ có tiền. Anh đã nói tin này với những ai, ngoài tôi?”
“Chưa ai hết.”
“Tốt. Không được kể cho ai khác đấy.” Lonergan đứng dậy. “Ta sẽ liên lạc sau”.
“Còn chuyện này nữa.” Cooper nói.
Lonergan đứng lại “Chuyện gì ?”
“Anh cũng đừng cho ai biết là tôi đã cung cấp tin này. Tôi không muốn JoAnn từ nay sẽ không tin tôi nữa.”
“Được thôi.”
Ngồi lại một mình, Alex Cooper nhẩm tính xem sẽ làm gì với số tiền 2000 đô mà không để JoAnn biết.
Tổng đài điện thoại khách sạn Monroe Arms nằm ở một góc bên cạnh quầy lễ tân. Lúc Lonergan bước vào với cặp tài liệu trên tay, JoAnn McGrath đang bận việc. Anh nghe thấy cô ta nói qua điện thoại. “Tôi sẽ chuyển máy cho ngài. Xin chờ một chút.”
JoAnn nối máy rồi quay lại phía Lonergan. “Tôi có thể giúp gì cho ông?”
“Tôi là người của công ty điện thoại.” Lonergan nói. anh rút ra một tấm thẻ. “Chúng tôi có một số rắc rối.”
JoAnn McGrath nhìn anh ngạc nhiên. “Chuyện gì vậy?”
“Có người khiếu nại rằng phải trả tiền cước phí cho những cuộc gọi không phải của họ.” Anh vờ tra lại trong tập hồ sơ. “Ngày 15 tháng 10. Họ phải trả tiền cuộc gọi đi Đức, mà họ thì không quen ai ở Đức cả. Thế nên họ bực mình lắm.”
“Ồ, nhưng nào tôi có biết gì về chuyện này?” JoAnn nói một cách bực dọc. “Tôi cũng không nhớ là đã có cuộc gọi nào đi Đức vào tháng trước không?”
“Cô có ghi lại các cuộc gọi của ngày đó không?”
“Tất nhiên là có.”
“Làm ơn cho tôi xem một chút.”
“Được thôi.” Cô lôi ra dưới đống giấy tờ một tấm bìa kẹp hồ sơ. Chuông điện thoại lại reo. Trong lúc JoAnn bận nghe máy, Lonergan nhanh chóng lật tìm tư liệu mình cần. Ngày 12 tháng 10... Ngày 13... 14... 16...
Tờ ghi các cuộc gọi của ngày 15 đã bị mất.
Frank Lonergan đã chờ sẵn tại khách sạn Four Seasons khi Jackie Houston từ Nhà Trắng trở về.
“Xin lỗi, bà là thống đốc Houston?”
“Vâng.” Bà ta quay lại.
“Tôi là Frank Lonergan, phóng viên báo Washington Tribune tôi muốn gửi tới bà lời chia buồn sâu sắc của tờ báo chúng tôi, thưa bà thống đốc.”
“Cám ơn anh.”
“Liệu bà có thể dành cho tôi vài phút để trò chuyện không, thưa bà?”
“Tôi thực sự không...”
“Tôi nghĩ sẽ có ích”... Anh hất đầu về phía phòng chờ của khách sạn. “Chúng ta có thể tới đó, vài phút thôi?”
Bà thống đốc thở dài. “Cũng được.”
“Tôi biết con gái bà đã tới tham quan Nhà Trắng vào đúng cái hôm mà...” Anh không thể nói nổi hết câu.
“Đúng thế. Con bé... nó tới đó cùng lũ bạn học. Nó rất muốn được gặp mặt Tồng Thống.”
Lonergan cố giữ giọng tự nhiên.
“Cô bé có cuộc hẹn với tổng thống Russell phải không?”
“Phải. Chính tôi sắp xếp cuộc gặp này. Tôi và tổng thống là bạn cũ.”
“Thế cô bé có gặp được tổng thống không, thưa bà Houston?”
“Không, ông ấy mắc công việc đột xuất.” Giọng bà ta nghẹn lại. “Có một điều tôi dám chắc...”
“Điều gì, thưa bà?”
“Paul Yerby không giết con bé. Chúng nó rất yêu nhau.”
“Nhưng cảnh sát cho rằng...”
“Tôi không quan tâm những gì họ nói. Họ đã bắt giữ chàng trai đó vô tội. Cậu ta... cậu ta thất vọng tới mức đã treo cổ tự vẫn. Thật khủng khiếp.”
Frank Lonergan chăm chú nhìn bà thống đốc, giọng dè dặt: “Nếu không phải là Paul Yerby thì bà có nghĩ đến là ai khác không? Ý tôi muốn nói là cô bé có nói sẽ gặp ai đó ở Washington không?”
“Không. Con bé chẳng quen ai ở đây cả. Con bé muốn...” Mắt bà bỗng nhòa lệ.”Xin lỗi. Hãy bỏ qua cho tôi.”
“Ồ, không có gì. Cám ơn bà đã dành thời gian cho tôi, thưa thống đốc Houston.”
Nơi tiếp theo Lonergan tới là nhà xác. Helen Chuan vừa bước ra khỏi phòng xét nghiệm tử thi.
“Ồ, ai thế kia!”
“Chào tiến sĩ.”
“Cơn gió nào mang anh tới đây, Frank?”
“Tôi muốn nói chuyện với cô về Paul Yerby.”
Helen Chuan thở dài. “Thật là đáng xấu hổ. Chúng đều còn quá trẻ.”
“Lý do gì khiến một chàng trai như vậy lại tự tử nhỉ?”
Helen Chuan nhún vai. “Ai mà biết được.”
“Ý tôi là cô có chắc cậu ta tự tử không?”
“Kết quả kiểm tra hiện trường và xét nghiệm thì đúng như vậy. Dây thắt lưng xiết cổ cậu ta chặt tới nỗi người ta phải cắt bỏ mới gỡ ra được.”
“Không có dấu hiệu gì ở hiện trường hay trên thi thể cậu ta chứng tỏ có sự sát hại sao?”
Cô nhìn anh tò mò. “Không!”
Lonergan gật đầu. “OK. Cảm ơn. Đừng để các xác chết của cô phải chờ đợi lâu.”
“Hài hước thật.”
Phía ngoài hành lang có một buồng điện thoại. Hỏi tổng đài, Lonergan có được số điện thoại của bố mẹ Paul Yerby. Bà mẹ nhấc máy, giọng mệt mỏi. “Alô!”
“Bà Yerby phải không ạ?”
“Vâng.”
“Xin lỗi đã làm phiền bà. Tôi là Frank Lonergan, phóng viên tờ Washington Tribune. Tôi muốn...”
“Tôi không thể.”
Một lát sau, ông Yerby nghe máy. “Tôi xin lỗi. Vợ tôi... báo chí làm phiền chúng tôi suốt cả sáng nay. Chúng tôi không muốn...”
“Chỉ một phút thôi, thưa ông Yerby. Có người ở Washington tin rằng con trai ông bà không giết Chloe Houston.”
“Tất nhiên là không!” Giọng ông trở nên mạnh mẽ hơn. “Thằng bé chẳng bao giờ, chẳng đời nào làm vậy.”
“Cậu Paul nhà ta có bạn bè gì ở Washington không?”
“Không. Nó chẳng quen ai ở đó cả?”
“Tôi hiểu. Vậy nếu chúng tôi có thể giúp gì được...”
“Anh có thể giúp chúng tôi một việc được không anh Lonergan? Chúng tôi đã thu xếp mang xác thằng bé về đây rồi. Nhưng còn đồ đạc thì chưa. Chúng tôi muốn lấy về bất cứ thứ gì còn lại của nó. Anh có thể giải quyết giúp chúng tôi chuyện nhỏ này không?”
“Tôi sẽ giúp ông.”
“Chúng tôi vô cùng cám ơn anh.”
Tại trụ sở cảnh sát, viên sĩ quan mở hộp dựng đồ dùng cá nhân của Paul Yerby. “Không nhiều lắm đâu.”Anh ta nói. “Chỉ có quần áo và một cái máy ảnh thôi.”
Lonergan thò tay vào hộp và lôi ra chiếc thắt lưng màu đen. Nó không hề bị cắt.
Frank Lonergan bước vào phòng làm việc của Deborah Kanner – thư ký chuyên trách xếp lịch các cuộc hẹn của Tổng thống Russell. Cô ta đang chuyển bị đi ăn trưa.
“Tôi có thể giúp gì được anh , Frank?”
“Deborah, tôi có một vấn đề.”
“Chuyện gì đây?”
Frank Lonergan vờ nhìn sổ tay.
“Tôi có nguồn tin nói rằng vào ngày 15 tháng 10 tổng thống có cuộc gặp bí mật với một đặc phái viên Trung Quốc để bàn về vấn đề Tây Tạng.”
“Tôi không hề biết gì về cuộc gặp này.”
“Cô có thể xem lại giúp tôi được không?”
“Anh bảo ngày nào nhỉ?”
“Ngày 15 tháng 10” Lonergan nhìn Deborah lôi từ ngăn kéo ra tập hồ sơ ghi các cuộc gặp và giở lướt qua.
“Ngày 15 tháng 10 ư? Anh muốn nói vào giờ nào?”
“10 giờ tối, ngay tại đây, trong phòng Bầu Dục.”
Cô ta lắc đầu. “Không phải. 10 giờ tối hôm đo,ù tổng thống có cuộc hẹn với tướng Whitman.”
Lonergan cau mày. “Không phải như vậy? Cho tôi xem qua một chút.”
“Xin lỗi. Tôi không thể. Nhưng chính xác đấy.”
30 phút sau. Frank Lonergan đang nói chuyện với tướng Whitman.
“Thưa ngày, tờ Tribune muốn đưa tin về cuộc gặp gỡ giữa ngài và tổng thống vào ngày 15 tháng 10 vừa qua. Tôi cho là có một số điểm quan trọng đang được bàn cãi.”
Vị tướng lắc đầu. “Tôi không biết anh lấy tin này từ đâu, anh Lonergan. Bời vì cuộc gặp đó đã bị hủy bỏ. Tổng thống bận việc khác.”
“Ngài có chắc như vậy không?”
“Một trong 2 người là tôi mà lại không chắc ư? Chúng tôi đang thu xếp một cuộc gặp khác.”
“Xin cám ơn ngài.”
Frank Lonergan quay về Nhà Trắng. Anh lại vào văn phòng của Deborah Kanner.
“Anh biết mấy giờ rồi không, Frank?”
“Thì cũng vậy thôi.” Lonergan nói vẻ hối hận. “Người cung cấp tin cho tôi thề rằng Tổng thống đã gặp mặt ngay tại đây, với phái viên Trung Quốc để bàn về Tây Tạng.”
Cô thư ký nhìn anh vẻ khó chịu. “Tôi phải nói thế nào để anh tin vào giờ đó, ngày đó tổng thống không có cuộc gặp nào như vậy cả.”
Lonergan thở dài. “Nói thật tôi cũng chẳng biết phải làm sao đây. Sếp tôi thì cứ muốn đăng tin này, vì nó cũng khá quan trọng. Có lẽ chúng tôi cứ cho đăng vậy.” Anh làm bộ đi ra cửa.
“Đợi đã.”
Anh quay lại. “Gì vậy?”
“Anh không thể đăng bừa vậy được. Chuyện ấy hoàn toàn không xẩy ra. Tổng thống sẽ nổi giận cho mà xem.”
“Đăng hay không đâu phải do tôi quyết định.”
Deborah lưỡng lự. “thế nếu tôi chứng minh cho anh rằng hôm đó tổng thống có gặp tướng Whitman thì anh sẽ quên chuyện này đi chứ?”
“Tất nhiên rồi. Tôi đâu muốn gây rắc rối với Nhà Trắng làm gì.” Lonergan nhìn Deborah lại lôi tập tài liệu ra, lần giở các trang. “Đây là danh sách những cuộc hẹn của tổng thống trong ngày đó. Xem nhé, ngày 15 tháng 10.” Danh sách dài 2 trang. Deborah chỉ vào cột ghi thời gian 10 giờ tối...”Đây anh nhìn đi, giấy trắng mực đen hẳn hoi.”
“Cô nói đúng.” Lonergan đáp. Anh đang mải tìm kiếm trên trang giấy. Một cuộc hẹn lúc 3 giờ. Chloe Houston.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 22:50:22 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19 -

Cuộc họp bất thường diễn ra ở phòng Bầu dục mới chỉ bắt đầu được vài phút màkhông khí dường như đã rất căng thẳng bì các mối bất hòa mang sẵn trong mỗi người tham dự.
Bộ trưởng quốc phòng lên tiếng: “Tình hình sẽ ngày càng vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta nếu ta vẫn trì hoãn hành động. Nó sẽ là quá muộn để ngăn chặn sự việc.”
“Chúng ta không thể hành động vội vã được.” Nói đoạn, tướng Stephan Gossard quay sang hỏi giám đốc CIA. “Ông đã có trong tay những thông tin gì?”
“Rất khó nói. Chúng tôi chỉ chắc hắn là Libya đang mua một số lượng lớn vũ khí từ Iran và Trung Quốc.” Tổng thống Oliver nhìn về phía ngoại trưởng hỏi. “thế Libya phủ nhận việc đó à?”
“Vâng đúng vậy. Cả phía Trung Quốc và Iran cũng thế.”
Tổng thống hỏi tiếp. “Còn phía các nước Ả rập thì sao?”
Giám Đốc CIA đáp: “Thưa tổng thống, theo những thông tin mà tôi có được, nếu Israel tấn công, thì đó sẽ là cái cớ mà các nước Ả rập đang mon đợi. Họ sẽ tham gia vào việc loại bỏ Israel.”
Tất cả cùng nhìn Tổng thống. “Ông có những nguồn tin đáng tin cậy ở Libya phải không?” Tổng thống hỏi.
“Vâng, thưa tổng thống.”
“Tôi muốn những tin mới nhất. Nếu có, hãy báo cho tôi ngay. Xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự tấn công, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài hành động.”
Cuộc họp đến đây phải hoãn lại. Giọng của thư ký tổng thống vang lên qua nội đàm “Thưa tổng thống, có ngài Tager xin gặp.”
“Mời ông ta vào.”
“Cuộc họp diễn ra như thế nào?” Vừa vào Peter Tager đã hỏi.
“Ồ, đây chỉ là một cuộc họp bình thường.” Oliver nói với vẻ thất vọng, “về chuyện sẽ có một cuộc chiến tranh trong nay mai...”
“Và kèm theo cả vấn đề lãnh thổ?” Tager nói vẻ cảm thông.
“Đúng vậy.”
“Nghe chừng có vẻ hay đấy.”
“Xin mời ngồi.”
Peter Tager vừa ngồi xuống vừa hỏi. “Vậy anh có biết chuyện gì về cái tiểu vương quốc Ả rập thống nhất không?”
“Không nhiều lắm, “Oliver trả lời. “cách đây 20 năm, có 5 hay 6 nước Ả rập gì đó đã tập hợp nhau lại để thành lập một liên minh.”
“Có tất cả 7 nước. Họ thành lập vào năm 1971. Đó là các nước Abu Dhabi, Fujaira, Dubai, Sharjah, Rasal-Khaimah, Unim al-Auaiwan và Ajman. Khi chưa liên minh với nhau thì họ chẳng là gì cả. Nhưng khối liên minh này đã phát triển một cách không thể hình dung nổi. Hiện nay, họ là một trong những nước có mức sống cao nhất. Tổng sản phẩm quốc nội đã vượt hơn 39 tỉ đôla vào năm ngoài.”
Oliver nói với vẻ sốt ruột. “Tôi đoán là có một tin gì đó phải không, Peter?”
“Đúng vậy. Người đứng đầu của hội đồng các tiểu cường quốc Ả Rập muốn gặp anh.”
“Được thôi. Vậy tôi sẽ gọi cho Bộ trưởng bộ quốc phòng...”
“Nhưng ông ta chỉ muốn gặp riêng anh, và ngay hôm nay.”
“Anh nói nghiêm túc không đấy? Tôi không chắc là mình...”
“Oliver này, dòng họ Majlis là một trong những thế lực lớn của khối Ả rập và còn được các quốc gia Ả Rập khác rất kính nể. Cuộc gặp này có thể mở ra nhiều triển vọng tốt cho ta. Tôi biết điều này là không tuân thủ qui định quốc gia nhưng tôi nghĩ là anh nên gặp họ.”
“Một cuộc gặp gỡ chính thức sẽ thuận tiện hơn nếu như tôi...”
“Tôi sẽ sắp xếp mọi việc.”
“Vậy họ muốn gặp ở đâu?”
“Họ có du thuyền đang đậu ở vịnh Chesepeake, gần Annapolis. Tôi sẽ đưa anh đến đó một cách kín đáo.”
Oliver ngồi bất động, nhìn trân trân lên trần nhà. Cuối cùng ông vươn về phía trước và ấn nút nội đàm. “Hãy hoãn tất cả các cuộc hẹn chiều nay cho tôi.”
Chiếc du thuyền tuyệt đẹp dài tới 212 ft (~60m) đang neo ở vịnh. Tất cả mọi người trên thuyền đều đang chờ đợi tổng thống Mỹ. Toàn bộ thủy thủ là người Ả Rập.
“Xin chào mừng ngài đến đây, thưa tổng thống.” Ali Al-Fulani, thư ký thứ nhất của các tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất lên tiếng. “Xin mời ngài lên thuyền.”
Khi Oliver bước du thuyền, viên thư ký ra hiệu cho thủy thủ đoàn. Vài phút sau, thuyên đã lướt đi.
“Chúng ta sẽ đi xuống tầng dưới phải không?” Tổng thống hỏi viên thư ký.
“Phải.”
Ta có thể bị giết hoặc bị bắt cóc ở một nơi nào đùó. Đây là việc ngu xuẩn nhất từ trước đến nay mà ta đã làm. Có lẽ chúng “điệu” ta tới đây để có thể dễ dàng bắt đầu cuộc tấn công vào Israel trong khi ta không thể đưa ra mệnh lệnh nào hòng trả đũa lại. Tại sao ta lại đồng ý với Tager đi gặp bọn chúng cơ chứ?
Nhưng Oliver vẫn theo Ali Al-Fulani xuống cầu thanh, đến một căn phòng lộng lẫy được bài trí theo kiểu Trung Đông. Ở đó có 4 gã Ả Rập lực lưỡng canh gác. Một người đàn ông đang ngồi trên tràng kỉ vội đứng dậy khi Oliver bước vào.
Ali Al-Fulani nói: “Xin giới thiệu với tổng thống, đây là Quốc Vương Hamad đáng kính.”
Hai người bắt tay nhau. “Rất hân hạnh được gặp Quốc Vương.”
“Cám ơn ngài đã đến, thưa tổng thống. Xin mời ngài dùng trà.”
“Cám ơn quốc vương, tôi xin được không dùng.”
“Tôi cho rằng cuộc gặp gỡ này không quá đường đột với ngài,” Quốc Vương Hamad bắt đầu. “Thưa tổng thống, từ hàng trăm năm nay, rất khó khăn, nếu nhhư không nói là không thể được, trong việc giải quyết các vấn đề giữa 2 nước chúng ta; những mâu thuẫn về chính trị, ngôn ngữ, đạo giáo và văn hóa. Đó là lý do của rất nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra giữa 2 phía. Nếu người Do Thái có chiếm đất của người Palestine, thì cũng không ai ở Omaha hay Kansas bị ảnh hưởng. Họ vẫn sống bình thường như đang họ sống. Nếu có một giáo đường Do Thái ở Jerusalem bị đánh bom, thì những người Ý ở Rome và Venise cũng chẳng phải bận tâm tới.”
Oliver tự hỏi không biết bài diễn văn này sẽ dẫn đến đâu đây. Liệu đó có phải là một lời cảnh báo cho cuộc chiến tranh sắp tới không?
“Chỉ có một nơi duy nhất trên thế giới phải chịu những tổn hại do các cuộc chiến tranh ở Trung Đông gây ra, chính là Trung Đông.” Ông ta vươn người về phía Oliver. “Và bây giờ là lúc chúng ta chấm dứt sự điên rồ này.”
Bắt đầu rồi đây. Oliver nghĩ.
“Những người lãnh đạo của các vương quốc Ả Rập và dòng dọ Majlis đã trao cho tôi một sứ mệnh là trình lên ngài một yêu cầu.”
“Tôi xin được nghe.”
“Một yêu cầu hòa bình.”
Oliver kinh ngạc “Hòa bình?”
“Chúng tôi muốn giải hòa với đồng minh của các ngài, Israel. Lệnh cấm vận của các ngài đối với Iran và các nước Ả Rập đã làm chúng tôi thiệt hại hàng tỉ đôla mỗi năm. Chúng tôi muốn chấm dứt tình hình này. Nếu Mỹ đứng lên như một trung gian hòa giải; các nước Ả Rập, bao gồm Iran, Libya, Syria, sẽ sẵn lòng ngồi xuống và bàn bạc về một hiệp định hòa bình vĩnh viễn với Israel.”
Tổng thống quá dỗi ngạc nhiên về đề nghị này.
“Các ông làm chuyện này là vì...”
“Tôi xin trân trọng nói với ngài rằng đề nghị này của chúng tôi hoàn toàn không xuất phát từ lòng quí mến với Israel hay với nước Mỹ các ngài, mà chính vì quyền lợi của chúng tôi. Biết bao chàng trai của chúng tôi đã chết vì sự điên rồi này. Chúng tôi muốn kết thúc. Thế là đủ. Chúng tôi muốn lại được tự do bán dầu cho các nước trên thế giới . Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn muốn hòa bình hơn.”
Oliver hít một hơi thật sâu. “Tôi cho là mình cần một chút nước trà.”
“Giá mà anh ở đó,” Oliver nói với Peter Tager, “thật không thể tả nổi. Họ đã sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng họ lại không muốn xảy ra chiến tranh. Đúng là dòng máu thương gia. Họ muốn tự do bán dầu ra thị thường thế giới nên họ cần hòa bình.”
“Kỳ diệu thật,” Peter hào hứng, “giải quyết xong vụ này, anh sẽ trở thành một vị anh hùng đấy.”
“Tôi sẽ tự bàn chuyện đó,” Oliver nói với Peter Tager, “Không cần phải thông qua quốc hội. Tôi sẽ nói chuyện với thủ tướng Israel. Chúng ta sẽ giúp ông ấy thương lượng với các nước Ảrập.” Oliver ngừng lại rồi nói với Tager bằng giọng khàn khàn. “Mấy phút đầu tôi cứ lo mình bị bắt cóc.”
“Họ không có cơ hội đó đâu,” Peter mỉm cười. “Tôi đã cho một chiếc tàu và một máy bay trực thăng đi theo anh.”
“Nghị sĩ Davis đang chờ được gặp ngài, thưa tổng thống. Ông ấy không hẹn trước nhưng bảo đây là chuyện khẩn cấp.”
“Hủy bỏ cuộc hẹn tiếp theo của tôi rồi mời Nghị sĩ Davis vào.”
Cửa mở và Todd Davis bước vào phòng bầu dục.
“Thật là một điều ngạc nhiên lý thú, Todd ạ. Mọi việc đều ổn chứ?”
Ngài nghị sĩ ngồi xuống. “Ổn cả, Oliver. Tôi vừa nghĩ đến anh và cho là nên tới đây chuyện phiếm với anh một chút.”
Oliver mỉm cười. “Lịch làm việc của con đã kín vào ngày hôm nay, nhưng với cha thì...”
“Chỉ vài phút thôi. Tôi vừa chạy qua chỗ Peter. Anh ta có kể cho tôi nghe chuyện anh gặp phía Ả Rập.”
Oliver cười. “Thế có được không cha? Có vẻ như cuối cùng chúng ta cũng có hòa bình ở Trung Đông đấy nhỉ?” Ông gõ nhè nhẹ lên bàn. “sau biết bao nhiêu thập kỷ! Ít nhất thì nhiệm kỳ này của con cũng có cái gì đó để nhớ đấy, phải không Todd?”
Nghị sĩ Davis hỏi nhỏ:”Anh đã nghĩ kỹ chưa, Oliver?”
Tổng thống hơi cau mày. “Cái gì? Cha bảo sao?”
“Hòa bình là một từ rất đơm giản, nhưng lại có nhiều ý nghĩa. Hòa bình không bao giờ đem lại bất kỳ lợi nhuận nào bằng tiền. Khi có chiến tranh, nhữnng nước này mua vũ khí do chính ta sản xuất, trị giá hàng tỉ đôla. Khi hòa bình, họ chẳng cần đến vũ khí làm gì. và nếu Iran không bán được dầu, giá dầu lên, thì chính chúng ta , nước Mỹ, sẽ có lợi.”
Oliver nghe mà cứ ngớ người ra. “Todd, nhưng đây là chuyện sinh mệnh con người.”
“Đừng có ngây thơ như thế. Oliver. Nếu chúng ta thực sự muốn có hòa bình giữa Israel và các nước Ả Rập thì chúng ta đã làm điều đó từ lâu rồi. Israel bé như cái kẹo ấy. Bất kỳ vị tổng thống tiền nhiệm nào cũng có thể ép họ thương lượng với phía Ả Rập, nhưng tại sao lại cứ thích để nguyên trạng như vậy? Đừng hiểu lầm tôi nhé. Người Do thái là một dân tộc tốt. Tôi cũng có công chuyện cùng vài người bọn họ trong nghị viện.”
“Con không thể tin rằng cha...”
“Tin hay không tùy anh. Oliver ạ. Hiệp định hòa bình chẳng đem lại lợi lộc gì cho đất nước này cả. Tôi không muốn anh đương đầu với chuyện đó.”
“Con phải đương đầu với chuyện đó?”
“Đừng có bảo với tôi là anh phải làm gì, Oliver ạ.” Nghị sĩ Davis ngồi thẳng dậy. “Tôi sẽ bảo cho anh. Đừng quên là ai đã đưa anh ngồi vào cái ghế này.”
Oliver nói nhỏ nhưng rõ ràng. “Todd, cha có thể không tôn trọng con, nhưng cha phải tôn trọng cái văn phòng (chức vụ) này. Không bàn tới chuyện ai đưa con vào đây, nhưng con đang làm tổng thống.”
Nghị sĩ Davis đứng dậy. “Tổng thống ư? Anh chỉ là một con rối chết tiệt thôi, Oliver ạ. Anh là con bù nhìn của tôi. Anh nắm quyền trong tay, nhưng anh không phải là người ra lệnh.”
Oliver chằm chằm nhìn ông ta một lúc lâu. “Cha và các bạn của cha sở hữu bao nhiêu mỏ dầu hà Todd?”
“Đó không phải là việc của anh. Nếu anh dám làm việc kia, thì coi như anh kết thúc luôn. Anh có nghe tôi nói không đấy? Tôi cho anh 20 giờ để biết nên làm thế nào là khôn ngoan.”
Vào bữa tối hôm đó, Jan nói. “Cha bảo em nói chuyện với anh, Oliver ạ, ông thất vọng lắm.”
Oliver ngẩng lên nhìn vợ và thầm nghĩ. ‘mình rồi cũng sắp phải đương đầu với cả cô ấy đây.’
“Cha đã kể cho em nghe chuyện xảy ra giữa 2 người.” Jan nói tiếp.
“Thế à?”
“Vâng,”bà vươn ngừơi qua bàn hôn nhẹ lên má ông, “và em thấy việc anh sắp làm thật tuyệt vời.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 22:55:40 | Chỉ xem của tác giả
Phải mất một lúc ông mới hiểu được điều bà nói. “Nhưng cha em phản đối việc đó.”
“Em biết. Và có nghĩa là cha sai. Nếu họ sẵn sàng giải hòa với nhau, anh phải giúp họ nhé.”
Oliver nghe như nuốt từng lời của Jan, ông ngắm bà thật kỹ. Lần đầu tiên ông thấy là một Đệ nhất Phu Nhân xứng đáng biết chừng nào. Bà tham gia vào các hoạt động từ thiện và đứng tên trong một loạt các quỹ cứu trợ, bảo trợ khác. Bà thật đáng yêu, thông minh và cần mẫn; và cũng là lần đầu tiên ông ngắm bà, lòng tự hỏi. Tại sao mình lại cứ đi ngoại tình nhỉ? Tất cả những gì mình cần đễu chẳng đang ở Jan hay sao?
“Anh có một cuộc họp tối nay phải không?”
“Không,” Oliver đáp chậm rãi. “Anh sẽ hủy bỏ nó. “Tối nay anh ở nhà.”
Đêm đó, Oliver đã làm tình với Jan sau một thời gian rất lâu ngưng nghỉ, và cả hai đều thấy tuyệt diệu. Sáng hôm sau, khi ngủ dậy, ông nghĩ. ”Mình phải bảo Peter bỏ cái căn hộ bí mật kia đi mới được.”
Bức thư nằm trên bàn của hắn vào sáng hôm sau:
“Tôi muốn ngài biết rằng tôi là người thực sự ngưỡng mộ ngài, và tôi không muốn làm gì tổn hại tới ngài. Tôi ở trong gara của khách sạn Monroe Arms vào đên ngày 15 ấy và tôi thực ngạc nhiên khi thấy ngài cũng ở đó. Ngày hôm nay tôi đọc được tin về vụ cô gái trẻ bị giết, tôi đã hiểu tại sao ngài quay lại để xóa đi dấu tay trên nút bấm của thang máy. Tôi biết là tất cả báo chí sẽ rất quan tâm tới câu chuyện này của tôi và sẽ trả tiền hậu hĩnh. Nhưng, như đã viết ở trên, tôi là một trong những người ngưỡng mộ ngài. Thực là tôi không muốn làm gì tổn hại đến ngài. Tôi đang cần một chút trợ giúp về mặt tài chính, và nếu ngài có lòng, thì chuyện này sẽ chỉ chúng ta biết mà thôi. Tôi sẽ liên lạc với ngài sau mấy ngày nữa, khi ngài có đủ thời gian để suy nghĩ thấu đáo.
Xin trân trọng chào ngài
Một người bạn”
“Chúa ơi,” Sim Lombardo khẽ kêu lên. “Thật không thể tin được. Bức thư đến đây bằng cách nào?”
“Bằng đường bưu điện” Peter nói, “gửi cho Tổng thống,” Trên bì ghi rõ chữ “Thư riêng.”
Sim Lombardo nói. “Có thể là một kẻ điên rồ nào đó đang định...”
“Không được chủ quan thế, Sim ạ. Tôi cũng chẳng mảy may tin vào chuyện này, nhưng nếu chiû cần một lời thì thào lọt ra ngoài thì Tổng Thống coi như thân bại danh liệt. Chúng ta phải bảo vệ ngài.”
Peter Tager đang ở trụ sở FBI, số 10, phố Pennsylvania, nói chuyện với nhân viên mật vụ Clay Jacobs.
“Anh bảo đó là chuyện quan trọng, đúng không?” Jacobs hỏi.
“Phải” Tager mở chiêc cặp da đen lấy ra một tờ giấy, và đẩy qua bàn cho Clay Jacobs, Ông ta cầm lên và đọc to.
“Tôi muốn ngài biết rằng tôi là người thực sự ngưỡng mộ ngài... Tôi sẽ liên lạc với ngài sau mấy ngày nữa, khi ngài có đủ thời gian để suy nghĩ thấu đáo.”
Tất cả những chữ ở giữa 2 dòng này đều đã bị đè lên bằng băng bút xóa.
Jacobs ngảng lên. “Cái này là gì vậy?”
“Nó liên quan đến việc an toàn của tổng thống. Ngài yêu cầu tôi phải tìm ra ai là người viết bức thư này. Ngài muốn anh hãy tìm dấu vân tay.”
Clay Jacobs lật qua lật lại tờ giấy, chau mày suy nghĩ. “Điều này thật không bình thường chút nào, Peter ạ.”
“Tại sao?”
“Tôi thấy nó có cái gì rất lạ lùng.”
“Tất cả những gì tổng thống muốn anh làm là tìm ra tên của tác giả bức thư.”
“Cứ cho là dấu tay của hắn còn ở trên này.”
Peter gật đầu. “Cho là vậy.”
“Anh chờ chút nhé.” Jacobs đứng dậy và đi sang một phòng khác.
Peter ngồi đó và nhìn qua cửa sổ, nghĩ đến bức thư và hậu quả xấu nhất mà nó có thể đem lại. Đúng 7 phút sau, jacobs quay lại.
“Anh may mắn đấy.”
Tim Peter đập rộn lên. “anh tìm thấy gì chứ?”
“Có,” Jacobs đưa cho Peter một tờ giấy. “Người mà anh tìm có liên quan đến một vụ tai nạn giao thông khoảng một năm trước đây. Tên anh ta là Carl Gorman, làm việc tại khách sạn Monroe Arms.” Ông ta dừng lại, nhìn Peter thật kỹ. “Anh còn cần hỏi gì nữa về chuyện này không?”
“Không,” Peter đáp thật lòg. “Không còn gì nữa.”
“Frank Lonergan đang ở đường dây số 3, thưa bà Stewart. Anh ấy bảo có chuyện khẩn.”
“Tôi sẽ cầm máy cám ơn.” Leslie bấm nút. “Frank?”
“Bà ở đó một mình chứ?”
“Đúng vậy.”
Nàng nghe thấy tiếng anh ta hít một hơi rất sâu. “Ok, chúng ta có việc rồi.” Sau đó, Lonergan trình bày liền một hơi trong suốt 10 phút không nghỉ.
Leslie chạy như bay đến văn phòng của Matt Baker.
“Chúng ta phải nói chuyện, Matt,” nàng thở hổn hển và ngồi xuống chiếc ghế trước mặt ông. “Ông thấy thế nào nếu tôi bảo với ông là tổng thống có liên quan đến vụ Chloe Houston?”
“Ăn khách đấy. Nhưng tôi cho là bà đã đi quá xa.”
“Frank vừa gọi điện đến., Anh ấy đã nói chuyện với bà thống đốc Houston, bà ta không tin là Paul Yerby giết con gái mình. Frank cũng đã nói chuyện với bố mẹ của Paul, Họ cũng không tin là như vậy.”
“Tôi cũng không chờ việc họ tin,” Matt thủng thẳng, “Nếu đó là điều duy nhất bà muốn nói...”
“Mới chỉ là bắt đầu thôi. Frank đến gặp nhân viên khám nghiện thử thi. Chị ta bảo rằng chiếc thắt lưng mà cậu bé dùng để tự tử quấn vào cổ chặt đến nỗi người ta đã phải cắt đứt nó mới tháo ra được...”
Matt nghe chăm chú hơn. “Và...?”
“Frank đến nơi lưu giữ đồ đạc còn lại của Yerby. Chiếc thắt lưng lành nguyên không hề bị cắt xén gì hết.”
Matt thở dài. “Ý bà muốn nói là thằng bé đã bị giết trong nhà giam nhằm bịt miệng chứ gì?”
“Tôi chẳng định suy tưởng gì cả. Tôi chỉ đang tìm kiếm sự thật mà thôi. Đã một lần Oliver Russell thuyết phục tôi dùng Ecstasy dạng lỏng. Hồi ông ta đang tranh cử chức thống đốc bang, một cô gái đã chết trên sông Kentucky vì chất lỏng đó. Khi Oliver đã là thống đốc, người ta tìm thấy nữ thư ký của ông ấy bị nhiễm độc Ecstasy và bất tỉnh trong công viên. Lonergan biết rằng chính tổng thống, sau nhiều lần gọi điện đến thăm hỏi, cuối cùng đã chính thức gợi ý bệnh viện chấm dứt sự sống của cô gái ấy.” Leslie ngập ngừng một chút. “Có một cú phôn từ dẫy phòng Đế vương, hiện trường vụ án, đến Nhà Trắng, đúng vào đêm Chloe Houston bị giết. Trang của ngày 15 tháng 10 đã bị mất. Còn nữ thư ký chuyên trách xếp lịch làm việc cho tổng thống nói với Lonergan rằng ông ta có một cuộc gặp với tướng Whitman vào tối hôm Dó. Nhưng thực ra không hề có cuộc gặp ấy. Frank đã nói chuyện với thống đốc Houston, bà ta nói rằng nhân dịp Chloe đi tham quan Nhà Trắng, bà đã sắp đặt cho con gái gặp Tổng thống vào chiều hôm đó.”
Cả 2 cùng im lặng khá lâu. “Frank Lonergan bây giờ ở đâu?” Matt hỏi.
“Anh ấy đi tìm Carl Gorman, người nhân viên đã tiếp vị khách đặt phòng Đế Vương.”
Jeremy Robinson từ chối.”Xin lỗi, chúng tôi không được phép tiết lộ thông tin cá nhân của các nhân viên ở đây.”
“Thì tôi chỉ xin địa chỉ nhà riêng của anh ấy để...” Frank nài nỉ.
“Thật không may cho anh, Gorman đang đi nghỉ.”
Lonergan thở dài. “Ồ, thế thì tệ thật. Tôi cứ hy vọng anh ấy sẽ có điều kiện giúp tôi một số thông tin thiếu.”
“Thông tin gì?”
“À vâng. Chúng tôi đang viết về vụ con gái bà thống đốc Houston bị chết ở khách sạn này. Tôi chỉ định trao đổi tí chút với Gorman.” Anh lấy ra một quyển sổ, một cây bút. “Khách sạn này có từ khi nào nhỉ? Tôi muốn biết chút ít về lịch sử của nó, các khách hàng...”
Jeremy chau mày. “Chờ chút! Chắc chán là không cần đâu. Ý tôi là... cô ấy có thể bị sát hại ở đâu đó chứ...”
Frank nói vẻ đồng tình. “Tôi hiểu, nhưng chuyện đó lại xảy ra ở đây. Khách sạn của ông sắp nổi danh chẳnng kém gì vụ Watergate đâu.”
“Anh...?”
“Lonergan.”
“Anh Lonergan này. Tôi sẽ rất... rất cám ơn nếu anh có thể... ý tôi muốn nói là cái kiểu quảng cáo này sẽ rất bất lợi cho khách sạn chúng tôi. Liệu có cách nào khác...?”
Lonergan ra vẻ nghĩ ngợi một lát. “Ừ nhỉ, nếu gặp được Gorman, tôi cho là mình có thể tìm ra hướng đi mới đấy.”
“Quý hóa quá. Để tôi đi lấy địa chỉ cậu ta cho anh.”
Frank Lonergan thực sự lo lắng. Theo như những thông tin mà anh thu lượm được, vấn đề ngày càng trở nên sáng tỏ, hé lộ ra một vụ giết người cố ý và một vụ xóa dấu vết ở trình độ cao.
Trước khi đến gặp Gorman anh quyết định rẽ qua nhà một lát. Vợ anh Rita, đang trong bếp chuẩn bị bữa tối. Rita là một phụ nữ mảnh dẻ, tóc đỏ, mắt xanh long lanh và làn da thật mịn màng. Rita ngạc nhiên nhìn chồng bước vào.
“Frank, sao hôm nay anh lại về nhà vào giờ làm việc thế?”
“Thì em cứ coi như anh vừa từ trên trời rơi xuống và hãy chào anh đi.”
Cô nhìn anh. “Không, đã xẩy ra chuyện gì vậy?”
Anh ngập ngừng. “Đã bao lâu rồi em không gặp mẹ?”
“Em vừa gặp mẹ tuần trước. Nhưng sao cơ?”
“Em nên đi thăm mẹ lần nữa, ngay hôm nay. Bây giờ.”
“Có chuyện không ổn hả anh?”
Anh cười. “Chỉ không ổng ư?” rồi đến bên lò sưởi. “Có lẽ em sắp phải lau quét sạch sẽ cái lò sưởi này đấy. Chúng ta sẽ đặt giải thưởng Pulitzer (giải thưởng cao nhất về văn xuôi Mỹ) ở đây và cả một chiếc huy chương Peabody nữa.”
“Anh đang nói gì vậy?”
“Anh đang thu tập tài liệu để thổi bay một vài nhân vật. Ý anh là những nhân vật cỡ chóp bu ấy. Đây quả là câu chuyện thú vị nhất mà anh được tham gia vào.”
“Thế tại sao anh lại muốn em đi thăm mẹ?”
“Có chút nguy hiểm em ạ. Một số người sẽ không thích anh làm vụ này. Anh thấy sẽ tốt hơn nếu em đi xa khoảng vài ngày cho đến khi mọi việc kết thúc.”
“Nhưng anh đang bị nguy hiểm...”
“Anh sẽ không bị nguy hiểm. Anh chỉ bị nguy hiểm khi chúng dùng em để ra điều kiện.”
“Anh chắc chắn không có gì xảy ra với mình chứ?”
“Chắc chắn. Em hãy soạn đồ đi. Anh sẽ gọi điện cho em tối nay.”
“Thôi được.” Rita trả lời, vẻ miễn cưỡng.
Lonergan nhìn đồng hồ. “Anh sẽ đưa em ra ga.”
Một giờ sau, Lonergan dừng xe trước ngôi nhà gạch khiêm nhường nằm rong khu Wheaton. Anh ra khỏi xe, bước tới bên cửa và bấm chuông. Không có ai đáp lại (mở cửa). Anh lại bấm chuông lần nữa và đợi. Cánh cửa nặng nề bất chợt mở ra và một người phụ nữ to béo, tuổi trung niên nhìn anh với đôi mắt dò xét.
“Anh hỏi ai?”
“Tôi là người của ban theo dõi thuế thu nhập – IRS.” Lonergan nói và đường hoàng rút ra một tấm thẻ. “Tôi muốn gặp Carl Gorman.”
“Em trai tôi không ở đây.”
“Chị có biết anh ấy đang ở đâu không?”
“Không!” Câu trả lời tuột ra quá nhanh.
Lonergan gật gù. “Tiếc thật, thôi cũng không sao. Chị có thể thu xếp đồ đạc của anh ấy. Tôi quay về Sở và cho xe tải đến ngay bây giờ đây.” Lonergan làm ra vẻ bỏ đi.
“Chờ chút đã! Xe tải nào cơ? Anh nói chuyện gì vậy?”
Lonergan dừng lại. “Em trai chị không nói gì à?”
“Nói gì cơ?”
Lonergan xoay mình nhìn thẳng vào người phụ nữ. “Anh ấy đang gặp rắc rối.”
Chị ta nhìn anh lo lắng. “Rắc rối gì ạ?”
“Xin lỗi, tôi không được tự tiện nói về chuyện này,” anh lắc đầu, “anh ấy có vẻ là một chàng trai dễ thương đấy nhỉ?”
“Phải,” chị ta nói vẻ thiết tha, “Carl là người rất tuyệt vời.”
Lonergan gật đầu. “Đấy cũng là cảm giác của tôi khi tôi thẩm tra cậu ta.”
Chị gái Carl lo lắng. “Thẩm tra nó về chuyện gì?”
“Gian dối trong khai báo thuế thu nhập. Thật tội quá. Tôi muốn đến mách cho cậu ấy cách giải quyết vụ này, nhưng...” Anh nhún vai, “Đành vậy, nếu cậu ấy không có ở đây...” anh lại quay đi.
“Chờ đã! Nó... nó đang ở khu câu cá. Tôi ... tôi được dặn là không nói với bất cứ ai.”
“Thậm chí cả với tôi?”
“Không, anh lại là chuyện khác. Nó đang ở trại câu cá Sunshine bên hồ Richmond, bang Virginia.”
“Thôi được, tôi sẽ đến đó tìm cậu ấy.”
“Thế thì hay quá. Anh dám chắc là chuyện của nó sẽ ổn thỏa chứ?”
“Hoàn toàn chắc,” anh quả quyết, “tôi sẽ giúp cậu ấy giải quyết chuyện này.”
Lonergan cho xe chạy thẳng về phía nam. Richmond nằm cách đó khoảng 100 dặm. Trong những kỳ nghỉ hè, cách đây vài năm, Lonergan thường về đấy nghỉ ngơi, câu cá, và thường gặp may. Hy vọng lần này anh cũng gặp may như vậy.
Trời hơi mưa, nhưng Carl Gorman chẳng hề quan tâm. Đây là lúc cá sắp đớp mồi. Anh ta đang săn loại cá vược vằn. Mấy chiếc cần câu đã mắc sẵn mồi đặt ở phía sau con thuyền có mái chèo. Sóng vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền đang lênh đênh giữa hồ. Hình như mồi câu vẫn chưa đủ sức hấp dẫn với lũ cá. Chúng có vẻ không vội vàng. Anh ta cũng chẳng sốt ruột gì cả. Chưa bao giờ Gorman vui hơn bây giờ. Anh ta sắp sửa giàu to. Giàu hơn cả những gì hằng mơ đến. Đúng là một may mắn không ngờ. Mình đã ở đúng nơi, đúng lúc.
Anh ta quay lại khách sạn Monroe Arms để lấy chiếc áo jacket bị bỏ quên và vừa định rời bãi đậu xe thì cửa thang máy riêng dẫn lên dẫy phòng Đế Vương bật mở. Khi nhìn thấy người đàn ông bước ra, Carl Gorman ngồi chết lặng trong xe, không động cựa nổi. Rồi Carl thấy ông ta quay lại, lấy khăn tay lau chuì kỹ lưỡng các nút bấm của thang máy rồi ra xe và lái đi.
Song chuyện này cũng sẽ bị quên đi nếu sáng hôm sau Carl không đọc tin một cô gái bị chết trên dãy phòng Đế vương của khách sạn Monroe Arms đăng trên báo. Anh ta sắp xếp các chi tiết lại với nhau. Phần nào, Gorman thấy tiếc cho người đàn ông kia. Mình thực sự ngưỡng mộ ông ấy. Rắc rối là ở chỗ, khi bạn là một người nổi tiếng, bạn sẽ không thể giấu mặt vào đâu được. Dù bạn đi bất cứ đâu thì cả thế giới cũng nhận ra bạn. Ông ta sẽ phải trả tiền mình để mình im lặng. Ông ta không còn cách nào khác. Mình sẽ bắt đầu với 100 000 đôla. Ông ta đã trả một lần thì sẽ phải trả mãi mãi. Có thể mình sẽ mua 1 lâu đài ở Pháp hay 1 biệt thự ở Thụy Sĩ...
Carl cảm thấy dây câu bị giật mạnh và tiếng vặn răng rắc của cần. Anh ta có thể cảm nhận được sự cố gắng thoát ra của con cá. Mày không chạy được đâu. Mày đã cắn câu rồi.
Trong khoảnh khắc, Carl nghe thấy tiếng động cơ của xuống máy đang tiến lại gần. Họ đâu có cho phép thuyền gắn động cơ vào hồ nhỉ. Chúng sẽ làm bọn cá chạy mất thôi. Chiếc xuồng máy chạy phăng phăng về phía Carl.
“Này, đừng lại gần như thế,” Carl la lên.
Chiếc xuồng máy vẫn không có vẻ muốn đổi hướng hoặc dừng lại.
“Này, cẩn thận đấy. Có mắt không hả? Mẹ kiếp...” Chiếc xuồng máy chồm thẳng vào con thuyền câu, chẻ nó ra làm đôi và hất tung Carl xuống.
Ngột thở quá! Carl gắng nhô đầu lên khỏi mặt nước. Chiếc xuồng máy vòng lại và nhằm thẳng vào Carl lao tới . Điều cuối cùng cùng Catrl Cảm nhận được trước khi chiếc xuống húc vào đầu anh ta là con cá vẫn đang cố giật ra khỏi lưỡi câu.
Khi Frank Lonergan đến nơi, vùng hồ đã chật kín xe cảnh sát. Có cả một xe cứu thương đang nhấp nháy chạy đi. Frank ra khỏi xe và hỏi người đứng bên. “Có chuyện gì mà nhộn nhạo lên thế?”
“Một chàng trai khốn khổ nào đấy bị tai nạn trên hồ. Anh ta chẳng còn gì nhiều...”
Lonergan hiểu ra ngay mọi chuyện.
Đúng nửa đêm , Frank Lonergan vẫn một mình cần mẫn làm việc trên máy vi tính.Anh đang viết câu chuyện có thể lật nhào tổng thống Hoa Kỳ. Bài báo sẽ đem lại cho anh giải Pulitzer. Không còn nghi ngờ gì nữa. Sự kiện này sẽ giúp anh nổi tiếng hơn cả Woodward và Bernsters. Đây chắc chắn sẽ là câu chuyện của thế kỷ.
Tiếng chuông cửa cắt ngang luồng suy nghĩ của anh. Anh đứng dậy và đi ra. “Ai đấy?”
“Có bưu phẩm của bà Leslie Stewart gửi cho anh đây.”
Bà ta có tin mới đây. Anh mở cửa. Một tia sáng kim loại ánh lên và xẻ đôi giữa ngực anh.
Mọi sự sau đó lại chìm trong yên tĩnh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 22:56:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20 -

Phòng khách nhà Frank Lonergan như vừa trải qua một cơn bão. Tất cả các ngăn kéo và cửa tủ đều mở toang, đồ đạc vung vãi khắp trên sàn nhà.
Nick Reese đứng nhìn người ta mang thi thể Frank Lonergan đi. Ông quay sang thám tử Steve Brown hỏi: “Có thấy hung khí giết không ?”
“Không.”
“Anh đã nói chuyện với những người hàng xóm chưa?”
“Rồi. Cả dãy nhà này là vườn thú, toàn khỉ. Không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, không nói điều gì. Thế đấy. Bà Rita đang trên đường về đây. Bà đã nghe được tin này qua radio. Trong vòng 6 tháng nay ở đây xảy ra 2 vụ cướp, và...”
“Tôi không nghĩ đây là một vụ cướp bóc.”
“Ý anh là gì?”
“Lonergan được lệnh của bà chủ báo Tribune điều tra về chuyện Paul Yerby. Tôi muốn biết anh ấy đang viết cái gì. Chẳng còn mảnh giấy nào trong các ngăn kéo phải không?”
“Sạch sẽ.”
“Không một ghi chép?”
“Đúng vậy.”
“Vậy có thể anh ấy là người rất gọn gàng, hoặc có thề ai đó đã lượm đi hết.”
Reese đi lại phía bàn làm việc. Ở đó lủng lẳng một sợi dây cáp, chẳng nối vào đâu cả. Ông đỡ sợi dây, hỏi. “Cái gì đây?”
Thám thử Brown đi ra. “Đây là dây dùng cho máy vi tính. Chắc chắn ở đây phải có chiếc máy đó, cũng có nghĩa là bản sao có thể đang ở đâu đây.”
“Chắc chúng đã mang cái máy đi, nhưng hẳn Lonergan đã giữ lại bản sao tư liệu của ông ấy. Chúng ta thử kiểm tra bên ngoài xem sao.”
Họ tìm thấy một cái điõa lưu cất trong chiếc cặp để ở xe hơi của Lonergan. Reese đưa cho Brown.
“Tôi muốn anh mang cái đĩa này về trụ sở. Có lẽ phải có mật lệnh mới mở được. Hãy nói Chris Colby xem thử. Anh ấy là chuyên gia đấy.”
Cánh cửa hé mở, Rita Lonergan bước vào, mặt tái nhợt vì đau khổ và kinh hãi. Cô đứng khựng lại khi thấy mấy người đàn ông ở đó.
“Bà là bà Lonergan?”
“Các anh là ai?”
“Thanh tra Nick Reese. Còn đây là thám tử Brown.”
Rita Lonergan nhìn quanh. “Đâu rồi...?”
“Chúng tôi đã chuyển thi thể chồng bà đi rồi, bà Lonergan ạ. Tôi xin thật vô cùng xin lỗi, tôi biết lúc này bà rất buồn nhưng tôi muốn hỏi bà mấy câu.”
Rita nhìn ông, đôi mắt bỗng trở nên sợ hãi. Reese chờ đợi phản ứng đó. Bà ấy sợ gì?
Tiếng Lonergan vang lên trong đầu Rita. “Anh đang thu tập tài liệu... Ý anh là những nhân vật cỡ chóp bu ấy. Câu chuyện thú vị nhất mà anh được tham gia vào.”
“Bà Lonergan?”
“Tôi... tôi không biết gì cả.”
“Bà không biết chồng bà đang viết về vụ gì sao?”
“Không, Frank không bao giờ nói với tôi về công việc của anh ấy.”
Rõ ràng là bà ta nói dối.
“Bà có nghĩ là ai đã có thể giết chồng mình không?”
Bà nhìn các ngăn kéo và cửa tủ bị mở tung. “Đây chắc là một vụ trộm.”
Reese và Brown nhìn nhau.
“Các ông làm ơn để tôi một mình được không? Đây quả là một việc khủng khiếp, quá sức chịu đựng của tôi.”
“Vâng, tất nhiên. Chúng tôi có thể giúp gì cho bà không?”
“Không. Chỉ cần... Chỉ cần các ông đi khỏi.”
“Chúng tôi sẽ trở lại.” Nick Reese khẳng định.
Khi thanh tra Reese về tới sở cảnh sát, ông gọi cho Matt Baker. “Tôi đang điều tra về vụ giết hại Frank Lonergan.” Reese nói. “Anh có thể nói cho tôi biết anh ấy đang theo vụ gì không?”
“Vâng. Frank đang theo vụ Chloe Houston.”
“Tôi hiểu rồi. Anh ấy có ghi lại gì không?”
“Không. Chúng tôi đang đợi bản báo cáo, thì...” Ông dừng lại.
“Được rồi. Cảm ơn anh Baker.”
“Nếu anh có tin gì, nhớ báo tôi biết.”
“Anh sẽ là người đầu tiên được biết.”
Reese khẳng định.
Sáng hôm sau, Dana Evans tới văn phòng Tom Hawkin. “Tôi muốn làm rõ về cái chết của Frank. Tôi tới gặp bà vợ góa của anh ấy đây.”
“Rất hay. Tôi sẽ tổ chức cho cô một nhóm quay phim.”
Trưa hôm đó, Dana và các đồng sự kéo đến nhà Frank Lonergan. Nàng bấm chuông cửa. Đây là loại phỏng vấn mà nàng ngại nhất. Thật là tồi tệ phải trưng lên TV hình ảnh về các nạn nhân của những tội ác khủng khiếp. Song nếu trốn tránh hoặïc thờ ơ trước những nỗi đau ấy thì dường như đối với nàng, còn tồi tệ hơn gấp nhiều lần.
Cửa mở và Rita Lonergan đứng trước mặt Dana. “Chị cần...?”
“Tôi xin lỗi đã làm phiền bà, bà Lonergan. Tôi là Dana Evans, phóng viên của kênh truyền hình WTE. Chúng tôi muốn biết phản ứng của bà về...”
Rita Lonergan đờ người ra một lúc, rồi thét lên. “Các người là kẻ sát nhân.” Cô ta quay người chạy vào trong.
Dana nhìn người quay phim, ngạc nhiên. “Đợi ở đây một chút.” Nàng đi vào nhà và thấy Rita Lonergan đang ngồi trong phòng ngủ. “Bà Lonergan...”
“Đi ra! Cô đã giết chống tôi.”
Dana lúng túng. “Bà đang nói về chuyện gì vậy?”
“Tờ báo của cô đã cô đã giao cho anh ấy một công việc nguy hiểm. Không chỉ với anh ấy. Bởi vì anh ấy còn bắt tôi dọn về ở với mẹ, tức là cũng có thể nguy hiểm cả cho tôi. Có phải đúng là các người đã giết anh ấy không?”
Dana nhẹ nhàng, gần như thầm thì. “Vâng, chúng tôi cũng có một phần trách nhiệm. Bà có biết Frank đang theo vụ gì, viết về chuyện gì không?”
“Frank không nói cho tôi biết.” Rita gào lên. “Anh chỉ nói nó vô cùng nguy hiểm. Nói về ai đó có quyền hành rất cao. Nói về giải Pulitzer và về...” Cô gục xuốc, òa khóc.
Dana đi tới, choàng tay ôm lấy Rita. “Tôi xin lỗi. Chúng ta hãy giúp nhau đi. Frank còn nói gì nữa không?”
“Hết rồi . Anh chỉ khuyên tôi nên lánh đi. Rồi chở tôi ra ga. Rồi bảo sẽ đi gặp một nhân viên nào đó của khách sạn...”
“Khách sạn gì?”
“Monroe Arms.”
“Tôi không rõ vì sao cô ở đây, cô Evans.” Jeremy Robinson nói. “Lonergan hứa với tôi rằng nếu tôi hợp tác, thì anh ấy sẽ không để lộ tên khách sạn.”
“Ông Robinson, Lonergan đã chết. Tôi chỉ cần chút ít thông tin.”
Jeremy Robinson lắc đầu. “Tôi chẳng biết gì cả.”
“Ông đã nói gì với Lonergan?”
Robinson thở dài. “Ông ấy hỏi tôi địa chỉ của Carl Gorman, nhân viên ở đây. Tôi đã cho ông ấy biết.”
“Ông Lonergan có đến gặp anh ta không?”
“Tôi không rõ.”
“Tôi muốn biết địa chỉ đó.”
Jeremy nhìn nàng một lúc rồi lại thở dài: “Được thôi. Anh ta sống với chị gái.”
Sau vài phút, Dana đã có địa chỉ trong tay. Khi nàng vừa rời khách sạn, Robinson nhấc điện thoại lên và gọi đến Nhà Trắng.
Ông muốn biết vì sao họ lại quá quan tâm đến vụ này?
Chris Colby, chuyên gia máy tính, đi như chạy vào phòng thanh tra Reese, tay vung vẩy chiếc đĩa mềm, gần như run lên vì phấn khích.
“Cậu thu thập được cái gì vậy?” Thanh tra Reese hỏi. Chris Colby hít mội hơi dài. “Chuyện này sẽ làm anh bất ngờ đấy. Đây là dữ liệu của cái đĩa này.” Vừa nói Colby vừa nhét chiếc đĩa vào ổ não máy vi tính đặt trên bàn Reese.
Thanh tra Reese đọc và không tin nổi vào mắt mình nữa. “Lạy Đức Mẹ đồng trinh. Tôi phải cho đại úy Miller xem mới dược.”
Đọc xong, đại úy Otto Miller nhìn thanh tra Reese.
“Tôi... tôi chưa bao giờ... hình dung nổi những chuyện... kiểu như thế này.”
“Chưa từng có. Chính tôi cũng vậy. Ta sẽ làm gì với nó đây?”
“Tôi nghĩ ta phải chuyển nó tới bà Trưởng Lý liên bang Hoa Kỳ.” Đại úy Miller nói.
Họ cùng có mặt trong văn phòng của bà trưởng lý liên bang Barbara Gatlin.
Trong phòng còn có Giám Đốc cơ quan điều tra liên bang FBI Scott Brandon, cảnh sát trưởng Washington Dean Bergstrom, giám đốc cục tình báo trung ương CIA James Frisch và chánh án tòa án tối cao liên bang Edgar Graves.
Barbara Gatlin nói: “Tôi mời các vị tới đây bởi tôi cần lời khuyên của các vị. thẳng thắng mà nói, tôi không biết cách xử lý nào. Chúng ta gặp phải một tình huống độc nhất vô nhị. Frank Lonergan là phóng viên của tờ Washington Tribune, đã bị sát hại khi đang điều tra về cái chết của Chloe Houston. Tôi sẽ đọc cho các vị nghe bản sao từ chiếc đĩa mà cảnh sát đã tìm thấy trong xe hơi của Lonergan.” Bà nhìn vào tờ giấy đang cầm trên tay và đọc to:
“Tôi đã có lý do để tin rằng Tổng Thống Hoa Kỳ đã giết hại ít nhất 3 sinh mạng và liên quan đến 4 cái chết khác.”
“Sao cơ?” Scott Brandon thốt lên.
“Để tôi đọc tiếp.”
Tôi có được những thông tin sau từ nhiều nguồn khác nhau. Leslie Stewart, bà chủ của tờ Washington Tribune sẵn sàng thề rằng đã có lần Oliver Russell cố thuyết phục bà dùng một loại chất lỏng được gọi là chất gây ảo giác Ecstasy.
Khi Oliver Russell còn là thống đốc bang Kentucky; Lisa Burnette, nữ thư ký làm việc tại trụ sở Quốc Hội, dọa sẽ kiện ông vì tội quấy rối tình dục. Russell nói với đồng nghiệp ông sẽ đàm phán với cô ta. Hôm sau, người ta tìm thấy xác Lisa Burnette trên sông Kentucky. Cô chết vì dùng quá liều thuốc Ecstasy.
Vài năm sau, cô Miriam Friedland, thư ký của thống đốc Rusell được tìm thấy nằm bất tỉnh trong đêm trên chiếc ghế đá công viên. Cô bị hôn mê do sử dụng Ecstasy dạng lỏng. Cảnh sát chờ đợ cô tỉnh lại để hỏi xem ai là người đưa thuốc cho cô. Tổng thống Oliver Russell đã gọi điện đến bệnh viện và gợi ý cho các bác sĩ chấm dứt tình trạng hônmê của Miriam với lý do nhân đạo. Miriam Friedman qua đời vẫn trong tình trạng hôn mê như ngày vào viện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 19-12-2011 22:59:31 | Chỉ xem của tác giả
Chloe Houston bị chết do dùng quá liều thuốc ảo giác Ecstasy. Tôi biết được, vào đên Chloe chết, có một cú phôn từ dãy phòng Đế Vương của khách sạn Monrroe Arms, nơi cô bé bị giết hại, tới nhà Trắng. Khi tôi kiểm tra bản lưu giữ các cuộc gọi của khách sạn thì tờ giấy ghi ngày hôm đó đã bị xé.
Người ta nói với tôi là tổng thống có cuộc họp tối hôm đó, nhưng tôi biết cuộc họp đã bị hủy bỏ. Và không ai biết đêm đó tổng thống đã ở đâu.
Paul Yerby bị bắt vì cảnh sát tình nghi cậu ta dính líu vào cái chết của Chloe Houston. Đại úy Otto Miller báo cáo cho Nhà Trắng biết nơi giam giữ Yerby. Sáng hôm sau, người ta phát hiện Yerby đã chết. Xét nghiệm cho thấy Yerby đã treo cổ bằng chính chiếc thắt lưng quần của mình. Nó xiết vào cổ cậu ta chặt đến mức phải dùng dao để cắt mới gỡ được ra. Nhưng chính tôi, khi xem xét số vật dụng còn lại của Yerby để ở đồn cảnh sát, thì thấy chiếc thắt lưng của câu ta vẫn còn đó, nguyên vẹn.
Qua một người bạn ở cục điều tra liên bang FBI tôi được biết, có một bức thư tống tiền đã giử tới Nhà Trắng. Tổng thống Russell yêu cầu FBI kiểm tra dấu vân tay. hầu hết bức thư đã bị tẩy xóa, nhưng nhờ có những phương tiện đặc biệt, FBI đã giải mã được bức thư.
Dấu tay trên lá thư là của Carl Gorman, nhân viên khách sạn Monroe Arms, có lẽ đây là người duy nhất biết được ai đã thuê dãy phòng đế vương, nơi cô bé Chloe bị giết. Gorman đang ở trại câu cá, nhưng tên anh ta đã bay tới tận Nhà trắng. Khi tôi đến khu trại, Gorman đã bị giết trong tình huống có vẻ như một vụ tai nạn.
Có quá nhiều mối liên hệ ngẫu nhiên về những cái chết này. Tôi vẫn tiếp tục điều tra, nhưng thú thật, tôi rất sợ. Nên tôi phải lưu lại đây những gì mình biết, phòng trường hợp tôi có gặp rủi ro nào đó, các vị còn có cơ sở để điều tra cho rõ ngọn ngành.”
“Lạy Chúa tôi,” James Frisch giám dốc CIA thốt lên, “thật... kinh khủng.”
“Không thể tin được.” Scott Brandon, giám đốc FBI thở dài.
Bà Trưởng lý Gatlin nói. “Lonergan tin điều đó. Có lẽ anh ấy bị giết để thông tin này không bị lộ ra ngoài.”
“Giờ chúng ta phải làm gì?” Chánh án Graves hỏi. “Làm sao bà có thể hỏi tống thống Hoa Kỳ rằng có phải ông đã giết tới 6 mạng dân Mỹ không?”
“Câu hỏi khá đấy. Buộc tội tổng thống sao? Bắt ngài ư? Bỏ tù ngài ư?”
“Trước khi làm bất cứ điều gì tôi nghĩ chúng ta sẽ phải giử bản sao này cho chính tổng thống, để ngài có cơ hội thanh minh.”
Mọi người ầm ừ ưng chịu.
“Trong lúc chờ đợi, tôi sẽ xin giấy bắt tổng thống. Chỉ là để là để khi cần.”
Một trong số những người có mắt tronng phòng nghĩ bụng. Mình phải báo cho Peter Tager.
Peter Tager đặt điện thoại xuống và ngồi lặng đi rất lâu, suy tính cách xử lý thônng tin vừa nhận được. Rồi ông ta đi xuống phòng Deborah Kanner.
“Tôi phải gặp tổngthống.”
“Ngài đang bận họp. Ông có thể...”
“Tôi phải gặp ngài ngay, Deborah. Việc gấp đấy.”
Deborah nhấc máy điện thoại lên ấn nút: “Thưa tổng thống, xin lỗi vì đã cắt ngang. Ông Tager đang ở đây, ông ấy nói có việc cần gặp ngài.” Cô nghe một lát. “Cám ơn ngài,” rồi đặt máy xuống, cô quay sang Tager, “5 phút nữa.”
Năm phút sau, trong phòng riêng của tổng thống Russell.
“Có gì quan trọng vậy, Peter?” Tổng thống hỏi.
Tager hít một hơi . “Bà Trưởng Lý và FBI nghĩ rằng anh có liên quan đến 6 vụ giết người.”
Oliver mỉm cười. “Chỉ là chuyện đùa...”
“Đùa à? Họ đang tới đây. Họ nghĩ anh đã giết Chloe Houston và...”
Oliver tái mặt. “Gì cơ?”
“Tôi biết điều đó thật điên rồ. Từ những gì tôi được nghe, tất cả các chứng cứ đều không có cơ sở. Tôi chắc anh có thể giải thích được anh ở đâu vào cái đêm cô bé bị giết.”
Oliver lặng thinh. Peter Tager chờ đợi. “Oliver, anh có thể giải trình được không?”
Oliver nuốt nước bọt. “Không, tôi không thể.”
“Anh PHẢI giải thích được.”
Oliver khó khăn nói. “Peter, tôi cần ở một mình .”
Peter Tager gặp Nghị Sĩ Davis tại tòa nhà Quốc Hội.
“Có chuyện gì gấp thế, Peter?”
“Về... về Tổng thống.”
“Chuyện gì?”
“Bà Trưởng Lý và FBI nghĩ Oliver là kẻ giết người.”
Nghị sĩ Davis nhìn chằm chằm vào Tager. “Quỉ tha ma bắt hay sao mà anh nói vậy?”
“Họ buộc tội Oliver đã giết vô số người. Tôi biết được nhờ một người bạn làm trong FBI.”
Tager kể lại cho nghị sĩ Davis về thông tin vừa nhận được. Nghe Tager kể xong, nghị sĩ Davis chậm rãi hỏi: “Anh có biết điều đó nghĩa là gì không?”
“Có. thưa ngài. Có nghĩa là Oliver...”
“Oliver chó chết. Tôi đã mất nhiều năm đưa hắn tới chỗ tôi muốn. Tôi không quan tâm chuyện gì sẽ xảy ra với hắn. Tôi là người điều khiển, Peter ạ. Tôi có quyền lực. Tôi sẽ không để đồ ngu xuẩn đó làm mất quyền hành của tôi. Tôi không cho phép bất cứ ai làm thế!”
“Tôi không biết ngài có thể...”
“Anh nói các chứng cứ đều không có cơ sở phải không?”
“Đúng vậy. Tôi được biết họ khó có thể chứng minh được. Nhưng tổng thống lại không có bằng chứng ngoại phạm.”
“Bây giờ tổng thống ở đâu?”
“Trong phòng của ngài.”
“Tôi có tin tốt lành cho ngài đây.” Nghị sĩ Davis lẩm bẩm.
Nghị sĩ Davis đang đối mặt với Oliver trong phòng Tổng thống. “Tôi được biết có một số chuyện phiền phức, Oliver ạ. Tất nhiên tôi cho đó là chuyện vớ vẩn. Tôi không hiểu ai đó có thể nghĩ là anh...”
“Con đang nát óc ra đây. Con không làm gì sai cả, Todd ạ.”
“Tôi cũng nghĩ là anh không làm gì. Song để những ngờ vực đó xảy ra, dù chỉ là ngờ vực, liệu anh có thể tiên đoán được hậu quả của nó với chúng ta chứ?”
“Tất nhiên, nhưng...”
“Anh là người quan trọng, không thể để nó xảy ra, dù là nghi ngờ hay đồn đại. Chúng ta giữ vai trò kiểm soát thế giới. Anh quên rồi ư? Anh có định từ bỏ nó không?”
“Todd, con chẳng có tội gì hết. Con không giết ai. Cũng không liên quan tới cái chết nào.”
“Nhưng họ đang nghĩ là anh CÓ. Tôi còn được biết anh đã không tìm ra nổi bằng chứng ngoại phạm vào tối hôm cô bé Chloe Houston bị giết, có đúng khônng?”
Im lặng một lát. “Vâng.”
Nghị sĩ Davis cười. “Trí nhớ của anh bị sao vậy, con trai? Tối đó anh ở cùng tôi mà. Chúng ta đã ngồi cùng nhau suốt cả buổi tối.”
Oliver nhìn bố vợ, bối rối: “Gì ạ?”
“Ổn thôi. Tôi là chứng cớ ngoại phạm của anh. Không ai thẩm vấn tôi đâu. Không ai cả. Tôi sẽ cứu anh, Oliver ạ.”
Cả 2 im lặng một lúc lâu. Oliver nói. “Todd, cha muốn đổi lấy cái gì?”
Nghị sĩ Davis gật gù. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ hội nghị Hòa Bình Trung Đông. Anh sẽ hoãn nó lại, rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Tôi có kế hoạch lớn đây. Chúng ta sẽ không để bất cứ chuyện gì làm hỏng kế hoạch đó.”
Oliver nói. “Con sẽ vẫn tiến hành Hội Nghị Hòa Bình.”
Nghị sĩ Davis nheo mắt. “Anh nói gì?”
“Con quyết định vẫn tiến hành. Cha thấy đấy, điều quan trọng không phải là vị tổng thống sẽ ngồi trên ghế của mình bao lâu, Todd ạ, mà là ông ta làm được gì khi giữ chức đó.”
Nghị sỉ Davis đỏ mặt. “Anh có biết mình đang là gì không?”
“Có.”
“Tôi lại nghĩ anh không biết. Bọn họ đang trên đường đến đây để buộc anh vào tội giết người đấy, Oliver. Rồi anh sẽ giải quyết những công việc chó chết của mình ở đâu, từ nhà tù à? Anh vừa ném cả cuộc đời mình đi đấy, thằng khờ ạ.”
Một giọng vang lên từ điện toại. “Thưa tổng thống, có mấy người muốn gặp ngài. Bà Trưởng Lý Gatlin, ông Brandon của FBI, ngài chánh án Graves, và...”
“Để họ vào.”
Nghị sĩ Davis cười gằn. “Đến hồi kết rồi đây, tổng thống. Tôi có lỗi nhiều với anh, Oliver ạ. Nhưng còn anh, anh có lỗi nhiều hơn với chính cuộc đời mình. Tôi sẽ hủy diệt anh.”
Cửa mở, bà Trưởng Lý Gatlin bước vào, theo sau là Brandon, Graves và Bergstrom.
Thẩn Phán Graves nói: “Chào Nghị Sĩ Davis...”
Todd Davis lặng lẽ gật đầu rồi bước ra khỏi phòng. Barbara Gatlin đóng cửa lại. Bà tiến về phía trước.
“Thưa ngài tổng thống, thật ngại, nhưng tôi mong ngài sẽ hiểu. Chúng tôi phải hỏi ngài vài câu.”
Oliver nhìn thẳng. “Tôi đã được biết vì sao các vị đến đây. Tất nhiên tôi chẳng liên quan gì đến bất cứ cái chết nào.”
“Tôi chắc chắn rằng tất cả chúngtôi đều nhẹ nhõm khi nghe được điều này, thưa Tổng thống.” Scott Brandon nói: “Tôi cũng muốn nói với ngài rằng không ai trong chúng tôi thật sự tin là ngài có dính líu. Nhưng đã có lời tố cáo, chúng tôi không còn cách nào khác là phải điều tra.”
“Tôi hiểu.”
“Thưa tổng thống, ngài có thể nói cho chúng tôi biết tối hôm 15 tháng 10 ngài đã ở đâu không? Đó là buổi tối hôm Chloe Houston chết...”
Cả phòng im lặng.
“Thưa tổng thống?”
“Tôi xin lỗi . Tôi không thể.”
“Nhưng chắc chắn là ngài có nhớ ngài đã ở đâu hoặc làm gì vào tối hôm đó chứ?”
Im lặng.
“Thưa tổng thống?”
“Tôi, tôi không thể nghĩ ngay bây giờ được. Tôi mong các vị sẽ trở lại sau.”
“Bao lâu nữa?” Bergstrom hỏi.
“Tám giờ.”
Oliver nhìn họ đi khỏi rồi đứng dậy, bước chậm chạp đi sang phòng khách nhỏ có Jan đang làm việc ở đó. Bà ngẩng lên khi ông bước vào, ngạc nhiên trước vẻ khác lạ hiện rõ trên gương mặt ông.
Hít một hơi thật sâu, Oliver nói. “Jan, anh... anh phải thú nhận với em là...”
Nghị sĩ Davis đang trong cơn thịnh nộ. “Sao ta lại có thể ngu đến thế cơ chứ? Ta đã đánh giá sai, cất nhắc lầm người. Hắn ta đang cố tình phá hỏng mọi thứ mà ta đã hết lòng tạo dựng. Ta sẽ phải dạy cho hắn bài học dành cho những kẻ muốn phản bội ta.” Ông ngồi bên bàn một lúc lâu, quyết định mình sẽ phải làm gì. Rồi ông nhấc điện thoại lên, quay số.
“Cô Stewart, tôi còn nhớ cô đã nói với tôi, khi nào có gì mới thì gọi cho cô.”
“Vâng , tôi xin nghe, thưa nghị sĩ.”
“Hãy nói những gì tôi muốn trước đã. Kể từ đây, tâôi trông chờ toàn bộ vào sự giúp đỡ của tờ Washington Tribune: Tham gia chiến dịch, các bài xã luận, phỏng vấn...”
“Để tôi sẽ nhận được cái gì?” Leslie ngắt lời ông ta.
“Tổng thống Hoa kỳ. Bà Trưởng Lý vừa được cho phép bắt tổng thống vì liên quan đến vài vụ giết người.”
Có tiếng thở mạnh. “Ngài nói tiếp đi, nghị sĩ Davis.”
Leslie Stewart nói nhanh đến nỗi Matt Baker ù hết cả đầu. “Vì Chúa, hãy chậm thôi,” Ông chặn lại, “bà đang nói gì vậy?”
“Tổng thống của chúng ta! Chúng ta đã túm được ông ấy, Matt! Tôi vừa nói chuyện với Nghị sĩ Todd Davis. Chánh án tóa án Tối Cao, giám đốc CIA, giám đốc FBI và Trưởng Lý Hoa kỳ đang ở văn phòng tổng thống với lệnh bắt ông ta vì tội giết người. Có một đống bằng chứng chống lại tổng thống, Matt ạ. Ông ta lại không có chứng cứ ngoại phạm. Thật là chuyện giật gân của thế kỷ!”
“Bà không thể cho đăng lên cái tin ấy được.” Matt nói như ra lệnh.
Nàng nhìn ông đầy ngạc nhiên. “Ý ông là gì?”
“Leslie, chuyện này quá lớn, không quyết định vội vã được. Ý tôi là nó cần được kiểm tra đi kiểm tra lại.”
“Kiểm tra cho đến khi nó xuất hiện trên trang nhất của tờ Washinton Post chứ gì? Không, cám ơn ông. Tôi sẽ không để lỡ dịp này đâu.”
“Bà không thể buộc tội tổng thống đã giết người mà không có...”
Leslie cười. “Tôi sẽ không làm thế, Matt ạ. Những gì chúng ta làm là chỉ đưa ra một sự thật, rằng đã có lệnh bắt tổng thống. Thế là đủ để phá ông ấy.”
“Nghị sĩ Davis đã...”
... “Đã lật chính con rể mình. Ông ta tin là tổng thống có tội. Ông ta nói vậy với tôi.”
“Thế chưa đủ. Chúng ta sẽ xác minh thêm chút đã, rồi...”
“Với ai? Katherine Graham ư? Ông mất trí rồi à? Chúng ta sẽ cho ra luôn, hoặc chúng ta sẽ mất cơ hội này.”
“Tôi không thể để bà đăng lên mặt báo của bà cái tin động trời này mà không xác minh cẩn thận.”
“Thế ông định sẽ hỏi ai? Đây là tờ báo của tôi, tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi muốn.”
Matt Baker đứng dậy.”Như vậy là vô trách nhiệm. Tôi sẽ không cho bất cứ phóng viên nào của tôi viết bài này.”
“Họ không phải viết đâu. Tự tôi sẽ viết.”
“Leslie, nếu bà làm thế, tôi sẽ đi. Vì chúa.”
“Không, ông không đi, Matt. Ông và tôi sẽ cùng nhau chia giải Pulitzer.” Nàng nhìn theo ông bước ra khỏi phòng, lẩm bẩm. “Ông ấy sẽ quay lại.”
Leslie ấn nút nội đàm. “Gọi giúp tôi Zoltaire tới đây.”
Leslie nhìn Zoltaire, hỏi: “Tôi muốn biết về mình trong 24 giờ tới.”
“Được, thưa bà Stewart. Rất hân hạnh được phục vụ bà.” Zoltaire cầm lên quyển chiêm tinh học và mở ra. Ông xem xét, tính toán một lúc rồi trợn tròn mắt.
“Gì vậy?”
Zoltaire nhìn lên: “Tôi... điều gì đó rất quan trọng dường như sắp xảy ra.” Ông ta chỉ vào trang sách. “Bà nhìn này. Sao Hỏa sẽ cắt quỹ đạo sao Diêm vương của bà trong 3 ngày, tạo nên một khoảng trống nguy hiểm...”
“Không sao đâu,” Leslie sốt ruột. “Nói sang chuyện đuổi bắt ấy đi.”
Zoltaire chớp chớp mắt. “Cuộc đuổi bắt ư? À vâng!” Ông ta lại nhìn vào sách. “Một sự kiện lớn đang xảy ra. bà đã đi được nửa đường. Bà sắp nổi tiếng, thậm chí hơn cả bây giờ. bà Stewart. Cả thế giới sẽ biết tới bà.”
Trong lòng Leslie tràn ngập cảm giác hân hoan. Cả thế giới sắp biết đến nàng. Nàng sẽ có mặt tại buổi lễ trao thưởng, Người dẫn chương trình sẽ nói. “Và bây giờ, người nhận giải thưởng Putlizer của năm nay cho tác phẩm quan trọng nhất của báo chí, bà Leslie Stewart.” Mọi người sẽ đứng lên vỗ tay rầm rộ, những tiếng thung hô đến điếc tai.
“Bà Stewart...”
Leslie tỉnh khỏi cơn mơ.
“Bà hỏi gì nữa không?”
“Không, “ Leslie nói, “cám ơn ông, Zoltaire. Thế là đủ rồi.”
Tối hôm đó, khoảng 7 giờ, Leslie chăm chú đọc lại bản nháp của bài báo nàng vừa viết. Ngay cái tựa bài đã như một cú phát hỏa cho một cuộc chiến sinh tử. LỆNH BẮT TỔNG THỐNG RUSSELL VÌ TỘI GIẾT NGƯỜI. TỔNG THỐNG BỊ TRA HỎI TRONG CUỘC ĐIỀU TRA VỀ 6 CÁI CHẾT.
Leslie quyết định sẽ dùng tựa bài này rồi nói với Lyle Bannister, phó tổng biên tập Tribune. “In đi!” Nàng nói thêm. “Số lượng đặc biệt. Tôi muốn nó có mặt trên mọi đường phố Washington sau 1 giờ nữa, cùng thời điểm câu chuyện này được phát trên kênh truyền hình WTE.”
Lyle Bannister lưỡng lự. “Bà không nghĩ là Matt Baker nên xem qua nó à?”
“Tribune không phải là tờ báo của ông ấy. Nó là của tôi. In đi. Ngay bây giờ.”
“Vâng, thưa bà chủ.” Ông nhấc điện thoại và quay số. “Chúng ta sẽ cho thêm...”
Bảy giờ rưỡi. Barbara Gatlin, Trưởng Lý liên bang Hoa Kỳ cùng nhóm người có mặt bên bà cả ngày hôm nay, chuẩn bị lên xe quay lại Nhà Trắng.
Barbara Gatlin khó nhọc nói. “Tôi mong rằng không cần dùng đến nó. Chỉ là đề phòng thôi. Tôi có mang theo lệnh bắt Tổng thống...”
Đúng 8 giờ, thư ký của Oliver báo. “Bà Trưởng Lý Gatlin và những người đi cùng xin được gặp.”
“Để họ vào.”
Oliver nhìn từng người khi họ bước vào. Jan đứng cạnh, nắm chặt tay chồng.
Barbara Gatlin nói, “Giờ ngài đã chuẩn bị trả lời câu hỏi của chúng tôi chưa, thưa Tổng Thống?”
Oliver gật đầu. “Tôi sẵn sàng.”
“Thưa tổng thống, Chloe Houston có hẹn gặp ngài vào hôm 15 tháng 10 không?”
“Có cô bé có hẹn tôi.”
“Và ngài có gặp cô ấy không?”
“Không. Tôi phải hủy bỏ.”
Ngay trước 3 giờ có một cú điện thoại. ”Anh yêu, em đây mà. Em đang một mình đợi anh. Em đang thuê phòng ở Maryland. Em đang ngồi trong bồn, không mặc gì cả.”
“Chúng ta sẽ làm gì đó.”
“Bao giờ anh đi dược?”
“Anh sẽ tới đó trong một giờ nữa.”
Oliver nhìn vào cả nhóm. “Nếu những điều tôi sắp nói với quí vị đây là lọt ra ngoài, thì ảnh hưởng nghiêm trọng tới địa vị tổng thống và mối quan hệ của nước Mỹ với các quốc gia khác. Tôi rất phân vân khi buộc phải xử xự thế này nhưng các vị đã không cho tôi được lựa chọn.”
Cả nhóm tò mò nhìn Oliver đi tới cánh cửa bên và mở ra. Sylva Picone bước vào.
“Đây là Sylva Picone, phu nhân ngài đại sứ Ý. Hôm 15 tháng 10 bà Picone và tôi đã cùng nhau tại một phòng thuê ở Maryland từ 4 giờ chiều cho tới tận 2 giờ sáng. Tôi hoàn toàn chẳng hay biết gì về cái chết của Chloe Houston hoặc về bất kỳ cái chết nào khác.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 20-12-2011 14:02:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21 -

Dana bước vào phòng Tom Hawkins. “Tom, tôi mang đến anh chuyện thú vị đây. Trước khi Frank Lonergan bị giết, anh ấy đã đến nhà Carl Gorman, một nhân viên của khách sạn Monroe Arms. Gorman, sau đó bị giết trong một vụ ĐƯỢC CHO là tai nạn tàu thuyền. Anh ta sống với chị gái. Tôi muốn đưa nhóm quay phim đến đó ghi hình cho bản tin 10 giờ tối nay. “
“Cô không cho đấy là vụ tai nạn tàu thuyền?”
“Không. Có quá nhiều sự trùng hợp.”
Tom Hawkins ngẫm nghĩ. “Được, tôi sẽ sắp xếp.”
“Cám ơn anh. Địa chỉ đây. Tôi sẽ gặp nhóm quay phim ở đó. Tôi về nhà thay đồ đã.”
Vừa đẩy cửa vào, Dana chợt có cảm giác bất an. Đó là cảm giác đã hơn một lần xuất hiện trong người nàng, hồi ở Sarajevo; cảm giác báo trước sự nguy hiểm. Ai đó đang ở đây? Nàng đi khắp nhà, chậm rãi, cảnh giác, kiểm tra tất cả các tủ. Không bị mất gì. “Chỉ là mình tưởng tượng thôi,” Dana nhủ thầm. Nhưng nàng không tin đó chỉ là tưởng tượng.
Khi Dana tới ngôi nhà chị gái Gorman thì chiếc xe săn tin điện tử đã có mặt. Đó là chiếc xe tải lớn với cần ăng ten trên nóc và các thiết bị điện tử phức tạp ở trong. Andrew Wright, phụ trách âm thanh và Vernon Mills, quay phim, đang đợi nàng.
“Chúng ta sẽ phỏng vấn ở đâu?” Mills hỏi.
“Tôi muốn làm trong nhà. Tôi sẽ gọi các anh khi sẵn sàng.”
“Được.”
Dana bước tới gõ cửa. Chỉ vài giây, Marianne Gorman đã xuất hiện. “Chị cần gì?”
“Tôi là...”
“À! Tôi biết chị là ai rồi. Tôi đã thấy chị trên TV.”
Vâng, chúng ta có thể trò chuyện vài phút được không?” Dana hỏi.
Marianne Gorman lưỡng lự. “Vâng. Mời chị...” Dana đi theo chị ta vào phòng khách.
Marianne Gorman mời Dana ngồi. “Về em trai tôi phải không? Nó đã bị giết. Tôi biết điều này.”
“Ai giết anh ấy?”
Marianne Gorman nhìn ra chỗ khác. “Tôi không biết.”
“Có phải Frank Lonergan đã đến gặp chị không?”
Người phụ nữ nheo mắt. “Hắn đã lừa tôi, để tôi nói cho hắn nghe chỗ em trai tôi... và...” Mắt chị ta ngấn lệ. “Giờ thì Carl đã chết.”
“Lonergan nói gì với chị?”
“Hắn nói là người của IRS, thuế má gì đó.”
Dana nhìn chị ta. “Nếu không phiền, tôi muốn có một cuộc phỏng vấn ngắn với chị để đưa lên TV. Chị chỉ cần nói về cái chết của người em trai và chị cảm thấy thế nào về tội ác đó tại thành phố này.”
Marianne Gorman gật đầu. “Thế thì được.”
“Cám ơn chị.” Dana ra cửa vẫy Vernon Mills. Anh xách máy quay đi tới, Andrew Wright theo sau.
“Tôi chưa từng làm như thế này bao giờ.” Marianne nói.
“Chị không phải lo lắng gì cả. Chỉ ngồi và nói. Trong vài phút thôi.”
Vernon bước vào phòng khách, hất hàm. “Cô muốn quay ở đâu?”
“Chúng ta quay tại đây, trong phòng khách này.” Nàng chỉ vào góc phòng. “Anh đặt máy quay ở đó.”
Vernon làm theo rồi quay lại chỗ Dana và Marianne. Anh cài micro lên áo 2 người . “Chị hãy bật lên lúc nào chị sẵn sàng nói.”
Marianne chợt kêu lên. “Không! Khoan đã! Tôi xin lỗi. Tôi... tôi không thể.”
“Tại sao vậy?” Dana hỏi.
“Điều này... điều này rất nguy hiểm. Tôi có thể... nói riêng với cô được không?”
“Vâng.” Dana nhìn Vernon và Wright. “Các anh cứ để máy quay đấy. Tôi sẽ gọi sau.”
Vernon gật đầu. “Chúng tôi ở trong xe.”
Dana quay sang Marianne Gorman. “Tại sao lên TV chị lại gặp nguy hiểm?”
Marianne lưỡng lự nói. “Tôi không muốn chúng thấy tôi.”
“Ai? Chúng là ai?”
Marianne nuốt nước bọt. “Carl đã làm điều mà cậu ấy... Cậu ấy không nên làm. Carl đã bị giết vì thế. Mấy gã đã giết cậụ ấy lại sẽ giết tôi mất. “ Chị ta run rẩy.
“Carl đã làm gì?”
“Ôi, lạy chúa, tôi đã van xin nó đừng làm thế.” Marianne than vãn.
“Đừng làm gì?” Dana hỏi dồn.
“Nó... nó đã viết thư tống tiền.”
Dana ngạc nhiên. “Thư tống tiền?”
“Phải. Hãy tin tôi, Carl người tốt. Chỉ là vì nó thích... nó thích những thứ đắt tiền mà với đồng lương của nó, không thể đáp ứng nổi. Tôi không khuyên can nổi nó. Nó bị giết vì bức thư đó. Tôi biết chuyện này. Chúng đã tìm thấy nó. Đã giết nó. Và chúng biết tôi ở đâu. Tôi rồi cũng sẽ bị giết mất thôi.” Chị ta nức nở. “Tôi... Tôi không biết phải làm gì.”
“Hãy kể cho tôi về bức thư...”
Marianne Gorman thở thất sâu. “Em trai tôi chuẩn bị đi nghỉ. Nó để quên áo khóac ở khách sạn Monroe Arms, nơi nó làm việc. Vì muốn mang áo theo nên nó đã quay lại lấy. Và ở gara, nó thấy cửa thang máy riêng dẫn lên dẫy phòng đế vương mở ra. Carl kể rằng đã nhận ra một người đàn ông nổi tiếng, và nó rất ngạc nhiên hơn bởi người đàn ông đó còn quay lại đêû lau chùi cẩn thận những nút bấm cửa thang máy. Chắc để xóa dấu tay. Nó nghĩ vậy. Lúc đó nó đâu biết chuyện gì đã xảy ra. Rồi hôm sau, nó đọc được tin cô gái tội nghiệp bị giết, và nó biết người đàn ông kia chính là thủ phạm”... Marianne ngập ngừng. “Và nó đã gửi thư tới Nhà Trắng...”
Dana bàng hoàng song cố từ tốn hỏi lại. “Nhà Trắng ư?”
“Vâng.”
“Cậu ấy gửi thư cho ai?”
“Cho người đàn ông nó nhìn thấy trong nhà xe. Cô biết không? cái người bịt băng đen ở một bên mắt ấy. Tên ông ta là Peter Tager.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách