Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Kafka Bên Bờ Biển | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:18:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36 (tiếp)


Họ dừng lại trước một cư xá năm tầng khang trang. Tấm biển ghi "Takamatsu Park Heights" (Đồi Công viên Takamatsu) mặc dù nó nằm trên một bãi đất phẳng và quanh đó chẳng thấy công viên nào. Họ đi thang máy lên tầng bốn, ở đó, đúng theo chỉ dẫn, Hoshino tìm thấy chìa khóa dưới giá để ô. Đó là một căn hộ tiêu chuẩn gồm hai phòng ngủ, một phòng ăn kiêm bếp, một phòng khách và một buồng tắm. Nơi này nom có vẻ mới toanh, đồ đạc hầu như chưa dùng tới. Phòng khách có tivi màn ảnh rộng, một dàn âm thanh stereo, một sofa và một ghế bành. Mỗi phòng có một giường được soạn trải tươm tất. Bếp được trang bị đồ nấu nướng thông thường, các ngăn giá xếp đầy bát đĩa cốc chén. Tường treo những tranh in đóng khung trang nhã. Toàn bộ có vẻ như một căn hộ mẫu mà nhà kinh doanh nhà đất dùng để quảng cáo với khách hàng mới.
"Không tồi chút nào," Hoshino nhận xét. "Không có tính cách lắm, song ít ra cũng sạch sẽ."
"Rất xinh xắn," Nakata bổ sung.
Chiếc tủ lạnh sơn màu trắng ngà chất đầy đồ ăn. Lẩm bẩm một mình, Nakata kiểm lại mọi thứ, cuối cùng lấy ra mấy quả trứng, hạt tiêu xanh và bơ. Sau đó đập trứng vào bát, lấy đũa đánh bồng lên, và đổ vào chảo, làm hai suất ốp-lết tiêu xanh, một cách thiện nghệ. Lão cho ra đĩa, đặt bánh mì nướng lên trên rồi mang ra bàn ăn cùng với trà nóng.
"Ông làm bếp nghệ nhỉ," Hoshino nói. "Cháu phục đấy."
"Lão chuyên sống một mình, chuyện ấy đã thành quen."
"Cháu cũng sống một mình, nhưng đừng ai bảo cháu nấu nướng cái gì."
"Nakata này nhiều thì giờ rảnh và chẳng có việc gì khác để làm."
Hai ông con ăn bánh mì nướng với trứng ốp-lết. Ăn xong vẫn còn đói, nên Nakata lại quay vào bếp, rán ít thịt xông khói với rau dền, mỗi người đả thêm hai lát bánh mì nướng nữa. Bắt đầu cảm thấy trở lại thành người, họ ngồi ngả người thoải mái trên sofa, uống thêm tách trà.
"Vậy là ông đã giết ai đó?" Hoshino hỏi.
"Phải," Nakata đáp và kể tỉ mỉ chuyện lão đã đâm chết Johnny Walker như thế nào.
"Chu cha!" Hoshino nói khi lão kể xong. "Chuyện lạ kỳ! Cảnh sát ắt chẳng đời nào chịu tin chuyện đó, cho dù ông có thành thực đến mấy đi nữa. Cháu muốn nói bây giờ thì cháu tin ông, nhưng nếu ông kể với cháu một tuần trước thì hẳn cháu đã sút ông đi rồi."
"Chính lão cũng không hiểu nữa."
"Dù gì thì cũng đã có người bị giết, mà giết người đâu phải là chuyện có thể nhẹ nhàng gạt đi bằng một cái nhún vai được. Cảnh sát rất quan tâm đến vụ này, nếu không họ đã chả lần theo dấu vết của ông đến tận Shikoku."
"Nakata này lấy làm tiếc đã để cậu liên lụy."
"Ông có định ra tự thú không?"
"Không," Nakata nói với một vẻ cương quyết hiếm thấy ở gã. "Lão đã thử làm thế, nhưng bây giờ lão không muốn lặp lại nữa. Nakata này hiện có việc khác phải hoàn thành. Bằng không, bao nhiêu công sức đi đến tận đây hóa ra vô ích sao."
"Giờ ông phải đóng phiến đá cửa vào này lại."
"Đúng. Cái gì đã mở ra thì phải đóng lại. Rồi sau đó, lão sẽ trở lại bình thường. Cơ mà có vài việc lão phải lo liệu trước đã."
"Đại tá Sanders, người đã đưa cháu đến chỗ phiến đá, đang giúp ta có chỗ ẩn náu," Hoshino nói. "Nhưng tại sao ông ta lại làm thế? LIệu có mối liên hệ gì giữa ông ta và Johnnie Walker không?"
Nhưng càng cố gỡ rối, Hoshino càng thấy tù mù hơn. Tốt hơn là đừng cố tìm hiểu ý nghĩa của cái chẳng có ý nghĩa gì, gã quyết định "Suy nghĩ vô bổ còn tệ hơn là chẳng suy nghĩ gì," gã kết luận, nói to lên thành tiếng, hai tay khoanh lại.
"Cậu Hoshino?" Nakata gọi.
"Có chuyện gì?"
"Lão ngửi thấy mùi biển."
Hoshino đi tới mở cửa sổ, bước ra ban công và hít một hơi thật sâu. Gã chẳng hề thấy biển. Xa xa, những đám mây trắng bồng bềnh trên một rừng thông.
"Cháu chẳng ngửi thấy gì," gã nói.
Nakata đến bên cạnh gã, bắt đầu hít hít, cánh mũi nhó nhoáy như con sóc nhỏ.
"Lão có ngửi thấy biển. Biển ở ngay đằng kia."
Lão chỉ về phía cánh rừng.
"Mũi ông thính thật đấy," Hoshino nói. "Xưa nay, cháu vẫn hơi bị viêm xoan, nên mũi thường ngạt tí chút."
"Cậu Hoshino, ta đi dạo bờ biển tí chăng?"
Hoshino nghĩ một thoáng. Đi dạo trên bãi biển một tí thì hại gì nhỉ "Ô-kê, ta đi nào."
"Nakata này phải bỏ bom một bãi trước đã, nếu cậu không phiền."
"Ông cứ tự nhiên."
Trong khi Nakata ở trong toa-lét, Hoshino đi khắp căn hộ, kiểm tra suốt lượt. Như Đại tá Sanders đã nói, ở đây có mọi thứ họ cần. Băng dính cứu thương, kéo cắt móng tay. Tất cả các loại nhu yếu phẩm. Cả bàn là cùng cầu để là quần áo. Ông ta thật chu đáo, Hoshino nghĩ, nhưng mình chắc do cô thư ký lo liệu cả. Không quên một thứ gì.
Gã mở tủ, thấy đầy quần áo và đồ lót mới. Dở cái là không có chiếc sơ mi Hawai nào, toàn sơ mi polo và sơ mi kẻ sọc thông thường gắn nhãn Tommy Hilfigers mới toanh. "Thế mà mình đã vội nghĩ là Đại tá Sanders nắm bắt nhanh," Hoshino phàn nàn một mình. "Lẽ ra ông ta phải hiểu ra là mình chỉ mặc một loại sơ mi Hawai. Nếu ông ta đã cất công đến thế, chí ít ông ta cũng có thể mua cho mình một chiếc." Nhận thấy chiếc áo mình đang mặc đã hôi hôi, gã cởi luôn ra và thay vào một chiếc sơ mi polo. Vừa khít.
Hai ông con thả bộ qua rừng thông, leo qua một con đê chắn sóng rồi xuống bãi biển. Biển yên tĩnh. Họ ngồi bên nhau trên cát, hồi lâu không nói gì, ngắm những con sóng dựng lên như tấm ga trải giường rồi lại đổ ụp xuống với một tiếng rào rào nhỏ nhẹ. Có thể nhìn thấy mấy hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Cả hai đều ít có dịp đến với biển và họ thoải mái ngắm cho sướng mắt.
"Cậu Hoshino?" Nakata là người phá vỡ im lặng.
"Ông bảo gì?"
"Biển thật tuyệt, phải không?"
"Vâng. Nó khiến lòng ta an tĩnh."
"Tại sao lại thế nhỉ?"
“Có lẽ vì nó mênh mông, lại không có gì bên trên, Hoshino vừa nói vừa chỉ ra mặt biển. Ông sẽ không cảm thấy an tĩnh như thế nếu chỗ kia có một tòa trung tâm thương mại hay một siêu thị Seiyu, phải không? Hoặc một phòng chơi pachinko hay một tiệm cầm đồ Yoshikawa? Nhưng phóng hết tầm mắt, vẫn chẳng thấy gì , điều đó thật dễ chịu."
"Lão nghĩ cậu có lý," Nakata nói sau một thoáng suy nghĩ. "Cậu Hoshino?"
"Gì vậy?"
"Lão muốn hỏi về một chuyện khác."
"Hỏi đi."
"Có gì ở dưới đáy biển?"
"Ở dưới ấy là một thế giới khác, đủ các loại cá, trai, sò, ốc, rong rêu biển và mọi thứ linh tinh. Ông cha bao giờ đến một viện hải dương học à?"
"Chưa bao giờ. Ở Matsumoto, nơi Nakata đã sống một thời gian dài, không có thứ ấy."
"Phải, cháu nghĩ thế," Hoshino nói. "Cháu đoán một tỉnh miền núi như thế may lắm cũng chỉ có được một bảo tàng nấm là cùng. Dù sao đi nữa, dưới đáy biển cũng đủ thứ, mà sinh vật dưới đó khác với chúng ta, chúng hấp thụ oxy từ trong nước và không cần không khí để thở. Có những loài rất đẹp, những loài ăn cực ngon, lại có những loài rất nguy hiểm. Và có những loài khiến ta sởn da gà. Thật khó giải thích cho ai chưa được thực mắt nhìn thấy, nhưng tựu chung, nó hoàn toàn khác hẳn với những gì ta quen thấy ở trên này. Dưới đó tối mù mịt, và có một số sinh vật gớm ghiếc ông chưa từng thấy... Bao giờ mọi chuyện xong xuôi, cháu sẽ đưa ông đi thăm một viện hải dương học, ông thấy thế nào? Thú vị lắm, ông ạ, và đã lâu cháu chưa đi xem lại. Cháu chắc thành phố này thể nào cũng có một viện kiểu ấy."
"Vâng, lão rất thích đến một nơi như thế."
"Có một điều cháu muốn hỏi ông."
"Điều gì?"
"Bữa nọ, chúng ta đã lật phiến đá và mở cửa vào, phải không?"
"Phải, hai chúng ta đã mở cửa vào. Sau đó, Nakata này lăn ra ngủ miết."
"Điều cháu muốn biết là: có chuyện gì diễn ra vì chúng ta đã mở cửa vào không?"
"Có," Nakata gật đầu đáp.
"Nhưng ông không biết đó là chuyện gì?"
Nakata lắc đầu một cách kiên quyết.
"Không, Nakata này chưa biết."
"Vậy có thể là nó đang diễn ra ở một nơi nào khác, vào chính lúc này đây?"
"Phải, lão nghĩ đúng thế. Như cậu nói, nó đang diễn ra. Và lão đang chờ nó kết thúc ."
"Và một khi cái đó kết thúc, mọi sự sẽ tự khắc đâu vào đấy?"
Lại một cái lắc đầu kiên quyết. "Điều đó thì Nakata này không biết. Lão làm điều mình đang làm, bởi vì đó là bổn phận của lão. Nhưng lão không biết kết quả sẽ ra sao. Lão không được thông minh sáng láng cho lắm, nên suy nghĩ là chuyện khó đối với lão. Lão không biết điều gì sẽ xảy ra sau đó."
"Dù sao đi nữa, cũng cần chút thời gian cho cái đó kết thúc để đi đến một kết cục nào đó, phải không?"
"Đúng thế."
"Và trong khi chờ đợi, phải làm sao đừng để bọn cớm tóm được, vì chúng ta còn có việc phải làm, đúng không?"
"Đúng. Lão không ngán gặp cảnh sát. Lão sẵn sàng làm theo lời ngài Tỉnh trưởng. Nhưng bây giờ không phải lúc."
"Ông biết không? Nếu bọn cớm nghe câu chuyện điên rồ của ông, chúng sẽ nhổ toẹt và thay vào đó một lời tự thú hợp lý ai cũng tin được. Đại loại như ông vào nhà định ăn trộm, nghe thấy có người, thế là ông vớ lấy con dao trong bếp và đâm người ấy. Chúng bất cần sự việc thật là thế nào hoặc thế nào là đúng. Chúng tỉnh bơ dựng lên một tội phạm cốt để tăng hiệu suất bắt giữ. Sau đó, chúng ném ông vào nhà đá hay vào một nhà thương điên nào cực kỳ an toàn. Chúng khóa chặt buồng giam và vứt chìa đi. Ông không đủ tiền thuê một luật sư giỏi, nên chúng sẽ chỉ định cho ông một tên thầy cãi bất cần phải, trái ra sao và ta có thể thấy trước kết cục sẽ như thế nào."
"Lão nghe chưa thủng."
"Cháu nói để ông biết bản chất bọn cớm như cháu biết thôi, hãy tin cháu," Hoshino nói. "Cho nên cháu thực sự không muốn dây với chúng, ông hiểu không? Cớm và Hoshino không sực được nhau."
"Lão lấy làm tiếc đã gây nhiều rắc rối cho cậu."
Hoshino thở dài đánh thượt.
"Tuy nhiên, tục ngữ có câu: Uống thuốc độc cả đĩa."
"Nghĩa là thế nào?"
"Là: một khi ông đã quyết uống thuốc độc thì có ăn luôn cả cái đĩa đựng thuốc cũng vậy thôi."
"Cơ mà ăn đĩa thì chết. Mà lại hại răng, đau họng nữa."
"Ờ, nghe cũng có lý," Hoshino bối rối nói. "Ừ... tại sao lại phải ăn cả đĩa nhỉ?"
"Lão kém thông minh, nên quả thật không biết giải đáp ra sao. Nhưng ngoại trừ thuốc độc, đĩa thì quá rắn."
"Ừm, ông nói phải. Cháu cũng bắt đầu hoang mang. Cháu cũng vốn không phải là người làm việc trí óc. Điều cháu muốn nói là: cháu đã đồng hành cùng ông đến bước này, thì cháu sẽ đi tới cùng đảm bảo cho ông thoát. Cháu không thể tin là ông đã làm điều gì xấu và cháu sẽ không bỏ ông giữa đường đâu. Cháu phải trọng danh dự chứ."
"Đa tạ. Nakata này biết cảm ơn cậu thế nào cho vừa. Tuy nhiên, lão vẫn phải lạm dụng cậu, xin thêm một ân huệ nữa"
"Ông cứ nói."
"Chúng ta cần một chiếc xe hơi."
"Một chiếc xe thuê có được không?"
"Nakata này thật sự không biết xe thuê là thế nào, nhưng bất cứ loại gì cũng được. To hay nhỏ đều được tất, miễn là xe hơi."
"Không thành vấn đề. Đúng vào chuyên ngành của cháu. Lát nữa, cháu sẽ đi kiếm một cái. Vậy chúng ta sẽ đi đến một nơi nào hả?"
"Lão nghĩ thế. Có lẽ chúng ta sẽ đến một nơi nào đó."
"Ông Nakata, ông đã biết một điều gì, phải không?"
"Phải."
"Đi với ông chả bao giờ buồn chán. Đủ các thứ chuyện kỳ quặc điên rồ xảy ra, nhưng có thể nói: đi với ông không bao giờ buồn chán, đó là cái chắc."
"Cám ơn cậu đã nói thế. Lão nghe mà hả lòng hả dạ. Cơ mà cậu Hoshino này."
"Có chuyện gì vậy?"
"Lão thực sự không dám chắc lão có hiểu đúng nghĩa chữ buồn chán."
"Trước nay ông chưa bao giờ buồn chán ư?"
"Chưa, chưa một lần nào."
"Ông ạ, cháu cũng nghĩ thế."--------------------------------
1        Quái vật King Kong trong một xê-ri phim kinh dị của Nhật Bản do hãng Toho sản xuất hồi 1954.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:24:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37


Chúng tôi dừng lại ở một thị xã để ăn một chút và mua nước khoáng và thực phẩm dự trữ tại một siêu thị rồi theo con đường chưa rải nhựa xuyên qua đồi núi tới căn nhà gỗ. Bên trong, vẫn y nguyên như khi tôi rời đi cách đây một tuần. Tôi mở cửa sổ cho thoáng và cất đồ ăn vào tủ thực phẩm.
"Mình ngả lưng một lát trước khi trở về," Oshima nói, đưa tay che miệng, ngáp. "Đêm qua, mình chả ngủ được mấy tí."
Anh hẳn đã mệt lử, vì vừa chui vào chăn và quay mặt vào tường, là anh ngủ liền. Tôi pha chút cà phê, đổ vào phích cho anh dùng trên đường về, rồi xách chiếc xô nhôm ra suối lấy nước. Khu rừng không thay đổi chút nào - vẫn mùi cỏ, tiếng chim gọi nhau, tiếng suối róc rách, tiếng gió xào xạc qua hàng cây, bóng lá rung rinh. Những đám mây trên đầu nom rất gần. Tôi cảm thấy nao nao khi thấy lại tất cả những thứ đó vì chúng đã trở thành một bộ phận của bản thân tôi.
Trong khi Oshima ngủ, tôi ngồi ngoài hiên, vừa nhấp từng ngụm trà vừa đọc một cuốn sách về cuộc xâm lăng nước Nga năm 1812 của Napoléon. Khoảng 400.000 quân Pháp đã bỏ mạng trên đất nước rộng lớn này trong chiến dịch đại quy mô ào ạt mà vô ích đó. Dĩ nhiên các trrận giao chiến là khốc liệt nhưng không có đủ bác sĩ và thuốc men, nên phần lớn thươngbinh nặng bị bỏ lại chết trong đau đớn cùng cực. Số chết rét hoặc chết đói còn nhiều hơn, chết cách này cũng kinh khủng không kém. Ngồi đó uống trà nóng, chim líu lo xung quanh, tôi cố mường tượng cảnh chiến trường ở Nga với những người lính lăn lộn xong pha trong bão tuyết.
Tôi đọc được độ một phần ba cuốn sách thì đứng dậy, vào xem Oshima ra sao rồi. Tôi biết anh rất mệt, song thấy im ắng quá như thể anh không có ở đấy, tôi đâm lo lo. Nhưng không sao, anh vẫn ngủ yên trong chăn, hơi thở nhẹ nhàng. Tôi bướ đến bên anh và nhận thấy đôi vai anh khẽ nhô lên hạ xuống đều đặn. Tôi đột nhiên nhớ ra anh là nữ giới. Đa phần thời gian, tôi quên mất điều đó và luôn nghĩ về anh như một người nam. Và dĩ nhiên, đó là điều anh muốn. Nhưng khi ngủ, nom anh như lại trở về là đàn bà.
Tôi trở ra hiên, đọc tiếp - trở lại với con đường bên ngoài Smolensk đầy những xác chết đóng băng dọc hai bên lề.
Oshima ngủ độ hai tiếng. Sau khi trở dậy anh ra hiên, nhìn chiếc xe của mình. Con đường núi không trải nhựa, bụi bặm, đã biến chiếc Miata màu xanh của anh thành ra gần như trắng. Anh vươn vai một cái thật đã rồi ngồi xuống cạnh tôi. "Giờ là mùa mưa," anh vừa nói vừa dụi mắt. "Nhưng năm nay, ít mưa. Nếu sắp tới không mưa thì Takamatsu đến thiếu nước mất."
"Miss Saeki có biết em ở đây không?" tôi đánh bạo hỏi.
"Không," anh lắc đầu, "mình không nói gì với bà. Thậm chí bà cũng không biết là mình có một căn nhà gỗ trên này. Cứ giữ bí mật với bà thì tốt hơn, như vậy bà khỏi dính líu vào chuyện này. Bà biết càng ít, càng đỡ phải nghĩ cách nói dối."
Tôi gật đầu. Đó chính là điều tôi muốn nghe.
"Trước đây, bà đã dính líu quá đủ rồi," Oshima nói, "nên bây giờ khỏi cần thêm vụ này nữa.
"Em đã kể với bà chuyện cha em mới chết," tôi nói với anh. "Chuyện ông bị ám sát. Trừ chuyện cảnh sát đang truy tìm em."
"Bà rất thông minh. Ngay cả hai chúng tôi không ai nhắc đến chuyện đó, mình vẫn có cảm giác là bà hình dung được những gì đang diễn ra. Cho nên nếu mai mình nói với bà là cậu có việc phải đi vắng một thời gian để giải quyết và nhờ mình chuyển lời chào bà, mình chắc bà sẽ không hỏi thêm gì cụ thể. Ngay cả nếu mình chỉ nói thế thôi, bà cũng sẽ cho qua."
Tôi gật đầu.
"Nhưng cậu muốn gặp bà, phải không?"
Tôi không đáp. Tôi không biết diễn đạt thế nào, nhưng câu trả lời chả có gì là khó đoán.
"Mình cũng hơi ái ngại cho cậu," Oshima nói, "nhưng như mình đã nói ban nãy, mình nghĩ hai người nên ngừng gặp nhau trong một thời gian."
"Nhưng có thể em sẽ chẳng bao giờ được gặp lại bà nữa."
"Có thể thế," Oshima thừa nhận sau một thoáng suy nghĩ. "Điều này kể ra cũng khá hiển nhiên, nhưng chừn gnào sự việc chưa xảy đến tức là chưa có nó. Và nhiều khi nó lại không như ta tưởng."
"Nhưng không biết Miss Saeki cảm thấy thế nào nhỉ?"
Oshima nheo mắt nhìn tôi:
"Về chuyện gì?"
"Em muốn nói... nếu bà biết sẽ không bao giờ gặp lại em, bà có cảm thấy giống như em lúc này không?"
Oshima mỉm cười:
"Tại sao cậu hỏi mình điều đó?"
"Em không biết và có lẽ vì thế nên em mới hỏi anh. Yêu một người, khao khát người ấy hơn mọi thứ trên đời, đó là một trải nghiệm hoàn toàn mới. Mặt khác, có một người khao khát mình cũng vậy."
"Cậu hoang mang không biết làm gì?"
Tôi gật đầu:
"Chính thế."
"Cậu tự hỏi liệu Miss Saeki có chia sẻ những tình cảm trong sáng và mãnh liệt cậu dành cho bà," Oshima bình luận.
Tôi lắc đầu. "Nghĩ đến điều đó thật đau lòng."
Oshima im lặng một lúc, nheo mắt nhìn ra cánh rừng. Chim chóc thoăn thoắt chuyền cành. Anh chắp hai tay sau đầu. "Mình hiểu tình cảm của cậu," cuối cùng, anh nói. "Nhưng đây là một điều cậu phải tự nghĩ ra. Không ai có thể giúp cậu. Đó là cái đặc biệt của tình yêu, Kafka ạ. Cậu là kẻ có được những cảm giác tuyệt vời ấy, nhưng cậu phải một mình lặn lội qua đêm tối. Cả tinh thần và thể xác cậu phải chịu đựng điều đó. Hoàn toàn đơn độc."
Khoảng hai giờ hơn, anh sẵn sàng lên đường.
"Nếu cậu dè sẻn," anh bảo tôi, "chỗ thực phẩm có thể dùng được một tuần đấy. Lúc ấy, mình sẽ trở lại. Nếu có chuyện đột xuất khiến mình không đến được, mình sẽ nhờ anh trai mình mang đồ tiếp tế đến. Anh ấy ở cách đây một giờ xe hơi thôi. Mình đã bảo anh ấy là cậu ở đây. Vậy cậu khỏi lo. Ô-kê?"
"Vâng."
"Và như mình đã dặn cậu lần trước, phải hết sức cẩn thận khi vào rừng đấy. Nếu lạc thì không tìm thấy đường ra đâu."
"Em sẽ cẩn thận."
"Ngay trước khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, một đơn vị lớn của quân đội Thiên hoàng đã tập trận giả ở đây với tình huống giả định là chiến đấu với quân đội Xô Viết trong rừng rậm Siberi. Mình đã kể cậu nghe chuyện ấy chưa nhỉ?"
"Chưa."
"Hình như mình đã quên mất điều quan trọng nhất," Oshima vỗ vỗ vào thái dương, ngượng ngập nói.
"Nhưng đây không giống rừng Siberi," tôi nói.
"Cậu nói đúng. Cây ở đây thuộc loại có lá rộng bản, còn cây rừng Siberi thuộc bộ thông, nhưng mình đoán là họ không bận tâm đến chi tiết ấy. Cái chính là tập hành quân trong rừng với tất cả trang thiết bị chiến đấu trên vai và thực tập chiến đấu."
Anh rót một tách cà phê từ chiếc phích tôi chuẩn bị cho anh, bỏ thêm một thìa đường và xuýt xoa ra chiều thích thú.
"Quân đội đề nghị với cụ cố mình cho họ sử dụng khu vực này để luyện tập và cụ đồng ý. Xét cho cùng, có ai khác sử dụng đến nó đâu. Đơn vị hành quân lên đây theo con đường chúng ta đã vượt qua bằng xe hơi, rồi đi vào rừng. Nhưng khi tập xong, điểm danh thì phát hiện thấy thiếu hai người. Họ biến mất tăm với toàn bộ trang thiết bị chiến đấu trong khi tập, cả hai cùng là tân binh mới toe. Toàn đơn vị chia nhau đi tìm khắp nơi, chẳng thấy đâu. (Anh nhấp thêm một ngụm cà phê). Cho đến nay, không ai biết là họ lạc thật hay đào ngũ. Rừng quanh đây rậm khôn lường và khó mà kiếm ra cái gì ăn được."
Tôi gật đầu.
"Có một thế giới song hành với thế giới chúng ta trong chừng mực nào đó, ta có thể bước vào thế giới ấy và trở về an toàn, nếu ta thận trọng. Nhưng quá một điểm nào đó, ta sẽ lạc vào một mê cung và không tìm thấy đường ra. Cậu có biết khởi thủy cái ý mê cung từ đâu ra không?"
Tôi lắc đầu.
"Có lẽ từ những cư dân cổ xưa của miền Lưỡng Hà. Họ moi ruột thú vật - mình ngờ là đôi khi cả ruột người nữa - và dựa vào những uốn khúc ngoằn ngoèo ấy mà tiên đoán tương lai. Cho nên, nói tóm lại, nguyên mẫu của mê cung là ruột. Có nghĩa là nguyên lý của mê cung ở bên trong ta. Và cái đó tương ứng với một mê cung bên ngoài ."
"Lại một ẩn dụ," tôi bình luận.
"Đúng. Một ẩn dụ qua lại. Sự vật bên ngoài ta là phóng chiếu của những gì bên trong ta và những gì bên trong ta là phóng chiếu của những cái bên ngoài. Cho nên khi ta bước vào cái mê cung bên ngoài thì đồng thời, ta cũng bước vào cái mê cung bên trong. Rất chi là nguy hiểm."
"Kiểu như Hansel và Gretel." 1
"Đúng, y như hai đứa bé ấy. Rừng luôn giăng bẫy, dù anh có làm gì và cẩn thận đến đâu, cũng có những con chim tinh mắt ăn hết những mẩu bánh vụn của anh."
"Em hứa là sẽ cẩn thận, tôi nói."
Oshima hạ mui chiếc Miata xuống và chui vào xe. Anh đeo cặp kính râm và đặt tay lên cần sang số. Rừng dội lại tiếng rồ máy khởi động. Anh vuốt tóc ra sau, khẽ vẫy tay chào và phóng đi. Xe chạy đến đâu, bụi cuồn cuộn bốc lên đến đấy, nhưng gió mau chóng xua tan đi.
Tôi trở vào căn nhà gỗ. Tôi nằm xuống chiếc giường anh vừa ngả lưng và nhắm mắt lại. Nghĩ lại thì đêm qua, tôi cũng chả ngủ được mấy. Gối và chăn còn mang dấu vết của Oshima, hay đúng hơn, dấu vết giấc ngủ của anh. Tôi gieo mình trên những dấu vết ấy. Tôi mới ngủ được nửa tiếng thì bên ngoài bỗng vang lên một tiếng thịch như thể một cành cây gãy và rơi xuống đất. Tiếng động làm tôi thức giấc. Tôi đứng dậy, bước ra hiên nhìn xem, nhưng mọi thứ vẫn nguyên như cũ. Có thể đó là một thứ âm thanh bí ẩn mà thi thoảng, rừng thường phát ra. Hoặc có thể tôi mơ. Tôi không phân định được.
Tôi ngồi ngoài hiên, đọc sách cho đến lúc mặt trời lặn.
Tôi soạn bữa đơn giản và lặng lẽ ăn. Rửa bát đĩa xong, tôi ngả mình trên chiếc sofa cũ và nghĩ về Miss Saeki.
"Như Oshima nói, Miss Saeki là người rất thông minh, hơn nữa lại có cách ứng xử rất riêng," cái thằng tên là Quạ nói. (Nó ngồi cạnh tôi trên chiếc sofa, y như khi chúng tôi ở trong "sào huyệt" của cha tôi). Bà ấy khác xa mày."
Bà ấy khác xa mày. Bà đã vượt qua đủ mọi trở ngại, mà đâu phải là trở ngại bình thường. Bà am tường đủ mọi điều mà mày chẳng hay biết mảy may, bà đã trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc mà mày chưa bao giờ cảm thấy. Càng sống lâu, con người càng học được cách phân biệt cái quan trọng với cái thông phàm. Bà đã phải đưa ra nhiều quyết định gay go và đã thấy kết quả do những quyết định đó mang lại. Thêm một điểm nữa khác xa mày. Mày chỉ là một đứa trẻ sống trong một thế giới chật hẹp và rất ít trải nghiệm. Mày khổ luyện để trở nên khỏe hơn và trong chừng mực nào đó, mày đã thành công. Đó là một thực tế. Nhưng bây giờ, mày đang ở một thế giới mới, trong một tình huống chưa từng biết đến. Đó là điều hoàn toàn mới đối với mày, cho nên đương nhiên là mày cảm thấy bối rối.
Đương nhiên là mày cảm thấy bối rối. Có một điều mày không hiểu rõ lắm: phụ nữ có ham muốn tình dục hay không? Về lý thuyết thì tất nhiên là có, điều đó, đến cả mày cũng biết. Nhưng ham muốn ấy thực sự như thế nào, nó biểu hiện ra sao thì mày mù tịt. Ham muốn tình dục của bản thân mày thì rất đơn giản. Nhưng ham muốn tình dục của phụ nữ, nhất là ở Miss Saeki, lại là một bí ẩn tuyệt đối. Khi bà ôm mày, bà có cảm thấy sự ngây ngất về thể xác như mày không nhỉ? Hay một cái gì hoàn toàn khác?
Càng nghĩ về điều đó, mày càng tức vì nỗi mới mười lăm tuổi. Mày cảm thấy vô vọng. Giá như mày hai mươi - không, chỉ mười tám thôi cũng tốt, miễn không phải mười lăm - ắt mình có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa lời nói và hành động của bà. Như vậy mày có thể đáp ứng một cách thỏa đáng. Mày được hưởng một cái gì tuyệt vời, một cái gì lớn lao đến mức rồi đây có thể mày sẽ không bao giờ được trải nghiệm một lần nữa. Thế mà mày lại không thể thực sự hiểu được nó tuyệt vời đến mức nào. Điều đó làm mày bứt rứt và cuối cùng, đi đến tuyệt vọng.
Mày cố hình dung lúc này bà đang làm gì. Hôm nay là thứ Hai, thư viện đóng cửa. Những ngày nghỉ, bà làm gì nhỉ? Mày mường tưởng bà đang ở nhà, giặt đồ, quét dọn lau cùi, ra ngoài mua sắm, từng cảnh đó vụt lóe lên trong trí tưởng tưuợng của mày. Càng tưởng tượng, mày càng cảm thấy khó ngồi yên chỗ. Mày muốn biến thành một con quạ táo tợn, bay ra khỏi căn lều này, băng qua đồi núi, đến đậu bên ngoài căn hộ của bà và ngắm nhìn bà mãi mãi.
Cũng có thể bà ghé qua thư viện vào vào phòng mày. Bà gõ cửa nhưng không ai trả lời. Cửa không khóa. Bà phát hiện ra là mày không còn ở đó. Giường nệm xếp gọn gàng và đồ đạc của mày đã biến mất. Bà tự hỏi mày biến đi đâu. Có thể bà đợi một lát xem mày có trở về chăng. Bà ngồi vào bàn, tay chống cằm, đăm đăm nhìn bức Kafka bên bờ biển . Nghĩ về quá khứ tàng ẩn trong bức tranh đó. Nhưng dù có đợi bao lâu, mày cũng chẳng trở về, cuối cùng, bà đành bỏ cuộc và đi khỏi. Bà ra chỗ chiếc Golf của mình ở bãi đậu xe và khởi động máy. Mày tuyệt nhiên không muốn bà bỏ đi như thế. Mày muốn ôm lấy bà, muốn hiểu từng cử động của thân thể bà nói gì. Nhưng mày không có ở đó. Mày đang trơ trọi một mình ở một nơi cách biệt với mọi người.
Mày nằm vào giường và tắt đèn, hy vọng bà hiện ra trong căn phòng này . Không cần phải là Miss Saeki thật - cô gái mười lăm nọ cũng được. Xuất hiện dưới hình thức nào - linh hồn sống hay ảo ảnh - không quan trọng, miễn là mày được thấy bà, được có bà bên cạnh. Đầu mày đầy ắp ý nghĩ về bà đến độ muốn vỡ toác, thân thể mày muốn nổ tung thành từng mảnh. Nhưng tha hồ cho mày ao ước có bà ở bên, tha hồ cho mày đợi, bà vẫn không xuất hiện. Tất cả những gì mày nghe thấy chỉ là tiếng gió lao xao bên ngoài, tiếng chim gù khe khẽ trong đêm. Mày nín thở, căng mắt nhìn vào bóng tối. Mày lắng nghe tiếng gió, ráng đọc một cái gì trong đó, dù chỉ là một thoáng ý mơ hồ. Nhưng bao quanh mày chỉ là lớp lớp bóng tối. Cuối cùng, mày bỏ cuộc, nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi.
--------------------------------
1        Truyện cổ tích Đưc,sẽ được Giambattista Basile sáng tạo rồi sau đó đó, anh em Grimm viết lại. Hansel và em gái Gretel là con một gia đình tiều phu nghèo. Vì không nuôi nổi con, hai vợ chồng đem bỏ hai con vào rừng sâu. Giống như trong truyện Chú Bé Tí Hon của Perrault, lần đầu, hai anh em bỏ sỏi vào túi, rắc dọc đường làm dấu và do đó, tìm được lối về. Lần sau, không kịp nhặt sỏi, hai anh em đành rắc ruột bánh mì. Chiều đến, hai anh em tìm đường về nhưng ruột bánh đã bị chim ăn hết. Rơi vào tay một mụ phù thủy rắp tâm ăn thịt cả hai, Gretel tương kế tựu kế đẩy được mụ vào trong lò, và hai anh em lấy hết châu báu của mụ, trở về với bố mẹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:25:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38


Hoshino tìm các hãng thuê xe trong cuốn Những Trang Vàng, chọn đại một hãng và gọi điện thoại đến.
"Tôi chỉ cần một chiếc xe trong vài ngày," gã giải thích, "nên một chiếc xe du lịch bình thường cũng được. Không cần to lắm, không cần hào nhoáng."
"Có lẽ tôi không nên nói điều này," người nhân viên nói, "nhưng vì chúng tôi chỉ cho thuê loại xe Mazda nên không có lấy một chiếc nào hào nhoáng cả. Vậy ông yên tâm."
"Tốt."
"Một chiếc Familia có được không? Loại này rất đáng tin cậy. Đảm bảo là không ai để ý."
"Nghe có lý đấy. Vậy là một chiếc Familia nhé." Hãng này ở gần ga và Hoshino hẹn độ một tiếng nữa, gã sẽ đến lấy xe.
Gã đi taxi đến, xuất trình thẻ tín dụng và bằng lái, rồi thuê chiếc xe đã chọn trong hai ngày. Đúng như lời quảng cáo, chiếc Familia trong bãi đậu hoàn toàn không lộ liễu chút nào. Quay mắt khỏi nó một lúc là chả còn nhớ hình dạng nó ra sao. Một thành tựu hoàn hảo trong lĩnh vực giữ kín tung tích.
Trên đường về, Hoshino dừng lại ở một hiệu sách, mua một tấm bản đồ thành phố Takamatsu và hệ thống xa lộ của vùng Shikoku. Gã tạt vào một cửa hàng CD xem có đĩa Tam tấu Archduke của Beethoven không, nhưng cửa hàng này chỉ có một ngăn nhỏ dành cho nhạc cổ điển và chỉ có một bản phổ thông rẻ tiền của tác phẩm này. Tiếc thay, không phải do dàn Tam tấu Triệu Đô chơi, nhưng Hoshino cứ mua đại với giá một nghìn yen .
Về đến nhà, một mùi thơm êm dịu tỏa khắp. Nakata đang lúi húi trong bếp làm một món ra-gu và đậu phụ rán.
"Chẳng có việc gì làm, nên lão nấu mấy món ăn," lão giải thích.
"Tuyệt vời," Hoshino nói. "Mấy hôm toàn ăn ngoài, giờ được bữa nấu tại gia để thay đổi, thật hay quá. Ông này, cháu thuê được xe rồi. Đậu ở ngoài kia kìa. Ông có cần ngay không?"
"Không, mai hẵng hay. Hôm nay, Nakata còn phải nói chuyện thêm với phiến đá."
"Một ý hay. Bàn bạc là quan trọng. Dù là với người hay với vật, có bàn luận trao đổi vẫn hơn. Ông biết không, những lúc lái xe, cháuường nói chuyện với cái máy nổ đấy. Nếu chú ý lắng nghe thật kỹ, người ta có thể nghe được đủ mọi thứ."
"Nakata này không nói chuyện được với máy nổ, nhưng bàn bạc công việc thì đúng là quan trọng."
"Vậy với phiến đá thì sao? Có thể giao lưu được chứ?"
"Bắt đầu."
"Thế thì tốt. Chau cứ thắc mắc không biết phiến đá có phật ý vì bị chúng ta mang đến đây không?"
"Không, hoàn toàn không. Theo chỗ lão hiểu, phiến đá bất cần cái đó, ở đâu cũng được."
"Chà... nghe nhẹ cả người," Hoshino thở phào. "Nói cho cùng, chúng ta đã tai qua nạn khỏi, chứ nếu phiến đá ra tay thì chúng ta khốn đốn rồi."
Cả buổi chiều, Hoshino nghe đĩa CD mới của mình. Diễn tấu không tráng lệ đến mức không thể quên được như đĩa gã đã nghe ở tiệm cà phê. Gò bó hơn và đều đều đều, nhưng nói chung không đến nỗi tồi. Gã nằm dài trên giường lắng nghe. Giai điệu đẹp thấm vào gã và những nét fuga uốn lượn tinh tế làm gã xao xuyến đến tận đáy lòng.
Nếu mình nghe bản này cách đây một tuần, gã nghĩ thầm, chắc mình đã không hiểu gì hết, hoặc thậm chí không buồn tìm hiểu nữa. Nhưng tình cờ mình tạt vào tiệm cà phê ấy, ngả người trên chiếc ghế êm thoải mái, thưởng thức tách cà phê thơm ngon mà nghe nhạc. Và thế là mình ngộ Beethoven - thật khó tin! Sự gặp gỡ này với âm nhạc cổ điển quả là kỳ diệu.
Gã mở đi mở lại chiếc CD, trắc nghiệm khả năng thẩm nhạc mới phát hiện nơi gã. Chiếc CD này còn có một tác pẩm khác của Beethoven, tam tấu Hồn Ma . Không dở, nhưng gã thích tam tấu Archduke hơn hẳn. Sâu hơn nhiều, gã kết luận. Suốt thời gian đó, Nakata lui vào một góc, ngồi trước phiến đá trắng, miệng lẩm nhà lẩm nhẩm. Thi thoảng, lão lại gật đầu hoặc vò tóc. Mỗi người đắm trong thế giới riêng của mình.
"Mở nhạc có làm phiền ông không?" Hoshino nói.
"Không, không sao. Âm nhạc không làm phiền lão. Với lão, nó giống như gió ấy mà."
"Như gió à?"
Đến sáu giờ, Nakata làm bữa chiều: cá hồi nướng và nộm cộng với mấy món phụ do lão sáng chế. Hoshino bật tivi, xem có diễn biến gì mới về vụ án mạng không. Nhưng không thấy nhắc gì đến vụ đó. Chỉ có những tin khác: một vụ bắt cóc một bé gái, những cuộc trả đũa lẫn nhau thường xuyên như cơm bữa giữa Israel và Palestine, một tai nạn giao thông khủng khiếp trên xa lộ ở miền Tây Nhật Bản, một băng cướp xe hơi do người nước ngoài cầm đầu, lời phát biểu ngu xuẩn có tính chất kỳ thị của một bộ trưởng, thải nhân viên ở một số công ty ngành truyền thông. Không có lấy một tin vui vẻ nào.
Hai ông con ngồi ăn bữa tối.
"Ngon thật là ngon," Hoshino nói. "Ông quả là tay bếp cừ."
"Cám ơn. Nhưng cậu là người đầu tiên được lão nấu cho ăn đấy."
"Ông chưa bao giờ ăn cùng với bạn bè, hay họ hàng, hay bất kỳ ai sao?"
"Nakata này quen khá nhiều mèo, cái ăn của người và mèo khác hẳn nhau."
"À, phải," Hoshino nói. "Nhưng dù sao, bữa tối nay cũng tuyệt. Nhất là món nộm."
"Rất mừng là cậu đã ăn ngon miệng. Nakata này không biết đọc, nên đôi khi mắc những lầm lẫn kinh khủng trong bếp. Cho nên bao giờ lão cũng chỉ dùng một số chất liệu không thay đổi và nấu theo cùng một cách. Nếu biết đọc thì lão đã có thể chế đủ mọi món khác nhau."
"Những món này là hay rồi."
"Cậu Hoshino?" Nakata ngồi thẳng lưng lên và nói, giọng nghiêm trọng.
"Dạ?"
"Không biết đọc, khó sống lắm."
"Cháu cũng nghĩ thế," Hoshino nói. "Lời dẫn giải trên bìa đĩa CD này nói là Beethoven bị điếc. Ông là một nhà soạn nhạc trứ danh, hồi trẻ là nghệ sĩ dương cầm hàng đầu của châu Âu. Nhưng rồi một hôm, chắc là do bị bệnh, ông bắt đầu nghễnh ngãng và cuối cùng điếc hẳn, không nghe thấy gì nữa. Là nhạc sĩ mà không nghe thấy gì mới gay chứ. Ông có hiểu ý cháu không?"
"Lão nghĩ là có."
"Một nhà soạn nhạc điếc cũng giống như một đầu bếp hỏng vị giác. Một con ếch mất màng chân. Một lái xe bị tước bằng lái. Ai ở trong hoàn cảnh đó chẳng tuyệt vọng. Nhưng Beethoven không chịu khuất phục. Tất nhiên là lúc đầu, chắc ông cũng hơi suy sụp, nhưng ông không để cho bất hạnh quật ngã. Kiểu như Dô huầy! Sóng cả không ngã tay chèo! Dô huầy! ấy mà. Ông càng sáng tác nhiều và làm nên những tác phẩm vượt trội hơn bất cứ những gì ông từng viết trước đó. Cháu thật sự khâm phục ông ta. Như bản Tam tấu Archduke này - khi viết bản này, ông đã gần điếc, thật không thể tin nổi. Cháu muốn nói: ông không biết đọc, đó là nỗi khổ cực cho ông, nhưng đâu phải là tận thế. Ừ, có thể ông không biết đọc, nhưng có những điều chỉ mình ông làm được. Đó là những gì ông phải tập trung sức lực vào. Như khả năng nói chuyện với phiến đá chẳng hạn."
"Phải, giờ đây lão đã có thể trò chuyện với nó một ít rồi. Trước kia, Nakata này còn nói chuyện được với mèo."
"Chẳng ai khác có thể làm được chuyện đó, phải không nào? Nhiều người khác có thể đọc mọi cuốn sách họ muốn, nhưng không thể nói chuyện với đá hay với mèo."
"Cơ mà mấy hôm nay, Nakata này hay nằm mơ lắm. Trong giấc mơ, không biết tại sao, lão lại biết đọc. Lão không đần độn như bây giờ. Lão sướng quá, ra thư viện, đọc bao nhiêu là sách. Và lão nghĩ: biết đọc quả là tuyệt vời! Lão đọc hết quyển này sang quyển khác, nhưng rồi bỗng nhiên đèn trong thư viện vụt tắt và thế là tối om. Có người tắt đèn. Lão không đọc thêm được cuốn sách nào nữa. Thế rồi lão tỉnh dậy. Ngay cả trong mơ, biết đọc vẫn cứ là tuyệt vời."
"Hay thật...," Hoshino nói. "Coi như cháu đây, rõ ràng là biết đọc, thế mà chẳng mấy khi cầm đến quyển sách. Thế giới này quả là một nơi lộn tùng bậy."
"Cậu Hoshino?" Nakata hỏi.
"Gì hả ông?"
"Hôm nay là thứ mấy?"
"Thứ Bảy."
"Vậy mai là Chủ nhật?"
"Bình thường thì thế."
"Sáng mai, cậu lái xe cho lão được không?"
"Đương nhiên là được, nhưng ông muốn đi đâu?"
"Nakata này chưa biết. Khi nào vào xe, lão sẽ nghĩ."
"Ông tin hay không thì tùy, nhưng cháu đã biết là ông sẽ nói thế mà," Hoshino nói.
Sáng hôm sau, Hoshino dậy vào quãng bảy giờ hơn. Nakata đã ở trong bếp, chuẩn bị bữa điểm tâm. Hoshino vào toa-lét, rửa mặt bằng nước lạnh, cạo mặt bằng dao cạo râu điện. Bữa ăn sáng gồm có cơm, xúp miso với cà, cá thu khô và dưa góp. Hoshino ăn hai bát cơm.
Trong khi Nakata rửa bát đĩa, Hoshino xem thời sự trên tivi. Lần này thì có một tin ngắn về vụ án mạng ở Nakano. "Mười ngày đã qua kể từ khi sự kiện xảy ra mà cảnh sát vẫn chưa tìm ra manh mối gì," giọng người phát thanh viên đài truyền hình NHK đều đều. (Cánh cổng uy nghi của một ngôi nhà lóe sáng trên màn hình, có biển cấm vào cùng một lính canh bên ngoài). "Việc truy tìm cậu con trai mười lăm tuổi của nạn nhân, mất tích ngay trước vụ án mạng, vẫn tiếp tục, nhưng chưa mang lại kết quả nào. Người ta cũng đang truy tìm một người đàn ông ngoài sáu mươi tuổi cư trú ở khu vực đó; người này, ngay sau khi xảy ra vụ án mạng, đã đến một đồn cảnh sát cung cấp thông tin về vụ đó. Hiện vẫn chưa rõ giữa hai người này có mối liên quan gì không. Do đồ đạc trong nhà không bị đảo lộn, cảnh sát nghĩ rằng đây là một hành động báo thù cá nhân, chứ không phải diễn biến xấu đi của một vụ trộm, nên họ đang điều tra bạn bè và người quen của ông Tamura. Ở Bảo tàng Mỹ thuật Hiện đại Quốc gia Tokyo, nơi các thành tựu của ông Tamura được tôn vinh..."
"Ông ơi!" Hoshino gọi tôi về phía Nakata đang ở trong bếp.
"Gì thế?"
"Ông có biết con trai người bị ám sát ở Nakata không? Thằng bé mười lăm tuổi ấy?"
"Không, lão không biết. Lão chỉ biết Johnie Walker và con chó của ông ta thôi."
"Thế à?" Hoshino nói. "Cảnh sát cũng đang tìm thằng bé này. Hình như là con một. Không thấy nhắc gì đến mẹ nó. Cháu đoán nó bỏ nhà đi ngay trước khi xảy ra vụ án mạng và hiện vẫn mất tích."
"Thế à..."
"Cái vụ án mạng này thật rắc rối," Hoshino nói. "Nhưng cảnh sát là bọn rất kín miệng - họ biết nhiều hơn những điều họ nói ra. Theo Đại tá Sanders, họ đang dò theo dấu vết của ông và biết ông đang ở Takamatsu. Hơn nữa, họ còn biết có một gã đẹp trai như cháu đang đi cùng ông. Nhưng họ chưa tiết lộ điều đó với giới truyền thông. Họ sợ nếu để lộ họ biết chúng ta ở đây, chúng ta sẽ phới đi nơi khác. Vì thế về mặt công khai, họ làm như không biết chúng ta ở đâu. Thật là khôn ngoan, cái bọn cớm ấy!"
Đến tám rưỡi, họ lên chiếc xe thuê đậu ngoài đường. Như mọi khi, Nakata vẫn mang theo chiếc phích đựng đầy trà nóng cùng với những vật dụng trung thành: chiếc mũ rúm ró, cái ô và chiếc túi vải bố. Lúc rời khỏi căn hộ, Hoshino đang định chụp chiếc mũ Chunichi Dragons, đeo kính râm Ray Bans mắt xanh và mặc một chiếc sơ mi Hawai. Ở Takamatsu này, ắt chẳng có mấy ai có trang phục như thế, và gã sẽ lồ lộ ra trước mọi con mắt. Vì thế Đại tá Sanders mới để sẵn trong tủ những sơ mi polo xanh nước biển không gây chú ý - ông ta đã dự kiến trước điều này. Ông ta không bỏ sót gì, Hoshino nghĩ vậy và bỏ lại cả kính lẫn mũ.
"Nào, đi đâu?" gã hỏi.
"Đi đâu cũng được," Nakata đáp. "Vòng vòng thành phố."
"Ông chắc thế chứ?"
"Cậu thích đi đâu thì đi. Lão sẽ ngắm cảnh thôi."
"Quả là chưa từng thấy," Hoshino nói. "Cháu đã lái xe mòn tay lái - cả trong LLTV lẫn ở trong xe ở công ty xe tải - và cháu có thể nói mình là một tay lái nghiêm chỉnh. Mỗi khi ngồi sau vô lăng, cháu biết mình sẽ đi đâu và phóng thẳng tới đó. Cung cách của cháu là thế. Nhưng quả chưa từng có ai bảo cháu: Cậu thích đi đâu thì đi, hay Đi đâu cũng được. Ông làm cháu đến là hoang mang."
"Nakata này rất lấy làm tiếc."
"Không sao... khỏi phải xin lỗi. Cháu sẽ cố làm thật tốt, Hoshino nói và đẩy chiếc CD Tam tấu Archduke vào ổ. Cháu sẽ lái lòng vòng khắp thành phố trong khi ông ngắm cảnh, được chưa?"
"Vâng, thế thì tốt."
"Cháu sẽ dừng lại khi nào ông thấy cái ông tìm. Và lúc đó, câu chuyện sẽ phát triển theo một hướng mới. Cháu hiểu thế có đúng không?"
"Vâng, đó là điều có thể xảy ra," Nakata đáp.
"Ta hãy hy vọng là thế," Hoshino nói và giở tấm bản đồ thành phố trên đùi mình.
Hai ông con dạo xe khắp thành phố, Hoshino đánh dấu trên bản đồ từng con phố đã đi qua rồi đi tiếp sang phố khác. Thỉnh thoảng, họ dừng một lát để cho Nakata uống một tách trà và Hoshino hút một điếu Marlboro. Đĩa Tam tấu Archduke được mở đi mở lại. Đến trưa, họ ghé một nhà hàng, ăn cơm càri.
"Nhưng ông tìm cái quái gì mới được chứ?" Hoshino hỏi sau bữa ăn.
"Lão không biết. Nhưng lão nghĩ..."
"... ông sẽ biết khi ông nhìn thấy nó chứ gì? Và trước khi ông nhìn thấy, ông vẫn chưa biết nó là cái gì."
"Phải, đúng thế."
Hoshino uể oải lắc đầu.
"Cháu biết là ông sẽ trả lời thế, nhưng vẫn cứ phải hỏi cho chắc."
"Cậu Hoshino?"
"Sao kia?"
"Có thể phải lâu lâu một chút lão mới tìm ra."
"Được thôi. Ta cứ làm hết sức mình. Đâm lao thì phải theo lao."
"Ta phải ném lao ư?" Nakata hỏi.
"Không. Tạm thời thì chưa cần."
Ba giờ. Họ ghé một quán giải khát. Hoshino gọi một tách cà phê. Nakata bối rối không biết nên gọi gì, cuối cùng chọn sữa đá. Lúc này, Hoshino thấm mệt sau nhiều giờ lái, không buồn nói chuyện. Beethoven nghe mãi cũng ngán. Lái xe lòng vòng vô mục đích thế này không hợp với tính cách gã. Phải luôn luôn ghìm tốc độ, chú ý từng ly từng tí, gã đâm chán. Thỉnh thoảng lại có một chiếc xe tuần tra vượt qua và Hoshino phải cố hết sức tránh giao mắt với họ. Gã cũng cố tránh đi qua các trạm cảnh sát. Cho dù chiếc Mazda Familia có là chiếc xe ít bắt mắt nhất trên đường, nhưng nếu cảnh sát thấy nó qua lại nhiều lần, họ có thể sinh nghi và ách lại hỏi giấy tờ. Gã lái rất thận trọng, đảm bảo tuyệt đối không va quệt vào ai. Một tai nạn có thể làm hỏng mọi sự.
Trong khi Hoshino lái quanh thành phố, vừa đi vừa tra bản đồ. Nakata ngồi im phăng phắc, tay đặt lên thành cửa, nhìn quang cảnh lướt qua bên ngoài, chăm chăm tìm một cái gì đó, hệt như một đứa trẻ hay một con chó ngoan. Mỗi người tập trung vào nhiệm vụ của mình cho đến chiều, hầu như không trao đổi với nhau lời nào.
"Bạn tìm gì vậy?" Sốt ruột, Hoshino cất tiếng hát một cau khúc của Inoue Yosui. Gã không nhớ hết lời nên bịa ra mấy câu sau.
Bạn đã tìm thấy chưa?
Mặt trời sắp lặn...
Dạ dày Hoshino đang gào.
Lái lòng vòng chóng mặt đau đầu.
Họ trở về nhà vào lúc sáu giờ.
"Mai ta lại tiếp tục," Nakata đề nghị.
"Hôm nay, ta đã đi bao nhiêu đường đất rồi, có lẽ mai ta sẽ đi hết thành phố, không sót chỗ nào," Hoshino nói. "Mà này! Cháu muốn hỏi ông một câu."
"Là câu gì?"
"Nếu ông không thấy cái ông tìm ở Takamatsu thì sao?"
Nakata vò đầu thật mạnh.
"Nếu không thấy ở Takamatsu thì phải tìm xa hơn nữa."
"Và nếu vẫn không thấy thì chúng ta phải làm gì?"
"Nếu vậy thì ta lại phải tìm xa hơn nữa."
"Có nghĩa: cứ tiếp tục mở rộng diện, cuối cùng, ta sẽ tìm ra nó. Như câu tục ngữ: Chó đi vòng mãi cũng đụng phải gậy."
"Phải, lão nghĩ kết cục sẽ là thế," Nakata nói. "Cơ mà Nakata này có điều không hiểu. Tại sao con chó lại phải đụng vào gậy nếu nó đi vòng? Nếu thấy gậy trước mặt, nó có thể né tránh chứ?"
Câu hỏi bất ngờ khiến Hoshino bối rối. "Ờ, cháu thấy ông cũng có lý. Trước đây, cháu chưa bao giờ nghĩ đến điều đó."
"Quả là rất kỳ lạ."
"Ta hãy tạm gác chuyện chó và gậy lại đã, được không?" Hoshino nói. "Bàn thêm chỉ rách việc. Điều cháu muốn biết là ta sẽ mở rộng diện tìm kiếm đến đau. Nếu không canh chừng, khéo ta sang tỉnh khác lúc nào không biết - Ehime hay Kochi hay một nơi nào đó. Chẳng mấy chốc là hè qua, thu tới."
"Có thể thế đấy. Nhưng dù vào thu hay sang đông thì lão vẫn cứ phải tìm cho ra. Lão biết lão không thể nhờ cậu giúp mãi được. Nakata này sẽ đi bộ một mình và tiếp tục tìm."
"Khoan hãy lo chuyện ấy vội," Hoshino lắp bắp. "Nhưng liệu phiến đá có thể gợi ý giúp ta điều gì chăng? Thậm chí một phương hướng áng chừng cũng là tốt."
"Nakata này rất lấy làm tiếc, nhưng phiến đá chả nói gì mấy."
"Phải, cháu thấy cu cậu không phải là loại lắm lời," Hoshino nói. "Cháu nghĩ cậu cũng chẳng phải là tay bơi giỏi. Dù sao bây giờ... Khỏi cần đau đầu về chuyện ấy. Đêm nay, hãy đánh một giấc ngon lành để xem ngày mai mang lại những gì."
Hôm sau lại vẫn nguyên nếp cũ, Hoshino cho xe chạy lòng vòng nửa phía Tây của thành phố. Giờ đây, tấm bản đồ thành phố của gã đầy những vạch vàng. Điểm duy nhất khác biệt với hôm trước là gã ngáp nhiều hơn hôm trước. Nakata thì cứ dán mặt vào cửa kính, chăm chú nghiên cứu quang cảnh lướt qua. Hai người hầu như không trò chuyện. Nakata vẫn không thấy cái mình tìm.
"Hôm nay là thứ Hai phải không?" Nakata hỏi.
"Vâng. Hôm qua là Chủ nhật, vậy hôm nay là thứ Hai," Hoshino nói. Rồi chẳng biết làm gì khác, gã nghêu ngao hát, bịa cả nhạc lẫn lời:
Nếu hôm nay là thứ Hai
Mai ắt là thứ Ba
Kiến chăm làm còn én chỉ biết diện.
Ống khói cao mặt trời tà đỏ rực.
"Cậu Hoshino?" Nakata nói sau một lát.
"Dạ?"
"Người ta có thể nhìn kiến làm việc thật lâu mà không chán."
"Cháu nghĩ ông nói đúng," Hoshino đáp.
Đến trưa, họ vào một tiệm đặc sản lươn và gọi món chủ lực ngày hôm đó: cơm lươn. Ba giờ, họ ghé một tiệm cà phê, Hoshino uống cà phê, còn Nakata trà tảo biển. Sáu giờ chiều, tấm bản đồ của Hoshino thành một mớ những vạch vàng đánh dấu, những bánh xe vô danh của chiếc Familia đã lăn trên từng phân mét đường thành phố, mà vẫn chẳng may mắn gì hơn.
" Bạn tìm gì vậy? " Hoshino lại hát bằng một giọng uể oải. " Đã tìm thấy chưa?/ Đi khắp thành phố/ Ê cả đít/ Về nhà đi thôi."
"Nếu cứ tiếp tục như thế này, chẳng mấy chốc cháu thành người viết ca khúc kiêm ca sĩ mất," gã nói vậy sau khi hát.
"Thế là thế nào?" Nakata hỏi.
"Ông đừng để tâm. Một câu đùa vô hại thôi mà."
"Quyết định dừng ở đó, họ ra xa lộ, hướng thẳng về nhà. Mải nghĩ, Hoshino rẽ trái nhầm lối. Gã cố tìm cách trở lại xa lộ, nhưng con đường ngoặt theo một góc kỳ lạ, đi sâu vào một mê cung toàn đường một chiều và chẳng mấy chốc, gã đâm lạc hoàn toàn. Chưa kịp nhận ra, họ đã ở giữa một khu dân cư họ chưa tới bao giờ, một khu nom hơi cổ nhưng sang trọng, các nhà đều có tường cao bao bọc. Đường phố vắng tanh và yên tĩnh lạ lùng.
"Cháu nghĩ đây cũng không xa căn hộ của chúng ta lắm, nhưng cháu không định vị được là chúng ta đang ở đâu," Hoshino thừa nhận. Gã đậu xe vào một bãi trống, tắt máy, cố định cần phanh tay rồi giở bản đồ ra xem. Gã kiểm tra tên khu vực và số hiệu phố trên một bảng điện gần đó rồi tìm trên bản đồ, nhưng không thấy. Có lẽ vì mắt gã đã mệt.
"Cậu Hoshino?" Nakata hỏi.
"Dạ?"
"Xin lỗi làm phiền cậu, nhưng tấm biển trên cái cổng đằng kia viết gì vậy?"
Hoshino ngẩng đầu lên khỏi tấm bản đồ và đưa mắt nhìn về hướng Nakata đang chỉ. Cuối một bức tường cao, cạnh một cổng kiểu cổ đóng kín, có gắn một tấm biển gỗ lớn.
" Thư viện Tưởng niệm Komura, " Hoshino đọc. "Cha, một thư viện ở cái nơi vắng vẻ này của thành phố ư? Thậm chí không ra một thư viện, mà giống một dinh thự cũ hơn."
"T-h-ư v-i-ệ-n T-ư-ở-n-g n-i-ệ-m K-o-m-u-r-a?"
"Ông đọc đúng đấy. Chắc là để tưởng niệm một người tên là Komura. Nhưng cái ông Komura này là ai thì cháu không biết."
"Cậu Hoshino?"
"Dạ?"
"Nó đấy."
"Ông muốn nói... Nó?"
"Là cái nơi Nakata này đang tìm"
Hoshino lại ngẩng lên khỏi tấm bản đồ và nhìn thẳng vào mắt Nakata. Gã cau mày, nhìn tấm biển gỗ và đọc lại lần nữa. Gã rút ra một điếu Marlboro, cắm giữa đôi môi và châm bằng chiếc bật lửa plastic. Từ từ rít một hơi rồi thở khói ra qua cửa xe đã hạ kính.
"Ông chắc chứ?"
"Chắc, chính nó đấy."
"Sự tình cờ quả là dễ sợ, phải không?"
"Chí lý," Nakata tán thành.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:27:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 39


Ngày thứ hai của tôi ở trong núi trôi qua chậm rãi, liền mạch. Điều duy nhất phân biệt ngày hôm trước với ngày hôm sau là thời tiết. Nếu thời tiết vẫn thế, tôi ắt sẽ mất hết khái niệm về các ngày nối tiếp nhau. Hôm qua, hôm nay, ngày mai - tất cả sẽ nhòe làm một. Như một con tàu không neo, thời gian lờ lững trôi trên biển rộng, không mục đích.
Tôi nhẩm tính ra hôm nay là thứ Ba. Ngày mà Miss Saeki thường có buổi hướng dẫn tham quan nếu có khách muốn tìm hiểu. Đúng là hôm đầu tiên tôi đặt chân tới thư viện... Tiếng giày cao gót cùa bà nện trên bậc cầu thang vang trong không gian tĩnh lặng. Đôi tất óng ánh, chiếc áo trắng sáng, đôi hoa tai nhỏ xíu, chiếc bút máy Mont Blanc trên bàn. Nụ cười điềm đạm đượm vẻ cam chịu. Tất cả những chi tiết ấy giờ đây dường như đã quá xa vời và hư ảo.
Ngồi trên chiếc sofa trong căn nhà gỗ, với mùi vải bạc màu bao quanh, hồi ức về những giờ phút ân ái dâng lên trong đầu tôi. Miss Saeki chậm rãi cởi quần áo, vào giường. Nhớ lại những hình ảnh đó, đương nhiên chim tôi cứng lên như đá nhưng quy đầu đã hết đỏ và không đau nữa.
Nhấm nháp mãi những huyễn tưởng tình dục ấy cũng mệt, tôi ra ngoài và bắt tay vào bài tập thể dục thường lệ. Tôi bám vào lan can thật nhanh, tiếp theo là vươn giãn mạnh. Đến lúc này, người tôi đã đẫm mồ hôi. Tôi lấy khăn nhúng xuống suối và lau mình. Nước lạnh làm thần kinh tôi dịu đi. Tôi ngồi xuống bậc thềm ngeh Radiohead qua chiếc Walkman. Từ ngày bỏ nhà đi, tôi toàn nghe đi nghe lại thứ nhạc ấy: Kid A của Radiohead, Very Best of của Prince và đôi khi My Favourite Things của Coltrane nữa.
Hai giờ chiều - đúng lúc bắt đầu chương trình tham quan thư viện - tôi xuất phát vào rừng. Tôi theo lỗi cũ đi một thôi, tới đoạn phát quang. Tôi ngồi xuống cỏ, dựa lưng vào một gốc cây và nhìn lên vòm trời qua những cành cây, thấy những đám mây trắng mùa hè. Cho đến quãng này, vẫn là an toàn: tôi có thể tìm được đường về căn nhà gỗ. Một mớ bòng bong đối với những ai mới tập tọng chơi game video - tôi có thể dễ dàng giải được Bước 1. Tuy nhiên, nếu đi xa hơn, tôi sẽ dấn vào một mê cung tinh vi hơn, đầy thách thức hơn. Lối đi càng lúc càng hẹp và tôi sẽ bị nuốt chửng giữa biển dương xỉ.
Tôi mặc kệ và cứ dấn bước.
Tôi muốn biết khu rừng này thực sự sâu đến nhường nào. Tôi biết là nguy hiểm, nhưng tôi muốn thấy tận mắt - và cảm nhận - loại hiểm nguy nào đang ở phía trước. Để xem nó nguy hiểm đến mức nào. Tôi phải làm thế. Một cái gì đẩy tôi dẫn tới.
Tôi thận trọng lần theo một thứ đường mòn. Càng vào sâu, cây cối càng cao vút, không khí mỗi lúc một đậm đặc thêm. Bên trên, cành lá hầu như che kín bầu trời. Mọi dấu hiệu của mùa hè biến mất tiêu, như thể các mùa không bao giờ tồn tại. Chẳng mấy chốc, tôi còn không biết cái vệt tôi đang lần theo có phải là đường hay không nữa. Nó giống như một đường mòn mà lại không phải vậy. Ở giữa cái khối xanh rì ngột ngạt này, mọi định nghĩa đều trở nên mơ hồ, nhòe nhoẹt. Những cái có nghĩa và những cái vô nghĩa lẫn lộn cả với nhau. Trên đầu tôi, một con quạ ré lên một tiếng như lời cảnh báo, nghe ghê cả răng. Tôi dừng lại và thận trọng thị sát xung quanh. Không có thiế bị thích đáng mà cứ tiếp tục đi sâu hơn là quá nguy hiểm. Tôi phải quay lui thôi.
Điều này cũng không dễ. Giống như đạo quân của Napoléon trên đường rút khỏi nước Nga, thoái còn khó hơn tiến, tôi phát hiện ra là thế. Đường về rất dễ lạc, đám cây cỏ dày đặc hợp thành một bức tường sẫm tối chắn trước mặt. Tai tôi ù ù tiếng thở của chính mình, như tiếng gió thổi từ bên rìa thế giới. Một con bướm đen to bằng cả bàn tay vụt hiện từ trong bóng cây và dập dờn trước tầm nhìn của tôi, hình dáng nó khiến tôi nhớ đến vệt máu loang trên áo phông đêm nào. Nó chậm rãi bay qua một khoảng trống rồi lại mất hút giữa đám cây, và khi nó biến đi, tất cả dường như trở nên ngột ngạt hơn, không khí ớn lạnh hơn. Một nỗi hoảng sợ xâm chiếm tôi: không biết làm sao ra khỏi đây được. Con quạ lại kêu ré lên - vẫn con ban nãy, vẫn lời cảnh báo ấy. Tôi đứng im sững, ngước lên nhưng không nhìn thấy nó. Thi thoảng, một làn gió - gió thật chứ không phải hơi thở của tôi - nổi lên, khua xào xạc những chiếc lá đen dưới chân tôi như một điềm gở. Tôi cảm thấy những cái bóng rượt chạy đằng sau, nhưng khi quay lại, chúng đã trốn đâu mất.
Tuy nhiên, cách nào đó, tôi cũng tìm về được vùng an toàn của mình - khoảng rừng phát quang hình tròn. Tôi ngồi phịch xuống cỏ và hít một hơi thật sâu. Tôi ngước nhìn lên khoảng trời thật trên đầu vài lần, cốt để tự thuyết phục rằng mình đã trở lại cái thế giới từ đó mình đã xuất phát. Xung quanh tôi là những tín hiệu - lúc này mới quý giá làm sao! - của mùa hè. Ánh nắng, như một tấm màng mỏng, bao bọc tôi, làm tôi ấm lên. Nhưng nỗi sợ tôi cảm thấy ban nãy vẫn bám riết lấy tôi như một cụm tuyết chưa tan trong một góc vườn. Tim tôi thỉnh thoảng lại đập không đều nhịp và tôi vẫn sởn da gà.
Đêm ấy, tôi nằm trong bóng tối, thở nhè nhẹ, mắt mở chong chóng, hy vọng thấy một bóng người xuất hiện trong đêm tối. Cầu nguyện cho sự xuất hiện đó và không biết lời cầu nguyên có tác dụng gì không. Tập trung toàn bộ trí lực và hết lòng mong muốn điều đó xảy ra. Hy vọng rằng niềm mong muốn tột độ ấy sẽ làm cho mơ ước của mình trở thành sự thực.
Nhưng mơ ước của tôi đã không thành, khao khát của tôi bị dập tắt. Cũng như đêm hôm trước, Miss Saeki không xuất hiện - cả Miss Saeki thật lẫn cái ảo ảnh dưới dạng một cô gái mười lăm. Bóng tối vẫn chỉ là bóng tối. Ngay trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi thượng buồm cứng ngắc, cứng hơn bất kỳ lần hưng phấn nào trước đây, nhưng tôi không xuất. Tôi đã quyết định sẽ giữ nguyên vẹn kỷ niệm về những khoảnh khắc ân ái với Miss Saeki, ít nhất là vào thời điểm hiện tại. Tay nắm chặt, tôi ngủ thiếp đi, hy vọng mơ thấy bà.
Nhưng tôi lại mơ thấy Sakura.
Hay đó không phải là một giấc mơ? Mọi chi tiết đều hết sức rõ ràng, sinh động và mạch lạc, nhưng tôi không thể chỉ định nó bằng một cái tên khác, nên tốt nhất cứ gọi nó là giấc mơ. Tôi ở trong phòng Sakura và cô đang ngủ trên giường. Tôi nằm trong túi ngủ của mình, y như vào cái đêm tôi trú lại trong căn hộ của cô. Thời gian được vặn ngược lại, đặt tôi vào một bước ngoặt.
Tôi thức giấc vào lúc nửa đêm, khát muốn chết. Tôi ra khỏi túi ngủ, kiếm nước uống. Nốc tì tì - đến năm, sáu cốc liền. Da tôi nhơm nhớp mồ hôi. Chim lại ngỏng tướng, đội quần đùi lên. Nó như một con vật với ý thức độc lập, vận hành trên một kênh khác hẳn phần còn lại của cơ thể tôi. Khi tôi uống nước, nó tự động hấp thụ phần của nó. Tôi nghe thấy cả tiếng nó hút nhè nhẹ.
Tôi đặt chiếc cốc cạnh bồn rửa và dựa lưng vào tường. Tôi muốn xem giờ nhưng không nhìn thấy đồng hồ. Vào cái giờ khuya khoắt này, cả đến đồng hồ treo tường cũng bị bóng đêm nuốt chửng. Tôi đứng bên cạnh giường Sakura. Ánh đèn đường lọt vào qua rèm cửa. Cô quay lưng về phía tôi, ngủ say sưa, đôi chân nhỏ xinh thò ra dưới tấm chăn mỏng. Tôi nghe thấy một tiếng tách nhỏ đằng sau, như có ai bấm công tắc. Tôi quyết định và trườn vào nằm cạnh Sakura. Chiếc giường một cọt kẹt dưới trong lượng gia tăng. Tôi hít mùi gáy cô xâm xấp mồ hôi. Tôi nhẹ nhàng vòng tay ôm cô. Cô khẽ hự hự nhưng vẫn ngủ tiếp. Có tiếng quạ kêu. Tôi ngước mắt lên nhưng không nhìn thấy nó. Thậm chí bầu trời bên ngàoi cũng không thấy.
Tôi tốc ngược chiếc áo phông của Sakura lên và âu yếm xoa cặp vú dịu mềm của cô. Tôi mân mê đầu vú cô như thể vặn núm điều chỉnh đài. Dương vật cứng như đá của tôi đập vào sau mé đùi cô, nhưng cô không thốt lên một tiếng nào, hơi thở vẫn như cũ. Tôi nghĩ chắc cô đang đắm trong mơ. Bên ngoài, con quạ lại kêu, gửi đến tôi một thôn điệp, nhưng không đoán ra được nó muốn nói gì với tôi.
Người Sakura ấm và cũng xâm xấp mồ hôi như tôi. Tôi quyết định kéo cô quay về phía tôi. Cô thở dài đánh thượt nhưng không tỏ dấu hiệu gì là đã thức. Tôi áp tai lên làn da bụng phẳng như tờ giấy, cố bắt sóng những vang âm của giấc mơ bên trong cái mê cung ấy.
Tôi vẫn thượng buồm suốt, cứng đến nỗi tưởng như không bao giờ dứt. Tôi cởi bỏ chiếc quần lót nhỏ bằng vải bông của cô, từ từ kéo xuống dọc đôi chân dài. Tôi đặt lòng bàn tay lên nạm lông mu, nhẹ nhàng lách một ngón vào sâu bên trong. Âm đạo ướt đẫm như mời chào. Tôi từ từ ngó ngoáy ngón tay. Cô vẫn không thức. Chìm đắm trong mơ, cô chỉ tiếp tục thở dài.
Cùng lúc ấy, trong một hóm trống bên trong tôi, một cái gì đang vùng vẫy cố phá bung vỏ bọc để chui ra. Bất thình lình, một đôi mắt chĩa vào bên trong tôi và tôi có thể quan sát toàn bộ cảnh này. Tôi chưa biết cái ấy là tốt hay xấu, nhưng dù nó là thế nào, tôi cũng không thể kìm giữ hoặc chặn nó lại. Nó vẫn còn là một hiện thể lầy nhầy, vô diện mạo, nhưng chẳng mấy chốc, nó sẽ thoát ra ngoài vỏ bọc, chường mặt ra và trút bỏ cái màng ngoài sền sệt của nó. Lúc đó tôi sẽ biết nó thực sự là gì. Tuy nhiên, lúc này, nó chỉ là một tín hiệu không hình thù. Nó đang vươn những bàn tay không phải là tay để phá toang vỏ bọc ở chỗ mỏng manh nhất. Và tôi có thể thấy từng động tác một của nó.
Tôi đã quyết định.
Không, thực ra, tôi chẳng quyết định về cái gì hết. Quyết định có nghĩa là đã có một lựa chọn mà tôi đâu có lựa chọn nào. Tôi cởi quần đùi, thả dương vật ra. Tôi ôm Sakura, giạng chân cô và dấn lút vào. Cũng dễ thôi - âm đạo cô trơn mềm còn dương vật tôi thì cương cứng. Dương vật tôi không đau nữa. Mấy hôm vừa rồi, quy đầu càng rắn hơn. Sakura vẫn mơ màng và tôi trằm mình vào giấc mơ ấy.
Đột nhiên cô choàng tỉnh và nhận ra điều gì đang diễn ra.
"Kafka, cậu làm gì thế?"
"Hình như em đang ở trong chị," tôi đáp.
"Nhưng tại sao?" cô hỏi bằng một giọng khô ráp. "Tôi chẳng đã bảo cậu rằng thế là vượt quá giới hạn."
"Nhưng em không đừng được."
"Dừng lại ngay. Rút nó ra đi."
"Em không thể," tôi lắc đầu nói.
"Này, nghe đây. Trước hết, tôi có bạn trai đàng hoàng. Hai nữa, cậu xâm nhập vào giấc mơ của tôi mà không xin phép. Thế là không đúng."
"Em biết."
"Chưa quá muộn đâu. Cậu mới cho vào nhưng vẫn để nguyên chưa nhúc nhắc và chưa xuất tinh. Nó vẫn nằm yên như đang suy nghĩ. Đúng không?"
Tôi gật đầu.
"Rút nó ra đi," cô ra lệnh. "Và ta hãy coi như điều đó chưa bao giờ xảy ra. Chị có thể quên nó đi và em cũng nên thế. Chị là chị gái của em và em là em trai của chị. Cho dù chúng ta không có quan hệ máu mủ ruột ra, chúng ta vẫn dứt khoát là chị em. Em hiểu chị đang nói gì chứ? Chúng ta thuộc một gia đình. Chúng ta không được làm thế."
"Quá muộn rồi," tôi nói.
"Tại sao?"
"Bởi vì em đã quyết định thế."
"Bởi vì mày đã quyết định thế," cái thằng tên là Quạ nói.
Mày không muốn phụ thuộc vào những nhân tố bên ngoài nữa, cũng không muốn lâm vào thế hoang mang bối rối vì những nhân tố mày không kiểm soát được. Mày đã giết cha mày và cưỡng hiếp mẹ mày. Và giờ đây, mày lại đang nhận sâu vào bên trong chị gái mày. Nếu trong toàn bộ chuyện này có một lời nguyền, thì mày muốn đối mặt với nó và tuân theo cái số phận đã được hoạch định của mày. Cất cái gánh nặng khỏi vai và bứt ra khỏi những kế hoạch của một kẻ khác để sống đúng là mày. Đó là điều mày muốn.
Cô đưa hai tay lên che mặt và khóc một chút. Mày cảm thấy ái ngại nhưng không cách nào rút ra được. Dương vật mày phình lên bên trong cô, mỗi lúc một rắn hơn như thể đã mọc rễ.
"Chị hiểu," cô nói. "Chị sẽ không nói thêm gì nữa. Nhưng chị muốn em nhớ điều này: em đang cưỡng hiếp chị. Chị thích em, nhưng không phải theo cách này. Có thể ta sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa, cho dù sau này ta có muốn đến mấy. Em thấy thế có được không?"
Mày không trả lời. Mày dập tắt mọi ý nghĩ trong đầu. Mày ghì cô sát hơn và bắt đầu ngọ nguậy mông. Từ từ, thận trọng, cuối cùng, thật mạnh. Mày cố nhớ hình dáng từng cây để nhận ra đường về, nhưng cây nào cũng giống cây nào và chẳng mấy chốc, mày bị nuốt chửng vào một biển thực vật vô hình. Sakura nhắm mắt lại, buông thả cho nhịp chuyển động của mày. Không hé răng nói một lời, không cưỡng lại. Gương mặt vô hồn quay khỏi mày. Nhưng mày cảm thấy khoái cảm đang dâng lên trong cô như một nối dài của bản thân mày. Bây giờ thì mày hiểu. Những cành cây chằng chịt sừng sững như một bức tường đen chặn tầm nhìn của mày. Con quạ không gửi thông điệp nữa. Và mày xuất tinh.
Tôi xuất tinh.
Và tỉnh dậy. Tôi đang nằm trên giường một mình. Nửa đêm. Tối mịt, không nhìn thấy chiếc đồng hồ nào. Tôi ra khỏi giường, cởi quần đùi, vào bếp, gột những giọt tinh trùng dính vào đó. Nhờn nhờn, trăng trắng và đặc, như đứa con hoang sinh ra từ bóng tối. Tôi uống ừng ực hết cốc này đến cốc khác mà không sao đỡ khát. Cảm thấy cô đơn cùng cực. Hết chịu nổi. Giữa đêm khuya, trong bóng tối dày đặc, với rừng sâu vây quanh, tôi không thể nào cô đơn hơn. Nơi đây không mùa, không ánh sáng. Tôi trở về giường, ngồi xuống, trút một tiếng thở dài. Bóng tối bọc kín tôi.
Cái gì đó bên trong mày đã lộ diện. Vỏ bọc đã vỡ tan, biến mất hoàn toàn, không thấy đâu nữa và nó đây, một cái bóng đen nhỏ nằm yên. Hai tay mày dính nhớp một chất gì - có vẻ như là máu người. Mày giơ tay ra trước mặt nhưng không đủ ánh sáng để nhận biết đó là gì. Tối quá là tối. Cả ở bên trong lẫn bên ngoài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:29:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40


Bên cạnh tấm biển "Thư viện Tưởng niệm Komura", là một panô cho biết thư viện mở cửa hằng ngày từ mười một giờ đến năm giờ, trừ thứ Hai, vào cửa tự do và mỗi thứ Ba vào hai giờ chiều, có hướng dẫn tham quan. Hoshino đọc to cho Nakata nghe.
"Hôm nay là thứ Hai, nên thư viện đóng cửa," Hoshino nói rồi nhìn đồng hồ. "Dù sao thì cũng quá giờ đóng cửa rồi. Đằng nào cũng vậy thôi."
"Cậu Hoshino?"
"Dạ?"
"Chỗ này nom không giống cái thư viện chúng ta đã đến bữa trước," Nakata nói.
"Bữa trước là một thư viện công lớn, còn đây là thư viện tư nhân. Quy mô có khác nhau."
"Thư viện tư nhân là thế nào?"
"Có nghĩa một người hữu sản nào đó dành một ngôi nhà để sắp xếp tất cả các sách mình đã thu thập để cho công chúng có thể vào đọc. Người này ắt phải tầm cỡ lắm. Chỉ cần cái cổng uy nghi thế kia thì đủ biết."
"Người hữu sản là gì?"
"Là một người giàu."
"Giữa một người hữu sản và một người giàu, có gì khác nhau không?"
Hoshino nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ một lúc.
"Cháu không biết," cuối cùng gã nói. "Hình như một người hữu sản thì có văn hóa hơn một người giàu đơn thuần thì phải."
"Có văn hóa?"
"Bất cứ ai có tiền đều là người giàu. Ông hay cháu, nếu có tiền, đều là người giàu. Nhưng trở thành người hữu sản không dễ dàng như thế. Cần có thời gian."
"Trở thành người hữu sản khó nhỉ."
"Vâng, khó lắm. Nhưng ông cháu mình khỏi lo chuyện đó. Cháu thấy cả ông lẫn cháu đều không thể trở thành người giàu được, huống hồ là hữu sản."
"Cậu Hoshino?"
"Dạ?"
"Thứ Hai họ đóng cửa, vậy sáng mai, mình đến vào lúc mười một giờ thì họ sẽ mở cửa chứ?"
"Cháu nghĩ thế. Mai là thứ Ba mà."
"Nakata này có thể vào bên trong thư viện được không?"
"Trên biển ghi là: mở cửa cho tất cả mọi người. Tất nhiên là ông có thể vào."
"Dù rằng lão không biết đọc?"
"Không thành vấn đề," Hoshino nói. "Họ đâu có kiểm tra học vấn từng người từ ngoài cửa."
"Vậy lão muốn vào bên trong."
"Ngày, việc đầu tiên là chúng ta quay lại đây và cùng vào," Hoshino nói. "Tuy nhiên, trước hết, cháu phải hỏi ông một câu: đây đúng là chỗ ông tìm, phải không? Và cái ông muốn tìm nằm ở bên trong."
Nakata bỏ mũ ra và xoa thật lực mái tóc cắt ngắn.
"Phải, lão nghĩ nó ở trong ấy."
"Vậy là chúng ta có thể chấm dứt việc tìm kiếm?"
"Phải. Việc tìm kiếm đã kết thúc."
"Tạ ơn Trời," Hoshino nói. "Cháu bắt đầu tự hỏi: liệu mình có phải lái xe vòng vòng thế này đến tận mùa thu?"
Hai ông con về căn hộ của Đại tá Sanders, đánh một giấc ngon lành và mười một giờ sáng hôm sau, lên đường đến thư viện. Từ nhà đến đó, đi bộ chỉ mất độ hai mươi phút, nên họ quyết định thả bộ. Hoshino đã trả chiếc xe thuê.
Cổng thư viện mở rộng khi họ tới. Có vẻ như sẽ là một ngày nóng với độ ẩm cao và người ta đã tưới nước mặt đường để giữ cho bụi khỏi bốc lên. Ngay sau cổng là một khu vườn được chăm sóc cẩn thận.
"Ông Nakata này?" Hoshino nói trước khi bước qua cổng.
"Gì thế cậu?"
"Vào trong thư viện rồi, chúng ta sẽ làm gì? Cháu luôn luôn sợ là đùng một cái, ông lại nảy ra một ý kỳ quặc, nên cháu muốn biết trước để chuẩn bị tinh thần."
"Nakata này cũng chưa biết làm gì một khi ta đã vào trong đó," Lão nói sau một lát suy nghĩ. "Tuy nhiên, đây là một thư viện, vậy ta có thể bắt đầu bằng việc đọc sách đã. Lão sẽ tìm một tập ảnh hay một cuốn sách tranh, còn cậu cứ chọn cuốn nào cậu thích mà đọc."
"Nhất trí. Bắt đầu bằng việc đọc sách, nghe có lý đấy."
"Rồi sau đó, ta có thể nghĩ ra nên làm cái gì tiếp theo."
"Ô-kê," Hoshino nói. "Ta sẽ nghĩ về điều kế tiếp sau đó - sau đó . Nghe như là một kế hoạch vậy."
Họ đi qua khu vườn đẹp và vào qua một cửa nom khá cổ kính. Ngay bên trong là phòng tiếp tân có một thanh niên đẹp trai, dong dỏng cao, mặc sơ mi trắng, đeo cặp kính nhỏ, ngồi sau quầy. Một mớ tóc dài mảnh rủ xuống trán. Thuộc loại ta có thể thấy trong những phim đen trắng của Truffaut, Hoshino nghĩ thầm.
Thấy họ vào, anh ta ngước lên, cười rất tươi.
"Chúc buổi sáng tốt lành," Hoshino vui vẻ chào.
"Chúc buổi sáng tốt lành," người thanh niên đáp lại. "Hoan nghênh quý khách tới thư viện."
"Chúng tôi... ừm à... muốn đọc mấy cuốn sách."
"Dĩ nhiên rồi," Oshima gật đầu. "Xin cứ thoải mái đọc bất kỳ cuốn nào tùy thích. Thư viện mở cửa cho mọi người. Các kệ, giá hoàn toàn để ngỏ, vậy quý khách cứ lấy cuốn nào mình muốn đọc. Quý khách có thể tìm đề sách trong các danh mục hoặc trên máy tính. Nếu quý khách cần hỏi gì, xin đừng ngần ngại, tôi xin sẵn lòng phục vụ."
"Rất cám ơn."
"Quý khách có cần tìm sách về một lĩnh vực nào đặc biệt không?"
"Không hẳn thế," Hoshino lắc đầu. "Thực ra chúng tôi quan tâm đến bản thân thư viện hơn là đến sách. Chúng tôi tình cờ đi qua, thấy hay hay nên ghé thăm. Ngôi nhà thật đẹp."
Oshima mỉm cười duyên dáng và cầm một cây bút chì vót nhọn lên. "Nhiều vị khác cũng thế đấy ạ."
"Rất vui được biết thế," Hoshino nói.
"Nếu quý khách có thời gian, thì hai giờ chiều nay có buổi hướng dẫn tham quan đấy. Mỗi thứ Ba đều có một buổi như vậy, chừng nào có khách yêu cầu. Đích thân bà giám đốc giới thiệu lai lịch và quá trình hoạt động của thư viện. Mà hôm nay lại đúng là thứ Ba."
"Nghe có vẻ hay đấy. Ông Nakata, ông thấy thế nào?"
Suốt thời gian Hoshino và Oshima nói chuyện với nhau ở quầy. Nakata đứng sang một bên, mũ cầm tay, lơ đãng nhìn xung quanh. Nghe nhắc đến tên mình, lão như tỉnh giấc mơ. "Vâng, lão giúp được gì cho cậu đây?"
"Chiều nay, hai giờ có buổi hướng dẫn tham quan thư viện. Ông có tham gia không?"
"Cám ơn cậu Hoshino, Nakata này rất thích."
Oshima quan sát hai người nói chuyện với mối quan tâm cao độ. Hoshino và Nakata - họ có quan hệ thế nào với nhau nhỉ? Xem ra không phải bà con họ hàng. Một kết hợp kỳ lạ: hai người khác nhau xa về tuổi tác lẫn bề ngoài. Họ có thể có điểm gì chung nhỉ? Mà cái ông già Nakata này có cách nói năng chả giống ai. Ở ông ta, có một cái gì mà Oshima không sao xác định được. Tuy nhiên, hoàn toàn không tệ.
"Bác và anh đi từ xa tới đây?" anh hỏi.
"Chúng tôi đến từ Nagoya," Hoshino vội vã trả lời trước khi Nakata kịp mở miệng. Nếu để lão tông tốc kể là mình ở Nakano, thì có thể rắc rối. Tivi đã đưa tin là một ông già với đặc điểm nhận dạng như Nakata có liên quan với một vụ án mạng gì đó. Cũng may là người ta chưa công bố ảnh của Nakata, theo chỗ Hoshino biết.
"Cả một cuộc hành trình dài," Oshima bình luận.
"Vâng, chúng tôi qua một cây cầu để tới đây," Nakata đáp. "Một cây cầu dài, tuyệt vời."
"Thật là dài, phải không?" Oshima nói. "Ấy thế mà chính cháu chưa qua bao giờ đấy."
"Cả đời Nakata chưa từng thấy cây cầu nào dài thế."
"Mất bao nhiêu thời gian và cả núi tiền của mới xây xong nó đấy," Oshima nói tiếp. "Theo báo chí, mỗi năm, công ty chịu trách nhiệm xây cầu này và đoạn xa lộ vắt trên đó mỗi năm thâm thủng cả trăm tỉ yen. Tiền thuế ta đóng là bù vào chỗ đó."
"Nakata này chả biết một tỷ là bao nhiêu."
"Nói thật với bác, cháu cũng chả biết," Oshima nói. "Vượt quá một mức nào đó, những con số như vậy không còn thực tế nữa. Dù sao, đó cũng là một núi của."
"Rất cám ơn." Hoshino xen vào. Cứ đà này, có giời biết Nakata sẽ phun ra những gì, nên gã phải dập tắt cái khả năng ấy ngay từ trong trứng. "Chúng tôi phải có mặt ở đây lúc hai giờ để tham quan, đúng không?"
"Vâng, hai giờ," Oshima nói. "Bà giám đốc sẽ trực tiếp hướng dẫn khách."
"Chúng tôi sẽ đọc từ giờ đến lúc đó," Hoshino nói.
Xoay xoay cây bút chì trong tay, Oshima nhìn theo hai người đi khỏi rồi trở về với công việc của mình.
Họ lấy mấy cuốn sách từ trên giá xuống, Hoshino tìm được cuốn Beethoven và thế hệ của mình . Nakata chọn mấy tập ảnh để lên bàn. Rồi, tựa như một con chó con, lão đi một vòng quanh phòng đọc, quan sát tỉ mỉ mọi thứ, sờ cái này, hít hít cái kia, thi thoảng dừng ở một điểm chọn lọc, quắc mắt nhìn trừng trừng. Cả phòng đọc chỉ có hai ông con cho đến quá trưa, nên không ai khác để ý đến lối hành xử kỳ dị của ông già.
"Này ông?" Hoshino thì thào.
"Dạ, cậu cần gì?"
"Nói thế này thì khí đột ngột, nhưng cháu muốn ông đừng có nói với ai là ông ở Nakano đến."
"Tại sao thế?"
"Đây là cả một câu chuyện dài, tạm thời ông hẵng cứ nghe theo cháu đã. Nếu mọi người biết ông từ Nakano đến, điều đó có thể gây rắc rối cho họ."
"Lão hiểu," Nakata nói, gật đầu lia lịa. "Gây rắc rối cho người khác là không tốt. Nakata sẽ không nói là mình ở Nakano."
"Thế thì tốt," Hoshino nói. "À, ông đã thấy cái ông tìm chưa?"
"Chưa, cho đến giờ thì chưa."
"Nhưng đây dứt khoát là đúng chỗ chứ?"
Nakata gật đầu. "Đúng. Đêm qua, lão đã nói chuyện dài dài với phiến đá trước khi đi ngủ. Lão chắc chắn đích thị là chỗ này."
"Tạ ơn trời."
Hoshino gật đầu và quay trở lại với cuốn tiểu sử Beethoven. Nhạc sĩ này là một con người kiêu hãnh tuyệt đối tin ở tài năng của mình và không thèm nịnh bợ giới quý tộc. Tin chắc rằng bản thân nghệ thuật cùng sự biểu hiện đúng những xúc cảm của mình là điều trác tuyệt nhất trên đời, ông cho rằng quyền lực chính trị và của cải chỉ có một chức năng duy nhất là phục vụ nghệ thuật. Khi Haydn lưu trú ở gia đình một nhà quý tộc (hầu như cả đời Haydn đều thế), ông phải ăn với đám gia nhân. Các nhạc sĩ thời Haydn bị coi là người làm công (Tuy nhiên, Haydn, vốn tính hồn nhiên và giản dị, lại thích thế hơn là dự những bữa ăn trịnh trọng, cứng nhắc của giới quý tộc).
Trái lại, Beethoven thường tức điên vì cách đối xử khinh rẻ ấy, đôi khi cáu tiết đập cả bát đĩa vào tường. Ông đòi hỏi trong bữa ăn, ông phải được đối xử ngang hàng với các nhà quý tộc mà ông phục vụ. Ông dễ nổi nóng và khi cáu lên, rất khó xoa dịu. Thêm vào đó là những ý tưởng chính trị cấp tiến mà ông không hề tìm cách che giấu. Khi thính giác xấu đi, những khuynh hướng này lại càng rõ rệt. Cùng với tuổi tác, âm nhạc của ông trở nên vừa cởi mở chan hòa hơn vừa hướng nội sâu sắc hơn. Chỉ có Beethoven mới có thể cân bằng được hai xu hướng tương phản ấy. Nhưng nỗ lực phi thường để đạt được điều đó dần dần hủy hoại đời ông, vì mọi con người đều có những giới hạn thể chất và tinh thần, mà vào thời điểm đó, Beethoven đã hồ như vượt quá giới hạn của mình.
Những thiên tài như thế không dễ sống, Hoshino nghĩ thầm khâm phục. Gã đặt sách xuống, nhớ lại bức tượng đồng nửa người thể hiện một ông Beethoven cau có đặt ở phòng âm nhạc trường gã, thế mà đến giờ, gã mới có một ý niệm về những gian khó mà nhà soạn nhac đã phải chịu đựng. Thảo nào nom bố ấy lầm lầm thế. Mình chả vạ gì đi làm thiên tài, đó là cái chắc, Hoshino nghĩ.
Gã nhìn sang Nakata đang chúi đầu vào một tập ảnh về đồ gỗ dân gian truyền thống, vừa xem vừa điều khiển một cái đục và một cái bào tưởng tượng. Hẳn những tấm ảnh ấy đã khiến lão bất giác cảm thấy như trở lại nghề cũ. Và... biết đâu đấy. Có thể một ngày kia, ông ấy sẽ trở thành một người vĩ đại cũng nên. Hoshino nghĩ. Hầu hết thiên hạ không thể làm được những điều ông ấy đang làm. Ông "Khốt" này rành là độc nhất vô nhị.
Đến trưa, có hai độc giả khác, hai phụ nữ trung niên, vào phòng đọc nên Hoshino và Nakata nhân lúc này ra ngoài hít thở khí trời. Hoshino có mang theo ít bánh mì để ăn trưa, còn Nakata thì như thường lệ, vẫn tha bên mình cái phích nước trà nóng. Hoshino trước hết hỏi Oshima đang đứng quầy xem họ có thể ăn ở trong khuôn viên thư viện được không.
"Dĩ nhiên là được," Oshima đáp. "Ngồi ngoài hiên trông ra vườn mà ăn thì tuyệt. Sau đó, xin mời vào dùng một tách cà phê. Tôi đã pha sẵn rồi, vậy xin cứ tự rót lấy."
"Cảm ơn," Hoshino nói. "Thư viện này thật giống như ở nhà."
Oshima mỉm cười và vuốt lại tóc. "Nơi này có hơi khác một thư viện bình thường. 'Giống như ở nhà' là cụm từ đắt để mô tả nó. Điều chúng tôi cố gắng tạo ra là một không gian thân mật trong đó mọi người có thể thư giãn và tận hưởng thú vui đọc những điều hay."
Hoshino thấy có thiện cảm với Oshima. Thông minh, chải chuốt, hiển nhiên là con nhà gia giáo. Và rất chi là hòa nhã. Cha này chắc "đồng cô"? Không phải là Hoshino thành kiến với đám tình dục đồng giới. Mỗi người một sở thích, đó là suy nghĩ của gã. Đàn ông cũng nhiều loại, có người thích nói chuyện với đá, có người lại thích ngủ với đàn ông khác. Tại sao không?
Ăn trưa xong, Hoshino đứng dậy, vươn vai và trở vào phòng tiếp tân nhận tách cà phê do Oshima mời. Nakata không uống cà phê nên ở lại ngoài hiên vừa nhấp từng ngụm trà vừa ngắm chim chóc bay lượn quanh vườn.
"Vậy anh có tìm được cái gì lý thú để đọc không?" Oshima hỏi.
"Có, tôi đang đọc một cuốn tiểu sử Beethoven," Hoshino đáp. "Tôi rất thích. Cuộc đời ông ta thật sự đem lại cho ta biết bao điều đáng suy nghĩ."
Oshima gật đầu. "Ông đã trải nhiều nông nỗi, nói thế là còn nhẹ."
"Quả là ông ấy đã chịu nhiều cay đắng," Hoshino nói, "nhưng tôi nghĩ đó chủ yếu là tại ông ấy. Tôi muốn nói, ông ấy quá vị kỷ, không chịu nhân nhượng một ly. Ông ấy chỉ nghĩ về bản thân và âm nhạc của mình và không ngần ngại hy sinh mọi cái khác vì nó. Ông ấy hẳn là người rất khó hòa hợp. Này, Ludwig, để cho tôi yên một tí nào! tôi ắt phải la lên nếu như tôi quen biết ông ấy. Chả có gì đáng ngạc nhiên khi cháu trai ông ấy phát rồ. Nhưng tôi phải thừa nhận là nhạc của ông ấy thật tuyệt vời. Nó đi thẳng vào lòng. Thật lạ kỳ."
"Hoàn toàn đúng," Oshima tán thành.
"Nhưng tại sao ông ấy lại phải sống một cuộc đời cay cực thế? Nhẽ ra ông ấy có thể sống bình thường hơn thì có phải đỡ khổ hơn không?"
Oshima xoay xoay cây bút chì giữa những ngón tay. "Tôi hiểu quan điểm của anh, nhưng ở thời của Beethoven, người ta nghĩ việc thể hiện bản ngã của mình là quan trọng. Trước nữa, dưới chính thể quân chủ chuyên chế, điều đó ắt bị coi là không phù hợp, chệch hướng xã hội và bị trấn áp thẳng tay. Nhưng đến thế kỷ XIX, giai cấp tư sản lên cầm quyền, chấm dứt sự trấn át đó, giải phóng cá nhân và bản ngã được thể hiện. Tự do đồng nghĩa với giải phóng bản ngã. Nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc đi đầu trong xu thế ấy. Những người nối gót Beethoven - có thể nói là sống dưới bóng ông - như Berlioz, Wagner, Liszt, Schumann... đều sống những cuộc đời dị thường, đầy bão tố. Sự dị thường hầu như được coi là lối sống lý tưởng. Người ta gọi đó là thời đại của chủ nghĩa lãng mạn. Tuy nhiên, tôi dám chắc sống như thế đôi khi cũng cực đối với họ. Vậy là anh thích nhạc của Beethoven?"
"Tôi không thể nói mình thích hay không thích vì tôi chưa được nghe nhiều," Hoshino thừa nhận. "Thực ra, tôi chưa nghe gì khác ngoài bản Tam tấu Archduke . Riêng bản này thì tôi thích."
"Phải, đó là một tác phẩm hay."
"Bộ ba Triệu Đô thật tuyệt vời," Hoshino nói thêm.
"Riêng tôi thì lại thích Bộ ba Suk của Séc hơn," Oshima nói. "Cách thể hiện của họ có một sự cân đối đẹp đẽ khiến người ta cảm thấy như có thể ngửi thấy làn gió thổi trên một cánh đồng cỏ xanh rờn. Nhưng tôi cũng có thể nghe đĩa của Bộ Ba Triệu Đô Rubinstein-Heifetz-Feuermann. Một sự diễn tấu sang trọng."
"Chà, anh... Oshima?" Hoshino đọc tấm biển nhỏ ghi tên trên quầy. "Tôi thấy anh rất rành âm nhạc."
"Không rành lắm đâu," Oshima mỉm cười đáp. "Tôi chỉ thích nghe nhạc thôi."
"Anh có nghĩ âm nhạc có khả năng làm thay đổi con người không? Chẳng hạn như anh nghe một bản nhạc và thế là trong lòng anh bèn diễn ra một thay đổi lớn."
Oshima gật đầu.
"Chắc chắn điều đó có thể xảy ra. Ta có một trải nghiệm làm thay đổi một cái gì đó trong ta, tựa như một phản ứng hóa học. Khi ta xem xét lại bản thân sau đó, ta phát hiện thấy tất cả các chuẩn mực sống ta quy theo trước đây đều đã lên một nấc và thế giới mở rộng ra nhiều chiều bất ngờ. Vâng, tôi đã từng có trải nghiệm ấy. Không thường xuyên, nhưng điều đó đã từng xảy ra. Nó giống như khi ta si mê ai vậy."
Bản thân Hoshino chưa bao giờ si mê ai nhưng gã vẫn hóng hớt gật đầu.
"Đó là một điều rất quan trọng, phải không?" gã nói. "Đối với cuộc đời chúng ta?"
"Phải," Oshima đáp. "Không có những trải nghiệm đỉnh cao ấy, đời chúng ta ắt sẽ buồn chán và tẻ nhạt. Như Berlioz nói: Sống ở đời mà chưa từng một lần đọc Hamlet thì có khác nào sống dưới đáy một mỏ than."
"Đáy mỏ than?"
"Một cách cường điệu điển hình của thế kỷ XIX ấy mà."
"Cảm ơn về tách cà phê," Hoshino nói. "Rất vui được trò chuyện với anh."
Oshima cười toét miệng đáp lại.
Hoshino và Nakata đọc sách đến hai giờ chiều. Nakata ôn lại các động tác thợ mộc bằng cách xem tập ảnh đồ gỗ. Ngoài hai bà trung niên, còn có thêm ba độc giả khác đến sau giờ ăn trưa. Nhưng chỉ có Hoshino và Nakata yêu cầu được hướng dẫn tham quan.
"Các vị không phiền vì chỉ có hai chúng tôi chứ?" Hoshino hỏi. "Tôi cảm thấy ngại để các vị phải vất vả vì chúng tôi."
"Vất vả gì đâu," Oshima nói. "Bà giám đốc của chúng tôi rất sung sướng được làm công việc hướng dẫn này, ngay cả khi chỉ có một người."
Đúng hai giờ, một người đàn bà đẹp trạc ngũ tuần bước xuống cầu thang. Lưng rất thẳng, dáng đi quyền quý. Bà mặc một bộ đồ xanh sẫm đường nét nghiêm cẩn, đi giày cao gót màu đen, cổ đeo một dây chuyền bạc nhỏ, tóc búi ra sau gáy. Không chút phô trương, nhưng tất cả toát lên một vẻ tao nhã, tinh tế cao độ.
"Xin chào. Tên tôi là Saeki, giám đốc thư viện," bà nói với một nụ cười điềm đạm.
"Tôi là Hoshino."
"Tôi là Nakata, tôi đến từ Nakano," ông già nói, chiếc mũ phong trần trong tay.
"Chúng tôi rất vui mừng có khách từ xa thế đến thăm," Miss Saeki nói.
Nghe Nakata tự giới thiệu, Hoshino lạnh sống lưng, nhưng Miss Saeki không hề tỏ vẻ nghi ngờ.
Nakata rõ ràng đã quên mọi lời dặn dò.
"Vâng, tôi đã qua cây cầu rất to," lão nói.
"Ngôi nhà này thật tuyệt vời," Hoshino cắt ngang, cố chặn không để lão nói gì về cầu cống nữa.
"Nhà này được xây dựng hồi đầu thời Meji làm thư viện và nhà khách của gia đình Komura," Miss Saeki bắt đầu dẫn giải. "Rất nhiều văn nhân tài tử đã tới thăm và lưu lại đây. Thành phố đã xếp hạng nơi đây là di tích lịch sử."
" Văng dân à?" Nakata hỏi.
Miss Saeki mỉm cười. "Tức là các nghệ sĩ, nhà thơ, tiểu thuyết gia, vân vân. Trong quá khứ, những nhà hữu sản ở các địa phương thường bảo trợ giúp đỡ các nghệ sĩ. Nghệ thuật, thời bấy giờ, không được coi là kế sinh nhai. Gia tộc Komura là những nhà hữu sản của vùng này luôn bảo trợ văn hóa và nghệ thuật. Thư viện này được thành lập và điều hành để lưu truyền di sản đó cho đời sau."
" Nhà hữu sản , từ này thì Nakata hiểu nghĩa," ông già nói. "Phải mất nhiều thời gian mới thành một nhà hữu sản được."
Miss Saeki mỉm cười gật đầu. "Bác nói rất đúng. Dù có tích lũy bao nhiêu tiền của, cũng không thể mua được thời gian. Nào, chúng ta bắt đầu tham quan từ tầng hai."
Họ lần lượt tham quan từng phòng một trên gác. Như thường lệ, Miss Saeki giới thiệu về những văn nghệ sĩ từng lưu trú tại đây và chỉ cho hai vị khách xem những bản thư pháp và tranh họ để lại. Trong khi tham quan, Nakata dường như bỏ ngoài tai mọi lời thuyết rình của bà, mà chỉ chăm chú xem xét kỹ từng hiện vật. Trong thư phòng của Miss Saeki, một chiếc bút máy nằm trên bàn. Nhiệm vụ của Hoshino là ngoan ngoãn đi theo và thỉnh thoảng thốt lên những tiếng trầm trồ đúng lúc. Suốt thời gian đó, gã vẫn thấp thỏm lo ngộ nhỡ ông già lại thình lình xì ra một cái gì quái chiêu. Nhưng Nakata chỉ tiếp tục soi từng hiện vật họ đi qua mà thôi. Miss Saeki có vẻ không quan tâm đến cách ứng xử của Nakata. Luôn tươi cười, bà thoăn thoắt dẫn họ đi xem một vòng. Cung cách điềm đạm và tự chủ của bà khiến Hoshino thán phục.
Cuộc tham quan kéo dài khoảng hai mươi phút. Họ cảm ơn người hướng dẫn. Suốt thời gian đó, nụ cười không lúc nào tắt trên môi Miss Saeki. Tuy nhiên, càng quan sát bà, Hoshino càng thấy bối rối. Bà áy tươi cười nhìn chúng mình, gã nghĩ thầm, nhưng bà ấy có thấy gì đâu. Bà ấy nhìn chúng mình, nhưng lại thấy một cái gì khác. Suốt thời gian bà dẫn khách đi xem, ngay cả nếu tâm trí bà có để ở tận đâu đâu, bà vẫn rất lịch sự và ân cần. Mọi câu hỏi của gã đều được bà trả lời một cách dễ hiểu và hòa nhã. Không thể nói là bà làm công việc tỉ mẩn này một cách miễn cưỡng, thậm chí còn có phần thích thú nữa. Nhưng trái tim bà không đặt ở đó.
Hai ông con trở lại phòng đọc và ngồi trên sofa với những cuốn sách của mình. Nhưng trong khi giở các trang sách, Hoshino vẫn không khỏi nghĩ đến Miss Saeki. Người đàn bà đẹp này có một cái gì rất khác thường, nhưng gã không tài nào xác định được. Gã đành chịu và tập trung vào đọc.
Ba giờ. Bất thình lình, Nakata đứng phắt dậy với một vẻ quyết đoán khác thường. Lão nắm chặt chiếc mũ trong tay.
"Này, có chuyện gì thế? Ông đi đâu vậy?" Hoshino thì thào.
Nhưng lão không trả lời. Môi mím chặt đầy quyết tâm, Nakata rảo bước về phía cửa chính, bỏ cả túi đồ lại trên sàn nhà.
Hoshino gấp sách lại và đứng dậy. Dứt khoát là có chuyện gì không ổn rồi. "Này, đợi cháu đã!" gã gọi theo. Nhận thấy lão phớt lờ không thèm nghe, gã lật đật chạy theo. Các độc giả khác ngước lên nhìn theo gã.
Trước khi ra đến cửa, Nakata rẽ trái và không chút ngần ngại, lên thẳng tầng hai. Tấm biển CẤM NGƯỜI NGOÀI gắn ở chân cầu thang không ngăn được lão vì lão không biết đọc. Đôi giày tennis mòn đế quèn quẹt trên các bậc gỗ.
"Xin lỗi," Oshima ngả người trên quầy gọi với theo sau lưng Nakata. "Khu ấy đóng rồi."
Nakata như không nghe thấy.
Hoshino chạy theo lão lên cầu thang. "Ông ơi, chỗ này đóng rồi. Không được vào đâu."
Oshima ra khỏi đằng sau quầy và theo họ lên cầu thang.
Không nao núng, Nakata sải bước dọc hành lang tới thư phòng. Cửa mở. Miss Saeki ngồi ở bàn giấy, quay lưng ra cửa sổ, đang đọc một cuốn sách. Nghe thấy tiếng chân, bà ngước mắt lên. Khi tới trước bàn giấy, Nakata đứng sững nhìn xuống mặt bà. Cả hai đều không nói một lời. Lát sau, Hoshino tới, theo sau là Oshima.
"Ông à," Hoshino vỗ vào vai ông già, "ông không được phép vào đây. Ông vượt quá giới hạn rồi. Chúng ta phải đi thôi, nghe không?"
"Nakata này có điều cần nói," Nakata nói với Miss Saeki.
"Là chuyện gì vậy?" Miss Saeki bình tĩnh hỏi.
"Lão muốn nói chuyện về phiến đá. Phiến đá cửa vào."
Miss Saeki nhìn kỹ gương mặt ông già một lúc. Mắt bà không có thái độ gì, chỉ chớp chớp vài lần. Rồi bà lặng lẽ gấp sách lại, đặt hai tay lên bàn và lại ngước mắt nhìn Nakata. Bà có vẻ phân vân chưa biết nên ứng xử thế nào. Nhưng cuối cùng, bà gật đầu.
Bà nhìn Hoshino, rồi Oshima. "Cháu để hai chúng tôi nói chuyện riêng một lúc được không?" bà nói với Oshima. "Và khi ra, xin vui lòng đóng cửa lại giùm."
Oshima tần ngần một thoáng, rồi gật đầu. Anh nắm cánh tay Hoshino, nhẹ nhàng kéo ra hành lang và đóng cửa lại.
"Anh có chắc là mọi sự sẽ ổn không?"
"Miss Saeki biết mình đang làm gì," Oshima nói và cùng Hoshino xuống cầu thang. "Một khi bà đã nói ổn, thì ắt là ổn, khỏi phải lo cho bà. Vậy trong khi chờ đợi, tại sao ta không làm tách cà phê, anh Hoshino?"
"Ờ phải, với ông lão Nakata này, thì lo lắng chỉ là phí thì giờ thôi," Hoshino vừa nói vừa lắc đầu. "Tôi xin cam đoan thế."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:31:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41


Bần này vào trong rừng, tôi tự trang bị cho mình tất cả những gì có thể cần đến: la bàn, dao, bi-đông, một số lương thực phòng khi bất trắc, găng tay lao động, một bình xịt sơn vàng và chiếc rìu trước đây tôi đã dùng. Tôi nhét tất cả vào một chiếc ba lô nilông nhỏ cũng lấy ở trong kho chứa dụng cụ và tiến vào rừng. Tôi mặc một chiếc sơ mi dài tay, cổ quấn một chiếc khăn, đội chiếc mũ Oshima cho và xịt thuốc xua côn trùng lên khắp mọi chỗ còn hở trên người. Trời đầy mây và nóng, nồm tựa như có thể mưa bất cứ lúc nào, nên tôi bỏ phòng sẵn một chiếc áo mưa trùm vào ba lô cho yên trí. Một đàn chim vừa gọi nhau choe chóe vừa bay qua bầu trời thấp, nặng như chì.
Tôi dễ dàng tới được quãng phát quang trong rừng. Kiểm tra la bàn để đảm bảo thường xuyên nhắm hướng Bắc, tôi dấn sâu vào rừng. Lần này, tôi xịt sơn vàng đánh dấu các thân cây trên dọc đường. Khác với những mảnh vụn bánh mì của Hansel và Gretel, loại sơn xịt này chẳng sợ làm mồi cho lũ chim đói.
Chuẩn bị tốt hơn, nên tôi không sợ. Cố nhiên, tôi vẫn căng thẳng, nhưng tim tôi không đánh trống làng. Óc tò mò là động cơ thúc đẩy tôi. Tôi muốn biết những gì nằm dọc con đường này. Ngay cả nếu không có gì, tôi cũng muốn biết chắc là không có gì. Tôi cần phải biết. Ghi nhớ trong đầu cảnh quan đã đi qua, tôi kiên quyết và thận trọng tiến từng bước, từng bước.
Thi thoảng, một âm thanh kỳ lạ vang lên - tiếng thịch như vật gì rơi xuống đất, tiếng kẽo kẹt như ván sàn rên lên dưới sức nặng, và những tiếng khác mà tôi không biết mô tả như thế nào. Tôi không tài nào xác định được đó là những tiếng gì, cũng như chúng phát ra từ đâu. Lúc thì nghe xa xa, khi lại ngay kề bên - tựa như khái niệm về khoảng cách hết mở rộng lại co vào. Tiếng chim vỗ cánh trên đầu tôi vang to khác thường như được khuyếch đại. Mỗi lần nghe thấy thế, tôi đều dừng lại dỏng tai, nín thở, chờ một điều gì xảy đến. Chẳng có gì và tôi lại bước tiếp.
Ngoài những âm thanh đột ngột, bất ngờ ấy, mọi thứ khác đều im ắng. Không gió, không xào xạc lá trên ngọn cây, chỉ có tiếng chân tôi bước trên cỏ, mỗi khi giẫm lên một nhành cây rơi, tiếng rắc lại vang động không trung.
Tôi nắm chặt cán chiếc rìu vừa mài sắc, cảm thấy nó ram ráp trong lòng bàn tay trần. Cho đến lúc này, chưa phải dùng đến nó, nhưng sức nặng của nó khiến tôi yên tâm và cảm thấy được che chở. Nhưng che chở chống lại cái gì? Trong rừng không có gấu hay sói. Có lẽ chỉ có mấy con rắn độc. Hẳn chính tôi mới là sinh vật nguy hiểm nhất ở đây. Vậy có lẽ thần hồn nát thần tính, tôi đã sợ cái bóng của chính mình.
Tuy nhiên, trong khi đi tiếp, tôi có cảm giác như một cái gì đang nấp ở một chỗ nào đó, lẩn vào các bụi cây, nín thở theo dõi, nghe ngóng tôi, quan sát từng động tác của tôi. Đâu đó, từ xa, một cái gì đang nghe ngóng từng tiếng động do tôi phát ra, cố đoán xem tôi định đi đâu và tại sao. Tôi ráng không nghĩ về nó. Càng nghĩ về những ảo ảnh, nó càng phình to ra và hiện hình rõ nét, không còn là ảo ảnh nữa.
Để lấp đầy im lặng, tôi thử huýt sáo bắt chước giai điệu kèn saxophone soprano của Coltrane 1 trong My Favourite Things . Tất nhiên, tiếng huýt sáo khó có thể gọi là chuẩn của tôi còn cách xa nguyên bản phức hợp và nhanh như ánh chớp hàng ki-lô-mét. Tôi chỉ chắp vá những chỗ tôi nhớ được, cho nó ang áng thôi. Còn hơn là chẳng có gì, tôi nghĩ thế. Tôi nhìn đồng hồ: mười giờ ba mươi. Oshima hẳn đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ để mở cửa thư viện. Hôm nay là... thứ Tư. Tôi hình dung anh tưới nước trong vườn, lau bàn, đun nước và pha cà phê. Tất cả những công việc mà bình thường tôi vẫn làm. Nhưng bây giờ tôi đang ở đây, tận trong rừng, mỗi lúc một dấn sâu thêm. Không ai biết là tôi đang ở đây. Chỉ mình tôi và chúng biết.
Tôi tiếp tục đi theo con đường mòn trước mặt. Gọi là đường cũng khí hơi quá. Đó chỉ như một vệt trũng tự nhiên, nước chảy qua lâu ngày khoét thành rãnh. Khi có mưa lớn trong rừng, nước chảy mạnh dần hõm đất, cuốn băng cỏ, làm trơ ra những rễ cây, gặp đá tảng lớn thì chảy men theo rìa. Khi tạnh mưa, ta thaasy hiện ra một lòng sông cạn giống như một đường mòn. Cái gọi là đường ấy phủ đầy dương xỉ và cỏ xanh, nếu lãng đi không chú ý là chẳng thấy đâu nữa. Thỉnh thoảng lại dốc đứng, tôi phải bám vào các thân cây và leo lên.
Giai điệu saxophone soprano của Coltrane chấm dứt từ quãng nào không biết, và bây giờ vang lên trong tai tôi bản độc tấu piano của McCoy Tyner, tay trái chạy một tiết tấu lặp đi lặp lại trong khi tay phải rải những hòa âm đậm đặc, u ám. Như trong một cảnh huyền thoại, nhạc mô tả quá khứ u tối của một ai đó không tên, không diện mạo, với tất cả các chi tiết được bày ra rõ ràng như những khúc ruột lôi ra từ bóng tối. Ít nhất đó cũng là cách hiểu của tôi khi nghe nó. Khúc nhạc kiên nhẫn lặp đi lặp lại, dần dần đập vỡ thực tại, rồi chắp những mảnh vỡ lại. Nó có một mùi thôi miên nguy hiểm như khu rừng này.
Tôi tiếp tục dấn bước, vừa đi vừa xịt sơn đánh dấu các thân cây, thỉnh thoảng ngoái lại để kiểm tra cho chắc là những dấu màu vàng ấy vẫn rõ. Tốt - những dấu chỉ đường về cho tôi giống như một dãy phao đều tăm tắp chạy dài trên biển. Để bảo đảm chắc chắn gấp đôi, chốc chốc tôi lại lấy rìu khía hình chữ V trên một thân cây. Chiếc rìu nhỏ của tôi không được sắc lắp nên tôi chọn những thân cây nhỏ trông có vẻ mềm hơn để khắc. Đám cây lặng lẽ đón nhận những nhát rìu đó.
Những con muỗi đen to tướng vo ve quanh tôi như những tốp thám báo, nhè những khoảng da hở quanh mắt và tấn công. Khi nghe thấy chúng vo ve, tôi vung tay đập hoặc xua chúng đi. Đập trúng con nào, nó kêu đánh bép, bụng đã mọng những máu nó hút của tôi. Phải một lát sau mới thấy ngứa. Tôi chùi tay vào chiếc khăn quấn quanh cổ cho sạch máu.
Những người lính hành quân qua khu rừng này, nếu vào mùa hè, chắc cũng bị muỗi quấy rầy như thế. Toàn bộ trang bị chiến đấu nặng bao nhiêu nhỉ? Những cây súng trường kiểu cổ tựa như một cục sắt, thắt lưng bao đạn, lưỡi lê, mũ sắt, một cặp lựu đạn, lương thực và khẩu phần (tất nhiên rồi), càmèn, xẻng đào hố cá nhân... Tất cả cộng lại chắc phải đến trên hai chục ký. Nặng thấy mồ, hơn cái ba lô nhỏ của tôi nhiều. Tôi có cảm giác rõ ràng là mình sắp đâm sầm vào những người lính ấy ở chỗ ngoặt tới, mặc dù họ đã biến mất từ hơn sáu mươi năm trước.
Tôi nhớ đến đạo quân của Napoléon tiến vào nước Nga mùa hè năm 1812. Chắc hẳn họ cũng đã bị muỗi hành suốt chặng đường dài đến Mátxcơva. Dĩ nhiên, muỗi không phải là vấn đề duy nhất. Để sống còn, họ đã phải vật lộn với đủ mọi thứ khác nữa: đói, khát, đường sá lầy lội, bệnh truyền nhiễm, cái nóng nung người, những đội biệt động Côzắc tấn công tuyến hậu cần mong manh của họ, thiếu thuốc men, đó là chưa kể những trận giáp chiến lớn với quân đội chính quy Nga. Cuối cùng, khi lực lượng Pháp thất thểu vào một thành phố Mátxcơva vắng tanh, thì quân số từ 500.000 đã giảm xuống chỉ còn 100.000.
Tôi dừng lại uống một ngụm nước từ bi-đông. Đồng hồ tôi chỉ đúng mười một giờ. Đến giờ thư viện mở cửa. Oshima đang mở khóa cửa vào, ngồi vào chỗ quen thuộc của mình sau quầy, một mớ bút chì dài vót nhọn để trên bàn. Anh cầm một chiếc lên xoay xoay trong tay, khẽ ấn đầu có gắn tẩy vào thái dương. Tôi có thể thấy cảnh đó rõ mồn một. Nhưng nơi đó mới xa làm sao!
Mình không bao giờ có kinh nguyệt, Oshima đã nói thế. Mình sinh hoạt tình dục bằng hậu môn, không bao giờ làm tình bằng âm hộ. Âm hạch của mình nhạy cảm nhưng vú thì không.
Tôi nhớ lúc Oshima ngủ trên giường trong căn nhà gỗ, quay mặt vào tường. Và những dư ảnh anh/chị để lại. Thế rồi tôi nằm ngủ luôn trên chiếc giường ấy, với những dư ảnh ấy bao quanh mình.
Tôi thôi không nghĩ đến chuyện ấy nữa. Thay vào đó, tôi nghĩ về chiến tranh. Những cuộc chiến Napoléon, cuộc chiến tranh mà những người lính Nhật Bản đã phải tham gia. Tôi cảm thấy sức nặng của chiếc rìu trong tay. Cái lưỡi rìu sắc lấp lánh trắng khiến tôi quay mắt đi không dám nhìn nữa. Tại sao người ta phải tiến hành chiến tranh nhỉ? Tại sao hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người lại tập hợp để tiêu diệt lẫn nhau như thế? Người ta phát động chiến tranh vì phẫn nộ hay vì sợ? Hay phẫn nộ và sợ hãi chỉ là hai khía cạnh của cùng một tinh thần?
Tôi đẽo một dấu V nữa bằng rìu trên một thân cây. Nó thốt lên một tiếng kêu câm lặng, ứa ra những giọt máu vô hình. Tôi vẫn hì hụi đi. Giai điệu saxophone soprano của Coltrane lại cất lên. Một lần nữa, tiết tấu điệp làm vỡ vụn thực tại, rồi lại chắp những mảnh vỡ lại.
Chẳng mấy chốc, tâm trí tôi lang bang vào miền mộng mơ. Rất lặng lẽ, những giấc mơ trở lại. Tôi đang ôm Sakura. Sakura trong vòng tay tôi và tôi nhận sâu trong Sakura. Tôi không muốn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài nữa, không muốn bị ném vào thế hoang mang bối rối bởi những sự vật tôi không kiểm soát nổi. Tôi đã giết cha tôi và cưỡng hiếp mẹ tôi và giờ đây tôi đang nhận sâu trong chị gái tôi. Nếu có một lời nguyền trong toàn bộ chuyện này, tôi muốn trực diện đương đầu với nó và hoàn tất cái phận đã được hoạch định của mình. Cất cái gánh nặng khỏi vai và sống đúng là mình chứ không bị mắc kẹt trong những kế hoạch của một người nào khác. Đó là điều tôi thực sự muốn. Và tôi xuất tinh bên trong Sakura.
"Ngay cả trong mơ, cậu cũng không nên làm thế," cái thằng tên là Quạ nói. Nó đi ngay sau tôi, trong rừng. "Tớ đã cố hết sức ngăn cậu. Tớ muốn cậu hiểu ra. Cậu có nghe thấy, nhưng cậu không nghe theo . Cậu cứ thế dấn tới."
Tôi không trả lời, cũng chẳng ngoái lại, chỉ lặng lẽ bước tiếp.
"Mày tưởng bằng cách ấy, mày có thể hóa giải được lời nguyền, hở? Nhưng có được không?" Quạ hỏi.
Nhưng có được không? Mày đã giết cái người là cha mày, cưỡng hiếp mẹ mày và bây giờ đến chị gái mày. Mày tưởng làm thế sẽ dứt điểm được với lời nguyền mà cha mày yểm vào mày, cho nên mày làm tất cả những gì được dự báo về mày. Nhưng chẳng có gì thực sự chấm dứt. Mày chẳng hóa giải được gì hết. Lời nguyền đó đã được khắc dấu bằng sắt nung đỏ lên hồn mày, thậm chí còn sâu hơn trước. Giờ đây, mày nên nhận chân ra điều đó: rằng lời nguyền nằm trong gien của mày. Nó thoát ra bằng hơi thở của mày và gió cuốn nó đi bốn phương trời, nhưng hỗn độn t tăm vẫn ở lại bên trong mày. Nỗi sợ hãi, phẫn nộ, khắc khoải nơi mày không hề biến mất. Chúng vẫn ở trong mày, vẫn hành hạ mày.
"Nghe đây, không có cuộc chiến nào chấm dứt mọi cuộc chiến," Quạ bảo tôi. "Chiến tranh nuôi chiến tranh. Bạo lực làm đổ bao nhiêu máu, nó cũng liếm hết, thức ăn của nó là da thịt đầy thương tích. Chiến tranh là một sinh vật tự tạo hoàn hảo. Mày cần hiểu điều đó."
"Sakura... chị gái tớ," tôi thốt lên. Lẽ ra tôi không nên hiếp chị ấy. Ngay cả trong mơ. "Tớ nên làm gì đây?" tôi hỏi to, mắt nhìn trân trân xuống đất phía trước mặt.
"Mày phải vượt lên nỗi sợ hãi và phẫn nộ bên trong mày," cái thằng tên Quạ nói. "Hãy để cho một luồng sáng rực rỡ rọi vào tim mày, làm tan băng giá trong đó. Chính vì thế nên mày mới phải luyện trí kiên cường. Hãy làm thế và mày sẽ thực sự trở thành trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất hành tinh. Mày có nghe thấy không? Vẫn còn kịp. Mày vẫn có thể vãn hồi bản ngã của mày. Hãy vận dụng cái đầu của mày. Nghĩ xem mày cần phải làm gì. Mày đâu phải là thằng đần. Mày ắt có thể nghĩ ra."
"Có thật là tớ đã giết cha tớ không?" tôi hỏi.
Không có câu trả lời. Tôi quay ngoắt lại, nhưng cái thằng tên Quạ đã biến mất, chỉ có im lặng nuốt chửng câu hỏi của tôi.
Trơ trọi một mình trong rừng sâu, cái thằng tôi này cảm thấy trống rỗng, phải, trống rỗng kinh khủng. Oshima có lần dùng cụm từ những con người rỗng . Ờ, đích xác là tôi đã trở nên như thế đó. Có một khoảng trống trong tôi nó cứ bành trướng dần, nuốt hết những gì còn lại từ con người vốn là tôi. Tôi có thể nghe thấy điều ấy đang diễn ra. Tôi đi tong hoàn toàn rồi, mất tiêu bản sắc. Nơi tôi đang ở không có phương hướng, không có bầu trời, không có mặt đất. Tôi nghĩ đến Miss Saeki, đến Sakura, đến Oshima, nhưng họ ở cách xa tôi hàng năm-ánh-sáng. Như thể tôi nhìn ngược đầu một cái ống nhòm vậy. Dù có vươn tay ra xa đến mấy, tôi cũng không thể chạm tới họ. Tôi hoàn toàn đơn độc trong một mê cung tối om. Hãy lắng nghe gió, Oshima đã bảo tôi. Tôi lắng nghe, nhưng không có ngọn gió nào thổi qua. Ngay cả cái thằng tên là Quạ cũng đã biến mất tăm.
Hãy vận dụng cái đầu của mày. Nghĩ xem mày cần phải làm gì.
Nhưng tôi không thể nghĩ được nữa. Bất kể tôi cố gắng đến đâu, chung cuộc tôi vẫn tắc nghẽn trong mê cung. Cái gì trong tôi tạo nên tôi vậy? Nó có đủ sức đương đầu với khoảng trống kia không?
Giá như tôi có thể xóa bỏ cái thằng tôi đây, ngay tại chỗ và ngay bây giờ! Tôi xem xét ý tưởng này một cách nghiêm túc. Giữa bức tường-cây dày đặc này, trên con đường không ra đường này, nếu tôi ngừng thở, tôi sẽ lặng lẽ chôn vùi ý thức của mình vào bóng tối, dòng máu đen màu bạo lực của tôi sẽ rỉ ra đến giọt cuối cùng, gien của tôi sẽ rữa nát giữa đám cỏ dại. Lúc đó, cuộc chiến của tôi sẽ kết thúc. Bằng không, tôi sẽ mãi mãi tiếp tục giết cha tôi, cưỡng hiếp mẹ tôi, cưỡng hiếp chị gái tôi, mãi mãi, quất roi vào thế giới. Tôi nhắm mắt lại và cố tìm trung tâm của mình. Bóng tối phủ lên nó, xù xì và lởm chởm. Có một khoảng trống giữa những đám mây đen, tựa như nhìn qua cửa sổ thấy đám lá sơn thù du lấp lánh như hàng ngàn lưỡi dao dưới ánh trăng.
Đúng lúc ấy, tôi cảm thấy một cái gì đang tái tụ lại dưới làn da và nghe thấy một tiếng lanh tanh trong đầu. Tôi mở mắt ra và hít một hơi thật sâu. Tôi ném bình xịt sơn, chiếc rìu và la bàn đi. Tôi nghe thấy chúng rơi xuống đất, tiếng lách cách như vọng lại từ rất xa. Tôi cảm thấy mình nhẹ bỗng. Tôi trút ba lô khỏi vai và vứt sang bên. Xúc giác của tôi đột nhiên nhạy bén hẳn lên. Không khí quanh tôi trở nên trong hơn. Tôi cảm nhận sự hiện diện của rừng mạnh mẽ hơn. Khúc độc tấu ngoắt ngoéo như mê cung của Coltrane lại vang lên bất tận trong tai tôi.
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi thọc tay vào ba lô lấy ra con dao săn và bỏ vào túi. Con dao sắc như lưỡi dao cạo tôi lấy trộm ở bàn giấy của cha tôi. Nếu cần, tôi có thể dùng nó để rạch cổ tay cho từng giọt máu trong tôi nhỏ xuống đất. Như thế sẽ hủy được cái cơ chế đó.
Tôi hướng vào tim của khu rừng - một con người rỗng, cái khoảng trống nuốt tiêu tất cả những gì là thể chất. Không còn gì để mà sợ nữa. Tuyệt đối không.
Và tôi hướng thẳng vào tim của khu rừng.
--------------------------------
1        John William Coltrane (Hamlet, Bắc Carolina 1926 - New York 1967), nghệ sĩ saxophone và nhà soạn nhạc jazz. Được coi là một trong những người cách mạng nhất trong nghệ thuật biểu diễn nhạc jazz và có ảnh hưởng nhất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 19:34:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 42


Khi chỉ còn hai người với nhau, Miss Saeki chỉ một chiếc ghế mời Nakata ngồi. Lão nghĩ một lúc trước khi ngồi xuống. Họ ngồi đó im lặng hồi lâu, nhìn nhau qua mặt bàn. Nakata đặt chiếc mũ giang hồ lên đùi và vò tới vò lui mái tóc húi cua. Miss Saeki đặt hai tay lên bàn, bình tĩnh quan sát mọi động tác của lão.
"Nếu tôi không lầm thì hình như tôi vẫn chờ bác tới," bà nói.
"Lão tin là thế," lão đáp. "Nhưng phải mất một thời gian, Nakata này mới tìm được tới đây. Hy vọng là đã không để bà chờ quá lâu. Lão đã cố hết sức để tới đây nhanh nhất."
Miss Saeki lắc đầu. "Không, không sao cả. Nếu bác đến sớm hơn, hay muộn hơn một chút, có khi tôi lại thấy bối rối hơn cơ đấy. Đối với tôi, bây giờ là đúng lúc nhất."
Cậu Hoshino đã rất tốt vớ lão và giúp đỡ lão rất nhiều. Nếu chỉ có mình lão, ắt còn phải lâu hơn nhiều. Chả là Nakata này không biết đọc mà."
Hoshino là bạn bác?"
Vâng," Nakata gật đầu đáp, "lão nghĩ thế. Cơ mà, nói thật tình, lão cũng không dám chắc lắm. Ngoài mèo ra, cả đời lão chả có ai khả dĩ có thể gọi là bạn."
Tôi cũng vậy, đã lâu tôi không có ai là bạn," Miss Saeki nói. "Ngoại trừ trong ký ức."
Bà Saeki?"
Dạ?" bà đáp.
Thực ra, lão cũng chẳng có ký ức gì. Bà thấy đấy, lão vốn đần độn, vậy bà có thể giảng cho lão biết ký ức là thế nào không?"
Miss Saeki đăm đăm nhìn hai bàn tay mình trên bàn rồi lại ngước lên nhìn Nakata. "Ký ức làm ấm lòng ta từ bên trong, đồng thời nó cũng xé nát tim ta."
Nakata lắc đầu. "Rắc rối lắm, Nakata này vẫn không hiểu. Lão chỉ hiểu độc một cái, đó là hiện tại."
"Tôi thì hoàn toàn ngược lại," Miss Saeki nói.
Im lặng sâu thẳm trùm lên căn phòng.
Nakata là người đầu tiên phá vỡ im lặng. Lão khẽ hắng giọng. "Bà Saeki?"
"Dạ?"
"Bà biết về phiến đá cửa vào chứ?"
"Vâng, tôi có biết," bà nói và lướt ngón tay lên chiếc bút máy Mont Blanc trên bàn. "Cách đâu lắm rồi, tôi đã tình cờ gặp nó. Giá như tôi đừng bao giờ biết đến nó thì có lẽ lại tốt hơn. Nhưng trong chuyện này, tôi không có lựa chọn."
Cách đây mấy hôm, Nakata này lại mở nó một lần nữa. Cái buổi chiều sấm chớp đùng đùng ấy. Cơ man nào là sét trút xuống thành phố. Một mình lão không mở nổi, cậu Hoshino đã giúp lão. Bà có biết lão nhắc đến ngày nào không?"
Miss Saeki gật đầu. "Có, tôi có nhớ."
Lão mở nó là vì lão có bổn phận phải làm thế."
"Tôi biết. Bác làm thế để sự vật lại đâu hoàn đấy."
Đến lượt Nakata gật đầu. "Chính thế."
"Và bác có quyền làm thế."
"Cái ấy thì Nakata này không biết. Dù sao đi nữa, đó cũng không phải là lựa chọn của lão. Lão phải nói để bà biết: lão đã giết một người ở Nakano. Lão đâu có muốn giết ai, cơ mà Johnnie Walker đã buộc lão và lão đã thế chỗ cái cậu bé mười lăm tuổi đáng lẽ phải làm điều đó và lão đã giết. Nakata này buộc phải làm thế."
Miss Saeki nhắm mắt lại rồi lại mở ra, nhìn thẳng vào mặt lão.
"Có phải mọi điều đó xảy ra chỉ vì bao năm trước đây, tôi đã mở phiến đá cửa vào? Có phải hành động đó của tôi đến giờ vẫn còn khiến mọi việc lộn tùng phèo?"
Nakata lắc đầu. "Bà Saeki?"
"Dạ?" bà đáp.
"Chuyện ấy, Nakata này không biết. Nhiệm vụ của lão là làm sao để sự vật trở lại đúng cách của nó. Vì thế nên lão mới rời Nakano, đi qua một cái cầu to tướng để đến Shikoku. Và như lão dám chắc bà đã biết, bà không thể ở đây nữa."
Miss Saeki mỉm cười. "Tôi biết," bà nói. "Đó là điều tôi đã mong muốn từ lâu, bác Nakata ạ. Điều mà trong quá khứ tôi đã ao ước, và bây giờ cũng vẫn đang ao ước. Tuy nhiên, bất kể tôi đã cố gắng đến đâu, tôi cũng không đạt được. Tôi chỉ còn biết ngồi chờ cho giờ phút đó đến - nói cách khác là lúc này đây . Sự chờ đợi ấy thật chả dễ dàng gì, nhưng đau khổ là điều tôi phải chấp nhận thôi."
"Miss Saeki," Nakata nói, "lão chỉ có nửa cái bóng thôi. Bà cũng thế."
"Tôi biết."
"Nakata mất nửa bóng kia trong thời kỳ chiến tranh. Lão không biết tại sao điều đó lại xảy ra và tại sao lại nhằm vào lão... Dù sao, biết bao thời gian đã qua đi kể từ đó. Và đã sắp đến lúc chúng ta phải rời khỏi đây."
"Tôi hiểu."
"Nakata này đã sống quá lâu rồi, nhưng như lão nói, lão chẳng có ký ức gì hết. Cho nên lão không chắc có hiểu đúng cái 'đau khổ' bà vừa nhắc đến. Cơ mà lão nghĩ thế này: bất kể bà có phải đau khổ đến đâu, bà cũng không muốn rời bỏ những ký ức ấy."
"Đúng thế," Miss Saeki nói. "Càng níu giữ càng đau, nhưng tôi chẳng bao giờ muốn rời bỏ nó, chừng nào còn sống. Đó đã từng là lý do duy nhất khiến tôi tiếp tục sống, là điều duy nhất chứng tỏ tôi còn sống."
Nakata lặng lẽ gật đầu.
"Sống lâu hơn mức cần thiết chỉ gây hại cho nhiều người và nhiều sự vật," bà nói tiếp. "Mới đây, tôi đã có quan hệ tình dục với cậu bé mười lăm tuổi mà bác vừa nhắc tới. Trong căn phòng ấy, tôi lại trở thành cô gái mười lăm tuổi khi xưa và làm tình với cậu ta . Tôi không biết làm thế là đúng hay sai, nhưng tôi không đừng được. Dù sao những hành động ấy chắc chắn đã phá hại một cái gì khác. Đó là điều duy nhất khiến tôi hối tiếc."
"Nakata này không biết gì về tình dục. Cũng như lão không có ký ức, lão không hề có khao khát tình dục. Cho nên lão không phân biệt được đúng, sai trong chuyện ấy. Cơ mà cái gì đã xảy ra là đã xảy ra. Lão chấp nhận tất cả những gì đã xảy ra, dù đúng hay sai, và chính như thế, lão mới ra con người như thế này."
"Bác Nakata?"
"Dạ."
"Tôi muốn xin bác ra ân cho một điều," Miss Saeki nhấc cái túi xắc dưới chân, lấy một chiếc chìa khóa nhỏ, mở một ngăn kéo bàn giấy, rồi rút ra mấy tập hồ sơ dày đặt lên bàn.
"Từ ngày trở về thành phố này," bà nói, "tôi đã viết cái này. Một bản ghi về đời tôi. Tôi sinh ra ở gần đây và tôi đã yêu sâu sắc một người con trai sống trong ngôi nhà này. Tôi đã yêu đến mức tột cùng và anh ấy cũng yêu tôi sâu sắc. Chúng tôi sống trong một thứ vòng tròn khép kín hoàn hảo, ở đó mọi thứ đều trọn vẹn. Tất nhiên, điều đó không thể tiếp diễn mãi mãi. Chúng tôi lớn lên và thời thế đổi thay. Từng mảng của cái vòng tròn khép kín ấy đổ vỡ, thế giới bên ngoài tràn vào cái thiên đường riêng của chúng tôi và một số thứ trong đó thoát ra ngoài. Tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn tự nhiên thôi, nhưng hồi đó, tôi không thể chấp nhận được. Và vì thế nên tôi mở phiến đá cửa vào để giữ cho cái thế giới riêng tư hoàn hảo của chúng tôi khỏi sụp đổ. Giờ tôi không nhớ nổi là mình đã làm cách nào để mở được, nhưng, lúc đó tôi đã quyết định phải mở n bằng mọi giá - cốt sao tôi khỏi mất anh ấy, sao cho những thứ từ bên ngoài không phá hủy được thế giới của chúng tôi. Hồi đó, tôi không biết được hậu quả của nó. Và đương nhiên, tôi đã bị trừng phạt."
Bà dừng lại, cầm cây bút máy lên và nhắm mắt lại. "Cuộc đời tôi chấm dứt ở tuổi hai mươi. Từ đó trở đi, nó chỉ là một chuỗi bất tận những hồi tưởng, một cái hành lang tối mịt, ngoằn ngoèo chẳng dẫn tới đâu cả. Mặc dù thế, tôi vẫn phải sống tiếp, lay lắt từng ngày trống rỗng, tiễn từng ngày trống rỗng ra đi. Trong những ngày đó, tôi phạm biết bao sai lầm. Không, nói vậy chưa đúng - đôi khi tôi có cảm giác là mình chỉ làm độc có một việc : phạm sai lầm. Tôi cảm thấy như mình đang sống dưới đáy một cái giếng sâu, hoàn toàn khép kín trong bản thân mình, nguyền rủa số phận, căm ghét mọi thứ ở bên ngoài. Thỉnh thoảng, tôi mạo hiểm ra khỏi giếng, ra cái điều ta đây còn sống. Chấp nhận bất kỳ cái gì đến, đi qua cuộc đời một cách vô cảm. Tôi ngủ với nhiều đàn ông, có lúc đã gần như sống vợ chồng với ai đó, nhưng tất cả những cái đó đều vô ích. Mọi thứ qua đi trong khoảnh khắc, chẳng để lại gì ngoài những vết sẹo trên những thứ tôi làm tổn thương và khinh rẻ.
Bà đặt tay lên ba tập hồ sơ để trên bàn. "Tất cả các chi tiết đều ở trong này. Tôi viết cái này để sắp xếp lại đâu vào đấy, để một lần nữa xác định về cuộc đời mình đã sống. Tôi chỉ có thể tự trách mình thôi, nhưng đây quả là một quá trình đau đớn quặn ruột quặn gan. Và tôi đã hoàn tất nó. Tôi đã viết tất cả những gì cần được viết ra. Giờ tôi không cần nó nữa và tôi cũng chẳng muốn ai khác đọc nó. Nếu một người nào khác tình cờ để mắt đến nó, có thể nó sẽ lại gây hại nữa cũng nên. Cho nên tôi muốn đốt hết đi, đến trang cuối cùng, không sót lại chút gì. Nếu bác không quản ngại, tôi muốn bác làm hộ việc đó. Bác là người duy nhất tôi có thể nhờ cậy, bác Nakata. Tôi xin lỗi đã quấy rầy bác, nhưng liệu bác có vui lòng giúp tôi không?"
"Nakata đã hiểu," lão gật đầu nói, nghiêm túc. "Nếu bà muốn thế, bà Saeki, tôi rất vui lòng đốt hết cho bà. Bà yên tâm đi."
"Cám ơn bác," Miss Saeki nói.
"Viết ra những thứ này là một việc quan trọng, phải không?"
"Vâng. Quá trình viết mới là quan trọng. Ngay cả nếu thành phẩm hoàn toàn vô nghĩa."
"Lão không biết đọc biết viết, nên không làm được việc đó. Nakata này giống như mèo vậy."
"Bác Nakata?"
"Dạ, thưa bà?"
"Tôi có cảm giác như đã biết bác hàng thế kỷ rồi," Miss Saeki nói. "Không hiểu bác có ở trong bức tranh ấy không nhỉ? Một bóng người in trên nền biển, phải chăng là bác? Ống quần trắng xắn lên, lội xuống nước?"
Nakata lặng lẽ đứng lên và đến trước mặt Miss Saeki. Lão đặt đôi bàn tay rắn rỏi, rám nắng của mình lên bàn tay bà trên chồng bản thảo. Và như thể chăm chú lắng nghe một cái gì đó, lão cảm thấy hơi ấm truyền từ tay bà sang tay lão. "Bà Saeki?"
"Dạ?"
"Lão nghĩ giờ lão đã hiểu được một chút."
"Về cái gì?"
"Về ký ức là gì. Lão có thể cảm thấy nó, qua bàn tay bà."
Bà mỉm cười. "Tôi rất sung sướng."
Nakata giữ tay mình trên tay Miss Saeki một hồi lâu. Cuối cùng, bà nhắm mắt lại, lặng lẽ thả mình vào ký ức. Nỗi đau không còn ở trong đó nữa, như thể đã được ai đó hút kiệt đi mãi mãi. Vòng tròn khép kín trở lại nguyên vẹn. Bà mở cửa một căn buồng xa xưa và thấy hai hợp âm đẹp mang hình con thằn lằn ngủ trên tường. Bà khẽ khàng sờ vào chúng và cảm nhận thấy giấc ngủ bình yên của chúng. Một làn gió nhẹ thổi, thi thoảng làm sột soạt tấm rèm cũ. Tiếng sột soạt đầy ý nghĩa, như một dụ ngôn. Bà mặc chiếc áo dài màu xanh lơ. Chiếc áo bà đã mặc ở đâu đó, lâu lắm rồi. Tà áo khẽ lao xao theo nhịp bước của bà. Có thể nhìn thấy bờ biển bên ngoài cửa sổ. Và có thể nghe thấy tiếng sóng và tiếng một người nào đó. Trong gió thoang thoảng mùi biển. Và đây là mùa hè. Bao giờ cũng là mùa hè. Những đám mây trắng nhỏ in rõ nét như khắc trên nền trời xanh thẳm.
Nakata mang ba tập bản thảo dày xuống cầu thang. Oshima đang nói chuyện với một người khách ở quầy. Trông thấy Nakata, anh cười toét miệng. Nakata lễ phép cúi chào đáp lại và Oshima trở lại với cuộc trò chuyện. Suốt thời gian qua, Hoshino ở trong phòng đọc, chúi đầu vào một cuốn sách.
"Cậu Hoshino?" Nakata gọi.
Hoshino đặt sách xuống và ngước lên. "Chà, chuyện trò gì mà lâu thế. Xong rồi chứ?"
"Vâng, Nakata này xong việc ở đây rồi. Nếu cậu đồng ý, lão nghĩ ta có thể đi khỏi đây bây giờ."
"Được thôi. Cháu đọc gần hết rồi. Beethoven vừa chết, đoạn này tả tang lễ. Chà, đám tang mới to làm sao! Hai mươi lăm nghìn dân thành Viên đi đưa, các trường học đều đóng cửa."
"Cậu Hoshino?"
"Gì vậy ông?"
"Lão muốn xin cậu một điều nữa."
"Ông cứ nói."
"Lão cần đốt cái này ở một nơi nào đó."
Hoshino nhìn mấy tập bản thảo trên tay ông già. "Hừm, khối giấy đấy. Không thể đốt ở bất cứ chỗ nào. Phải tìm một lòng sông cạn hay nơi nào đại loại như thế."
"Cậu Hoshino?"
"Dạ?"
"Vậy ta đi tìm một nơi như thế đi."
"Có thể đây là một câu hỏi ngớ ngẩn, nhưng việc này có thực sự quan trọng đến thế không? Ta không thể ném quách nó vào một xó xỉnh nào được ư?"
"Phải, việc này rất quan trọng và chúng ta phải đốt kỳ hết cho nó thành khói bay lên trời. Và ta phải nhìn tận mắt, bảo đảm thấy nó cháy hết."
Hoshino đứng dậy, vươn vai. "Ô-kê. Ta hãy đi tìm một lòng sông lớn. Cháu chưa biết cụ thể ở đâu, nhưng chắc chắn vùng Shikoku phải có một nơi như thế, nếu ta cất công tìm."
Buổi chiều hôm ấy bận rộn hơn thường lệ. Rất đông độc giả đến thư viện, nhiều người đặt những câu hỏi chi tiết, đi sâu vào chuyên môn. Oshima ra sức trả lời, chạy ngược chạy xuôi tìm những tư liệu họ yêu cầu. Nhiều mục phải truy cập trên máy tính. Bình thường, anh có thể nhờ Miss Saeki giúp, nhưng hôm nay thì có vẻ không được. Nhiều việc linh tinh khiến anh phải rời khỏi quầy, thậm chí Nakata đi lúc nào anh cũng không biết. Khi đã vãn vãn được một lúc, anh nhìn quanh nhưng chẳng thấy bộ đôi kỳ dị ấy đâu. Oshima lên gác đến thư phòng Miss Saeki. Lạ thay, cửa vẫn đóng. Anh gõ hai lần và chờ, nhưng không thấy trả lời. Anh lại gõ lần nữa. "Miss Saeki?" anh gọi từ bên ngoài vào. "Cô không sao chứ?"
Anh khẽ xoay quả đấm. Cửa không khóa. Oshima mở hé một tí, nhòm vào. Và thấy Miss Saeki gục mặt xuống bàn. Tóc bà xõa xuống phía trước, che kín mặt. Anh không biết làm thế nào. Có thể bà chỉ mệt và ngủ thiếp đi thôi. Nhưng anh chưa một lần thấy bà ngủ chợp mắt như thế. Bà không bao giờ ngủ quên trong khi làm việc. Anh bước vào phòng, đi tới bên bàn. Cúi xuống và ghé tai bà khẽ gọi, nhưng không thấy trả lời. Sờ vai bà rồi nắm cổ tay và ấn ngón tay lên đó. Không thấy mạch. Da bà vẫn còn hơi âm ấm, nhưng chút hơi ấm ấy đã bắt đầu tan dần.
Anh vén mớ tóc lên nhìn kỹ mặt bà. Cả hai mắt đều he hé. Kiểu như bà đang có một giấc mơ thú vị, nhưng không phải thế. Bà đã chết. Vẫn còn thoáng chút dấu vết một nụ cười trên môi bà. Ngay cả trong cái chết, bà vẫn duyên dáng và quyền quý, Oshima nghĩ thầm. Anh buông mớ tóc bà xuống và nhấc máy điện thoại lên bàn.
Anh đã đành lòng chấp nhận cái thực tế là ngày này sớm muộn rồi cũng đến, nhưng giờ đây khi nó đến và chỉ có mình anh trong căn phòng lặng lẽ với một Miss Saeki đã chết, thì anh lại hoang mang không biết làm gì. Anh cảm thấy trái tim mình đã khô quắt lại. Mình cần Miss Saeki, anh nghĩ thầm. Mình cần một người như bà để lấp đầy khoảng trống bên trong mình. Nhưng mình đã không thể lấp đầy khoảng trống bên trong bà. Cho đến phút cuối cùng, sự trống rỗng bên trong bà vẫn chỉ là của mình bà thôi.
Có người gọi tên anh từ dưới nhà. Ít nhất là anh cũng cảm thấy thế. Anh đã để cửa mở rộng và có thể nghe thấy tiếng người lao xao dưới đó. Chuông điện thoại reo ở tầng một. Anh mặc kệ. Anh ngồi xuống và trân trân nhìn Miss Saeki. Ai muốn gọi tên tôi ư, thì cứ việc gọi, anh nghĩ. Ai muốn gọi điện thoại ư, xin mời. Cuối cùng, Oshima nghe thấy tiếng còi xe cấp cứu đến gần. Lát nữa thôi, người ta sẽ ào lên gác để mang bà đi - mãi mãi. Anh giơ tay trái lên xem đồng hồ: 4g35. Bốn giờ ba mươi lăm phút một chiều thứ Ba. Mình phải nhớ ngày giờ này, anh nghĩ. Mình phải nhớ ngày này, buổi chiều này, mãi mãi.
"Kafka Tamura," anh thì thầm, đăm đăm nhìn bức tường, "anh sẽ kể cho em nghe điều gì vừa xảy ra. Nếu như em chưa biết."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:43:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 43


Trút hết hành trang, giờ tôi có thể nhẹ bước dấn sâu thêm vào rừng. Tôi tập trung hoàn toàn vào việc tiến lên phía trước. Không cần phải đánh dấu cây nữa. Không cần phải nhớ đường về. Thậm chí tôi cũng không ngó nhìn xung quanh. Quang cảnh vẫn thế thôi, nhìn ngắm mà làm gì? Một vòm cây cao vút bên trên những bụi dương xỉ rậm rạp, dây lòng thòng, rễ cây nham nhở, những đám lá mục rữa, những vot lột đã khô của nhiều loại côn trùng khác nhau... Những mạng nhện dày, dính nháp. Và cơ man nào là cành - cả một vũ trụ cành cây! Những cành hung tợn, những cành kiên cường chiến đấu giành không gian, những cành khôn khéo giấu mình, những cành cong queo, vẹo vọ, những cành trầm ngâm, những cành héo khô, ngắc ngoải - vẫn cánh cảnh ấy lặp đi lặp lại hoài. Tuy rằng mỗi lần lặp lại như thế, rừng lại sâu thêm một chút.
Miệng mím chặt, tôi tiếp tục theo cái gọi là con đường mòn ấy. Nó đi ngược lên nhưng không dốc lắm, ít nhất là cho đến lúc này. Không đến mức làm tôi thở không ra hơi. Đôi chỗ, con đường mòn đe doạ mất hút trong một biển dương xỉ hoặc bụi gai, nhưng đi một quãng nữa, nó lại hiện ra. Rừng không làm tôi sợ nữa. Nó có những khuôn mẫu và quy tắc riêng của nó, và một khi hết sợ nó, ta sẽ hiểu những khuôn mẫu và quy tắc đó. Một khi đã nắm được quang cảnh lặp đi lặp lại này, tôi biến nó thành một bộ phận của mình.
Giờ đây, tôi đi tay không. Tôi đã thải chiếc bình xịt sơn vàng, chiếc rìu nhỏ vào lịch sử. Chiếc balô cũng thế. Không bi-đông, không lương thực. Thậm chí không cả la bàn. Tôi lần lượt bỏ lại tất cả. Làm như thế, tôi gửi đến rừng một thông điệp: Ta không sợ nữa. Vì thế ta chọn phương án hoàn toàn đơn độc không có gì bảo vệ . Trút bỏ lớp vỏ cứng, chỉ còn da thịt và xương tôi hướng đến cái lõi của mê cung này, buông mình vào trống rỗng.
Khúc nhạc ban nãy vang trong đầu tôi, giờ đã tắt, để lại thoáng dư âm màu trắng tựa như một tấm drap trắng phẳng phiu căng trên một chiếc giường mênh mông. Tôi sờ tấm drap ấy, lấy đầu ngón tay vuốt ve nó. Màu trắng tiếp tục đến vô tận. Mồ hôi đọng từng giọt ở nách tôi. Thi thoảng, qua những ngọn cây, tôi thấy một mảng trời phủ một lớp mây xám liền mạch không dứt, nhưng xem ra chưa phải là sắp mưa. Mây tĩnh, toàn cảnh không thay đổi. Chim chóc trên những cành cao the thé gọi nhau bằng những tín hiệu ẩn chứa những ý nghĩa bí hiểm. Tiếng côn trùng vo ve trong đám cỏ vang lên như những lời tiên tri của một dàn hợp xướng cổ đại.
Tôi nghĩ đến ngôi nha chúng tôi ở Nakano, giờ đây chắc đóng kín, không người ở. Với tôi, thế cũng chả sao. Cứ để những vệt máu loang trên sàn nhà. Tôi bất cần. Tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại đó nữa. Ngay cả trước khi xảy ra sự kiện đẫm máu ấy, nhiều thứ đã chết đi trong ngôi nhà đó. Nói cho đúng hơn, - đã bị giết trong ngôi nhà đó.
Đôi khi, rừng tìm cách đe dọa tôi, lúc từ trên đầu, lúc từ dưới chân. Phà một luồng khí lạnh buốt vào gáy tôi, châm chích nhoi nhói như những mũi kim ngàn mắt. Tìm mọi cách để trục xuất kẻ đột nhập là tôi đây. Nhưng tôi dần dần biết cách tỉnh bơ để cho những đe dọa ấy qua đi. Về cơ bản, khu rừng này là một bộ phận của tôi, chẳng phải thế sao? Đến một lúc nào đó, cách nghĩ đó trụ vững. Tôi đang làm cuộc hành trình bên trong tôi. Giống như máu chảy trong huyết quản, những gì tôi nhìn thấy là nội tâm mình, và những gì có vẻ đe dọchính là tiếng vang của nỗi sợ trong tim tôi. Cái mạng nhện giăng căng như dây đàn kia là mạng nhện ở trong tôi. Lũ chim gọi nhau trên kia là lũ chim tôi đã nuôi trong tâm trí. Những hình ảnh đó nảy ra trong óc tôi và bắt rễ trong đó.
Như thể bị nhịp đập của một trái tim khổng lồ đẩy từ phía sau, tôi tiếp tục xuyên rừng. Con đường dẫn đến một nơi đặc biệt, một nguồn sáng nhả ra bóng tối, nơi xuất phát của những tiếng vang im lặng. Tôi cần phải tận mắt nhìn thấy có cái gì ở đó. Tôi đang mang một bức thư riêng quan trọng, niêm phong kín, một thông điệp bí ẩn cho chính tôi.
Một câu hỏi. Tại sao bà không yêu tôi? Tôi không xứng đáng được mẹ tôi yêu sao?
Bao năm rồi, câu hỏi ấy là một ngọn lửa trắng thiêu đốt tim tôi, ăn mòn tâm hồn tôi. Ắt phải có một sai trái cơ bản nào đó nơi tôi mới khiến mẹ tôi không yêu tôi. Phải chăng lọt lòng, tâm hồn tôi đã bị ô nhiễm? Phải chăng tôi sinh ra đã vậy, khiến mọi người đều phải ngoảnh mặt đi?
Mẹ tôi thậm chí không ôm tôi trước khi ra đi. Bà ngoảnh mặt đi và rời khỏi nhà cùng với chị gái tôi, không nói nửa lời. Bà biến mất như một làn khói câm lặng. Và giờ đây, gương mặt ấy đã biệt tăm mãi mãi.
Lũ chim lại choe chóe trên đầu tôi và tôi ngước lên nhìn bầu trời. Chẳng có gì trên ấy, ngoài lớp mây xám phẳng lì, vô cảm. Không một gợn gió. Tôi lầm lũi tiến. Tôi đang bước đi bên bờ ý thức. Những đợt sóng ý thức cuồn cuộn xô vào rút ra, để lại mấy dòng chữ cũng nhanh như thế, những đợt sóng mới xô vào, xóa đi hết. Tôi cố đọc thật nhanh những chữ đó giữa hai đợt sóng, nhưng thật là khó. Chưa kịp đọc hết thì đợt sóng tiếp theo đã ập vào cuốn sạch bong. Chỉ còn lại những mảnh vụn bí hiểm.
Tâm trí tôi lang bang trở về cái này mẹ tôi ra đi, mang theo chị gái tôi. Tôi đang ngồi ngoài hiên, đăm đăm nhìn ra vườn. Lúc đó là hoàng hôn, đầu mùa hè, bóng cây đổ dài. Chỉ có mình tôi trong nhà. Tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi đã biết mình bị bỏ rơi. Ngay vào thời điểm đó, tôi đã hiểu chuyện này sẽ làm thay đổi thế giới của tôi mãi mãi. Không ai mách bảo tôi - đơn giản là tôi biết thế. Ngôi nhà trống không, vắng ngắt, một cái đồn biên phòng heo hút bị bỏ mặc. Tôi nhìn mặt trời lặn ở đằng Tây, những cái bóng từ từ lan khắp bao trùm thế giới. Trong cõi thời gian, chẳng có gì quay trở lại được. Những cái vòi của bóng tối cứ tiến dần, gặm mòn mặt đất, hết điểm này đến điểm khác, cho đến khi gương mặt mẹ tôi - mới rồi còn ở đó - bị nuốt chửng vào cái vùng tối tăm lạnh lẽo ấy. Gương mặt đanh lại ấy ngoảnh đi không nhìn tôi, tự động bứt khỏi và xóa nhòa trong trí nhớ của tôi.
Lúc này, tôi vừa dấn bước vừa nghĩ đến Miss Saeki. Đến gương mặt bà. Nụ cười điềm đạm và mơ hồ, hơi ấm của bàn tay bà. Tôi thử tưởng tượng bà là người mẹ đã bỏ tôi lại khi tôi mới bốn tuổi đầu. Bất giác tôi lắc đầu. Một hình ảnh hoàn toàn trật lấc. Làm sao Miss Saeki có thể làm thế được? Tại sao bà lại phải làm tôi tổn thương, lại phải hủy hoại tôi như vậy? Ắt phải có một lý do tàng ẩn quan trọng, một cái gì sâu kín mà tôi không hiểu nổi.
Tôi ráng đặt mình vào địa vị bà để cảm thấy những gì bà cảm thấy lúc đó và đến gần quan điểm của bà hơn. Điều đó không dễ. Xét cho cùng, tôi là đứa bị bỏ rơi, còn bà là người bỏ rơi tôi. Nhưng được một lúc, tôi xoay ra tự tách mình khỏi bản thân. Hồn tôi trút bỏ y phục cứng nhắc của bản ngã và biến thành một con quạ đen vắt vẻo trên một cành cao của một cây thông trong vườn, nhìn xuống thằng bé bốn tuổi ngồi trước hiên nhà.
Tôi hóa thân thành một con quạ đen sính lý thuyết dông dài.
"Không phải là mẹ cậu không yêu cậu," thằng cu tên là Quạ đi đằng sau tôi nói. "Mẹ cậu yêu cậu vô cùng. Trước hết, cậu phải tin là thế. Đó là điểm xuất phát của cậu."
"Nhưng mà bà ấy đã bỏ tớ. Bà ấy biến mất, bỏ lại tớ một mình ở một nơi hoàn toàn xa lạ với tớ. Cuối cùng, tớ bắt đầu hiểu ra điều đó đau đớn biết chừng nào. Làm sao bà ấy có thể làm thế nếu bà ấy thực sự yêu tớ?"
"Thực tế là như vậy. Chuyện đó quả đã xảy ra," cái thằng tên Quạ nói. "Cậu đã bị tổn thương nặng nề và sẽ mang những vết sẹo ấy suốt đời. Tớ ái ngại cho cậu, thực tình vậy. Nhưng hãy nghĩ như thế này: chưa quá muộn để bình phục lại. Cậu còn trẻ và cậu kiên cường. Cậu có khả năng thích nghi với hoàn cảnh. Cậu có thể băng bó những vết thương, ngẩng cao đầu mà tiến tới. Nhưng bà ấy thì không thể làm thế được. Bà chỉ còn nước là tiêu đời thôi. Dù ai đó có phán xét điều đó là tốt hay xấu, cũng không quan trọng - đó không phải là vấn đề. Cậu mới là kẻ có lợi thế. Cậu phải cân nhắc điều đó."
Tôi không trả lời.
"Tất cả những điều đó đã thực sự xảy ra, vậy nên cậu không thể xóa bỏ được," Quạ nói. "Lẽ ra bà ấy không nên bỏ cậu lại và lẽ ra cậu không nên bị bỏ lại. Nhưng những chuyện trong quá khứ cứ như một cái đĩa bị đập tan tành. Cậu không tài nào chắp lại như cũ được, phải không nào?"
Tôi gật đầu. Cậu không tài nào chắp lại như cũ được . Nó nói trúng phóc.
"Mẹ cậu," cái thằng tên là Quạ nói tiếp, "cảm thấy một nỗi giận dữ và sợ hãi đến quặn ruột. Y như cậu lúc này đây. Chính vì thế mà bà ấy đành phải bỏ cậu lại."
"Mặc dù bà ấy yêu tớ?"
"Mặc dù bà ấy yêu ậu, bà ấy vẫn phải bỏ cậu lại. Cậu cần phải hiểu tình cảm của bà ấy lúc đó như thế nào và chấp nhận hành xử của bà. Hiểu nỗi sợ hãi và giận dữ choán ngợp ấy và cảm nhận nó như của chính mình để rồi sẽ không thừa kế nó và lặp lại nó. Điều chủ yếu là thế này: cậu phải tha thứ cho bà ấy. Điều đó sẽ không dễ dàng, tớ biết, nhưng cậu phải làm thế. Đó là chiếc phao cứu sinh duy nhất của cậu. Chẳng có cách nào khác đâu!"
Tôi ngẫm nghĩ về những gì nó nói. Càng nghĩ càng thấy rối trí. Đầu tôi quay cuồng và tôi cảm thấy như da thịt bị xé toạc.
"Liệu Miss Saeki có phải là mẹ tớ không nhỉ?" tôi hỏi.
"Bà ấy chẳng đã nói với cậu rằng về lý thuyết thì vẫn có thể là thế sao?" thằng cu tên là Quạ nói. "Vậy thì xin trả lời: đó là một giả thuyết khả dĩ. Tớ chỉ có thể nói với cậu vậy thôi."
"Một giả thuyết khả dĩ tồn tại chừng nào chưa có bằng chứng thuyết phục bác bỏ nó?"
"Đúng thế," Quạ nói.
"Vậy tớ phải theo đuổi giả thuyết này đến cùng?"
"Phải," Quạ đáp, chắc như đinh đóng cột. "Một lý thuyết chưa có phản chứng vững chắc nào đánh đổ, là một lý thuyết đáng theo đuổi. Và hiện tại, theo đuổi nó là lựa chọn duy nhất của cậu. Ngay cả nếu vì vậy mà phải hy sinh, cậu cũng phải theo đuổi nó đến tận cùng."
"Hy sinh?" Từ đó rành là có một âm vang kỳ lạ mà tôi không nắm bắt được.
Không thấy trả lời. Tôi lo lắng ngoảnh lại. Thằng cu tên Quạ vẫn đó, ngay đằng sau tôi, đều nhịp bước.
"Nỗi sợ hãi và giận dữ nào vò xé Miss Saeki lúc đó?" tôi hỏi, lại quay về phía trước và bước tiếp.
"Theo cậu thì đó là nỗi sợ hãi và giận dữ kiểu gì?" cái thằng tên Quạ hỏi vặn lại. "Hãy nghĩ xem. Chính cậu phải tự nghĩ cho ra. Cậu có cái đầu là để dùng vào việc đó mà."
Thì đó chính là điều tôi đang làm. Tôi cần phải hiểu điều đó, chấp nhận nó trước khi quá muộn. Nhưng tôi vẫn không thể đọc ra những dòng chữ mong manh để lại trên bờ ý thức của tôi. Không đủ thời gian giữa hai đợt sóng.
"Tớ yêu Miss Saeki," câu nói buột ra rất tự nhiên.
"Tớ biết," thằng cu tên Quạ nói cộc lốc.
"Trước đó, tớ chưa bao giờ cảm thấy thế," tôi nói tiếp. "Và đối với tớ, điều đó quan trọng hơn bất cứ cái gì khác tớ từng trải nghiệm."
"Tất nhiên là thế," Quạ nói. "Khỏi phải nói. Chính vì thế mà cậu đã đến đây."
"Nhưng tớ vẫn chưa hiểu. Cậu nói với tớ rằng mẹ tớ rất yêu tó. Tớ rất muốn tin cậu, nhưng nếu đúng là thế, tớ vẫn không hiểu. Tại sao yêu lại có nghĩa là làm cho người mình yêu đau đớn đến thế? Tớ muốn nói nếu lẽ đời là thế, thì yêu làm gì? Tại sao lại phải như thế?"
Tôi đợi câu trả lời. Tôi ngậm miệng một hồi lâu, nhưng không nghe thấy trả lời, nên tôi quay lại. Cái thằng tên là Quạ đã biến mất. Trên cao, một tiếng vỗ cánh.
Mày hoang mang hoàn toàn rồi.
Không lâu sau, hai người lính ấy xuất hiện.
Họ mặc binh phục dã chiến của quân đội Hoàng gia thời xưa. Loại đồng phục mùa hè ngắn tay, ghệt, ba lô. Mũ lưỡi trai chứ không phải mũ sắt, mặt bôi một loại bột ngụy trang màu đen. Cả hai đều còn trẻ. Một người cao, gầy, đeo kính mắt tròn, gọng kim loại. Người kia thấp, vai rộng, lực lưỡng. Cả hai ngồi trên một tảng đá phẳng, chẳng ai có vẻ đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, hai cây súng trường Arisaka đặt dưới chân. Người cao có vẻ chán ngán, miệng nhấm nháp một cọng cỏ. Nom họ hoàn toàn tự nhiên như thể đây là nơi phù hợp với họ. Họ thản nhiên nhìn tôi lại gần.
Xung quanh họ là một khoảng nhỏ phát quang, bằng phẳng như một chiếu nghỉ trên cầu thang.
"Này," người lính cao vui vẻ gọi.
"Chào," anh chàng to con nói, mặt hơi nhăn lại.
"Xin chào," tôi đáp lại. Tôi biết lẽ ra mình phải ngạc nhiên khi thấy họ, nhưng không hiểu sao tôi lại không coi điều đó là kỳ lạ. Cuộc gặp gỡ này hoàn toàn có thể xảy ra.
"Bọn này vẫn chờ chú em tới," người cao nói.
"Chờ tôi?" tôi hỏi.
"Dĩ nhiên," anh ta nói. "Không ai khác tới được đây, đó là cái chắc."
"Bọn ta chờ đã lâu," anh chàng to con nói.
"Ở đây, thời gian không phải là một nhân tố quan trọng," người cao nói. "Tuy nhiên, chú em cũng dề dà hơn ta tưởng."
"Các anh là hai người lính đã mất tích từ rất lâu, rất lâu rồi, phải không?" tôi hỏi. "Trong một cuộc tập trận giả?"
"Chính là bọn ta," người lính vạm vỡ gật đầu.
"Họ đã tìm các anh khắp nơi," tôi nói.
"Phải, ta biết," anh ta nói. "Ta biết họ đã tìm chúng ta. Ta biết mọi sự diễn ra trong khu rừng này. Nhưng dù có tìm riết đến đâu, họ cũng không thể thấy được bọn ta."
"Thực ra, bọn ta đâu có lạc," người cao nói. "Bọn ta đã bỏ trốn."
"Đúng hơn, bọn ta tình cờ tới được chỗ này và quyết định trụ lại đây," người vạm vỡ nói. "Cái đó khác với bị lạc."
"Không phải ai cũng tìm được chỗ này," người cao nói. "Nhưng bọn ta đã tìm được và bây giờ là chú em. Đó là một cú may, ít ra là đối với bọn ta."
"Nếu bọn ta không tìm được chỗ này thì chắc họ đã tống bọn ta xuống tàu ra nước ngoài rồi," anh to con giải thích. "Ở bên ấy thì hoặc là giết hoặc là bị giết. Mà bọn ta thì chẳng muốn thế. Ta xuất thân là nông dân, còn anh bạn ta đây vừa tốt nghiệp đại học. Cả hai chúng ta đều không muốn giết ai cả. Mà bị giết thì lại càng tệ hơn. Hiển nhiên là thế, phải không?"
"Còn chú em thì sao?" anh cao hỏi tôi. "Chú em có thích giết hoặc bị giết không?"
Tôi lắc đầu. Không cả hai, dứt khoát không.
"Tất cả mọi người đều thế," anh cao nói. "Hay ít nhất là đại đa số. Nhưng nếu anh nói 'Tôi không muốn tham gia chiến tranh' thì Nhà nước sẽ không tươi cười gật đầu mà miễn cho anh đâu. Anh lại không thể đào ngũ được. Nước Nhật nhỏ xíu, anh trốn đi đằng nào? Họ sẽ truy đuổi anh riết đến độ làm đầu óc anh quay cuồng. Thế cho nên bọn ta ở lì lại đây. Đây là nơi duy nhất bọn ta có thể ẩn náu. (Anh ta lắc đầu rồi nói tiếp). Và bọn ta đã ở lại đây từ đó đến nay. Như chú em nói, từ rất, rất lâu rồi. Ở đây thời gian không phải là một nhân tố quan trọng. Giữa "bây giờ" và "từ rất, rất lâu rồi" hầu như chẳng có gì khác nhau.”
"Chẳng khác nhau tí nào," anh to con nói, vẫy tay như xua đi một cái gì.
"Các anh biết là tôi đến?" tôi hỏi.
"Hẳn đi rồi," anh to con đáp.
"Bọn này đã đứng gác ở đây từ lâu, nên nếu có ai đến là bọn này biết ngay," anh cao nói. "Bọn này như thể một bộ phận của rừng."
"Đây là cửa vào," anh to con nói. "Và bọn ta canh giữ cửa vào."
"Và bây giờ, tình cờ cửa lại mở," anh cao giải thích. "Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, nó sẽ lại đóng lại. Nếu chú em muốn vào, thì bây giờ là đúng lúc đấy. Nó không mở thường xuyên đâu."
"Bọn ta sẽ dẫn đường," anh to con nói. "Đường rất khó đi nên cần có người hướng dẫn."
"Nếu chú em không n vào, thì hãy trở về nơi xuất phát đi," anh cao nói. "Đường về không khó tìm lắm đâu, đừng lo. Chú em sẽ tìm được thôi. Rồi chú em sẽ trở về cái thế giới xuất xứ của mình, trở về với cuộc sống mà trước nay chú em vẫn sống. Hoàn toàn tùy chú em lựa chọn. Không ai ép chú em phải làm thế này hay thế kia. Nhưng một khi đã vào rồi thì không dễ trở lui đâu."
"Hãy đưa em vào," tôi đáp, không chút do dự.
"Chú em có chắc không?" anh to con hỏi.
"Trong ấy có một người mà em cần gặp," tôi nói. "Ít nhất là em nghĩ thế..."
Chậm rãi và lặng lẽ, hai người đứng dậy khỏi tảng đá và khoác súng lên vai. Họ đưa mắt nhìn nhau rồi vượt lên phía trước tôi.
"Chắc chú em thấy lạ là bọn ta vẫn tha cái cục thép vừa nặng vừa vô dụng này theo," anh cao quay lại nói. "Mà có viên đạn nào cho cam."
"Nhưng nó là một biểu tượng ," anh to con nói, không nhìn tôi. "Biểu tượng của những gì bọn ta để lại sau lưng."
"Biểu tượng là rất quan trọng," anh cao bổ sung. "Tình cờ, bọn ta lại mang súng và binh phục, cho nên bọn ta sắm vai lính gác. Phải, đó là vai trò của bọn ta. Biểu tượng đã dẫn chúng ta đến những vai trò đó."
"Chú em có mang theo cái gì như vậy không?" anh to con hỏi. "Một cái gì có thể là biểu tượng?"
Tôi lắc đầu. "Không, em chả mang theo gì. Ngoại trừ ký ức."
"Hừm..." anh to con nói. "Ký ức hả?"
"Ô-kê, cái đó không thành vấn đề," anh cao nói. "Ký ức cũng có thể là một biểu tượng lớn. Dĩ nhiên, ta không biết kỷ niệm có bền hay không, liệu nó đậu được bao lâu."
"Tốt nhất là một cái gì có hình thù, nếu có thể," anh to con nói. "Như thế dễ hiểu hơn."
"Như cây súng trường chẳng hạn," anh cao nói. "À mà tên chú em là gì nhỉ?"
"Kafka Tamura," tôi trả lời.
"Kafka Tamura," cả hai nhắc lại.
"Tên lạ nhỉ," anh cao nói.
"Ừ, đúng là lạ thật," anh to con đế thêm.
Sau đó, chúng tôi lặng lẽ đi theo vệt đường mòn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:45:14 | Chỉ xem của tác giả
Chương 44


Họ mang đốt ba tập bản thảo bên bờ một con sông dọc theo xa lộ. Hoshino mua xăng ở một cửa hàng mở cửa 24/24 và rưới lên tất cả trước khi châm lửa. Rồi cùng với Nakata, gã lặng lẽ đứng nhìn ngọn lửa biến từng tờ thành tro. Chỉ thoang thoảng một gợn gió và khói bốc thẳng lên, lẫn vào những đám mây xám thấp lè tè.
"Vậy là chúng ta không được đọc trang nào trong các tập này?" Hoshino hỏi.
"Không, chúng ta không có quyền đọc," Nakata nói. "Lão đã hứa với Miss Saeki thế và lão có bổn phận phải giữ lời hứa.
"Phải, giữ lời hứa là điều quan trọng," Hoshino vừa nói vừa lau mồ hôi trán. "Tuy nhiên, giá chúng ta có cái máy nghiền giấy thì tốt. Như vậy sẽ dễ hơn nhiều. Các cửa hàng photocopy có những máy nghiền giấy to tướng, giá phục vụ khá rẻ. Ông đừng hiểu nhầm, cháu đâu có phàn nàn. Có điều vào mùa này, đốt một đống lửa trại như thế này thì khí nóng. Nếu vào mùa đông thì lại khác."
"Lão xin lỗi, nhưng Nakata này đã hứa với Miss Saeki là sẽ đốt sạch, nên lão phải làm thế."
"Thôi được. Cháu cũng không vội mà. Nóng một tí cũng chả chết ai. Đó chỉ là một... một gì nhỉ? à phải, một gợi ý thôi."
Một con mèo đang đi nhởn nhơ dừng lại xem. Một con mèo gầy nhom vằn nâu, đuôi hơi cong ở chỏm. Nom nó có vẻ dễ thương, Nakata rất muốn bắt chuyện nhưng quyết định là không nên vì lão đang đi cùng Hoshino. Mèo chỉ thoải mái khi trò chuyện tay đôi. Với lại, Nakata vẫn chưa hoàn toàn tự tin rằng mình có thể nói chuyện được với mèo như trước kia. Lão tuyệt đối không muốn xổ ra một câu gì lạ tai làm mèo ta sợ. Xem một lúc, mèo ta chán, đứng dậy và bỏ đi.
Hồi lâu sau, khi các tập bản thảo đã cháy hết, Hoshino giậm đi giậm lại đống giấy cháy đen kỳ đến tan thành bụi. Lát nữa, một cơn gió to sẽ tung hê đi tất cả. Lúc này, mặt trời đã sắp lặn và quạ đã bắt đầu bay về tổ.
"Giờ thì chắc chắn sẽ không ai được đọc bản thảo này nữa rồi," Hoshino nói. "Cháu chẳng biết trong đó viết những gì, nhưng tất cả đã tiêu tan rồi. Một chút hình thù đã biến khỏi thế giới này, gia tăng thêm cõi hư vô."
"Cậu Hoshino?"
"Gì đấy ông?"
"Lão muốn hỏi một câu."
"Ông cứ nói."
"Hư vô cũng có thể gia tăng ư?"
Câu hỏi làm Hoshino bối rối. "Một câu hỏi hóc búa đấy," gã thừa nhận. "Trở về hư vô tức là thành số không. Mà số không cộng với số không vẫn là số không."
"Lão không hiểu."
"Cháu cũng mù mờ lắm. Suy nghĩ về những thứ này bao giờ cũng đau đầu."
"Vậy có lẽ ta nên thôi, đừng nghĩ về nó nữa."
"Cháu đồng ý," Hoshino nói. "Dù sao, bản thảo cũng đã đốt rồi. Bao nhiêu chữ trong đó đã biến hết. Nó đã trở về hư vô - đó là điều cháu muốn nói."
"Đầu óc lão nhẹ hẳn đi."
"Vậy là những gì ta cần làm ở đây đã hòm hòm, phải không?" Hoshino hỏi.
"Phải, chúng ta đã gần như hoàn tất những việc cần làm ở đây," Nakata nói. "Chỉ còn phải đóng phiến đá cửa vào lại thôi."
"Cái đó quan trọng đấy."
"Vâng. Cái gì đã mở ra là phải đóng lại."
"Được, thế thì làm luôn đi. Sắt đang đỏ thì phải rèn ngay."
"Cậu Hoshino?"
"Dạ?"
"Chúng ta chưa thể làm ngay bây giờ được."
"Tại sao?"
"Vì chưa đến lúc," Nakata nói. "Chúng ta phải chờ đúng lúc mới đóng phiến đá cửa vào được. Trước đó, lão phải ngủ một chút. Nakata buồn ngủ lắm rồi."
Hoshino nhìn ông già.
"Khoan đã - Ông lại sắp sửa đánh một giấc liền tù tì mấy ngày đấy, phải không?"
"Lão chưa biết, nhưng có thể thế."
"Liệu chúng ta có thể lo liệu xong mọi việc trước khi ông quay ra ngủ tít thò lò không? Bởi vì một khi ông bấm nút "ngủ" thì mọi sự đều ngưng lại."
"Cậu Hoshino?"
"Còn gì nữa?"
"Lão rất muốn đóng phiến đá cửa vào trước nhất. Được như thế thì tuyệt. Cơ mà Nakata này phải ngủ một chút trước đã. Mắt lão cứ díp lại không mở ra được nữa."
"Như thể hết pin ấy à?"
"Đại khái thế. Làm những việc cần làm mất nhiều thời gian hơn lão tưởng. Lão kiệt sức rồi. Cậu có vui lòng đưa lão về chỗ nào để Nakata này có thể ngủ một chút không?"
"Dễ ợt. Ta sẽ bắt một cái taxi về thẳng căn hộ. Rồi ông có thể lăn ra ngủ như khúc gỗ nếu ông thích."
Vừa ngồi vào taxi, Nakata đã bắt đầu ngủ gà ngủ gật.
"Chịu khó một tí nào, về đến nhà thì tha hồ cho ông muốn ngủ bao lâu thì ngủ," Hoshino nói.
"Cậu Hoshino?"
"Dạ."
"Lão xin lỗi đã gây bao nhiêu phiền phức cho cậu," Nakata nói, giọng ngái ngủ.
"Phải, chắc chắn thế," Hoshino thừa nhận. "Nhưng đâu ai yêu cầu cháu - cháu tự nguyện đi theo ông đấy chứ. Như người ta tình nguyện đi xúc tuyết ấy. Cho nên ông khỏi phải băn khoăn."
"Nếu không có cậu giúp, Nakata này ắt chẳng biết xoay xở ra sao. Hẳn lão đã chẳng hoàn thành một nửa số công việc đã làm."
"Nếu ông đã nói vậy thì cháu nghĩ công sức cháu bỏ ra cũng bõ bèn."
"Lão rất biết ơn cậu."
"Nhưng ông biết sao không?"
"Sao?"
"Cháu cũng phải cảm ơn ông rất nhiều, ông Nakata ạ."
"Thật không?"
"Ông cháu mình đi với nhau đã được mươi hôm và suốt thời gian ấy, cháu đã bỏ việc," Hoshino nói. "Mấy ngày đầu, cháu có liên lạc với sếp xin nghỉ phép đàng hoàng, nhưng bây giờ thì coi như là vắng mặt không xin phép. Có lẽ cháu sẽ mất việc thôi. Nếu cháu quỳ gối xin lỗi, có thể họ sẽ tha thứ cũng nên. Nhưng cái đó không quan trọng. Không phải khoe mẽ chứ với cháu, tìm một chỗ làm mới không khó - cháu là một lái xe cự phách, lại cần cù nữa. Cho nên về chuyện ấy, cháu chả lo và ông cũng khỏi lo. Điều cháu muốn nói là: cháu không hề tiếc vì đã đi với ông. Mười ngày qua, có bao điều kỳ lạ diễn ra. Đỉa từ trên trời rơi xuống; không biết từ đâu tòi ra một ông Đại tá Sanders; làm tình nóng hổi với một em xinh đẹp chết mê, lại là sinh viên triết học nữa chứ; đánh xoáy phiến đá cửa vào từ một miếu đường... Những trải nghiệm kỳ lạ đủ cho cả một đời người dồn lại trong mười ngày. Như thể mình đang làm những pha chạy thí nghiệm trên một đoàn tàu kinh dị vậy."
Hoshino dừng lại, nghĩ xem nên nói tiếp thế nào. "Nhưng ông biết sao không, nội?"
"Dạ?"
"Trong tất cả những cái đó, chính ông mới là điều kỳ lạ nhất, Ông Nakata ạ. Ông đã thay đổi đời cháu. Trong mười ngày, nói thế nào nhỉ... bây giờ, cháu nhìn sự vật với một con mắt khác . Những thứ mà trước kia cháu không thèm để mắt đến lần thứ hai, giờ đây xem ra khác hẳn. Chẳng hạn như âm nhạc - trước đây cháu vẫn cho nhạc cổ điển là chán ốm, thì nay nó đi thẳng vào tim cháu. Cháu cảm thấy rất muốn nói với ai đó về điều này, với một người nào đó thấu hiểu những gì cháu đã nếm trải. Trước đây, cháu chưa từng cảm thấy cái gì như thế. Và tất cả là nhờ có ông. Cháu đã bắt đầu nhìn thế giới qua con mắt của ông . Dĩ nhiên không phải tất cả mọi thứ . Cháu thích cái cách ông nhìn đời, chính vì thế mà cháu đi theo ông. Chính vì thế mà cháu sát cánh cùng ông bất chấp mọi khó khăn, trở ngại và không thể bỏ ông. Đó là một trong những thời điểm có ý nghĩa nhất trong đời cháu. Cho nên ông khỏi cần cảm ơn cháu - không phải cháu lấy thế làm phiền đâu. Chính cháu mới phải cảm ơn ông. Cháu chỉ muốn nói là ông đã làm cho cháu bao nhiêu điều tốt, ông Nakata. Ông có hiểu cháu nói gì không?"
Nhưng Nakata chẳng buồn nghe nữa. Mắt nhắm, hơi thở đều đặn, lão đã ngủ.
"Con người mới vô lo làm sao!" Hoshino nói và thở dài.
Hoshino bế ông già lên phòng và đặt lão vào giường. Gã tháo giày cho Nakata nhưng vẫn để nguyên quần áo và đắp lên người lão một tấm mền nhẹ. Nakata cựa quậy một chút, rồi nằm im phăng phắc trong tư thế ngửa mặt lên trần như mọi khi, nhịp thở nhẹ nhàng.
Dám chắc đây là một cuộc ngủ ma-ra-tông ba ngày liền nữa, Hoshino nghĩ thầm.
Nhưng hóa ra lại không phải thế. Hôm sau, thứ Tư, vào lúc trưa, Nakata chết. Lão chết yên bình trong giấc ngủ. Mặt lão vẫn bình thản như mọi khi, nom chỉ như đang ngủ - có điều không thở nữa. Hoshino lay vai ông già, gọi tên Nakata, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, lão đất chết. Hoshino kiểm tra mạch - không thấy gì. Đặt một chiếc gương trước miệng: gương không nhòa. Lão đã ngừng thở hoàn toàn. Lão không bao giờ thứ dậy nữa, ít nhất là trên thế gian này.
Một mình trong căn phòng với cái xác, Hoshino nhận thấy mọi âm thanh cứ tuần tự theo nhau biến mất. Những tiếng động thật quanh gã dần dà mất tính thực tồn của chúng. Những tiếng động có ý nghĩa đều lịm chìm vào im lặng. Và im lặng mỗi lúc một sâu thêm, tựa như lớp bùn dưới đáy đại dương. Nó tích tụ dưới chân gã, dâng lên ngang thắt lưng rồi tới ngực. Gã theo dõi lớp bùn - im lặng ấy dâng lên mỗi lúc một cao. Gã ngồi xuống sofa, trân trân nhìn vào mặt Nakata, cố làm quen với cái thực tế là lão đã ra đi thật. Phải mất một hồi lâu, gã mới chịu chấp nhận sự thật ấy. Trong khi đó, không khí xung quanh gã trở nên nặng nề lạ lùng đến nỗi gã không còn xác định nổi những ý nghĩ và cảm giác ấy có đúng là của mình hay không nữa. Nhưng có một số điều gã bắt đầu hiểu ra.
Có thể cái chết sẽ phục hồi con người Nakata lại như trước kia. Khi còn sống lão luôn là ông già Nakata đôn hậu, một ông già "chẳng thông minh sáng láng gì" nhưng lại biết nói chuyện với mèo. Có thể, cái chết là con đường duy nhất đưa lão trở lại thành ông già "Nakata bình thường" mà lão thường ước muốn.
"Ông nội à," Hoshino gọi, "nói với ông bây giờ cũng bằng thừa, nhưng quả là ông đi như thế này đâu có đến nỗi tệ."
Nakata đã qua đời êm đềm trong giấc ngủ, chắc hẳn không nghĩ ngợi gì hết. Mặt lão thanh tĩnh, không tỏ vẻ gì là đau đớn, tiếc nuối hay bối rối. Rất chi là Nakata, Hoshino kết luận. Nhưng ý nghĩa thực sự của đời lão là thế nào, thì Hoshino không biết. Đâu phải đời ai cũng có ý nghĩa rõ ràng hơn. Điều thực sự quan trọng đối với một con người, điều thực sự nói lên chân giá trị, là chết như thế nào . So với cách chết, gã nghĩ, cách sống chả mấy đáng kể. Tuy nhiên, cách sống lại quyết định cách chết. Những ý nghĩ đó chợt đến trong đầu Hoshino trong khi gã trân trân nhìn vào mặt ông già vừa giã từ cõi đời.
Nhưng vẫn còn một vấn đề then chốt: phải có ai đóng lại phiến đá cửa vào . Nakata đã hoàn tất mọi nhiệm vũ lão phải làm trừ việc này. Phiến đá ở ngay đó, dưới chân Hoshino và gã biết vào đúng lúc thích hợp, gã sẽ phải lật nó lại để đóng cửa vào. Nhưng Nakata đã cảnh báo gã rằng nếu sẩy tay, phiến đá có thể rất nguy hiểm. Ắt phải có một phương pháp lật phiến đá cho đúng các, - nhưng có cách đúng thì cũng có cách sai. Nếu chỉ dùng sức mà lật thì không chừng đảo lộn cả thế giới cũng nên.
"Ông nội, ông chết rồi, chẳng cách chi thay đổi được, nhưng ông để cháu lại trong một cái ngõ cụt thực sự đây này," Hoshino nói với cái xác nằm đấy và tất nhiên, không nhận được câu trả lời nào.
Lại còn vấn đề xử lý cái nữa. Bình thường ra thì chỉ việc gọi điện thoại cho cảnh sát hoặc bệnh viện đến mang đi. Chín mươi chín phần trăm dân số thế giới ắt làm đúng như thế và Hoshino cũng muốn làm thế. Nhưng cảnh sát đang truy tìm Nakata vì những tình tiết có liên quan đến vụ ám sát và tiếp xúc với nhà chức trách vào thời điểm này dứt khoát sẽ đặt Hoshino vào một tình thế gay go. Cảnh sát sẽ lôi cổ gã đi và quay cho tới số hàng giờ liền. Gã hoàn toàn không muốn khai những gì đã xảy ra, hơn nữa, gã vốn chẳng hâm mộ gì những người thừa hành pháp luật. Tốt nhất là tránh đừng có dây gì với cảnh sát.
Cả cái căn hộ này nữa chứ, giải thích thế quái nào đây?
Giả dụ mình khai: một ông già trang phục y như Đại tá Sanders cho chúng tôi mượn. Ông ta bảo chỗ này được chuẩn bị đặc biệt dành cho chúng tôi và chúng tôi có thể sử dụng bao lâu tùy thích. Liệu cảnh sát có tin không? Đại tá Sanders ư? Trong quân đội Mỹ à? Không, cái tay... ừm... trên các tấm quảng cáo của hệ thống nhà hàng Kentucky Fried Chicken ấy, ông biết không, ông thanh tra cảnh sát? Vâng, đúng thế: đeo kính, râu cằm bạc trắng... Ông ta là tay dắt gái hành nghề ở các ngõ hẻm của Takamatsu. Ông ta đã kiếm cho tôi một em. Khai những thứ lăng nhăng như thế, cảnh sát sẽ gọi mình là thằng ngố và thoi cho một cú vào mặt. Cớm chẳng qua là lũ găngxtơ ăn lương Nhà nước, Hoshino kết luận. không phải là lần đầu.
Gã thở dài đánh thượt.
Điều cần làm bây giờ là phải ra khỏi đây ngay, phắn càng xa càng tốt, gã nghĩ. Mình có thể phôn một cú nặc danh cho cảnh sát từ một máy điện thoại công cộng ở nhà ga. Cho họ địa chỉ, ở đây, nói là có người chết. Rồi nhảy lên một chuyến tàu về Nagoya. Họ sẽ không kết nối mình với vụ việc. Đó là một cái chết tự nhiên, do đó cảnh sát sẽ không mở cuộc điều tra. Họ sẽ trao trả thi thể cho gia đình ông già và sẽ có một đám tang, thế là hết chuyện. Rồi mình sẽ đến công ty, khấu đầu trước sếp: Em xin thề sẽ không bao giờ tái phạm. Từ giờ em sẽ tận tụy làm việc. Hứa bất cứ cái gì có thể được việc làm cũ.
Gã bắt đầu sửa soạn hành lý, nhét một bộ đồ thay đổi vào túi dết. Đội chiếc mũ Chunichi Dragons, kéo món tóc đuôi ngựa ra sau lưng, đeo đôi kính râm mắt xanh sẫm. Lấy một lon Pepsi Diet trong tủ lạnh ra uống cho đỡ khát. Trong khi dựa lưng vào tủ lạnh, uống, gã thấy phiến đá tròn cạnh sofa. Gã vào phòng ngủ, nhìn thi thể Nakata một lần nữa. Nom lão vẫn không ra người chết, mà vẫn như đang thở nhẹ nhàng, và Hoshino gần như chờ đợi lão đột nhiên ngồi dậy, nói: Cậu Hoshino, đây là một sự nhầm lẫn. Nakata này chưa chết thật đâu! Nhưng không có chuyện ấy. Nakata chết hẳn rồi. Làm gì có phép lạ. Ông già đã sang bờ bên kia rồi.
Lon Pepsi trong tay, Hoshino đứng đó lắc đầu. Mình không thể cứ thế đi, bỏ phiến đá lại, gã nghĩ. Nếu mình làm thế, ông Nakata sẽ không thể an nghỉ thật sự. Ông vốn là con người rất có lương tâm, bao giờ cũng lo bảo đảm cho mọi sự chu toàn. Ông ắt đã hoàn tất nốt nhiệm vụ cuối cùng này nếu ắc-quy của ông không hết điện. Hoshino bóp bẹp chiếc lon không, vứt vào sọt rác. Vẫn chưa hết khát, gã trở và bếp, bật nắp một lon Pepsi khác.
Ông Nakata nói với mình là ông xiết bao mong muốn biết đọc, dù chỉ một lần, Hoshino nhớ lại. Ông nói ông muốn đến một thư viện và có thể chọn và đọc bất kỳ một cuốn sách nào. Nhưng ông đã chết trước khi thực hiện được ước mơ đó. Có thể bây giờ chết rồi, sang một thế giới khác, ông sẽ trở thành một ông Nakata bình thường và biết đọc . Nhưng suốt cuộc đời trên dương thế này, ông đã không thể như thế. Thực tế, hành động cuối cùng của ông trên cõi trần lại là một đối nghịch hoàn toàn: đốt chữ. Tung hê toàn bộ chữ viết trên các trang giấy vào hư không. Ngẫm ra thật mỉa mai. Tuy nhiên, đã vậy thì mình càng cần phải thực hiện ước nguyện cuối cùng của ông. Mình phải đóng phiến đá cửa vào. Mình đã không thể đưa ông đi xem phim hoặc đến viện hải dương học, vậy đây là điều tối thiểu mình phải làm vì ông, sau khi ông đã ra đi.
Gã uống cạn lon Pepsi thứ hai, đi đến sofa, cúi xuống, thử nhấc phiến đá. Không đến nỗi nặng lắm, cũng chẳng nhẹ, nhưng có thể nhấc lên không mấy tốn sức. Cũng chỉ nặng như khi gã và Đại tá Sanders lấy trộm nó khỏi miếu đường. Nặng cỡ một hòn đá thường dùng để nén dưa. Có nghĩa là lúc này nó chỉ là một phiến đá, Hoshino nghĩ thầm. Khi nào nó đóng vai trò cửa vào thì mới nặng tới mức vận dụng công lực gần chết mới lật được. Nhưng khi nhẹ như thế này, nó chỉ là một phiến đá bình thường. Phải có một cái gì phi thường xảy đến trước đã, như cơn cuồng nộ sấm sét đùng đùng hôm nọ chẳng hạn, nó mới trở nên nặng chết người và lại biến thành cửa vào.
Hoshino ra cửa sổ, kéo rèm, nhìn lên trời. Vẫn đầy mây xám ảm đạm như hôm trước. Nhưng không có vẻ gì là sắp mưa, lại càng ít khả năng là sẽ có sấm. Gã dỏng tai nghe và hít hít không khí, nhưng mọi thứ đều hoàn toàn bình thường như hôm trước. Có vẻ như chủ đề hôm nay của thế giới là: Không có gì đặc biệt.
"Ông nội à," gã nói to với ông già vừa qua đời, "cháu đoán là cháu phải ở đây cùng ông đợi một cái gì khác thường xảy đến. Nó là cái gì và bao giờ thì nó diễn ra, cháu hoàn toàn mù tịt. Hơn nữa, bây giờ là tháng Sáu, chẳng mấy chốc thi thể ông sẽ rữa và bốc mùi. Cháu biết ông không muốn nghe những điều như thế, nhưng đó là lẽ tự nhiên. Và càng để lâu, càng chậm báo cảnh sát thì càng gay go cho cháu. Cháu muốn nói cháu sẽ làm bất kỳ cái gì trong tầm khả năng của cháu, nhưng cháu muốn ông biết tình thế là như vậy, Ô-kê?"
Tất nhiên không có câu trả lời.
Hoshino lượn lờ quanh phòng. À, phải rồi! Có thể Đại tá Sanders sắp bắt liên lạc! Ông ta ắt biết xử trí với phiến đá như thế nào. Đó là người mà ta bao giờ cũng có thể trông cậy khi cần một lời khuyên vừa nhiệt tình vừa thực tế. Nhưng tha hồ cho gã trân trân ngó cái máy điện thoại, nó cứ trơ trơ ra đó, câm lặng, trầm ngâm hướng nội một cách không cần thiết. Không ai gõ cửa, không lá thư nào đến. Và không có gì khác thường xảy ra. Thời tiết vẫn như cũ và gã chẳng nảy ra sáng kiến nào. Phút nọ nối phút kia, lạnh lùng vô cảm. Trưa đến rồi qua, chiều lặng lẽ trôi vào hoàng hôn. Những chiếc kim của chiếc đồng hồ điện treo tường nhẹ lướt trên bề mặt thời gian và trên tường, ông già Nakata vẫn nằm chết cứng. Hoshino không hề thấy đói. Gã uống lon Pepsi thứ ba và nhai mấy chiếc bánh quy giòn cho qua bữa.
Đến sáu giờ, gã ngồi xuống sofa, cầm cái điều khiển từ xa lên, bật tivi. Gã xem bản tin chiều của NHK, nhưng chẳng có gì khiến gã chú ý. Đúng là một ngày bình thường không có tin gì đặc biệt. Giọng người phát thanh viên bắt đầu làm gã khó chịu và khi chương trình chấm dứt, gã bèn tắt tivi. Bên ngoài, trời đã tối hơn rồi đêm xuống phủ khắp. Một tịch lặng sâu thẳm bao trùm căn phòng.
"Ông nội ạ," Hoshino nói với Nakata, "ông có thể trở dậy vài phút thôi được không? Cháu chẳng biết làm thế nào bây giờ. Và cháu nhớ cái giọng ông."
Dĩ nhiên là Nakata không đáp. Lão vẫn ở bờ bên kia. Một mực không lời, nhất định chết. Im lặng mỗi lúc một sâu, đến nỗi lắng tai thật chăm chú, Hoshino ngỡ nghe thấy tiếng trái đất quay trên trục của nó.
Hoshino trở ra phòng khách và bật chiếc đĩa tam tấu Archduke. Mới nghe chủ đề thứ nhất, nước mắt đã dâng lên và rồi tuôn trào như tháo cống. Chao, lần cuối cùng mình khóc là bao giờ nhỉ? Gã không nhớ nổi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 21:46:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 45


Như đã báo trước, từ "cửa vào" trở đi, đường rất khó đi. Thực tế, nó không còn là một con đường nữa. Càng vào sâu, rừng càng rậm, càng đồ sộ. Những quãng dốc càng dựng đứng và mặt đất càng chi chít những bụi cây thấp. Bầu trời hầu như bị khuất hẳn, tưởng như đã sẩm tối. Chỗ nào cũng thấy mạng nhện ken dày và đang ra sức đẩy lùi sự xâm lấn của con người vào lãnh thổ của nó. Thế mà hai người lính, súng khoác vai, vẫn coi như không, dễ dàng băng qua những khe hở giữa vòm lá ken dày. Họ thoăn thoắt luồn dưới những cành lá thấp, leo lên những tảng đá, nhảy qua hố, nhanh lạ lùng, hầu như không mắc phải gai.
Tôi lật đật bám theo họ, cố không rời mắt khỏi họ. Họ thậm chí không hề ngoái lại xem tôi có theo kịp không. Cứ như là họ thử sức tôi, xem tôi chịu đựng được đến đâu vậy. Thậm chí tôi có cảm giác như họ đang cáu giận tôi - không biết vì lý do gì. Họ không nói một lời, không chỉ riêng với tôi mà cả giữa họ với nhau nữa. Họ hoàn toàn tập trung vào việc tiến bước. Không một lời trao đổi, họ luân phiên dẫn đầu. Những nòng đen bắt tréo trên lưng họ lắc qua lắc lại trước mặt tôi, đều đặn như một chiếc âm thoa kế, dần dà khiến tôi đâm buồn ngủ. Đầu óc tôi bắt đầu lãng đãng như trượt trên băng, tới một nơi nào khác. Nhưng vì phải tập trung để theo kịp nhịp bước thoăn thoắt không ngừng của họ, nên tôi vẫn cắm cúi đi, mồ hôi túa ra.
"Bọn anh đi quá nhanh đối với chú em, phải không?" cuối cùng, anh lính to con cũng ngoái lại, hỏi. Anh ta không hề thở gấp.
"Không sao," tôi đáp, "em theo được mà."
"Chú em trẻ và coi bộ rất khỏe đấy," anh cao bình luận, không quay đầu lại.
"Bọn anh quá thuộc đường nên đôi khi tăng tốc quá đà," anh to con giải thích. "Vậy nếu bọn anh đi quá nhanh, chú em cứ bảo anh, đừng e ngại, hiểu không? Chỉ cần nói một tiếng, bọn anh sẽ hãm chậm lại. Nhưng hãy thông cảm, bọn anh không muốn đi chậm dưới mức cần thiết. Chú em hiểu ý anh chứ?"
"Nếu em theo không kịp, em sẽ nói để các anh biết," tôi nói, cố không thở dốc để họ khỏi biết là mình đã mệt lử. "Còn xa không?"
"Không, không xa lắm đâu," anh cao trả lời.
"Gần đến rồi," anh to con nói thêm.
Tôi không chắc là mình có tin anh ta hay không. Như họ đã nói, ở đây, thời gian không phải là một nhân tố đáng kể.
Cứ thế, chúng tôi tiếp tục đi một hồi, không nói không rằng, với một nhịp độ đỡ gấp gáp hơn trước. Có vẻ như họ thôi không thử sức tôi nữa.
"Rừng này có rắn độc không?" tôi hỏi. Từ đầu đến giờ, điều đó vẫn khiến tôi lo sợ.
"Rắn độc ư?" anh cao đeo kính nói, vẫn không ngoái lại. Anh không bao giờ quay đầu lại khi nói chuyện, lúc nào cũng nhìn thẳng phía trước như thể đề phòng một bất trắc ghê gớm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. "Anh chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy."
"Có thể có," anh to con nói và quay lại nhìn tôi. "Anh chưa thấy con nào, nhưng có thể có một số. Mà dù có đi nữa, thì cũng chả quan trọng gì."
"Bọn anh muốn nói là rừng không nhăm nhe hãm hại chú em đâu," anh cao xuề xòa nói thêm.
"Cho nên chú em khỏi phải lo chuyện rắn độc," anh to con nói. "Yên tâm rồi chứ?"
"Vâng," tôi đáp.
"Không gì ở đây: rắn độc, nấm độc, nhện độc hay sâu độc, sẽ làm tổn thương đến chú em," anh cao nói, vẫn không quay đầu lại.
"Không gì?" tôi hỏi. Tôi không hình dung được cụ thể những gì anh nói. Hẳn là vì tôi đã mệt.
"Không một thứ gì, vật gì," anh nói. "Không một vật gì ở đây sẽ gây tổn thương cho chú em. Thực tế, chúng ta đang ở chỗ sâu nhất của rừng. Không kẻ nào, vật nào - kể cả chính chú em - có thể gây tổn thương cho chú em."
Tôi cố hiểu cho ra anh định nói gì. Nhưng biết bao thứ - nào là kiệt sức, nào là mồ hôi, nào là buồn ngủ bởi sự lặp đi lặp lại đơn điệu của hành trình xuyên rừng - khiến đầu óc tôi không thể suy nghĩ mạch lạc.
"Hồi bọn anh còn là lính, họ bắt bọn anh tập đâm lê, rạch toang bụng quân địch," anh to con đáp. "Chú em biết cách tốt nhất để đâm ai bằng lưỡi lê là như thế nào không?"
"Không," tôi đáp.
"Này nhé, trước hết xọc mũi lê vào sâu trong bụng kẻ địch, rồi vặn xoắn sang bên cạnh. Như vậy sẽ cứa nát ruột thành từng mảnh và hắn sẽ chết một cái chết khủng khiếp: từ từ, đau đớn. Nhưng nếu chỉ đâm mà không vặn xoắn, kẻ địch sẽ có thể vùng dậy và chính hắn sẽ băm nát ruột anh . Ấy, cái thế giới chúng ta đang sống nó như thế đấy."
Ruột. Oshima có lần nói với tôi ruột là một ẩn dụ về mê cung. Đầu tôi đầy ắp những ý nghĩ các kiểu, xoắn xuýt vào nhau, rối tung, không sao tách bạch nổi.
"Chú em có biết tại sao người ta lại làm những điều tàn ác như thế với người khác không?" anh lính cao kều hỏi.
"Em không biết," tôi đáp.
"Anh đây cũng chịu không sao hiểu nổi," anh nói. "Anh bất cần kẻ địch là ai: lính Tàu, Nga hay Mỹ. Anh không bao giờ muốn băm ruột họ. Nhưng cái thế giới mà chúng ta đang sống nó là như thế và chính vì vậy mà bọn anh đã đào ngũ. Xin đừng hiểu lầm anh, hai đứa anh đây không phải là những kẻ hèn nhát. Thực ra, bọn anh là những người lính xuất sắc. Có điều bọn anh không chịu nổi cơn xoáy lốc bạo lực ấy. Anh cũng không nghĩ chú em là một kẻ hèn nhát."
"Em thực sự không biết," tôi thành thật trả lời. "Nhưng em luôn cố gắng để trở nên mạnh hơn."
"Điều đó rất quan trọng," anh to con nói, lại quay về phía tôi. "Rất quan trọng đấy - làm hết sức mình để trở nên mạnh hơn."
"Anh có thể nói chú em khá mạnh đấy," anh cao kều nói. "Hầu hết thiếu niên ở tuổi chú em ắt không thể băng rừng theo bọn anh tới tận đây."
"Phải, thế là oách đấy," anh to con chen vào.
Hai anh dừng lại ở một điểm. Anh lính cao kều bỏ kính ra, xoa cánh mũi vài cái, rồi lại đeo kính vào. Không anh nào thở dốc hoặc đổ mồ hôi.
"Khát không?" anh cao hỏi.
"Hơi thôi," tôi đáp. Thực ra, tôi khát muốn chết - tôi đã vứt bi-đông cùng với chiếc ba lô. Anh tháo chiếc bi-đông đeo ngang lưng đưa cho tôi. Tôi uống vài ngụm nước âm ấm trong đó, cảm thấy nó ngấm đên từng lỗ chân lông trên cơ thể. Tôi lau sạch miệng bi-đông rồi đưa trả anh.
"Cám ơn," tôi nói.
Anh lính cao lặng lẽ gật đầu.
"Chúng ta đã tới đỉnh," anh lính to con nói.
"Chúng ta sẽ đi thẳng một mạch xuống đáy, chú em phải chú ý đừng để sẩy chân đấy," anh lính cao cảnh báo.
Tôi thận trọng theo họ xuống con dốc trơn tuột xảo trá. Đến nửa đường, chúng tôi quành một góc rộng, xuyên qua một lùm cây và đột nhiên một thế giới khác mở ra bên dưới chúng tôi. Hai anh lính dừng bước vào quay lại nhìn tôi. Họ lặng thinh nhưng mắt họ nói nhiều. Đến nơi rồi, chúng nói với tôi. Đây là nơi chú em sắp bước chân vào . Tôi đứng đó với họ và ngắm nhìn cái thế giới ấy.
Đó là một thung lũng, một thứ lòng chảo được khoét gọn ghẽ nương theo những đường viền tự nhiên của dải đất. Tôi không biết bao nhiêu người có thể sống ở đây, nhưng chắc là không nhiều vì con thung không lớn lắm. Có vài đường phố với những ngôi nhà đây đó hai bên. Phố nhỏ, nhà cũng nhỏ. Không thấy ai ngoài đường. Tất cả các nhà đều không có gì đặc sắc, dựng lên cốt để che mưa nắng chứ không nhằm làm đẹp. Toàn bộ nơi này không đủ lớn để có thể gọi là một thị trấn . Không có cửa hàng, biển báo hay panô quảng cáo gì cả. Chỉ là một dúm nhà, tất cả đều cùng một cỡ, một dạng, tình cờ tụ lại thành một cộng đồng nhỏ. Không nhà nào có vườn và đường phố chẳng có lấy một bóng cây. Dường như vì bốn bề đã có rừng bao quanh nên chả cần có thêm cây cối làm gì.
Một làn gió nhẹ thổi qua rừng làm rung những lá cây quanh tôi. Cái tiếng lào xào vô danh ấy tạo nên những gợn sóng lăn tăn trên những nếp cuộn của tâm trí tôi. Tôi đặt tay lên một thân cây và nhắm mắt lại. Những gợn sóng kia dường như là một tín hiệu, một thứ báo hiệu nào đó, nhưng nó thuộc một ngôn ngữ lạ lẫm mà tôi không giải mã nổi. Tôi bỏ cuộc, mở mắt ra và lại đăm đăm nhìn cái thế giới mới toanh trứoc mặt. Đứng ở lưng chừng dốc, cùng với hai người lính ngó xuống thung lũng, tôi cảm thấy những gợn sóng nọ chuyển động trong tôi. Những tín hiệu ấy tự cấu tạo lại, những ẩn dụ biến đổi và tôi trôi đi, trôi xa khỏi bản thân. Tôi thành một com bướm dập dờn dọc theo đường biên của tạo hóa. Bên kia đường biên của thế giới, có một khoảng không gian ở đó trống rỗng và thực chất hầu như gối lên nhau, ở đó quá khứ và tương lai họp thành một đường vòng liên tục, bất tận. Và bay lượn quanh đó là những tín hiệu chưa ai từng giải mã, những hòa thanh chưa ai từng nghe thấy.
Tôi cố thở bình thường trở lại. Tâm trí tôi chưa trấn tĩnh hoàn toàn, nhưng ít nhất thì tôi cũng không sợ nữa.
Không một lời, hai người lính lại bắt đầu đi và tôi lặng lẽ theo sau. "Thị trấn" mỗi lúc một gần. Tôi nhìn thấy một dòng suối nhỏ có kè đá chảy dọc theo một con đường. Làn nước đẹp, trong vắt, tiếng róc rách thật dễ chịu. Mọi thứ ở đây đều đơn sơ và ấm cúng. Lác đác những cột cao mảnh chăng dây nối liền nhau, có nghĩa vùng này chắc có điện. Điện ở nơi thẳm cùng này ư?
Xung quanh khu này là một hàng rào cây xanh cao vút. Bầu trời vẫn đầy mây xám. Hai anh lính và tôi đi dọc phố nhưng không gặp một ai. Tất cả hoàn toàn tĩnh lặng, không một tiếng động. Có lẽ mọi người đều đóng kín cửa, ở trong nhà, nín thở chờ chúng tôi đi khỏi.
Hai người bạn đường đưa tôi đến một ngôi nhà. Lạ thay, nó giống hệt căn nhà gỗ của Oshima, cả về kích thước lẫn hình dáng. Như thể cái nọ được dùng làm mẫu cho cái kia vậy. Có một hàng hiên bên ngoài với một chiếc ghế. Mái bằng với một ống khói thò lên. Trong phòng ngủ, một chiếc giường một đơn sơ sắp xếp gọn gàng tinh tươm. Điểm khác biệt duy nhất: phòng ngủ và phòng khách riêng biệt, có toa-lét trong nhà và có điện. Lại có cả một tủ lạnh nhỏ trong bếp, đời cổ. Một ngọn đèn ròng xuống từ trên trần. Và một chiếc tivi nữa. Một chiếc tivi?
"Tạm thời, chú em phải ở đây đến khi nào ổn định," anh lính to con nói. "Sẽ không lâu đâu. Tạm thời thôi ."
"Một nhân tố không đáng kể," anh kia gật đầu nhấn mạnh thêm.
"Điện ở đây lấy từ nguồn nào vậy?"
Hai anh nhìn nhau.
"Từ một trạm phong điện nhỏ ở sâu nữa trong rừng, chỗ ấy lúc nào cũng có gió," anh cao giải thích. "Chúng ta phải có điện chứ, phải không nào?" "Không có điện thì không dùng được tủ lạnh," anh to con nói. "Không chạy được tủ lạnh thì không giữ thức ăn được lâu."
"Không có nó, ta vẫn khắc phục được bằng cách nào đó," anh cao nói, "nhưng có nó thì vẫn tiện hơn."
"Nếu chú em đói, cứ mở tủ lạnh ra, có gì ăn nấy," anh to con nói. "Nhưng anh sợ là cũng chẳng nhiều nhặn gì."
"Ở đây không có thịt, cá, cà phê hoặc rượu," anh cao nói. "Thoạt đầu cũng gay, nhưng rồi sẽ quen dần."
"Nhưng lại có trứng, sữa và phó mát. Cần phải có prôtêin chứ, phải không?"
"Ở đây, người ta không làm những thứ ấy," anh cao giải thích, nên phải kiếm ở nơi khác. "Đem một thứ gì đó đến trao đổi."
"Nơi khác ?"
"Phải," anh cao gật đầu. "Ở đây chúng ta đâu có cách biệt khỏi thế giới. Vẫn có một nơi khác . Có thể phải mất một thời gian nữa, nhưng rồi chú em sẽ hiểu."
"Chiều nay, sẽ có người đến làm bữa tối cho chú em," anh lính to con nói. "Từ giờ đến lúc đó, nếu buồn thì bật tivi lên mà xem."
"Có show gì trên tivi không?"
"Anh cũng không biết có những gì," anh cao đáp, hơi lúng túng. Anh nghiêng nghiêng đầu nhìn bạn mình.
Anh to con cũng nghiêng nghiêng đầu, băn khoăn ra mặt. "Nói thật với chú em, anh chả biết gì mấy về tivi. Anh chả bao giờ xem cả."
"Họ đặt tivi ở đây là dành những ai mới đến," anh cao nói.
"Nhưng chắc phải có chương trình gì đó cho chú em xem chứ."
"Thôi hẵng cứ nghỉ một lúc đã," anh cao nói. "Bọn anh phải trở về vị trí đây."
"Cám ơn các anh đã đưa em tới đây."
"Không có gì. Chú em khỏe chân hơn nhiều so với những người khác mà bọn anh đã đưa đến đây. Khối người không theo kịp. Thậm chí có một số bọn anh phải cõng trên lưng. Với chú là nhẹ nhàng nhất đấy."
"Nếu anh nhớ không lầm," anh cao nói, "thì chú đã nói là chú muốn gặp ai đó ở đây."
"Đúng thế ạ."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách