Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Kafka Bên Bờ Biển | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:38:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21


ĐIÊU KHẮC GIA KOICHI TAMURA BỊ ĐÂM CHẾT
(Được phát hiện trên sàn xưởng tượng, giữa một vũng máu)
Chiều ngày 30, người ta tìm thấy nhà điêu khắc nổi tiếng thế giới Koichi Tamura chết tại nhà mình ở Nogata, quận Nakano. Người phát hiện ra thi thể ông là một bà giúp việc. Ông Tamura được tìm thấy trong tư thế nằm sấp, trần truồng, mình đầy máu. Có những dấu hiệu vật lộn và người ta cho rằng đây là một vụ án mạng. Hung khí, được tìm thấy bên cạnh xác chết, là một con dao bếp.
Cảnh sát ước đoán thời gian chết là tối 28 và vì ông Tamura sống một mình nên mãi đến hai hôm sau, thi thể mới được phát hiện. Ông Tamura bị nhiều vết thương sâu ở ngực do bị đâm bằng con dao nhọn pha thịt và có thể tin rằng ông gần như đã chết ngay vì mất quá nhiều máu từ những vết thương ở tim và phổi. Nhiều xương sườn cũng bị gẫy, có vẻ như do bị những cú đập rất mạnh. Cảnh sát không thông báo gì về việc có tìm thấy dấu tay hay bất cứ vật gì sót lại ở hiện trường hay không. Xem ra cũng không có nhân chứng nào mục kích tội ác.
Vì trong nhà không bị xáo lộn và không có đồ vật đáng giá nào, kể cả một ví tiền nằm gần đó, bị lấy đi, nên cảnh sát cho rằng đây là một cuộc báo thù cá nhân. Nhà ông Tamura ở một khu dân cư yên tĩnh, nhưng không có ai nghe thấy gì vào thời điểm xảy ra vụ án mạng, và những người hàng xóm đều bàng hoàng khi biết tin này. Ông Tamura sống kín đáo, ít có quan hệ với láng giềng, và không ai nhận thấy điều gì khác thường vào quãng thời gian xảy ra sự kiện này.
Ông Tamura ở với con trai mười lăm tuổi, nhưng theo bà giúp việc, thì khoảng mươi hôm nay không thấy cậu ta ở nhà. Cậu bé cũng vắng mặt ở trường trung học và cảnh sát đang dò tìm tung tích cậu ta.
Ngoài ra, ông Tamura còn có một văn phòng và một xưởng làm việc ở cạnh nhà [7] và theo cô thư ký của ông ta, thì cho đến trước hôm bị giết, ông ta vẫn đang làm dở một bức tượng mới như bình thường. Vào ngày xảy ra chuyện, cô có việc cần xin ý kiến ông, nhưng lần nào gọi điện thoại đến cũng chỉ thấy máy nhắn tự động.
Ông Tamura sinh ở Kokubunji, Tokyo. Ông theo học Khoa Điêu khắc của Trường Đại học Mỹ Thuật Tokyo và từ khi còn là sinh viên đã hoàn thành nhiều tác phẩm cách tân làm xôn xao giới mỹ thuật. Chủ đề chính của ông là tiềm thức con người và những tác phẩm điêu khắc của ông, với một phong cách độc đáo thách thức cái cổ truyền, được hoan nghênh trên trường quốc tế. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông, một xê-ri lớn mang tên "Mê Cung", với một trí tưởng tượng phóng khoáng, khảo sát cái đẹp và cảm hứng tìm thấy nơóc nghách ngoằn ngoèo của mê cung. Ông hiện là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Đại học Mỹ Thuật và cách đây hai năm, Bảo tàng Mỹ thuật Hiện đại ở New York đã tổ chức một cuộc triển lãm tác phẩm của ông.
Tôi ngừng đọc ở đoạn này. Có một hình chụp cổng trước nhà chúng tôi và một ảnh chân dung cha tôi hồi trẻ, khiến trang báo đượm vẻ thê thảm. Tôi gập đôi tờ báo, đặt lên bàn. Vẫn ngồi trên giường, tôi không nói gì, chỉ ép đầu ngón tay lên mí mắt. Một tiếng thình thịch, theo một nhịp đều đặn, vang rền trong tai tôi. Tôi ráng lắc đầu thật mạnh để xua nó đi mà không được.
Tôi đang ở phòng riêng của mình trong thư viện. Đã bảy giờ tối. Oshima và tôi vừa đóng cửa và cách đây một lúc, Miss Saeki đã lái chiếc Volkswagen Golf về nhà. Giờ chỉ còn tôi và Oshima trong thư viện. Và cái tiếng thình thịch khó chịu ấy trong tai tôi.
"Số báo này cách đây hai hôm rồi. Bài này được đăng khi cậu còn ở căn lều trên núi. Khi mình đọc, mình liền nghĩ có thể ông Koichi Tamura này là cha cậu cũng nên. Rất nhiều chi tiết phù hợp. Lẽ ra mình phải đưa cậu xem từ hôm qua, nhưng mình muốn đợi cho cậu ổn định chỗ ở đã."
Tôi gật đầu, ngón tay vẫn ép trên mí mắt.
"Em không giết ông, anh biết đấy."
"Mình biết," Oshima nói. "Hôm xảy ra vụ án mạng, cậu đang ở thư viện này, đọc đến tận tối. Cậu ắt không đủ thì giờ để quay về Tokyo, giết cha cậu, rồi trở lại Takamatsu. Việc đó là bất khả."
Nhưng tôi thì không dám chắc thế. Tôi nhẩm tính và thấy ra rằng cha tôi bị giết vào đúng cái đêm tôi tỉnh dậy với chiếc sơ mi đầy máu.
"Nhưng nói là cảnh sát đang kiếm tìm cậu với tư cách là một nhân chứng quan trọng."
Tôi gật đầu.
"Nếu cậu đến gặp cảnh sát và chứng minh cậu có một bằng chứng ngoại phạm vững chắc, thì mọi chuyện sẽ bội phần dễ dàng hơn là cứ vòng vo tránh né họ. Dĩ nhiên, mình sẽ làm chứng cho cậu."
"Nhưng nếu em làm thế, họ sẽ đưa em trở về Tokyo."
"Mình chắc thế. Mình muốn nói, dù sao cũng phải học nốt trung học - đó là nghĩa vụ mà. Ở tuổi này, cậu không thể đi bất cứ nơi nào cậu muốn được. Theo đúng luật, cậu vẫn cần có người giám hộ."
Tôi lắc đầu.
"Em không muốn phải giải thích chuyện gì với bất kỳ ai. Và em không muốn trở về nhà ở Tokyo."
Im lặng một lúc, Oshima đăm đăm nhìn tôi. "Đó là một điều cậu sẽ phải tự quyết định lấy," cuối cùng, anh nói, giọng bình tĩnh. "Mình nghĩ cậu có quyền sống theo bất cứ cách nào cậu muốn. Dù cậu mười lăm hay năm mươi tuổi thì có gì quan trọng. Nhưng khốn thay, xã hội lại không đồng ý thế. Vậy cứ cho rằng cậu 'không muốn giải thích chuyện gì với bất kỳ ai' đi. Cậu sẽ luôn luôn phải trốn tránh cảnh sát và xã hội. Cuộc đời cậu sẽ rất gay go. Cậu mới mười lăm tuổi đầu, còn cả cuộc đời ở trước mặt. Cậu thấy thế có ổn không?"
Tôi không nói gì.
Oshima cầm tờ báo lên, đọc lướt lại bài báo một lần nữa. "Theo bài này, cậu là người thân duy nhất của cha cậu."
"Em có mẹ và một chị gái," tôi giải thích, "nhưng hai người bỏ nh từ lâu rồi và em không biết hiện họ ở đâu. Ngay cả nếu em biết, thật tình em cũng không chắc họ có về chịu tang hay không."
"Chà, nếu cậu không ở đó, không biết ai sẽ lo liệu mọi chuyện. Nào là đám tang, nào là công việc làm ăn của cha cậu."
"Như trong báo nói, cha em có một cô thư ký văn phòng, lo toan mọi sự. Cô biết công việc của ông, nên em tin chắc cô ấy có thể xử lý tốt. Em chẳng muốn gì trong những cái ông để lại cho em. Ngôi nhà, đất đai và mọi thứ khác, họ có thể thanh lý những cái đó theo bất cứ cách nào họ muốn."
Cái duy nhất tôi thừa kế từ ông mà tôi không thể khước từ, tôi nghĩ thầm, đó là ADN của tôi.
"Hãy cải chính nếu như mình nói sai," Oshima nói, "nhưng hình như cậu không buồn lắm về chuyện cha cậu bị giết."
"Không, em có buồn chứ. Dù sao ông cũng là cha em mà. Song điều em thực sự tiếc là ông không chết sớm hơn. Em biết điều này nói ra thật là kinh khủng."
Oshima lắc đầu. "Không sao. Hơn lúc nào hết, cậu có quyền trung thực với chính mình."
"Vậy, em nghĩ..." Giọng tôi trở nên yếu ớt, thiếu sức thuyết phục. Không biết hướng vào đâu, những lời tôi nói rơi tõm vào khoảng trống. Oshima tiến lại, ngồi xuống cạnh tôi.
"Đủ mọi chuyện đang xảy đến với em," tôi mở đầu. "Một số do tự em chọn, một số thì không, nhưng giờ em không còn phân biệt rảnh rẽ được nữa. Điều em muốn nói là, dường như là mọi sự đã được định trước - rằng em đang đi theo một con đường do một người nào khác đã vạch sẵn cho em. Cho dù em có cố gắng suy nghĩ đến đâu để hiểu cho ra, cũng vô ích. Trên thực tế, em càng cố, thì lại càng mất đi ý thề bản thân, càng không hiểu mình là ai nữa. Cứ như em đang chệch xa khỏi quĩ-đạo-bản-ngã của mình và điều đó thật sự là đau đớn. Hơn thế nữa, nó còn làm em sợ. Mới chỉ nghĩ đến đã thấy chợn."
Oshima đặt tay lên vai tôi và tôi cảm thấy hơi ấm của bàn tay ấy. "Cứ cho là tất cả những lựa chọn, tất cả những cố gắng của em đều phí hoài đi nữa, thì em vẫn là em, chứ không phải bất kỳ ai khác. Và em đang tiến tới với tư cách là bản thân mình. Vậy nên hãy vô tư đi."
Tôi ngẩng đầu lên nhìn anh. Giọng anh thật thuyết phục. "Tại sao anh nghĩ thế?"
"Bởi vì trong đó có yếu tố mỉa mai."
"Mỉa mai?"
Oshima nhìn sâu vào mắt tôi. "Nghe này, Kafka. Những gì em đang trải qua đều là môtíp của nhiều bi kịch Hy Lạp. Con người ta không chọn số phận, mà số phận chọn con người. Đó là thế giới quan cơ bản của kịch Hy Lạp. Và chất bi kịch - theo Aristotle - mỉa mai thay, lại không bắt nguồn từ những nhược điểm của các nhân vật chính, mà từ những phẩm chất tốt của họ. Em có hiểu anh muốn nói gì không? Người ta bị kéo sâu vào bi kịch không phải bởi những khuyết điểm mà bởi những đức tính của mình. Vở Oedipus làm vua của Sophocles là một thí dụ lớn. Oedipus ngụp vào bi kịch không phải vì chàng lười biếng hay ngu ngốc, mà chính vì lòng dũng cảm và trung thực của chàng. Từ đó nảy ra một chất mỉa mai tất yếu."
"Vậy là tình thế không lối thoát."
"Cái đó còn tùy," Oshima nói. "Đôi khi là thế đấy. Nhưng sự mỉa mai làm cho con người sâu sắc hơn, giúp họ trưởng thành. Đó là cửa vào sự cứu rỗi ở một bình diện cao hơn, vào một nơi ta có thể tìm thấy một thứ hy vọng phổ quát hơn. Vì thế bây giờ, người ta vẫn thích đọc bi kịch Hy Lạp, vì thế mà nó vẫn được coi là kinh điển mẫu gốc. Mình đang tự lặp lại, nhưng quả vậy, mọi thứ trên đời đều là ẩn dụ. Thực tế, người ta không giết cha mình và ngủ với mẹ mình, phải không nào? Nói cách khác, chúng ta chấp nhận sự mỉa mai thông qua một thủ pháp gọi là ẩn dụ. Và qua đó, chúng ta trưởng thành và trở nên những con người sâu sắc hơn."
Tôi không nói gì. Tôi đang quá mải suy nghĩ về tình thế của chính mình.
"Có bao nhiêu người biết em đang ở Takamatsu?" Oshima hỏi.
Tôi lắc đầu. "Em đến đây là tự ý mình, nên em nghĩ chẳng ai khác biết được."
"Vậy thì tốt nhất là em cứ tạm ẩn ở thư viện một thời gian. Đừng ra làm việc ở khu tiếp tân. Anh không tin là cảnh sát có thể mò ra dấu tích của em, nhưng nếu tình hình gay go, em vẫn có thể trốn về căn nhà gỗ ở Kochi."
Tôi nhìn Oshima. "Nếu em không gặp anh thì không biết em sẽ xoay xở ra sao. Chẳng có ai khác có thể giúp em."
Oshima mỉm cười. Anh cất tay khỏi vai tôi và đăm đăm nhìn vào bàn tay ấy. "Cái đó không đúng. Mình dám chắc rằng nếu không gặp mình, cậu sẽ tìm thấy một đường đi khác. Mình không biết tại sao, nhưng mình tin chắc vậy. Mình thực sự cảm thấy như thế về cậu." Anh đứng dậy, đến bàn giấy cầm một tờ báo khác mang lại cho tôi "Tiện thể, bài này đăng trong số ra hôm kia. Mình nhớ kỹ vì chuyện này thật dị thường. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng nó diễn ra ở gần nhà cậu."
MƯA CÁ
2.000 cá mòi và cá thu từ trên trời rơi xuống
khu buôn bán Quận Nakano
Khoảng 6 giờ tối hôm 29, cư dân khối X quận Nakano bàng hoàng khi 2.000 con cá mòi và cá thu từ trên trời trút xuống như mưa. Hai bà nội trợ đang mua hàng ở chợ đã bị thương nhẹ ở mặt bởi cá rơi sượt qua, ngoài ra không ai khác bị tổn thương nặng. Vào lúc xảy ra sự kiện này, trời đang nắng, quang mây, lặng gió. Phần lớn cá đều còn sống, giãy đành đạch trên đường.
Tôi đọc xong đoạn tin và đưa trả tờ báo cho Oshima. Phóng viên đưa ra một số suy đoán có thể là nguyên nhân gây ra sự kiện nhưng tất cả đều thiếu sức thuyết phục. Cảnh sát điều tra theo hướng liên quan đến trộm cắp hoặc có kẻ đùa dai. Nha Khí tượng thông báo hiện không có bất cứ điều kiện khí quyển nào có thể dẫn đến một cơn mưa cả. Còn người phát ngôn của Bộ Nông-Lâm-Ngư nghiệp thì vấn chưa bình luận gì.
"Cậu có nghĩ ra tại sao lại xảy ra chuyện lạ ấy không?" Oshima hỏi tôi.
Tôi lắc đầu. Chịu.
"Ngay hôm sau ngày cha cậu bị giết, gần nơi xảy ra vụ án mạng, hai nghìn cá mòi và cá thu rơi từ trên trời xuống. Chỉ là sự trùng hợp thôi ư?"
"Em chắc thế."
"Báo còn đăng tin là cùng ngày hôm ấy, ở khu nghỉ chân Fujigawa trên xa lộ Tomei, giữa đêm khuya, một đống đỉa đã từ trên trời ụp xuống một khoảng nhỏ hẹp, gây ra mấy vụ đụng xe nhẹ. Nghe nói đỉa rất lớn. Không ai giải thích được tại sao lại có cơn mưa đỉa đó. Đó là một đêm sáng trời, quang mây. Cả vụ này, cậu cũng không hiểu
Một lần nữa tôi lại lắc đầu.
Oshima gập tờ báo lại và nói "Có nghĩa chúng ta đứng trước một thực tế: một chuỗi sự kiện kỳ lạ, không thể giải thích được đang nối tiếp nhau diễn ra. Có thể đó chỉ là một loạt những trùng hợp, nhưng nó vẫn khiến mình thắc mắc. Ở đây có một cái gì mình không nêu ra cụ thể được."
"Có thể đó là một ẩn dụ chăng?" tôi đánh bạo gợi ý.
"Cũng có thể... Nhưng mưa cá mòi và cá thu, mưa đỉa là cái thứ ẩn dụ ám chỉ gì chứ?"
Trong im lặng, tôi cố tìm cách diễn đạt thành lời cái điều mà bao lâu nay tôi không nói ra được. "Anh biết không? Mấy năm trước đây, cha em có một lời tiên đoán về em."
"Một lời tiên đoán?"
"Điều này, em chưa từng nói với ai bao giờ. Em nghĩ hẳn sẽ chả ai tin em."
Oshima không nói gì. Tuy nhiên, sự im lặng của anh lại động viên tôi.
"Một lời nguyền rủa thì đúng hơn là một tiên đoán. Cha em nhắc đi nhắc lại với em điều đó không biết bao nhiêu lần. Như thể ông muốn khắc từng chữ vào óc em vậy." Tôi hít một hơi thật sâu và ôn lại lần nữa những gì tôi cần nói ra. Thực ra tôi đâu cần phải ôn lại - bao giờ nó chả ở đấy, ong ong trong đầu tôi, cho dù tôi có kiểm tra lại hay không. Nhưng tôi cần phải cân nhắc từng chữ một lần nữa. Và đây là điều tôi nói: "Một ngày kia, mày sẽ giết cha mày và ngủ với mẹ mày, cha em nói thế đấy."
Một khi đã nói ra, diễn đạt cái ý đó thành lời cụ thể, tôi bỗng cảm thấy lòng mình trống huơ trống hoác. Và bên trong cái khoảng trống đó, tim tôi đập rộn với một âm thanh kim khí và rỗng.
Sắc mặt không chút thay đổi, Oshima nhìn tôi hồi lâu.
"Vậy là ông nói một ngày nào đó, chính tay cậu sẽ giết cha và ngủ với mẹ."
Tôi gật lia lịa.
"Y hệt lời tiên đoán với Oedipus. Mình nghĩ cậu biết chứ?"
Tôi gật đầu. "Nhưng chưa hết. Ông còn đưa thêm vào đó một chi tiết phụ. Em có một chị gái hơn em sáu tuổi và cha em nói em sẽ ngủ với cả chị ấy."
"Cha cậu nói với cậu thế thật sao?"
"Vâng. Dạo ấy, em còn đang học cấp một và còn chưa hiểu ra từ "ngủ" đó nghĩa là thế nào. Mãi đến mấy năm sau, em mới vỡ ra."
Oshima không nói gì.
"Cha em bảo không cách chi em thoát được cái mệnh đó. Lời tiên đoán đó giống như một cơ chế định giờ được gá trong gien của em và không có gì có thể hóa giải được. Em sẽ phải giết cha em và ngủ với cả mẹ em lẫn chị em."
Oshima vẫn lặng thinh một lúc nữa như thể đang tra vấn, xem xét từng chữ một trong những lời tôi vừa nói để tìm ra đầu mối dẫn tới chìa khoá của điều bí hiểm này. "Tại sao cha cậu lại đi nói với cậu một điều gớm ghiếc như thế cơ chứ?" cuối cùng anh hỏi.
"Em không biết. Ông không hề giải thích thêm," tôi lắc đầu nói. "Có thể ông muốn trả thù vợ và con gái đã bông. Muốn trừng phạt họ, chắc thế. Thông qua em."
"Dù như thế có nghĩa là làm cậu tổn thương?"
Tôi gật đầu. "Đối với cha em, có lẽ em chả hơn gì một bức tượng của ông ấy. Một thứ mà ông ấy có thể tạo ra hay đập vỡ tùy theo ông thấy có thích hợp hay không."
"Thật lả một cách nghĩ kỳ quái," Oshima nói.
"Ở nhà chúng em, mọi thứ đều kỳ quái. Và khi mà mọi thứ đều kỳ quái, thì rốt cuộc, cái gì bình thường đâm ra có vẻ quái dị. Em đã biết điều đó từ lâu, nhưng em chỉ là một đứa bé. Em còn biết đi đâu khác?"
"Mình đã được xem tác phẩm của cha cậu một số lần," Oshima nói. "Ông là một điêu khắc gia tuyệt vời. Tượng của ông độc đáo, khiêu khích, đầy uy lực. Không thỏa hiệp, mình muốn dùng chữ ấy. Rành là nghệ thuật đích thực."
"Có thể là thé. Nhưng những đầu thừa đuôi thẹo sót lại từ những sáng tác ấy, ông rải ra khắp nhà như một thứ thuốc độc, không trốn đâu cho thoát được. Cha em làm ô nhiễm tất cả những gì ông đụng vào, làm tổn thương tất cả những ai ở quanh ông. Em không biết có phải ông cố tình làm thế hay không. Có thể là ông phải làm thế. Có thể đó là một phần bản chất của ông. Dù sao mặc lòng, em vẫn có cảm giác là ông gắn bó với một cái gì rất khác thường. Anh có hiểu em muốn nói gì không?"
"Mình nghĩ là có," Oshima nói. "Một cái gì vượt khỏi phạm vi cái thiện và cái ác. Có thể gọi nó là nguồn sức mạnh."
"Và cái đó chiếm nửa phần gien của em. Có lẽ vì thế mà mẹ em bỏ em lại. Có thể bà muốn đoạn tuyệt với em vì em sinh ra từ cái nguồn dễ sợ ấy. Vì em đãị ô nhiễm."
Oshima khẽ ấn đầu ngón tay vào thái dương, ngẫm nghĩ. Anh lim dim mắt nhìn tôi. "Liệu có khả năng ông ấy không phải là cha đẻ của cậu không?"
Tôi lắc đầu. "Cách đây mấy năm, cha con em đã làm xét nghiệm ở một bệnh viện. Người ta đã lấy mẫu máu hai cha con để kiểm tra ADN. Không thể nghi ngờ về điểm này - trăm phần trăm, đó là cha sinh học của em. Họ đã cho em xem kết quả xét nghiệm."
"Ông ấy quả là rất cẩn thận."
"Em đồ rằng ông ấy muốn em biết mình là một trong những tác phẩm do ông sáng tạo. Một cái gì ông đã hoàn thành và ký tên."
Những ngón tay của Oshima vẫn áp trên tháidương. "Nhưng lời tiên đoán của cha cậu vẫn chưa ứng nghiệm, phải không nào? Cậu không giết cha cậu. Khi điều đó xảy ra, cậu đang ở đây, tại Takamatsu. Một kẻ khác đã giết ông ở Tokyo."
Tôi lặng lẽ xòe hai bàn tay ra trước mặt và nhìn trân trân vào đó. Đôi bày tay đã dính đầy máu trong đêm tối. "Về điểm này, em không dám chắc lắm," tôi nói với anh.
Và tôi lần lượt kể cho anh nghe tất cả. Chuyện tôi bị bất tỉnh trên đường về khách sạn. Chuyện tôi tỉnh lại trong khu rừng đằng sau miếu thờ, và chiếc sơ mi đẫm máu ai đó. Chuyện gột máu trong nhà vệ sinh. Cả việc mấy giờ liền bị xóa hẳn trong trí nhớ của tôi. Để khỏi mất thì giờ tôi bỏ qua đoạn tôi qua đêm ở chỗ Sakura. Oshima thỉnh thoảng hỏi một đôi câu và sắp xếp các chi tiết vào bộ nhớ trong đầu. Nhưng anh không phát biểu ý kiến gì.
"Em không hiểu làm sao người em lại đầy máu như thế, mà cũng chẳng biết là máu của ai nữa. Quãng thời gian ấy là một khoảng trống," tôi nói. "Nhưng có thể em đã giết cha em bằng chính tay mình, chứ không phải theo nghĩa ẩn dụ. Em thật sự có cảm giác là mình đã làm việc đó. Như anh đã nói, hôm ấy em ở Takamatsu - rành là em không đi Tokyo. Nhưng trách nhiệm bắt đầu từ trong mơ, phải không nào?"
Oshima gật đầu. "Thơ của Yeats."
"Vậy có thể em đã giết cha em qua một giấc mơ," tôi nói. "Có thể em đã đi đến Tokyo thông qua kênh đặc biệt của chiêm bao và đã giết ông."
"Đó là cảm nghĩ của cậu và cậu cho đó là thật, nhưng sẽ không có ai thẩm vấn cậu về trách nhiệm trong mơ đâu. Chắc chắn cảnh sát sẽ không làm thế. Không ai có thể ở hai nơi cùng một lúc. Đó là một sự thật khoa học đã được Einstein chứng minh và pháp luật chấp nhận nguyên lý ấy."
"Nhưng em đâu có nói chuyện khoa học hay pháp luật ở đây."
"Kafka," Oshima. "điều cậu nói chỉ là một giả thuyết. Một giả thuyết táo bạo và siêu thực đáng được chuyển thành kịch bản phim khoa học viễn tưởng."
"Tất nhiên, đó chỉ là giả thuyết. Em biết thế. Em nghĩ chắc chẳng ai tin nổi một điều ngớ ngẩn đến như vậy. Nhưng sinh thời, cha em thường nói không có phản chứng nhằm bác bỏ một lý thuyết, thì khoa học sẽ không bao giờ tiến bộ. Lý thuyết là một bãi chiến trường trong đầu, đó là câu ưa thích của ông. Và ngay lúc này, em không thể nghĩ ra phản chứng nào để bác bỏ giả thuyết của mình."
Oshima im lặng. Và tôi thì không nghĩ ra điều gì khác để nói.
"Dù sao đi nữa," cuối cùng Oshima nói, "chính vì thế mà cậu bỏ nhà đến Shikoku. Để trốn khỏi lời nguyền của cha cậu."
Tôi gật đầu và chỉ tờ báo gập tư. "Nhưng xem chừng chẳng có cách nào trốn thoát."
Khoảng cách sẽ không giải quyết được gì hết, cái thằng tên Quạ nói thế.
"Vậy rành là cậu cần một nơi ẩn náu," Oshima nói: "Ngoài ra, mình chả còn biết nói gì hơn."
Tôi chợt nhận ra mình mệt biết bao. Tôi ngả người dựa vào Oshima và anh quàng tay ôm vai tôi.
Tôi gục mặt vào bộ ngực phẳng của anh. "Oshima, em không muốn làm những điều đó. Em không muốn giết cha em. Hoặc ngủ với mẹ em và chị gái em."
"Dĩ nhiên là thế," anh đáp, đưa tay vuốt mái tóc húi cua ngắn của tôi. "Làm sao em có thể muốn vậy được?"
"Kể cả trong mơ cũng không."
"Cũng như trong ẩn dụ," Oshima nối lời. "Hay trong ngụ ngôn, hay một tương suy." Anh dừng một lát rồi tiếp. "Nếu em không phiền, anh sẽ ở lại với em đêm nay. Anh có thể ngủ trên ghế."
Nhưng tôi khước từ. Tôi bảo anh là tôi muốn được một mình.
Oshima vuốt lại mớ tóc rủ xuống trán. Sau một chút do dự, anh nói, "Mình biết mình chỉ là một con ái nam ái nữ rách nát vô vọng và nếu đó là điều làm cậu e ngại thì..."
"Không," tôi nói, "tuyệt nhiên không phải thế. Em chỉ cần được một mình ít lâu để suy nghĩ thôi. Quá nhiều điều đã xảy ra cùng một lúc. Có vậy thôi."
Oshima ghi một số điện thoại trên một tập giấy nhắn. "Nửa đêm, nếu cậu cảm thấy muốn trò chuyện với ai, thì gọi số này. Đừng ngần ngại nhé. Mình tỉnh ngủ lắm."
Tôi cảm ơn anh.
Đêm ấy, tôi đã thấy một con ma.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:43:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 22


Chiếc xe tải cho Nakata quá giang tới Kobe, ngay sau năm giờ sáng. Ngoài trời đã sáng, nhưng nhà kho vẫn đóng cửa nên chưa thể dỡ hàng được. Họ đậu xe trong một con phố rộng gần cảng và ngủ đỡ một giấc. Gã tài xế trẻ nằm dài trên ghế sau, nơi gã vẫn thường ngả lưng, và chẳng mấy chốc đã ngáy như sấm. Tiếng ngáy của gã đôi khi làm Nakata thức giấc, song lần nào lão cũng ngủ lại ngon lành. Mất ngủ là một hiện tượng xa lạ đối với Nakata.
Trước tám giờ một chút, gã lái xe ngồi dậy, ngoác miệng ngáp thật to. “Này, ông có đói không, ông nội?”. Gã đang cạo mặt bằng một cái dao cạo điện, dùng kính chiếu hậu làm gương.
“Nhắc đến mới nhớ, phải, Nakata có hơi đói.”
“Vậy ta hãy đi kiếm tí gì lót dạ đi.”
Từ lúc rời Fujigawa cho đến lúc tới Kobe, phần lớn thời gian Nakata chỉ ngủ. gã tài xế trẻ hầu như cũng im lặng suốt, chỉ vừa lái vừa nghe một chương trình phát thanh khuya. Thi thoảng, gã hát theo đài những bài Nakata chưa từng nghe bao giờ. Lão thậm chí không chắc những bài đó có phải bằng tiếng Nhật hay không, vì lão hầu như không hiểu lời ca nói gì, họa hoằn mới nghe rõ một chữ. Lão lấy trong túi bố ra gói cơm nắm và sô-cô-la, quà của các cô gái ở Shinjuku, chia cho gã.
Gã này hút thuốc lá liên tục, điếu này nối điếu kia, nói rằng điều đó giúp cho mình tỉnh táo, thành thử khi tới Kobe, quần áo của Nakata đã sực mùi khói thuốc.Tay xách túi và ô, Nakata khệ nệ xuống xe.
“Ông nên để những thứ này trong xe thì hơn,” gã tài nói. “Chúng ta sẽ không đi xa và ăn xong một cái là về ngay thôi mà.”
“Vâng, cậu nói chí phải, cơ mà Nakata này mang nó theo thì yên tâm hơn.”
Gã nhíu mày. “Thế nào cũng được. Mấy lại cháu đâu có phải mang vác nó. Tùy ông thôi.”
“Cám ơn cậu.”
“Tiện thể xin nói để ông biết tên cháu là Hoshino. Viết giống như tên cựu huấn luyện viên của đội Chunichi Dragons ấy. Nhưng cháu không phải là bà con họ hàng gì với ông ta đâu.”
“Cậu Hoshino ư? Rất hân hạnh. Tên lão là Nakata.”
“Cái đó thì cháu biết rồi. Đi nào,” Hoshino nói.
Gã thông thạo khu này và sải bước dọc con phố khiến Nakata gần như phải chạy lon ton mới theo kịp. Cuối cùng họ vào một tiệm ăn nhỏ ở một ngõ hẻm, ngồi cùng các lái xe tải khác và các công nhân bốc dỡ ở bến tàu. Không thấy một chiếc cà vạt nào. Tất cả đều lặng lẽ xúc lấy xúc để món điểm tâm của mình như thể đang đổ đầy bình xăng của xe. Cửa hàng đầy những tiếng thìa bát lách cách, tiếng cô hầu bàn hô truyền xuống nhà bếp tên các món thực khách gọi, tiếng đọc bản tin sáng từ một chiếc tivi đặt trong góc.
Hoshino chỉ tờ thực đơn dán trên tường. “Ông nội thích món gì thì cứ gọi. Ở đây vừa rẻ vừa ngon.”
“Được, Nakata nói và theo lời gã, nhìn trân trân vào bảng thực đơn cho đến khi lão nhớbiết đọc. “Xin lỗi cậu Hoshino, Nakata này không được sáng dạ và không biết đọc.”
“Thật thế không?” Hoshino ngạc nhiên hỏi. “Không biết đọc? Thời buổi này đó là chuyện hiếm. Nhưng không sao. Cháu chọn cá nướng với trứng ốp-lết, ông cũng thế nhé?”
“Nghe hay đấy. Cá nướng với ốp-lết là một trong những món ưa thích của Nakata này.”
“Tốt.”
“Lão cũng rất thích lươn.”
“Thế à? Cháu cũng thích lươn. Nhưng lươn không phải là món lót dạ buổi sáng.”
“Đúng. Mấy lại tối qua, Nakata này vừa ăn lươn rồi, cậu Hagita đã đãi lão.”
“Tốt,” Hoshino lại tán thưởng. “Hai cá nướng với ốp-lết!” gã gọi to cho cô hầu bàn. “Một cho nhiều cơm vào nhé!”
“Hai cá nướng với ốp-lết, một nhiều cơm!” cô hầu bàn lớn tiếng hô truyền vào nhà bếp.
“Không biết đọc có phiền không ông nội?” Hoshino hỏi.
“Có chứ, đôi khi lão đến khổ vì không biết đọc. chừng nào còn ở quận Nakano trong Tokyo thì còn không đến nỗi tệ, nhưng nếu đi đâu khác như bây giờ thì rất gay.”
“Cháu đoán thế. Kobe cách Tokyo xa lắm.”
“Nakata này không biết đâu là Bắc, đâu là Nam, chỉ biết bên nào là trái, bên nào là phải, nên dễ bị lạc lắm. Lão lại không biết mua vé nữa.”
“Thế mà ông đi đến tận đây được, thật không thể tin nổi.”
“Có nhiều người tốt sẵn lòng giúp lão. Cậu cũng ở trong số đó, cậu Hoshino. Lão không biết cám ơn cậu thế nào cho vừa.”
“Dù sao, không biết đọc cũng thật là gay. Ông cháu tuy lẫn cẫn nhưng vẫn đọc được tốt.”
“Lão thuộc loại đần đặc biệt.”
“Gia đình ông ai cũng thế sao?”
“Không. Anh trai lão là chưởng buồng ở một sở gọi là Itô-tru, còn em trai lão làm việc ở Bộ Xương mại.”
“Oao!” Hoshino nói. “Toàn trí thức cả. Vậy chỉ có mình ông là hơi ‘nghiêng’ thôi à?”
“Phải, chỉ có Nakata này bị tai nạn và không sáng dạ thôi. Vì thế mà mọi người luôn dặn lão đừng có ra ngoài nhiều kẻo gây rắc rối cho anh trai, em trai, cháu trai cháu gái lão.”
“Phải, cháu chắc hầu hết đều thấy bối rối khi có một người như ông thình lình xuất hiện.”
“Những cái đó thì lão không hiểu, nhưng lão biết rằng chừng nào còn ở trong quận Nakano thì lão không lạc. Ngài Tỉnh trưởng giúp đỡ lão và lão hòa hợp với bọn mèo. Mỗi tháng lão cắt tóc một lần và thi thoảng, lão ăn một chầu lươn. Nhưng sau chuyện Johnnie Walker, Nakata này không thể ở lại quận Nakano nữa.”
“Johnnie Walker?”
“Phải. Hắn ta đi ủng, đội một cái mũ đen cao thành, mặc áo đuôi tôm và cầm can. Hắn ta bắt mèo gom lại để lấy hồn bọn nó.”
“Thôi nào...” Hoshino nói. “Cháu nghe kể lể dài dòng sốt ruột lắm. tóm lại, đã xảy ra chuyện gì khiến ông phải bỏ Nakano mà đ
“Đúng. Lão đi khỏi Nakano.”
“Vậy ông đi đâu?”
“Nakata chưa biết. Nhưng sau khi tới đây, lão biết là phải qua một cái cầu. Một cái cầu lớn gần đây.”
“À, vậy ông đi Shikoku.”
“Cậu Hoshino, lão xin lỗi, lão mù tịt về địa lý. Đi qua cầu là đến Shikoku à?”
“Phải. Nếu ông nói cây cầu to gần đây, thì đó là cầu ra đảo Shikoku. Thực ra là có những ba cái cơ. Một cái từ Kobe qua đảo Awaji dẫn đến Tokushima. Một cái ở mé dưới Kurashiki bắc sang Sakaide. Và một cái nữa nối Onomichi với Imabari. Kể ra chỉ một cây cầu cũng đủ chán, cơ mà các nhà chính trị cứ chõ mũi vào, thành thử có những ba cái. Thật điển hình là những dự án lấy tiền Nhà nước để giành phiếu bầu!”
Hoshino đổ chút xíu nước lên mặt bàn bằng nhựa, lấy đầu ngón tay vẽ phác bản đồ Nhật Bản, chỉ ba cây cầu nối Honshu với Shikoku.
“Ba cái cầu ấy có to thật không?” Nakata hỏi.
“To tổ bố.”
“Thật à? Dù sao Nakata này cũng sẽ đi qua một cái. Có lẽ là cái nào gần nhất. Sau đó, lão sẽ nghĩ ra phải làm gì.”
“Có nghĩa là ông không có bạn bè, bà con gì ở nơi ông đang nhằm đến?”
“Không, Nakata này chẳng quen biết ai ở đó cả.”
“Ông chỉ qua cầu đến Shikoku rồi lại đi tiếp đến một n?”
“Đúng thế.”
“Và ông không biết nơi khác đó là ở đâu?”
“Hoàn toàn không. Cơ mà cứ đến đó rồi khắc biết, lão nghĩ thế.”
“Chu cha!” Hoshino nói. Gã vuốt tóc, chỉnh lại cái bím đuôi ngựa rồi đội chiếc mũ cầu thủ Chunichi Dragons lên đầu.
Thức ăn bưng ra, họ bắt đầu ăn.
“Ốp-lết ngon đấy chứ ông?” Hoshino hỏi.
“Vâng, rất ngon. Vị của nó khác với món ốp-lết lão vẫn ăn ở Nakano.”
“Là vì nó được làm theo kiểu Kansai. Khác hẳn cái thứ bèn bẹt vô vị giả danh ốp-lết ở Tokyo.”
Hai người lặng lẽ thưởng thức bữa sáng gồm có ốp-lết, cá thu muối nướng, xúp trai miso, củ cải đỏ ngâm, rau dền ướp gia vị, rong biển. vét sạch không sót một hạt cơm. Nakata nhai thật kỹ, mỗi miếng đúng ba mươi hai lần trước khi nuốt, thành thử khá lâu mới xong bữa.
“Đủ chưa, ông nội Nakata?”
“Đã đời. Còn cậu thế nào, cậu Hoshino?”
“Cả cháu cũng no căng. Đả một bữa điểm tâm ngon lành như thế này, tinh thần lên phơi phới, phải không ông?”
“Phải, nhất định rồi.”
“Thế nào? Có toa-lét cái không?”
“Cậu nhắc, lão mới thấy mót.
“Vậy thì đi đi. Nhà vệ sinh đằng kia kìa.”
“Còn cậu, cậu Hoshino?”
“Cháu đi sau. Cháu nhẩn nha tí đã.”
“Cám ơn. Nakata này đi tháo bụng một cái đây.”
“Này, đừng nói to thế. Mọi người còn đang ăn kia kìa.”
“Xin lỗi, Nakata này chẳng sáng dạ tí nào.”
“Không sao. Ông cứ đi đi.”
“Tiện thể, lão đánh răng luôn, có được không?”
“Được. Ông đi đi. Chúng ta còn thời gian mà. Ông muốn làm gì thì làm. Cơ mà cháu nghĩ ông chẳng cần mang cái ô này theo làm gì. Ông chỉ đi cầu thôi mà, phải không nào?”
“Thôi được. Lão để cái ô này lại.”
Khi Nakata quay về, Hoshino đã thanh toán xong xuôi.
“Cậu Hoshino, lão có tiền mà, chí ít cũng xin cậu để lão trả bữa điểm tâm này.”
Hoshino lắc đầu. “Có gì đâu, cháu còn nợ ông khối. Hồi ấy cháu phá lắm.”
“Lão hiểu. Cơ mà lão đâu phải là ông của cậu.”
“Đó là vấn đề của cháu, vậy nên ông đừng băn khoăn. Không tranh cãi nữa, được không? Cứ để cháu đãi ông.”
Nghĩ một lúc, Nakata quyết định chấp nhận lòng hào hiệp của gã lái xe. “Vậy thì cám ơn cậu nhiều. Quả là một bữa ăn tuyệt vời.”
“Dào, có mấy miếng cá thu với ốp-lết ở một tiệm ăn ba xu ấy mà. Đâu cần phải cúi đầu cảm ơn thế.”
“Cơ mà cậu biết đấy, cậu Hoshino, từ khi Nakata này rời Nakano, ai ai cũng đầy hảo tâm với lão đến nỗi lão hầu như chưa phải tiêu đồng nào.”
“Tuyệt,” Hoshino nói, thán phục.
Nakata nhờ một cô hầu bàn rót đầy trà nóng vào chiếc phích nhỏ của mình rồi thận trọng đặt nó trở lại trong túi bố. Quay trở về chỗ đậu xe, Hoshino hỏi, “Vậy còn chuyện đi Shikoku thế nào?”
“Dạ?” Nakata nói.
“Tại sao ông muốn đến đó?”
“Lão không biết.”
“Ông không có mục đích cụ thể, thậm chí không biết mình đến đâu, vậy mà ông vẫn muốn đi Shikoku?”
“Đúng thế. Nakata này phải đi qua một cây cầu to.”
“Sự thể sẽ sáng tỏ hơn khi ông sang đến bờ bên kia, phải không?”
“Lão nghĩ vậy. Chừng nào chưa qua cầu, lão còn chưa biết gì hết.”
“Hmm,” Hoshino nói. “Vậy việc qua cầu là rất quan trọng.”
“Phải, việc đó quan trọng hơn bất cứ cái gì.”
“Đến là lạ,” Hoshino vừa nói vừa gãi đầu.
Vì phải lái xe đến kho để giao lô hàng đồ gỗ, Hoshino bảo Nakata cờ gã ở một công viên nhỏ gần cảng.
“Ông chớ có đi khỏi đây nhé!” Hoshino dặn. “Có một nhà vệ sinh ở đằng kia và một vòi nước. Ông đã có mọi thứ ông cần. Ông mà lang thang đâu đó thì có thể không tìm thấy đường về đâu.”
“Lão hiểu. Lão không còn ở trong quận Nakano nữa.”
“Chính xác. Đây không phải là Nakano. Vậy hãy ngồi yên, cháu sẽ quay về rất sớm thôi.”
“Được. Lão sẽ ở nguyên đây.”
“Tốt. Giao hàng xong một cái là cháu sẽ về ngay.”
Nakata y theo lời dặn, không rời khỏi ghế, thậm chí đi vệ sinh cũng không. lão thấy việc ngồi gí một chỗ hồi lâu chả khó khăn gì. Thực tế, ngồi yên chính là chuyên môn của lão.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:44:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 22 (tiếp)


Từ chỗ lão ngồi, có thể thấy biển. Đã rất lâu rồi, lão không thấy biển. Hồi nhỏ, Nakata đã cùng gia đình đi nghỉ ở bờ biển bao lần, mặc quần bơi, vùng vẫy ở quanh bờ, lượm vỏ ốc khi nước triều xuống. Những kỷ niệm ấy nay đã nhạt nhòa, như chuyện xảy ra từ kiếp trước. Từ đó đến nay, lão chưa một lần thấy lại biển, ít nhất thì theo trí nhớ của lão.
Sau cái sự kiện kỳ lạ trên đồi Yamanashi, Nakata trở lại trường ở Tokyo. Cậu bé giờ đây đã bình phục về mặt thể chất, ý thức đã trở lại, nhưng bộ nhớ đã bị xóa sạch, không bao giờ phục hồi được khả năng đọc và viết nữa. Vì không đọc được sách giáo khoa, cậu không thể qua được bất kỳ đợt trắc nghiệm nào. Tất cả kiến thức học được cho tới khi đó đều tan biến cũng như khả năng suy nghĩ trừu tượng. Tuy nhiên, nhà trường vẫn để cậu học đến hết cấp. Không theo dõi được những gì cô giáo giảng, cậu ngồi lặng lẽ ở một góc trong lớp. Khi cô giáo bảo làm gì, Nakata tuân thủ triệt để lời cô dặn đến từng chữ. Cậu không làm rầy ai, nên các thầy cô có khuynh hướng quên hẳn sự hiện diện của cậu. Cậu giống một vị “khách” dự thính hơn là một gánh nặng.
Chẳng bao lâu, người ta đâm quên rằng trước khi xảy ra tai nạn, cậu luôn luôn được điểm cao trong lớp. Nhưng giờ đây mọi hoạt động của trường đều không có cậu tham gia. Cậu không có bạn. Tuy nhiên, tất cả những cái đó không làm cậu buồn phiền. Thui thủi một mình có nghĩa là tha hồ chìm đắm trong thế giới riêng nhỏ bé của mình. Điều cuốn hút cậu nhất ở trường là chăm sóc đàn thỏ và dê của nhà trường, tưới tỉa các vạt hoa và quét dọn lớp. Một nụ cười luôn luôn nở trên môi, cậu làm những công việc đó không bao giờ biết mệt.
Cả ở nhà, cậu cũng bị quên đứt. Một khi biết rằng đứa con trai đầu của mình mất khả năng đọc chữ và không theo được bài giảng ở lớp, cha mẹ Nakata – vốn chỉ tập trung toàn tâm toàn ý vào việc học của con cái – liền bỏ rơi cậu và chuyển sự chú ý sang những đứa em. Không thể học tiếp lên trung học, cho nên vừa hết cấp sơ học, Nakata liền bị gửi về quê ngoại, tỉnh Nagano, ở với ông bà ngoại. Tại đây, cậu được đưa vào một trường nông nghiệp. Vì vẫn không biết đọc, cậu học rất vất vả, nhưng cậu yêu thích công việc đồng áng. Thậm chí lẽ ra cậu đã có thể trở thành một nông dân nếu như các bạn cùng lớp không hành hạ cậu đến thế. Chúng gây cho cậu những vết thương nặng (có lần rách cả tai) đến nỗi ông bà ngoại phải rút cậu khỏi trường và giữ cậu ở nhà để giúp công việc nhà. Nakata là một chú bé lặng lẽ, vâng lời, được ông bà ngoại rất thương yêu.
Chính vào thời gian này, cậu đã phát hiện ra là mình có khả năng nói chuyện với mèo. Ông bà cậu có nuôi mấy con mèo trong nhà và Nakata trở thành bạn thân của chúng. Thoạt đầu, cậu chỉ nói được một số từ, nhưng rồi cậu cố gắng trau dồi như thể học ngoại ngữ và chẳng bao lâu đã có thể nói chuyện dài dài với chúng. Hễ rảnh rỗi là cậu lại ra ngồi ngoài hiên, trò chuyện với mèo. Chúng dạy cho cậu nhiều điều về thiên nhiên và thế giới xung quanh. Thực tế, hầu hết những kiến thức cơ bản về thế giới mà Nakata nắm được là do các bạn mèo của cậu dạy.
Năm mười lăm tuổi, cậu được gửi đến một công ty đồ gỗ gần nhà để học việc. Đó là một xưởng nhỏ chế tác các đồ gỗ thủ công thì đúng hơn một nhà máy. Bàn, ghế và tủ làm ra được chở bằng đường thủy đến Tokyo. Nakata đâm yêu công việc làm gỗ. Ông chủ rất mến cậu vì cậu rất khéo tay, không bao giờ bỏ sót một chi tiết nhỏ nào, tính tình trầm lặng ít nói và tuyệt không bao giờ kêu ca phàn nàn. Đọc bản vẽ hay bổ sung con số không phải là thế mạnh của cậu, nhưng ngoài những nhiệm vụ đó ra, cậu làm tốt tất cả những gì cậu bắt tay vào. Một khi đã nắm được các bước chế tác, cậu có thể lặp lại quy trình đó vô số lần không biết mệt. Sau hai năm học việc, cậu được vào làm chính thức.
Nakata làm ở đó đến khi ngoài năm mươi, không để xảy ra bất cứ sự cố nào, không một lần nghỉ ốm. Lão không uống rượu, không hút thuốc, không thức khuya, không ăn quá độ. Lão không bao giờ xem tivi và chỉ bật đài để nghe chương trình thể dục buổi sáng. Ngày lại ngày, lão chỉ ra công làm đồ gỗ. Ông bà và cha mẹ lão thay nhau qua đời. Mọi người đều mến lão, tuy nhiên lão không có ai là bạn thân thiết. Có lẽ đó cũng là tất nhiên thôi. Phần lớn, khi bắt chuyện với Nakata, chỉ sau mươi phút là không còn gì để nói nữa.
Tuy vậy, lão không bao giờ cảm thấy cô đơn hoặc bất hạnh. Lão không bao giờ cảm thấy thèm muốn tình dục hoặc thậm chí muốn có ai bên cạnh mình. Lão hiểu mình khác mọi người. Lão nghĩ bóng của lão đổ trên mặt đất nhạt hơn, nhẹ hơn bóng những người khác, mặc dầu không ai nhận thấy điều này. Duy nhất, chỉ có lũ mèo thực sự hiểu lão. Kỳ lạ thay, với chúng, lão không bao giờ cạn chuyện để nói.
Ông chủ công ty đồ gỗ qua đời khi Nakata năm mươi hai tuổi và sau đó ít lâu, xưởng đồ gỗ đóng cửa. Cái loại đồ gỗ cổ truyền màu đen ảm đạm ấy bán không chạy như trước nữa. Tất cả các nghệ nhân đều đã già và lớp trẻ không ai thiết học nghề này nữa. Xưởng gỗ, ban đầu ở giữa cánh đồng, nay bốn bề là những nhà mới xây và người ta bắt đầu kêu ca về tiếng ồn và khói khi đốt phoi bào. Con trai ông chủ làm việc trên tỉnh cho một hãng kế toán, không muốn nối nghiệp cha, nên khi ông cụ vừa mất, là bán luôn tất cả cho một người kinh doanh bất động sản. Sau khi dỡ bỏ xưởng, khu đất đã san bằng được bán cho một chủ thầu phát triển chung cư, người này xây trên đó một ngôi nhà sáu tầng. Tất cả các căn hộ ở đây, ngay hôm đầu rao bán, đã có người mua.
Thế là Nakata mất việc. Công ty có những khoản nợ lớn phải trả, nên lão chỉ được một số tiền hưu còm cõi. Sau đó lão không kiếm được việc làm nào khác. Ai hơi đâu đi thuê một lão già ngoài năm mươi mù chữ, chỉ có độc một ngón nghề chế tác những đồ gỗ cổ mà chẳng ai cần đến nữa?
Nakata đã làm việc liên tục ở xưởng suốt ba mươi bảy năm trời không nghỉ lấy một ngày nên cũng có một số tiền tiết kiệm kha khá ở bưu điện địa phương. Nói chung lão tiêu pha rất ít cho bản thân, cho nên dù không kiếm được việc làm mới, lẽ ra lão cũng vẫn có thể an hưởng tuổi già bằng khoản tiền tiết kiệm đó. Vì lão không biết đọc biết viết, một người em họ làm ở tòa thị chính giúp lão quản lý tài khoản ở bưu điện. Là một người tốt bụng nhưng thiếu nhạy bén với thời cuộc, người em họ này đã bị một tên mối lái nhà đất vô lương tâm lừa phỉnh đầu tư vào một dự án nhà cho thuê tại một khu thể thao mùa đông và cuối cùng đâm nợ lút đầu. Vào quãng thời gian Nakata mất việc, người em họ này biến mất cùng cả gia đình để trốn các chủ nợ. Hình như một số chủ nợ thuộc dạng mafia đã truy tìm ông ta. Không ai biết gia đình đó hiện ở đâu, hay thậm chí có còn sống hay không.
Khi Nakata nhờ một người quen đưa đến bưu điện để kiểm tra số dư, lão phát hiện ra là chỉ còn mấy nghìn yen trong tài khoản. Cả món lương hưu được nhập thẳng vào tài khoản, cũng đã biến mất. Chỉ có thể nói là Nakata hết sức đen đủi – đã mất việc lại thêm trắng tay. Bà con họ hàng đều thương lão nhưng họ cũng đều lạ nạn nhân của vụ này do đã cho ông em họ trứ danh kia vay tiền hoặc đem tài sản thế chấp giúp ông ta. Thành thử, không một ai có khả năng giúp Nakata trong cơn hoạn nạn.
Cuối cùng, một trong hai em trai Nakata, người kế ngay sau lão, quyết định đưa lão về Tokyo ở tạm với mình để tiện chăm nom. Ông có một ngôi nhà ở Nakano phân làm nhiều căn để cho những người độc thân thuê – phần thừa kế của ông từ tài sản của cha mẹ - và ông dành một căn cho anh trai. Ông cũng quản lý giúp khoản tiền không lớn lắm mà cha mẹ họ để lại cho Nakata theo di chúc và xoay xở xin được cho lão một trợ cấp của Tòa Thị chính Tokyo. Đó là tất cả những gì ông có thể làm cho Nakata. Tuy mù chữ, nhưng Nakata vẫn có thể tự mình lo liệu những nhu cầu thường nhật, và chừng nào tiền nhà không phải trả, lão có thể xoay xỏa đâu vào đấy.
Hai người em trai rất ít tiếp xúc với lão. Họ gặp lão vài lần khi lão mới trở về Tokyo và chỉ thế thôi. Họ đã sống riêng biệt hơn ba mươi năm và cung cách sống của họ hoàn toàn khác. Cả hai đều không có tình cảm đặc biệt gì với lão, vả lại họ quá bận bịu với con đường hoạn lộ của mình, làm gì có thì giờ để chăm sóc một ông anh thiểu năng trí tuệ.
Nhưng sự đối đãi lạnh nhạt của các em trai không làm Nakata phiền lòng. Lão ở một mình đã quen và thực tế, lão lại căng thẳng khi người ta cố tỏ ra ân cần với lão. Lão cũng không hề nổi giận khi ông em họ phá tán món tiền dành dụm cả đời của lão. Cố nhiên, lão hiểu chuyện xảy ra như thế là đáng tiếc, nhưng cả vụ đó cũng không làm lão thất vọng. Nakata không có khái niệm gì về một “khu thể thao mùang”, cũng chả biết “đầu tư” nghĩa là gì, hoặc việc “vay nợ” phức tạp như thế nào. Lão sống trong một thế giới khoanh lại bởi một vốn từ vựng rất hạn chế.
Lão chỉ hiểu được ý nghĩa của một khoản tiền không quá năm nghìn yen. Quá mức ấy – mười nghìn, một trăm nghìn hay một triệu yen – đối với lão cũng thế cả mà thôi, chẳng khác gì nhau. Đều là “vô khối” tiền cả. Lão đã từng có tiền gửi tiết kiệm, nhưng lão chẳng nhìn thấy nó bao giờ. Họ chỉ bảo lão: “Bác có từng này, từng này trong tài khoản”, và con số đó đối với lão hoàn toàn là một khái niệm trừu tượng. Cho nên khi nó biết hết, lão không hề có cảm giác là mình đã thực sự mất một cái gì.
Như vậy, Nakata sống một cuộc sống mãn nguyện trong căn hộ nhỏ do em trai dành cho, hàng tháng nhận trợ cấp, sử dụng chiếc thẻ đi xe buýt miễn phí, thường xuyên ra công viên trong khu chuyện gẫu với lũ mèo. Cái góc nhỏ ấy của quận Nakano trở thành thế giới mới của lão. Giống như chó và mèo, Nakata phân định lãnh thổ của mình, một đường ranh giới mà ngoại trừ trường hợp đặc biệt, lão không bao giờ mạo hiểm vượt qua. Chừng nào còn ở trong phạm vi lãnh thổ đó, lão còn cảm thấy an toàn và hài lòng. Không bất mãn, không giận dữ với cái gì. Không cảm thấy cô đơn, lo âu về tương lai, hoặc băn khoăn về cuộc sống khó khăn hay bất tiện. Ngày lại ngày, suốt hơn mười năm, cuộc đời lão cứ thế trôi, thong dong hưởng bất cứ cái gì đến với mình.
Cho tới ngày Johnnie Walker xuất hiện.
Đã nhiều năm Nakata không thấy biển, vì ở tỉnh Nagano cũng như quận Nakano, đều không có biển. Giờ đây, lần đầu tiên, lão nhận ra rằng mình đã quên bẵng biển lâu đến thế. Lão thậm chí không hề nghĩ đến nó suốt trong ngần ấy năm trời. Lão gật đầu lia lịa với chính mình, xác nhận sự thực ấy. Lão bỏ mũ, đưa tay xoa xoa cái đầu húi cua, đội mũ trở lại và đăm đăm nhìn ra biển. Lão chỉ biết về biển đến chừng này thôi: nó rất lớn, nó mặn vị muối và cá sống trong nó.
Lão ngồi đấy trên chiếc ghế băng, hít cái mùi thơm nồng của biển, nhìn những con hải âu lượn vòng trên đầu, hướng mắt ra những con tàu bỏ neo ngoài cảng. Lão ngắm hoài quang cảnh đó không biết mệt.
Thi thoảng một con hải âu trắng muốn sà xuống đậu trên lớp cỏ tươi đầu hạ của công viên. Cái mầu trắng trên nền xanh lục ấy thật đẹp. Nakata thử gọi con hải âu khi nó bước đi trên cỏ, nhưng nó không trả lời mà chỉ lạnh lùng nhìn lão. Quanh đây chẳng có con mèo nào. Những con vật duy nhất ở công viên lúc này là hải âu và chim sẻ. Trong khi lão nhấp từng ngụm nhỏ trà nóng từ chiếc phích, mưa bắt đầu lộp độp rơi và Nakata giương chiếc ô quý giá của mình lên.
Khi Hoshino quay về công viên trước mười hai giờ một chút, mưa đã tạnh. Gã thấy Nakata vẫn ngồi nguyên trên ghế băng y như lúc gã để lão lại đó, ô cụp lại, mắt nhìn ra biển. Hoshino đã đậu xe ở một chỗ nào đó và trở lại bằng taxi.
“Cháu xin lỗi đã để ông chờ lâu quá,” gã nói. Một chiếc túi nhựa cứ lủng lẳng từ nơi vai gã. “Cháu đã tưởng xong sớm hơn, nhưng lắm chuyện quá. Hình như kho hàng nào cũng có một thằng cha rách việc.”
“Nakata này không phiền đâu. Lão ngồi đây ngắm biển thôi mà.”
“Ừm,” Hoshino ậm ừ. Gã đưa mắt theo hướng nhìn của Nakata nhưng chỉ thấy một cầu tàu cũ kỹ xác xơ và váng dầu trên mặt nước.
“Đã lâu rồi lão chưa thấy biển.”
“Thật ư?”
“Lần cuối cùng là hồi còn học cấp một. Lão đếãi biển gọi là Enoshima.”
“Chắc là xa xưa lắm rồi nhỉ?”
“Hồi ấy, Nhật Bản bị Mỹ chiếm đóng. Bãi biển Enoshima đầy lính Mỹ.”
“Ông nói giỡn.”
“Không, lão không nói giỡn đâu.”
“Thôi nào,” Hoshino nói. “Nhật Bản không bao giờ bị Mỹ chiếm đóng.”
“Nakata này không biết rành rọt, nhưng Mỹ có những máy bay gọi là B-29. Chúng ném rất nhiều bom xuống Tokyo nên lão phải tản cư đến tỉnh Yamanashi, chính ở đấy, lão bị bệnh.”
“Thế à? Dù gì... Mà cháu đã bảo ông là cháu không thích những chuyện dài dòng văn tự. Thôi kệ, ta đi thôi. Việc giao hàng kéo dài hơn cháu tưởng, nếu ta cứ kề cà thì tối đến nơi bây giờ.”
“Chúng ta đi đâu?”
“Tất nhiên là đi Shikoku. Chúng ta sẽ qua cầu. Lúc nãy ông nói là ông đi Shikoku, phải không nào?”
“Vâng. Nhưng còn công việc của cậu thì sao?”
“Ông đừng lo. Khi cháu trở lại thì nó vẫn đấy, chạy đi đâu được. Cháu đã làm thêm bao nhiêu giờ và cháu đang nghĩ mình cũng nên nghỉ bù vài ngày. Nói thực tình, cháu cũng chưa bao giờ đến Shikoku. Âu cũng là dịp để xem nó ra sao. Mấy lại, ông không biết đọc, đúng không nào? Cho nên, có cháu đi cùng để giúp ông mua vé, có phải dễ dàng hơn nhiều không? Trừ phi ông không muốn cháu đi theo.”
“Không, có được cậu đi cùng thì Nakata này quá sướng.”
“Vậy thì ta cứế làm nhé. Cháu đã xem kỹ bảng giờ xe chạy. Nào, lên đường đi Shikoku!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:46:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23


Tôi không biết từ ma dùng ở đây có chính xác hay không, nhưng dứt khoát đây không phải là một cái gì trên cõi trần này - chỉ thoáng nhìn một cái tôi đã có thể khẳng định thế.
Tôi cảm thấy một cái gì đó và tôi choàng thức giấc, và kìa, cô ta đã ở đó. Đã nửa đêm nhưng căn phòng vẫn sáng lạ lùng, ánh trăng tràn vào qua cửa sổ. Tôi biết mình đã kéo rèm che trước khi đi ngủ, nhưng lúc này rèm đã mở toang. Bóng cô gái in rõ nét, ngập trong ánh trăng rợn một màu trắng của xương.
Cô ta trạc tuổi tôi, mười lăm, mười sáu gì đó. Tôi đoán là mười lăm. Giữa mười lăm và mười sáu tuổi, có một khác biệt rất lớn. Cô nhỏ người và thon thả, tư thế rất thẳng và không hề có vẻ mảnh mai.Tóc cô xõa ngang vai, với vài mớ rủ xuống trán. Cô mặc một chiếc áo váy màu xanh lơ, vạt xòe ra ngang đầu gối. Cô không đi giày dép gì cả. Cổ tay áo cài khuy gọn ghẽ. Chiếc áo hở vai phô ra một cái cổ rất đẹp.
Cô ngồi ở bàn giấy, tựa cằm vào lòng bàn tay, đăm đăm nhìn bức tường như đang nghĩ về một điều gì không quá phức tạp - có lẽ là một hồi ức ấm áp, thú vị chưa xa lắm. Thi thoảng, một nụ cười phảng phất ở khóe môi. Nhưng vì cô ngồi ngược sáng với ánh trăng, nên tôi không thể thấy rõ cụ thể sắc diện cô. Không muốn ngắt quãng cô, cho dù cô đang làm gì, tôi giả vờ ngủ, kìm hơi thở, cố không để cô nhận thấy.
Tôi dám chắc đây là ma. Trước hết, cô quá đẹp. Nét mặt cô rất lộng lẫy, nhưng không phải chỉ có thế. Mọi thứ nơi cô đều hoàn hảo đến mức ó có thể là thật. Cô giống như một người từ trong mơ bước ra. Cái trong trắng nơi sắc đẹ của cô đem lại cho tôi một cảm giác gần như là buồn - một cảm giác rất tự nhiên, tuy nhiên chỉ có thể gây nên bởi một cái gì phi thường.
Tôi cuộn mình trong chăn, nín thở. Cô vẫn ngồi ở bàn, tay chống cằm, hầu như không động đậy. Thỉnh thoảng, cằm cô hơi dịch đi, khiến đầu cô chuyển góc độ chút xíu, và đó là chuyển động duy nhất trong phòng. Tôi nhìn thấy cây sơn thù du lớn đang trổ hoa ngay ngoài cửa sổ, lặng lẽ lung linh trong ánh trăng. Trời ắng gió và tôi không nghe thấy một tiếng động nào. Cứ như là tôi đã chết mà không biết vậy. Tôi đã chết và cùng cô gái đó đã chìm xuống đáy một cái hồ ở miệng một núi lửa đã tắt.
Thình lình cô buông tay khỏi cằm, đặt lên lòng. Hai đầu gối trắng nhỏ nhắn lộ ra ở lai váy. Cô thôi nhìn vào tường và quay về phía tôi. Cô đưa tay lên sờ món tóc xõa xuống trán - những ngón tay con gái thon thả áp lên trán một lúc như thể cố moi ra một ý nghĩ bị lãng quên nào đó. Cô đang nhìn tôi. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, nhưng lạ thay, tôi không hề có cảm giác là có người nhìn mình. Có thể là cô không nhìn tôi, mà là nhìn một cái gì đó đằng sau tôi.
Ở đáy sâu cái-hồ-miệng-núi-lửa của chúng tôi, tất cả đều lặng tờ. Núi lửa đã tắt hàng bao đời rồi. Cô đơn chồng chất nhiều tầng như những lớp bùn mềm nhão. Chút xíu ánh sáng lọt xuống được độ sâu này soi lờ mờ mọi thứ xung quanh như tàn dư của một kỷ niệm thoi thóp, xa vời. Ở độ sâu này, không có dấu hiệu nào của sự sống. Tôi không biết cô nhìn tôi bao lâu - không phải nhìn tôi, mà có thể là nhìn vào chỗ tôi đang nằm. Quy luật của thời gian không áp dụng ở đây. Thời gian dãn ra hay co vào đều ứng hợp theo nhịp đập của trái tim[8].
Thế rồi, đột nhiên, cô gái đứng dậy và đi về phía cửa trên đôi chân thon mảnh. Cửa vẫn đóng, mà thoắt cái cô biến mất không một tiếng động.
Tôi nằm yên trên giường. Tôi chỉ hơi hé mắt và không động đậy một cơ nào. Tôi nghĩ cô ta có thể quay lại. Tôi nhận ra mình đang muốn cô ta quay lại. Nhưng cho dù tôi có chờ đến bao lâu, cô cũng không trở lại. Tôi ngóc đầu lên, nhìn những con số dạ quang trên mặt đồng hồ báo thức để kề đầu giường: ba giờ hai mươi lăm phút. Tôi ra khỏi giường, đi tới sờ vào chiếc ghế cô vừa ngồi. Chẳng thấy ấm chút nào. Tôi kiểm tra mặt bàn, hy vọng tìm thấy một cái gì - một sợi tóc chẳng hạn? - cô để vương lại. Nhưng chẳng có gì hết. Tôi ngồi xuống ghế, lấy lòng bàn tay xoa má và thở dài đánh thượt một cái.
Tôi kéo rèm và lại chui vào chăn, nhưng không sao ngủ lại được. Đầu óc tôi quá vương vấn với cô gái bí hiểm đó. Một cái gì mạnh mẽ không giống bất kỳ cảm giác nào tôi từng trải nghiệm, một cái gì lạ kỳ, dữ dội nảy sinh trong tim tôi, bắt rễ tại đó và lớn dần lên. Bị nhốt trong lồng ngực, trái tim nồng ấm của tôi cứ phình ra, co vào liên hồi, độc lập với ý muốn của tôi.
Tôi bật đèn, ngồi dậy trên giừơng chờ bình minh. Tôi không thể đọc, cũng không thể nghe nhạc. Không thể làm bất cứ điều gì, ngoại trừ ngồi đó chờ sáng. Cuối cùng, khi trời bắt đầu rạng, tôi ngủ thiếp đi được một tí. Lúc tỉnh dậy, tôi thấy chiếc gối lạnh và đẫm nước mắt. Nhưng thật tình, tôi không biết tại sao mình lại khóc.
Khoảng chín giờ, Oshima lái chiếc Miata tới và chúng tôi cùng dọn dẹp chuẩn bị mởa cửa thư viện. Sau khi làm xong mọi việc, tôi pha cho anh một tách cà phê. Anh đã dạy tôi pha sao cho đúng cách. Phải xay hạt cà phê bằng cối xay tay, đun nước trong một cái bình có vòi, để nó sôi một lúc, rồi từ từ - xin nhớ là phải từ từ - rót nước qua một cái lọc bằng giấy. Khi cà phê đã pha xong, Oshima cho thêm một tí ty đường gọi là có, nhưng không lấy kem - anh khẳng định đó là cách tốt nhất. Tôi pha cho mình một ly trà Earl Grey.
Oshima mặc một chiếc sơ mi ngắn tay màu nâu bóng và một chiếc quần lanh trắng. Rút một chiếc khăn tay mới tinh từ trong túi ra lau kính, anh quay sang tôi.
"Trông cậu có vẻ không ngủ được mấy."
"Em muốn yêu cầu anh một điều," tôi nói.
"Nói đi."
"Em muốn nghe bài Kafka bên bờ biển. Anh có kiếm được đĩa không?"
"Không nhất thiết là đĩa CD chứ?"
"Nếu có thể, em muốn nghe qua đĩa nhựa để nghe được tiếng nguyên gốc. Tất nhiên, như vậy dù phải kiếm thêm cả máy quay đĩa nữa."
Oshima áp ngón tay vào thái dương, suy nghĩ. "Có thể trong kho còn một cái quay đĩa stereo, nhưng mình không chắc nó còn chạy được không."
Chúng tôi vào một phòng nhỏ trông ra bãi đậu xe. Phòng không có cửa sổ, chỉ có một cửa trời trên mái. Khắp phòng ngổn ngang những vật dụng thuộc nhiều thời kỳ khác nhau - đồ gỗ, bát đĩa, báo ảnh, quần áo, tranh... Trong đó, một số rõ ràng là đồ quý, nhưng phần lớn chẳng đáng giá gì.
"Một ngày nào đó, chúng ta cũng phải thải bớt cái mớ đồng nát này thôi," Oshima nhận xét, "nhưng chưa ai đủ can đảm để dọn dẹp."
Ở giữa phòng, nơi thời gian dường như ngưng lại, chúng tôi tìm tháy một dàn stereo Sansui. Dưới một lớp bụi mỏng trăng trắng, dàn máy có vẻ còn tốt, tuy thời kỳ nó được coi là thiết bị nghe tối tân đã qua đi hơn hai mươi năm rồi. Cả dàn gquay đĩa, một ăm li và hai loa thùng. Chúng tôi cũng thấy một bộ đĩa 33 cũ, phần lớn là nhạc pop hồi những năm 60 - The Beatles, Stones, Beach Boys, Simon & Garfunkel, Setvie Wonder, cả thảy độ ba mươi đĩa. Tôi rút mấy cái ra khỏi bao. Chủ của những đĩa này đã bảo quản rất tốt: không chút vẩn mốc hay một vết xước nào.
Trong kho còn có cả một cây ghi-ta còn nguyên dây, một chồng họa báo cũ mà tôi chưa nghe tên bao giờ và một chiếc vợt tennis kiểu cổ. Tất cả giống như tàn tích của một quá khứ chưa xa lắm.
"Mình nghĩ mọi thứ này vốn xưa thuộc về người bạn trai của Miss Saeki," Oshima nói. "Như mình đã nói, sinh thời, ông ở ngôi nhà này. Sau khi ông mất, chắc người ta chuyển đồ của ông xuống đây. Tuy nhiên, dàn âm thanh stereo thì có vẻ gần đây hơn."
Chúng tôi khuân dàn âm thanh và lô đĩa về phòng tôi, phủi sạch bụi, cắm điện, nối máy quay đĩa với ăm li, và bật máy. Chấm xanh nhỏ ở ăm li sáng lên và mâm xoay bắt đầu quay. Tôi kiểm tra đầu đọc, thấy kim còn tốt, và lấy ra chiếc đĩa màu đỏ Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band đặt lên mâm xoay. Đoạn dạo đầu quen thuộc bằng ghi-ta vang lên. Chất lượng âm thanh sạch hơn tôi chờ đợi nhiều.
"Nhật Bản cũng vấp phải nhiều vấn đề, nhưng về mặt chế tác hệ thống âm thanh thì chúng ta vào loại thượng thặng," Oshima mỉm cười nói: "Cái này đã bỏ xó cả mấy chục năm rồi mà nghe vẫn oách."
Chúng tôi nghe đĩa Beatles đó một lúc. So với đĩa CD, nó tựa như một thứ âm nhạc hoàn toàn khác.
"Tốt, chúng ta đã có cái để nghe đĩa nhựa," Oshima kết luận, "nhưng kiếm một cái đĩa 45 ghi riêng bài Kafka bên bờ biển không dễ lắm đâu. Bây giờ đó là của hiếm đấy. Để mình hỏi mẹ mình xem. Có thể bà còn một bản dúi ở đâu đó. Hoặc ít nhất bà cũng biết ai đó có
Tôi gật đầu.
Oshima giơ một ngón tay lên như kiểu thầy giáo cảnh báo học trò. "Tuy nhiên có một điều cậu phải đảm bảo: không bao giờ mở đĩa ấy khi có Miss Saeki ở đây. Bất kể thế nào. Hiểu chưa?"
Tôi lại gật đầu.
"Như trong phim Casablanca ấy," anh nói và âm ư đoạn mở đầu của bài As Time Goes By. "Riêng bài ấy, chớ có mở đấy, nghe chưa?"
Tôi đánh liều thốt ra câu hỏi đang cháy bỏng trên môi [9].
"Oshima, có một điều em muốn hỏi anh. Có cô gái nào trạc mười lăm tuổi đến đây không?"
"Đây tức là thư viện, cậu muốn nói thế, phải không?"
Tôi gật đầu.
Oshima nghiêng đầu nghĩ một lát. "Theo mình biết thì không," vừa nói, anh vừa dõi mắt vào tôi như thể nhìn vào phòng qua cửa sổ. "Một câu hỏi kỳ lạ đấy".
"Em nghĩ là em vừa mới thấy cô ta."
"Lúc nào?"
"Đêm qua."
"Cậu thấy một cô gái mười lăm tuổi ở đây đêm qua?"
"Vâng."
"Một cô gái như thế
Tôi hơi đỏ mặt. "Một cô gái thông thường thôi. Tóc xõa ngang vai. Mặc một chiếc áo váy màu xanh lơ."
"Có xinh không?"
Tôi gật đầu.
"Có thể là một hoang tưởng tình dục," Oshima nói và nhoẻn miệng cười. "Thế giới đầy những sự kỳ dị. Nhưng với một thiếu niên tính dục khác giới lành mạnh như cậu, thì những hoang tưởng như vậy không phải là lạ".
Tôi nhớ lại là Oshima đã thấy tôi trần như nhộng ở căn nhà gỗ trên núi và càng đỏ dừ mặt.
Trong giờ nghỉ ăn trưa, Oshima lẳng lặng đưa tôi một đĩa nhựa Kafka bên bờ biển đựng trong một bao vuông, "Hóa ra mẹ mình hãy còn giữ được. Những năm bản cơ, cậu có tin không? Quả thật, bà chăm lo thu vén mọi thứ. Nhặt nhạnh các đồ vặt vãnh, hơi tủn mủn một chút, nhưng mình nghĩ chúng ta không nên phàn nàn về điều đó."
"Cám ơn," tôi nói.
Tôi về phòng và lấy chiếc đĩa ra khỏi bao. Nom nó như chưa bao giờ được chơi vậy. Trong tấm ảnh in trên bao, Miss Saeki (theo Oshima, hồi đó, cô mười chín tuổi) đang ngồi trước piano trong phòng thu. Mắt nhìn thẳng vào camera, cô tì cằm vào tay chống trên giá nhạc, đầu hơi nghiêng về một bên, một nụ cười rụt rè nhưng đầy vẻ tự nhiên, nhã nhặn nở rộng trên đôi môi mím lại, làm hằn rõ những nét dễ thương ở khóe miệng. Có vẻ như cô không son phấn gì cả. Một chiếc kẹp plastic giữ cho tóc cô khỏi xõa xuống mặt, một phần của tai phải lộ rõ qua những sợi tóc. Cô mặc một chiếc áo váy ngắn màu lam nhạt, hơi xòe và đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay trái - vật trang sức duy nhất của cô. Một đôi déật xinh xắn nằm cạnh chiếc ghế piano và đôi chân trần của cô thật đẹp.
Trông cô giống như một biểu tượng. Cho một thời kỳ nào đó, một nơi chốn nào đó. Cho một tâm thái nào đó. Cô như một nàng tiên vụt hiện do một duyên may. Một chất ngây thơ hồn nhiên phi thời gian, dễ tổn thương[10] bồng bềnh quanh cô như những bào tử lúc xuân về. Trong tấm ảnh, thời gian đã ngưng lại. 1969. Khá lâu trước khi tôi ra đời.
Ngay từ đầu, tôi đã biết cô gái đến phòng tôi đêm qua chính là Miss Saeki. Tôi không nghi ngờ điều đó một giây nào, nhưng tôi muốn kiểm tra lại cho đích xác thôi.
So với hồi mười lăm tuổi, Miss Saeki mười chín tuổi trong ảnh nom trưởng thành hơn, chín chắn hơn, khuôn mặt sắc cạnh hơn, định hình rõ hơn, và mất đi cái vẻ lo sợ mơ hồ. Nhưng ngoài ra, Miss Saeki mười chín tuổi và cô gái mười lăm tuổi tôi thấy đêm qua gần như giống hệt nhau. Nụ cười trong ảnh chẳng khác gì nụ cười tôi đã thấy đêm qua. Cả cái cách để tay chống cằm và cái dáng nghiêng nghiêng đầu cũng thế. Và ở Miss Saeki hiện tại, tôi có thể nhận ra vẫn những sắc diện và cử chỉ ấy. Tôi vui sướng thấy rằng những nét ấy cùng cái vẻ siêu nhiên ấy không hề thay đổi. Ngay cả vóc người cũng gần như nguyên xi.
Tuy nhiên, có một cái gì đó nơi cô gái mười chín tuổi trong ảnh mà người đàn bà trung niên tôi biết đã mất đi vĩnh viễn. Có thể gọi đó là sự tràn trề năng lượng. Không rực rỡ, không màu, trong suốt như dòng nước mát kín đáo chảy ra từ giữa những tảng đá - một thứ hấp dẫn tự nhiên, tinh khiết đi thẳng vào tim ta. Cái năng lượng ngời ngời ấy toát ra từ toàn bộ con người cô khi cô ngồi đó, trước piano. Chỉ cần nhìn nụ cười rạng rỡ ấy, cũng có thể hình dung ra con đường đẹp đẽ của một trái tim hoàn mãn. Như ánh lập lòe của con đom đóm còn lại nơi tròng mắt ta hồi lâu sau khi nó đã biến mất trong đêm tối.
Tôi ngồi trên giường hồi lâu, chiếc bao đĩa trên tay, không nghĩ gì, để mặc thời gian trôi qua. Tôi mở mắt ra, đi tới cửa sổ, hít một hơi thật sâu; cùng với không khí tươi mát ùa vào lồng ngực, có cả chút vị biển trên cánh gió thổi qua rừng thông. Hình bóng tôi thấy hiện về đây đêm qua rành là Miss Saeki ở tuổi mười lăm. Miss Saeki thật, tất nhiên, vẫn còn sống - một phụ nữ ngoại ngũ tuần sống một cuộc đời thật ở một thế giới thật. Ngay lúc này, bà đang ngồi làm việc tại bàn giấy trong văn phòng của mình trên gác. Tôi chỉ cần ra khỏi căn phòng này, lên cầu thang là có thể gặp bà, nói chuyện với bà - nhưng tất cả những cái đó không thay đổi được sự thực này: cô gái tôi thấy đêm qua là bóng ma của bà. Oshima bảo tôi người ta không thể ở hai chỗ cùng một lúc, nhưng tôi nghĩ điều đó là có thể. Thực tế, tôi dám chắc là thế nữa kia. Con người ta, khi còn sống, vẫn có thể trở thành ma.
Và còn có một sự thực quan trọng khác nữa: tôi bị cuốn hút về phía bóng ma đó, bị bóng ma đó hấp dẫn. Không phải bởi Miss Saeki hiện hữu ở đây ngay lúc này, mà là bởi cô gái mười lăm tuổi không hiện hữu. Bị hấp dẫn rất mãnh liệt, phải, một cảm giác mạnh mẽ đến nỗi tôi không diễn đạt nổi. Và, ai muốn nói gì thì nói, điều này là thật. Có thể cô không thực sự tồn tại, nhưng thử nghĩ mà xem: cô làm trái tim tôi - máu và thịt tôi, trái tim thật của tôi - đập cuồng loạn. Những cảm giác ấy cũng thực như lớp máu đẫm ngực áo tôi vào cái đêm kinh hoàng kia.
Gần tới giờ đóng cửa, Miss Saeki xuống dưới nhà, gót giày lách cách trên bậc cầu thang. Khi trông thấy bà, người tôi căng cứng và tim đập thình thịch: tôi trông thấy cô gái mười lăm tuổi bên trong bà. Như một con thú nhỏ ngủ đông, cô cuộn mình nằm gọn một hốc bên trong Miss Saeki, thiêm thiếp giấc nồng.
Miss Saeki hỏi tôi điều gì đó, nhưng tôi không trả lời được. Tôi thậm chí không biết bà đã nói gì nữa. Dĩ nhiên, tôi có nghe thấy bà nói - tiếng bàng màng nhĩ của tôi và truyền một tin nhắn đến óc để chuyển thành ngôn ngữ - nhưng có một sự ngắt mạch giữa chữ và nghĩa. Luống cuống, tôi đỏ bừng mặt và ấp úng một điều gì ngu xuẩn. Oshima xen vào trả lời đỡ cho tôi. Tôi gật đàu lia lịa theo từng lời anh nói. Miss Saeki mỉm cười chào tạm biệt chúng tôi và ra về. Tôi nghe tiếng chiếc Golf của bà ra khỏi bãi đậu xe, xa dần rồi tắt hẳn.
Oshima ở lại giúp tôi đóng cửa thư viện nghỉ đêm.
"Không khéo cậu phải lòng ai rồi chăng?" anh hỏi. "Nom cậu như người mất hồn ấy."
Tôi không biết trả lời ra sao.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:52:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23 (tiếp)

"Oshima," cuối cùng, tôi nói, "hỏi thế này kể cũng kỳ, nhưng anh có nghĩ rằng người ta có thể trở thành ma ngay khi còn sống được không?"
Anh dừng tay thu dọn quầy và nhìn tôi. "Thưc ra đó là một câu hỏi rất lý thú. Có phải cậu hỏi về linh hồn con người theo nghĩa văn học - nói cách khác là theo cách ẩn dụ. Hay nhằm sự việc thật?"
"Đúng ra là nhằm sự việc thật, em nghĩ thế," tôi nói.
"Với giả định là ma có thật?"
"Phải."
Oshima bỏ kính ra, lấy khăn tay lau mắt kính rồi đeo lại.
"Đó là cái được gọi là 'linh hồn sống'. Mình không biết ở các nước khác thế nào, chứ cái này xuất hiện khá nhiều trong văn học Nhật Bản. Chẳng hạn, Truyện Genji đầy những linh hồn sống. Vào thời Heian[22], hay ít nhất là trong lĩnh vự linh của thời ấy, con người ta thi thoảng có thể trở thành linh hồn sống chu du qua không gian để thực hiện những mong muốn của mình. Cậu đã đọc Genji chưa?"
Tôi lắc đầu.
"Thư viện ta có mấy bản dịch sang tiếng Nhật hiện đại, cậu nên tìm đọc một bản. Dù sao, đây là một thí dụ: Công nương Rokujo, một trong những người tình của Hoàng tử Genji, bầm gan tím ruột vì ghen với Công nương Aoi, vợ chính thức của Genji, đến nỗi biến thành ma để ám nàng. Đêm này qua đêm khác, bà ta tấn công nàng trên giường ngủ và cuối cùng đã giết chết nàng. Công nương Aoi mang thai với Genji và tin đó đã đẩy lòng căm giận của Rokujo lên đến tột cùng. Genji triệu các pháp sư đến để trừ tà nhưng vô hiệu. Hồn ma này có sức mạnh không cách gì chống lại được."
"Nhưng điểm lý thú nhất của câu chuyện là Công nương Rokujo không hề biết mình đã trở thành một linh hồn sống. Bà ta trải qua những cơn ác mộng và khi tỉnh dậy, phát hiện thấy mái tóc đen dài của mình sực mùi khói. Thực tế, đó là khói hương do các pháp sư đốt khi cầu nguyện cho Công nương Aoi. Hoàn toàn không ý thức được điều gì đang diễn ra, bà ta bay qua không gian, luồn qua đường hầm của vô thức mình để vào phòng ngủ của Aoi. Đó là một trong nhưng đoạn lạ lùng và ly kỳ nhất của Truyện Genji. Về sau, khi vỡ lẽ ra mình đã làm gì, bà ta ăn năn hối lỗi và cắt tóc quy y."
"Cái mà người ta gọi là thế giới siêu nhiên chỉ là vùng tối trong tâm trí chúng ta. Từ lâu trước khi Freud và Jung rọi một luồng sáng vào sự vận hành của vô thức, con người, bằng bản năng, đã thấy một mối tương quan giữa vô thức và cái siêu nhiên [11], cả hai đều là vùng bóng tối. Đó không phải là một ẩn dụ. Nếu ta đi ngược xa hơn nữa, đó thậm chí cũng không phải là một tương quan. Trước khi Edison phát minh ra ánh sáng điện, đa phần thế giới đều bị bóng tối bao phủ. Bóng tối vật thể bên ngoài và bóng tối bên trong tâm hồn hòa lẫn vào nhau, không có ranh ới phân đôi. Gắn thẳng với nhau. Như thế này này (Oshima chắp hai bàn tay vào nhau).
Vào thời của Murasaki Shikibu, tác giả Truyện Genji, những linh hồn sống vừa là một hiện tượng siêu nhiên vừa là một hình thái tự nhiên của tinh thần con người ở ngay trong họ. Hẳn người thời này không thể quan niệm tách bạch hai loại bóng tối đó. Nhưng ngày nay, sự vật đã khác xưa. Bóng tối bên ngoài đã được xua tan, nhưng bóng tối bên trong vẫn hồ như không thay đổi. Cái mà ta gọi là bản ngã hay ý thức là phần nổi trên mặt nước của tảng núi băng: phần quan trọng nhất vẫn chìm trong vùng bóng tối. Và đó chính là nguồn gốc của những mâu thuẫn và hoang mang sâu sắc thường giày vò chúng ta."
"Xung quanh căn nhà gỗ trên núi của anh, thực sự là bóng tối."
"Đích thị," Oshima nói. "Bóng tối thực sự vẫn còn tồn tại ở đó. Đôi khi mình đến đó chỉ cốt để trải nghiệm nó."
"Yếu tố khởi phát nào khiến người ta trở thành linh hồn sống? Có phải bao giờ cũng là một yếu tố tiêu cực?"
"Mình không phải là chuyên gia về mặt này, nhưng trong phạm vi hiểu biết của mình, thì đúng thế, tất cả những linh hồn sống đó đều nảy sinh từ những xúc động tiêu cực. Phần lớn những tình cảm cực đoan của con người đều có xu hướng trở nên vừa rất cán nhân vừa rất tiêu cực. Và những linh hồn sống ấy tự phát xuất hiện sau những xúc động mãnh liệt ấy. Thật đáng buồn là không thấy trường hợp nào phát sinh một linh hồn sống để hoàn thành một mục tiêu duy lý hoặc mang lại hòa bình thế giới."
"Thế có trường hợp nào vì tình yêu không?"
Oshima ngồi xuống và ngẫm nghĩ. "Một câu hỏi khó đấy. Mình chỉ có thể nói với cậu là mình một thí dụ thuộc loại đó. Dĩ nhiên, cũng có cái truyện "Lời nguyền hoa cúc" trong tập Những truyện về ánh trăng và mưa. Cậu đã đọc cuốn đó chưa?"
"Chưa," tôi đáp.
"Những truyện về ánh trăng và mưa được Ueda Akinari viết vào cuối thời kỳ Edo, nhưng lại đặt trong khung cảnh đầu thời Chiến Quốc khiến cách tiếp cận của tác giả có phần hoài cổ hoặc quay về quá khứ. Dù sao đi nữa, trong truyện này, hai samurai trở thành bạn thân và nguyện thề kết nghĩa anh em. Đối với những samurai, điều này là rất nghiêm túc. Kết nghĩa anh em có nghĩa là nguyện xả thân vì nhau. Họ sống xa nhau, mỗi người phục vụ một vị chúa. Một người viết thư cho người kia, hẹn sẽ đến thăm vào mùa hoa cúc nở, bất kể chuyện gì xảy ra. Người kia trả lời là sẽ đợi. Nhưng người thứ nhất chưa kịp lên đường thì đã vướng vào một chuyện rắc rối và bị giam giữ, không giữ được phép ra ngoài, kể cả gửi thư. Cuối cùng, hè qua và thu tới cùng mùa cúc nở hoa. Vậy là chàng không thể thực hiện được lời hứa của mình. Đối với một samurai, không có gì quan trọng hơn lời hứa. Danh dự quan trọng hơn mạng sống. Vì vậy, chàng samurai đã mổ bụng tự sát theo cách võ sĩ đạo hara-kiri, trở thành một linh hồn, băng qua bao dặm đường đến thăm bạn. Họ ngồi bên hoa cúc và hàn huyên đến thỏa nguyện rồi linh hồn biến mất khỏi mặt đất. Thật là một thiên chuyện đẹp."
"Nhưng người samurai phải chết để trở thành linh hồn."
"Ừ, chính thế," Oshima nói. "Có vẻ như người ta không thể trở thành linh hồn vì danh dự, hoặc vì tình yêu hay tình bạn được. Muốn thế, người ta phải chết. Phải hy sinh đời mình vì danh dự, tình yêu hay tình bạn và chỉ có thể làm thế mới biến thành linh hồn. Nhưng trở thành linh hồn sống lại là một chuyện khác. Dường như những kẻ biến mình thành linh hồn sống bao giờ cũng xuất phát từ những động cơ xấ
Tôi ngẫm nghĩ.
"Nhưng như cậu nói," Oshima nói tiếp, "cũng có thể có những thí dụ về những người trở thành linh hồn sống vì những tình cảm yêu thương tích cực. Mình không đi sâu nghiên cứu vấn đề này, nhưng đó là điều có thể xảy ra. Người ta nói tình yêu có thể xây dựng lại thế giới, vậy thì với tình yêu, mọi sự đều có thể."
"Anh đã yêu bao giờ chưa?"
Bị hỏi bất ngờ, anh sững ra nhìn tôi. "Cậu nghĩ gì vậy? Mình có phải là một con sao biển hay một cây hồ tiêu đâu. Mình là một con người đang sống, đang hít thở. Dĩ nhiên là mình đã từng yêu."
"Ý em không phải thế," tôi đỏ mặt nói.
"Mình biết," anh nói và dịu dàng mỉm cười với tôi.
Khi Oshima đi khỏi, tôi trở về phòng, bật dàn stereo lên, đặt đĩa Kafka bên bờ biển, vừa nghe vừa theo dõi lời in trên bao đĩa.
Anh ngồi bên rìa thế giới
Em trên miệng núi lửa đã tắt
Đứng khuất trong bóng cánh cửa
Là những lời không còn chữ
Trăng soi con thằn lằn đang ngủ
Cá nhỏ từ trên trời mưa xuống
Ngoài cửa sổ đám chiến binh
Luyện rèn mình để chết
Điệp khúc
Kafka ngồi ghế bên bờ biển
Nghĩ về quả lắc làm thế giới đung đưa
Khi trái tim ta khép kín
Cái bóng của Nhân Sư sẽ thành lưỡi dao
Xuyên thủng giấc mơ ta
Cô gái chết đuối huơ tay tìm
Phiến đá cửa vào
Nâng gấu váy màu thiên thanh
Và đăm đăm nhìn
Kafka bên bờ biển
Tôi nghe đĩa nhạc ba lần. Làm sao một đĩa hát với ca từ như vậy lại có thể bán được tới hàng triệu bản? tôi tự hỏi. Tôi không nói rằng nó hoàn toàn bí hiểm, mà chỉ trừu tượng và siêu thực thôi. Không phải những lời ca. Nhưng nếu nghe mấy lần, nó bắt đầu quen tai. Từng chữ một lần lượt tìm đường tới tim tôi. Đó là một cảm giác kỳ lạ. Những hình ảnh vượt ra ngoài ngữ nghĩa đột nhiên như những hình cắt giấy và đứng riêng ra, như thể tôi đang chìm sâu vào một giấc mộng.
Giai điệu đẹp, đơn giản nhưng cũng khác lạ. Và giọng Miss Saeki hòa quyện vào nó một cách tự nhiên. Giọng cô còn thiếu lực - cô đâu phải là ca sĩ chuyên nghiệp - nhưng nó thực sự rửa sạch tâm trí ta một cách dịu dàng như cơn mưa mùa xuân rửa sạch những phiến đá lát lối đi trong vườn. Cô vừa hát vừa đệm piano cùng một số nhạc cụ dây và một cây kèn ôboa. Hẳn là ngây sách cho việc thu đĩa chỉ đủ cho một phối khí đơn giản, nhưng thực tế, chính sự đơn giản ấy lại làm cho bài hát hấp dẫn.
Hai hợp âm bất thường xuất hiện ở đoạn điệp khúc. Các hợp âm khác trong bài chẳng có gì đặc biệt, nhưng hai hợp âm này thì khác, không thuộc loại nghe vài lần là cảm nhận được ngay. Thoạt đầu, tôi cảm thấy bối rối. thậm chí, nói quá lên một chút là tôi cảm thấy như bị phản bội. Những âm thanh hoàn toàn bất ngờ làm tôi bị chấn động, bất an như khi có cơn gió lạnh đột ngột thổi qua khe cửa. Nhưng khi dứt đoạn điệp khúc, thì giai điệu đẹp quay trở lại, đưa ta trở về với cái thế giới hài hòa và thân mật ban đầu. Không còn gió lạnh run người nữa. Piano chạy những nốt kéế thúc trong khi đàn dây nhẹ ngân trên hợp âm cuối và tiếng kèn ôboa kéo dài khép lại bài hát.
Nghe đi nghe lại, tôi bắt đầu hiểu ra tại sao Kafka bên bờ biển lại khiến nhiều người xúc động thế. Bài hát vừa dịu dàng vừa trực tiếp đi thẳng vào lòng người vì nó là tiếng nói của một trái tim vị tha. Nó có một cái gì kỳ diệu: sự đan xen của những đối lập. Một cô gái mười chín tuổi ở tỉnh lẻ viết những ca từ về người bạn trai phương xa, ngồi vào dương cầm và phổ thành nhạc, rồi không ngần ngại, hát lên sáng tác của mình. Cô viết bài hát không phải để cho những người khác nghe, mà là cho bản thân mình, để sưởi ấm trái tim mình dù chỉ một chút xíu thôi. Và sự đắm chìm tự thân đó đã làm rung động mãnh liệt một xúc cảm thầm kín tế nhị trong lòng những người nghe.
Tôi trộn nháo nhào các thứ trong tủ lạnh thành một bữa tối đơn giản rồi lại đặt Kafka bên bờ biển lên máy quay đĩa. Tôi ngồi trên ghế nhắm mắt lại, cố hình dung Miss Saeki mười chín tuổi đang hát và đệm piano trong phòng thu. Tôi nghĩ về tình yêu chan chứa cô cảm thấy trong khi hát. Và về sự bạo lực mù quáng đã vĩnh viễn chia lìa mối tình đó.
Hết đĩa, cần kim tự động nhấc lên và trở về trên trụ đỡ.
Có thể Miss Saeki đã viết ca từ cho bài Kafka bên bờ biển ngay trong căn phòng này cũng nên. Càng nghe cái đĩa này, tôi càng tin chắc rằng Kafka bên bờ biển chính là chàng trai trong bức tranh treo trên tường. Tôi ngồi vào bàn, để tay chống cằm giống như cô gái đêm qua và đăm đăm nhìn theo cùng một góc độ vào bức tranh ngay trước mặt mình. Giờ thì tôi dám chắc đây chính là nơi cô đã viết bài hát đó. Tôi hình dung thấy cô đăm đăm nhìn bức tranh, nhớ đến người bạn trai và viết bài thơ mà sau đó cô đã phổ nhạc. Lúc đó hẳn là vào ban đêm, bên ngoài trời tối đen như mực.
Tôi đứng dậy, đi đến sát tường, xem xét bức tranh thật kỹ. Cậu thiếu niên đang nhìn ra xa, cặp mắt chất chứa một chiều sâu bí ẩn. Ở một góc trời, lơ lửng vài đám mây, đám lớn nhất nom từa tựa một con Nhân Sư nằm.
Tôi lục tìm trong trí nhớ. Nhân Sư là kẻ thù đã bị Oedipus đánh bại bằng việc giải được câu đố hóc hiểm, và khi biết mình bị thua, con quái vật bèn nhảy xuống vực tự tử. Nhờ chiến tích này, Oedipus trở thành vua xứ Thebes và rốt cuộc, lấy chính mẹ mình làm vợ. Và cái tên Kafka nữa. Tôi đoán là Miss Saeki dùng cái tên này vì trong tâm trí cô, nỗi cô đơn bí ẩn của chàng trai trong tranh có phần trùng lặp với thế giới hư cấu của Kafka. Điều đó cho ta hiểu tại sao cô đặt tên bài hát như thế: một tâm hồn cô đơn lạc đến một bến bờ phi lý.
Còn có nhiều câu khác trùng lặp với những điều đã xảy đến với tôi. Đoạn nói về "cá nhỏ từ trên trời mưa xuống" - đó chẳng đích thị là điều đã xảy ra khi hàng trăm con cá mòi và cá thu trút xuống khu phố buôn bán ở thành phố tôi sao? Đoạn "cái bóng của Nhân Sư sẽ thành lưỡi dao/ xuyên thủng giấc mơ ta" có thể ám chỉ việc cha tôi bị đâm chết. Tôi chép toàn bộ lời ca vào sổ tay, nghiên cứu từng câu, gạch dưới những chỗ khiến tôi đặc biệt quan tâm. Nhưng rốt cuộc, toàn bài thật tối nghĩa, tôi không biết nên hiểu thế nào.
Đứng khuất trong bóng cánh cửa
Là những lời không còn chữ...
Cô gái chết đuối huơ tay tìm
Phiến đá cửa vào...
Ngoài cửa đám chiến binh
Luyện rèn mình để chết...
Thế nghĩa là gì? Tất cả những cái đó có phải là trùng hợp ngẫu nhiên không? Tôi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài vườn. Bóng đêm bắt đầu trùm lên cảnh vật. Tôi vào phòng đọc, ngồi trên sofa đọc Truyện Genji qua bản dịch của Tanizaki. Mười giờ tôi đi nằm, tắt đèn đầu giường, nhắm mắt lại chờ Miss Saeki mười lăm tuổi trở lại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:57:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 24


Đã tám giờ tối khi chiếc xe buýt đưa họ từ Kobe tới trước cửa ga Tokushima.
“Đây, ông Nakata, đến Shikoku rồi.”
“Cây cầu đẹp quá. Trước giờ Nakata này chưa bao giờ nhìn thấy cây cầu nào lớn đến vậy.”
Hai người xuống xe và ngồi vào một chiếc ghế băng quan sát xung quanh.
“Nào... trời phật có mách bảo gì cho ông không?” Hoshino hỏi. “Có chỉ cho ông biết phải đi đâu không? Và phải làm gì?”
“Không. Nakata này vẫn chưa biết phải ra sao cả.”
“Tuyệt nhỉ...”
Nakata xoa đầu một lúc, vẻ đăm chiêu như đang suy nghĩ nhiều điều rất hệ trọng. “Cậu Hoshino?” cuối cùng lão nói.
“Có chuyện gì?”
“Xin lỗi, quả thực bây giờ Nakata này phải đi ngủ thôi. Lão buồn ngủ đến nỗi cảm thấy có thể lăn ra đây ngủ luôn tức thì.”
“Khoan đã... ông không thể ngủ ở đây được,” Hoshino cuống quít nói. “Cháu sẽ kiếm một chỗ cho ông nghỉ lại, ông chờ ở đây một lát, được không?”
“Thôi được. Nakata này sẽ chờ ở đây và cố không ngủ.”
“Tốt. Ông có đói không?”
“Không, chỉ buồn ngủ
Hoshino giở vội cuốn hướng dẫn du lịch, tìm thấy địa chỉ một nhà trọ rẻ tiền có cả điểm tâm miễn phí và gọi điện thoại tới đặt trước một phòng. Nhà nghỉ này ở cách ga khá xa nên họ gọi một chiếc taxi. Vừa đến nơi, Hoshino lập tức yêu cầu cô hầu phòng trải nệm ngay cho họ đi nằm.
Nakata không tắm, cởi đồ đi nằm luôn, và lát sau đã ngáy ro ro.
“Có lẽ lão sẽ ngủ rất lâu đấy, cho nên cậu đừng có hoảng,” ngay trước khi ngủ lão nói vậy.
“Dào, cháu sẽ không quấy rầy ông đâu, ông muốn ngủ bao lâu thì ngủ,” Hoshino đáp, nhưng Nakata đã chìm vào cõi mộng.
Hoshino khoan thai tắm táp thoải mái và ra ngoài dạo quanh thăm thú địa thế, rồi vào một quán sushi ăn tối. Gã không phải là tay bợm rượu, một chai bia cỡ trung bình đã đủ làm gã đỏ gay mặt và phấn chấn. Ăn xong, gã chơi pachinko khoảng một tiếng và thua ba nghìn yen. Chiếc mũ cầu thủ bóng chày Chunichi của gã khiến nhiều người qua đường trố mắt nhìn và gã dám chắc mình là người duy nhất ở Tokushima đội một chiếc mũ như thế.
Trở về nhà nghỉ, gã thấy Nakata vẫn ngủ say tít, y nguyên như khi gã ra phố. Đèn trong phòng vẫn bật, nhưng rõ ràng là chẳng hề làm phiền lão. Quả là một ông già vô tâm, Hoshino kết luận. Gã bỏ mũ, cởi chiếc áo sơ-mi Hawai và chiếc quần jeans, rồi vào giường và tắt đèn. Nhưng gã cảm thấy nổi nứng và điều đó cộng với khung cảnh khác lạ khiến gã không ngủ được. Chà, gã nghĩ thầm, đáng ra mình nên kiếm một ả, “vui vẻ” một quắn rồi hẵng về. Nhưng khi nghe tiếng thở đều đặn và bình yên của Nakata, gã bỗng thấy ngượng về ý nghĩ đó, mặc dù gã không biết chắc là tại sao.
Nhìn trân trân lên trần nhà trong bóng tối, nằm trong một nhà trọ rẻ tiền ở một tỉnh lẻ gã chưa bao giờ tới, bên cạnh một lão già kỳ dị mà gã chẳng biết lai lịch ra sao, Hoshino bắt đầu nghi ngờ chính bản thân mình. Lẽ ra đêm nay, gã đang phải lái xe trên đường về Tokyo và vào giờ này, ắt đã đến đâu đó quanh vùng Nagoya rồi. Gã thích công việc của mình và ở Tokyo, có một “em” lúc nào cũng sẵn sàng qua đêm với gã nếu gã muốn. Tuy nhiên, vừa giao hàng ở Kobe xong, trong một cơn bốc đồng đột ngột, gã đã gọi một bạn đồng nghiệp ở tỉnh này, nhờ thay mình đưa xe về Tokyo giùm. Gã gọi điện về công ty xin được nghỉ ba ngày. Và thế là cùng với Nakata, gã đáp xe đến Shikoku, chỉ mang theo chiếc xắc nhỏ đựng một bộ quần áo thay đổi và bộ đồ cạo râu.
Thoạt đầu, Hoshino chỉ chú ý tới Nakata vì lão giống người ông quá cố của gã, nhưng rồi ấn tượng ấy nhạt đi và giờ đây, gã rất tò mò về bản thân Nakata. Những điều lão già kể và cái cách nói của lão quả thật là kỳ lạ, nhưng kỳ lạ một cách lý thú. Gã cần phải tìm hiểu xem lão đi đâu và rốt cuộc, sẽ làm gì khi tới đó.
Hoshino xuất thân từ một gia đình nông dân, thứ ba trong số năm con trai. Cho đến hết cấp trung học, gã vẫn đạt hạnh kiểm tốt, nhưng sau khi vào trường chuyên nghiệp, gã giao du với một bọn xấu và bắt đầu gặp rắc rối, thậm chí đã bị cảnh sát bắt mấy lần. Gã đủ điểm tốt nghiệp nhưng không kiếm được việc làm tử tế. Thêm vào đó, những trục trặc với cô bạn gái càng gây thêm trở ngại, cho nên gã quyết định xung vào Lực Lượng Tự Vệ. Gã hy vọng được lái xe tăng nhưng không qua được kỳ thi sát hạch nên đa phần thời gian, phải lái xe tải lớn vậy. Sau ba năm ở trong Lực Lượng Tự Vệ, gã giải ngũ, kiếm được việc làm ở một công ty vận tải và sáu năm nay, gã sống bằng nghề lái xe tải.
Công việc này hợp với gã. Xưa nay, gã vẫn yêu thích máy móc và mỗi khi ngồi chễm chệ trong cabin, tay đặt lên vô lăng, gã cảm thấy như đang ở trong tiểu vương quốc của riêng mình. Công việc nặng nhọc, liên miên bất kể giờ giấc, nhưng gã biết mình không thể chịu nổi một công việc văn phòng đều đặn sớm vác ô đi tối vác về, nhất cử nhất động đều bị con mắt cú vọ của một ông chủ giám sát từng giờ.
Mặc dù gầy gò, nhỏ con, bề ngoài chả có vẻ gì là tay sừng sỏ, nhưng gã lại chúa hay gây gổ. Nom thế mà gã rất khỏe và một khi đã nổi xung đến tột độ, mắt gã sẽ lóe lên một ánh điên dại khiến phần lớn các địch thủ phải bỏ chạy. Gã đã tham gia nhiều cuộc ẩu đả, hồi còn trong quân ngũ cũng như khi đã chuyển sang lái xe tải, nhưng mãi đến gần đây mới bắt đầu hiểu ra rằng thắng hay thua cũng chẳng ăn cái giải gì. Ít nhất, mình cũng chưa bao giờ bị thương nặng, gã hãnh diện nghĩ thầm.
Hồi học trung học, những lần Hoshino quậy phá bị tống giam, bao giờ ông nội cũng phải lên đồn khẩn khoản xin lỗi, cảnh sát mới thả. Trên đường về nhà, bao giờ ông cũng rẽ vào một tiệm ăn, đãi cháu một bữa ngon lành. Ngay cả trong trường hợp đó, ông già cũng không bao giờ lên lớp Hoshino. Không một lần nào cha mẹ gã lên xin cho con về. Họ còn phải nai lưng kiếm từng đồng, chẳng có thì giờ hoặc nghị lực để lo cho thằng coi trai thứ ba vô tích sự. Đôi khi Hoshino tự hỏi: không biết mình sẽ ra sao nếu ông nội không đến xin cho mình ra? Ít nhất thì cũng còn có ông nhớ đến sự tồn tại của gã và lo cho gã.
Mặc dầu thế, gã vẫn không một lần cảm ơn ông nội về tất cả những gì ông đã làm. Gã không biết phải nói thế nào, hơn nữa, hồi đó, bận tâm lớn nhất của gã là làm sao để sống qua ngày. Ông cụ chết vì ung thư ít lâu sau khi gã xung vào Lực Lượng Tự Vệ. Thời gian cuối, ông đâm lẫn cẫn, thậm chí không nhận ra cháu. Từ khi ông mất, Hoshino chưa trở về nhà lần nào.
Tám giờ sáng hôm sau, khi Hoshino thức giấc, Nakata vẫn ngủ tít và coi bộ lão không hề nhúc nhích một phân suố đêm. Cả nhịp thở cũng vẫn đều đặn, không hề tăng hay giảm âm lượng. Hoshino xuống dưới nhà ăn điểm tâm cùng với những khách trọ khác. Một bữa đơn sơ, nhưng cơm và xúp miso thì thoải mái lấy thêm.
“Ông già đi cùng với anh có ăn sáng không?” cô phục vụ hỏi.
“Ông ấy còn ngủ. Có vẻ như ông không cần đâu. Nếu không phiền, xin cô đừng đánh thức ông.”
Đến trưa, thấy Nakata vẫn ngủ say sưa, Hoshino giữ phòng nghỉ lại một đêm nữa. Gã ra phố, ăn cơm gà trộn trứng ở một quán bình dân, sau đó dạo quanh một lúc và cuối cùng tạt vào một tiệm cà phê, vừa uống vừa hút thuốc và lật giở mấy cuốn truyện tranh.
Gần hai giờ, gã trở về nhà trọ, Nakata vẫn chưa dậy. Lo lắng, gã sờ trán lão, nhưng xem ra lão không sốt. Hơi thở lão vẫn bình thản, đều đặn và má hồng hào. Lão có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh. Lão chỉ ngủ tít thò lò, thậm chí không hề trở mình, có thế thôi.
“Cụ ấy có sao không mà ngủ nhiều thế?” Cô hầu phòng hỏi khi ngó vào phòng họ. “Có lẽ cụ ấy ốm chăng?”
“Cụ ấy mệt thôi,” Hoshino giải thích. “Cứ để cụ ấy ngủ cho đẫy giấc.”
“Thôi được, nhưng tôi chưa thấy ai ngủ nhiều đến thế...”
Giờ ăn tối đến, và cuộc ma-ra-tông ngủ vẫn tiếp tục. Hoshino ra ngoài kiếm một tiệm cà-ri và gọi một suất thịt bò cà-ri và xa-lát ngoại cỡ. Sau đó, gã lại đến chỗ đêm trước chơi pachinko khoảng một tiếng. Lần này gã gặp may và được gần một nghìn yen chuyển thành hai tút Marlboro.
Trở về nhà trọ với hai tút thuốc lúc chín rưỡi, gã không thể tin vào mắt mình: Nakata vẫn ngủ.
Hoshino tính nhẩm: ông già đã ngủ hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Đã đành lão đã báo trước là sẽ ngủ lâu nên đừng có lo, nhưng đến mức này thì thật là quá quắt! Hoshino cảm thấy bất lực một cách khác thường. Ngộ nhỡ ông già không tỉnh lại nữa thì mình biết làm thế nào đây?
“Chà chà!” gã thốt lên và lắc đầu.
Nhưng sáng hôm sau, khi Hoshino thức giấc thì đã thấy Nakata dậy rồi, mắt thao láo nhìn ra cửa sổ.
“Kìa, ông nội, vậy là cuối cùng, ông đã tỉnh lại đấy ư?” Hoshino hỏi, nhẹ cả người.
“Vâng, Nakata này vừa mới dậy. Lão không biết mình đã ngủ bao lâu, nhưng chắc là khá dài. Lão cảm thấy mình như là một con người mới.”
“Quá lâu ấy chứ, không đùa đâu! Ông ngủ từ chín giờ tối hôm kia, vậy tổng cộng vào khoảng ba mươi tư tiếng đồng hồ. Đích thị là một ông Bạch Tuyết!”
“Nakata này thấy đoi đói.”
“Khỏi phải nói, ông chẳng ăn tí gì vào bụng hai ngày rồi.”
Hai ông cháu xuống điểm tâm ở phòng ăn dưới nhà. Nakata đả thùng bất chi thình, khiến cô phục vụ kinh ngạc.
“Ông ăn khỏe chẳng kém gì ông ngủ,” cô reo lên. “Hai ngày dồn vào một bữa!”
“Vâng, giờ lão phải ăn thật nhiều.”
“Ông quả là tráng kiện.”
“Vâng, Nakata này đọc nhưng còn khỏe, không có một cái răng sâu nào và không cần phải đeo kính. Lão không bao giờ phải đến bác sĩ, không bao giờ sái vai sái cổ và sáng nào cũng đại tiện đều đặn.”
“Hết sẩy!” cô gái nói, vẻ thán phục. “Thế hôm nay ông định làm gì?”
“Chúng tôi đi về hướng Tây,” Nakata tuyên bố.
“Hướng Tây,” cô ngẫm nghĩ. “Thế có nghĩa là đi về phía Takamatsu.”
“Lão không sáng dạ, lại chẳng thông thạo địa lý.”
“Thì ta cứ đi đến Takamatsu cái đã, rồi sẽ tính sau, ông nội ạ.” Hoshino xen vào.
“Thôi được. Vậy thì đi Takamatsu. Đến đó rồi sẽ tính.”
“Thật là một kiểu du lịch độc đáo,” cô phục vụ bình luận.
“Đúng thế,” Hoshino nói.
Trở về phòng, Nakata vào toa-lét trong khi Hoshino, mình vẫn mặc áo choàng tắm, nằm dài trên tấm tatami xem thời sự trên truyền hình. Chẳng có mấy tin mới. Cảnh sát vẫn chưa khám phá được gì trong vụ ám sát một điêu khắc gia nổi tiếng ở Nakano - không manh mối, không nhân chứng. Cảnh sát đang tìm đứa con trai mười lăm tuổi của ông ta, biến mất ít ngày trước khi xảy ra vụ án mạng.
“Chao, Hoshino nghĩ thầm, một thằng nhóc mười lăm tuổi. Tại sao thời buổi này cứ luôn luôn có những thằng nhóc mười lăm tuổi dính líu vào những vụ bạo hành? Cố nhiên, gã chẳng có tư cách để lên mặt đạo đức vì chính gã, hồi mười lăm tuổi, cũng đã ăn cắp một chiếc xe máy ở một bãi đậu xe và phóng một vòng du hí m chẳng có bằng lái gì hết. Tuy nhiên, không thể đem so việc mượn tạm một chiếc xe máy với việc băm viên cha đẻ của mình. Có lẽ chỉ nhờ may mắn mà gã đã không giết cha mình: đã bao lần gã bị ông ấy cho ăn no đòn.
Phần tin thời sự vừa hết thì Nakata từ buồng tắm bước ra.
“Cậu Hoshino, lão hỏi cậu một câu có được không?”
“Có chuyện gì đấy, ông?”
“Cậu có khi nào đau lưng không?”
“Có chứ. Cháu đoán đó là bệnh nghề nghiệp. Tất cả các lái xe cháu quen đều có vấn đề về lưng, cũng như cầu thủ bóng chày, cha nào cũng đau vai. Tại sao ông hỏi thế?”
“Bởi vì nhìn thấy lưng cậu, lão nghĩ ngay là có vấn đề.”
“Hmm...”
“Cậu không phiền nếu Nakata này sờ nắn lưng cậu chứ?”
“Ông cứ tự nhiên.”
Hoshino quay người nằm sấp và Nakata ngồi lên như cưỡi ngựa. Lão đặt tay dọc sống lưng gã và để yên đó một lúc trong khi Hoshino xem một chương trình nhàn đàm về các “sao” mới. Một nữ diễn viên nổi tiếng làm lễ hứa hôn với một nhà văn trẻ ít ai biết đến. Hoshino không mấy thích thú nhưng chẳng còn gì khác để xem. Thu nhập của cô diễn viên gấp mười lần anh nhà văn, mà anh này thì không hề đẹp trai, thậm chí coi bộ cũng chẳng thông minh gì lắm.
Hoshino thấy chuyện này cũng đáng ngờ. “Cuộc hôn nhân này rồi sẽ chẳng ra sao, cháu dám nói với ông thế. Chắc là có sự ngộ nhận nào đây.”
“Cậu Hoshino, xương cậu hơi bị lệch đấy.”
“Chả có gì là lạ với kiểu sống lệch lạc của cháu trước nay.” Hoshino vừa nói vừa ngáp.
“Nếu cậu không chữa thì sẽ sinh đủ thứ phiền toái đấy.”
“Ông nghĩ vậy à?”
“Cậu sẽ đau đầu, táo bón. Rồi sẽ vẹo lưng nữa.”
“Thế thì rắc rối đấy.”
“Hơi đau đấy. Cậu có chịu không?”
“Chịu. Ông cứ làm tới đi.”
“Nói thật tình, sẽ rất đau đấy.”
“Ông nội à, cháu đã ăn đòn cả đời rồi - ở nhà, ở trường, trong Lực Lượng Tự Vệ - vậy mà cháu vẫn sống. Chả phải khoe mẽ đâu, nhưng thực sự những ngày cháu không bị đánh có thể đếm trên đầu ngón tay. Cho nên đau một tý thì có mùi mằn gì. Nóng bỏng hay nhồn nhột, êm dịu hay buốt nhói – xin ông cứ việc ra chiêu.”
Nakata nheo mắt, tập trung tinh thần, thận trọng kiểm tra cho chắc là hai đầu ngón tay cái đã đặt đúng vị trí mong muốn. Sau đó, lão từ từ bấm, vừa tăng dần áp lực vừa theo dõi phản ứng của Hoshino. Lão hít một hơi thật sâu, rồi thốt ra một tiếng kêu ngắn như chim kêu vào mùa đông và dồn toàn lực ấn mạnh vào khoảng giữa cơ lưng và xương sống. Hoshino cảm thấy đau khủng khiếp, đau đến mức phi lý. Một tia chớp lóe trong óc gã, làm tất cả trắng phớ ra. Gã nghẹn thở. Như thể gã bị ném từ một ngọn tháp cao xuống đáy địa ngục vậy. Cơn đau ghê gớm đếỗi thậm chí gã không thể kêu lên được. Mọi ý nghĩ cháy trụi và tung tóe đi hết. Tưởng như thân thể gã vỡ tan ra từng mảnh. Gã cảm thấy ngay cả cái chết cũng không thể kinh khủng đến thế. Gã cố mở mắt ra mà không được. Đành cứ nằm đó, bất lực, úp mặt xuống tấm chiếu tatami, nhớt dãi ròng ròng, nước mắt giàn giụa. Cơn đau kéo dài khoảng ba mươi giây.
Cuối cùng, gã cũng thở lại được và chệnh choạng ngồi dậy. Tấm tatami dập dềnh trước mặt gã như mặt biển trong cơn giông.
“Lão dám chắc là cậu đau.”
Hoshino ngúc ngắc đầu mấy cái như để kiểm tra cho chắc là mình còn sống. Nói “đau” là quá nhẹ, chưa lột tả được một phần. Cháu cảm thấy như bị lột da sống, xiên như xiên chả, giã như giã giò, rồi bị giẫm nát dưới chân một đàn bò điên. Ông giở cái ngón quỷ quái gì ra với cháu thế?”
“Lão nắn cho cột sống của cậu thẳng lại. Rồi cậu sẽ ổn thôi. Lưng cậu sẽ không đau nữa. Và đảm bảo là đại tiện trơn tru.”
Quả nhiên, khi cơn đau dịu đi như thủy triều rút, lưng gã đỡ hẳn. Cái cảm giác nặng nề, trì trệ mọi khi đã biến mất. Gã thấy nhẹ nhõm ở vùng thái dương và thở dễ dàng hơn. Và rành là gã thấy mót đi ngoài.
“Ờ, đúng là có đỡ ở nhiều chỗ.”
“Tất cả mọi rắc rối đều từ cột sống,” Nakata nói.
“Cơ mà đau thấy ông bà ông vải,” Hoshino nói và thở dài.
Hai ông con đáp chuyến tàu tốc hành JR từ ga Tokushima đi Takamatsu. Hoshino trả tất cả mọi khoản chi phí, nhà ọ và vé tàu. Nakata đòi trả phần mình, nhưng Hoshino không nghe.
“Bây giờ, cháu cứ trả đã, rồi ta sẽ tính toán sau. Cháu không thích đàn ông với nhau lại đi cãi vã về chuyện tiền nong.”
“Thôi được. Nakata này không hiểu chuyện tiền nong lắm, vậy cậu bảo sao, lão cứ làm thế,” Nakata nói.
“Tuy nhiên, cháu phải nói là cháu cảm thấy tuyệt vời nhờ cái ngón shiatsu[23] ông bấm cho cháu. Cho nên chí ít ông cũng phải để cháu tạ ơn ông chứ, đúng không? Không biết từ bao lâu rồi, cháu chưa thấy sảng khoái như thế. Cháu cảm thấy như mình trở thành một người mới vậy.
“Thế thì tuyệt. Nakata này chả hiểu shiatsu nghĩa là gì, nhưng biết chắc rằng xương cốt là rất quan trọng.”
“Cháu cũng không biết chắc người ta gọi cái ấy là gì – shiatsu, nắn xương hay thuật nắn bóp cột sống – nhưng bất kể gọi là gì, ông vẫn thực sự là một nhân tài về mặt này. Ông mà làm nghề này thì hốt bạc đấy. Ông chỉ cần chữa cho các bạn tài xế của cháu cũng kiếm được khối.”
“Vừa thấy lưng cậu là lão biết ngay là xương bị lệch mà. Hễ thấy cái gì lệch là lão thích nắn lại. Lão đã đóng đồ mộc bao lâu và bất cứ khi nào thấy cái gì vẹo vọ là lão phải chữa cho thẳng thớm. Nakata này là như thế đó. Nhưng đây là lần đầu tiên lão chỉnh xương.”
“Cháu chắc ông được trời phú,” Hoshino nói, vẻ thán phục.
“Nakata này trước đây còn có thể nói chuyện với mèo.”
“Ông không đùa
“Nhưng gần đây, lão không nói chuyện được với chúng nữa. Hẳn là tại Johnnie Walker.”
“Cháu hiểu.”
“Lão ngu ngốc nên không hiểu được những chuyện rắc rối. Và gần đây, có bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra. Chẳng hạn, cá và đỉa từ trên trời rơi xuống.”
“Thật ư?”
“Cơ mà lão rất mừng là đã chữa được cho lưng cậu đỡ hơn. Nếu cậu cảm thấy dễ chịu thì Nakata cũng cảm thấy dễ chịu.”
“Cháu cũng mừng thực sự,” Hoshino nói.
“Thế thì tốt.”
“Giờ ông nhắc đến chuyện đỉa...”
“Phải, Nakata nhớ rất rõ mà.”
“Ông có liên quan gì đến chuyện ấy không?”
Nakata ngẫm nghĩ một lúc, một điều hiếm khi xảy ra. “Chính lão cũng không biết nữa. Lão chỉ biết khi lão giương ô lên, là đỉa bắt đầu rơi xuống rào rào.”
“Ông biết...”
“Điều xấu xa nhất là giết người,” Nakata nói với một cái gật đầu dứt khoát.
“Tuyệt đối đúng. Giết người là xấu, chắc chắn thế.”
“Chính xác,” Nakata nói và lại gật đầu thật lực.
Đến gã Takamatsu, hai ông coống xe và vào một tiệm mì gần ga ăn trưa. Nhìn qua cửa sổ tiệm ăn, có thể thấy mấy cái cần trục trên bến cảng rợp bóng hải âu.
Nakata nhấm nháp từng sợi mì một. “Cái món mì udon này ngon ơi là ngon,” lão nói.
“Ông thích là cháu mừng,” Hoshino nói. “Giờ ông nghĩ sao? Chỗ này có được không?”
“Vâng, Nakata này nghĩ chỗ này tốt đấy.”
“Vậy là ta đã chọn đúng chỗ. Giờ thì ông sẽ làm gì?”
“Lão còn phải tìm phiến đá cửa vào đã.”
“Phiến đá cửa vào?”
“Đúng thế.”
“Hừm, cháu dám chắc đằng sau cái này là cả một câu chuyện dài,” Hoshino nói.
Nakata nghiêng bát mì, húp nốt giọt nước cuối cùng. “Phải, đó là một câu chuyện dài. Dài đến nỗi chính lão cũng không hiểu. Cơ mà Nakata nghĩ là khi nào đến đó, chúng ta sẽ hiểu thôi.”
“Như mọi lần, cứ bao giờ đến nơi thì ông mới hiểu?”
“Đúng thế.”
“Có nghĩa cháu chưa đến thì chưa hiểu được?”
“Phải, chưa đến thì chính lão cũng chưa hiểu.”
“Thôi đủ rồi. Cháu không thích những câu chuyện dài dòng. Dù sao đi nữa, ta vẫn cần phải tìm phiến đá cửa vào ấy, phải không?”
“Chính thế,” Nakata nói.
ậy nó ở đâu?”
“Nakata này không biết.”
“Mình hỏi cũng bằng thừa,” Hoshino vừa nói vừa lắc đầu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:59:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25


Tôi ngủ thiếz đi một lúc, tỉnh dậy, rồi lại ngủ tiếp, cứ thế mấy lần. Tôi không muốn bỏ lỡ cái lúc cô xuất hiện. Thế nhưng tôi đã bỏ lỡ thật - khi tôi ngước lên thì cô đã ngồi ở bàn giấy y như đêm hôm trước. Chiếc đồng hồ cạnh giường tôi chỉ hơn ba giờ một chút. Rõ ràng trước khi đi nằm, tôi đã kéo rèm, vậy mà giờ đây nó lại mở toang. đêm nay không có trăng - đó là điểm khác biệt duy nhất. Trời đầy mây và có thể bên ngoài đang mưa bụi. Bên trong phòng, tối hơn đêm qua nhiều, những ngọn đèn thưa thớt ngoài vườn chỉ hắt vào một ánh sáng yếu ớt qua lá cây. Phải mất một lúc mắt tôi mới quen được với bóng tối.
Cô gái ngồi ở bàn, tì má vào lòng bàn tay, nhìn bức tranh treo trên tường. Cô vẫn mặc bộ đồ như hôm qua. Lần này, mặc dù căng mắt ra nhìn, tôi vẫn không thấy rõ được nét mặt cô vì tối quá. Nhưng kỳ lạ thay, đường nét thân hình cô lại nổi bật lên bồng bềnh trong bóng tối. Không nghi ngờ gì nữa, đây đúng là Miss Saeki hồi trẻ.
Cô có vẻ như đang trầm ngâm suy nghĩ. Hoặc đang đắm mình trong một giấc mơ dài. Dù thế nào, tôi vẫn cố thở thật nhẹ để khỏi khuấy động cảnh tượng trước mắt tôi đây. Tôi không động đậy một ly, chỉ thỉnh thoảng đưa mắt nhìn đồng hồ xem giờ. Thời gian đều đặn, chậm chạp trôi.
Bất chợt, tim tôi bắt đầu rộn lên. Và cái âm thanh giống như tiếng gõ cửa ấy vang lên trong đêm khuya tịch lặng của căn phòng làm tôi ật mình đến nỗi suýt nhảy ra khỏi giường.
Cái bóng đen của cô gái thoáng động đậy. Cô ngước lên và lắng tai nghe. Cô nghe thấy tiếng tim tôi đập. Cô hơi nghiêng đầu, kiểu như một con thú trong rừng tập trung chú ý vào một tiếng động bất thường. Rồi cô quay về phía giường tôi đang nằm. Nhưng tôi biết hình ảnh của tôi không được ghi nhận trong mắt cô: tôi không ở trong giấc mơ của cô. Cô và tôi thuộc về hai thế giới khác nhau, ngăn cách bởi một ranh giới vô hình.
Hồi trống trong ngực tôi lắng xuống cũng nhanh chóng như khi nó bắt đầu. Cả nhịp thở của tôi cũng vậy. Tôi lại thôi không hiện hữu và cô không lắng tai nghe nữa. Cô lại hướng mắt về bức tranh Kafka bên bờ biển, trong tư thế tay chống cằm như cũ. Một lần nữa, trái tim cô lại bị hút về cậu thiếu niên trong cái quang cảnh mùa hè ấy.
Cô ngồi đó khoảng hai mươi phút rồi đi khỏi. Y như đêm trước, cô đứng dậy, đôi chân trần lướt đi không một tiếng động về phía cửa và không cần mở, cứ thế biến ra ngoài. Tôi tiếp tục nằm yên một lúc, rồi cuối cùng trở dậy. Vẫn để đèn tắt, tôi đi trong bóng tối, tới ngồi vào chỗ cô vừa bỏ đi. Tôi đặt cả hai tay lên bàn và cố hấp thụ chút gì còn lại từ sự hiện diện của cô. Tôi nhắm mắt lại, níu đón nhịp tin run rẩy của cô cho nó thẩm thấu vào tim tôi.
Tôi phát hiện ra một điểm chung giữa cô gái và tôi: cả hai chúng tôi đều yêu một người không còn ở trên đời này nữa.
Lát sau, tôi chìm vào một giấc ngủ bất an. Tôi chao đảo như quả lắc đồng hồ một bên là cơ thể cần được nghỉ ngơi và bên kia là tâm trí không thuận theo. Thế rồi sau đó - thậm chi tôi cũng không biết chắc là đã sáng hay chưa - chim hót rộn lên ngoài vườn, làm tôi thức giấc hoàn toàn.
Tôi xỏ chân vào chiếc quần jeans, mặc sơ mi dài tay ra ngoài áo phông, và ra ngoài. Mới hơn năm giờ sáng, chưa có ai khác ra đường. Tôi bỏ lại sau lưng dãy nhà ngoại ô cũ kỹ, đi qua khu rừng thông được trồng để chắn gió, qua con đê chắn sóng và ra tới bãi biển. Một làn gió thoảng mơn man da tôi. Bầu trời giăng một lớp mây xám, nhưng không có vẻ gì là sắp mưa. Một buổi sáng tĩnh lặng, yên bình. Như một lớp cách âm, những đám mây hút kiệt mọi âm thanh từ mặt đất vọng lên.
Tôi dạo bước trên một con đường nhỏ dọc biển , hình dung chàng trai trong bức tranh, tay xách chiếc ghế vải dạo bước cũng trên con đường này, rồi ngồi bên bờ biển. Tuy nhiên, tôi không dám chắc bức tranh mô tả cụ thể quãng nào của bờ biển. Trên tranh, ta chỉ thấy bãi biển, chân trời, bầu trời và mây. Và một hòn đảo. Mà dọc bờ biển thì có nhiều đảo và tôi không nhớ rõ hình thù hòn đảo được thể hiện trong tranh. Tôi ngồi xuống bãi cát, nhìn ra biển và khum tay thành một thứ khung tranh. Tôi hình dung chàng trai đang ngồi đó. Một con hải âu đơn lẻ vật vờ bay ngang bầu trời lặng gió. Những con sóng nhỏ xô bờ, đều đặn từng đợt, để lại trên cát một đường lượn mềm mại li ti những chấm bọt.
Đột nhiên tôi hiểu ra là mình ghen với gã thiếu niên trong tranh.
"Cậu ghen với chàng trai trong tranh," thằng cu tên là Quạ thì thầm vào tai tôi.
Cậu ghen với gã trai hai mươi tuổi tội nghiệp bị tưởng nhầm là một kẻ khác, do đó bị giết uổng vào thời kỳ... ba mươi năm trước đây, phải không nhỉ? Ghen điên cuồng đến phát đau. Đây là lần đầu tiên trong đời, cậu ghen. Giờ thì cậu biết thế nào là một cơn ghen. Nó như một đám cháy rừng thiêu đốt tim ta.
Cả đời, cậu chưa bao giờ ghen tị ai hoặc muốn được như ai - nhưng giờ đây thì cậu thèm muốn địa vị của gã trai ấy hơn hết thảy. Thậm chí, dù biết là năm hai mươi tuổi, gã đã bị nện vào đầu bằng một cái ống sắt rồi đánh đến chết, cậu vẫn sẵn sàng đánh đổi số phận với gã. Cậu bằng lòng làm vậy để có thể yêu Saeki trong năm năm còn lại của đời mình. Và được nàng yêu với tất cả tấm lòng. Được tha hồ ôm nàng trong tay bao lâu tùy thích, làm tình với nàng hết ngày này sang ngày khác. Được vuốt ve mọi bộ phận trên cơ thể nàng và để nàng cũng làm như thế đối với cậu. Và để sau khi cậu chết, mối tình ấy sẽ trở thành một câu chuyện được khắc ghi mãi mãi trong tim nàng. Từng đêm, từng đêm, nàng sẽ yêu cậu trong kỷ niệm.
Phải, cậu đang ở trong một tình huống kỳ lạ. Cậu yêu một cô gái không còn tồn tại và ghen với một chàng trai đã vĩnh viễn ra đi. Mặc dù thế, niềm xúc cảm đang xâm chiếm con tim cậu lại thực hơn, đau đớn hơn bất cứ những gì cậu từng trải nghiệm trước đây. Và không có một lối thoát nào. Không có cơ may nào tìm được đường ra. Cậu đã lạc vào một mê cung của thời gian và điều rắc rối nhất là cậu tuyệt nhiên không mong muốn ra khỏi đó. Có đúng thế không?
Oshima đến muộn hơn hôm qua một chút. Trước khi anh tới, tôi đã kịp hút bụi cả tầng trên lẫn tầng dưới, lau chùi tất cả bàn ghế, mở và lau các cửa sổ, cọ rửa nhà vệ sinh, đổ rác, thay nước các bình hoa. Rồi tôi bật tất cả các đền và hiển thị danh mục trên các máy vi tính. Chỉ còn việc mở cửa nữa thôi.
Oshima kiểm tra công việc của tôi và gật đầu hài lòng. "Em học nhanh đấy, không để phí thời gian."
Tôi đun nước, pha cà phê cho anh. Còn tôi làm một táchy trà Earl Grey như hôm qua. Bên ngoài trời bắt đầu mưa khá nặng hạt. Có tiếng sấm ở đằng xa. Chưa trưa mà đã tối sầm như xế chiều.
"Oshima, em muốn nhờ anh một việc."
"Việc gì?"
"Anh có kiếm đâu được tổng phổ của Kafka bên bờ biển không?"
Oshima nghĩ một thoáng."Nếu có trên trang mạng của một nhà xuất bản âm nhạc nào đó, mình nghĩ cậu có thể trả phí để tải xuống. Để mình kiểm tra rồi sẽ báo cho cậu."
"Cám ơn anh."
Anh ngồi xuống ở một góc quầy, bỏ một viên đường nhỏ xíu vào tách cà phê và lấy thìa khuấy. "Vậy là cậu thích bài hát ấy?"
"Vâng, rất thích."
"Mình cũng mê luôn. Một giai điệu đẹp, độc nhất vô nhị. Đơn giản mà sâu lắng. Nó nói lên nhiều điều về con người đã sáng tác ra nó."
"Tuy nhiên, ca từ lại quá tượng trưng," tôi đánh bạo nhận xét.
"Từ xửa từ xưa, tính tượng trưng và thơ vốn không thể tách rời nhau. Như hải tặc với rượu rhum vậy."
"Theo anh Miss Saeki có hiểu hết ý nghĩa của ca từ không?"
Oshima ngước lên, lắng nghe tiếng sấm như thể đang ước tính xem nó ở bao xa. Rồi quay về phía tôi và lắc đầu. "Không nhất thiết. Tính tượng trưng và ý nghĩa là hai điều riêng rẽ. Mình nghĩ bà tìm ra những từ thật đắt bằn cách vượt qua ý nghĩa và lô gích. Bà "bắt" chữ trong một giấc mơ, như kiểu người ta rón tay túm nhẹ đôi cánh một con bướm dập dờn quanh mình. Nghệ sĩ là những kẻ có khả năng tránh được thói dài dòng văn tự."
"Vậy theo anh, có thể Miss Saeki đã tìm thấy những từ đó ở một không gian khác như trong mơ?
"Đa phần những bài thơ lớn đều như vậy. Nếu những con chữ không tạo nổi một sấm truyền liên thông tới người đọc qua một thứ đường hầm, thì toàn bài không còn là thơ nữa."
"Nhưng khối bài thơ đều chỉ làm ra vẻ thế."
"Đúng vậy. Đó là một thứ thủ thuật và một khi biết cách, thì chẳng có gì là khó. Chỉ cần dùng một số từ nghe có vẻ tượng trưng là toàn bộ mang dáng dấp một bài thơ rồi."
"Em cảm thấy trong Kafka bên bờ biển có một cái gì khẩn cấp và nghiêm trọng."
"Mình cũng thế," Oshima nói. "Lời ca không chỉ là một cái gì hời hợt trên bề mặt. Nhưng trong tâm trí mình, lời ca và giai điệu không tách rời nhau, mình không thể xem xét lời ca như là thơ thuần túy và quyết định là tự thân nó có sức thuyết phục đến mức nào. (Anh khẽ lắc đầu). "Dù sao đi nữa, rành là bà có tài trời phú và khả năng âm nhạc đích thực. Bà cũng có đầu óc khá thực tế để nắm bắt thời cơ. Nếu cái sự kiện khủng k hiếp kia không khiến bà rút khỏi thế sự, mình dám chắc bà đã phát triển tài năng tiến xa hơn nữa. Thật đáng tiếc..."
"Vậy tài năng đó đi đâu mất rồi?"
Oshima nhìn tôi. "Cậu hỏi tài năng của Miss Saeki biến đi đâu sau khi bạn trai của bà chết?"
Tôi gật đầu. "Nếu tài năng là một năng lượng tự nhiên thì nó phải tự thể hiện ra bằng cách này hay cách khác chứ?"
"Mình không biết," anh đáp. "Không ai có thể tiên đoán hướng đi của tài năng. Có khi nó biến mất hẳn. Hoặc giả nó lặn sâu xuống như một dòng nước ngầm và chảy đi đâu có trời biết."
"Có thể Miss Saeki tập trung tài năng của mình vào một lĩnh vực khác ngoài âm nhạc chăng?" tôi đoán.
"Vào một lĩnh vực khác?" Oshima nhíu mày, quan tâm ra mặt. "Cụ thể là thế nào?"
Tôi không tìm ra lời để diễn đạt. "Em không biết... Em chỉ cảm thấy là có thể như thế thôi. Có thể là vào một cái gì đó vô hình."
"Vô hình?"
"Một cái gì người khác không nhìn thấy, một thứ gì đó mà người ta theo đuổi cho riêng mình. Một quá trình nội tâm."
Oshima vuốt lại mớ tóc xõa xuống trán, những sợi mềm như chảy giữa những ngón tay thanh mảnh. "Đó là một ý hay. Sau khi trở lại thành phố, có thể Miss Saeki đã dùng tài năng của mình vào một điều gì đó mà ta không biết, hay để dùng chữ của cậu, vào một cái gì đó vô hình. Nhưng xin nhớ là bà đã biến mất khoảng hai mươi lăm năm, cho nên không cách nào biết chắc được trừ phi ta trực tiếp hỏi bà."
Tôi lưỡng lự một chút rồi quyết định cứ hỏi. "Em có thể hỏi anh một điều thật sự ngớ ngẩn được không?"
"Thật sự ngớ ngẩn ư?"
Tôi đỏ mặt. "Hoàn toàn phi lý."
"Không sao. Mình không nhất thiết phản đối những gì ngớ ngẩn hay phi lý."
"Em thậm chí không thể tin là mình dám mở miệng nói điều này với ai."
Oshima hơi nghiêng đầu, đợi tôi nói tiếp.
"Liệu có khả năng Miss Saeki là... là mẹ em được không?"
Oshima ngả người dựa vào quầy, ngẫm nghĩ tìm lời chữ cho chính xác. Chiếc đồng hồ trên tường trên tường tích tắc đếm từng giây trong khi tôi chờ đợi.
Cuối cùng, anh lên tiếng. "Vậy điều cậu muốn nói là thế này: năm Miss Saeki hai mươi tuổi, tuyệt vọng, rời khỏi Takamatsu đến sống một mình ở một nơi nào đó, bà tình cờ gặp cha cậu, ông Koichi Tamura, và hai người lấy nhau, đẻ ra cậu. Rồi bốn năm sau, xảy ra chuyện gì đó khiến bà bỏ nhà đi, để cậu lại. Sau đó là một khoảng trống mù mịt cho đến khi bà xuất hiện trở lại ở Shikoku. Mình hiểu như thế có đúng không?"
"Vâng."
"Điều đó không phải là bất khả. Mình muốn nói: cho đến giờ, không có bằng cứ nào để bác bỏ giả thuyết của cậu. Quá nhiều điều trong cuộc đời bà vẫn còn là một bí mật hoàn toàn. Người ta đồn là bà đã từng sống ở Tokyo. Hơn nữa, bà lại trạc tuổi cha cậu. Tuy nhiên, khi trở về Takamatsu, bà chỉ có một mình. Cậu nói chị gái cậu bao nhiêu tuổi?"
"Hăm mốt."
"Bằng tuổi mình," Oshima nói. "Nhưng mình không phải là chị cậu, cái đó thì mình biết chắc. Mình có cha mẹ và anh trai - tất cả cùng máu mủ ruột rà. Một gia cảnh quá tốt đối với mình." Anh khoanh tay lại và nhìn tôi một lúc. "Mình cũng có một điều muốn hỏi cậu. Cậu có bao giờ xem giấy khai sinh của mình không? Nếu có, ắt cậu phải biết tên tuổi của mẹ cậu chứ?"
"Dĩ nhiên là em có xem."
"Vậy trong đó ghi tên mẹ cậu là gì?"
"Người ta không ghi tên mẹ em
Oshima có vẻ kinh ngạc. "Không ghi? Sao lại có thể thế được?"
"Không có tên mẹ em. Không đùa đâu. Em không hiểu tại sao lại thế. Theo giấy khai sinh thì em không có mẹ. Cũng chẳng có chị gái. Chỉ có tên cha em và tên em trong giấy khai sinh. Về phương diện pháp lý, em là một đứa con hoang. Một đứa con ngoài giá thú."
"Nhưng thực tế, cậu đã từng có một người mẹ và một chị gái mà."
Tôi gật đầu. "Đúng vậy, cho đến năm em lên bốn. Một gia đình bốn người chung sống, đó không phải chỉ là tưởng tượng. Em còn nhớ rất rõ mà. Ít lâu sau khi em tròn bốn tuổi, mẹ em bỏ đi mang theo chị em."
Tôi rút ví, đưa cho Oshima xem tấm ảnh hai chị em tôi chơi trên bãi biển. Anh ngắm một lúc, mỉm cười rồi trả lại tôi.
"Kafka bên bờ biển," anh nói.
Tôi gật đầu và cất ấm ảnh trở vào ví. Bên ngoài, gió xoáy lộn, táp mưa vào cửa kính lộp độp. Ngọn đèn trần hắt bóng tôi và Oshima trên sàn nhà, khiến chúng tôi nom giống như hai kẻ đang bàn bạc một âm mưu tăm tối nào đó ở một thế giới nghịch đảo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 13:04:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25 (tiếp)


"Em không nhớ mặt mẹ mình ư?" Oshima hỏi. "Em sống với mẹ đến năm lên bốn, chắc phải nhớ mang máng dáng nét của bà chứ?"
Tôi lắc đầu. "Em hoàn toàn không nhớ nổi. Em không biết tại sao, nhưng trong bộ nhớ của em, cái chỗ đáng lẽ phải lưu giữ gương mặt mẹ lại là một vệt tối đen, một khoảng trống."
Oshima ngẫm nghĩ một lúc. "Hãy nói thêm cho anh nghe tại sao em lại nghĩ Miss Saeki có thể là
"Thôi, chừng nấy là đủ rồi," tôi nói. "Ta hãy quên chuyện đó đi. Em đã tưởng tượng quá nhiều, thế thôi."
"Không sao, em cứ nói tiếp tất cả những gì em nghĩ trong đầu đi," anh nói. "Rồi hai anh em mình sẽ có thể xác định đó có phải tại em tưởng tượng quá nhiều hay không?"
Cái bóng của Oshima trên sàn chuyển động theo những cử chỉ của anh, tuy có hơi phóng đại lên một tí.
"Có rất nhiều sự trùng hợp giữa em và Miss Saeki," tôi nói. "Y như những miếng trong trò chơi ghép hình chắp vừa khít vào nhau vậy. Em hiểu ra điều đó khi nghe bài Kafka bên bờ biển. Trước hết là việc em ị hút đến cái thư viện này như thể do số phận đưa đẩy. Thẳng một mạch từ Nakano đến Takamatsu. Ngẫm ra thì rất kỳ lạ."
"Như tình tiết của một bi kịch Hy Lạp vậy."
"Thế rồi, em đâm yêu," tôi nói thêm.
"Yêu Miss Saeki?"
"Vâng, có lẽ thế."
"Có lẽ?" Oshima cau mày nhắc lại. "Cậu muốn nói có lẽ cậu đang yêu? Hay có lẽ cậu yêu Miss Saeki?"
Tôi đỏ mặt. "Em thực sự không thể giải thích được rõ ràng," tôi đáp. "Thật phức tạp và có nhiều điều chính em cũng không hiểu."
"Nhưng cậu nghĩ có lẽ cậu đang yêu, có lẽ cậu yêu Miss Saeki?"
"Đúng," tôi nói. "Rất yê
"Có lẽ, mà lại là rất yêu."
Tôi gật đầu.
"Đồng thời lại cũng có thể Miss Saeki là mẹ cậu?"
Lại một cái gật đầu đặc trưng của tôi.
"Với một thiếu niên mười lăm tuổi thậm chí chưa cần đến dao cạo râu, hành trang cậu mang theo quả là nặng nề," Oshima nhấp một ngụm cà phê và thận trọng đặt tách lên đĩa. "Mình không nói thế là dở, mà chỉ nhận xét rằng cái gì cũng có giới hạn của nó."
Tôi không nói gì.
Oshima đưa tay lên bóp thái dương và trầm ngâm. Rồi chắp tay trước ngực, nói "Mình sẽ cố tìm bản tổng phổ ấy trong thời gian sớm nhất có thể. Những việc còn lại ở đây, mình có thể tự làm nốt, vậy cậu về phòng nghỉ đi."
Đến giờ ăn trưa, tôi ra thay Oshima ở quầy trước. Hôm nay ít khách hơn mọi khi, có lẽ vì mưa liên tục. Khi trở lại sau giờ nghỉ, Oshima đưa cho tôi một chiếc phong bì lớn đựng bản tổng phổ của Kafka bên bờ biển in ra từ máy vi tính.
"Chúng ta đang sống trong một thế giới tiện lợi thật," anh nói.
"Cám ơn anh," tôi nói.
"Nếu không phiền, cậu có thể pha một tách cà phê mang lên gác được không? Đen, không kem, không đường. Cậu pha cà phê ngon lắm."
Tôi pha một tách mới, đặt vào khay, mang lên tầng hai. Như mọi khi, phòng Miss Saeki để mở và bà đang ngồi bên bàn làm việc. Khi tôi đặt cà phê lên bàn, bà ngước mắt nhìn tôi, mỉm cười, rồi đậy nắp chiếc bút máy lại, đặt lên chồng giấy.
"Thế nào, cháu đã quen với mọi thứ ở đây chưa?"
"Dần dần ạ," tôi trả lời.
"Giờ cháu có rảnh không?"
"Thưa có ạ," tôi nói.
"Vậy thì cháu ngồi xuống đi," Miss Saeki chỉ chiếc ghế gỗ cạnh bàn. "Chúng ta nói chuyện một lúc."
Trời lại bắt đầu nổi sấm ở đằng xa, rồi mỗi lúc một gần lại. Tôi làm theo lời bà và ngồi xuống ghế.
"Nhắc lại xem, cháu bao nhiêu tuổi? Mười sáu?"
"Mười lăm. Cháu vừa tròn mười lăm."
"Cháu bỏ nhà đi, phải không?"
"Vâng."
"Có lý do gì khiến cháu phải làm thế không?"
Tôi lắc đầu. Tôi biết nói gì đây?
Miss Saeki nhấc tách cà phê lên, nhấp một ngụm trong khi chờ tôi trả lời.
"Cháu cảm thấy nếu ở lại đó, cháu sẽ hỏng không cách chi cứu chữa nổi."
"Hỏng ư?" Miss Saeki nheo mắt, nói.
"Vâng," tôi nói.
Ngừng một lát, Miss Saeki lại nói. "Một cậu bé ở tuổi của cháu mà dùng cái từ hỏng, nghe cũng kỳ lạ. Có phải nói là cháu làm cô tò mò đấy. Chính xác ra, cháu nỏi hỏng theo nghĩa nào?"
Tôi tìm chữ để diễn giải cho đúng. Trước hết, tôi tìm gã thanh niên tên là Quạ, nhưng chẳng thấy gã đâu. Thành thử tôi phải tự túc lựa chọn chữ lựa lời và như vậy phải mất thời gian. Nhưng Miss Saeki vẫn kiên nhẫn chờ. Ngoài trời, chớp lóe lên và lát sau, sấm vang rền ở đằng xa.
"Cháu muốn nói là cháu sẽ có nguy cơ biến chất thành một thứ mà cháu không muốn là thế."
Miss Saeki nhìn tôi với vẻ quan tâm đặc biệt. "Với thời gian, rốt cuộc, tất cả mọi người đều sẽ hỏng, sẽ biến thành một cái gì khác. Sớm muộn, điều đó tất sẽ xảy ra thôi."
"Nhưng ngay cả nếu điều đó xảy ra, người ta vẫn cần có một chốn để quay về."
"Một chốn để quay về?"
"Một chốn đáng để quay về."
Miss Saeki nhìn thẳng vào mặt tôi.
Tôi đỏ mặt, rồi lấy hết can đảm ngước lên nhìn lại bà. Bà mặc một chiếc áo liền váy ngắn tay màu xanh nước biển. Chắc bà phải có cả một tủ đầy những áo váy màu xanh với những sắc độ khác nhau. Ngoài trang phục chính, bà chỉ đeo thêm một vòng cổ mảnh bằng bạc và một đồng hồ tay nhỏ xíu với dây da màu đen. Tôi tìm cô gái mười lăm tuổi ở nơi bà và thấy ngay lập tức. Cô đang thiêm thiếp náu mình trong khu rừng của hình ảnh trong phim nổi. Nhưng nhìn thật kỹ là phát hiện được thôi. Tim tôi lại bắt đầu đập rộn lên như có ai đóng cái đinh dài vào thành ngực bao quanh nó.
"So với tuổi mười lăm, cháu quả là rất biết lẽ đúng sai."
Tôi không biết trả lời ra sao.
"Hồi cô mười lăm," Miss Saeki nói với một nụ cười, "cô chỉ muốn đi biệt đến một thế giới khác, đến một nơi ngoài tầm của tất cả mọi người. Một nơi ngoài dòng chảy của thời gian."
"Nhưng làm gì có nơi nào như thế."
"Đúng. Vì thế mà cô đành sống ở đây, trong cái thế gian này, nơi mà mọi thứ cứ liên tục hỏng đi, lòng người luôn thay đổi và thời gian thì cứ trôi chảy không ngừng." Bà im lặng một lát như để ám chỉ sự trôi chảy của thời gian. "Nhưng cháu biết đấy," bà nói tiếp, "khi cô mười lăm tuổi, cô nghĩ là hẳn phải có một nơi như vậy trên thế gian này. Cô tin chắc ở đâu đó, mình sẽ tìm thấy cửa vào cái thế giới kia."
"Hồi mười lăm tuổi, cô có cảm thấy cô đơn không?"
"Có, theo một nghĩa nào đó. Cô không trơ trọi một mình, nhưng cô cảm thấy cô đơn ghê gớm. Bởi vì cô biết mình sẽ không bao giờ hạnh phúc hơn lúc đó. Cô biết chắc thế. Vì vậy nên cô mới muốn đi đến một nơi nào đó không có thời gian để có thể mãi mãi giữ nguyên trạng thái hạnh phúc đó."
"Cháu thì lại muốn lớn lên nhanh thôi."
Miss Saeki ngả người ra sau để nhìn cho kỹ sắc diện của tôi. "Cháu hẳn là mạnh mẽ và độc lập hơn cô hồi ấy. Ở tuổi cháu, cô mang đ̐ tưởng rằng mình có thể trốn thoát thực tại, còn cháu thì đứng thẳng đối mặt với thực tại, đương đầu với nó. Thật khác xa nhau."
Mạnh mẽ và độc lập ư? Cả hai phẩm chất ấy, tôi đều không có. Tôi chỉ bị thực tại xô đẩy về phía trước, dù tôi muốn hay không. Nhưng tôi không nói gì.
"Cháu biết không, cháu là cô nhớ đến một thiếu niên mười lăm tuổi cô quen hồi xưa."
"Cậu ấy nom có giống cháu không?" tôi hỏi.
"Cháu cao hơn và lực lưỡng hơn cậu ấy, nhưng có một nét giống. Cậu ấy không thích trò chuyện với đám trẻ cùng tuổi - không đồng cảm mà - cho nên phần lớn thời gian, cậu ta cứ ru rú trong phòng đọc sách hoặc nghe nhạc. Khi gặp những đề tài khó, cậu ta cũng cau mày, y hệt cháu. Cháu cũng ham đọc, đúng không?"
Tôi gật đầu.
Miss Saeki liếc nhìn đồng hồ. "Cám ơn cháu về tách cà phê."
Hiểu ý bà muốn bảo tôi lui, tôi đứng dậy và đi ra cửa. Miss Saeki cầm chiếc bút máy lên, chậm rãi xoáy nắp ra và lại cắm cúi viết. Lại một tia chớp lóe bên ngoài, nhuộm đẫm căn phòng một màu kỳ lạ trong thoáng chốc. Tiếng sấm đến sau một lát, lần này nghe gần hơn.
"Kafka," Miss Saeki gọi.
Tôi dừng bước ở cửa và quay lại.
"Cô chợt nhớ có lần cô đã viết một cuốn sách về sét."
Tôi không nói gì. Một cuốn sách về sét"Cô đã đi khắp nước phỏng vấn những người sống sót sau khi bị sét đánh. Cô bỏ mấy năm để làm việc ấy. Hầu hết các cuộc phỏng vấn đều rất lý thú. Một nhà xuất bản nhỏ đã ấn hành, nhưng chả bán được mấy. Cuốn sách không đưa ra một kết luận nào và không ai muốn đọc một cuốn sách không kết luận. Tuy nhiên, cô nghĩ, không có kết luận là chuyện hoàn toàn bình thường."
Trong đầu tôi, một cái búa nhỏ xíu gõ vào một ngăn kéo của bộ nhớ, riết róng. Tôi cố nhớ lại một điều gì đó, một điều rất quan trọng, nhưng tôi không biết đó là gì. Lúc này, Miss Saeki đã trở lại với bài viết của mình và tôi quay về phòng riêng.
Cơn mưa giông tiếp tục khủng bố chúng tôi khoảng một giờ nữa. Sấm dồn dập liên hồi đến nỗi tôi sợ các cửa kính của thư viện đến vỡ tan tành mất. Mỗi lần một tia sét rạch ngang bầu trời, cửa sổ kính mờ ở chiếu nghỉ cầu thang lại phóng chiếu lên bức tường trắng đối diện một hình ảnh tựa như bóng ma của quá khứ. Khoảng hai giờ chiều, cơn giông ngớt và ánh sáng vàng vọt bắt đầu lách mây rọi xuống, như thể cuối cùng, đất trời đã đi đến hòa giải. Nước mưa vẫn tí tách nhỏ xuống trong nắng nhạt.
Xế chiều, tôi bắt đầu đóng cửa thư viện. Miss Saeki chào tạm biệt tôi và Oshima rồi lên xe về nhà. Tôi nghe thấy tiếng động cơ chiếc Golf của bà và hình dung bà ngồi sau tay lái, vặn chìa khóa khởi động máy. Tôi bảo Oshima là tôi có thể khóa nốt các cửa một mình. Anh vào phòng vệ sinh, vừa rửa ráy vừa huýt sáo một aria trong ca kịch rồi ra về. Tôi lắng nghe chiếc Mazda Miata nổ máy lao đi, tiếng động cơ tắt dần ở đằng xa. Giờ thì thư viện hoàn toàn thuộc về tôi. Không gian lại tĩnh mịch hơn bao giờ hết.
Tôi về phòng, nghiên cứu bản tổng phổ của Kafka bên bờ biển. Như tôi đoán, phần lớn các hợp âm đều đơn giản. Tuy nhiên, đoạn điệp khúc có một ố hợp âm hắc búa. Tôi ra phòng đọc và thử chơi trên chiếc piano đứng. Ngón bấm quả là rất khó, tôi tập đi tập lại, cố luyện tay cho thuần và cuối cùng, cũng đánh được tàm tạm. Thoạt đầu, các hợp âm nghe rất "phô", tôi tưởng là do lỗi nhà in hoặc đàn sai dây. Nhưng rồi càng nghe kỹ hai hợp âm đó nối tiếp nhau cộng hưởng như thế nào, tôi càng vỡ lẽ ra: toàn bộ bài hát dựa trên hai hợp âm đó. Chúng giữ cho Kafka bên bờ biển khỏi xuống cấp thành một ca khúc pop tầm thường, đem lại cho nó một chiều sâu và tố chất đặc biệt. Nhưng làm thế nào Miss Saeki tìm ra được những hợp kỳ diệu đó?
Tôi trở về phòng, đun nước trong chiếc siêu điện, pha trà. Tôi lấy ra những chiếc đĩa cũ lấy ở buồng kho và lần lượt đặt lên máy quay đĩa: Blonde on Blonde của Bob Dylan, White Album của nhóm Beatles, Dock of the Bay của Otis Redding, Getz/Gilberto của Stan Getz, tất cả đều là những album nổi bật của hồi cuối những năm 1960. Chàng trai dạo xưa (cùng với Miss Saeki kề bên) hẳn cũng đã làm như tôi bây giờ: đặt đĩa lên máy, hạ cần kim xuống, lắng nghe nhạc phát ra từ bộ loa nhỏ này. Tiếng nhạc như đưa tôi và cả gian phòng tới một thời nào khác, tới một thế giới trước khi tôi ra đời. Trong khi thưởng thức âm nhạc, tôi ôn lại cuộc trò chuyện chiều nay, cố nhớ chính xác từng lời từng chữ.
"Khi cô mười lăm tuổi, cô nghĩ là hẳn phải có một nơi như vậy trên thế gian này. Cô tin chắc ở đâu đó, mình sẽ tìm thấy cửa vào cái thế giới kia."
Tôi có thể nghe thấy tiếng bà ngay bên cạnh. Trong tim tôi, có cái gì đang gõ vào một cánh cửa, một tiếng gõ nặng nề, riết róng.
Một cửa vào.
Tôi nhấc kim lên khỏi đĩa album của Stan Getz, lấy đĩa Kafka bên bờ biển ra khỏi bao, đặt lên máy, hạ kim xuống. Và lăng nghe tiếng hát của Miss Saeki.
Cô gái chết đuối huơ tay tìm
Phiến đá cửa vào
Nâng gấu váy màu thiên thanh
Và đăm đăm nhìn
Kafka bên bờ biển
Rất có thể là cô gái mấy đêm nay đến phòng tôi đã tìm ra phiến đá cửa vào. Cô vẫn ở một thế giới khác, cũng như lúc cô còn tuổi mười lăm và hằng đêm cô tới thăm căn phòng này. Trong chiếc áo váy màu thiên thanh, cô đến đăm đăm nhìn Kafka bên bờ biển.
Đột nhiên, không biết do đâu, tôi bỗng nhớ là cha tôi từng kể rằng ông đã có lần bị sét đánh. Không phải ông trực tiếp kể cho tôi nghe mà là tôi đọc được trong một bài phỏng vấn ông trên một tạp chí. Hồi còn là sinh viên trường mỹ thuật, ông đi làm nửa thời gian ở một sân golf, mang gậy cho các đấu thủ. Một hôm, đang mang gậy cho người khách chơi trên sân, trời bỗng tối sầm lại và nổi cơn giông lớn. Họ vừa nấp vào dưới một cây to thì cây đó bị sét đánh nứt đôi. Tay chơi golf chết ngay, nhưng cha tôi, nhờ một linh tính nào đó, đã kịp thời nhảy ra khỏi cây. Ông chỉ bị cháy sém tóc và vài vết bỏng nhẹ, đồng thời hơi sét đã hất ông văng vào một tảng đá. Đầu bị va mạnh, ông ngất đi, nhưng qua khỏi cơn nguy biến với chỉ một vết sẹo trên trán. Đó chính là điều tôi đã cố nhớ lại hồi chiều lúc đứng ở khung cửa phòng Miss Saeki, lắng nghe tiếng sấm dồn. Chính sau khi bình phục khỏi những vết thương, cha tôi mới nghiêm túc chuyên tâm vào sự nghiệp điêu khắc của mình.
Có lẽ trong khi đi khắp n phỏng vấn những người bị sét đánh để hoàn thành cuốn sách của mình, Miss Saeki đã gặp cha tôi. Đó là điều hoàn toàn có thể. Những người sống sót sau khi bị sét đánh chắc hẳn không nhiều lắm.
Tôi thở rất nhẹ nhàng, chờ bình minh. Ánh trăng rẽ mây rọi xuống đám cây trong vườn. Có quá nhiều sự trùng hợp. Dường như tất cả đang tăng tốc, đồng quy tới một nơi duy nhất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 13:08:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 26


Đã xế chiều và họ phải tìm chỗ nghỉ lại qua đêm. Hoshino đến phòng thông tin du lịch ở ga Takamatsu và đặt được một phòng ở một quán trọ xuồng xĩnh, nhưng được cái gần ga, có thể đi bộ tới. Cả Hoshino lẫn Nakata đều bất cần, miễn sao có cái futon[24] trải ra để ngủ là tốt rồi. Cũng như ở quán trọ trước, điểm tâm được phục vụ miễn phí, nhưng các bữa chính phải tự túc. Điều này hoàn toàn phù hợp với Nakata, bởi lão có thể lăn ra ngủ bất cứ lúc nào.
Một khi về phòng, Nakata liền bảo Hoshino nằm sấp trên futon, rồi ngồi xổm lên và ấn cả hai ngón tay cái dọc theo phần lưng, kiểm tra cẩn thận tình trạng các cơ và đốt sống. Lần này, lão nhẹ tay hơn nhiều, chỉ lần theo sống lưng và kiểm tra xem các cơ căng đến mức nào.
“Có gì trục trặc không?” Hoshino hỏi.
“Không, tất cả đều ổn. Hiện Nakata này không thấy có gì trục trặc với cậu cả. Xương sống cậu ngon rồi.”
“Nghe mà nhẹ cả người,” Hoshino nói. “Cháu không muốn bị một chầu tra tấn cực hình nữa.
“Lão biết. Nakata này thực tình xin lỗi. Cơ mà cậu đã bảo là cậu không sợ đau cho nên lão mới làm tới và ra sức bấm cật lực.”
“Phải, cháu biết là cháu đã nói thế. Cơ mà ông nội này, cái gì cũng có giới hạn. Đôi khi ông phải biết điều chứ. Nhưng thiết nghĩ cháu cũng không nên phàn nàn: ông đã nắn lại lưng cho cháu. Cơ mà, chu cha, cả đời cháu chưa bao giờ cảm thấy cái gì như thế - đau không thể tưởng tượng nổi! Cứ như là bị xé toạc ra, chết đi sống lại!”
“Nakata này đã từng chết ba tuần liền.”
“Không đùa đấy chứ,” Hoshino nói. Vẫn nằm sấp mặt, gã tợp một ngụm trà và nhai mấy chiếc bánh quy giòn mua ở một cửa hàng bán 24/24. “Vậy là ông đã chết thật à?”
“Lão đã từng.”
“Suốt thời gian ấy, ông ở đâu?”
“Nakata này chẳng nhớ. Dường như lão ở một nơi nào đó, làm một việc gì khác. Nhưng đầu lão cứ bồng bà bồng bềnh và lão chẳng nhớ được điều gì sất. Thế rồi lão lại trở về với thế gian này và thấy mình thành ngơ ngẩn, không biết đọc biết viết nữa.”
“Chắc ông bỏ lại khả năng biết đọc biết viết ở bên kia.”
“Có thể.”
Hai ông con im lặng một lúc. Hoshino quyết định tốt nhất là cứ nên tin những gì ông lão kể, cho dù câu chuyện nghe thật quái dị. Đồng thời gã cũng cảm thấy ngại ngùng, e rằng tiếp tục đi sâu vào cái ý niệm “chết ba tuần liền” sẽ khiến gã rơi vào một tình huống hỗn mang ngoài tầm kiểm soát. Tốt hơn là lái cuộc trò chuyện những vấn đề thiết thực hơn. “Ông Nakata, bây giờ ta đã ở Takamatsu, vậy ông định đi đâu nào?”
“Lão không biết,” Nakata đáp. “Lão chưa biết lão phải đi đâu.”
“Thế cái phiến đá cửa vào ấy thì sao?”
“À phải! Nakata này quên bẵng đi mất. Chúng ta phải tìm thấy cái phiến đá ấy. Cơ mà lão chẳng có manh mối nào để dò tìm cả. Đầu óc lão cứ bồng bà bồng bềnh trong một đám sương mù không chịu tan đi. Lão vốn đã chẳng sáng dạ gì, lại thêm những thứ này lại càng rắc rối.”
“Vậy là chúng ta hơi bị bế tắc đấy, phải không?”
“Phải, lão đồ là thế.”
“Mà ngồi trơ mắt nhìn nhau thì chẳng hay ho gì. Như thế sẽ chẳng giúp ta đi đến đâu.”
“Cậu nói chí phải.”
“Cháu nghĩ ta phải đi loanh quanh hỏi mọi người, nếu quả phiến đá ấy ở đâu đó trong vùng này.”
“Nếu cậu bảo thế thì Nakata này sẵn sàng làm thế. Gì chứ lân la hỏi mọi người thì lão khá thạo vì lão vốn tối dạ mà.”
“Ông nội cháu thường nói: hỏi một lần thì bối rối một lúc, không hỏi thì bối rối cả đời.”
“Chí lý. Chết là hết, mọi thứ hiểu biết đều biến mất.”
“Ồ, ý ông nội cháu không hẳn là thế,” Hoshino gãi đầu nói. “Dù sao đi nữa, ông có mường tượng cái phiến đá ấy ra sao không? Đó là loại đá gì, to chừng nào, hình thù, màu sắc thế nào? Dùng để làm gì? Nếu ta không có một số chi tiết thì rất khó hỏi. Sẽ chẳng ai biết mô tê gì nếu chúng ta chỉ nói: Quanh đây có một phiến đá cửa vào nào không? Họ sẽ nghĩ chúng ta điên. Ông hiểu ý cháu chứ?”
“Vâng, lão hiểu. Lão có thể là đần độn, nhưng không điên.”
“Đúng.”
“Phiến đá Nakata này đang tìm rất đặc biệt. Nó không to lắm. Màu trắng, không có mùi gì cả. Lão không biết nó dùng để làm gì. Nó tròn, tựa như cái bánh đa.” Lão giơ hai tay lên phác một hình bằng cỡ một đĩa hát 33 vòng/phút.
“Hmm. Vậy nếu thấy nó, liệu ông có thể nhận ra được không? Kiểu như... A đây rồi!”
“Nakata này có thể nhận ra ngay lập tức.”
“Chắc đằng sau nó phải có một câu chuyện hoặc một giai thoại nào đó chứ. Có thể nó rất nổi tiếng và đã được trưng bày tại một miếu thờ hay một nơi nào đó chăng?”
“Lão đồ là có thể thế.”
“Hoặc có thể nó chỉ đơn giản ở trong một ngôi nhà nào đó và người ta dùng nó để nén dưa muối chẳng hạn.”
“Không, không thể như thế được.”
“Tại sao không?”
“Vì không ai có thể vần phiến đá ấy đi được.”
“Không ai khác trừ ông, ông định nói thế chứ gì?”
“Phải, lão nghĩ Nakata này có thể vần được
“Cứ cho là ông di chuyển được nó, sau đó thì sao?”
Nakata làm một điều khác thường: suy nghĩ hồi lâu. Ít nhất thì coi bộ lão cũng có vẻ đang suy nghĩ, bằng vào cách lão cứ vò miết mái tóc muối tiêu cắt ngắn.
“Cái đó thì thực sự lão không biết,” cuối cùng lão nói. “Lão chỉ biết lã đã đến lúc phải có ai đó vần nó đi.”
Đến lượt Hoshino ngẫm nghĩ. “Và ai đó chính là ông, phải không? Ít nhất là vào lúc này.”
“Phải,” Nakata đáp, “đúng thế.”
“Và phiến đá đó chỉ có thể tìm thấy ở Takamatsu?”
“Không nhất thiết. Thực ra, nó ở đâu không thành vấn đề. Có điều, đúng lúc này đây, nó đang ở Takamatsu. Giá nó ở quận Nakano thì dễ dàng hơn biết mấy.”
“Nhưng di chuyển một phiến đá đặc biệt như thế chắc hẳn là nguy hiểm.”
“Phải. Lẽ ra Nakata này không nên nói ra, nhưng quả là rất nguy hiểm.”
“Chà,” Hoshino chậm rãi lắc đầu. Gã đội chiếc mũ Chunichi Dragons lên đầu, để thòi mái tóc đuôi ngựa ra sau lưng. “Bắt đầu giống một bộ phim Indiana Jones rồi đây.”
Sáng hôm sau, họ đi ra trạm thông tin du lịch ở ga để hỏi xem có phiến đá nổi tiếng nào ở Takamatsu hoặc vùng lân cận không.
“Phiến đá ư?” cô gái đứng sau quầy hỏi lại, hơi cau mày. Cô đã được đào tạo để giới thiệu tất cả những điểm du lịch thông thường, ngoài ra không có gì khác và câu hỏi này rõ ràng làm cô bối rối. “Các vị tìm loại đá gì ạ?”
“Một phiến đá hình tròn, to bằng thế này này,” Hoshino vừa nói vừa khum tay thành một hình tròn bằng chiếc đĩa hát 33 vòng/phút như Nakata đã mô tả cho gã. “Người ta gọi nó là phiến đá cửa vào.”
“Phiến đá cửa vào.”
“Phải. Tên nó là thế. Tôi nghĩ là nó rất nổi tiếng.”
“Nhưng cửa vào cái gì?”
“Nếu tôi biết là vào cái gì thì tôi đã chẳng phải mất công đi hỏi han lôi thôi như thế này.”
Cô gái nghĩ một lúc. Trong khi đó, Hoshino nhìn chằm chằm vào mặt cô. Cũng khá xinh đấy, gã nhận định, tuy nhiên hai con mắt cách nhau hơi xa khiến cô có cái vẻ của một con bò cảnh giác đề phòng. Cô gọi mấy cú điện thoại, nhưng xem ra chẳng đi đến đâu.
“Rất tiếc,” cuối cùng cô nói. “Không ai từng nghe nói về một phiến đá có cái tên như thế.”
“Thế ư?”
Cô lắc đầu. “Xin lỗi, cho tôi hỏi, hai vị đến đây chỉ cốt để tìm phiến đá ấy?”
“À, chỉ cốt hay không thì tôi không rõ. Dù sao đi nữa, tôi đến từ Nagoya, còn ông già này từ quận Nakano, Tokyo.”
“Vâng, Nakata này ở quận Nakano,” Nakata phụ họa. “Lão đã quá giang nhiều xe tải và thậm chí có lần còn được đãi món lươn nữa kia... Lão đi suốt chặng đường xa như thế mà chưa tiêu đến một xu nào từ tiền túi của mình.
“Cháu...” cô gái nói.
“Không sao. Nếu không ai nghe nói về phiến đá ấy thì đâu phải lỗi tại cô. Nhưng có thể người ta gọi nó bằng một cái tên khác chăng. Liệu có một phiến đá nào khác cũng nổi tiếng ở quanh đây không? Có thể là một cái gì gắn liền với một truyền thuyết dân gian? Hay là một hòn đá thiêng mà bà con đến cầu khấn? Bất cứ cái gì từa tựa như thế?”
Cô gái rụt rè nhìn Hoshino bằng đôi mắt hơi cách xa nhau, quan sát từ chiếc mũ Chunichi Dragons, mái tóc kiểu đuôi ngựa, chiếc kính râm mắt xanh cho đến đôi khuyên tai và chiếc sơ mi Hawai. “Tôi rất vui lòng chỉ đường cho các vị tới thư viện công cộng của thành phố, các vị có thể tìm thông tin về phiến đá tại đó. Rất tiếc, tôi không biết gì mấy về đá.”
Tuy nhiên, thư viện cũng chẳng giúp ích được gì: ở đây không có cuốn sách nào chuyên khảo về đá ở Takamatsu hoặc quanh đó. Cô thủ thư đặt phịch xuống trước mặt họ một chồng sách gồm Truyền thuyết của tỉnh Kagawa, Truyện cổ tích của Kobo Daishi, Lịch sử Takamatsu cùng nhiều cuốn đại loại như thế và nói họ có thể tìm trong đó xem có đoạn nào liên quan không. Thở dài đánh thượt, Hoshino bắt đầu lật giở các trang sách. Còn Nakata thì chọn một tập ảnh nhan đề Những phiến đá trứ danh của Nhật Bản, xem thật kỹ từng trang.
“Lão không biết đọc,” lão nói, “nên đây là lần đầu tiên lão đặt chân vào một thư viện.”
“Cháu chả lấy gì làm hãnh diện,” Hoshino nói, “tuy cháu biết đọc, nhưng đây cũng là lần đầu đối với cháu.”
“Bây giờ vào đây, mới thấy là khá thú vị.”
“Nghe ông nói vậy là cháu vui rồi.”
“Ở quận Nakano cũng có một thư viện. Lão nghĩ sau này trở về, lão sẽ năng ghé vào đó. Cái ưu điểm nhất là vào cửa tự do. Trước đây, Nakata này đâu có biết là cả những người không biết đọc cũng được vào.”
“Cháu có một người em họ mù bẩm sinh mà vẫn thường xuyên đi xem phim,” Hoshino nói. “Thế thì còn thú cái nỗi gì?”
“Lão sáng mắt, nhưng lão chưa bao giờ bước chân vào một rạp chiếu bóng.”
“Ông nói đùa! Thế thì bữa nào cháu phải đưa ông đi mới được.”
Cô thủ thư đến nhắc họ hạ bớt giọng, nên họ ngừng nói chuyện và quay trở về với chồng sách. Xem xong Những phiến đá trứ danh của Nhật Bản, Nakata đặt trả về trên giá và bắt đầu giở đến cuốn Các giống mèo trên thế giới.
Mặc dù không ngừng làu bàu trong miệng, Hoshino cũng lật giở được hết lượt chồng sách đặt cạnh gã. Ngán thay, gã chẳng tìm thấy có gì phù hợp trong bất cứ cuốn nào. Có mấy chỗ nói đến những bức tường đá của Lâu đài Takamatsu, nhưng các phiến đá ở những bức tường ấy to tổ bố, sức mấy Nakata vần nổi. Cũng có một truyền thuyết khả dĩ có thể xem xét về Kobo Daishi, vị đại sư trứ danh thời Heian Jidai. Tương truyền rằng khi ngài nậy một phiến đá giữa một vùng hoang địa lên, một dòng suối đã trào ra, biến nơi này thành một đồng lúa phì nhiêu. Nhưng đến đó là hết chuyện. Hoshino cũng đọc thấy một đoạn nói về một miếu thờ có một cọc đá được gọi là “Nguồn sinh con đẻ cái” nhưng nó cao hơn một mét và hình thù giống như dương vật. Chắc chắn không thể là phiến đá mà Nakata tìm kiếm.
Hai ông con bỏ cuộc, rời thư viện đến một nhà hàng gần đó dùng bữa tối. ả hai đều ăn mì với bánh tempura, Hoshino gọi thêm một bát nước dùng.
“Lão khoái cái thư viện ấy,” Nakata nói. “Lão không ngờ trên thế giới lại có nhiều giống mèo đến thế.”
“Chuyện phiến đá chưa ngã ngũ, nhưng không sao,” Hoshino nói. “Ta mới chỉ bắt đầu. Đêm nay hãy đánh một giấc ngon lành đã, để xem rồi ngày mai sẽ đem lại những gì.”
Sáng hôm sau, họ trở lại thư viện. Như hôm trước, Hoshino đọc lướt một chồng sách tướng, hết cuốn này đến cuốn khác. Cả đời gã chưa bao giờ đọc nhiều sách đến thế. Giờ đây, gã đã khá thông thạo lịch sử Shikoku và biết được là từ bao thế kỷ, người ta đã thờ nhiều loại đá khác nhau. Nhưng cái mà gã muốn tìm – một phiến đá cửa vào – thì chẳng thấy đâu. Đến chiều thì gã bắt đầu thấy nhức đầu, nên họ rời thư viện và đến nằm dài trên bãi cỏ một công viên hồi lâu, nhìn mây trôi ngang trời. Hoshino hút thuốc lá, còn Nakata nhấp từng ngụm trà nóng từ chiếc phích lão mang theo.
“Mai lại có sấm đấy,” Nakata nói.
“Có nghĩa là ông sẽ gọi sấm?”
“Không, Nakata này đâu có làm thế được. Sấm tự đến thôi.”
“Thế thì cháu yên tâm,” Hoshino nói.
Họ về nhà trọ, tắm táp rồi Nakata đi nằm và chẳng mấy chốc đã ngủ say sưa. Hoshino mở tivi xem một trận bóng chày, vặn nhỏ âm lượng, nhưng vì đội Giants quần cho đội Hiroshima tơi bời nên gã ngán ngẩm tắt đi không xem tiếp. Gã chưa buồn ngủ và cảm thấy khát, nên ra ngoài kiếm một tiệm bia và gọi một vại bia hơi cùng một đĩa hành ty phi. Gã tính bắt chuyện với một cô gái ngồi gần đó, nhưng rồi nghĩ đây không phải lúc, cũng không phải chỗ để cưa kéo. Sáng mai lại phải trở về với công việc tìm kiếm cái phiến đá biến ảo như ma ấy rồi.
Gã uống nốt bia, đội cái mũ Chunichi lên, rời tiệm và chỉ tha thẩn quanh đó. Đây không phải là một thành phố hấp dẫn lắm, gã nhận định, nhưng dù sao đi la cà ở một nơi trước đây mình chưa từng đến cũng thú vị. Với lại, bao giờ gã cũng khoái thả bộ. Ngậm một điếu Marlboro trên môi, hai tay đút túi, gã lang thang hết phố này sang phố khác, ngõ này sang ngõ khác. Khi nào thôi hút thuốc, gã lại huýt sáo. Chỗ thì tấp nập, đông đúc, nơi khác lại vắng vẻ, tịch lặng. Đến đâu gã cũng giữ đều một nhịp bước. Gã đang tuổi thanh xuân, khỏe mạnh, vô tư lự, chẳng có gì phải sợ.
Gã đang đi dọc một ngõ hẹp đầy những quán bar karaoke và câu lạc bộ (dường như những quán này cứ sáu tháng lại đổi chủ đổi tên mấy lần) và vừa tới một chỗ vắng, tối om, thì chợt đằng sau có người lớn tiếng gọi: “Hoshino! Hoshino!”
Thoạt đầu, gã không tin. Ở Takamatsu này, làm gì có ai biết gã – chắc là một Hoshino nào khác. Đây không phải là một cái tên phổ biến lắm, nhưng cũng không hiếm người mang tên ấy. Gã không quay lại mà cứ đi tiếp. Nhưng người kia vẫn theo sau, gọi tên gã hoài.
Rốt cuộc, Hoshino dừng bước và ngoảnh lại. Đó là một ông già thấp bé mặc một bộ đồ trắng. Tóc bạc, ria bạc, râu cằm bạc, cặp kính đạo mạo, sơ mi trắng, cà vạt dây, mặt thì có vẻ Nhật nhưng toàn bộ trang phục lại khiến ông ta giống một trang chủ nông thôn ở miền Nam nước Mỹ. Ông ta cao không quá một mét rưỡi nhưng nom không giống một người lùn, mà tựa như một mẫu người thu nhỏ lại. Ông ta chìa cả hai tay ra trước mặt như thể đang bưng một chiếc khay.
“Cậu Hoshino,” ông già nói, giọng rõ ràng, the thé và họ trẹ.
Hoshino nhìn ông trân trân, hết sức kinh ngạc.
“Nhận ra chứ? Ta là Đại tá Sanders.”
“Nom bác giống hệt ông ta,” Hoshino nói, vẻ thán phục.
“Ta không chỉ giống thôi. Ta là Đại tá Sanders.”
“Của tập đoàn Kentucky Fried Chicken[25]?”
Ông già trịnh trọng gật đầu. “Chính xác.”
“Thôi được, nhưng sao bác biết tên tôi?”
“Tất cả những cổ động viên của Chunichi, ta đều gọi là Hoshino. Cách gọi đó đã thành hệ thống. Các fan của đội Giants được gọi là Nagashima, vậy thì các fan của Dragons là Hoshino, đúng không nào?”
“Vâng, nhưng thật ngẫu nhiên, Hoshino lại là tên thật của tôi.”
“Chỉ là trùng hợp thôi,” ông già nói oang oang. “Ta đâu có biết.”
“Vậy bác muốn gì?”
“Ta có một em tươi mát cho cậu đấy!”
“À, tôi hiểu rồi,” Hoshino nói. “Bác là tay dắt gái. Vì thế cho nên bác ăn mặc như thế.”
“Cậu Hoshino, không biết ta phải nhắc lại bao nhiêu lần điều này: không phải ta cải trang cho giống ai, mà ta chính là Đại tá Sanders. Đừng có lẫn lộn nữa, nghe không?”
“Thôi đượcếu bác là đại tá Sanders thật thì việc quái gì bác phải làm cái chân dắt gái trong cái ngõ hẻm tối tăm này của Takamatsu? Bác nổi tiếng thế, ắt chỉ trông vào bản quyền cũng đủ hốt bạc. Đáng ra bác phải đang an nhàn bên một bể bơi đâu đó tại nước Mỹ, tận hưởng những năm tháng về hưu chứ. Thế đầu đuôi câu chuyện ra sao?”
“Thế giới luôn có một độ cong vênh.”
“Cong vênh?”
“Có lẽ cậu không rõ điều này, nhưng có độ cong vênh ấy thế giới chúng ta mới thành ba chiều. Nếu cậu muốn mọi thứ lúc nào cũng ngay ngắn thẳng thớm, thì hãy tìm đến sống trong một thế giới kẻ bằng thước góc.”
“Bác cũng khá kỳ quặc đấy,” Hoshino nói. “Nhưng hình như cái số tôi những ngày này là phải đeo với những ông già kỳ quặc vậy. Cứ tiếp tục thế này rồi đến nước tôi sẽ không còn biết đâu là tay phải đâu là tay trái nữa.”
“Cũng có thể đấy, cậu Hoshino, nhưng còn chuyện kia thì sao? Một em xinh đẹp ấy?”
“Ý bác là vào tiệm mát-xa chăng?”
“Tiệm mát-xa? Đó là cái gì?”
“Bác lạ gì, ở đấy nó không để cho mình tấn, nhưng có thể thổi kèn hoặc xúc lọ cho mình. Làm cho mình xuất bằng cách đó, nhưng không được đút vào phích-phoọc phích-phoọc.”
“Không, không,” Đại tá Sanders bực bội lắc đầu, nói. “Hoàn toàn không phải thế. Các em của ta làm tuốt tuột – xúc lọ bằng tay, thổi kèn, bất kỳ cái gì cậu muốn, kể cả đút vào phích-phoọc.”
“À, tức là tắm hơi kiểu Thổ Nhĩ Kỳ chứ gì?”
“Kiểu thổ tả?”
“Thôi đừng giỡn nữa, được không? Tôi đi cùng với một người và sáng mai, chúng tôi phải lên đường sớm. Cho nên tôi chẳng có thì giờ đú đởn tối nay.”
“Vậy là cậu không cần gái?”
“Không gái, không gà rán. Tôi phải về ngủ một chút.”
“Nhưng cậu tưởng mình sẽ dễ ngủ ư?” Đại tá Sanders tinh quái nói. “Khi người ta bỏ công tìm cái gì mà không thấy, giấc ngủ thường không đến dễ dàng đâu.”
Hoshino đứng ngây, mồm há hốc, nhìn ông ta chằm chằm. “Tìm cái gì? Sao bác biết tôi đang tìm cái gì?”
“Điều đó in rành rành trên mặt cậu. Về bản chất, cậu là người thật thà. Mọi thứ cậu đang nghĩ đều hiển hiện lên nét mặt. Giống như con cá khô bửa đôi ra – tất cả những gì trong đầu cậu phơi ra rõ mồm một, ai cũng thấy.”
Bất giác, Hoshino đưa tay lên xoa má. Rồi xòe tay ra, nhìn trân trân nhưng chẳng thấy gì. In rành trên mặt mình?
“Vậy,” Đại tá Senders nói, giơ một ngón tay lên ra ý nhấn mạnh, “có phải vật cậu đang tìm có hình tròn và rất rắn, là ta nói hú họa thế?”
Hoshino cau mày nói, “Này, ông già, ông là ai vậy? Làm sao ông biết được điều đó?”
“Ta đã nói với cậu – điều đó in rành trên mặt cậu. Cậu không hiểu, phải không?” Đại tá Senders nói, lắc lư ngón tay. “Ta đã hành nghề này bao năm, đâu phải chuyện chơi. Vậy cậu thật sự không cần gái
“Tôi đang tìm một phiến đá gọi là phiến đá cửa vào.”
“Ta biết hết về nó.”
“Thật không?”
“Ta không bốc phét, cũng chẳng nói giỡn. Ta là người thẳng thắn, không tào lao.”
“Bác có biết phiến đá ấy ở đâu không?”
“Ta biết đích xác nó ở chỗ nào.”
“Vậy bác có thể... nói cho tôi biết chỗ của nó không?”
Đại tá Senders sờ chiếc mục kỉnh gọng đen và hắng giọng. “Cậu có chắc cậu không cần gái không?”
“Nếu bác nói cho tôi biết phiến đá ở đâu, tôi sẽ nghĩ về chuyện đó,” Hoshino nói, giọng đượm vẻ hoài nghi.
“Tuyệt. Đi với ta.” Không đợi trả lời, ông ta thoăn thoắt đi dọc theo ngõ hẻm.
Hoshino lật đật theo cho kịp. “Này, Đại tá... Tôi chỉ mang theo có hăm nhăm nghìn yen thôi.”
Đại tá Sanders vừa rảo bước vừa tặc lưỡi. “Ngần nấy là nhiều rồi. Với giá ấy, cậu sẽ có một em mười chín tuổi xinh tươi, với đủ các tiết mục: xúc lọ, thổi kèn, nhong nhong ếp ếp, muốn gì được nấy. Và sau đó, ta sẽ tặng thêm cho cậu miễn phí toàn bộ câu chuyện về phiến đá.”
“Chu cha!” Hoshino ngỡ ngàng reo lên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 13:09:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 27


Đúng 2g47, tôi nhận thấy cô gái đã ở đó - sớm hơn đêm hôm trước một chút. Tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ cạnh giường nằm để ghi nhớ chính xác thời điểm. Lần này, tôi cố thức để chờ cô xuất hiện. Tôi chỉ thi thoảng chớp mi chứ không hề nhắm mắt một giây nào. Tôi tưởng mình đã chú ý hết mức, thế mà không hiểu sao vẫn lỡ đi chính cái khoảnh khắc cô xuất hiện.
Cô vẫn mặc chiếc áo màu xanh nhạt mọi khi, vẫn ngồi ở chỗ cũ, tay chống cằm, lặng lẽ ngắm bức Kafka bên bờ biển. Còn tôi thì nín thở nhìn cô. Bức tranh, cô gái và tôi tạo thành một tam giác tĩnh lặng trong phòng. Cô nhìn bức tranh không biết mỏi và hệt như thế, tôi nhìn cô không biết mỏi. Một tam giác cố định, bất động. Thế rồi một điều hoàn toàn bất ngờ xảy ra.
"Miss Saeki," tôi nghe thấy tiếng mình cất lên. Tôi không chủ định kêu tên cô, nhưng ý nghĩ dâng trào trong tôi và tràn ra. Rất khẽ thôi, nhưng cô nghe thấy. Thế là một cạnh của tam giác sụp đổ. Có thể tôi đã thầm mong nó sụp đổ - tôi cũng không biết nữa.
Cô hướng mắt về phía tôi, tuy nhiên không như đang ráng để nhìn cho rõ. Cô vẫn tựa cằm vào tay, trong khi lặng lẽ xoay mặt về phía tôi. Như thể cô cảm thấy một cái gì (mà cô không dám chắc lắm) khẽ rung động không khí vậy.
Tôi không biết cô có thể nhìn thấy tôi không, nhưng tôi rất muốn thế. Tôi cầu sao cô nhận thấy tôi và biết rằng tôi hiện hữu. "Miss Saeki," tôi nhắc lại. Tôi không thể ngăn mình kêu tên cô. Có thể tiếng tôi sẽ làm cô sợ hãi mà rời khỏi phòng, không bao giờ trở lại nữa. Nếu điều đó xảy ra, hẳn tôi sẽ cảm thấy thất vọng ghê gớm. Không, không phải là thất vọng, từ đó không trúng ý tôi. Sụp đổ còn sát nghĩa hơn. Nếu cô không trở lại, mọi sự sẽ vĩnh viễn mất đi đối với tôi. Mọi ý nghĩa, mọi phương hướng. Tất thả. Tôi biết thế mà vẫn cứ tiếp tục liều lĩnh kêu tên cô hoài hoài như cái máy, môi và lưỡi tôi cứ không ngừng thốt ra cái tên ấy.
Cô không nhìn vào bức tranh nữa, cô nhìn tôi. Hoặc ít nhất, tôi nằm trong tầm nhìn của cô. Từ chỗ mình ngồi, tôi không thể thấy rõ sắc diện cô. Bên ngoài, mây trôi và ánh trăng lao động. Chắc là có gió, nhưng tôi không nghe thấy tiếng gió thổi.
"Miss Saeki," tôi lại nói, cuốn đi bởi một sức mạnh khẩn cấp, áp đảo, không cưỡng được.
Cô buông tay chống cằm, đưa bàn tay phải ra trước mặt như để bảo tôi đừng nói gì nữa. Nhưng có phải cô thật sự muốn nói thế không? Giá tôi có thể tới bên cô, nhìn sâu vào mắt cô để xem ngay lúc này đây cô đang nghĩ gì, cảm xúc nào đang rung động cô. Cô đang cố truyền đạt điều gì với tôi? Cô đang ám chỉ điều gì bằng cử chỉ ấy? Chà, ước gì tôi biết được. Nhưng cái bóng tối nặng nề trước ba giờ sáng này đã nuốt chửng mọi ý nghĩa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy khó thở và nhắm mắt lại. Có một cục không khí rắn đanh chẹn ngang ngực tôi như thể tôi đã nuốt phải cả một đám mây mưa vậy. Vài giây sau, khi tôi mở mắt ra, cô đã biến mất. Chỉ còn trơ lại chiếc ghế trống. Bóng một đám mây lướt ngang mảng tường phía trên bàn giấy.
Tôi ra khỏi giường, đến bên cửa sổ nhìn lên bầu trời đêm. Và nghĩ về thời gian không bao giờ trở lại. Nghĩ về những dòng sông, về những đợt thủy triều. Về rừng và suối. Mưa và chớp. Những tảng đá. Những cái bóng. Tất cả những cái đó đều ở trong tôi.
Ngày hôm sau, vào buổi chiều, một thanh tra cảnh sát đến thư viện. Tôi đang nằm trong phòng mình và không biết anh ta ở đó. Viên thanh tra hỏi Oshima khoảng hai mươi phút rồi đi. Sau đó, Oshima đến phòng tôi kể cho tôi hay
"Một cảnh sát địa phương hỏi mình về cô," Oshima nói rồi lấy một chai Perrier trong tủ lạnh ra, mở nắp, rót một cốc và uống.
"Sao họ biết em ở đây?"
"Cậu đã dùng điện thoại di động của cha cậu."
Tôi lục lọi trí nhớ và gật đầu. Phải, cái đêm hôm tôi tỉnh dậy mình đầy máu trong cánh rừng đằng sau miếu thờ, tôi đã gọi Sakura bằng chiếc điện thoại di động ấy. "Em có dùng, nhưng chỉ một lần thôi."
"Cảnh sát kiểm tra nhật ký đàm thoại và truy ra cậu ở Takamatsu. Thông thường, cảnh sát không đi vào chi tiết, nhưng trong khi chuyện gẫu, mình đã gợi được anh ta giải thích cách thức truy ra cuộc gọi. Khi cần, mình có thể rất khéo miệng. Anh ta cũng để lộ là họ không truy ra người cậu đã gọi vì đây hẳn là một chiếc điện thoại dùng thẻ trả trước. Dù sao đi nữa, họ cũng biết cậu đang ở Takamatsu và cảnh sát địa phương đã kiểm tra tất cả các khách sạn. Họ phát hiện ra là một thiếu niên mang tên Kafka Tamura khớp với đặc điểm nhận dạng của cậu đã ở một khách sạn trong thành phố, với sự giới thiệu đặc biệt của YMCA, cho đến ngày 28 tháng Năm. Đó là ngày cha cậu bị ám sát."
Ít nhất thì cảnh sát cũng không truy ra Sakura. Tôi lấy làm mừng, nghĩ mình làm phiền Sakura chừng nấy đã quá đủ rồi.
"Người quản lý khách sạn nhớ ra là cậu đã hỏi về thư viện của chúng ta. Cậu có nhớ cái lần một cô nhân viên khách sạn gọi tới hỏi xem cậu có thực sự đến đây không?"
Tôi gật đầu.
"Vì vậy nên cảnh sát mới ghăm." Oshima uống một hớp Perrier. "Tất nhiên là mình nói dối. Mình bảo anh ta rằng từ hôm 28 mình không thấy cậu. Rằng trước đó, ngày nào cậu cũng đến, nhưng từ hôm ấy là thôi, không một lần nào nữa."
"Anh có thể bị rắc rối đấy," tôi nói.
"Nếu mình không nói dối, cậu ắt bị rắc rối hơn gấp bội."
"Nhưng em không muốn anh bị liên can."
Oshima him mắt lại và mỉm cười. "Cậu không thấy sao? Cậu đã khiến mình bị liên can."
"Phải, em đồ là thế..."
"Thôi đừng tranh cãi nữa, được không? Việc đã rồi là đã rồi. Cãi vã nữa cũng chả đi đến đâu."
Tôi gật đầu, không nói gì.
"Dù sao đi nữa, viên thanh tra vẫn để danh thiếp lại, dặn mình gọi ngay cho anh ta nếu thấy cậu xuất hiện trở lại."
"Em có bị tình nghi không?"
Oshima lắc đầu. "Mình không nghĩ thế. Nhưng họ nghĩ cậu có thể giúp họ tìm ra manh mối. Mình đã theo dõi toàn bộ vụ này trên báo chí. Cuộc điều tra chưa đi đến đâu và cảnh sát đang sốt ruột. Không một dấu vân tay, không một đầu mối, không một nhân chứng. Cậu là đường dây duy nhất họ trông vào. Vì thế họ mới ra sức truy tìm cậu. Cha cậu là người nổi tiếng, cho nên truyền hình và các báo đều đưa tin chi tiết về vụ ám sát. Cảnh sát không thể ngồi yên và bó tay."
"Nhưng nếu họ phát hiện ra là anh nói dối, họ sẽ không chấp nhận anh với tư cách nhân chứng nữa - thế là đi tong chứng cứ ngoại phạm của em. Họ có thể nghĩ em là thủ phạm."
Oshima lại lắc đầu. "Cảnh sát Nhật Bản không đến nỗi ngu thế đâu, Kafka ạ. Thiếu đầu óc tưởng tượng thì có, nhưng không hề kém năng lực chuyên môn. Mình dám chắc họ đã kiểm tra tất cả các danh sách hành khách đi máy bay từ Tokyo đến Shikoku. Mình không biết cậu có biết điều này không, chứ họ đã đặt camera ở tất cả các cửa đáp máy bay ở các phi trường để chụp tất cả các hành khách lên máy bay. Vào lúc này, họ đã biết cậu không hề bay về Tokyo vào thời điểm xảy ra vụ ám sát. Ở Nhật Bản, giờ đây, thông tin đều được vi xử lý, hãy tin lời mình. Cho nên cảnh sát không xem cậu là tình nghi. Nếu thế, họ đã không phải một tay cớm địa phương đến, mà là nhiều thanh tra từ Nha Cảnh sát Quốc Gia cơ. Nếu điều đó xảy ra, họ ắt quay mình tới số, sức mấy mình lỡm họ được. Họ chỉ muốn nghe bất cứ thông tin nào ta có thể cung cấp về vụ đó thôi."
Những điều anh nói là hoàn toàn có lý.
"Dù sao đi nữa, cậu cũng nên lánh mặt một thời gian," anh nói. "Cảnh sát có thể rà soát vùng này để mắt tìm kiếm cậu. Họ đã có hình cậu sao từ thẻ học sinh. Tuy nhiên, có thể nói ảnh đó không giống lắm. Trong ảnh, nom cậu rất khùng."
Đó là tấm ảnh duy nhất tôi để lại. Tôi luôn tìm mọi cách trốn tránh việc chụp hình, nhưng khi làm thẻ học sinh thì hết cách.
"Viên thanh tra nói cậu thường quậy phá ở trường học. Đã có những vụ ẩu đả giữa cậu và các bạn cùng lớp và cậu đã bị đuổi học ba lần."
"Hai chứ không phải ba. Và không phải bị đuổi học mà chỉ tạm treo thôi," tôi phân trần. Tôi hít thật sâu rồi từ từ thở như trút hết ra. "Phải, em có những lúc như thế
"Cậu không kiềm chế được bản thân," Oshima nói.
Tôi gật đầu.
"Và cậu đánh lộn."
"Em không cố tình. Nhưng cứ như thể có một ai khác bên trong em vậy. Và khi tĩnh trí lại, em nhận ra mình đã làm ai đó bị thương."
"Đến mức nào?" Oshima hỏi.
Tôi thở dài. "Không nặng lắm. Không đến mức gãy xương, gãy răng hay đại loại như thế."
Oshima ngồi xuống giường, bắt tréo chân và vuốt ngược mớ tóc rủ xuống trán. Anh mặc quần vải bông xanh nước biển, áo polo đen và đi giày Adidas trắng. "Xem ra cậu có ối vấn đề phải xử lý đấy."
Ối vấn đề. Tôi ngước lên. "Còn anh thì sao?"
Oshima giơ hai tay lên. "Không nhiều đến thế. Nhưng với mình, có một điều như thế này: trong cái thân xác này - cái vỏ bọc khiếm khuyết này - việc quan trọng nhất là tồn tại ngày này sang ngày hôm sau. Điều này có thể là đơn giản hay rất khó khăn. Cái đó tùy thuộc cách anh nhìn nhận vấn đề. Dù thế nào đi nữa, ngay cả nếu mọi sự tốt đẹp thì cũng chẳng phải là thành tích lớn lao gì. Sẽ chẳng ai đứng lên vỗ tay hoan hô mình đâu."
Tôi cắn môi một lát rồi hỏi, "Có bao giờ anh nghĩ đến chuyện thoát ra khỏi cái vỏ ấy không?"
"Cậu muốn nói là rời bỏ thân xác mình?"
Tôi gật đầu.
"Một cách tượng trưng hay thật sự?"
"Thế nào cũng được."
Oshima đưa tay vuốt tóc ra sau. Tôi có thể hình dụng những bánh xe răng vận hành hết công suất bên dưới bề mặt của trán anh.
"Cậu muốn làm thế?" anh hỏi lại, thay vì trả lời tôi.
Tôi hít một hơi. "Oshima, nói thật tình không màu mè, em chẳng thích gì cái vỏ xác bọc bản thể em. Chưa bao giờ thích. Thực ra, em ghét nó. Cái mặt em, đôi bàn tay em, dòng máu em, gien di truyền của em... Em ghét mọi thứ em thừa kế từ cha mẹ em. Em chẳng muốn gì hơn là thoát hẳn ra khỏi nó như em đã bỏ nhà đi vậy."
Anh nhìn chằm chằm vào mặt tôi và mỉm cười. "Cậu có một thân hình đẹp, lực lưỡng. Bất luận cậu thừa kế nó từ ai, cậu vẫn thuộc loại đẹp trai. Ồ, nói cho chính xác, cậu hơi quá riêng biệt để có thể gọi là đẹp trai theo nghĩa thông thường. Nhưng cậu không hề khó coi. Ít nhất, cũng bắt mắt mình. Cậu thông minh, nhanh nhẹn. Cả cái của quý của cậu cũng oách - xin mở ngoặc đơn: mình thèm có được một cái như vậy. Bảo đảm là sẽ có ối em xin chết với cậu. Cho nên mình không hiểu cậu còn bất mãn cái nỗi gì về vỏ xác của mình nữa.
Tôi đỏ dừ mặt.
"Thôi được, mình nghĩ tất cả những cái đó đều lạc đề," Oshima nói tiếp. "Về phần mình, mình chẳng mê gì cái vỏ bọc của mình, đó là cái chắc. Làm sao mình có thể mê cái phế phẩm này được? Nó thật là bất tiện, mình có thể nói với cậu thế. Tuy nhiên, mình nghĩ thế này: Nếu ta đảo ngược cái vỏ ngoài và cái cốt lõi - nói cách khác, coi cái vỏ ngoài là cốt lõi và cái cốt lõi chỉ là vỏ ngoài - thì cuộc sống của chúng ta ắt có thể dễ hi̓ơn nhiều."
Tôi nhìn trân trân vào hai bàn tay mình, nghĩ đến cái đêm nó vấy đầy máu, sao mà dính nhớp làm vậy. Tôi nghĩ về cái cốt lõi của mình, cái vỏ ngoài của mình. Cái cốt lõi của tôi bao quanh bởi cái vỏ ngoài cũng là tôi. Nhưng những ý nghĩ đó đều bị cuốn phăng đi bởi một hình ảnh không gì xóa nổi: cái chỗ máu ấy.
"Còn Miss Saeki thì sao?" tôi hỏi.
"Cậu muốn nói gì?"
"Theo anh, liệu bà có những vấn đề phải vượt qua không?"
"Tốt hơn là cậu tự đi hỏi bà xem," Oshima nói.
Đến hai giờ, tôi đặt một tách cà phê vào khay bưng lên phòng Miss Saeki. Cô đang ngồi ở bàn giấy. Như mọi khi, trên bàn có giấy viết và một cây bút máy, có điều bút máy vẫn còn đóng nắp. Cả hai tay đặt trên bàn, bà nhìn trân trân vào không trung. Không ra cách nhìn vào một cái gì, mà chỉ dõi mắt vào một nơi chốn không có ở đó. Nom bà có vẻ mệt mỏi. Cửa sổ phía sau bà để mở, gió đầu hạ lay động tấm rèm đăng ten trắng. Cảnh tượng giống như một bức tranh ngụ ngôn tuyệt đẹp.
"Cám ơn," bà nói khi tôi đặt tách cà phê lên bàn.
"Trông cô có vẻ hơi mệt."
Bà gật đầu. "Cô đoán khi mệt, trông cô già hơn nhiều."
"Hoàn toàn không. Trông cô lúc nào cũng tuyệt vời."
Bà mỉm cười. "Cháu trẻ thế mà đã khéo nịnh đầm."
i đỏ mặt.
Miss Saeki chỉ một chiếc ghế. Vẫn chiếc ghế ngày hôm qua ở đúng vị trí cũ. Tôi ngồi xuống.
"Cô mệt mỏi đã quen rồi, nhưng cô chắc cháu thì không."
"Cháu nghĩ thế."
"Dĩ nhiên rồi, hồi mười lăm tuổi, cô cũng vậy, chẳng bao giờ thấy mệt." Bà cầm tách cà phê lên, nhấp một ngụm. "Kafka, cháu thấy gì bên ngoài?"
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ đằng sau bà. "Cháu thấy cây cối, bầu trời và những đám mây. Mấy con chim trên cành."
"Không có gì bất bình thường. Phải không?"
"Vâng."
"Nhưng nếu cháu biết ngày mai, có thể cháu sẽ không được thấy lại những cái đó, mọi sự sẽ đột nhiên trở nên đặc biệt và quý giá, phải không?"
"Cháu đồ là thế."
"Cháu đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa?"
"Cháu đã."
Một vẻ ngạc nhiên hiện trên nét mặt bà. "Khi nào?"
"Khi cháu đang yêu."
Một nụ cười thoáng nở và còn vương trên môi bà hồi lâu. Điều khiến tôi nghĩ đến những giọt nước mát rượi ai đó đem tưới vào một hõm nhỏ một ngày hè.
ư?"
"Vâng."
"Và gương mặt cùng cả con người của cô gái đó rất đặc biệt và quý giá đối với cháu, mỗi lần cháu nhìn thấy cô ấy?"
"Đúng vậy. Và cháu có thể mất những cái đó."
Miss Saeki nhìn tôi một lúc và nụ cười phai dần. "Cháu hãy hình dung một con chim đậu trên một nhành cây mảnh," bà nói. "Nhành cây chao đảo trước gió và mỗi lần như thế, diện nhìn của con chim lại thay đổi. Cháu hiểu cô muốn nói gì chứ?"
Tôi gật đầu.
"Theo cháu, khi điều đó xảy ra, con chim điều chỉnh như thế nào?"
Tôi lắc đầu. "Cháu không biết."
"Nó lúc lác đầu theo đà chao đảo của nhành cây. Lần sau, khi trời gió, cháu hãy quan sát kỹ chim trên cành nhé. Cô đã bỏ nhiều thời gian quan sát qua cửa sổ này. Cháu có nghĩ kiểu sống như thế là mệt không? Luôn luôn phải lúc lắc đầu mỗi khi cành cây mình đậu chao đi trước gió."
"Cháu nghĩ thế."
"Loài chim đã quen với điều đó. Chúng làm thế một cách tự nhiên, không phải nghĩ ngợi, cứ tự khắc thế thôi. Cho nên không mệt như ta tưởng tượng. Nhưng cô là một con người, không phải là chim, nên đôi khi cũng thấy mệt."
"Cô cũng đậu trên cành?"
"Phải, nói một cách nào đó," bà nói. "Và đôi khi, gió thổi khá mạnh." Bà đặt tách cà phê xuống đĩa và mở nắp
Đó là cách bà ra hiệu cho tôi lui, nên tôi đứng dậy. "Miss Saeki, có một điều cháu muốn hỏi cô."
"Một điều riêng tư?"
"Vâng. Và có lẽ thất thố nữa."
"Nhưng quan trọng?"
"Quan trọng đối với cháu."
Bà đặt bút xuống bàn. Mắt bà long lanh một ánh trung lập. "Được. Nói đi."
"Cô có con không?"
Bà nuốt khan, không trả lời ngay. Sắc mặt bà từ từ rút vào đâu đó rất sâu, rồi lại quay trở lại. Kiểu như một đám diễu hành mất hút cuối một con phố, rồi đi trở ngược lại vẫn con phố ấy.
"Tại sao cháu muốn biết điều đó?"
"Vì một vấn đề riêng tư. Đây không phải là một câu hỏi nảy ra bất chợt."
Bà nhấc cây bút máy Mont Blanc lên như để ước lượng trọng lượng của nó rồi lại đặt nó xuống bàn và ngước mắt lên. "Cô rất tiếc, nhưng cô không thể trả lời đơn giản là có hoặc không. Ít nhất là ngay lúc này. Cô đang mệt và gió đang thổi rất mạnh."
Tôi gật đầu. "Cháu xin lỗi. Lẽ ra cháu không nên hỏi."
"Không sao. Cô không trách cháu đâu," bà dịu dàng nói. "Cám ơn cháu về tách cà phê. Cháu pha cà phê rất ngon."
Tôi đi ra và xuống cầ về phòng mình. Tôi ngồi trên giường, cố đọc, nhưng không một dòng hcữ nào lọt được vào trong đầu. Đưa mắt dõi theo những dòng chữ, tôi có cảm giác như mình đang nhìn vào một bảng chữ lộn xộn. Tôi đặt sách xuống, đi tới cửa sổ và nhìn ra vườn. Chim đậu trên cành thì có, nhưng gió thì không. Tôi yêu Miss Saeki hồi mười lăm tuổi hay Miss Saeki đích thực ngoại ngũ tuần đang ở trên gác kia? Tôi cũng không biết nữa. Ranh giới phân biệt hai con người đó bắt đầu nhòa đi, biến mất và tôi không thể chỉnh đúng tiêu cự. Và điều đó làm tôi hoang mang. Tôi nhắm mắt lại, cố tìm trong bản thân mình một cái gì để níu bám vào.
Nhưng, Miss Saeki nói đúng. Từng ngày, gương mặt biết à, con người bà, mỗi lần tôi nhìn thấy, càng trở nên vô cùng quý giá.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách