Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Kafka Bên Bờ Biển | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:47:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 45 (tiếp)


"Anh dám chắc không bao lâu chú em sẽ gặp được thôi, bất kể người ấy là ai," anh vừa nói vừa gật đầu liền mấy cái để nhấn mạnh. "Cái thế giới này nhỏ xíu ấy mà."
"Anh hy vọng chú em sẽ sớm quen với nó," anh lính to con nói.
"Một khi đã quen, thì mọi sự sẽ dễ dàng thôi," anh lính cao nói thêm.
"Em thành thật cảm tạ."
Hai anh lính đứng nghiêm chào, khoác súng lên vai rồi quay đi, thoăn thoắt bước trên con đường trở về vị trí của mình. Họ phải canh gác cửa vào cả ngày lẫn đêm.
Tôi vào bếp và kiểm tra xem trong tủ lạnh có những gì . Có cà chua, cà rốt, củ cải đỏ, một khoanh phó-mát và một bình sứ lớn đầy sữa. Cả bơ nữa. Trên giá có một ổ bánh mì, tôi bẻ một miếng ăn thử. Hơi rắn nhưng không tồi.
Bếp có một bồn rửa và một vòi nước. Tôi vặn vòi và nước chảy ra, trong mát. Chắc là được bơm từ một cái giếng vì ở đây có điện mà. Tôi hứng đầy một cốc và uống.
Tôi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Trời vẫn đầy mây xám, tuy nhiên không có vẻ gì là sắp mưa. Tôi đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ hồi lâu nhưng vẫn không thấy bóng người nào khác. Như thể một thị trấn chết vậy. Hoặc giả vì một lý do nào đó, mọi người đang cố tránh tôi.
Tôi rời cửa sổ và ngồi xuống một cái ghế gỗ cứng lưng thẳng. Có tất cả ba chiếc ghế và một bàn ăn vuông đã được đánh véc-ni nhiều lần. Trên tường không treo gì cả - không tranh, không ảnh, lịch cũng không. Chỉ trơ tường trắng. Một ngọn đèn đơn rủ xuống từ trần nhà, với một cái chao thủy tinh đơn giản đã bạc phếch vì sức nóng.
Căn phòng được quét dọn lau chùi sạch sẽ. Tôi lướt ngón tay trên mặt bàn và bậu cửa sổ - không một chút bụi. Cửa sổ cũng bóng loáng. Bát đĩa, xoong nồi trong bếp không mới, nhưng rõ ràng đã được giữ gìn cẩn thận và rất sạch. Cạnh bàn bếp có hai bếp điện cũ. Tôi bật thử một cái, dây xoắn đỏ liền.
Chiếc tivi màu cũ kỹ - tôi đoán khoảng mười lăm đến hai mươi năm tuổi - được lồng khít vào một tủ gỗ nặng nề. Không có điều khiển từ xa. Nó giống như một thứ đồ nhặt về từ bãi rác. Cũng có thể nói vậy về tất cả các đồ điện khác trong nhà. Không phải là chúng bẩn thỉu hay không dùng được, mà chỉ vì nom chúng cũ kỹ và lỗi thời.
Tôi bật tivi. Đài đang phát một phim cũ - Giai điệu hạnh phúc [15] . Hồi tôi học cấp một, thầy giáo đã đưa cả lớp đi xem phim này ở một rạp chiếu bóng màn ảnh rộng. Trong nhà, không có người lớn nào quan tâm đưa tôi đi xem phim hay coi kịch, nên đó là một trong số những phim hiếm hoi tôi được xem hồi bé. Trên màn ảnh nhỏ lúc này là đoạn người cha nghiêm khắc và cứng nhắc, Đại úy von Trapp, đang đi công tác ở Viên và ở nhà, cô gia sư Maria đưa bọn trẻ lên núi chơi. Tất cả ngồi trên bãi cỏ, Maria đệm ghi-ta cho bọn trẻ hát mấy ca khúc hồn nhiên. Đó là một đoạn rất nổi tiếng. Tôi ngồi ngây trước tivi, dán mắt vào màn ảnh. Hệt như khi xem lần đầu, tôi lại tự hỏi liệu mọi sự sẽ xoay ra thế nào nếu như tôi có một người như cô Maria ở bên. Khỏi phải nói, chẳng có ai như thế xuất hiện trong đời tôi.
Tôi quay trở về thực tại. Tại sao đúng lúc này, tôi lại vớ phải phim Giai điệu hạnh phúc? Có thể những người ở đây đã bắt được tín hiệu từ một trạm vệ tinh. Hay chỉ là một băng video họ dùng để phát vào chương trình này. Tôi đoán đó là băng video vì khi tôi chuyển kênh thì các kênh khác chẳng có gì, ngoại trừ tiếng lạo xạo vô cớ và những chấm li ti trên nền trắng tĩnh tại gợi lên hình ảnh một cơn bão cát dữ dội.
Tôi tắt tivi ở đoạn họ đang hát bài Edelweiss . Im lặng trở lại trong căn phòng. Tôi thấy khát và vào bếp uống một ít sữa từ chiếc bình sứ. Sữa đậm đặc và tươi mát, vị ngon gấp trăm lần những bịch sữa ta thường mua ở những cửa hàng phục vụ 24/24. Trong khi nốc hết cốc này đến cốc khác, tôi chợt nhớ đến một cảnh trong phim Sống bừa bãi của Francois Truffaut kh Antoine bỏ nhà đi và một sáng sớm, bụng đói meo, đã lấy trộm một chai sữa do người giao hàng đặt trước cửa một nhà nào đó rồi vừa chạy trốn vừa uống. Chai sữa khá to, phải mất một lúc mới uống hết được. Một cảnh buồn não lòng - mặc dù thật khó mà tin rằng một cảnh uống sữa đơn thuần lại có thể buồn đến thế. Đó là một bộ khác trong số phim ít ỏi mà tôi được xem hồi còn bé. Hồi đó, tôi học lớp năm và cái tên phim làm tôi chú ý, nên tôi đi tàu một mình đến tận Ikebukuro để xem rồi lại đi tàu về. Vừa ra khỏi rạp, tôi liền mua sữa, uống ừng ực. Tôi không sao đừng được.
Sau khi uống ngần nấy sữa, giờ tôi đâm buồn ngủ. Một cơn buồn ngủ choáng ngợp, gần như lộn mửa, xâm chiếm tôi. Ý nghĩ của tôi chậm lại rồi dừng hẳn như con tàu vào ga. Tôi không thể nghĩ gì được nữa, tựa hồ cái cốt lõi của cơ thể tôi đã đông lại. Tôi vào phòng ngủ, lóng ngóng cởi quần, cởi giày, rồi gieo mình xuống giường, vùi mặt vào gối và nhắm mắt lại. Gối thơm mùi nắng, một mùi quý giá. Tôi hít lấy hít để và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Khi tôi tỉnh dậy, xung quanh đã tối mịt. Tôi mở mắt ra và cố nghĩ xem mình đang ở đâu. Hai người lính dẫn mình qua rừng đến một thị trấn nhỏ bên một bờ suối, phải không nhỉ? Trí nhớ tôi từ từ trở lại. Mắt nhìn rõ dần. Tôi nghe thấy một giai điệu quen quen. Edelweiss . Trong bếp, có tiếng xoong nồi khẽ lách cách, thân thuộc. Ánh điện lọt vào phòng ngủ qua khe cửa, kẻ một vạch vàng, bụi bặm, cổ lỗ.
Tôi định ra khỏi giường nhưng toàn thân tôi tê cứng. Tôi hít một hơi thật sâu và nhìn lên trần nhà. Tôi nghe thấy tiếng bát đĩa, tiếng một người nào đó bận rộn chạy đi chạy lại trên sàn nhà bếp, chắc là làm bữa cho tôi. Cuối cùng, tôi cũng đứng dậy được. Phải mất một lúc tôi mới chật vật mặc được quần, xỏ được chân vào tất và giày. Tôi lặng lẽ xoay quả đấm, mở cửa.
Một cô gái đang đun nấu trong bếp. Quay lưng về phía tôi, cô đang cúi trên một cái nồi, dùng thìa nếm thức ăn, nhưng khi nghe thấy tiếng cửa mở, cô ngẩng lên và quay đầu lại. Chính là cô. Cô gái đã đến phòng tôi ở thư viện, ngồi ngắm bức tranh trên tường, Miss Saeki năm mười lăm tuổi. Cô vẫn mặc bộ đồ ấy, chiếc áo váy xanh nhạt dài tay. Điều khác duy nhất là hôm nay, cô cặp tóc ra sau gáy. Cô khẽ mỉm cười với tôi và nụ cười nồng nàn ấy khiến tôi ngập tràn một nỗi xúc động mãnh liệt đến mức tưởng như cả thế giới bỗng lộn tùng phèo. Như thể mọi vật cụ thể vỡ tan ròi lại chắp lại nguyên vẹn. Nhưng cô gái không phải ảo ảnh, chắc chắn không phải là ma. Cô là một cô gái đang sống, đang hít thở,một con người mà ta có thể chạm vào, đang đứng trong một căn bếp thật vào lúc chạng vạng hoàng hôn, nấu cho tôi bữa ăn thật . Cặp vú nhỏ của cô nhô lên dưới làn áo, cái cổ trắng mịn như sứ vừa ra lò. Tất cả đều thật .
"Ồ, anh dậy rồi đấy à?" cô hỏi.
Tôi không thốt nên lời. Tôi còn đang cố định thần lại.
"Anh ngủ tốt thật đấy," cô nói và quay lại tiếp tục nếm món ăn. "Nếu anh không dậy, thì em sẽ cứ dọn bữa lên bàn rồi về."
"Tôi không chủ định ngủ nhiều thế," cuối cùng tôi cũng mở được miệng.
"Anh đã đi xuyên suốt khu rừng, vậy chắc là đói lắm," cô nói.
"Tôi không biết. Nhưng chắc thế."
"Tôi muốn vươn tay ra xem có thể thực sự chạm vào cô được không. Nhưng tôi không dám, chỉ đứng đực ra đấy, nhìn cô như muốn nuốt chửng. Tôi lắng nghe tiếng cô lăng xăng đi tới đi lui trong bếp.
Cô múc món hầm nóng sốt ra một cái đĩa trắng mộc mạc, đem đặt trên bàn. Ngoài ra còn có một bát nộm cà chua và rau xanh, và một ổ bánh mì lớn. Mùi thơm củ khoai tây và cà rốt trong món hầm khiến tôi nao nao nhớ. Tôi hít nó vào thật sâu và nhận ra rằng mình đang đói muốn chết. Tôi cần phải ăn đã. Trong khi tôi ăn bằng cặp thìa, dĩa cũ kỹ, cô gái ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, theo dõi với vẻ mặt nghiêm túc, tựa hồ quan sát tôi ăn là một phần trọng yếu trong nhiệm vụ của cô vậy. Thi thoảng, cô đưa tay vuốt tóc ra đằng sau.
"Họ bảo em là anh mười lăm tuổi," cô nói.
"Đúng," tôi vừa đáp vừa phết bơ lên một lát bánh mì. "Tôi vừa tròn mười lăm".
"Em cũng mười lăm," cô nói.
Tôi gật đầu. Điều đó thì tôi đã biết , suýt nữa tôi buột miệng nói thế. Nhưng hãy còn quá sớm. Tôi cắn một miếng nữa.
"Em sẽ nấu ăn cho anh một thời gian," cô nói. "Cả quét dọn, lau chùi, giặt giũ nữa. Quần áo ở trong tủ trong buồng ngủ ấy, anh cứ thoải mái dùng. Đồ thay ra, anh cứ để ở làn, em sẽ lo."
"Ai giao cho cô công việc này?
Cô đăm đăm nhìn tôi không trả lời. Có vẻ như câu hỏi của tôi đi chệch hướng và bị hút thỏm vào một khoảng không vô danh.
"Cô tên gì?" tôi hỏi, thử một chiến thuật khác.
Cô lắc đầu. "Em không có tên. Mọi người ở đây không ai có tên cả."
"Nhưng nếu cô không cso tên, tôi biết gọi cô thế nào đây?"
"Không cần phải gọi em," cô nói. "Hễ anh cần là em sẽ đến ngay."
"Tôi đồ rằng ở đây cả tôi cũng không cần đến tên của mình nữa?"
Cô gật đầu. "Anh là anh, chứ không phải là ai khác. Anh là anh, đúng không nào?"
"Có lẽ thế," tôi nói.
Nhưng tôi không dám chắc lắm. Có thật tôi là tôi không?
Suốt từ nãy, cô cứ nhìn tôi không chớp mắt.
"Cô có nhớ thư viện ấy không?" tôi hỏi thẳng.
"Thư viện nào?" cô lắc đầu. "Không... Cách đây khá xa, có một thư viện, nhưng ngay đây thì không."
"Vùng này có một thư viện?"
"Vâng, nhưng trong đó chẳng có sách gì cả."
"Không có sách thì có gì?"
Cô nghiêng nghiêng đầu, không trả lời. Một lần nữa, câu hỏi của tôi đi lạc và mất tiêu.
"Cô đã đến đấy bao giờ chưa?"
"Đã lâu lắm rồi," cô nói.
"Nhưng đó không phải là nơi để đọc sách ư?"
Cô gật đầu. "Ở đấy không có cuốn sách nào."
Tôi lặng lẽ ăn một lúc. Món hầm, món nộm, bánh mì. Cô cũng chẳng nói gì, chỉ nghiêm trang quan sát tôi.
"Thức ăn thế nào?" Cô hỏi vậy khi tôi ăn xong.
"Rất ngon."
"Mặc dù không có thịt hay cá?"
Tôi chỉ cái đĩa sạch trơn. "Cô thấy không, tôi chả để sót tí gì."
"Em nấu đấy."
"Rất ngon," tôi nhắc lại. Tôi nói thành thực mà.
Ngồi đây với cô mà tôi cảm thấy đau nhói như có một lưỡi dao giá băng đâm vào ngực. Nhưng kỳ lạ thay, tôi lại biết ơn nỗi đau ghê gớm ấy vì nó chứng tỏ rằng tôi tồn tại. Nỗi đau giá băng ấy là cái neo neo tôi lại đây . Cô gái đứng dậy đun nước, pha trà. Trong khi tôi ngồi uống trà tại bàn, cô mang bát đĩa bẩn vào bếp và bắt đầu rửa. Tôi ngắm nhìn cô làm mọi việc đó. Tôi muốn nói một điều gì đó, nhưng dường như lời lẽ khước từ chức năng của nó khi tôi ở bên cô. Hoặc giả ý nghĩa liên kết các chữ vớin hau đã biến mất? Tôi nhìn trân trân vào hai bàn tay mình và nghĩ đến cây sơn thù du ngoài cửa sổ, lấp lánh dưới ánh trăng. Cái lưỡi dao đâm vào tim tôi chính là ở đó.
"Rồi tôi có gặp lại cô nữa không?" tôi hỏi.
"Tất nhiên là có chứ," cô đáp. "Như em đã nói, hễ anh cần là em sẽ đến ngay."
"Cô sẽ không đột ngột biến mất chứ?"
Cô lặng thinh, chỉ nhìn tôi với một vẻ kỳ lạ trên gương mặt như muốn nói: Anh nghĩ em biến đi đâu mới được chứ?
"Tôi đã gặp cô trước đây," tôi đánh bạo nói. "Ở một vùng đất khác, trong một thư viện khác."
"Nếu anh nói thế thì là thế," cô vừa nói vừa đưa tay lên xem cặp tóc còn chặt không. Giọng cô hoàn toàn vô cảm, như thể cô muốn tỏ cho tôi biết là cô không hề quan tâm đến chuyện ấy.
"Tôi nghĩ mình đến đây là để gặp cô một lần nữa. Cô và một người đàn bà khác."
Cô ngước lên nhìn tôi và nghiêm trang gật đầu. "Xuyên suốt khu rừng sâu để tới đây."
"Đúng. Tôi nhất định phải gặp lại cô và người phụ nữ kia."
"Và anh đã gặp em."
Tôi gật đầu.
"Như em đã nói với anh," cô nói, "hễ anh cần là em sẽ đến ngay."
Rửa ráy xong, cô để nồi xoong, bát đĩa lên giá rồi khoác cái túi bạt lên vai.
"Sáng mai, em sẽ trở lại," cô nói. "Hy vọng anh sẽ sớm quen với nơi này."
Tôi đứng ở cửa, nhìn cô đi khuất vào màn đêm. Tôi lại một mình trong căn nhà nhỏ, bên trong một vòng tròn khép kín. Ở đây, thời gian không phải là một nhân tố. Ở đây, không ai có tên. Cô sẽ đến khi nào tôi cần. Cô mười lăm tuổi. Mãi mãi mười lăm, tôi nghĩ. Nhưng điều gì sẽ đến với tôi ? Ở đây, liệu rồi tôi có vĩnh viễn dừng lại ở tuổi mười lăm? Phải chăng ở đây, tuổi tác cũng không phải là một nhân tố?
Tôi đứng ở cửa hồi lâu sau khi cô đi khuất, lơ đãng nhìn quanh cảnh bên ngoài. Trời vắng trăng sao. Ở một số ngôi nhà khác, đèn đã bật, hắt sáng qua cửa sổ. Cũng cái ánh sáng vàng khè cổ lỗ như trong căn phòng này. Nhưng tôi vẫn không nhìn thấy người nào. Chỉ thấy sáng đèn thôi. Bên ngoài, bóng tối mỗi lúc một lan rộng. Xa nữa, đen hơn cả bóng đên, chỏm núi sừng sững nhô lên và khu rừng bao quanh thị trấn này như một bức trường thành.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:48:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 46


Nau khi Nakata chết, Hoshino không thể rời khỏi căn hộ. Với phiến đá cửa vào còn ở đó, một điều gì đó có thể xảy ra và khi nó xảy ra, gã muốn có mặt để xử lý kịp thời. Giờ đây, gã phải kế thừa nhiệm vụ canh chừng phiến đá của Nakata. Gã bật điều hòa nhiệt độ trong phòng Nakata ở mức thấp nhất có thể và mở quạt gió hết cỡ, đóng thật chặt các cửa sổ. Không khí trong phòng có cái mật độ đặc biệt chỉ thấy ở nơi có xác chết.
"Ông không lạnh quá đấy chứ?" gã nói với Nakata. Đương nhiên là ông lão chẳng có ý kiến thuận, nghịch gì.
Hoshino ngồi phịch xuống chiếc sofa trong phòng khách, để mặc cho thời gian trôi qua. Gã chẳng thiết nghe nhạc hay đọc sách. Hoàng hôn xuống, căn phòng tối dần, nhưng gã cũng chẳng buồn đứng dậy bật đèn. Gã cảm thấy hoàn toàn kiệt lực và một khi đã yên vị trên sofa, gã không đủ ý chí để đứng lên nữa. Thời gian chầm chậm đến và chầm chậm qua, đủng đỉnh đến nỗi đôi khi gã ngỡ như nó đi lộn lại.
Khi ông nội mình mất, gã nghĩ, đó là một cú nặng nề, nhưng không như thế này. Ông đã trải qua bao ngày đau bệnh và mọi người đều biết kết cục ấy chỉ là vấn đề thời gian. Cho nên khi ông chết, mọi người đã được chuẩn bị. Có hay không có được cơ may tự rèn luyện mình để đón nhận điều tất yếu là cả một sự khác nhau lớn. Nhưng đó không phải là điểm khác duy nhất, Hoshino kết luận. Cái chết của Nakata còn có một cái gì buộc phải suy nghĩ thật sâu.
Chợt thấy đói, gã vào bếp hâm một ít cơm rang bằng lò vi sóng và ăn hết một nửa cùng với bia. Sau đó, gã trở lại xem Nakata thế nào. Ngộ nhỡ ông ấy sống lại thì sao? gã nghĩ. Nhưng không, ông già vẫn chết thẳng cẳng. Căn phòng giống như một nhà đông lạnh, lạnh đến mức có thể bảo quản kem trong đó.
Đây là lần đầu tiên Hoshino qua đêm trong cùng nhà với một xác chết và gã không thể yên tâm được. Không phải là mình sợ, gã tự nhủ. Điều đó không làm mình sởn gai ốc. Mình chỉ không biết nên ứng xử thế nào với một người chết bên cạnh thôi. Sự trôi chảy của thời gian đối với người chết khác xa đối với người sống. Cả âm thanh cũng vậy. Vì thế mình không thể trấn tĩnh được, gã kết luận. Nhưng mình có thể làm gì được? Ông Nakata đã đi sang thế giới của người chết, mà mình thì còn ở cõi của người sống. Cố nhiên là có một khoảng trống ngăn cách. Gã đứng dậy khỏi sofa và đến ngồi cạnh phiến đá. Gã bắt đầu đưa tay vuốt nhẹ mặt đá như nựng một con mèo.
"Tớ phải làm gì bây giờ?" gã nói với phiến đá. "Tớ muốn bàn giao ông Nakata cho ai đó lo liệu, nhưng tớ không thể làm thế chừng nào chưa lo xong với cậu. Cậu có kế gì mách cho tớ không?"
Nhưng đá chẳng trả lời. Lúc này, nó chỉ là một phiến đá, và Hoshino hiểu thế nào. Gã có hỏi đến rã họng cũng chẳng thể moi được một lời giải đáp. Mặc dù thế, gã vẫn ngồi đó xoa mặt đá. Gã hỏi tiếp mấy câu, trình bày lý lẽ và cố hết sức tranh thủ sự cảm thông. Tuy biết là vô ích, nhưng gã không nghĩ ra cách nào khác. Ông Nakata đã ngồi nói chuyện với phiến đá suốt, vật thì tại sao lại không nhỉ?
Tuy nhiên, nói với một phiến đá, xin nó rủ lòng thương - nghe mới lâm ly làm sao, gã nghĩ thầm. Chả trách có cái thành ngữ trái tim đá .
Gã đứng dậy, toan mở tivi xem tin thời sự song nghĩ thế nào lại thôi và lại ngồi xuống bên cạnh phiến đá. Bây giờ, im lặng là tốt nhất, gã quyết định. Cần phải lắng tai nghe cho kỹ, chờ xem cái gì sắp xảy đến. "Nhưng chờ đợi lại không phải là điểm mạnh của tớ," Hoshino nói với phiến đá. Xét cho cùng, tớ thuộc loại nôn nóng và đã nhiều lần phải trả giá vì thế. Bao giờ cũng hấp ấp, nhanh nhẩu đoảng và làm hỏng việc. Mày cứ ngúng ngoắng như con mèo cái động đực, dạo xưa ông nội tớ thường bảo tớ thế. Nhưng giờ tớ phải ngồi im và chờ đợi. Hãy kiên nhẫn nào!
Tất cả đều im ắng, ngoại trừ tiếng ro ro của máy điều hòa nhiệt độ mở hết cỡ ở phòng bên. Đồng hồ chỉ chín giờ, rồi mười giờ, mà chẳng thấy có gì xảy đến. Thời gian qua, đêm sâu thêm, vẫn chẳng có gì khác. Hoshino mang mền ra phòng khách, nằm xuống sofa, đắp mền lên người. Gã nghĩ tốt nhất là cứ ở gần kề phiến đá, kể cả trong khi ngủ, phòng khi có chuyện gì xảy đến. Gã tắt đèn và nhắm mắt lại.
"Này, phiến đá! Tớ đi ngủ đây," gã gọi to. "Mai chúng mình sẽ lại nói chuyện tiếp. Hôm nay là một ngày dài, tớ cần chợp mắt một tí."
Chà, nói ngày dài còn là nhẹ, chưa lột tả được hết, gã nghĩ.
"Ông nội," gã gọi to hơn. "Ông Nakata! Ông có nghe thấy cháu không?" Không có trả lời.
Hoshino thở dài, nhắm mắt lại, chỉnh lại chiếc gối rồi ngủ thiếp đi. Gã ngủ một mạch đến hết đêm, chẳng mộng mị gì cả. Ở phòng bên, Nakata tiếp tục giấc ngủ như đá của mình, hẳn cũng không mộng mị gì.
Bảy giờ sáng hôm sau, vừa trở dậy, Hoshino sang ngay xem Nakata ra sao. Máy điều hòa nhiệt độ vẫn ro ro chạy hết công suất, thổi khí lạnh vào phòng. Vào giữa căn phòng lạnh giá ấy, Nakata vẫn chết cứng. Thậm chí, so với đêm trước, cái chết dường như còn túm chặt lão hơn. Da lão đã sạm màu tro, đôi mắt nhắm nghiền đờ đẫn một cách trịnh trọng. Chẳng có chuyện lão sống lại, đột ngột ngồi dậy và nói, Xin lỗi, cậu Hoshino. Nakata này chỉ ngủ thôi. Xin thứ lỗi. Cậu khỏi lo, lão sẽ mang nó đi đây - rồi quay sang xử lý với phiến đá. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Nakata đã chết hẳn rồi, sự thật là vậy.
Bắt đầu thấy rét run, Hoshino vội bước ra khỏi phòng và đóng cửa lại rồi vào bếp, chế cà phê, uống liền hai tách, ăn mấy lát bánh mì nướng với bơ và mứt. Ăn xong, gã ngồi trong bếp, hút vài điếu thuốc và nhìn qua cửa sổ ra ngoài. Mây đã bay đi từ lúc nào trong đêm, để lại một bầu trời đầy nắng hạ. Phiến đá vẫn ở chỗ mọi khi, bên cạnh sofa. Nó không ngủ, nên không thức giấc, chỉ nằm đó thôi, cả đêm không động đậy. Gã bê thử và nhấc nó lên ngon ơ.
"Này," Hoshino cất giọng vui vẻ nói, "tớ đây mà. Bạn cũ Hoshino đây mà, nhớ chứ? Có vẻ như hôm nay chỉ có mình cậu với tớ."
Phiến đá chẳng nói chẳng rằng - điều đó cũng không quá bất ngờ.
"À, được thôi. Cậu không nhớ cũng chả sao. Chúng ta có nhiều thì giờ để làm quen với nhau, đâu cần phải vội."
Gã ngồi xuống cạnh phiến đá, bắt đầu xoa nó và tự hỏi: trò chuyện với một phiến đá thì nên nói về cái gì nhỉ? Bởi đây là lần đầu tiên có dịp nói chuyện với một hòn đá, nên gã không thể nghĩ ra một đề tài nào phù hợp. Tốt nhất là nên tránh bất kỳ cái gì phức tạp vào cái giờ sáng sớm này, gã nghĩ. Ngày còn dài, lo gì chả có ý tứ nảy ra trong đầu.
Gã nghĩ một thôi và chọn đề tài ưa thích: gái. Gã điểm lại từng em đã cùng gã chung chăn gối. Nếu chỉ kể những em gã còn nhớ tên thì chả được bao nhiêu. Gã đếm nhẩm trên đầu ngón tay: tất cả có sáu. Nếu cộng cả những em không biết tên thì phong phú hơn nhiều, gã nghĩ, nhưng hãy tạm ngưng ở mức đó đã.
"Tớ nghĩ kể với một phiến đá về những mẻng đã ngủ với tớ thì chả ích gì," gã nói. "Và tớ đồ rằng cậu cũng không khoái mới sáng ra đã phải nghe tớ khoe chiến tích. Nhưng tớ chưa nghĩ ra chuyện gì khác, Ô-kê? Biết đâu một đề tài nhẹ nhàng tươi mát để đổi món lại tốt cho cậu. Cung cấp thông tin mà."
Hoshino kể một số đoạn với những chi tiết cụ thể nhất mà gã có thể nhớ. Lần đầu tiên là khi gã còn là học sinh trung học, giao du với một băng chơi môtô và vướng vài chuyện rắc rối. Cô gái hơn gã ba tuổi, làm ở một quán bar ở Gifu. Họ sống với nhau một thời gian. Cô gái rất nghiêm túc trong mối quan hệ ấy, cô nói cô không thể sống thiếu gã. Thậm chí cô còn gọi điện thoại nói chuyện với bố mẹ mình, gã nhớ lại, nhưng ông bà chả khoái gì chuyện ấy. Sự tình đâm ra quá căng, cho nên tốt nghiệp trung học một cái là mình xung vào Lực lượng Tự vệ liền. Ngay sau đó, mình được đưa đi đóng quân ở một căn cứ thuộc tỉnh Yamanashi và mối quan hệ ấy chấm dứt. Mình chẳng bao giờ gặp lại cô ta nữa.
"Có lẽ cái nét độc đáo của tớ là lười nhác," Hoshino giải thích với phiến đá. "Và khi nào sự tình trở nên phiền phức là tớ đánh bài chuồn. Không phải nói khoác chứ tớ nhanh chân lắm. Tớ chả bao giờ theo cái gì đến cùng cả. Có lẽ vấn đề của tớ là ở chỗ ấy."
Gã gặp cô bồ thứ hai ở gần căn cứ tại Yamanashi. Vào một hôm nghỉ phép, thấy cô hỏng xe giữa đường, gã đã giúp cô thay lốp chiếc Suzuki Alto. Cô hơn gã một tuổi và đang theo học ở một trường nữ y tá.
"Cô ta thật dễ thương," Hoshino kể với phiến đá. "Vú to, con người rất nồng nhiệt. Chà, cô ta mới máu làm sao! Hồi ấy, tớ mới mười chín và ngày nào chúng tớ cũng ở trên giường với nhau. Vấn đề là cô ta ghen không thể tưởng tượng nổi. Hễ ngày nghỉ nào không thấy tớ đến là y như rằng cô ta tra khảo tớ tới số, hỏi đủ thứ: đi đâu, làm gì, đi với ai... Tớ nói thật, cô ta cũng không thỏa mãn. Vì thế nên chúng tớ chia tay. Hai đứa đi lại với nhau được độ một năm. Không biết cậu thấy thế nào, chứ tớ thì không chịu nổi ai hỏi vặn vẹo mình. Tớ cảm tôi hấy như không thở được và đâm chán. Thế là tớ chạy làng. Cái hay của LLTV là anh có thể nằm lì không thò mặt ra khỏi căn cứ cho đến khi mọi sự êm xuôi. Và cô ta chẳng làm gì được. Muốn bỏ một em mà không bị lôi thôi gì, tốt nhất là xung vào LLTV. Cậu nên ghi nhớ điều đó. Nhưng ngoài cái ấy ra cũng cực lắm: nào đào hầm đào hố, nào đắp bao cát, đủ tội."
Càng kể, Hoshino càng nhận ra đời mình thật vô bổ biết bao. Bốn trong sáu cô gái đã đi lại với gã đều tốt cả. (Hai cô còn lại, xét một cách khách quan, thì hơi có vấn đề, gã nhận định). Hầu hết đều đối xử với gã khá tốt. Không có em nào đổ quán xiêu đình, nhưng mỗi em xinh theo kiểu riêng của mình và sẵn sàng chiều gã bất cứ lúc nào gã thích. Không bao giờ phàn nàn khi gã bỏ qua thao tác khai mào và huỵch luôn vào cuộc. Họ nấu ăn cho gã vào những ngày nghỉ, mua quà tặng gã vào dịp sinh nhật, cho gã vay tiền khi gã cháy túi mà chưa tới kỳ phát lương (gã không nhớ là mình có trả sòng phẳng hay không) và không bao giờ đòi hỏi gã phải đáp trả lại. Tất cả những ân cần ấy, thế mà mình rõ là thằng vô ơn, gã kết luận. Mình cứ coi mọi sự là đương nhiên.
Cũng phải công nhận rằng gã không lừa dối một ai trong số đó. Nhưng một khi em bắt đầu phàn nàn, cố giành phần thắng khi tranh luận, ghen tuông ra mặt, khuyên gã để dành tiền, quá khích động khi thấy tháng hoặc chỉ hơi tỏ ra lo lắng về tương lai, là gã "gút-bai" liền. Gã luôn cho rằng điều quan trọng nhất khi quan hệ với một cô gái là tránh mọi tình huống phức tạp, cho nên chỉ cần một con sóng nhỏ làm chao thuyền là gã biến ngay, tìm một em khác và bắt đầu lại từ đầu. Gã chắc mọi người ai cũng làm như thế.
"Nếu tớ là con gái," gã nói tiếp với phiến đá, "và đi chơi với một thằng cha ích kỷ như tớ đây, hẳn tớ sẽ mất kiên nhẫn. Giờ đây, khi nhìn lại, tớ dám chắc thế. Tớ không hiểu làm sao họ có thể chịu được tớ lâu đến thé. Thật lạ lùng. (Gã châm một điếu Marlboro và từ từ nhả khói, một tay vuốt ve phiến đá). Tớ nói đúng không? Tớ không đẹp trai, cũng chẳng phải là kiện tướng trên giường. Không nhiều tiền, không thông minh, không thuộc loại tai to mặt lớn. Đầy nhược điểm. Con trai một nông dân nghèo ở miền quê, cựu binh quèn trong LLTV chuyển ngành làm lái xe. Nhưng nghĩ lại, tớ thấy mình thực sự may mắn với phụ nữ. Tớ không thành công lắm, nhưng bao giờ cũng có một bạn gái. Một em nào đó cho tớ ngủ cùng, cho tớ ăn, cho tớ vay tiền. Nhưng cậu biết gì không? Những điều tốt lành không kéo dài mãi mãi. Thời gian qua đi, tớ càng cảm thấy thấm thía điều đó. Như thể có ai đang bảo, Này Hoshino, rồi sẽ có ngày mày phải trả giá đấy. "
Gã vừa kể những cuộc phiêu lưu tình ái của mình vừa vuốt ve phiến đá. Quá quen tay với động tác đó rồi, gã không muốn dừng lại nữa. Đến trưa, tiếng kẻng ở một trường học vang lên và gã vào bếp nấu một bát udon với một ít hành và đập thêm quả trứng. Ăn trưa xong, gã lại nghe Tam tấu Archduke.
"Này, phiến đá," gã gọi ngay sau khi hết chương một, nhạc hay đấy chứ, nhỉ? "Cậu thấy không, nó làm cho trái tim mình mở ra."
Phiến đá lặng thinh.
Gã không biết là phiến đá có nghe hay không (dù là nghe gã hay nghe nhạc), nhưng gã cứ dấn tới nói tiếp. "Như sáng nay tớ đã nói, tớ đã làm một số điều gớm ghiếc trong đời. Tớ là thằng rất ích kỷ. Và bây giờ đã quá muộn để tẩy rửa hết, cậu hiểu không? Nhưng khi tớ nghe bản nhạc này, thì như thể ông Beethoven đang ở ngay đây nói chuyện với tớ, bảo tớ thế này, Thôi này Hoshino, đừng băn khoăn về chuyện ấy nữa. Đời là thế mà. Ta cũng đã từng làm một số điều khá gớm ghiếc. Chẳng thể thay đổi được gì đâu. Sự thể cứ xảy ra. Chỉ cần cháu kiên trì làm tốt hơn thôi. Trên thực tế, người như Beethoven chắc chẳng nói như thế đâu. Nhưng tớ cứ có cảm giác đó khi nghe nhạc của ông, tựa hồ như nó nói thế với tớ. Cậu có cảm thấy thế không?"
Phiến đá vẫn câm lặng.
"Dù sao đi nữa, đó chỉ là ý kiến cá nhân của tớ," Hoshino nói. "Tớ sẽ im miệng để chúng mình cùng nghe."
Lúc hai giờ, gã nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy một con mèo đen béo múp ngồi trên lan can ngoài hiên nhìn vào căn hộ. Chán ngán, gã mở cửa sổ, gọi với ra: "Này mèo con, hôm nay đẹp trời phết nhỉ?"
"Vâng, quả vậy, hôm nay đúng là một ngày đẹp trời, thưa cậu Hoshino," mèo đáp.
"Lạ chưa kìa," Hoshino lắc đầu, nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:53:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 47: Cái thằng tên là Quạ


Nái thằng tên là Quạ trễ nải lượn những vòng rộng bên trên khu rừng. Sau mỗi vòng, nó lại bay đến một chỗ khác và thận trọng bắt đầu một vòng mới giống hệt như trước. Những vòng đó nối nhau vẽ trong không khí những đường vô hình để rồi biến mất ngay sau đó. Như một chiếc máy bay trinh sát, nó thám sát khu rừng bên dưới, tìm một người nào đó mà nó chưa định vị được. Như một đại dương bao la, khu rừng lượn sóng bên dưới nó và trải ra đến tận chân trời với những cành lá chằng chịt đan thành một tấm áo choàng vô danh. Trời phủ đầy mây xám, ắng gió và cũng chẳng có nắng. Vào lúc này, cái thằng tên là Quạ hẳn là con chim cô độc nhất trên thế giới, nhưng nó không rảnh rang để nghĩ về điều đó.
Cuối cùng, nó phát hiện ra một chỗ hổng giữa biển cây phía dưới và lao xuống đó tới một khoảng đất trống. Ánh sáng lấp lánh trên một vạt đất xanh rờn cỏ. Ở một góc của khoảng đất trống đó, có một tảng đá tròn và một người đàn ông mặc một bộ đồ thể dục màu đỏ tươi, đội một chiếc mũ lụa đen đang ngồi trên đó. Ông ta đi ủng leo núi đế dày và một chiếc túi vải kaki đặt dưới đất bên cạnh ông. Một kiểu trang phục kỳ lạ, nhưng thằng cu tên Quạ bất cần. Đó chính là người nó đang tìm. Ông ta ăn mặc thế nào chẳng mấy quan trọng.
Nghe tiếng vỗ cánh đột ngột, người đàn ông ngẩng lên và thấy Quạ đáp xuống một cành to.
"Xin chào," ông ta vui vẻ nói.
Cái thằng tên là Quạ không trả lời. Đậu trên cành cây, nó thản nhiên nhìn người đàn ông không chớp mắt, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu sang một bên.
"Ta biết con là ai," người đàn ông nói. (Ông ta bỏ mũ ra rồi lại đội vào). "Ta đã linh cảm là chẳng bao lâu con sẽ đến thôi." Ông ta hắng giọng, cau mày và nhổ xuống đất rồi lấy ủng di bãi nước bọt đó.
"Ta đang nghỉ ngơi và cảm thấy buồn chán vì chả có ai để trò chuyện. Sao con không lại đây? Chúng ta có thể chuyện gẫu một chút cho vui. Thế nào? Ta chưa từng gặp con, nhưng thế không có nghãi là chúng ta hoàn toàn xa lạ với nhau."
Thằng cu tên là Quạ vẫn ngậm miệng, khép chặt đôi cánh vào người. Người đàn ông đọi mũ lụa khẽ lắc đầu. "À, ta hiểu. Con không nói được, phải không? Không sao. Ta sẽ nói cho cả hai, nếu con không phiền. Ta biết con sắp làm gì, cho dù con không nói nửa lời. Con không muốn ta đi sâu thêm, phải không? Cái đó rõ rành rành, ta có thể đoán thấy. Con không muốn ta đi sâu thêm nữa, nhưng đó lại đích thị là điều ta muốn làm. Bởi vì đây là một cơ hội vàng ta không thể để tuột - cơ hội ngàn năm có một."
Ông ta vỗ mạnh vào ống ủng leo núi ở chỗ ngang mắt cá chân.
"Nói cho nhanh nhé, con không thể ngăn ta đâu. COn không đủ sức. Nói cho con biết nhé, khi ta thổi cây sáo của ta, điều gì sẽ xảy ra? Con sẽ không thể đến gần ta. Đó là ma lực nơi cây sáo của ta. Có thể con không biết, chứ đây là thứ sáo duy nhất, không phải sáo thường. Và thực tế, ta có mấy cây trong cái túi này."
Ông ta với tay ra, thận trọng vỗ vỗ cái túi vải, rồi lại ngước nhìn thằng cu tên là Quạ vẫn đậu trên cành. "Ta làm cây sáo này bằng những hồn mèo mà ta thu thập được. Moi hồn chúng ra ngay khi chúng còn sống và luyện thành sáo này. Dĩ nhiên, moi hồn chúng ra như vậy, ta cũng thấy ái ngại, nhưng ta không đng được. Cây sáo này vượt ra ngoài mọi tiêu chuẩn về thiện/ác, yêu/ghét của thế gian. Làm những cây sáo này, từ lâu, đã là nghiệp của ta và ta luôn luôn nghiêm chỉnh hoàn thành vai trò của mình. Ta không có điều gì phải xấu hổ. Ta có vợ, có con và số sáo ta đã làm ra là trên mức vừa đủ. Cho nên ta sẽ không làm thêm nữa. Nói riêng với con, ta định gộp tất cả những sáo ta đã làm để tạo thành một cây sáo lớn hơn nhiều, có uy lực hơn nhiều: một cây sáo siêu cường tự thân nó là một hệ thống. Ngay bây giờ, ta đang đi tới một nơi mà ở đó ta có thể chế tạo cây sáo đó. Không phải ta quyết định cây sáo này sẽ phục vụ cho cái thiện hay cái ác, và cũng không phải là con. Mọi sự tùy thuộc vào việc ta ở nơi nào và lúc nào. Theo nghĩa đó, ta là người tuyệt đối không có thành kiến, cũng như lịch sử hay thời tiết, hoàn toàn không thiên vị. Chính vì thế, ta có thể biến thành một hệ thống."
Ông ta bỏ mũ ra, xoa dúm tóc thưa thớt trên đỉnh đầu, đội mũ tở lại, chỉnh nhanh vành mũ.
"Một khi ta thổi cây sáo này, ta có thể rũ bỏ con dễ như trở bàn tay. Có điều là ta không muốn thổi nó ngay lúc này. Phải vận dụng rất nhiều công lực và ta không muốn phí tí sức nào. Sau này, ta còn cần đến nó. Nhưng dù ta có thổi sáo hay không, con cũng không thể ngăn được ta. Nói thế là rõ ràng chứ."
Người đàn ông hắng giọng một lần nữa và xoa cái bụng bệu. "Con có biết cõi minh phủ là gì không? Đó là vùng trung lập giữa sống và chết. Một nơi buồn thảm, u ám. Nói cách khác, đó là nơi ta đang ở: khu rừng này. Ta đã chết ở ngay nhà mình, nhưng đã không đi sang thế giới bên kia. Ta là một linh hồn lang thang và một linh hồn lang thang thì không có hình thù. Ta khoác cái hình dạng này chỉ là tạm thời thôi. Vì thế con không thể làm gì được ta. Con hiểu chứ? Ngay cả nếu ta đổ máu tràn khắp chỗ này, thì đó cũng không phải là máu thật. Ngay cả nếu ta đau đớn ghê gớm, thì đó cũng chỉ là đau đớn giả. Kẻ duy nhất có thể tiêu diệt ta bây giờ là kẻ có đủ quyền lực để làm thế. Đáng buồn thay, con lại không đáp ứng tiêu chuẩn ấy. Con chẳng là cái gì hơn một ảo ảnh chưa đủ độ chín, thường thường bậc trung. Cho dù con quyết tâm đến đâu đi nữa, thì việc loại bỏ ta cũng là bất khả đối với những kẻ như con. (Ông ta nhìn thằng cu tên là Quạ và cười toét miệng). Thế nào? Có muốn thử không?
Như thể đó là hiệu lệnh nó chờ đợi, cái thằng tên là Quạ xòe cánh, nhảy khỏi cành và lao thẳng đến ông ta. Nó giương móng quắp lấy ngực ông ta, ngửa đầu ra sau và vung mỏ như một cái cuốc chim nhằm ngực phải ông ta mà bổ tới tấp, vừa tấn công vừa đập cánh ầm ầm. Người đàn ông không hề chống cự, thậm chí không giơ một ngón tay phản đối. Không kêu, mà trái lại còn cười lớn. Mũ ông rơi xuống đất và con ngươi phải mau chóng nát bấy và lòng thòng lòi ra khỏi hố mắt. Bây giờ, thằng cu tên là Quạ ráo riết tấn công con mắt bên kia. Khi cả hai mắt chỉ còn là hai cái hốc trống không, nó chuyển ngay sang mổ túibụi vào mặt ông ta. Chẳng mấy chốc, mặt ông ta đã bị rách bươm, những mảng da bay tứ tung, máu trào ra, chỉ còn là một cục thịt đỏ lòm. Sau đó, Quạ tấn công đỉnh đầu ông ta, nơi tóc thưa nhất. Và ông ta vẫn tiếp tục cười rộ. Đòn càng ác hiểm, ông ta càng cười lớn, như thể tình tếh quá khôi hài khiến ông ta không nhịn được cười.
Ông ta không lúc nào rời mắt (lúc này chỉ còn là hai hốc trống) khỏi Quạ và thi thoảng, giữa hai nhịp cười, còn đế được vào vài câu: "Thấy không? Ta đã bảo mà. Đừng làm ta cười thế. Tha hồ cho con cố hết sức cũng không đả thương được ta đâu. Con không đủ khả năng ấy. Con chỉ là một ảo ảnh vật vờ, một tiếng vang mơ hồ. Bất kể con làm gì cũng vô ích thôi. Hiểu không?"
Cái thằng tên là Quạ bèn mổ vào cái mồm đang tuôn ra những lời ấy. Đôi cánh lớn của nó không ngừng đập, dăm chiếc lông đen bóng rụng ra, xoáy lộn trong không trung như những mảnh hồn. Quạ lấy mỏ cắp lấy lưỡi ông ta, tận lực kéo. Cái lưỡi dài và to tướng bị kéo ra từ cuống họng, nó giãy giụa như một con nhuyễn thể khổng lồ, thốt ra những lời tăm tối. Tuy nhiên, mất lưỡi, ông ta không cười được nữa. Có vẻ như cũng không thở được nữa, nhưng ông ta vẫn ôm bụng cười ngặt nghẽo, toàn thân rung lên theo những nhịp cười không ra tiếng. Cái thằng tên là Quạ lắng nghe và tiếng cười vô thanh ấy - rỗng huếch và đầy điềm gở như gió thổi trên một sa mạc xa xăm - cứ vang mãi trong tai nó, không dứt. Quả vậy, nghe như một tiếng sáo từ bên kia thế giới.
Chương 47
Tôi thức dậy ngay sau rạng đông, đun nước, pha trà. Tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ để nhìn xem có gì diễn ra bên ngoài. Tất cả đều lặng tờ, không thấy dấu hiệu gì là có người ngoài phố. Đến cả chim chóc dường như cũng không muốn cất lên bản hợp xướng ban mai thường lệ của chúng. Những ngọn núi đằng đông chỉ hiện lên lờ mờ trong một ánh sáng yếu ớt. Nơi này xung quanh toàn núi cao, cho nên bình minh đến muộn và hoàng hôn thì lại đến rất sớm. Tôi đến đầu giường, nơi tôi để chiếc đồng hồ đeo tay, để xem mấy giờ, nhưng màn chữ số trống trơn. Tôi bấm đại mấy nút, cũng chả thấy gì. Pin còn mới, nhưng không hiểu vì lẽ gì mà đồng hồ lại chết trong khi tôi ngủ. Tôi đặt chiếc đồng hồ trở lại trên gối và xoa xoa cổ tay trái, nơi tôi thường đeo nó. Ở đây, thời gian không phải là một nhân tố quan trọng.
Trong khi nhìn ra quang cảnh trống trơn, vắng bóng chim bên ngoài, bỗng dưng tôi thấy thèm đọc sách, bất kỳ sách gì. Miễn là hình dạng giống quyển sách và có chữ in bên trong là được. Tôi chỉ cần cầm một quyển sách trong tay, lật giở các trang, lướt mắt trên những dòng chữ. Có điều là chẳng thấy bóng dáng một cuốn sách nào. Như thể ở đây, ngành in không tồn tại. Tôi tìm khắp phòng, rành là chẳng thấy gì có chữ ở trong.
Tôi mở tủ trong phòng ngủ để xem có những loại quần áo gì trong đó. Tất cả đều gấp gọn gàng. Không có cái nào mới, màu thì bạc phếch, vải thì nhẽo nhèo qua bao lần giặt. Tuy nhiên, tất cả đều có vẻ rất sạch. Có những áo phông cổ tròn, đồ lót, bít tất, sơ mi và quần bằng vải bông. Không vừa khít, nhưng cũng xuýt xoát khổ người tôi. Tất cả đều rất giản dị và không có họa tiết gì cả, như thể ý tưởng về những môtíp trang trí quần áo không bao giờ tồn tại. Không một chiếc nào mang nhãn mác - cả ở đây nữa, cũng loại trừ mọi dấu vết của chữ. Tôi cởi chiếc áo phông hôi hám ra, thay bằng một chiếc màu ghi thơm mùi nắng và xà phòng.
Một lúc sau - tôi không xác định được đích xác là bao lâu - cô gái đến. Cô khẽ gõ cửa và không chờ trả lời, mở luôn. Cửa không có bất kỳ kiểu khóa gì. Vai đeo chiếc túi vải, cô bước vào. Đằng sau cô, trời đã hửng sáng.
Cô đi thẳng vào bếp và rán mấy quả trứng trong một chiếc chảo nhỏ màu đen. Trứng ụp xuống dầu nóng phát ra một tiếng xèo vui tai và mùi trứng tươi rán tỏa khắp phòng. Trong khi đó, cô nướng mấy lát bánh mì trên một vỉ nướng bè bè như cái loại thường thấy trong những phim thời xa xưa. Quần áo và tóc cô vẫn y như tối hôm trước: áo váy xanh nhạt, tóc kẹp ra sau gáy. Da mịn, đẹp và đôi cánh tay trắng như sứ ánh lên trong nắng sớm. Qua cửa sổ mở, một con ong vè vè bay vào như để làm cho bức tranh thêm trọn vẹn. Cô gái mang đồ ăn tới bàn, ngồi xuống một chiếc ghế, nhìn tôi ăn món ốp-lết rau với bánh mì nướng phết bơ, uống trà nóng. Cô không ăn uống gì. Mọi sự lặp lại như tối qua.
"Ở đây, người ta có tự nấu lấy bữa ăn không?" tôi hỏi cô. "Tôi hỏi thế vì thấy cô đến nấu ăn cho tôi."
"Một số người nấu lấy, một số khác có người nấu hộ," cô đáp. "Nhưng nói chung, người ở đây chả ăn mấy."
"Thật ư?"
Cô gật đầu. " Thi thoảng họ mới ăn. Khi nào họ thích."
"Cô muốn nói không ai ăn nhiều như tôi chứ gì?"
"Anh có thể nhịn cả ngày không ăn được không?"
Tôi lắc đầu.
"Người ở đây thường nhịn ăn cả ngày mà không sao. Trên thực tế, họ thường quên ăn, có khi cả mấy ngày liền."
"Tôi chưa quen với cuộc sống ở đây, nên tôi vẫn phải ăn."
"Hẳn thế," cô nói. "Vì thế em mới đến đây nấu cho anh."
"Phải mất bao lâu tôi mới quen được với nơi này?" tôi nhìn vào mặt cô, hỏi.
"Bao lâu?" cô nhắc lại và từ từ lắc đầu. "Em không biết. Đây không phải là vấn đề thời gian. Đến lúc ấy, anh sẽ thấy là mình đã quen rồi."
Chúng tôi ngồi đối diện nhau, hai tay cô úp sấp trên bàn. Mười ngón tay nhỏ nhắn cương nghị của cô rành là thật trước mắt tôi. Trực diện với cô, tôi thấy từng thoáng rung động của hàng mi cô, đếm được từng cái chớp mắt của cô, quan sát từng sợi tóc cô xõa xuống trán. Tôi không thể nào rời mắt khỏi cô.
" Lúc ấy? " tôi hỏi.
"Sẽ không phải như anh cắt bỏ một cái gì khỏi mình và ném nó đi đâu," cô nói. "Không phải là ném đi mà là nhận lấy, hấp thụ nó vào trong mình."
"Và tôi sẽ nhận cái đó vào trong tôi?"
"Đúng thế."
"Rồi thì sao?" tôi hỏi." Sau khi tôi nhận nó, điều gì sẽ xảy đến?"
Cô khẽ nghiêng đầu ngẫm nghĩ, một cử chỉ hết sức tự nhiên. Những sợi tóc lại đu đưa. "Rồi anh sẽ trở thành bản thân anh trọn vẹn," cô nói.
"Vậy theo cô, cho đến nay, tôi chưa trọn vẹn là chính tôi?"
"Bây giờ anh cũng hoàn toàn là anh," cô nói rồi nghĩ lại. "Có nghĩa là hơi khác một tí. Nhưng em không biết diễn tả thế nào cho chính xác."
"Tức là, chừng nào nó chưa thực sự xảy đến thì ta chưa hiểu hết được, phải không?"
Cô gật đầu.
Tôi nhìn cô mà thấy nhói trong tim và khi điều đó trở nên quá đau đớn, tôi nhắm mắt lại. Nhưng rồi tôi lại mở ra ngay để chắc chắn là vẫn còn đó. "Ở đây, người ta sống theo kiểu cộng đồng, đúng không?"
Cô nghĩ một lúc. "Mọi người sống với nhau và dùng chung một số thứ như nhà tắm, vòi hoa sen, nhà máy điện, chợ. Có một số thỏa thuận ngầm đơn giản, chẳng có gì là phức tạp. Không có gì cần nghĩ ngợi, hoặc thậm chí phải nói ra lời. Cho nên em không cần phải giải thích gì cho anh về cách thức làm cái này cái nọ. Điều quan trọng nhất ở đây là mỗi người cứ để cho sự vật thụ mình vào. Chừng nào anh làm thế, thì chẳng có vấn đề gì."
"Hấp thụ nghĩa là thế nào?"
"Chẳng hạn như khi anh ở trong rừng, anh trở thành một bộ phận khăng khít của nó. Khi anh ở trong mưa, anh là một phần của cơn mưa. Khi anh ở trong buổi sáng, anh là một bộ phận của buổi sáng. Khi anh ở bên em, anh là một bộ phận
"Khi cô ở bên tôi, cô là một bộ phận không thể tách rời của tôi chứ?"
"Đúng vậy."
"Cô cảm thấy như thế nào khi cùng lúc vừa là chính mình vừa là một bộ phận của tôi?"
Cô nhìn thẳng vào tôi và đưa tay lên sờ chiếc cặp tóc. "Rất tự nhiên. Một khi đã quen rồi thì hết sức đơn giản. Như là bay ấy."
"Cô biết bay?"
"Đó chỉ là thí dụ ," cô nói và mỉm cười, một nụ cười không mang ý nghĩa sâu xa hoặc hàm ẩn gì, cười để mà cười thôi. "Anh không thể biết được cảm giác khi bay là thế nào, chừng nào anh chưa thực sự bay. Ý em là như thế."
"Vậy đó là một điều tự nhiên, thậm chí ta không cần phải nghĩ đến nó?"
Cô gật đầu. "Vâng, nó hoàn toàn tự nhiên, tĩnh mặc, êm đềm, một cái gì đó ta không cần phải nghĩ đến. Nó thoải mái như không ấy."
"Tôi hỏi nhiều quá, phải không?"
"Không đâu," cô đáp. "Em chỉ muốn sao có thể giải thích được rõ ràng hơn thôi."
"Cô có ký ức không?"
Cô lại lắc đầu và đặt tay lên bàn, lần này để ngửa. Cô nhìn tay mình, sắc mặt không biểu lộ gì.
"Không. Ở một nơi mà thời gian không quan trọng thì ký ức cũng thế. Dĩ nhiên, em có nhớ là tối qua đã đến đây nấu món hầm cho anh. Và anh đã ăn hết sạch, phải không? Về hôm trước nữa, em có nhớ một ít. Nhưng xa hơn nữa thì em chả nhớ gì. Thời gian đã hòa tan vào trong em và em không còn phân biệt được sự kiện này với sự kiện nọ."
"Vậy ở đây, ký ức cũng không quan trọng?"
"Đúng," cô cười tươi rói. "Ở đây, ký ức không quan trọng. Đó là phận sự của thư viện."
Cô đi rồi, tôi ngồi bên cửa sổ, giơ một bàn tay ra ngoài nắng. Bóng nó in trên thành cửa sổ, rõ nét năm ngón rành rành. Con ong thôi không vo ve bay quanh nữa mà đậu trên một ô kính. Dường như nó có một điều gì cần suy nghĩ nghiêm túc. Và tôi cũng vậy.
Khi mặt trời vượt qua thiên đỉnh, bà đến chỗ tôi đang ở, gõ nhè nhẹ và mở cửa. Trong một lúc, tôi không dám chắc là mình đang nhìn thấy ai - cô gái trẻ hay bà . Chỉ một thoáng chuyển dịch ánh sáng hay cách gió thổi là đủ để người đứng trước mặt biến đổi hoàn toàn: lúc này là cô gái mười lăm, lát sau đã biến thành Miss Saeki. Tuy nhiên, điều đó không thực sự diễn ra. Không nghi ngờ gì nữa, người đứng trước mặt tôi đích thị là Miss Saeki chứ không phải ai khác.
"Chào," bà nói bằng một giọng tự nhiên như khi chúng tôi gặp nhau trong hành lang thư viện. Bà mặc chiếc sơ mi dài tay màu xanh nước biển và cái váy đồng bộ chấm đầu gối, đeo một chiếc vòng bạc mảnh và hoa tai bằng ngọc trai - hệt như tôi thường thấy bà. Đôi giày cao gót bước trên bậc thềm phát ra những tiếng khô ngắn, một âm thanh hơi lạc điệu ở đây. Từ khung cửa, bà đứng nhìn tôi như thể để kiểm tra xem có thật là tôi hay không. Cố nhiên, đây chính thật là tôi. Cũng như bà đích thị là Miss Saeki.
"Cô vào dùng chén trà nhé?" tôi mời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:56:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 47 (tiếp)


"Rất vui lòng," bà nói. Và như thể, cuối cùng, đã đủ dũng khí, bà bước vào.
Tôi vào bếp, mở lò, đun nước, cố gữ cho nhịp thở bình thường.
Bà ngồi vào đúng chiếc ghế cô gái vừa ngồi, bên bàn ăn. "Cô có cảm giác như chúng mình lại đang ở thư viện," bà nói.
"Đúng thế," tôi tán thưởng. "Chỉ khác cái là không có cà phê và không có Oshima."
"Và không thấy một cuốn sách nào," bà nói.
Tôi pha hai tách trà thảo mộc và mang ra bàn, ngồi đối diện bà. Chim líu lo bênngoài cửa sổ mở rộng. Con ong vẫn đang ngủ trên ô kính.
Miss Saeki là người đầu tiên lên tiếng. "Cô muốn cháu biết cô đến đây không dễ dàng gì. Nhưng cô cần gặp cháu và nói chuyện với cháu."
Tôi gật đầu. "Cháu rất vui thấy cô đến."
Nụ cười quen thuộc của bà thấp thoáng trên môi. "Có một điều cô muốn nói với cháu." Nụ cười của bà gần giống với nụ cười của cô gái nhưng có chiều sâu hơn, một nét khác biệt nhỏ khiến tôi xúc động.
Bà ấp cả hai tay quanh tách trà. Tôi nhìn đôi hoa tai ngọc trai nhỏ xíu của bà. Còn bà thì ngẫm nghĩ, lần này lâu hơn mọi khi.
"Cô đã đốt hết những hồi ức của mình," bà nói, chậm rãi chọn từng chữ. "Chúng đã bốc thành khói và biến mất trong thinh không. Cho nên chẳng bao lâu nữa, cô sẽ quên hết. Quên mọi thứ - kể cả thời gian cô ở bên cháu. Vì thế cô muốn gặp và nói chuyện với cháu trong thời hạn sớm nhất có thể. Trong khi cô hãy còn nhớ."
Tôi vươn cổ nhìn con ong đậu trên cửa sổ, cái bóng nhỏ xíu của nó chỉ là một chấm đen trên thành cửa.
"Điều quan trọng nhất," bà nói nhỏ nhẹ, "là cháu phải ra khỏi đây. Đi thật nhanh, hết sức của cháu. Rời khỏi đây, xuyên qua khu rừng và trở về với cuộc đời cháu đã bỏ lại. Cửa vào sắp đóng lại. Hãy hứa với cô là cháu sẽ làm thế."
Tôi lắc đầu. "Miss Saeki, có điều này cô không hiểu, cháu không có thế giới nào để trở về. Cả đời, chẳng có ai thực sự yêu cháu hoặc cần đến cháu. Cháu chẳng biết ai có thể trông cậy được ngoài bả thân mình. Đối với cháu, cái cụm từ 'cuộc đời cháu đã bỏ lại' là vô nghĩa."
"Nhưng cháu vẫn phải trở về."
"Ngay cả nếu không có gì chờ cháu ở đó? Ngay cả nếu chẳng ai quan tâm đến sự hiện diện của cháu ư?"
"Đó không phải là lý do," bà nói. "Đó là điều cô muốn. Cô muốn cháu ở đó."
"Nhưng cô có ở đấy đâu?"
Bà nhìn xuống hai bàn tay nắm chặt tách trà. "Phải, cô không còn ở đấy nữa."
"Cô cần gì ở cháu nếu như cháu trở lại đó?"
"Chỉ một điều thôi," bà nói, ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào mắt tôi. "Cô muốn cháu nhớ đến cô. Nếu có cháu nhớ cô, thì dù mọi người khác đều quên, cô cũng bất cần."
Im lặng trùm lên chúng tôi một lúc. Một im lặng sâu thẳm.
Một câu hỏi dâng lên trong tôi, một câu hỏi lớn đến nỗi nó làm cổ họng tôi nghẹn ắng, khiến tôi gần như không thở được. Cuối cùng, bằng cách nào đó, tôi kìm lại được, nuốt ực xuống và chọn một câu hỏi khác. "Việc tưởng nhớ quan trọng đến thế ư?"
"Cũng tùy," bà đáp và khẽ nhắm mắt lại. "Trong một số trường hợp, đó là điều quan trọng nhất."
"Thế mà cô lại đốt hết hồi ức của mình."
"Cô không cần đến nó nữa," Miss Saeki đặt hai tay úp sấp trên bàn, như cách cô gái hôm đầu. "Kafka, cô xin cháu một điều. Cô muốn cháu mang bức tranh ấy đi."
"Cô muốn nói bức tranh trong phòng cháu ở thư viện? Bức tranh vẽ biển?"
"Phải," Miss Saeki gật đầu, "bức Kafka bên bờ biển . Cô muốn cháu mang nó đi. Mang đi đâu, cô không cần biết. Đến bất kỳ nơi nào cháu đến."
"Nhưng nó thuộc sở hữu của ai không?"
Bà lắc đầu. "Nó là của cô. Người ấy đã tặng cô trước khi đi học đại học ở Tokyo. Từ đó, nó luôn ở bên cô. Sống ở đâu, cô cũng treo nó lên tường trong phòng cô. Khi cô bắt đầu làm việc ở thư viện Komura, cô trả nó về căn phòng ấy, nơi nó được treo đầu tiên, nhưng chỉ là tạm thời thôi. Cô để lại cho Oshima một bức thư, dặn rằng cô muốn cháu giữ bức tranh đó. Xét cho cùng, về căn nguyên, bức tranh đó là của cháu."
"Của cháu?"
Bà gật đầu. "Cháu ở trong đó mà. Và cô cũng ở đó, đang nhìn cháu. Bên bờ biển, đã lâu lắm rồi. Gió thổi, những đám mây trắng bồng bềnh và mãi mãi là mùa hè."
Tôi nhắm mắt lại. Tôi đang ở trên bãi biển và đó là mùa hè. Tôi nằm dài trên một chiếc ghế bố. Tôi có thể cảm thấy lớp vải thô nháp của nó trên làn da. Tôi hít thật sâu mùi biển và thủy triều. Ngay cả nhắm mắt, tôi vẫn cảm thấy chói nắng. Tôi có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ. Tiếng sóng lúc lùi xa, lúc tiến lại gần, như thể thời gian làm nó lắc qua lắc lại. Gần đấy, có người đang vẽ tôi. Và ngồi cạnh anh ta, một cô gái mặc chiếc áo váy ngắn tay màu xanh nhạt đang nhìn về phía tôi. Cô đội một chiếc mũ rơm tết nơ trắng trên mái tóc duỗi thẳng, và vốc cát cho chảy qua kẽ ngón tay. Những ngón tay thon dài: những ngón tay của người chơi dương cầm. Đôi cánh tay mịn màng ánh lên trong nắng. Một nụ cười rất tự nhiên thấp thong trên môi cô. Tôi yêu cô. Và yêu tôi.
Đó là ký ức.
"Cô muốn cháu giữ bức tranh đó mãi mãi," Miss Saeki đứng dậy đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Mặt trời vẫn còn cao trên bầu trời. Con ong vẫn ngủ. Miss Saeki đưa ngón tay lên che cho đỡ chói mắt và nhìn một cái gì đó ở xa tít, rồi quay lại đối mặt tôi. "Cháu phải đi thôi," bànói.
Tôi đến bên bà. Tai bà cọ vào cổ tôi và tôi cảm thấy chiếc hoa tai cưng cứng trên làn da. Tôi áp cả hai lòng bàn tay vào lưng bà như thể cố giải mã một tín hiệu trên đó. Tóc bà chạm nhẹ vào má tôi. Bà ghì chặt tôi, những ngón tay bấm mạnh vào lưng tôi. Những ngón tay níu riết lấy bức-tường-thời-gian. Mùi biển, tiếng sóng xô bờ. Có ai gọi tên tôi từ xa, rất xa.
"Cô có phải là mẹ cháu không?" cuối cùng, tôi cũng đủ sức để thốt ra câu hỏi đó.
"Cháu đã biết câu trả lời rồi đấy," Miss Saeki nói.
Bà nói đúng, tôi đã biết câu trả lời. Nhưng cả hai chúng tôi không ai diễn đạt nó thành lời. Làm thế sẽ tiêu tan hết ý nghĩa của nó.
"Lâu lắm rồi, cô đã bỏ mặc một người mà lẽ ra cô không nên bỏ. Một người mà cô yêu hơn bất kỳ cái gì khác trên đời. Cô sợ rằng một ngày nào đó, cô sẽ mất người đó. Cho nên cô phải chủ động. Nếu như số phận muốn rằng cô phải mất người đó bằng cách này hay cách khác, thì cô quyết định là thà tự mình chủ động bỏ còn hơn. Dĩ nhiên, cô cảm thấy giận dữ, một nỗi giận dữ không bao giờ nguôi. Nhưng đó là một sai lầm lớn. Lẽ ra cô tuyệt đối không nên bỏ người ấy."
Tôi lặng thinh nghe.
"Con đã bị gạt bỏ bởi cái người duy nhất không bao giờ nên làm điều đó," Miss Saeki nói. "Kafka... con có tha thứ cho ta không?"
"Con có quyền tha thứ không?"
Bà nhìn vai tôi và gật đầu liền mấy cái. "Chừng nào nỗi giận dữ và sợ hãi không ngăn con."
"Miss Saeki, nếu con thực sự có quyền tha thứ, thì... vâng, con tha thứ cho cô," tôi nói.
Mẹ ơi, mày nói, con tha thứ cho mẹ. Và với những lời đó thốt lên thành tiếng, cái phần băng giá trong tim mày sụp đổ.
Bà lặng lẽ buông tôi ra. Bà tháo chiếc cặp tóc ra và không một giây lưỡng lự, đâm mạnh đầu nhọn vào lòng cổ tay trái mình. Tay phải bà ấn chặt nó xuống một mạch ven và máu bắt đầu ứa ra. Giọt đầu tiên giỏ đánh độp xuống sàn nhà. Không một lời, bà giơ cánh tay về phía tôi. Một giọt máu nữa rơi xuống sàn.
Tôi cúi xuống và đặt môi lên vết thương nhỏ, thè lưỡi liếm máu bà, nhắm mắt lại thưởng thức vị của nó. Tôi ngậm chút máu trong miệng và từ từ nuốt. Máu bà chảy sâu và họng tôi. Mặt ngoài khô nứt của tim tôi lặng lẽ hút kiệt nó. Chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu mình cần thứ máu ấy đến mức nào. Tâm trí tôi ở tận đâu đâu, nhưng thân xác tôi thì hãy còn ở ngay đây - y như một linh hồn sống vậy. Tôi cảm thấy muốn hút cạn đến giọt máu cuối cùng của bà, nhưng không thể được. Tôi nhấc môi khỏi cánh tay bà và nhìn dõi vào mặt bà.
"Vĩnh biệt Kafka Tamura," Miss Saeki nói. "Hãy quay về nơi chốn của con và hãy sống."
"Miss Saeki?" tôi hỏi.
"Gì vậy?"
"Sống có ý nghĩa gì? Quả thật con không hiểu."
Bà buông tôi ra và nhìn tôi. Đặt một ngón tay lên môi tôi. "Hãy ngắm bức tranh," bà bình thản. "Hãy tiếp tục nhìn ngắm bức tranh. Như ta đã làm thế."
Và bà đi. Bà mở cửa ra, không ngoái lại, bước ra ngoài và đóng cửa lại. Tôi đứng ở cửa sổ nhìn theo. Bà nhanh chóng biến mất trong bóng đổ của một ngôi nhà. Tay đặt trên bậu cửa sổ, tôi dõi mắt thật lâu vào chỗ nhà biến mất. Có thể bà còn quên chưa nói một điều gì đó và sẽ quay lại chăng. Nhưng không có chuyện ấy. Tất cả chỉ còn lại một thiếu vắng, giống như một khoảng trống.
Con ong đã thức dậy và vo ve quanh tôi một lúc. Rồi như tôi chợt nhớ ra mình phải làm gì, nó bay vù vù qua cửa sổ ra ngoài. Nắng vẫn rọi xuống. Tôi trở lại bàn, ngồi xuống. Tách trà bà uống dờ còn đó. Tôi để nó ở nguyên chỗ, không đụng đến. Cái tách tựa như một ẩn dụ. Một ẩn dụ về ký ức chẳng bao lâu sẽ mất đi.
Tôi cởi chiếc sơ mi và mặc lại chiếc áo phông thấm mồ hôi hôi rình. Tôi đeo chiếc đồng hồ chết vào cổ tay trái. Rồi tôi đội chiếc mũ Oshima cho, lộn đằng trước ra sau, và đeo cặp kính râm mắt xanh da trời vào. Cuối cùng, tôi mặc chiếc áo sơ mi dài tay ra ngoài. Tôi vào bếp, vặn vòi nước uống một cốc, rồi bỏ cốc không vào bồn rửa và nhìn quanh phòng một lần cuối. Nhìn cái bàn ăn và những chiếc ghế. Nhìn chiếc ghế cô gái và Miss Saeki đã ngồi. Tách trà trên bàn. Tôi nhắm mắt lại và hít một hơi thật sâu. Con đã biết câu trả lời rồi đấy.
Tôi mở cửa, ra ngoài và đóng cửa lại. Bước xuống các bậc thềm, bóng đổ rõ nét trên mặt đất, như thể nó bám riết lấy chân tôi. Mặt trời vẫn còn cao vòi vọi.
Ở chỗ cửa rừng, hai người lính đang tựa vào một thân cây như thể họ vẫn đang chờ tôi. Trông thấy tôi, họ không hỏi một câu. Tựa hồ họ đã biết tôi đang nghĩ gì. Rồi họ khoác súng lên vai.
Người lính cao đang nhai một cọng cỏ.
"Cửa rừng vẫn còn mở," anh nói. "Ít nhất là cách đây một phút, khi anh kiểm tra thì nó vẫn mở."
"Chú em không phiền nếu các anh đây vẫn giữ nhịp đi như trước chứ?" anh to con hỏi. "Chú em theo được chứ?"
"Không vấn đề. Em theo kịp được."
"Nhưng nếu ta đến đó mà cửa đóng rồi thì thành vấn đề đấy," anh cao bổ sung.
"Thế thì chú em sẽ bị kẹt ở đây đấy," anh to con nói thêm.
"Em biết," tôi nói.
"Rời khỏi đây, chú em không tiếc à?" anh cao hỏi.
"Không hề."
"Vậy thì ta đi thôi."
"Tốt nhất là đừng nhìn lại đằng sau," anh to con nói.
"Phải, đó là một ý hay," anh cao bình luận
Và một lần nữa, tôi lại đi xuyên rừng.
Một lần, khi đang leo một con dốc, tôi có ngoái nhìn lại. Mặc dù hai anh đã cảnh báo, tôi vẫn không đừng được. Đây là điểm cuối cùng từ đó có thể nhìn thấy thị trấn. Đi quá nữa, nó sẽ khuất hẳn sau một bức tường cây cao và cái thế giới ấy sẽ biến mất vĩnh viễn khỏi tầm mắt tôi.
Phố xá vẫn tịnh không một bóng người. Một dòng suối đẹp chảy qua thung lũng, những ngôi nhà nhỏ hai bên đường, những cột điện đổ bóng dài trên mặt đất. Trong một lúc, tôi sững ra tại chỗ. Tôi phải quay lại, bất kể là thế nào. Ít nhất tôi cũng có thể ở đến chiều, khi cô gái với cái túi vải đến thăm tôi. Hễ anh cần là em sẽ đến ngay . Có một cục gì đó nóng rát và một thứ nam châm cực mạnh hút tôi trở lại về phía đó. Chân tôi như bị đổ chì, không nhúc nhích được. Nếu tôi đi, tôi sẽ không bao giờ gặp lại cô. Tôi dừng lại. Tôi mất hết ý thức về thời gian. Tôi muốn kêu to với hai anh lính đi phía trước: Em không về nữa đâu, em ở lại . Nhưng không một tiếng nào được thốt ra. Lời chữ mất hết sức sống rồi.
Tôi bị kẹt giữa hai khoảng trống. Tôi không biết thế nào là phải, thế nào là quấy. Tôi cũng không biết mình muốn gì nữa. Tôi đang đứng trơ trọi giữa một cơn bão cát khủng khiếp. Tôi không cử động được, thậm chí không nhìn thấy đầu ngón tay mình nữa. Cát trắng như xương nghiền thành bột siết chặt quanh tôi. Nhưng tôi nghe thấy Miss Saeki nói với tôi bằng một giọng cương quyết: "Bất kể thế nào, con cũng phải trở về. Ta muốn thế. Muốn con phải ở đó."
Ma thuật bị phá vỡ và tôi định thần lại. Máu nóng trở lại cơ thể tôi. Máu bà truyền cho tôi, những giọt máu cuối cùng còn lại nơi bà. Phút sau, tôi quay mặt về phía trước và đi theo hai anh lính. Tôi rẽ ngoặt một góc đường và cái thế giới nhỏ bé dưới thung kia biến mất, tani mộng. Giờ tôi chỉ tập trung vào việc đi qua rừng mà không bị lạc. Không chệch khỏi con đường mòn. Đó là điều quan trọng tôi phải làm.
Cửa rừng vẫn còn mở. Hãy còn thì giờ cho đến tối. Tôi cảm ơn hai anh lính. Họ đặt súng xuống và, như hôm trước, lại ngồi lên tảng đá lớn bằng phẳng. Anh cao vẫn đang nhấm nháp một cọng cỏ. Họ không hề thở dốc sau cuốc xuyên rừng với tốc độ đứt hơi.
"Đừng quên điều anh nói với chú em về lưỡi lê đấy," anh cao nói. "Khi chú em đâm lê vào kẻ địch, chú em phải vừa xoáy vừa rạch cho nát ruột nó ra. Nếu không, nó sẽ làm thế với chú em. Cái thế giới ngoài ấy nó là thế."
"Nhưng không phải chỉ có vây," anh to con nói.
"Tất nhiên," anh cao đáp và hắng giọng. "Đấy là mình nói về cái mặt tối của sự vật thôi."
"Cũng thật khó để phân biệt cái đúng với cái sai," anh to con nói.
"Nhưng đó lại chính là điều ta phải làm," anh cao nói.
"Có lẽ thế," anh to con nói.
"Còn một điều nữa," anh cao nói. "Một khi chú em rời khỏi đây, chớ có ngoái nhìn lại chừng nào chú em chưa tới đích. Không một lần nào, chú em hiểu không?"
"Cái đó quan trọng đấy," anh to con nhấn thêm.
"Ban nãy, không hiểu sao chú em thoát được," anh cao nói, "nhưng lần này thì nghiêm trọng đấy. Chưa tới nơi định đến, thì đừng bao giờ ngoái nhìn lại."
"Đừng bao giờ," anh to con nói.
"Em hiểu," tôi nói với hai anh.
Tôi cảm ơn họ một lần nữa và chào tạm biệt.
Hai anh đứng nghiêm chào kiểu nhà binh. Tôi biết sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Họ cũng biết thế. Và đôi bên đều biết thế, chúng tôi vĩnh biệt nhau.
Tôi không nhớ rõ lắm là sau khi chia tay với hai anh lính, tôi đã làm thế nào để về được tới căn nhà gỗ của Oshima. Chắc là trong khi băng qua rừng rậm, tâm trí tôi để tận đâu đâu. Kỳ lạ thay, tôi lại không bị lạc. Tôi nhớ mang máng là đã thấy chiếc ba lô nhỏ bị vứt đi hôm rồi và đã nhặt nó lên như cái máy. Với chiếc la bàn, chiếc rìu nhỏ, chiếc bình xịt sơn cũng thế. Tôi cũng nhớ lúc thấy lại những dấu sơn vàng đã xịt trên các thân cây như những cái vẩy do một con bướm đêm khổng lồ để lại.
Tôi đứng trong khoảng phát quang trước căn nhà gỗ và nhìn lên trời. Thế giới quanh tôi bỗng tràn đầy những âm thanh tưng bừng: tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách, tiếng gió rung lá xào xạc. Tất thảy đều nhỏ nhẹ, nhưng, với tôi, dường như thể những cái nút bịt chặt lỗ tai vừa được mở bung ra và tất thảy đều vang lên gần kề, sinh động và ấm áp xiết bao. Tất cả quyện lẫn với nhau, tuy nhiên, tôi vẫn phân biệt được từng âm thanh riêng lẻ. nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo ở cổ tay: nó lại chạy rồi. Những con số nhấp nháy trên màn hình bé xíu, mỗi phút lại thay đổi, như không có chuyện gì xảy ra vậy. Lúc này là 4 giờ 16 phút.
Tôi vào nhà và cứ để nguyên quần áo nằm trên giường. Kiệt lực. Tôi nằm ngửa và nhắm mắt lại. Một con ong đậu trên cửa sổ. Cánh tay cô gái ánh lên dưới nắng như sứ. "Đó chỉ là thí dụ thôi," cô nói.
"Hãy nhìn ngắm bức tranh," Miss Saeki nói. "Như cô đã từng làm thế.
Những hạt-cát-thời-gian trắng xóa chuội qua giữa những ngón tay thon dài của cô gái. Sóng nhẹ nhàng xô bờ, trào lên, rớt xuống rồi vỡ ra. Trào lên, rớt xuống rồi vỡ ra. Và ý thức của tôi bị hút vào một hành lang tối om.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:57:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 48


Lạ chưa kìa!" Hoshino nhắc lại.
"Có gì là lạ, cậu Hoshino," con mèo đen mặt to, coi bộ khá già, uể oải nói. "Tôi chắc cậu buồn chán vì cứ thui thủi một mình, suốt ngày nói chuyện với phiến đá."
"Nhưng làm sao đằng ấy nói được tiếng người?"
"Tôi đâu có nói tiếng người."
"Tớ không hiểu đấy. Làm sao chúng ta có thể thực hiện một cuộc trò chuyện như thế này? Giữa một con người và một con mèo?"
"Chúng ta đang ở trên đường biên của thế giới này, nói một ngôn ngữ chung. Có thế thôi."
Hoshino ngẫm nghĩ một lúc. "Đường biên của thế giới? Một ngôn ngữ chung?"
"Cậu không hiểu cũng chả sao. Tôi có thể giải thích, nhưng dài dòng lắm," Mèo Đen vẫy đuôi mấy cái ngắn gọn ra ý cho qua.
"Khoan đã," Hoshino nói. "Đằng ấy là Đại tá Sanders phải không?"
"Đại tá gì?" Mèo Đen sưng sỉa nói. "Tôi chả biết cậu nói đến ai. Tôi là tôi, chứ chẳng phải là ai khác. Chỉ là lão mèo hàng xóm với cậu thôi."
"Đằng ấy có tên không?"
"Hẳn nhiên là có."
"Là gì?"
"Toro," Mèo Đen đáp, hơi ngần ngừ.
"Toro?" Hoshino nhắc lại. "Một trong những món sushi?"
"Chính xác," Toro đáp. "Ông chủ tôi là đầu bếp chuyên về sushi. Ông ấy có cả một con chó. Tên nó là Tekka - một món sushi khác."
"Làm sao đằng ấy biết tên tớ?"
"Cậu nổi tiếng quá mà, cậu Hoshino," Toro mỉm cười đáp.
Trước đây, Hoshino chưa bao giờ thấy một con mèo mỉm cười. Tuy nhiên, nụ cười nhanh chóng tắt và Toro trở về với vẻ thản nhiên quen thuộc của nó.
"Giống mèo chúng tôi biết mọi chuyện," Toro nói. "Tôi biết hôm qua, ông Nakata đã chết và ở trong kia, có một phiến đá có giá trị. Tôi đã sống rất lâu và biết mọi chuyện xảy ra quanh đây."
"Chà," Hoshino lẩm bẩm, thán phục. "Này, thay vì hứng gió ngoài này, tại sao đằng ấy không vào đây chơi một tí, Toro?"
Vẫn nằm trên lan can, mèo ta lắc đầu. "Không, tôi thích ở đây. Vào trong đó, tôi không thoải mái. Với lại, trời đẹp thế này, tại sao ta không ở ngoài mà trò chuyện?"
"Thế cũng được," Hoshino nói. "Này, đằng ấy có đói không? Tớ dám chắc là chúng mình có cái ăn đấy."
Một lần nữa, Toro lại lắc đầu. "Cám ơn, ăn thì tôi rất sẵn sàng, nhưng tôi đang phải cố giảm cân. Ông chủ của tôi có một nhà hàng sushi, nên tôi hơi bị nhiều cholesterol. Nặng cân quá, nhảy lên nhảy xuống chả dễ dàng gì."
"Thôi được, Toro, nói tớ nghe, có lý do gì khiến đằng ấy ở đây không?"
"Có," Mèo Đen nói. "Tôi chắc một mình cậu xoay xở với phiến đá thì hơi vất vả."
"Đằng ấy nói trúng phóc quá. Rõ là tớ đang bí."
"Tôi nghĩ mình có thể giúp cậu một tay."
"Thế thì tuyệt," Hoshino nói. "Đằng ấy sẵn sàng giúp tớ một chân chứ?"
"Vấn đề là ở cái phiến đá ấy," Toro nói và lắc đầu để xua một con ruồi vo ve bên tai. "Một khi trả phiến đá về đúng chỗ, là cậu xong nhiệm vụ. Sau đó, cậu muốn đi đâu thì đi. Tôi hiểu thế có đúng không?"
"Phải, đằng ấy hiểu đúng rồi. Một khi tớ đóng được phiến đá là hoàn tất chuyện. Nói như ông Nakata, khi anh đã mở một cái gì thì anh phải đóng nó lại. Đó là quy tắc."
"Vì vậy tôi nghĩ tôi có thể mách cho cậu phải làm gì."
"Đằng ấy biết tớ phải làm gì à?" Hoshino phấn khích hỏi.
"Dĩ nhiên," mèo ta nói. "Tôi đã bảo cậu là giống mèo chúng tôi biết tuốt mà. Đâu có như bọn chó."
"Vậy tớ phải làm gì?"
"Cậu phải giết nó đi," Toro nói gọn lỏn.
"Giết nó?" Hoshino hỏi lại.
"Đúng. Cậu phải giết nó."
"Nó là ai?"
"Cậu sẽ biết khi cậu trông thấy nó," Mèo Đen giải thích. "Chừng nào cậu chưa thực mắt thấy nó thì cậu còn chưa hiểu tôi muốn nói gì đâu. Bởi vì nó không có hình thù nhất định. Nó thay đổi hình dạng tùy theo tình thế."
"Đó có phải là một người không?"
"Không, không phải người. Chắc chắn thế."
"Vậy trông nó như thế nào?"
"Cậu phải cố mà hiểu chứ," Toro nói. "Tôi chẳng đã giải thích cho cậu rồi sao? Rằng cậu sẽ biết khi cậu trông thấy nó và nếu chưa thấy thì chưa biết? Có gì đâu mà cậu không hiểu?"
Hoshino thở dài. "Vậy bản chất đích thực của cái ấy là gì?"
"Cậu không cần phải biết điều đó," Toro nói. "Rất khó giải thích. Hay có lẽ tôi nên nói, cậu không biết thì tốt hơn. Dù sao đi nữa, lúc này đây nó đang chờ thời cơ. Nấp ở một xó tối nào đó, nín thở, quan sát và chờ đợi. Nhưng nó sẽ không chờ vô thời hạn đâu. Sớm hay muộn nó sẽ hành động. Tôi đồ rằng có thể chính hôm nay. Và chắc chắn nó sẽ qua trước mặt cậu. Đó là khoảnh khắc thích hợp."
" Thích hợp? "
"Một cơ may ngàn năm có một," Mèo Đen nói. "Cậu chỉ việc chờ và giết nó. Thế là xong chuyện. Rồi cậu tha hồ muốn đi đâu thì đi."
"Như thế có phạm pháp không?"
"Tôi là mèo, chẳng biết gì về luật pháp," Toro nói. "Tuy nhiên, vì nó không phải là người, nên tôi không tin là việc này dính dáng đến pháp luật. Dù sao đi nữa, cũng phải giết nó. Cả đến một con mèo như tôi cũng thấy rõ điều đó."
"Ô-kê, cứ cho là tớ muốn giết nó, nhưng giết như thế nào? Tớ chẳng biết nó to ngần nào hay hình dáng nó ra sao. Thật khó mà lập kế hoạch mưu sát khi không biết những dữ kiện cơ bản về nạn nhân của mình."
"Cái đó tùy cậu. Lấy búa đập. Đâm bằng dao. Bóp cổ. Thiêu sống. Cắn chết. Bất cứ cách nào cậu thấy hiệu quả, nhưng điều chủ yếu là cậu phải giết nó . Tiêu diệt nó một cách cực kỳ bạo liệt. Cậu đã từng ở Lực lượng Tự vệ phải không? Đã học bắn súng, đâm lê bằng tiền đóng thuế của nhân dân? Cậu đã là một người lính, vậy hãy dùng cái đầu của cậu mà nghĩ ra cách tốt nhất để giết nó."
"Những điều tớ học trong LLTV là những gì phải làm trong chiến tranh," Hoshino phản đối một cách yếu ớt. "Họ không huấn luyện tớ phục kích và giết một cái gì đó mà cả kích thước lẫn hình thù tớ đều không biết."
"Nó sẽ tìm cách đột nhập qua cửa vào," Toro nói tiếp, không đếm xỉa đến những lời phản đối của Hoshino. "Nhưng bất kể thế nào, cậu cũng không được để nó vào. Cậu phải đảm bảo giết chết nó trước khi nó lọt vào được bên trong cửa vào. Hiểu chưa? Cậu để nó tuột khỏi tay là đi đứt
"Cơ hội ngàn năm có một."
"Chính xác," Toro nói. "Mặc dù đó chỉ là một mỹ từ pháp."
"Nhưng cái ấy có nguy hiểm lắm không?" Hoshino rụt rè hỏi. "Liệu nó có thể phản đòn tớ không?"
" Có lẽ nó không nguy hiểm đến thế khi nó đang di chuyển," Toro nói. "Tuy nhiên khi nó dừng lại, thì hãy coi chừng. Lúc đó mới nguy hiểm. Cho nên khi nó chuyển động, đừng để nó thoát. Đó là lúc cậu cần phải ra tay kết liễu nó."
"Có lẽ thôi ư?" Hoshino nói.
Mèo Đen không trả lời. Nó him mắt, vươn mình trên thành lan can và từ từ đứng dậy.
"Tôi sẽ gặp lại cậu, cậu Hoshino. Nhớ là phải giết nó. Nếu cậu không làm thế, ông Nakata sẽ không bao giờ yên nghỉ. Cậu yêu quý ông già chứ?"
"Phải. Ông ấy là người tốt."
"Vậy thì cậu phải giết nó. Thanh toán nó một cách cực kỳ bạo liệt, như tôi đã nói. Ông Nakata ắt muốn cậu làm thế. Vậy hãy làm điều đó vì ông. Bây giờ cậu đã kế thừa vai trò của ông. Trước nay, cậu luôn luôn sống vô tư lự, không gánh trách nhiệm với ai, phải không? Bây giờ là cơ hội để cậu bù đắp lại. Đừng bỏ lỡ, nghe không? Tôi sẽ hết lòng ủng hộ cậu."
"Nghe mà nức lòng," Hoshino nói. "À mà này... tớ vừa nghĩ ra một điều."
"Điều gì?"
"Có khi phiến đá cửa vào vẫn mở là để nhử nó chăng?"
"Có thể thế," Toro nói, không tự tin lắm. "Một điều nữa: nó chỉ di chuyển vào những giờ rất khuya. Vậy cậu nên ngủ vào ban ngày để đảm bảo ban đêm đừng có ngủ quên mà để nó thoát."
Con mèo đen lẹ làng nhảy lên mái nhà bên cạnh, rướn thẳng đuôi và đi khỏi. Thân hình béo bự như thế mà nó đi nhanh thoăn thoắt. Từ hiên nhà, Hoshino nhìn theo đến lúc nó đi khuất. Toro không ngoái lại lấy một lần.
"Chà!" Hoshino nói rồi trở vào bếp, ngó quanh xem có gì khả dĩ dùng làm vũ khí. Gã tìm thấy một con dao bếp cực sắc cộng thêm một con dao khác nặng hơn, hình dáng như một chiếc rìu nhỏ. Căn bếp chỉ được trang bị một bộ nồi xoong thô sơ, nhưng lại có cả một bộ sưu tập dao phong phú. Thêm vào đó, gã chọn một cái búa to và một đoạn thừng nilông. Một chiếc cuốc phá băng hoàn tất "kho vũ khí" của gã.
Giá có một cây súng tự động nữa thì tuyệt, gã nghĩ trong khi tiếp tục lục lọi trong bếp. Hồi ở LLTV, gã được huấn luyện bắn súng tự động và từng là một xạ thủ khá. Không phải là gã hy vọng tìm thấy một cây súng đâu đó trong một cái tủ ly. Với lại, nếu có tiếng súng tự động trong một khu nhà ở yên tĩnh như thế này, ắt sẽ phải trả giá đắt.
Gã bày tất cả vũ khí của mình lên bàn trong phòng khách: hai con dao, chiếc cuốc chim, cái búa và đoạn dây thừng. Gã đặt cạnh đó một chiếc đèn pin, rồi ngồi xuống bên phiến đá và bắt đầu xoa.
"Ôi chao!" Hoshino nói với phiến đá. "Dao búa để đánh nhau với một cái mà thậm chí tớ không biết nó là cái gì! Mà lại do một con mèo đen hàng xóm chỉ đạo nữa! Hợp đồng kiểu quái gì thế này?"
Dĩ nhiên, phiến đá không bình luận.
"Toro nói có lẽ nó không nguy hiểm. Có lẽ? Nhưng ngộ nhỡ một cái gì từ Công viên Khủng long xuất hiện thì sao? Khi ấy, tớ phải làm gì, hở? Tớ đến toi mất."
Không thấy trả lời.
Hoshino nắm lấy chiếc búa, khoa lên mấy lần.
"Nghĩ cho cùng, tất cả là do số mệnh hết. Từ lúc tớ cho ông Nakata quá giang ở chặng nghỉ đến giờ, xem ra số mệnh đã định đoạt mọi sự. Kẻ duy nhất mù mờ không biết chính là tớ . Số mệnh là một điều thật kỳ lạ phải không? Cậu nghĩ thế nào về nó?"
Vẫn là một im lặng đá.
"Chậc, biết làm thế nào, phải không? Tớ là kẻ đã chọn con đường này, vậy tớ phải theo nó đến cùng. Khó mà tưởng tượng ra cái vật gớm ghiếc gì sẽ xuất hiện đêm nay, nhưng tớ bất chấp. Phải chiến đấu hết mình để diệt nó. Đời người ngắn ngủi và tớ đã có những ngày vui thú. Toro nói đây là cơ hội ngàn năm có một. Có lẽ ra đi trong vinh quang cũng không phải là điều tồi tệ. Chẳng gì cũng một lần thắng vì ông già Nakata thân yêu."
Hoshino làm theo lời Mèo Đen và ngủ một giấc trên chiếc sofa để chuẩn bị cho đêm nay. Tuân thủ chỉ thị của một con mèo như thế này kể cũng kỳ lạ, nhưng vừa nằm xuống, gã đã đánh một giấc ngon lành khoảng một tiếng đồng hồ. Chiều, trở dậy, gã vào bếp, hâm món càri tôm cho hết đông lạnh và ăn với cơm. Sẩm tối, gã ngồi xuống cạnh phiến đá, dao và búa trong tay.
Gã tắt hết đèn trừ một ngọn nhỏ đầu giường. Gã tính như vậy là tốt nhất. Nó chỉ di chuyển vào ban đêm, gã nghĩ, cho nên mình cứ để càng tối càng tốt. "Tao cũng muốn kết thúc sớm chuyện này, vậy nếu mày có ở ngoài ấy thì hãy chiềng mặt ra! Ta hãy dứt điểm đi, Ô-kê?" Một khi giải quyết xong ở đây, mình sẽ về thẳng căn hộ ở Nagoya, gọi một em tới hú hí."
Gã không nói chuyện với phiến đá nữa. Chỉ lặng lẽ đợi, chốc chốc lại đưa mắt nhìn đồng hồ treo tường. Lúc nào chán quá thì khoa dao khoa búa lên cho đỡ buồn. Nếu có gì xảy ra, thì chắc là phải vào quãng nửa đêm, gã nghĩ thầm. Nhưng dĩ nhiên cũng có thể sớm hơn và gã muốn đảm bảo chắc chắn không bỏ lỡ cơ hội - cơ hội ngàn năm có một của gã. Bây giờ không phải lúc lơi lỏng. Chốc chốc, gã lại cắn một miếng bánh quy giòn và nhấp một ngụm nước khoáng.
"Này phiến đá," Hoshino thì thầm. "Đã quá nửa đêm rồi, giờ ma quỷ lên đường. Khoảnh khắc của chân lý. Cậu với tớ hãy phát giác ra điều gì sắp xảy đến nhé, cậu nghĩ sao? (Gã với tay sờ phiến đá. Có thể chỉ do gã tưởng tượng, nhưng mặt đá hình như hơi nóng hơn mọi khi. Gã xoa đi xoa lại, huy động hết can đảm). Tớ muốn cậu cũng ủng hộ tớ, Ô-kê? Tớ cần sự hỗ trợ tinh thần."
Khoảng hơn ba giờ sáng một chút, một tiếng lạo xạo khẽ bắt đầu vẳng ra từ phòng bên, nơi đặt xác Nakata. Tựa như một cái gì đang bò trên chiếu tatami . Nhưng phòng đó trải thảm, làm gì có tatami .
Hoshino ngẩng đầu lên và dỏng tai nghe thật kỹ. Không thể nhầm được, gã nghĩ, một cái gì đó đang diễn ra trong ấy, tuy mình chưa biết đó là gì. Trống ngực gã bắt đầu đánh. Gã giắt cái búa vào thắt lưng, tay phải nắm chắc con dao nhọn, tay trái cầm đèn pin và đứng dậy.
"Đi nào..." gã ra lệnh, không nhằm cụ thể ai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:59:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 48 (tiếp)


Gã lặng lẽ trườn đến cửa phòng Nakata và mở ra. Gã bấm đèn pin và rọi nhanh quanh xác chết. Dứt khoát là tiếng lạo xạo phát ra từ chỗ này. Chùm tia sáng chiếu rõ một vật dài trăng trắng đang oằn oại trườn ra từ miệng Nakata. Nó khiến Hoshino nghĩ đến một quả bầu. Cỡ bằng bắp tay đàn ông và mặc dầu không biết nó dài bao nhiêu. Hoshino đoán chừng nó đã ra được một nửa. Thân nó ướt và lầy nhầy. Miệng Nakata bị banh rộng ra như miệng một con rắn, để cho vật đó chui ra, rộng hoác đến độ tưởng chừng hàm lão đã long ra.
Hoshino nuốt khan đánh ực một tiếng. Tay cầm đèn pin hơi run làm ánh sáng chao đảo. Chà, giờ mình phải làm thế nào để giết nó đây? gã tự hỏi. Dường như nó không có chân tay, mắt mũi chi cả. Trơn nhầy thế thì làm sao mà túm chặt được nó. Vậy mình phải làm thế nào để tiêu diệt nó? Mà nó là cái loại sinh vật gì mới được chứ?
Phải chăng nó là một thứ ký sinh trùng vẫn ẩn náu bên trong Nakata suốt từ trước đến nay? Hay đó là hồn của ông già? Không, không thể thế được. Trực giác của Hoshino bảo gã rằng cái vật ghê tởm này không thể đã trú ngụ bên trong Nakata được. Đến cả mình, vốn chẳng thông minh gì, cũng biết thế. Chắc chắn nó từ một nơi nào khác đến và chỉ nhằm vào được bên trong cửa vào thông qua ông Nakata thôi. Nó xuất hiện vào thời điểm thích hợp, sử dụng ông Nakata như một thứ hành lang để đạt tới mục đích của nó. Và mình không thể để điều đó xảy ra. Vì vậy mình phải giết nó. Như Toro nói, tiêu diệt nó một cách cực kỳ bạo liệt.
Hoshino tiến thẳng đến chỗ Nakata và mau lẹ cắm dao vào chỗ gã đoán là đầu vật đó. Gã rút dao và tiếp tục đâm, đâm tới tấp. Nhưng lưỡi dao dường như không gặp một lực cản nào đáng kể, chỉ thấy nó ngập thun thút như khi đâm vào một lá rau mềm. Bên dưới lớp ngoài trơn nhẫy, không có thịt cũng chẳng có xương. Không phủ tạng, không óc. Mỗi khi gã rút dao ra, chấy nhầy lại phủ kín vết thương ngay lập tức. Không thấy máu hoặc chất lỏng nào chảy ra. Nó không hề cảm thấy gì, Hoshino nghĩ thầm. Bất chấp sự tấn công ác liệt của Hoshino, vật nó vẫn tiếp tục trườn ra khỏi miệng Nakata.
Hoshino vứt dao xuống sàn và trở lại phòng khách lấy con dao hình rìu. Gã bổ liên hồi xuống cái vật lạ trăng trắng ấy, nhưng đúng như gã đã nghĩ, chẳng có gì bên trong - vẫn chỉ là chất nhờn trăng trắng như bên ngoài. Gã chém thêm mấy nhát, cuối cùng chặt đứt một phần của cái đầu, nó quằn quại trên sàn một lúc như con sên, rồi ngừng cựa quậy như thể chết hẳn. Điều đó không ảnh hươởg gì đến phần thân còn lại vẫn tiếp tục chuồi ra. Chất nhầy mau chóng phủ kín vết thương, phình lên thành thử vật đó nom vẫn như trước. Tất cả những diễn biến vừa rồi không hề làm nó chậm lại trong khi uốn mình lách ra khỏi miệng ông già.
Cuối cùng, toàn bộ vật đó đã ra hết, để lộ hình thù trọn ven của nó. Nó dài độ một mét, có một cái đuôi - điều đó khiến cho Hoshino có thể biết chắc đâu là đầu, đâu là đuôi. Đuôi nó giống như đuôi kỳ nhông, ngắn và to bè, chóp đột ngột thuôn nhọn thành một cái chấm. Không chân tay, không mồm, không mắt mũi. Nhưng rành là nó có một ý chí riêng. Không, Hoshino nghĩ, nói cho đúng, tất cả những gì nó có là một ý chí. Gã không cần phải suy luận một cách lô gích, đơn giản là gã biết thế. Khi nó chuyển động, nó hiện nguyên hình như thế này, gã nghĩ. Một ớn lạnh chạy dọc sống lưng gã. Dù thế nào đi nữa, gã kết luận, mình phải giết nó.
Tiếp đó, gã thử dùng búa, nhưng vô hiệu. Đập lõm chỗ nào, chất nhầy và phần thịt quanh đó lại đầy lên liền. Gã mang một cái bàn nhỏ đến và dùng một chân bàn nện nó, nhưng không cách nào làm chậm được bước tiến không nao núng của nó. Như một con rắn vụng về, nó từ từ, đều đặn trườn về phía phòng bên và phiến đá cửa vào.
Nó không giống bất kỳ thứ sinh vật nào mình từng thấy, Hoshino nghĩ. Không một thứ vũ khí nào làm gì được nó. Nó không có tim để ta đâm, không có cổ để ta bóp nghẹt. Vậy mình phải làm thế nào đây? Vật này hiểm ác , ta phải ngăn chặn không cho nó vào được bên trong cửa vào . Toro đã nói khi nào trong thấy nó, mình sẽ biết, và quả đúng như thế. Mình không thể để cho nó sống được.
Hoshino quay trở lại bếp để tìm xem có gì khác khả dĩ dùng làm vũ khi, nhưng chẳng thấy gì. Đột nhiên, gã nhìn xuống phiến đá dưới chân. Phiến đá cửa vào. Đây rồi! Mình có thể dùng phiến đá để đập nát nó. Trong ánh sáng lờ mờ, phiến đá có một ánh đo đỏ hơn mọi khi. Gã cúi xuống thử nhấc nó lên. Phiến đá lúc này nặng ghê gớm và gã không chuyển dịch được nó lấy một phân. "Tớ hiểu rồi: cậu lại trở thành phiến đá cửa vào," gã nói. "Vậy nếu tớ đóng cậu lại trước khi vạt ấy đến đây, nó sẽ không thể vào bên trong được."
Hoshino dốc toàn lực, hì hụi cố nhấc phiến đá, nhưng vô hiệu.
"Cậu không hề nhúc nhích," gã nói với phiến đá và hít vào thật mạnh. "Tớ nghĩ cậu còn nặng hơn cả lần trước. Ráng đến rụng cả hòn dái mà không chuyển một tí nào."
Đằng sau gã, tiếng rào rào vẫn tiếp tục. Cái vật trăng trắng vẫn đều đặn tiến mỗi lúc một gần. Gã không còn mấy thì giờ.
"Ráng một lần nữa nào," Hoshino nói. Gã đặt tay lên phiến dá, hít một hơi dài đầy phổi và nín thở. Tập trung toàn bộ năng lượng vào một điểm và đặt cả hai tay vào một cạnh của phiến đá. Nếu lần này mà không được, gã sẽ không có cơ may thứ hai nào nữa. Nào, Hoshino! Bây giờ hoặc không bao giờ! Dù chết cũng phải làm bằng được! Dốc hết sức lực có thể huy động được, gã hự một tiếng và bẩy lên. Phiến đá hơi nhích lên. Gã dồn nốt chút năng lượng cuối cùng vào cuộc và cuối cùng - tựa hồ gã phải bóc nó khỏi sàn - nâng được nó lên.
Đầu gã như muốn xỉu và các cơ tay của gã đau như xéảm giác như cặp tinh hoàn đã vỡ nát từ lâu rồi. Tuy nhiên, gã không thể nâng được nó cao hơn nữa. Hoshino nghĩ đến Nakata, ông già đã hy sinh đời mình để mở và đóng phiến đá. Bằng mọi giá, gã phải đi tới cùng, hoàn tất công việc ông để lại. Toro đã bảo gã phải kế thừa nhiệm vụ của ông già. Cơ bắp gã đang gào xin được tiếp máu mới, phổi thì chết thèm không khí để tạo ra máu đó, nhưng gã không thở được. Gã biết mình đã gần kề cái chết, vực thẳm của hư không đã rộng hoác ngay trước mắt gã. Nhưng gã phớt lờ, tổng động viên sức lực thêm một lần cuối và kéo phiến đá về phía mình. Nó dựng lên, ngửa ra rồi uỳnh một cái đổ sầm xuống sàn. Sàn rung lên dưới sức chấn động, cửa kính lanh canh.
Hoshino ngồi bệt đó, miệng há hốc đớp không khí. "Mày làm tốt đấy," một lát sau lấy lại được hơi, gã tự nhủ vậy.
Một khi đã đóng được cửa vào, xử lý với cái vật trăng trắng nọ trở nên đơn giản lạ lùng. Đích đến bị chẹn lối và nó biết thế. Nó ngưng đà tiến về phía trước và bắt đầu bò quanh phòng tìm một chỗ trốn, có lẽ hy vọng trườn trở vào miệng Nakata. Nhưng nó không đủ sức thoát thân. Hoshino đuổi theo và chặt nó ra từng mảnh bằng con dao hình rìu. Gã còn băm những mảnh đã chặt thành những mẩu nhỏ hơn nữa. Những mẩu bé tí này giãy giụa một lúc trên sàn nhưng rồi kiệt sức, nằm im không động đậy. Chúng cuộn chặt mình thành những viên tròn nhỏ và chết, thảm trải sàn lấp loáng chất nhầy của chúng. Hoshino vun tất cả lại bằng một cái hót rác, trút vào một túi đựng rác, lấy dây thắt chặt miệng lại rồi bỏ vào một cái túi to hơn cũng thắt chặt miệng. Cuối cùng, gã bọc tất cả vào một tấm vải đen dày tìm thấy trong phòng chứa đồ.
Hoàn toàn kiệt lực, gã ngồi bệt xuống sàn, hai vai nhô lên thụt xuống theo nhịp thở dốc. Tay gã run lẩy bẩy. Gã muốn nói gì đó nhưng không cất nên lời. "Mày đã làm tốt, Hoshino," một lát sau, gã mới thốt ra được.
Liệu những tiếng động khi mình tấn công cái vật lầy nhầy màu trắng và tiếng phiến đá đổ rầm xuống sàn có làm cho những người cùng chung cư thức giấc không? gã lo lắng tự hỏi. Không chừng có người đang quay số gọi 911 cũng nên. May thay không có gì xảy ra. Không còi xe cảnh sát, không ai đập cửa thình thình. Điều tối kỵ lúc này là thấy cảnh sát xộc tới.
Hoshino biết những mảnh và mẩu của cái vật nhầy trắng gói chặt trong mấy lần nilông và vải không dễ gì mà hồi sinh được. Chẳng còn chỗ nào cho chúng đi, gã nghĩ. Nhưng cứ cẩn thận cho chắc ăn vẫn hơn, thế nên gã quyết định rằng hửng sáng một cái là sẽ mang chúng ra đốt sạch ở bãi biển. Biến chúng thành tro.
Và khi mọi chuyện xong xuôi, gã sẽ trở về Nagoya. Về nhà.
Lúc này đã gần bốn giờ sáng và bên ngoài đã sáng. Đến lúc đi được rồi. Hoshino nhét quần áo vào túi dết, kể cả cặp kính râm và chiếc mũ Chunichi Dragons - giấu nó đi cho an toàn. Để cảnh sát tóm trước khi xong việc thì hỏng bét. Gã mang theo một chai dầu nấu bếp để nhóm lửa. Gã chợt nhớ chiếc CD Tam tấu Archduke và quẳng nó vào túi luôn thể.
Cuối cùng, gã vào phòng nơi thi hài Nakata nằm trên giường. Máy điều hòa nhiệt độ vẫn chạy hết cỡ và căn phòng lạnh cóng.
"Ông Nakata," gã nói, "cháu sắp sửa đi đây, cháu xin lỗi, nhưng cháu không thể ở lại đây mãi được. Ra ga, cháu sẽ gọi cảnh sát để họ đến lo liệu cho thi thể của ông, phần còn lại sẽ để cánh tuần tra giải quyết, được không? Ông cháu ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa, nhưng cháu sẽ không bao giờ quên ông. Thậm chí cháu nghĩ, ngay cả nếu cháu có cố quên ông, cũng không được."
Máy điều hòa nhiệt độ chợt tắt với một tiếng lạch xạch.
"Ông biết không," gã nói tiếp, "trong tương lai, bất cứ khi nào có chuyện gì xảy ra, cháu sẽ luôn luôn tự hỏi: Ông Nakata sẽ nói gì về chuyện này? Ở địa vị mình, ông Nakata sẽ làm gì? Cháu sẽ luôn luôn có người mà cháu có thể thỉnh vấn. Và ngẫm ra, đó là một điều lớn lao. Nó như thể một phần của ông vẫn sống bên trong cháu. Đành rằng cháu không phải là cái vỏ bọc tốt nhất ông có thể kiếm được, nhưng còn hơn không, ông nhỉ?"
Nhưng người chịu chuyện của gã lúc này chỉ là cái vỏ ngoài của Nakata. Phần quan trọng nhất của lão, từ lâu, đã bỏ đi đến một nơi khác rồi. Và Hoshino hiểu thế.
"Này anh bạn," gã nói với phiến đá và với tay ra chạm vào bề mặt của nó - lúc này nó đã trở lại là một phiến đá bình thường, mát lạnh và nham nháp. "Tớ đi đây. Về nhà ở Nagoya. Tớ sẽ phải để các tay cớm săn sóc cậu luôn thể. Tớ biết, lẽ ra tớ phải mang trả cậu về miếu đường vốn là nơi chốn của cậu, nhưng trí nhớ của tớ không được tốt và tớ không còn nhớ đó là tòa miếu nào nữa. Xin cậu thứ lỗi cho. Đừng có nguyền rủa hay vật tớ hé! Tớ chỉ làm theo lời Đại tá Sanders thôi. Vậy nếu cậu định trút rủa nguyền lên đầu ai, thì ông ta mới đúng là đối tượng. Dù sao đi nữa, tớ cũng rất vui sướng được gặp cậu. Tớ cũng sẽ không quên cậu."
Hoshino xỏ chân vào đôi giày Nike đế dày và bước ra khỏi căn hộ, không khóa cửa. Một tay xách túi dết đựng tư trang, tay kia mang cái bọc đựng xác cái vật trắng nhầy. "Chư vị," gã nói, ngước mắt nhìn bình minh đang lên ở đằng đông, "đã đến lúc ta nổi lửa đây!"
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 22:01:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 49


Ngay sau chín giờ sáng hôm sau, tôi nghe thấy tiếng xe hơi tới gần và bước ra ngoài. Đó là một chiếc xe tải nhỏ Datsun 4X4, loại bánh lớn, thùng xe kích cao. Có vẻ như ít nhất là nửa năm nó chưa được rửa. Đằng sau xe có một đôi ván lướt sóng dài, đã dùng nhiều. Chiếc xe phanh kít trước căn nhà gỗ. Khi tiếng động cơ cắt, im lặng trở lại. Cửa xe mở và một thanh niên cao lớn bước ra. Anh ta mặc một chiếc áo phông trắng rộng quá khổ, một chiếc sơ mi No Fear lấm lem dầu mỡ, quần soọc kaki, giày thể thao đã cũ mèm. Vai rộng, tạc ba mươi tuổi, da rám nắng, râu ria lởm chởm khoảng ba ngày chưa cạo, tóc dài che kín tai. Tôi đoán đây chắc hẳn là anh trai Oshima, người có cửa hàng bán đồ lướt sóng ở Kochi.
"Xin chào," anh nói.
"Chào buổi sáng," tôi đáp.
Anh chìa tay và chúng tôi bắt tay nhau trên bậc thềm. Cái riết tay chắc khỏe. Tôi đã đoán đúng: đó là anh trai của Oshima.
"Mọi người đều gọi anh là Sada," anh nói. (Anh có cách nói chậm rãi, chọn lựa từng chữ, ra ý "đi đâu mà vội", như thể anh có tất cả thời gian trên đời.) Em anh gọi điện thoại từ Takamatsu nhờ anh đến đón em về," anh giải thích. "Nghe như có việc gì khẩn cấp."
"Việc khẩn cấp?"
"Phải. Nhưng anh không biết là việc gì."
"Xin lỗi đã làm anh phải vất vả thế," tôi nói.
"Khỏi cần xin lỗi," anh nói. "Em có thể sẵn sàng để đi sớm được không?"
"Anh cho em năm phút."
Trong khi tôi nhét đồ lề vào ba lô, anh giúp tôi thu dọn trong nhà, vừa làm vừa huýt sáo. Anh đóng cửa sổ, kéo rèm, kiểm tra cho chắc là van bình ga đã khóa, thu gom thức ăn còn lại, cọ nhanh bồn rửa. Nhìn cách anh làm những động tác ấy, tôi cảm thấy anh coi căn nhà gỗ này như một bộ phận kéo dài của bản thân anh,
"Có vẻ như em trai anh rất thích em," Sada nói. "Nó thuộc loại khó tính, chả thích mấy ai đâu."
"Anh ấy rất ân cần với em."
Sada gật đầu. "Nó có thể rất dễ chịu khi nó muốn."
Tôi ngồi vào ghế cạnh tay lái và vứt chiếc ba lô xuống dưới chân.
Sada bật công tắc xe, vào số, thò đầu ra ngoài cửa xe nhìn soát lại căn nhà gỗ một lần nữa, rồi dận ga. "Căn nhà gỗ này là một trong số những tài sản ít ỏi mà hai anh em chung với nhau," anh vừa nói vừa khéo léo lái xe xuống con đường núi. "Thỉnh thoảng, khi nào thích, bọn anh vẫn lên đây chơi một mình vài ngày. (Anh nghĩ một lúc về điều vừa ngỏ rồi nói tiếp). Trước đây và hiện nay, nó vẫn luôn luôn là một nơi quan trọng đối với hai anh em anh. Nó như một trạm nạp năng lượng cho bọn anh. Một thứ năng lượng thanh tĩnh. Em hiểu ý anh chứ?"
"Em nghĩ là em hiểu," tôi nói.
"Em trai anh nói là em sẽ hiểu," Sada nói. "Ai đã không hiểu thì sẽ chẳng bao giờ hiểu."
Lớp vải bọc ghế bạc màu đầy lông chó trăng trắng. Mùi chó hòa lẫn với mùi biển, lại thêm mùi xi đánh ván lướt sóng và mùi thuốc lá. Núm bật điều hòa nhiệt độ bị vỡ. Cái gạt tàn đầy đầu mẩu, túi cạnh cửa xe nhét tùm lum những băng cát-xét không có hộp đựng.
"Em đã vào trong rừng vài lần," tôi nói.
"Vào sâu không?"
"Sâu," tôi đáp. "Oshima đã cảnh báo em đừng có vào."
"Nhưng em vẫn cứ vào?"
"Vâng."
"Anh cũng đã làm thế một lần. Đâu như vào quãng mười năm trước."
Anh im lặng một lúc, tập trung vào tay lái. Xe quành một khúc cua dài, sỏi bắn tung toé từ dưới những bánh xe to tướng. Chốc chốc lại thấy những con quạ ở ven đường. Chúng không bay đi mà còn giương mắt nhìn đầy vẻ hiếu kỳ khi xe chạy qua.
"Em có gặp mấy anh lính không?" Sada hỏi, thản nhiên như hỏi mấy-giờ-rồi vậy.
"Anh muốn nói hai anh lính, một anh cao kều, một anh to con?"
"Phải," Sada đáp và liếc nhìn tôi. "Em đi đến tận đấy cơ à?"
"Vâng," tôi đáp.
Anh không bình luận gì, tay hơi riết chặt vô lăng nhưng mặt không tỏ vẻ gì rõ nét.
"Anh Sada?" tôi hỏi.
"Gì vậy?"
"Mười năm trước, khi anh gặp hai anh lính ấy, anh đã làm gì?"
"Anh đã làm gì khi gặp hai anh lính ấy ư?" anh nhắc lại.
Tôi gật đầu. Và chờ anh trả lời.
Anh liếc nhìn kính chiếu hậu rồi lại nhìn thẳng phía trước. "Anh chưa bao giờ nói chuyện này với ai," anh nói. "Cả với em trai anh cũng không. Em trai hay em gái, gọi thế nào cũng được, tùy em. Anh thì vẫn quen gọi nó là em trai. Nó không hề biết tí gì về hai anh lính đó."
Tôi lặng lẽ gật đầu.
"Và anh chắc cả sau này nữa, anh cũng sẽ không nói với ai về chuyện đó. Kể cả với em. Và anh nghĩ cả em cũng sẽ không nói chuyện đó với ai. Kể cả với anh. Em hiểu anh định nói gì chứ?"
"Em nghĩ là em hiểu," tôi đáp.
"Thế điều anh định nói là gì nào?"
"Những gì ta nghiệm sinh ở đó không thể diễn đạt bằng lời được. Cho nên không thể dùng lời để trả lời câu hỏi đó."
"Thế đấy," Sada nói. "Chính xác. Nếu đó là điều không thể diễn đạt được bằng lời thì tốt nhất là đừng nói."
"Ngay cả với bản thân mình?" tôi hỏi.
"Phải, ngay cả với bản thân mình," Sada nói. "Tốt nhất là đừng có tìm cách giải thích, ngay cả với bản thân mình."
Anh mời tôi kẹo cao su Cool Mint. Tôi lấy một chiếc và bắt đầu nhai.
"Em đã thử lướt sóng bao giờ chưa?"
"Chưa."
"Nếu có dịp, anh sẽ dạy em," anh nói. "Tất nhiên là nếu em muốn học. Dọc bờ biển Kochi, sóng ngon lành và cánh lướt song không nhiều lắm. Lướt sóng là một môn thể thao có chiều sâu hơn người ta tưởng khi mới thoạt nhìn. Khi lướt sóng, ta học được điều này: đừng có đấu với sức mạnh của tự nhiên, ngay cả nếu nó trở nên bạo liệt."
Anh rút một điếu thuốc lá từ túi áo phông, cắm vào miệng và châm bằng máy lửa ở bảng điều khiển.
"Đó lại là một điều nữa không thể giải thích được bằng lời. Một trong những điều mà ta không thể trả lời bằng một tiếng có hoặc không. (Anh nheo mắt và thở khói ra ngoài cửa xe). Ở Hawaii có một chỗ gọi là Toilet Bowl (Bồn cầu). Đây là nơi những đợt triều lên và xuống va vào nhau tạo nên những xoáy nước lớn. Nó tựa như khi ta giật nước ở một cái bồn cầu. Nếu rớt vào đấy, anh sẽ bị hút tụt xuống tận đáy và khó mà nổi lên được. Tùy theo độ xảo trá của con sóng, anh có thể không bao giờ ngoi trở lên mặt nước được nữa. Thế là anh kẹt dưới đó, bất lực, đành chịu cho sóng đánh qua đánh lại. Cồ vùng vẫy cũng chẳng đi đến đâu, chỉ tổ cạn kiệt năng lượng. Một nỗi sợ hãi chưa từng thấy xâm chiếm anh. Nhưng nếu anh không vượt qua được nỗi sợ ấy, anh sẽ không bao giờ là một tay lướt sóng giỏi. Anh phải đối mặt với cái chết, thực sự làm quen với nó rồi vượt lên nó. Khi anh bị hút xuống cái xoáy nước đó, anh bắt đầu nghĩ về đủ mọi thứ chuyện. Như thể anh phải làm quen với cái chết, nói chuyện tâm tình với nó."
Ra khỏi cổng, Sada xuống xe, khóa cổng lại, giựt thử dây xích vài lần kiểm tra cho chắc ăn.
Sau đó, chúng tôi không nói chuyện gì nhiều nữa. Anh bật một kênh FM trong khi lái xe, nhưng tôi không chắc là anh có nghe hay không. Mở đài chỉ là một cử chỉ tượng trưng. Ngay cả khi xe đi vào đường hầm, chỉ nghe thấy tiếng nhiễu, anh cũng kệ. Vì máy điều hòa nhiệt độ hỏng, chúng tôi mở các cửa xe khi tới xa lộ.
"Nếu có khi nào em cảm thấy muốn học lướt song, thì cứ ghé qua gặp anh," Sada nói khi Biển Nội Địa hiện ra trước mặt. "Anh có một phòng dành cho bạn bè, em muốn ở bao lâu thì ở."
"Cám ơn anh," tôi nói. "Em sẽ đến, nhưng chưa biết khi nào."
"Em bận bịu lắm à?"
"Em có một số việc phải giải quyết."
"Anh cũng thế," Sada nói.
Chúng tôi im lặng hồi lâu, mỗi người nghĩ về những vấn đề của mình. Anh chăm chú nhìn đường, tay trái đặt trên vành vô lăng, thỉnh thoảng hút một điếu thuốc lá. Khác với Oshima, anh không phóng nhanh. Khuỷu tay tì lên thành cửa, anh cho xe chạy trên xa lộ với một nhịp độ ung dung nhàn nhã. Lần duy nhất anh vượt xe khác là khi thấy họ quá rề rà. Lúc đó anh miễn cưỡng nhấn ga, vòng lên trước rồi lại trở về làn đường của mình ngay.
"Anh lướt sóng được bao lâu rồi?" tôi hỏi.
Anh hừm một tiếng rồi im. Cuối cùng, khi tôi hầu như đã quên câu hỏi, anh mới trả lời.
"Anh lướt song từ dạo còn học trung học. Hồi ấy, chỉ là chơi vui thôi. Mãi đến cách đây khoảng sáu năm, mới thực sự là chuyện nghiêm chỉnh. Hồi ấy, al àm cho một hãng quảng cáo lớn ở Tokyo. Anh chán ngấy công việc ấy nên bỏ về đây và bắt đầu kinh doanh lướt sóng. Anh rút tiền tiết kiệm, vay thêm bố mẹ, mở một cửa hàng lướt sóng. Anh sống độc thân nên tha hồ, thích gì thì làm nấy."
"Có phải vì anh muốn trở về Shikoku không?"
"Một phần vì thế," anh nói. "Anh không biết sao nhưng anh chỉ cảm thấy thoải mái khi ở gần biển và núi. Con người ta phần lớn là sản phẩm của nơi mình sinh ra và lớn lên. Suy nghĩ và tình cảm của con người luôn luôn gắn với địa thế, khí hậu và thậm chí cả gió... Em sinh ở đâu?"
"Tokyo. Nogata, quận Nakano."
"Em có muốn trở lại đó không?"
"Không," tôi lắc đầu.
"Tại sao?"
"Em chẳng có lý do gì để trở lại."
"Ra thế".
"Em chẳng cảm thấy gắn bó với địa thế và khí hậu nơi đó."
"Thế à?"
Chúng tôi lại im lặng. Có vẻ như im lặng không phải là một cái gì đó khó chịu với anh. Với tôi cũng vậy. Tôi ngồi đó, đầu óc trống rỗng, lơ đãng nghe nhạc trên đài. Còn anh đăm đăm nhìn con đường trước mặt. Cuối cùng, chúng tôi ra khỏi xa lộ, rẽ hướng Bắc và đi vào địa giới thành phố Takamatsu.
Khoảng gần một giờ chiều, chúng tôi đến Thư viện Komura. Sada thả tôi xuống, nhưng anh không ra khỏi xe. Động cơ vẫn nổ à anh quay về thẳng Kochi.
"Cám ơn anh," tôi nói.
"Hy vọng chúng ta sẽ còn gặp lại nhau," anh nói, thò tay ra ngoài cửa xe, vẫy chào rồi lao đi trên những chiếc bánh xe đồ sộ. Về với những con sóng lớn của anh, thế giới của anh, về với những vấn đề của anh.
Tôi khoác ba lô lên vai và đi qua cổng. Tôi hít mùi cỏ mới xén trong vườn. Tôi cảm thấy như đã đi xa hàng tháng, vậy mà mới chỉ có bốn ngày.
Oshima đang ở quầy. Anh đeo cà vạt, một điều tôi chưa thấy bao giờ. Sơ mi trắng cài khuy đến cổ, cà vạt kẻ sọc màu vàng mù-tạc và xanh lá cây. Anh không mặc vest và xắn tay áo lên tận khuỷu. Trước mặt anh, như mọi khi, là một tách cà phê và hai cây bút chì vót nhọn.
"Chào," anh nói với nụ cười quen thuộc.
"Chào anh," tôi đáp lại.
"Mình đoán anh trai mình đưa cậu về?"
"Đúng thế."
"Mình cược là anh ấy chẳng nói gì mấy."
"Thật ra, bọn em cũng có trò chuyện một chút."
"Cậu là trường hợp đặc biệt đấy. Cũng tùy người, đôi khi anh ấy chẳng hé răng nói một câu."
"Có chuyện gì xảy ra ở đây?" tôi hỏi. "Anh ấy bảo em là có việc khẩn cấp."
Oshima gật đầu. "Có vài chuyện cậu cần phải Trước hết, Miss Saeki đã qua đời. Bà bị một cơn đau tim. Mình tìm thấy bà gục sấp mặt xuống bàn làm việc trên gác vào chiều thứ Ba. Sự việc xảy ra quá đột ngột. Có vẻ như bà không đau đớn gì."
Tôi đặt ba lô xuống sàn và ngồi vào một chiếc ghế. "Chiều thứ Ba?" tôi hỏi. Hôm nay là thứ Sáu, phải không?"
"Phải. Bà mất ngay sau buổi hướng dẫn tham quan thường kỳ ngày thứ Ba. Đáng ra mình phải liên lạc với cậu sớm hơn, nhưng mình rối trí quá."
Ngả người vào lưng ghế, tôi thấy mình không cử động được. Hai chúng tôi ngồi đó im lặng hồi lâu. Tôi nhìn thấy cầu thang dẫn lên tầng hai, tay vịn màu đen đánh bóng loáng, lớp kính mờ trên chiếu nghỉ. Những bậc cầu thang ấy bao giờ cũng mang một ý nghĩa đặc biệt đối với tôi, vì nó dẫn tới bà, tới Miss Saeki. Nhưng bây giờ nó chỉ là cái cầu thang trống rỗng, không còn ý nghĩa gì nữa. Bà không có ở đó nữa.
"Như bữa nọ mình đã nói, toàn bộ chuyện này là tiền định," Oshima nói. "Mình đã biết thế và bà cũng biết thế. Tuy nhiên, khi nó đến thật thì vẫn thấy đau đớn."
Khi anh ngừng lại, tôi cảm thấy mình phải nói một điều gì đó, nhưng không thốt nên lời.
"Theo di nguyện của bà, sẽ không cử hành tang lễ gì cả. Chỉ lặng lẽ hỏa táng. Bà để lại một bản di chúc trong ngăn kéo bàn giấy trên gác. Bà để lại toàn bộ bất động sản của mình cho tổ chức điều hành Thư viện. Bà để lại cho mình chiếc bút máy Mont Blanc làm vật lưu niệm. Và một bức tranh cho cậu. Bức tranh cậu bé bên bờ biển. Cậu sẽ nhận chứ?"
Tôi gật đầu.
"Mình đã gói sẵn để kia chờ cậu."
"Cám ơn," cuối cùng tôi cũng thốt được nên lời.
"Này, Kafka Tamura," anh cầm một chiếc bút chì lên, xoay xoay trong tay theo thói quen. "Mình hỏi cậu một câu, được không?"
Tôi gật đầu.
"Mình không cần phải nói với cậu là bà đã mất, phải không? Bởi vì cậu đã biết."
Tôi lại gật đầu. "Em nghĩ là em đã biết."
"Mình cũng nghĩ thế," Oshima nói và thở dài. "Cậu có muốn uống chút nước hay cái gì khác không? Nói thật nhé, nom cậu khô kiệt như một bãi sa mạc vậy."
"Cảm ơn, cho em một chút," tôi nói; quả là tôi rất khát nhưng phải đến lúc anh nhắc, tôi mới nhận ra.
Tôi làm một hơi hết cốc nước anh mang đến, nhanh đến nỗi nhức đầu. Tôi đặt chiếc cốc không xuống bàn.
"Uống thêm tí nữa?"
Tôi lắc đầu.
"Cậu định làm gì bây giờ?" Oshima hỏi.
"Em sẽ trở về Tokyo," tôi đáp.
"Cậu sẽ làm gì ở đó?"
"Đầu tiên là đến cảnh sát, kể cho họ nghe những gì em biết. Nếu không, họ sẽ truy tìm em suốt đời. Sau đó, rất có thể em sẽ trở lại trường. Không phải vì em muốn, nhưng ít nhất em cũng phải học hết trung học. Nếu em trụ được mấy tháng và tốt nghiệp, em sẽ có thể làm bất cứ cái gì em muốn."
"Nghe có lý,Oshima nói và nheo mắt nhìn. "Có vẻ là kế hoạch tối ưu đấy."
"Càng nghĩ em càng thấy đó là cách tốt nhất."
"Cậu có thể chạy trốn nhưng không thể ẩn náu mãi."
"Vâng, em nghĩ thế," tôi nói.
"Cậu đã trưởng thành đấy."
Tôi lắc đầu. Tôi không thể nói thêm gì.
Oshima dỗ nhẹ đầu có tẩy của cây bút chì vào thái dương. Chuông điện thoại réo nhưng anh mặc kệ.
"Mỗi một chúng ta đều mất một cái gì quý giá đối với mình," anh nói sau khi dứt chuông điện thoại. "Mất những cơ hội, mất những khả năng, những tình cảm mà ta không bao giờ có lại. Đó là một phần cuộc sống. Nhưng bên trong đầu chúng ta - ít nhất là theo cảm nghĩ của mình - có một chỗ nho nhỏ để lưu trữ ký ức về những cái đã mất đó. Một chỗ giống như những giá sách ở thư viện này. Và để hiểu cơ cấu vận hành của trái tim ta, phải tiếp tục soạn thêm những phiếu tham khảo mới. Thỉnh thoảng phải hút bụi, thông khí, thay nước các bình hoa. Nói cách khác, phải mãi mãi sống trong thư viện riêng tư của chính mình."
Tôi nhìn trân trân vào cây bút chì trong tay anh. Nhìn nó mà tôi đau lòng, nhưng tôi phải là "trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất thế giới", ít nhất là trong một khoảng thời gian nữa. Hoặc tỏ ra như thế. Tôi hít một hơi thật sâu đẩy không khí vào đầy phổi và cuối cùng, nuốt được cái cục xúc động ấy.
"Nếu một ngày nào đó em trở lại đây, có được không?" tôi hỏi.
"Tất nhiên là được," Oshima nói và đặt cây bút chì xuống mặt quầy, rồi chắp hai tay sau gáy, nhìn thẳng vào mặt tôi. "Có tin rằng mình sẽ phụ trách thư viện này một thời gian. Và nghĩ mình sẽ cần một trợ lý. Một khi cậu giải quyết xong mọi chuyện: cảnh sát, học hành và các thứ khác - mình rất muốn cậu trở về đây, tất nhiên là nếu cậu muốn. Thành phố này và mình sẽ không đi đâu cả, ít nhất trong thời gian trước mắt. Con người ta cần có chỗ hợp với mình."
"Em cám ơn," tôi nói.
"Không có gì," anh nói.
"Anh trai anh bảo sẽ dạy em lướt sóng."
"Tốt đấy," anh nói. "Anh ấy chả thích mấy ai đâu. Anh ấy hơi khó tính."
Tôi gật đầu và mỉm cười. Hai anh em họ thật giống nhau.
"Kafka ạ," Oshima nói và nhìn sâu vào mắt tôi. "Có thể mình nhầm, nhưng mình nghĩ đây là lần đầu tiên mình thấy cậu mỉm cười."
"Có thể anh nói đúng," tôi nói. Rành là tôi đang mỉm cười. Và đang đỏ mặt.
"Bao giờ cậu về Tokyo?"
"Em nghĩ là ngay bây giờ."
"Cậu có thể chờ đến chiều được không? Mình có thể lái xe đưa cậu ra ga sau khi đóng cửa thư viện."
Tôi nghĩ một chút rồi lắc đầu.
"Cám ơn. Nhưng em nghĩ em đi ngay bây giờ là tốt nhất."
Oshima gật đầu. Anh vào một phòng đằng sau và mang ra bức tranh đã gói ghém gọn gàng. Anh cũng bỏ một đĩa 45 có bài Kafka bên bờ biển vào một cái túi và đưa cho tôi.
"Một món quà nhỏ của mình."
"Cám ơn anh," tôi nói. "Em lên nhìn lại phòng của Miss Saeki một lần nữa được không?"
"Cậu cứ lên đi."
"Anh có lên với em không?"
"Tất nhiên."
Chúng tôi cùng lên phòng bà trên gác. Tôi đứng trước bàn làm việc của bà, khẽ chạm vào mặt bàn và nghĩ đến những thứ mà nó đã hấp thụ. Tôi mường tượng bà gục sấp mặt xuống bàn. Tưởng tượng bà ngước lên khi mở cửa mang cà phê vào cho bà. Tưởng tượng bà vẫn mỉm cười với tôi.
"Bà viết gì trong căn phòng này?" tôi hỏi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 22:02:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 49 (tiếp)


"Mình không biết," Oshima đáp. "Điều mình biết chắc là bà đã mang theo rất nhiều bí mật khi rời bỏ thế giới này."
Và rất nhiều giả thuyết chưa kiểm chứng nữa nữa, tôi thầm bổ sung.
Cửa sổ mới, gió tháng Sáu khẽ lay sột soạt những tấm rèn đăng ten trắng. Không khí thoáng mùi biển. Tôi nhớ cái cảm giác xào xạc cát trong lòng bàn tay ngoài bãi biển. Tôi rời khỏi bà, đến ôm ghì lấy Oshima. Thân hình mảnh mai của anh đánh thức bao nhiêu nỗi hoài nhớ.
Anh dịu dàng vuốt tóc tôi. "Kafka Tamura, thế giới là một ẩn dụ," anh nói nhỏ vào tai tôi. "Nhưng đối với mình và cậu, riêng cái thư viện này không phải là một ẩn dụ. Bao giờ nó cũng chỉ là cái thư viện này. Mình muốn chắc chắn là chúng ta hiểu điều đó."
"Tất nhiên," tôi nói.
"Nó là một thư viện đặc biệt, duy nhất. Và không gì khác có thể thay thế nó."
Tôi gật đầu.
"Tạm biệt, Kafka," Oshima nói.
"Tạm biệt, Oshima," tôi nói. "Anh biết không, anh đeo cái cà vạt này nom bảnh lắm."
Anh buông tôi ra, nhìn vào mặt tôi và mỉm cười. "Từ nãy đến giờ, mình vẫn chờ cậu nói câu ấy."
Ba lô trên vai, tôi đi bộ ra ga quận, đáp tàu về ga Takamatsu. Tôi đến quầy mua một vé đi Tokyo. Tàu sẽ tới Tokyo vào lúc đêm khuya, vậy trước tiên, tôi phải tìm chỗ trọ qua đêm, rồi ngày hôm sau mới về nhà ở Nogata. Tôi sẽ trơ trọi một mình trong ngôi nhà mênh mông, hoang vắng ấy. Không ai chờ đợi tôi về nhà. Nhưng tôi không có nơi nào khác để về.
Tôi bấm số điện thoại di động của Sakura từ một máy điện thoại công cộng ở ga. Cô đang làm việc, nhưng có thể dành vài phút nói chuyện. Thế cũng tốt rồi, tôi bảo cô.
"Em về Tokyo bây giờ," tôi nói. "Em gọi từ ga Takamatsu chỉ để nói với chị thế."
"Hết muốn trốn nhà nữa hả?"
"Có lẽ thế."
"Dù sao đi nữa, mười lăm tuổi đã bỏ nhà đi thì cũng khí sớm," cô nói. "Nhưng về Tokyo rồi, cậu sẽ làm gì?"
"Trở lại trường học."
"Có lẽ đó là một ý hay," cô nói.
"Chị cũng sẽ trở về Tokyo chứ?"
"Ừ, có lẽ vào khoảng tháng Chín. Mình muốn đi chơi một chuyến nữa trong dịp hè này."
"Em có thể gặp chị ở Tokyo không?"
"Dĩ nhiên," cô nói. "Cậu cho mình số điện thoại của cậu đi."
Tôi đọc cho cô ghi số điện thoại của nhà tôi.
"Hôm nọ, mình nằm mơ thấy cậu," cô nói.
"Em cũng nằm mơ thấy chị."
"Mình dám chắc là một giấc mơ tục tĩu, phải không?"
"Có thể," tôi thừa nhận. "Nhưng đó chỉ là một giấc mơ."
"Giấc mơ của mình thì không nhảm nhí. Mình mơ thấy cậu ở trong một ngôi nhà to tướng, như một mê cung. Cậu đi quanh quanh, tìm một căn phòng đặc biệt nào đó, nhưng không thấy. Có một người khác trong nhà, đang tìm cậu. Mình cố hét lên cảnh báo cậu, nhưng cậu không nghe thấy. Một giấc mơ dễ sợ. Khi tỉnh dậy, mình mệt lử vì la hét. Từ bữa đó, mình cứ lo cho cậu hoài."
"Em cám ơn," tôi nói. "Nhưng đó cũng chỉ là một giấc mơ."
"Không có gì xảy đến với cậu chứ?"
"Không, không có gì xấu cả," tôi đáp.
Và đồng thời tự nhủ: Không có gì xấu xảy đến với mày cả.
"Tạm biệt, Kafka," cô nói. "Mình phải quay về làm việc đây. Nhưng khi nào cậu muốn nói chuyện thì cứ gọi, Ô-kê?"
"Tạm biệt, tôi nói. (Rồi nói thêm). Tạm biệt, chị gái."
Tàu qua cầu lớn bắc ngang biển, và đến ga Okayama, tôi chuyển sang tàu tốc hành. Tôi ngả người lên ghế và nhắm mắt lại. Dần dần, người tôi hòa với nhịp rung của con tàu. Tôi có thể cảm thấy bức tranh Kafka bên bờ biển gói gọn ghẽ dưới chân mình.
"Ta muốn con nhớ ta," Miss Saeki nói và nhìn thẳng vào mắt tôi.
"Nếu con nhớ ta, thì dù tất cả mọi người khác đều quên, ta cũng chẳng bận tâm."
Thời gian đè nặng lên mày như một giấc mơ cũ, lập lờ nước đôi. Mày tiếp tục di chuyển, cố tìm cách lách qua nó. Nhưng dù mày có đi đến cuối đất cùng trời, mày cũng không thể thoát khỏi nó. Tuy nhiên, mày vẫn phải đi đến đó - đến rìa của thế giới. Có một điều mày không cách chi làm được, trừ phi mày đến đó.
Trời bắt đầu đổ mưa khi tàu đi qua Nagoya. Tôi nhìn những giọt mưa chảy thành vệt trên cửa kính tối om. Hôm tôi rời Tokyo, trời cũng mưa. Tôi hình dung mưa ở khắp mọi nơi mọi chốn: trong rừng, trên biển, trên xa lộ, ở thư viện. Mưa rơi ở rìa thế giới.
Tôi nhắm mắt và thư giãn, thả lỏng các cơ bắp căng thẳng. Lắng nghe tiếng ro ro đều đặn của con tàu. Và rồi, bất chợt, một giọt nước mắt ứa ra, chảy dọc má xuống miệng tôi và, sau một lúc, khô hẳn. Không hề gì, tôi tự nhủ. Chỉ là một giọt nước mắt. Thậm chí có khi không phải là nước mắt tôi, mà là nước mưa hắt vào cũng nên.
Tôi đã hành động đúng không?
"Cậu đã hành động đúng," cái thằng tên là Quạ nói. "Cậu đã làm những gì tốt nhất. Không ai khác có thể làm tốt như cậu. Xét cho cùng, cậu đúng là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất thế giới này."
"Nhưng tớ đã biết gì về cuộc đời đâu," tôi cãi.
"Hãy nhìn bức tranh," nó nói. "Và hãy nghe gió."
Tôi gật đầu.
"Tao biết mày có thể làm được điều đó."
Tôi lại gật đầu.
"Bây giờ, mày nên ngủ đi một chút," cái thằng tên Quạ nói. "Khi tỉnh dậy, mày sẽ là một bộ phận của thế giới mới toanh."
Cuối cùng, mày ngủ thiếp đi. Và khi tỉnh dậy thì đúng là thế.
Mày đã là một bộ phận của một thế giới mới toanh.
Ghi vụn trong khi dịch Kafka bên bờ biển
Dương Tường
Về những cái tên: Giống như Rừng Na-Uy , nhan đề tiểu thuyết này (có lẽ bắt nguồn từ tấm ảnh "Kafka trên bãi biển" của nhà văn Franz Kafka) là tên một bài hát. Chỉ khác ở chỗ Rừng Na-Uy là một bài hát có thật của ban nhạc huyền thoại The Beatles, còn Kafka bên bờ biển là một ca khúc không có thật. Nhưng nếu Rừng Na-Uy chỉ có những liên quan xa xôi với cốt truyện, thì Kafka bên bờ biển lại đóng một vai trò đặc biệt: nó gắn bó hữu cơ với nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ca từ đầy chất trừu tượng-siêu thực của nó hàm chứa những đầu mối qui chiếu đến nhiều bí ẩn - cá nhỏ từ trên trời mưa xuống, bóng của Nha Sư thành lưỡi dao xuyên thủng giấc mơ, phiến đá cửa vào... - và thiết lập tương quan bề sâu giữa hai tuyến truyện kể.
Cậu bé mang tên Kafka, một trong hai nhân vật chính, rõ ràng là một qui chiếu về văn hào người Séc, cả cái "gã thiếu niên tên là Quạ" cũng vậy (trong tiếng Séc, Kafka nghĩa là quạ gáy xám), cái thằng luôn lên giọng "chính ủy" ấy (" Chú mày phải là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất thế giới "...), cái thằng mà những lúc khó khăn vấp váp, Kafka thường cậy đến sự động viên thúc đẩy của nó, thực chất là cái tôi khác (alter ego), cái bản ngã thứ hai của cậu.
Về hai tuyến truyện kể: Cuốn tiểu thuyết gồm hai tuyến truyện kể tách biệt chạy song song và đan xen nhau.
Tuyến thứ nhất, những chương số lẻ, kể câu chuyện của Kafka ở ngôi thứ nhất. Vào đúng hôm sinh nhật lần thứ mười lăm của mình, con trai nhà điêu khắc trứ danh Koichi Tamura trốn nhà đi tìm mẹ và chị gái (đã bỏ đi từ lúc cậu bé hầu như chưa có ý thức gì về họ). Đúng ra là trốn chạy lời tiên tri độc địa của ông bố - một lời nguyền khủng khiếp gần như nguyên xi lời nguyền đè nặng lên - dipe xưa: " Một ngày kia, mày sẽ chính tay giết cha mày và ngủ với mẹ mày" . Phán quyết bất khả hóa giải của định mệnh. Mùi vị chát chúa của Sophocle và bi kịch Hy Lạp!
Tuyến thứ hai, những chương số chẵn, kể câu chuyện của Nakata ở ngôi thứ ba. Một lão già ngớ ngẩn, thiểu năng trí tuệ do một tai nạn kì bí hồi nhỏ - kì bí như rất nhiều sự việc kì bí khác trong cuốn sách này - nhưng được bù lại bằng khả năng nói chuyện với mèo (do đó trở thành một "chuyên gia" tìm mèo lạc) và đặc biệt là khả năng ngoại cảm. Sau khi bất đắc dĩ phải giết nhân vật quái đản Johnnie Walker-kẻ-diệt-mèo, hoàn toàn ngoài ý muốn của mình, để cứu thoát hai con mèo Goma và Mimi, Nakata buộc phải rời khỏi quận Nakano, lần đầu tiên trong đời lao vào một cuộc hành trình dài đi tìm một thứ mà lão không biết đích xác là cái gì và ở đâu. Tuyến này phong phú màu sắc hơn, giàu tình tiết li kì với những đoạn "treo lửng" hồi hộp (suspense), bước ngoặt bất ngờ.
Cuối cùng con đường của Kafka và Nakata cũng giao nhau trên cả bình diện thực tại lẫn siêu hình.
Người ta có lí khi nhận định rằng H.Murakami là một trong những nhà văn siêu thực nhất của Nhật Bản.
Đối chiếu hai bản dịch: Theo kinh nghiệm bản thân, khi dịch một tác phẩm không trực tiếp từ nguyên bản, nên có hai bản bằng hai ngôn ngữ khác nhau để tham khảo đối chiếu khi gặp những đoạn tối nghĩa. Điều này giúp cho người dịch hạn chế được sai sót. Dịch cuốn này, tôi dựa vào bản Anh văn Kafka on the Shore của Philip Gabriel là chính và dùng bản Pháp văn Kafka sur le rivage của Corinne Atlan để tham khảo. Trong quá trình làm việc theo cách đó, tôi phát hiện thấy giữa hai bản có nhiều chỗ khác hẳn nhau, có nghĩa là ở những chỗ đó, một trong hai dịch giả, Philip Gabriel hay Corinne Atlan, đã lầm lẫn. Một số chỗ, chỉ bằng suy đoán lô gích và dựa vào văn cảnh, cũng có thể phân định được bản nào chính xác hơn. Chẳng hạn ở chương 13, có đoạn Oshima luận về "hai vùng tối" trong tâm trí con người là cái siêu nhiên và vô thức . Chỗ này, Philip Gabriel đã nhầm khi dùng hai từ grotesque (quái dị) và subconscious (tiềm thức). Người đọc tinh ý, khi thấy nhắc đến Freud và Jung, ắt hiểu ngay đây là tương quan giữa cái siêu nhiên với vô thức , chứ không phải giữa quái dị và tiềm thức . Bản tiếng Pháp của Corinne Atlan đã đúng khi dịch là le surnaturel và l'inconscient . Nhưng có những chỗ cần phải đối chiếu với bản gốc tiếng Nhật mới xác định được. Như ở chương 13, khi Oshima nhắc đến tên một tác phẩm của Schubert, thì bản tiếng Pháp dịch là Xônát cung Fa thứ, trong khi bản tiếng Anh dịch là Xônát cung Rê trưởng. Tôi nhờ cô Suzuki Kotona ở Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội đối chiếu nguyên bản thì thấy bản tiếng Anh đúng. Mới hay Tây dịch cũng sai vô khối, thậm chí có những chỗ sai khá ngờ nghệch!
[1] Ở chỗ này, bản tiếng Anh của Philip Gabriel dịch là Xô nát cung Rê trưởng trong khi bản tiếng Pháp của Corinne Atlan lại dịch là Xô nát cung Fa thứ . Chúng tôi đã nhờ cô Suzuki Kotona kiểm tra, đối chiếu với bản gốc, qua đó xác định bản tiếng Anh là đúng.
[2] Bản tiếng Anh của Philip Gabriel bỏ sót tiết đoạn này. Chúng tôi dịch thêm từ bản tiếng Pháp của Corinne Atlan.
[3] Bản tiếng Pháp của Corinne Atlan dịch là mười triệu.
[4] Chỗ này, trong bản tiếng Anh là hai mươi năm. Đây là một lầm lẫn: đúng ra là hai mươi lăm năm. Chúng tôi sửa là hai mươi lăm năm theo bản tiếng Pháp của Corinne Atlan.
[5] Bản tiếng Pháp của Corinne Atlan dịch là ba mươi năm.
[6] Bản tiếng Pháp của Corinne Atlan bỏ qua câu này.
[7] Lại thêm một chỗ hai bản Anh và Pháp khác hẳn nhau. Bản tiếng Anh của Philip Gabriel dịch là: ở thành phố Musashino , còn bản tiếng Pháp của Corinne Atlan dịch là: ở cạnh nhà. Chúng tôi theo bản tiếng Pháp vì thấy có lí hơn.
[8] Câu này ở bản tiếng Pháp được dịch là: Ici, le temps s'étire ou stagne, selon les circonstances (Ở đây, thời gian kéo dài hay ngưng đọng, tùy theo hoàn cảnh). Chúng tôi thấy như vậy có lí hơn.
[9] Bản tiếng Anh của Philip Gabriel bỏ sót câu này. Chúng tôi lấy lại từ bản tiếng Pháp của Corinne Atlan.
[10] Câu này trong bản tiếng Anh của Philip Gabriel là: An eternal, naive innocene, never to be marred, floats around her like spores in spring (Một vẻ ngây thơ hồn nhiên vĩnh cửu, mãi mãi không tàn úa, bồng bềnh quanh cô như những bào tử mùa xuân). Chúng tôi cảm thấy có vẻ ngược nghĩa vì Miss Saeki, về bản chất, biểu trưng cho một cái gì rất mong manh, không vĩnh cửu. Chúng tôi nhờ cô Suzuki Kotona đối chiếu với bản gốc tiếng Nhật thì quả là Philip Gabriel đã hiểu sai...
[11] Đoạn này, bản tiếng Anh của Philip Gabriel có hai lầm lẫn hiển nhiên: ở đây, Oshima luận về "hai vùng tối" trong tâm trí con người là cái siêu nhiên và vô thức, nhưng Philip Gabriel lại dùng hai từ grotesque (quái dị) và subconscious (tiềm thức). Người đọc tinh ý, khi thấy nhắc đến Freud và Jung, ắt hiểu ngay ra đây là tương quan giữa cái siêu nhiên và vô thức, chứ không phải giữa quái dị và tiềm thức. Bản tiếng Pháp của Corinne Atlan đã đúng khi dịch là le surnaturel và l'inconscient . Chúng tôi đã nhờ cô Suzuki Kotona đối chiếu với bản gốc tiếng Nhật thì quả là như thế.
[12] Lại một chỗ chênh giữa bản tiếng Anh và bản tiếng Pháp. Trong bản tiếng Pháp của Corinne Atlan, câu trích dẫn lại khác hẳn: " L'homme se constitue pour soi par son activité pratique, parce qu'il est poussé à se trouver lui-même, à se reconnaitre lui-même dans ce qui s'offre à lui extérieurement. " (Con người tự tạo mình bằng hoạt động thực tiễn của hắn vì hắn bị thôi thúc phải tự tìm thấy mình, tự nhận ra mình trong những gì phô ra với hắn ở bên ngoài).
[13] Bản tiếng Pháp của Corinne Atlan: mắt mở to.
[14] Chỗ này, hai bản dịch Anh ngữ và Pháp ngữ khác hẳn nhau một cách khó hiểu. Bản tiếng Anh của Philip Gabriel (mà chúng tôi dùng làm bản chính để chuyển ngữ) dịch là: You're a regular Linus (Cậu là một Linus chính cống). Còn ở bản tiếng Pháp của Corinne Atlan thì lại là: Comme Charlie Brown, dans la bande dessinée, qui emporte partout sa couverture? Sau khi nhờ cô Suzuki Kotona đối chiếu nguyên bản tiếng Nhật, chúng tôi quyết định dịch câu này theo bản tiếng Pháp.
[15] Bản tiếng Anh của Philip Gabriel dịch tên phim là The Sound of Music (Tiếng nhạc). Chúng tôi theo cách dịch ở bản tiếng Pháp của Corinne Atlan - La mélodie du bonheur - vì thấy đầu đề ấy hợp tình hợp cảnh hơn.
Lẩu thập cẩm và Scheherazade . Xem ra Kafka bên bờ biển có đủ thứ - siêu thực, hiện thực kì ảo, bi kịch Hi Lạp, uy-mua, suspense, ảo giác, chiêm bao, những leitmotiv về định mệnh, bóng ma của Thế chiến II. Những triết luận về văn học, tâm phân học, âm nhạc học. Mưa cá. Mưa đỉa. Lại cả một cô gái điếm trích dẫn Bergson. Nói bằng thuật ngữ chưởng , thì Murakami tung ra hơi nhiều chiêu thức. Xét theo quan điểm ẩm thực, đây có thể xem như một món lẩu thập cẩm để lại nhiều dư vị hỗn trộn khó phân tích cho thực khách. Với cái tài kể chuyện của một nàng Scheherazade, Murakami đã tạo nên một page turner theo đúng nghĩa một cuốn sách hấp dẫn đến độ đã cầm lên là phải đọc gấp đến trang cuối không rời tay. Được biết sau khi phát hành, website của nhà xuất bản đã nhận được 8.000 câu hỏi của độc giả muốn được giải thích thêm về ý nghĩa của tác phẩm. Murakami đã đích thân trả lời 1.200 câu trong số đó. "Bí quyết để hiểu tác phẩm này," ông nói, "nằm ở chỗ đọc nó nhiều lần." Tôi nghĩ Kafka bên bờ biển cũng bõ đọc lại nhiều lần.

Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
Đăng lúc 21-9-2012 09:56:23 | Chỉ xem của tác giả
cho mình xin ebook đc ko bạn

Mình thích đọc = ebook hơn ... vì ko có mạng

down ebook về muốn mần sao thỳ mần

Bình luận

link nãy mình gửi bạn die hết rồi, link này mới down đc nè bạn: http://www.mediafire.com/?uv9cgy5euci39jy  Đăng lúc 30-9-2012 05:57 PM
link đây bạn: http://ebooks-downloadfree.com/ebook-free/cac-tac-pham-cua-haruki-murakami  Đăng lúc 30-9-2012 05:43 PM
ui mình sorry nhé, bạn comt dưới post của bạn nên mình kô biết, hèn gì hum nay mình check lại nhật kí chuyển $ thấy có 100$ lạ ^^ cám ơn bạn nhiều nhé ^^  Đăng lúc 30-9-2012 05:43 PM
mình xin gửi bạn 100$ để cảm ơn bạn, của ít lòng nhiều, xin bạn đừng từ chối. Nếu có thế, mình xin bạn cho mình xin link pack của Murakami lun nhé, tks a lot ^^!   Đăng lúc 21-9-2012 12:01 PM
tks bạn nhiều nhiều nhé ^^  Đăng lúc 21-9-2012 11:58 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách