|
Chương 47: Cái thằng tên là Quạ
Nái thằng tên là Quạ trễ nải lượn những vòng rộng bên trên khu rừng. Sau mỗi vòng, nó lại bay đến một chỗ khác và thận trọng bắt đầu một vòng mới giống hệt như trước. Những vòng đó nối nhau vẽ trong không khí những đường vô hình để rồi biến mất ngay sau đó. Như một chiếc máy bay trinh sát, nó thám sát khu rừng bên dưới, tìm một người nào đó mà nó chưa định vị được. Như một đại dương bao la, khu rừng lượn sóng bên dưới nó và trải ra đến tận chân trời với những cành lá chằng chịt đan thành một tấm áo choàng vô danh. Trời phủ đầy mây xám, ắng gió và cũng chẳng có nắng. Vào lúc này, cái thằng tên là Quạ hẳn là con chim cô độc nhất trên thế giới, nhưng nó không rảnh rang để nghĩ về điều đó.
Cuối cùng, nó phát hiện ra một chỗ hổng giữa biển cây phía dưới và lao xuống đó tới một khoảng đất trống. Ánh sáng lấp lánh trên một vạt đất xanh rờn cỏ. Ở một góc của khoảng đất trống đó, có một tảng đá tròn và một người đàn ông mặc một bộ đồ thể dục màu đỏ tươi, đội một chiếc mũ lụa đen đang ngồi trên đó. Ông ta đi ủng leo núi đế dày và một chiếc túi vải kaki đặt dưới đất bên cạnh ông. Một kiểu trang phục kỳ lạ, nhưng thằng cu tên Quạ bất cần. Đó chính là người nó đang tìm. Ông ta ăn mặc thế nào chẳng mấy quan trọng.
Nghe tiếng vỗ cánh đột ngột, người đàn ông ngẩng lên và thấy Quạ đáp xuống một cành to.
"Xin chào," ông ta vui vẻ nói.
Cái thằng tên là Quạ không trả lời. Đậu trên cành cây, nó thản nhiên nhìn người đàn ông không chớp mắt, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu sang một bên.
"Ta biết con là ai," người đàn ông nói. (Ông ta bỏ mũ ra rồi lại đội vào). "Ta đã linh cảm là chẳng bao lâu con sẽ đến thôi." Ông ta hắng giọng, cau mày và nhổ xuống đất rồi lấy ủng di bãi nước bọt đó.
"Ta đang nghỉ ngơi và cảm thấy buồn chán vì chả có ai để trò chuyện. Sao con không lại đây? Chúng ta có thể chuyện gẫu một chút cho vui. Thế nào? Ta chưa từng gặp con, nhưng thế không có nghãi là chúng ta hoàn toàn xa lạ với nhau."
Thằng cu tên là Quạ vẫn ngậm miệng, khép chặt đôi cánh vào người. Người đàn ông đọi mũ lụa khẽ lắc đầu. "À, ta hiểu. Con không nói được, phải không? Không sao. Ta sẽ nói cho cả hai, nếu con không phiền. Ta biết con sắp làm gì, cho dù con không nói nửa lời. Con không muốn ta đi sâu thêm, phải không? Cái đó rõ rành rành, ta có thể đoán thấy. Con không muốn ta đi sâu thêm nữa, nhưng đó lại đích thị là điều ta muốn làm. Bởi vì đây là một cơ hội vàng ta không thể để tuột - cơ hội ngàn năm có một."
Ông ta vỗ mạnh vào ống ủng leo núi ở chỗ ngang mắt cá chân.
"Nói cho nhanh nhé, con không thể ngăn ta đâu. COn không đủ sức. Nói cho con biết nhé, khi ta thổi cây sáo của ta, điều gì sẽ xảy ra? Con sẽ không thể đến gần ta. Đó là ma lực nơi cây sáo của ta. Có thể con không biết, chứ đây là thứ sáo duy nhất, không phải sáo thường. Và thực tế, ta có mấy cây trong cái túi này."
Ông ta với tay ra, thận trọng vỗ vỗ cái túi vải, rồi lại ngước nhìn thằng cu tên là Quạ vẫn đậu trên cành. "Ta làm cây sáo này bằng những hồn mèo mà ta thu thập được. Moi hồn chúng ra ngay khi chúng còn sống và luyện thành sáo này. Dĩ nhiên, moi hồn chúng ra như vậy, ta cũng thấy ái ngại, nhưng ta không đng được. Cây sáo này vượt ra ngoài mọi tiêu chuẩn về thiện/ác, yêu/ghét của thế gian. Làm những cây sáo này, từ lâu, đã là nghiệp của ta và ta luôn luôn nghiêm chỉnh hoàn thành vai trò của mình. Ta không có điều gì phải xấu hổ. Ta có vợ, có con và số sáo ta đã làm ra là trên mức vừa đủ. Cho nên ta sẽ không làm thêm nữa. Nói riêng với con, ta định gộp tất cả những sáo ta đã làm để tạo thành một cây sáo lớn hơn nhiều, có uy lực hơn nhiều: một cây sáo siêu cường tự thân nó là một hệ thống. Ngay bây giờ, ta đang đi tới một nơi mà ở đó ta có thể chế tạo cây sáo đó. Không phải ta quyết định cây sáo này sẽ phục vụ cho cái thiện hay cái ác, và cũng không phải là con. Mọi sự tùy thuộc vào việc ta ở nơi nào và lúc nào. Theo nghĩa đó, ta là người tuyệt đối không có thành kiến, cũng như lịch sử hay thời tiết, hoàn toàn không thiên vị. Chính vì thế, ta có thể biến thành một hệ thống."
Ông ta bỏ mũ ra, xoa dúm tóc thưa thớt trên đỉnh đầu, đội mũ tở lại, chỉnh nhanh vành mũ.
"Một khi ta thổi cây sáo này, ta có thể rũ bỏ con dễ như trở bàn tay. Có điều là ta không muốn thổi nó ngay lúc này. Phải vận dụng rất nhiều công lực và ta không muốn phí tí sức nào. Sau này, ta còn cần đến nó. Nhưng dù ta có thổi sáo hay không, con cũng không thể ngăn được ta. Nói thế là rõ ràng chứ."
Người đàn ông hắng giọng một lần nữa và xoa cái bụng bệu. "Con có biết cõi minh phủ là gì không? Đó là vùng trung lập giữa sống và chết. Một nơi buồn thảm, u ám. Nói cách khác, đó là nơi ta đang ở: khu rừng này. Ta đã chết ở ngay nhà mình, nhưng đã không đi sang thế giới bên kia. Ta là một linh hồn lang thang và một linh hồn lang thang thì không có hình thù. Ta khoác cái hình dạng này chỉ là tạm thời thôi. Vì thế con không thể làm gì được ta. Con hiểu chứ? Ngay cả nếu ta đổ máu tràn khắp chỗ này, thì đó cũng không phải là máu thật. Ngay cả nếu ta đau đớn ghê gớm, thì đó cũng chỉ là đau đớn giả. Kẻ duy nhất có thể tiêu diệt ta bây giờ là kẻ có đủ quyền lực để làm thế. Đáng buồn thay, con lại không đáp ứng tiêu chuẩn ấy. Con chẳng là cái gì hơn một ảo ảnh chưa đủ độ chín, thường thường bậc trung. Cho dù con quyết tâm đến đâu đi nữa, thì việc loại bỏ ta cũng là bất khả đối với những kẻ như con. (Ông ta nhìn thằng cu tên là Quạ và cười toét miệng). Thế nào? Có muốn thử không?
Như thể đó là hiệu lệnh nó chờ đợi, cái thằng tên là Quạ xòe cánh, nhảy khỏi cành và lao thẳng đến ông ta. Nó giương móng quắp lấy ngực ông ta, ngửa đầu ra sau và vung mỏ như một cái cuốc chim nhằm ngực phải ông ta mà bổ tới tấp, vừa tấn công vừa đập cánh ầm ầm. Người đàn ông không hề chống cự, thậm chí không giơ một ngón tay phản đối. Không kêu, mà trái lại còn cười lớn. Mũ ông rơi xuống đất và con ngươi phải mau chóng nát bấy và lòng thòng lòi ra khỏi hố mắt. Bây giờ, thằng cu tên là Quạ ráo riết tấn công con mắt bên kia. Khi cả hai mắt chỉ còn là hai cái hốc trống không, nó chuyển ngay sang mổ túibụi vào mặt ông ta. Chẳng mấy chốc, mặt ông ta đã bị rách bươm, những mảng da bay tứ tung, máu trào ra, chỉ còn là một cục thịt đỏ lòm. Sau đó, Quạ tấn công đỉnh đầu ông ta, nơi tóc thưa nhất. Và ông ta vẫn tiếp tục cười rộ. Đòn càng ác hiểm, ông ta càng cười lớn, như thể tình tếh quá khôi hài khiến ông ta không nhịn được cười.
Ông ta không lúc nào rời mắt (lúc này chỉ còn là hai hốc trống) khỏi Quạ và thi thoảng, giữa hai nhịp cười, còn đế được vào vài câu: "Thấy không? Ta đã bảo mà. Đừng làm ta cười thế. Tha hồ cho con cố hết sức cũng không đả thương được ta đâu. Con không đủ khả năng ấy. Con chỉ là một ảo ảnh vật vờ, một tiếng vang mơ hồ. Bất kể con làm gì cũng vô ích thôi. Hiểu không?"
Cái thằng tên là Quạ bèn mổ vào cái mồm đang tuôn ra những lời ấy. Đôi cánh lớn của nó không ngừng đập, dăm chiếc lông đen bóng rụng ra, xoáy lộn trong không trung như những mảnh hồn. Quạ lấy mỏ cắp lấy lưỡi ông ta, tận lực kéo. Cái lưỡi dài và to tướng bị kéo ra từ cuống họng, nó giãy giụa như một con nhuyễn thể khổng lồ, thốt ra những lời tăm tối. Tuy nhiên, mất lưỡi, ông ta không cười được nữa. Có vẻ như cũng không thở được nữa, nhưng ông ta vẫn ôm bụng cười ngặt nghẽo, toàn thân rung lên theo những nhịp cười không ra tiếng. Cái thằng tên là Quạ lắng nghe và tiếng cười vô thanh ấy - rỗng huếch và đầy điềm gở như gió thổi trên một sa mạc xa xăm - cứ vang mãi trong tai nó, không dứt. Quả vậy, nghe như một tiếng sáo từ bên kia thế giới.
Chương 47
Tôi thức dậy ngay sau rạng đông, đun nước, pha trà. Tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ để nhìn xem có gì diễn ra bên ngoài. Tất cả đều lặng tờ, không thấy dấu hiệu gì là có người ngoài phố. Đến cả chim chóc dường như cũng không muốn cất lên bản hợp xướng ban mai thường lệ của chúng. Những ngọn núi đằng đông chỉ hiện lên lờ mờ trong một ánh sáng yếu ớt. Nơi này xung quanh toàn núi cao, cho nên bình minh đến muộn và hoàng hôn thì lại đến rất sớm. Tôi đến đầu giường, nơi tôi để chiếc đồng hồ đeo tay, để xem mấy giờ, nhưng màn chữ số trống trơn. Tôi bấm đại mấy nút, cũng chả thấy gì. Pin còn mới, nhưng không hiểu vì lẽ gì mà đồng hồ lại chết trong khi tôi ngủ. Tôi đặt chiếc đồng hồ trở lại trên gối và xoa xoa cổ tay trái, nơi tôi thường đeo nó. Ở đây, thời gian không phải là một nhân tố quan trọng.
Trong khi nhìn ra quang cảnh trống trơn, vắng bóng chim bên ngoài, bỗng dưng tôi thấy thèm đọc sách, bất kỳ sách gì. Miễn là hình dạng giống quyển sách và có chữ in bên trong là được. Tôi chỉ cần cầm một quyển sách trong tay, lật giở các trang, lướt mắt trên những dòng chữ. Có điều là chẳng thấy bóng dáng một cuốn sách nào. Như thể ở đây, ngành in không tồn tại. Tôi tìm khắp phòng, rành là chẳng thấy gì có chữ ở trong.
Tôi mở tủ trong phòng ngủ để xem có những loại quần áo gì trong đó. Tất cả đều gấp gọn gàng. Không có cái nào mới, màu thì bạc phếch, vải thì nhẽo nhèo qua bao lần giặt. Tuy nhiên, tất cả đều có vẻ rất sạch. Có những áo phông cổ tròn, đồ lót, bít tất, sơ mi và quần bằng vải bông. Không vừa khít, nhưng cũng xuýt xoát khổ người tôi. Tất cả đều rất giản dị và không có họa tiết gì cả, như thể ý tưởng về những môtíp trang trí quần áo không bao giờ tồn tại. Không một chiếc nào mang nhãn mác - cả ở đây nữa, cũng loại trừ mọi dấu vết của chữ. Tôi cởi chiếc áo phông hôi hám ra, thay bằng một chiếc màu ghi thơm mùi nắng và xà phòng.
Một lúc sau - tôi không xác định được đích xác là bao lâu - cô gái đến. Cô khẽ gõ cửa và không chờ trả lời, mở luôn. Cửa không có bất kỳ kiểu khóa gì. Vai đeo chiếc túi vải, cô bước vào. Đằng sau cô, trời đã hửng sáng.
Cô đi thẳng vào bếp và rán mấy quả trứng trong một chiếc chảo nhỏ màu đen. Trứng ụp xuống dầu nóng phát ra một tiếng xèo vui tai và mùi trứng tươi rán tỏa khắp phòng. Trong khi đó, cô nướng mấy lát bánh mì trên một vỉ nướng bè bè như cái loại thường thấy trong những phim thời xa xưa. Quần áo và tóc cô vẫn y như tối hôm trước: áo váy xanh nhạt, tóc kẹp ra sau gáy. Da mịn, đẹp và đôi cánh tay trắng như sứ ánh lên trong nắng sớm. Qua cửa sổ mở, một con ong vè vè bay vào như để làm cho bức tranh thêm trọn vẹn. Cô gái mang đồ ăn tới bàn, ngồi xuống một chiếc ghế, nhìn tôi ăn món ốp-lết rau với bánh mì nướng phết bơ, uống trà nóng. Cô không ăn uống gì. Mọi sự lặp lại như tối qua.
"Ở đây, người ta có tự nấu lấy bữa ăn không?" tôi hỏi cô. "Tôi hỏi thế vì thấy cô đến nấu ăn cho tôi."
"Một số người nấu lấy, một số khác có người nấu hộ," cô đáp. "Nhưng nói chung, người ở đây chả ăn mấy."
"Thật ư?"
Cô gật đầu. " Thi thoảng họ mới ăn. Khi nào họ thích."
"Cô muốn nói không ai ăn nhiều như tôi chứ gì?"
"Anh có thể nhịn cả ngày không ăn được không?"
Tôi lắc đầu.
"Người ở đây thường nhịn ăn cả ngày mà không sao. Trên thực tế, họ thường quên ăn, có khi cả mấy ngày liền."
"Tôi chưa quen với cuộc sống ở đây, nên tôi vẫn phải ăn."
"Hẳn thế," cô nói. "Vì thế em mới đến đây nấu cho anh."
"Phải mất bao lâu tôi mới quen được với nơi này?" tôi nhìn vào mặt cô, hỏi.
"Bao lâu?" cô nhắc lại và từ từ lắc đầu. "Em không biết. Đây không phải là vấn đề thời gian. Đến lúc ấy, anh sẽ thấy là mình đã quen rồi."
Chúng tôi ngồi đối diện nhau, hai tay cô úp sấp trên bàn. Mười ngón tay nhỏ nhắn cương nghị của cô rành là thật trước mắt tôi. Trực diện với cô, tôi thấy từng thoáng rung động của hàng mi cô, đếm được từng cái chớp mắt của cô, quan sát từng sợi tóc cô xõa xuống trán. Tôi không thể nào rời mắt khỏi cô.
" Lúc ấy? " tôi hỏi.
"Sẽ không phải như anh cắt bỏ một cái gì khỏi mình và ném nó đi đâu," cô nói. "Không phải là ném đi mà là nhận lấy, hấp thụ nó vào trong mình."
"Và tôi sẽ nhận cái đó vào trong tôi?"
"Đúng thế."
"Rồi thì sao?" tôi hỏi." Sau khi tôi nhận nó, điều gì sẽ xảy đến?"
Cô khẽ nghiêng đầu ngẫm nghĩ, một cử chỉ hết sức tự nhiên. Những sợi tóc lại đu đưa. "Rồi anh sẽ trở thành bản thân anh trọn vẹn," cô nói.
"Vậy theo cô, cho đến nay, tôi chưa trọn vẹn là chính tôi?"
"Bây giờ anh cũng hoàn toàn là anh," cô nói rồi nghĩ lại. "Có nghĩa là hơi khác một tí. Nhưng em không biết diễn tả thế nào cho chính xác."
"Tức là, chừng nào nó chưa thực sự xảy đến thì ta chưa hiểu hết được, phải không?"
Cô gật đầu.
Tôi nhìn cô mà thấy nhói trong tim và khi điều đó trở nên quá đau đớn, tôi nhắm mắt lại. Nhưng rồi tôi lại mở ra ngay để chắc chắn là vẫn còn đó. "Ở đây, người ta sống theo kiểu cộng đồng, đúng không?"
Cô nghĩ một lúc. "Mọi người sống với nhau và dùng chung một số thứ như nhà tắm, vòi hoa sen, nhà máy điện, chợ. Có một số thỏa thuận ngầm đơn giản, chẳng có gì là phức tạp. Không có gì cần nghĩ ngợi, hoặc thậm chí phải nói ra lời. Cho nên em không cần phải giải thích gì cho anh về cách thức làm cái này cái nọ. Điều quan trọng nhất ở đây là mỗi người cứ để cho sự vật thụ mình vào. Chừng nào anh làm thế, thì chẳng có vấn đề gì."
"Hấp thụ nghĩa là thế nào?"
"Chẳng hạn như khi anh ở trong rừng, anh trở thành một bộ phận khăng khít của nó. Khi anh ở trong mưa, anh là một phần của cơn mưa. Khi anh ở trong buổi sáng, anh là một bộ phận của buổi sáng. Khi anh ở bên em, anh là một bộ phận
"Khi cô ở bên tôi, cô là một bộ phận không thể tách rời của tôi chứ?"
"Đúng vậy."
"Cô cảm thấy như thế nào khi cùng lúc vừa là chính mình vừa là một bộ phận của tôi?"
Cô nhìn thẳng vào tôi và đưa tay lên sờ chiếc cặp tóc. "Rất tự nhiên. Một khi đã quen rồi thì hết sức đơn giản. Như là bay ấy."
"Cô biết bay?"
"Đó chỉ là thí dụ ," cô nói và mỉm cười, một nụ cười không mang ý nghĩa sâu xa hoặc hàm ẩn gì, cười để mà cười thôi. "Anh không thể biết được cảm giác khi bay là thế nào, chừng nào anh chưa thực sự bay. Ý em là như thế."
"Vậy đó là một điều tự nhiên, thậm chí ta không cần phải nghĩ đến nó?"
Cô gật đầu. "Vâng, nó hoàn toàn tự nhiên, tĩnh mặc, êm đềm, một cái gì đó ta không cần phải nghĩ đến. Nó thoải mái như không ấy."
"Tôi hỏi nhiều quá, phải không?"
"Không đâu," cô đáp. "Em chỉ muốn sao có thể giải thích được rõ ràng hơn thôi."
"Cô có ký ức không?"
Cô lại lắc đầu và đặt tay lên bàn, lần này để ngửa. Cô nhìn tay mình, sắc mặt không biểu lộ gì.
"Không. Ở một nơi mà thời gian không quan trọng thì ký ức cũng thế. Dĩ nhiên, em có nhớ là tối qua đã đến đây nấu món hầm cho anh. Và anh đã ăn hết sạch, phải không? Về hôm trước nữa, em có nhớ một ít. Nhưng xa hơn nữa thì em chả nhớ gì. Thời gian đã hòa tan vào trong em và em không còn phân biệt được sự kiện này với sự kiện nọ."
"Vậy ở đây, ký ức cũng không quan trọng?"
"Đúng," cô cười tươi rói. "Ở đây, ký ức không quan trọng. Đó là phận sự của thư viện."
Cô đi rồi, tôi ngồi bên cửa sổ, giơ một bàn tay ra ngoài nắng. Bóng nó in trên thành cửa sổ, rõ nét năm ngón rành rành. Con ong thôi không vo ve bay quanh nữa mà đậu trên một ô kính. Dường như nó có một điều gì cần suy nghĩ nghiêm túc. Và tôi cũng vậy.
Khi mặt trời vượt qua thiên đỉnh, bà đến chỗ tôi đang ở, gõ nhè nhẹ và mở cửa. Trong một lúc, tôi không dám chắc là mình đang nhìn thấy ai - cô gái trẻ hay bà . Chỉ một thoáng chuyển dịch ánh sáng hay cách gió thổi là đủ để người đứng trước mặt biến đổi hoàn toàn: lúc này là cô gái mười lăm, lát sau đã biến thành Miss Saeki. Tuy nhiên, điều đó không thực sự diễn ra. Không nghi ngờ gì nữa, người đứng trước mặt tôi đích thị là Miss Saeki chứ không phải ai khác.
"Chào," bà nói bằng một giọng tự nhiên như khi chúng tôi gặp nhau trong hành lang thư viện. Bà mặc chiếc sơ mi dài tay màu xanh nước biển và cái váy đồng bộ chấm đầu gối, đeo một chiếc vòng bạc mảnh và hoa tai bằng ngọc trai - hệt như tôi thường thấy bà. Đôi giày cao gót bước trên bậc thềm phát ra những tiếng khô ngắn, một âm thanh hơi lạc điệu ở đây. Từ khung cửa, bà đứng nhìn tôi như thể để kiểm tra xem có thật là tôi hay không. Cố nhiên, đây chính thật là tôi. Cũng như bà đích thị là Miss Saeki.
"Cô vào dùng chén trà nhé?" tôi mời. |
|