Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Kafka Bên Bờ Biển | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:02:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15 (tiếp)


Như một người kể chuyện thoạt đầu thì hào hứng, rồi bí lời đâm ấp úng, con đường cứ hẹp dần khi tôi đi sâu thêm, nhường chỗ cho cây bụi lấn chiếm. Đến một quãng nào đó, thật khó mà nói đó có phải là một con đường đích thực hay chỉ là một cái gì giông giống một con đường. Cuối cùng, nó ngập chìm trong một biển cả dương xỉ. Có thể nó vẫn còn tiếp nối, nhưng tôi quyết định dành phần hai cuộc thám hiểm đến lần sau. Tôi hiện không mang trên mình loại quần áo thích hợp và chưa chuẩn bị đầy đủ để đi xa hơn.
Tôi dừng lại và quay đằng sau. Đột nhiên, mọi thứ trở nên xa lạ, không còn gì quen thuộc cho tôi bám vào nữa. Một đám nhằng nhịt những thân cây đầy đe doạ bịt kín tầm nhìn. Xung quanh mờ tối, không khí đẫm một màu xanh lục tù đọng, không một tiếng chim hót.
Tôi bỗng sởn da gà khắp người. Nhưng không việc gì mà sợ, tôi tự nhủ. Con đường ngay ở chỗ kia mà. Chừng nào tôi còn thấy nó, tôi vẫn có thể trở về với ánh sáng. Dán mắt xuống đất, tôi thận trọng dò từng bước lần theo lối cũ và sau một thời gian dài gấp bội thời gian bỏ ra để đi tới đây, cuối cùng, tôi mò được về tới trước căn lều. Khoảng trống đầy ánh nắng rực rỡ đầu hè, đầy tiếng chim lảnh lót gọi nhau đi tìm mồi. Mọi thứ đều y nguyên như khi tôi đi, ít nhất tôi cũng nghĩ là thế. Chiếc ghế tôi ngồi trước đó vẫn ở ngoài hiên. Cuốn sách tôi đọc dở vẫn úp sấp trên đó như tôi đã để nó như thế.
Giờ thì tôi biết đích xác khu rừng này có thể nguy hiểm đến mức nào. Và tôi hy vọng mình sẽ không bao giờ quên điều đó. Đúng như gã thanh niên tên là Quạ đã nói, thế giới này đầy những thứ mà tôi không biết rõ. Chẳng hạn, tất cả những cây cối ở đây. Tôi không bao giờ tưởng tượng được là lại có những loại cây kỳ quái, dễ sợ đến thế. Tôi muốn nói, cho đéế nay, những cây duy nhất tôi đã thấy tận mắt, sờ tận tay đều là loại cây thành phố, được chăm sóc và tỉa gọn ghẽ, mượt mà. Nhưng cây ở đây - những cái cây sống ở đây - thì hoàn toàn khác. Chúng có sức mạnh vật thể, hơi thở của chúng làm trầy da bất cứ người nào tình cờ đi ngang, tia nhìn của chúng chĩa vào kẻ đột nhập như thể phát hiện thấy con mồi. Tựa hồ chúng có những sức mạnh tiền sử thần bí, đen tối. Giống như những sinh vật ở đáy sâu biển cả ngự trị đại dương, trong rừng, cây là thống soái. Nếu rừng muốn, nó có thể vứt bỏ tôi, hoặc nuốt chửng tôi gọn một miếng. Tốt nhất là nên biết kính sợ nó.
Tôi trở về lều, lấy chiếc la bàn trong ba lô ra, kiểm tra cho chắc là kim vẫn chỉ đúng hướng Bắc. Tôi bỏ nó vào túi phòng khi cần đến là có ngay. Tôi ra hiên ngồi, nhìn rừng cây, nghe Cream và Duke Ellington qua chiếc Walkman, những ca khúc tôi ghi lại từ một bộ đĩa CD của thư viện. Tôi nghe đi nghe lại bài Crossroads mấy lần. Âm nhạc làm tôi nguôi dịu, nhưng tôi không thể nghe thật lâu: ở đây không có điện, chả cách nào sạc pin được, nên khi nào pin dự trữ cạn thì âm nhạc cũng rắt luôn.
Tôi tập một chút trước khi ăn tối. Hít đất, nhún, ngồi dậy từ từ thế nằm, trồng cây chuối, mấy loại bài tập vươn duỗi khác nhau từ tư thế nằm, trồng cây chuối, mấy loại bài tập vươn duỗi khác nhau để giữ ph không cần máy móc hoặc thiết bị. Kể cũng chán, tôi công nhận, nhưng giữ được nếp tập luyện nghiêm chỉnh. Một huấn luyện viên ở phòng tập thể dục đã dạy tôi cách tập ấy. "Tù nhân biệt giam thích nhất kiểu tập này," ông ta giải thích, gọi đó là "cách tập luyện cô đơn nhất thế giới." Tôi tập trung vào điều mình đang làm, tập quay vòng mấy đợt cho đến khi áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi.
Sau một bữa tối đơn giản, tôi ra hiên, nhìn lên bầu trời lấp lánh sao - hàng triệu ngôi sao vãi tung tóe. Ngay cả trong một cung thiên văn, cũng không có nhiều sao như thế. Một số ngôi nom thật to và rõ, tưởng như nếu với hết tầm tay sẽ chạm tới được. Quang cảnh đẹp đến nao lòng.
Không chỉ đẹp mà thôi, những ngôi sao còn sống động và thở dạt dào như đám mây trong rừng. Và chúng đang quan sát cô. Những gì tôi đã làm cho tới nay, những gì tôi sắp làm, chúng biết tất. Không gì lọt khỏi con mắt cảnh giác của chúng. Trong khi tôi ngồi đó, dưới trời đêm lung linh, một nỗi sợ mãnh liệt lại xâm chiếm tôi. Tim tôi đập với tốc độ một dặm/phút và tôi hầu như không thở được. Tất cả bao nhiêu triệu ngôi sao kia đều đang nhìn xuống tôi, vậy mà trước nay, tôi chưa bao giờ dành cho chúng nhiều hơn một ý nghĩ thoáng qua. Không chỉ các ngôi sao, còn biết bao thứ khác trên đời tôi không để ý tới, không mảy may biết đến? Đột nhiên tôi cảm thấy đơn côi, hoàn toàn bất lực. Và tôi biết mình sẽ không bao giờ thoát được cái cảm giác sợ hãi ấy.
Trở vào trong lều, tôi xếp củi vào lò rất cẩn thận, vo tròn mấy tờ báo cũ, nhóm lò và kiểm tra cho chắc là củi đã bén lửa. Hồi ở trường tiểu học, tôi đã đi trại hè và học được cách nhóm lửa. Tôi ghét cái trạm hè ấy, nhưng tôi nghĩ ít nhất nó cũng mang lại là một điều tốt. Tôi mở tấm chắn gió cho khói thoát ra. Lúc đầu chỉ lom dom, nhưng khi một thanh củi bắt lửa, nó lan nhanh sang các thanh khác. Tôi đóng cửa lò, kéo một chiếc ghế đến trước lò, đặt một cây đèn bên cạnh và đọc tiếp cuốn sách về Eichmann. Khi lửa bốc to dần, tôi đặt một siêu n lên và một lúc sau, nước bắt đầu reo vui.
Trở lại câu chuyện của Eichmann. Dĩ nhiên, dự án của hắn không phải bao giờ cũng tiến triển đúng như kế hoạch. Điều kiện ở các địa điểm làm chậm công việc. Khi điều đó xảy ra, hắn đã phản ứng như một con người, ít nhất là hơi giống con người: hắn nổi cáu. Hắn điên tiết với những yếu tố bất trắc đã làm đảo lộn giải pháp tuyệt vời của hắn. Xe lửa chạy chậm rì rì. Tệ quan liêu bàn giấy cản trở tiến độ công việc. Có những thay thế trong đám phụ trách và quan hệ với những người kế nhiệm không tốt. Sau khi mặt trận phía Đông bị vỡ, bọn lính gác ở các trại tập trung bị điều đi chiến đấu. Tuyết rơi đầy trời. Điện bị cúp. Hơi độc không đủ. Đường sắt bị oanh tạc. Eichmann ghét chính chiến tranh - cái yếu tố bất trắc đã làm hỏng kế hoạch của hắn.
Tại phiên tòa xử hắn, Eichmann mô tả mọi tình huống đó, mặt trơ trơ không mảy may xúc động. Trí nhớ của hắn thật đáng kinh ngạc. Cuộc đời hắn hoàn toàn được tạo nên bởi những chi tiết thực dụng đó.
Đến mười giờ, tôi đặt sách xuống, đi rửa mặt, đánh răng. Lửa bếp lò nhuộm căn phòng một ánh da cam và hơi ấm dễ chịu đã làm nguôi dịu nỗi sợ và căng thẳng của tôi. Tôi chui vào túi ngủ, mặc độc chiếc áo phông và quần đùi. So với đêm qua, tôi nhắm mắt tương đối dễ dàng. Tôi thoáng nghĩ đến Sakura.
"Mình đang nghĩ, giá mình là chị gái cậu thì hay biết mấy," cô ấy đã nói thế.
Thôi, đêm nay không nghĩ lung tung nữa. Phải ngủ cho sâu. Một thanh củi đổ rụi trong lò, một con cú rúc bên ngoài. Và tôi rơi vào một giấc mộng mông lung.
Ngày hôm sau cũng như thế. Chim chóc đánh thức tôi dậy sau sáu giờ một chút. Tôi đun nước, pha một tách tràăn điểm tâm. Ngồi đọc ngoài hiên, nghe nhạc, xách xô ra suối múc nước. Và đi vào rừng, lần này mang theo la bàn, chốc chốc lại giở ra xem để xác định vị trí của căn lều. Tôi nhìn thấy một cái rìu trong lán và dùng nó để đánh dấu vào thân cây, đồng thời phạt bớt bụi râm ven đường cho dễ đi.
Cũng như hôm qua, rừng vẫn âm u và sâu thẳm, những cây cao vòi vọi họp thành hai bức tường dày ven đường. Tôi cảm thấy một cái gì lẩn khuất giữa đám cây rừng như hình một con vật trong phim nổi, đang quan sát từng cử động của tôi. Nhưng nỗi sợ đã làm tôi rùng mình giờ không còn nữa. Tôi đã tự đặt ra cho mình những quy tắc và một khi tuân thủ những quy tắc đó, tôi sẽ không bị lạc. Ít nhất thì, tôi cũng hy vọng thế.
Tôi đến chỗ đã dừng lại hôm qua và dấn tới nữa, bước vào cả một biển dương xỉ. Sau một thôi dài, con đường lại hiện ra. Một lần nữa, tôi lại bị bao quanh bởi bức tường cây. Tôi tiếp tục đẵn vào thân cây để đánh dấu. Đâu đó, ở một cành cao trên đầu tôi, một con chim lớn vỗ cánh, nhưng khi nhìn lên thì tôi không thấy nó. Miệng tôi khô se lại.
Tôi đi tiếp một thôi nữa và tới một quãng trống tròn tròn với những cây cao quây quanh, nom như đáy một cái giếng khổng lồ. Nắng tuôn xuống qua những cành cây như ánh đèn sân khấu rọi sáng mặt đất dưới chân tôi. Tôi cảm thấy chỗ này khá đặc biệt, theo một cách nào đó. Tôi ngồi xuống dưới ánh nắng, để cho hơi ấm lan tỏa khắp người, lấy trong ba lô ra một thanh sô-cô-la, thưởng thưc vị ngọt của nó. Một lần nữa nhận ra ánh mặt trời quan trọng như thê snào đối với con người, tôi trân trọng từng giây của nguồn sáng quý giá đó. Cái cảm giác cô đơn và bất lực cao độ khi nhìn triệu triệu vì sao trên bầu trời đêm qua đã biến mất. Nhưng rồi giờ khắc qua đi, góc chiếu của mặt trời thay đổi và ánh sáng tắt dần Tôi đứng dậy và trở ngược con đường, về lều.
ến chiều, những đám mây đen đột ngột nhuộm bầu trời một sắc độ bí ẩn và mưa bắt đầu trút xuống dữ dội, gõ trống trên mái và các ô cửa sổ của căn lều. Tôi cởi quần áo, chạy ra ngoài, lấy xà phòng rửa mặt và xát khắp mình mẩy chân tay. Cảm giác thật tuyệt vời. Trong niềm vui, tôi nhắm mắt lại và la lớn những câu bâng quơ vô nghĩa trong khi những hạt mưa to tướng táp vào má, mí mắt, ngực sườn, dương vật, chân và mông tôi - nhoi nhói đau như một lễ thu pháp tôn giáo hay một cái gì tương tự. Cùng với cái đau, là một cảm giác thân cận, như thể lần đầu tiên trong đưòi, tôi được thế giới đối xử một cách thỏa đáng. Tôi cảm thấy phấn khích, như thể đột nhiên được giải phóng. Tôi ngửa mặt lên trời, dang rộng tay, há to miệng hớp ừng ực những hạt mưa đang rơi.
Trở vào lều, tôi lấy khăn lau khô người, ngồi xuống giường và ngắm của quý của mình - một cái dương vật trẻ tráng, lành mạnh, trắng trẻo. Quy đầu còn hơi rát vì mưa táp. Hồi lâu tôi trân trân nhìn cái bộ phận kỳ lạ này của cơ thể tôi: phần lớn thời gian, nó chỉ hoạt động theo ý nó và nuôi những ý nghĩ mà bộ não tôi không chia sẻ.
Tôi tự hỏi không biết Oshima, hồi bằng tuổi tôi và ở đây, có phải đấu tranh với những thèm muốn tình dục hay không. Chắc có, nhưng tôi không hình dung nổi anh ấy tự làm cho mình sướng. Anh ấy tự chủ có thừa, đâu có làm thế.
"Mình khác tất cả mọi người," anh ấy nói thế. Tôi không hiểu ý nghĩa cụ thể của câu nói đó, nhưng tôi dám chắc anh ấy không khoa trương phét lác. Cũng không phải là anh ấy giữ kẽ hay làm ra vẻ bí mật.
Tôi định "xúc lọ" nhưng lại thôi. Trận mưa ào ào quất vào mình mẩy đem lại một cảm giác tinh khiết kỳ lạ mà tôi muốn níu giữ lâu hơn chút nữa. Tôi mặc quần đùi vào, thở mấy hơi thật sâu rồi bắt đầu tập nhún rồi chuyển sang ngồi dậy từ tư thế nằm, mỗi động tác một trăm lần, lần lượt tập trung vào từng nhóm cơ bắp. Tập xong, đNu óc tôi sáng sủa hẳn lên. Mưa đã tạnh, mặt trời bắt đầu lấp lánh qua khoảng trống giữa những đám mây và chim chóc lại bắt đầu líu lo.
Nhưng sự yên tĩnh này sẽ không kéo dài, cậu biết đấy. Những con thú vẫn truy đuổi cậu khắp nơi, không biết mệt. Tận trong rừng sâu, chúng xồ ra, dai như đỉa, liên tục, tàn bạo, không biết mệt, không bao giờ bỏ cuộc. Có thể bây giờ cậu tự chủ được, không thủ dâm, nhưng rồi chung cuộc, chúng sẽ dụ được cậu dưới hình thức mộng tinh. Cậu sẽ mơ thấy cậu cưỡng hiếp chị gái mình, mẹ mình. Đó là một cái gì cậu không cách chi kiểm soát nổi. Đó là một quyển lực ngoài tầm của cậu, và cậu không thể làm gì khác ngoại trừ chấp nhận nó.
Cậu sợ tưởng tượng. Và thậm chí còn sợ chiêm bao nữa. Sợ hãi trách nhiệm khởi đầu từ giấc mơ. Nhưng cậu phải ngủ và chiêm bao là một bộ phận của giấc ngủ. Khi tỉnh, cậu có thể dẹp được tưởng tượng. Nhưng cậu không thể dẹp được chiêm bao.
Tôi nằm xuống giường, và nghe Prince qua tai nghe, tập trung vào chất nhạc trì tục kỳ lạ này. Đến giữa bài Little Red Corvette thì hết pin và âm nhạc biến mất như bị bãi sa lầy nuốt chửng. Tôi bỏ tai nghe ra và lắng tai. Và phát hiện ra rằng im lặng là một cái gì ta có thể nghe thấy thực sự.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:05:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16


Con chó đen đứng dậy và dẫn Nakata ra khỏi phòng, theo hành lang tới nhà bếp, ở đây chỉ có một cửa sổ hẹp và tối om. Mặc dù rất sạch và ngăn nắp, nơi này vẫn có một cái gì đơ đơ vô cảm giống như một phòng thí nghiệm khoa học ở nhà trường. Con chó dừng trước một cái tủ lạnh to tướng, quay lại và phóng vào Nakata một tia nhìn lạnh lùng, nhọn như mũi khoan.
Mở cánh cửa bên trái ra, nó ra lệnh bằng một giọng trầm trầm. Nakata biết đó không phải là lời của con chó, mà là Johnnie Walker nói với lão thông qua nó. Nhìn lão bằng đôi mắt nó.
Nakata làm theo lời chỉ bảo. Cái tủ lạnh màu xanh cao quá đầu lão và khi lão mở cánh cửa bên trái, độ điều nhiệt tự động khởi động đánh thịch một cái, động cơ bắt đầu chạy ro ro. Một làn hơi trắng như sương phả ra. Mé này của tủ lạnh là một ngăn đá đặt khá thấp.
Bên trong, xếp gọn một dãy khoảng hai chục vật tròn tròn giống như trái cây. Không có gì khác nữa. Nakata cúi xuống nhìn chăm chăm vào những vật đó. Khi làn hơi tan đi, lão thấy ra đó không phải là trái cây, mà là những cái đầu mèo bị chặt. Những cái đầu bị chặt đủ màu, đủ cỡ, xếp trên ba cái giá, như cam ở một quầy bán rau quả. Những cái mặt mèo đông lạnh nhìn thẳng phía trước. Nakata nuốt khan.
Nhìn cho kỹ đi, con chó ra lệnh. Hãy kiểm tra bằng chính mắt mình xem có Goma trong số đó không.
Nakata làm theo, xem xét số đầu mèo từng cái một. Lão không cảm thấy sợ, đầu óc chỉ tập trung vào việc tìm con mèo nhỏ mất tích. Nakata thận trọng kiểm tra từng cái đầu, xác định rằng Goma không có trong đám này. Không nghi ngờ gì nữa – không thấy hoa văn mai rùa nào. Những cái mặt mèo lìa khỏi thân có một vẻ trống trơn kỳ lạ, không thấy dấu hiệu nào chứng tỏ chúng đã đau đớn. Ít nhất thì điều đó cũng khiến Nakata thở phào nhẹ nhõm. Một số con nhắm mắt, nhưng phần lớn thao láo nhìn đờ đẫn vào một điểm nào đó trong không gian.
“Lão không thấy Goma ở đây,” Nakata nói, giọng dứt khoát. Lão đằng hắng và đóng cửa tủ lạnh lại.
Bác có hoàn toàn chắc chắn không?
“Có, lão chắc chắn.”
Con chó đứng dậy và dẫn Nakata trở lại thư phòng. Johnnie Walker vẫn ngồi ở chiếc ghế xoay chờ lão. Khi Nakata bước vào, y đưa tay lên vành mũ ra ý chào và hòa nhã mỉm cười. Rồi y vỗ tay hai cái thật to và con chó ra khỏi phòng.
“Tôi là người đã chặt đầu tất cả lũ mèo ấy,” y nói, nhấc ly whisky lên và tợp một ngụm. “Tôi đang làm bộ sưu tập đầu mèo.”
“Vậy ra ngài là người bắt mèo ở bãi trống và giết chúng?”
“Đúng thế. Johnnie Walker Kẻ Giết Mèo khét tiếng.”
“Nakata này không hiểu rõ lắm, vậy vô phép ngài cho lão hỏi một câu, được không?”
“Xin mời,” Johnnie Walker nói, lại nhấc ly rượu lên. “Bác cứ thoải mái hỏi bất cứ câu gì. Tuy nhiên, để tiết kiệm thời gian, nếu bác không phiền, tôi có thể đoán điều đầu tiên bác muốn biết là tại sao tôi lại giết tất cả lũ mèo ấy. Tại sao tôi lại sưu tầm đầu mèo. Đúng không?”
“Vâng, đúng thế. Đó là điều Nakata này muốn biết.”
Johnnie Walker đặt ly xuống bàn và nhìn thẳng vào mặt Nakata. “Đây là một bí mật rất quan trọng mà tôi không muốn nói cho ai biết. Riêng với bác, bác Nakata, tôi làm một ngoại lệ, nhưng tôi không muốn bác kể lại với ai khác. Vả chăng, nếu bác có nói, cũng chẳng ai tin.” Y cười khúc khích.
“Bác nghe đây, tôi giết mèo không chỉ để mua vui. Tôi đâu có bệnh hoạn đến mức coi đó là trò vui,” y nói tiếp. “Tôi cũng không phải là một gã amatơ thừa thì giờ. Đi gom lại và giết ngần nấy con mèo tốn nhiều thì giờ và công sức lắm. Tôi giết chúng để gom hồn chúng lại làm thành một loại sáo đặc biệt. Và khi tôi thổi cây sáo ấy, nó sẽ giúp tôi gom được những hồn lớn hơn. Rồi tôi gom những hồn lớn để tạo một cây sáo lớn hơn nữa. Có thể cuối cùng, tôi sẽ làm được một cây sáo lớn đến mức ngang tầm vũ trụ. Nhưng đầu tiên hẵng là mèo đã. Gom hồn chúng là điểm xuất phát của toàn bộ dự án này. Mọi việc đều phải tuân theo một trình tự cốt yếu. Làm mọi điều theo đúng trình tự là một cách bày tỏ sự tôn trọng đối với trật tự tự nhiên của vạn vật. Đó là điều cần làm khi xử lý với các linh hồn khác. Những gì tôi phải xử lý ở đây không phải là dứa hay dưa, bác đồng ý không?”
“Vâng,” Nakata đáp. Nhưng thực ra lão chẳng hiểu mô tê gì. Sáo ư? Sáo ngang hay sáo dọc? nó sẽ phát ra âm thanh như thế nào? Và y nói hồn mèo nghĩa là thế nào? Tất cả những cái đó vượt qua năng lực nhận thức của lão. Nhưng có một điều mà Nakata hiểu: đó là phải phát hiện thấy Goma và cứu nó ra khỏi đây.
“Điều bác muốn là mang Goma về nhà”, Johnnie Walker nói, như đọc được ý nghĩ của Nakata.
“Đúng thế. Nakata này muốn đưa Goma về nhà nó.”
“Đó là sứ mệnh của bác,” Johnnie Walker nói. “Chúng ta ai cũng có sứ mệnh phải hoàn thành trong cuộc đời. Cái đó là tự nhiên thôi. Tôi đồ rằng bác chưa bao giờ nghe nói đến một cây sáo làm bằng hồn mèo, phải không?”
“Phải, chưa bao giờ.”
“Dĩ nhiên là thế. Bác không thể nghe nó bằng tai được.”
“Một cây sáo mà người ta không nghe được?”
“Đúng. Cố nhiên, tôi thì nghe được,” Johnnie Walker nói. “Nếu tôi mà không nghe được thì còn ra quái gì nữa. Tuy nhiên, người thường thì không thể nghe ra. Ngay cả nếu họ nghe được thì họ cũng không nhận ra. Có thể trong quá khứ, họ đã nghe thấy, nhưng họ không nhớ nữa. Rành là một cây sáo kỳ lạ. Nhưng, bác Nakata, có thể - tôi nói có thể thôi – bác nghe được n45;y. Nếu như lúc này, tôi có một cây sáo như thế trong tay, thì ta có thể thử luôn, nhưng tiếc rằng tôi chưa có.” Rồi như chợt nhớ ra điều gì, y giơ thẳng một ngón tay lên. “Trên thực tế, tôi đang chuẩn bị chặt đầu lũ mèo tôi vừa bắt được. Đây là mùa gặt mà. Tôi đã tóm hết những con có thể quây được ở bãi trống đó và đã đến lúc tiếp tục. Con mèo mà bác đang tìm, con Goma, ở trong số đó. Dĩ nhiên nếu tôi chặt đầu nó, bác sẽ không thể mang nó về cho nhà Koizumi, phải không nào?”
“Đúng thế,” Nakata nói. Lão không thể mang về cho gia đình Koizumi cái đầu bị chặt đứt của con Goma. Nếu hai con bé trông thấy, chúng sẽ bỏ ăn cả đời.
“Tôi muốn chặt đầu Goma, nhưng bác thì không muốn điều đó xảy ra. Sứ mệnh và lợi ích của hai chúng ta xung đột nhau. Điều đó luôn luôn xảy ra trên thế gian. Cho nên tôi đề nghị thế này: chúng ta hãy thương lượng. Tôi muốn nói là nếu bác làm cho tôi một việc, tôi sẽ đáp lễ bằng cách trao trả Goma lành lặn nguyên vẹn cho bác.”
Nakata đưa tay lên vò mái tóc muối tiêu thật lực, cái động tác quen thuộc của lão khi bối rối. “Điều đó tôi có thể làm được chứ?”
“Tôi nghĩ chuyện này chúng ta đã giải quyết rồi mà”, Johnnie Walker nói với một nụ cười giễu cợt.
“Vâng, vâng,” Nakata nói, chợt nhớ ra. “Đúng thế. Chúng ta đã giải quyết chuyện này rồi. Lão xin lỗi.”
Chúng ta không có nhiều thì giờ, vậy hãy để tôi đi thẳng vào vấn đề, nếu bác không phiền. Việc bác có thể làm cho tôi là giết tôi. Nói cách khác là lấy mạng tôi.”
Tay vẫn vò đầu, Nakata trân trân nhìn Johnnie Walker hồi lâu. “Ngài muốn Nakata này giết ngài?”
“Chính thế,” Johnnie Walker nói. “Tình thật, tôi mệt mỏi và ớn cái cuộc đời này lắm rồi. Tôi đã sống quá, quá lâu rồi. Thậm chí tôi không còn nhớ mình bao nhiêu tuổi nữa. Và tôi cảm thấy không muốn sống thêm nữa. Tôi mệt và chán giết mèo lắm rồi, nhưng chừng nào tôi còn sống, đó là việc tôi phải làm – hạ sát mèo và thu gom hồn chúng. Tiến hành mọi việc theo đúng trình tự, từ bước một đến bước mười, rồi lại quay lại bước một. Một sự lặp đi lặp lại bất tận. Và tôi đã phát ớn! Không ai tôn trọng việc tôi đang làm, nó không làm ai sung sướng. Nhưng tất cả đều đã thiết định, tôi không thể dùng một cái nói thôi và dừng phắt việc mình đang làm. Và tự lấy mạng mình không phải là một phương án. Cái đó cũng đã được quy định. Trong cái cuộc này, có đủ các thứ lệ luật. Nếu tôi muốn chết, tôi phải nhờ được một người khác giết tôi. Bác chính là người thích hợp. Tôi muốn bác phải sợ tôi, căm ghét tôi ghê gớm, rồi mới hạ sát tôi. Đầu tiên, bác sợ tôi. Rồi bác ghét tôi. Và sau cùng, bác giết tôi.”
“Nhưng tại sao… tại sao lại nhờ tôi? Nakata này xưa nay chưa từng giết ai bao giờ. Đó không phải là loại công việc phù hợp với lão.”
“Tôi biết. Bác chưa bao giờ giết ai và không muốn giết ai. Nhưng hãy nghe tôi nói đây: trong cuộc đời, có những lúc những kiểu lý do như thế là không đủ. Có những tình huống mà người ta bất cần xét xem anh có phù hợp với công việc trước mắt hay không. Bác cần hiểu điều đó. Chẳng hạn điều đó thường xảy ra trong chiến tranh. Bác có biết chiến tranh là gì không?”
“Có, lão có biết. Khi Nakata ra đời thì đang có một cuộc chiến tranh lớn. Lão có nghe nói về cuộc chiến tranh ấy.”
“Khi một cuộc chiến tranh nổ ra, người ta buộc phải trở thành lính. Họ phải mang súng ra tiền tuyến và phải giết những người lính ở phía bên kia. Giết càng nhiều càng tốt. Không ai cần biết anh có thích giết người khác hay không. Đó là việc anh phải làm, thế thôi. Bằng không, anh sẽ là kẻ bị giết.” Johnnie Walker chĩa ngón tay trỏ vào ngực Nakata. “Đòm!” Y nói. “Lịch sử loài người tóm gọn trong một tiếng
“Có phải ngài Tỉnh trưởng định xung Nakata này vào lính và ra lệnh cho lão giết người không?”
“Phải, đó chính là điều ngài Tỉnh trưởng sẽ làm: ra lệnh cho bác phải giết ai đó.”
Nakata suy nghĩ nhưng không thể vỡ lẽ ra tại sao ngài Tỉnh trưởng lại làm thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:08:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16 (tiếp)


“Bác phải nhìn nhận vấn đề theo cách này: giả sử đây là chiến tranh. Bác là một người lính và bác phải làm một quyết định: hoặc là tôi giết lũ mèo, hoặc là bác giết tôi. Một trong hai cách bác phải lựa chọn ngay lập tức, tại chỗ. Có thể bác cảm thấy đây là một lựa chọn quá quắt, nhưng hãy ngẫm mà xem: mọi lựa chọn chúng ta phải quyết định trong đời đều quá quắt.” Johnnie Walker khẽ chạm vào chiếc mũ lụa như để chắc chắn rằng nó vẫn ở đó.
“Điều bù lại duy nhất cho bác ở đây – nếu quả thật bác cần cái đó – là việc tôi muốn chết. Tôi đã nhờ bác giết tôi, cho nên bác khỏi phải chịu lương tâm cắn rứt. Bác làm đúng tâm nguyện của tôi. Không phải như bác giết một người không muốn chết. Thực tế, bác đang làm một điều thiện.”
Nakata gạt mấy giọt mồ hôi đọng ở chân tóc. “Nhưng Nakata này không cách nào có thể làm được một việc như thế. Ngay cả nếu ngài bảo lão giết ngài, lão cũng không biết xoay sở ra sao.”
“Tôi hiểu”, Johnnie Walker nói, vẻ thán phục. “Bác chưa từng giết ai bao giờ, nên bác không biết xoay sở ra sao. Được, vậy thì để tôi bày cho bác nhé. Bí quyết của việc giết ai đó, bác Nakata ạ, là không do dự. Phải tập trung vào định kiến của mình đối với kẻ đó và hành động thật nhanh, đó là phương cách hiệu quả để đạt mục đích. Tôi có một thí dụ tuyệt hảo ở ngay đây. Đối tượng không phải là con người, song nó có thể giúp bác tham khảo.”
Johnnie Walker đứng dậy, lấy một cái túi da lớn từ dưới gầm bàn, đặt lên chiếc ghế y vừa ngồi và mở ra. Như thể biểu diễn một trò ảo thuật, y vừa vui vẻ huýt sáo vừa lôi ra một con mèo. Nakata chưa từng thấy nó bao giờ, một con mèo đực vằn xám vừa đến tuổi trưởng thành. Toàn thân nó mềm rũ, nhưng mắt nó vẫn mở và còn tỉnh. Miệng vẫn huýt sáo theo điệu “Heigh-ho” của bảy chú lùn trong phim Nàng Bạch Tuyết của Walt Disney, Johnnie Walker giơ cao con mèo lên như phô một con cá y vừa bắt được.
“Trong cái túi này có năm con mèo, tất cả đều từ cái bãi trống ấy. Một mẻ tươi nguyên, vừa mới cất lưới, có thể nói thế. Tôi đã tiêm cho chúng một liều thuốc gây liệt. Gây liệt chứ không phải gây tê – chúng không ngủ và có thể cảm thấy đau, nhưng cả bốn chân lẫn đầu đều không cử động được. Tôi làm thế để giữ cho chúng khỏi giãy giụa. Điều tôi sắp làm là lấy dao rạch ngực con mèo này, moi quả tim còn đập của nó và chặt đầu nó. Ngay trước mắt bác. Nó sẽ đổ rất nhiều máu và sẽ đau đớn kinh khủng. Bác thử tưởng tượng xem nếu ai đó rạch ngực, moi tim bác thì sẽ đau biết chừng nào. Với mèo cũng thế - tất phải đau thôi. Tôi ái ngại cho những con vật bé bỏng tội nghiệp. Tôi không phải là một tên bạo tàn hung ác, lạnh lùng, nhưng tôi không thể làm khác được. Cần phải có sự đau đớn. Đó là quy tắc. Ở đây, chỗ nào cũng đầy quy tắc”. Y nháy mắt với Nakata. “Công việc là công việc. Mỗi người phải hoàn thành sứ mệnh của mình. Tôi sắp giết lần lượt từng con một và kết thúc bằng con Goma. Cho nên bác còn thì giờ để quyết định xem mình nên làm gì. Hãy nhớ lấy: hoặc là tôi giết lũ mèo, hoặc là bác giết tôi. Không có lựa chọn nào khác.”
Johnnie Walker đặt con mèo mềm nhũn lên mặt bàn, mở một ngăn kéo và bằng cả hai tay, lôi ra một gói to tướng màu đen. Y mở gói và bày những thứ trong đó lên bàn – một cái cưa điện nhỏ, dao mổ các cỡ và một con dao phay rất to, tất cả đều bóng loáng như vừa mới mài. Trong khi xếp chúng thành một hàng trên mặt bàn, Johnnie Walker âu yử độ sắc của từng lưỡi. Tiếp đó, y lấy mấy cái khay kim loại từ một ngăn kéo khác và cũng bày lên bàn. Rồi đến một cái túi plastic lớn từ một ngăn kéo thứ ba. Trong cả thời gian đó, vẫn huýt gió điệu “Heigh-ho”.
“Như tôi đã nói, bác Nakata ạ, mọi sự đều phải có quy củ,” Johnnie Walker nói. “Không thể nhìn quá xa về phía trước. Nếu nhìn quá xa, anh sẽ bỏ lãng cái trước mắt và sẽ vấp. Xin lưu ý, tôi không nói là chỉ nên tập trung vào những chi tiết trước mắt. Phải nhìn xa hơn cái trước mắt một chút, kẻo sẽ đâm sầm vào một cái gì. Phải theo đúng trình tự đồng thời để mắt tới những gì ở phía trước. Đó là điều cốt tử, bất kể anh làm việc gì.”
Johnnie Walker him mắt lại và khẽ vuốt đầu con mèo. Y lướt đầu ngón trỏ dọc theo bụng con vật, rồi dùng tay phải cầm lấy một con dao mổ và, không hề báo trước, rạch một nhát thẳng giữa bụng. Tất cả diễn ra trong một khoảnh khắc. Bụng mở toang và ruột đỏ quạch phòi ra. Con mèo cố kêu nhưng hầu như không ra tiếng. Lưỡi nó liệt cứng và miệng hầu như không há ra được. Nhưng đôi mắt lộn tròng của nó đủ nói lên nỗi đau khủng khiếp. Và Nakata có thể hình dung được nó đau đớn biết nhường nào. Lát sau, máu ộc ra, ướt đẫm hai tay Johnnie Walker và ròng ròng trên áo ghi-lê của y. Vậy mà y không hề để ý; miệng vẫn huýt sáo điệu “Heigh-ho”, y thọc tay vào bụng con vật, và với một con dao mổ cỡ nhỏ, cắt rời quả tim bé xíu.
Y đặt cái cục máu me ấy lên lòng bàn tay và chìa cho Nakata xem. “Nhìn thử coi. Nó còn đập đấy.”
Rồi như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời, y bỏ tọt trái tim mèo vào mồm và lặng lẽ nhai, ung dung tận hưởng vị của nó. Mắt y long lanh như một đứa trẻ đang khoan khoái ăn một cái bánh gatô mới ra lò.
Y lấy mu bàn tay chùi máu ở mồm và liếm môi liếm mép thật sạch. “Tươi, nóng và vào trong miệng vẫn còn đập.”
Nakata trố mắt nhìn cảnh diễn ra trước mặt, không nói nên lời. Lão không thể ngoảnh đi được. Mùi máu tươi tràn ngập phòng.
Vẫn huýt gió tiếp điệu nhạc vui, Johnnie Walker bắt đầu cưa đầu con mèo. Hàng răng cưa nghiến vào xương ken két đến đứt rời. Động tác của y có vẻ rất chuyên nghiệp. Xương cổ không dày lắm, nên toàn bộ công việc kết thúc nhanh chóng. Nhưng cái tiếng ken két kia nghe nặng nề lạ lùng. Johnnie Walker âu yếm đặt cái đầu vừa cưa đứt lên một chiếc khay kim loại. Như thể đang thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, y nheo mắt đăm đăm nhìn. Y ngừng huýt sáo một giây, lấy móng tay nậy một mảnh nhỏ giắt trong kẽ răng, rồi lại bỏ vào mồm và nhấm nháp ngon lành trước khi nuốt gọn, rồi chép môi một cách thỏa mãn. Sau đó, y mở cái túi plastic đen, quẳng cái xác mèo vào như thể vứt mớ giấy lộn vào sọt rác.
“Xong một con,” Johnnie Walker vừa nói vừa xòe hai bàn tay đầy máu ra trước mặt Nakata. “Một công việc thổ tả, bác có nghĩ thế không? Được quả tim tươi giãy đành đạch kể cũng khoái khẩu, nhưng xem này, bao nhiêu là máu… Không, bàn tay này có thể làm hồng ngàn con sóng biển, nhuộm đỏ đại dương xanh. Đó là một câu trong vở kịch Macbeth. Đây không đến nỗi không tẩy sạch được như bàn tay Macbeth, nhưng tổng số hóa đơn tẩy khô tôi phải thanh toán lên đến mức bác không tin được đâu. Xét cho cùng, đây là một bộ đồ đặc biệt. Lẽ ra tôi nên mặc blouse và găng tay mổ, nhưng tôi không được phép. Đó lại là một quy tắc nữa.”
Nakata không nói gì, tuy nhiên, một cái gì đó bắt đầu ngọ nguậy trong đầu lão. Căn phòng tanh nồng mùi máu, và âm điệu của bài “Heigh-ho” vẫn vang vang trong tai lão.
Johnnie Walker lôi con mèo tiếp theo ra khỏi túi, một con cái lông trắng không còn trẻ lắm, chóp đuôi hơi vẹo. Cũng như lần trước, y vuốt đầu con mèo một lúc, rồi ung dung vạch ướm một đường kẻ vô hình trên bụng nó. Rồi cầm một con dao mổ lại rạch nhanh một vệt, mở toang ngực nó ra. Phần còn lại cũng y như với con trước – tiếng kêu thét câm lặng, cái thân co giật, ruột phòi ra, moi quả tim nhầy nhụa máu, phô với Nakata, bỏ tọt vào mồm, thong thả nhai. Nụ cười thỏa mãn. Lấy mu bàn tay quệt máu. Tất cả với tiếng huýt gió điệu “Heigh-ho” làm nhạc nền.
Nakata ngồi thụt hẳn vào chiếc ghế bành và nhắm mắt lại, hai tay ôm đầu, những ngón tay ấn sâu vào thái dương. Rành là một cái gì đang dâng lên bên trong lão, một thứ hỗn loạn khủng khiếp đang làm thay đổi chính bản thể của lão. Lão thở gấp, và một cơn đau nhói giần giật trong cổ lão. Con mắt nhìn của lão thay đổi quyết liệt.
“Bác Nakata,” Johnnie Walker tươi tỉnh nói, “chớ vội bỏ cuộc như thế. Giờ mới sắp tới phần chính. Kia mới chỉ là màn dạo đầu, một bước khởi động thôi. Giờ chúng ta sẽ đến với những gương mặt quen thuộc mà bác từng biết. Cho nên bác hãy mở to mắt mà nhìn cho kỹ. Đây là đoạn hay ho nhất! Tôi hy vọng bác sẽ đánh giá được những cố gắng cật lực của tôi để mang lại cho bác cuộc tiêu khiển này.”
Huýt gió tiếp bài “Heigh-ho”, y lôi con mèo tiếp theo ra. Ngồi lút trong ghế bành, Nakata mở mắt ra nhìn nạn nhân sắp tới. Đầu lão trống trơn hoàn toàn. Thậm chí lão không đứng dậy nổi.
“Tôi tin rằng hai bên đã biết nhau,” Johnnie Walker nói, “tuy nhiên tôi vẫn xin làm nhiệm vụ giới thiệu. Bác Nakata, đây là cậu Kawamura. Cậu Kawamura, bác Nakata,” Johnnie Walker ngả mũ vơi một dáng điệu rất kịch, thoạt tiên chào Nakata, rồi đến con mèo bị tiêm thuốc liệt.
“Giờ hai bên đã chào hỏi nhau rồi, tôi e rằng chúng ta lại phải nói lời vĩnh biệt ngay tức khắc. Gặp mặt, phân ly! Đời người là những cuộc phân ly dài dài, như những cánh hoa tung tóe trong gió. (Y mơn man cái bụng mềm của Kawamura). Bác Nakata, nếu bác muốn chặn tôi lại thì bây giờ là đúng lúc đấy. Thời gian đang trôi và tôi sẽ không do dự đâu. Trong từ điển của Johnnie Walker Kẻ-Giết-Mèo khét tiếng, không cừ do dự đâu.”
Và quả vậy, không mảy may do dự, y rạch toang bụng Kawamura. Lần này, có thể nghe thấy tiếng kêu. Có lẽ lưỡi của nó chưa liệt hoàn toàn hoặc giả đó là một thứ tiếng kêu đặc biệt mà chỉ Nakata nghe thấy được. Một tiếng kêu ghê rợn lạnh sống lưng. Nakata nhắm mắt lại và đưa hai tên lên ôm mái đầu run rẩy.
“Bác phải nhìn!” Johnnie Walker ra lệnh. “Đó lại là một quy tắc nữa của chúng tôi. Nhắm mắt lại cũng chẳng thay đổi được gì. Chẳng có gì biến đi chỉ vì anh không nhìn thấy những gì đang diễn ra. Trên thực tế, tình hình thậm chí sẽ còn xấu đi khi anh mở mắt trở lại. Chúng ta đang sống trong một thế giới như thế đó, bác Nakata ạ. Hãy mở to mắt ra. Chỉ có kẻ hèn nhát mới nhắm mắt lại. Nhắm mắt, bịt tai đâu có thể làm cho thời gian ngừng lại được.”
Nakata làm theo lời chỉ bảo và mở mắt ra.
Một khi đã chắc chắn là Nakata đang mở mắt, Johnnie Walker liền trình diễn tiết mục ăn tim Kawamura, nhai thủng thẳng hơn lần trước để thưởng thức. “Vừa mềm vừa ấm. Y như món gan lươn ấy,” Johnnie Walker bình luận. Rồi y đưa một ngón tay trỏ đẫm máu lên miệng mút chùn chụt. “Khi đã phải mùi rồi sẽ đâm nghiện. Nhất là cái chất máu lầy nhầy ấy.”
Y chùi máu ở dao mổ, vẫn vui vẻ huýt gió như mọi khi và cưa đầu Kawamura. Những răng nhỏ sắc của lưỡi cưa nghiến qua xương và máu tràn khắp.
“Ngài Johnnie Walker, lão xin ngài, Nakata này không chịu đựng được nữa.”
Johnnie Walker ngừng huýt sáo, ngừng công việc đang làm và gãi dái tai. “Thế này thì không ổn rồi, bác Nakata. Tôi rất tiếc là bác cảm thấy khó ở, thành thực rất tiếc, nhưng tôi không thể đơn giản nói Thôi được và ách chuyện này lại. Tôi đã nói với bác đây là chiến tranh mà. Thật rất khó mà ách một cuchiến tranh lại một khi nó đã bắt đầu. Một khi gươm đã rút ra khỏi vỏ thì máu phải đổ. Chuyện này hoàn toàn không liên quan gì với lý thuyết, hay với lô-gích, hay thậm chí với cái tôi của tôi. Đó chỉ thuần túy là một quy tắc. Nếu bác không muốn con mèo nào bị giết nữa, thì bác phải giết tôi. Hãy đứng dậy, tập trung chí căm thù của bác và hạ thủ tôi. Và phải làm ngay lập tức. Hãy làm thế và mọi chuyện sẽ kết thúc. Chấm hết.”
Johnnie Walker lại bắt đầu huýt sáo. Y cưa nốt đầu Kawamura và vứt cái xác không đầu vào túi rác. Giờ đây, đã có ba cái đầu xếp thẳng hàng trên chiếc khay kim loại. chúng đã đau đớn đến thế mà mặt chúng vẫn vô cảm lạ lùng, y hệt những cái đầu xếp trong tủ lạnh.
“Sau đây đến lượt con mèo xiêm”, Johnnie Walker vừa nói vừa lôi từ trong túi ra một con mèo Xiêm người mềm nhũn. Tất nhiên đó chính là Mimi. “Vậy bây giờ ta đến với Mi Chiamano Mimi (Người ta gọi tôi là Mimi). Vở nhạc kịch của Puccini. Quả thực con mèo nhỏ này có cái vẻ đỏm dáng sang trọng ấy, phải không? Bản thân tôi là người cực kỳ hâm mộ Puccini. Âm nhạc của Puccini là... Tôi nên nói thế nào nhỉ? ... Vĩnh viễn mâu thuẫn với thời đại. Người ta có thể cãi lại rằng đó chỉ đơn thuần là giải trí bình dân, nhưng nó không bao giờ già cỗi. Một thành quả nghệ thuật tuyệt vời.”
Y huýt sáo một nét giai điệu trong Mi Chiamano Mimi.
“Nhưng, bác Nakata này, tôi phải nói với bác là tôi phải rất kỳ công mới bắt được Mimi đấy. Nó rất thông minh và thận trọng và nhanh cực kỳ. Không thuộc loại dễ lừa. Một vị khách hàng khó chơi. Nhưng con mèo có thể thoát khỏi tay Johnnie Walker Kẻ-Bắt-Mèo vô song chưa sinh ra đời. Tôi nói vậy không phải để khoe khoang đâu. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh là bắt nó khó khăn biết nhường nào. Dù sao đi nữa, voilà[14]! Cô bạn Mimi của bác! Mèo Xiêm là loại cực kỳ yêu thích của tôi. Bác không biết, chứ tim mèo Xiêm thực sự là một của quựa như nấm hương vậy. Hảo, hảo, tiểu thư Mimi! Đừng sợ - Johnnie Walker đây! Sẵn sàng thưởng thức trái tim âm ấm xinh xẻo của tiểu thư. A... Tiểu thư đang run này!”
“Ngài Johnnie Walker.” Thu hết nghị lực từ đáy lòng mình, Nakata bật ra được mấy tiếng đó bằng một giọng nhỏ bặt. “Tôi xin ngài hãy dừng lại. Nếu không, Nakata này sẽ điên mất. Lão cảm thấy không còn là mình nữa.”
Johnnie Walker đặt Mimi lên bàn và như mọi lần, từ từ lướt ngón tay dọc theo bụng nó. “Vậy bác không còn là bác nữa,” y nói, thận trọng và bình tĩnh. “Điều này rất quan trọng đấy, bác Nakata ạ. Một con người không còn là mình nữa.” Y cầm lên một con dao mổ y chưa dùng tới và lấy đầu ngón tay kiểm tra độ sắc của nó. Rồi, như để thực tập, y liếc liếc mũi dao trên mu bàn tay. Một lát sau, máu rỉ ra, nhỏ giọt xuống bàn và mình Mimi. Johnnie Walker cười rinh rích. “Một con người không còn là mình nữa,” y nhắc lại. “Bác không còn là bác nữa. Thế là đúng sách đấy, bác Nakata ạ, tuyệt vời! Điều quan trọng nhất trong tất cả. Ôi, đầu ta đầy những bọ cạp! Lại một lời thoại trong Macbeth.”
Không một lời, Nakata đứng dậy. Không ai, kể cả Nakata, có thể ngăn được lão. Bằng những sải chân dài, lão bước tới bàn và vớ lấy một cái gì đó giống như dao thái thịt. Nắm chắc cái chuôi gỗ, lão cắm ngập lưỡi dao vào bụng Johnnie Walker, xuyên qua lớp gi-lê đen, rồi tiếp tục đâm vào một chỗ khác. Lão nghe thấy một cái gì, một âm thanh lớn mà thoạt đầu, lão không biết là cái gì. Nhưng rồi lão hiểu ra: Johnnie Walker đang cười. Bị đâm trúng bụng và ngực, máu trào ra, y vẫn tiếp tục cười.
“Đó mới là bản lĩnh chứ!” y la to. “Bác đã không do dự. Làm tốt lắm!” Cười ngặt nghẽo như thể đây là câu đùa ngộ nghĩnh nhất y từng nghe. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, tiếng cười chuyển thành tiếng nấc. Máu ùng ục trong cuống họng y nghe như một ống dẫn nước vừa được mở nút. Một cơn co giật dữ dội làm người y oằn oại và máu t miệng y ộc ra cùng với những cục đen đen lầy nhầy: những miếng tim mèo y vừa ăn. Máu tung tóe trên bàn, trên cả chiếc sơ mi golf của Nakata. Cả hai người đều bê bết máu và Mimi nằm trên bàn cũng vậy.
Johnnie Walker gục xuống dưới chân Nakata. Y nằm nghiêng co quắp như một đứa trẻ trong đêm lạnh. Y chết hẳn rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Tay trái y áp chặt vào cổ họng, tay phải giơ thẳng ra như muốn với lấy một cái gì đó. Đã dứt cơn co giật và dĩ nhiên cả tiếng cười nữa. Tuy nhiên, vẫn còn dấu vết của một nụ cười giễu cợt ở khóe môi. Máu đọng thành vũng trên sàn gỗ và chiếc mũ lụa đã lăn vào một góc. Tóc ở phía sau đầu Johnnie Walker thưa, có thể nhìn rõ da đầu. Không có cái mũ, nom y già hơn, yếu hơn.
Nakata buông con dao và tiếng nó rơi xuống sàn nghe như tiếng khởi động của một cỗ máy lớn ở đằng xa. Nakata đứng cạnh cái xác hồi lâu. Mọi thứ trong phòng như đã ngưng đọng lại. Chỉ có máu là tiếp tục lặng lẽ chảy tràn, cái vũng từ từ lan khắp mặt sàn.
Cuối cùng, Nakata định thần lại và bế Mimi từ trên bàn lên. Ấm và mềm lả trong tay Nakata, mình nó đầy máu, nhưng rõ ràng nó không bị thương. Mimi ngước mắt như muốn nói với ông già điều gì, nhưng thuốc liệt khiến nó không há miệng được.
Sau đó, Nakata tìm thấy Goma trong cái túi lớn và nhấc nó ra ngoài. Tuy mới chỉ nhìn thấy nó trong ảnh, nhưng lão vẫn thấy lòng nao nao nhớ như thể gặp lại một người bạn xa lâu. “Goma...” Lão thì thầm. Hai tay ôm hai con mèo, Nakata ngồi xuống chiếc ghế bành. “ta về nhà thôi,” lão bảo chúng thế, nhưng không đứng dậy nổi.
Từ một nơi nào đó, con chó đen đã xuất hiện trở lại và ngồi xuống cạnh xác chủ nó. Có thể nó đã liếm hết vũng máu, nhưng Nakata không nhớ chắc lắm. Đầu lão nằng nặng và mù mờ. Lão hít một hơi thật sâu và nhắm mắt lại. Tâm trí lão bắt đầu nhòa nhòa và chìm vào bóng tối lúc nào không biết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:11:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17


Đây là đêm thứ ba của tôi ở căn nhà gỗ này. Mỗi ngày qua đi, tôi lại quen hơn với im lặng và bóng tối thăm thẳm. Ban đêm không làm tôi sợ nữa, ít nhất cũng thôi làm tôi chết khiếp. Tôi chất củi đầy bếp lò, ngồi trấn trước đó và đọc. Khi nào mệt, tôi chỉ ngồi thần ra, trân trân nhìn lửa cháy. Tôi không bao giờ chán nhìn lửa. Những ngọn lửa đủ các hình dạng và màu sắc, chuyển động linh hoạt như những vật sống - chúng sinh ra, tụ lại, rời nhau và chết.
Khi trời quang mây, tôi ra ngoài, nhìn lên bầu trời. Những ngôi sao không đem lại cho tôi cảm giác bất lực như trước nữa và tôi bắt đầu cảm thấy gần gũi chúng. Mỗi ngôi sao phát ra ánh sáng đặc biệt của riêng mình. Tôi nhận ra một số ngôi và quan sát chúng lấp lánh trong đêm. Thi thoảng, chúng bùng sáng hơn như thể chợt nhớ ra điều gì. Vầng trăng treo lơ lửng, trắng và sáng vằng vặc; nếu nhìn kỹ, dường như tôi có thể nhận thấy địa hình lởm chởm trên bề mặt. Tôi chẳng bận óc nghĩ suy gì mạch lạc, chỉ ngây ngất ngắm bầu trời.
Không nghe nhạc được vì máy hết pin không phải là một thiếu vắng trầm trọng như tôi đã tưởng. Có biết bao âm thanh khác thay thế nó - tiếng chim líu lo, tiếng kêu của đủ loại côn trùng, tiếng róc rách của con suối, tiếng lá xào xạc. Mưa rơi, một vật gì trườn trên mái lều, đôi khi một tiếng động bí ẩn không tả nổi. Trước đây, tôi không hề biết thế giới lại đầy những âm thanh tự nhiên đẹp và nhiều đến thế. Cả đời, cho đến tận bây giờ, tôi đã bỏ qua chúng. Tôi ngồi ngoài hiên hàng giờ, mắt nhắm nghiền, không động đậy, lắng nghe không bỏ sót tiếng động nào quanh mình.
Rừng cũng thôi không làm tôi sợ đến độ khiếp vía như trước và tôi đã bắt đầu cảm thấy hồ như gần gũi với nó,ậm chí kính trọng nữa. Tuy nhiên, tôi không mạo hiểm quá xa căn nhà gỗ và chỉ đi theo con đường mòn sẵn có mà thôi. Chừng nào tôi tuân thủ những quy tắc đó, sẽ không có bất trắc gì quá đáng. Đó là điều quan trọng - hãy tuân thủ các quy tắc, rừng sẽ lặng lẽ chấp nhận anh, chia sẻ với anh phần nào sự yên bình và nét đẹp của nó. Nhưng nếu vượt qua ranh giới, những con thú rình núp trong im lặng sẽ chộp gọn anh trong những móng sắc như dao của chúng.
Tôi thường nằm dài trong khoảng trống nhỏ hình tròn, để cho nắng tãi lên khắp người. Mắt nhắm nghiền, tôi thả mình cho nắng mơn man, tai dỏng lên đón tiếng gió rít qua các ngọn cây. Bao bọc trong hương rừng đằm ngát, tôi lắng nghe tiếng chim vỗ cánh, tiếng lá dương xỉ lao xao. Tôi thoát khỏi trọng lực, bồng bềnh bên trên mặt đất (chút xíu thôi) và trôi trong không trung. Tất nhiên, trạng thái này không kéo dài. Đó chỉ là một cảm giác thoáng qua - mở mắt ra là nó tan biến. Dẫu sao, đó vẫn là một trải nghiệm ngây ngất: có thể trôi bồng bềnh trên không.
Có đôi ba lần mưa to nhưng không kéo dài, và lần nào tôi cũng trần truồng lao ra tắm mưa. Đôi khi tập vã mồ hôi, tôi cởi quần áo, tắm nắng ngoài hiên. Tôi uống rất nhiều trà, tập trung vào đọc sách, khi ngồi ngoài hiên, lúc bên bếp lò. Đọc đủ các loại: lịch sử, khoa học, truyện dân gian, huyền thoại, xã hội học, tâm lý học, cả Shakespeare nữa... Thay vì ngốn thẳng một mạch đến hết, tôi thường đọc đi đọc lại những đoạn tôi nghĩ là quan trọng nhất kỳ cho đến khi thật hiểu để từ đó thu hoạch được một cái gì cụ thể. Từng tí một, đủ các loại kiến thức thẩm thấu vào óc tôi. Tôi nghĩ giá có thể ở lại đây bao lâu tùy thích thì tuyệt biết mấy. Có bao nhiêu là sách trên các giá mà tôi muốn đọc và đồ ăn thức uống thì vẫn còn ê hề. Nhưng tôi biết đây chỉ là nơi tạm trú, chẳng bao lâu sẽ phải rời đi. Chốn này thật quá yên tĩnh, quá tự nhiên, quá hoàn hảo. Tôi không xứng đáng với nó. Ít nhất là chưa phải bây giờ.
Đến ngày thứ tư, Oshima xuất hiện vào cuối buổi sáng. Tôi nằm ườn trên ghế ngoài hiên, trần truồng, lơ mở ngủ dưới nắng nên không nghe thấy anh tới. Tôi không nghe thấy tiếng xe của anh. Vai khoác ba lô, anh bước đi trên con đường dẫn tới đây. Anh lặng lẽ bước lên các bậc thềm, chìa tay ra và khẽ xoa đầu tôi. Giật mình, tôi chồm dậy và cuống quít quờ tay tìm một chiếc khăn để che thân, nhưng không có cái nào trong tầm tay.
"Đừng ngại," Oshima nói. "Hồi mình ở đây, mình vẫn trần truồng tắm nắng thường xuyên. Phơi những chỗ kín ra ánh mặt trời là một cảm giác thật dễ chịu."
Trần như nhộng trước mặt anh, tôi cảm thấy trơ trẽn với cả bộ tam sự xồm xoàm lông lá phô ra. Tôi không biết nên làm gì. Đã quá muộn để che đậy.
"À anh," tôi nói, cố lấy giọng thản nhiên. "Anh leo bộ lên à?"
"Trời hôm nay đẹp quá nên mình quyết định để xe ở dưới cổng," anh với một chiếc khăn vắt trên lan can, đưa cho tôi. Tôi quấn nó quanh mình và cuối cùng mới cảm thấy đỡ ngượng.
Anh vừa nấu nước vừa hát nho nhỏ, rồi lấy bột, trứng và sữa từ ba lô ra, đánh lộn lên làm bánh kếp, rồi láng bơ và xi-rô lên chốc. Rồi anh lôi ra nào rau diếp, nào cà chua, nào hành, dùng dao bếp thái nhỏ tất cả rất cẩn thận để làm món nộm. Đó là bữa trưa của chúng tôi.
"Vậy cậu thấy thế nào qua ba ngày ở đây?" anh hỏi, tay cắt bánh kếp.
Tôi kể với anh về những giờ khắc tuyệt vời tôi đã sống ở đây. Tôi bỏ qua đoạn đi vào rừng: tốt hơn là đừng nhắc đến chuyện đó.
"Mình lấy làm mừng," Oshima nói. "Mình đã hy vọng nơi này sẽ làm cậu thích
"Nhưng chúng ta sẽ quay về thành phố bây giờ, phải không?"
"Phải. Đã đến lúc trở về rồi."
Chuẩn bị sẵn sàng để lên đường, chúng tôi nhanh chóng dọn dẹp mọi thứ trong lều. Rửa bát đĩa, xếp lên giá, lau chùi bếp lò, đổ nước trong xô, đóng van bình ga, cho những đồ ăn để lâu được vào chạn, còn bao nhiêu vứt đi, quét sàn, lau bàn ghế, đào một cái hố bên ngoài lều để vùi rác.
Trong khi Oshima khóa cửa, tôi quay lại nhìn căn lều một lần cuối. Một phút trước, tôi còn cảm thấy nó rất thật, nhưng giờ đây nó lại có vẻ hư ảo. Chỉ vài bước thôi là đủ cho tất cả những gì gắn liền với nó mất hết tính chất thực tại. Và tôi - người đã từng ở đấy cho tới giây phút trước - lúc này tôi cảm thấy chính mình cũng hư ảo nốt. Từ đây đến chỗ Oshima đậu xe, đi bộ mất ba mươi phút và trên đường xuống núi, chúng tôi hầu như không trao đổi với nhau một lời nào. Oshima âm ư một giai điệu, còn tôi để mặc tâm trí phiêu diêu.
Dưới chân núi, chiếc xe thể thao nhỏ màu xanh quyện lẫn vào nền cây lá của rừng. Oshima đóng cổng chính để ngăn người lạ đột nhập vào, quấn hai vòng xích và bấm ống khóa móc. Như lần trước, tôi cột chiếc ba lô vào giá để hành lý đằng sau xe. Mui xe đã hạ sẵn.
"Về thành phố," Oshima nói.
Tôi gật đầu.
"Mình dám chắc cậu khoái sống một mình với thiên nhiên như thế, nhưng thật không dễ gì sống ở nơi đó một thời gian dài," Oshima nói. Anh đeo kính râm và thắt dây an toàn.
Tôi ngồi xuống cạnh anh và dây an toàn.
"Về lý thuyết thì không phải không thể sống như thế và cố nhiên đã có những người làm thế. Nhưng trên thực tế, cách nào đó, tự nhiên lại có phần phi tự nhiên. Và thư giãn có khi lại trở thành mối đe dọa thực sự. Phải từng trải và có chuẩn bị mới có thể thực sự sống được với những mâu thuẫn đó. Cho nên, tạm thời ta hẵng quay về thành phố cái đã. Trở về với văn minh."
Oshima dận ga và xe bắt đầu xuống núi. Lần này, anh không vội và lái nhẩn nha, vừa đi vừa ngắm cảnh và hóng gió thổi tung mái tóc. Hết đoạn đường đất, xe bắt đầu vào một đoạn đường nhựa hẹp, băng qua làng xóm, cánh đồng.
"Nhân nói đến mâu thuẫn," Oshima đột nhiên nói, "hôm đầu tiên gặp cậu, mình đã cảm thấy một cái gì mâu thuẫn nơi cậu. Cậu đang tìm kiếm một cái gì, đồng thời lại chạy trốn cái đó bằng mọi giá."
"Em đang tìm kiếm cái gì?"
Oshima lắc đầu. Anh liếc vào gương chiếu hậu và cau mày, "Mình chẳng biết. Mình chỉ nói rằng mình có cảm giác như thế thôi."
Tôi không trả lời.
"Theo kinh nghiệm bản thân mình, khi ta có công tìm kiếm một cái gì thì chẳng mấy khi thấy được. Và khi ra sức trốn chạy một cái gì thì nó thường bắt kịp ta. Tất nhiên, mình chỉ khái quát hóa thôi."
"Vậy nếu áp dụng vào trường hợp của em, thì điều gì sẽ xảy ra nếu như cùng một lúc, em vừa tìm kiếm vừa trốn tránh một điều gì?"
"Một câu hỏi hắc búa đấy," Oshima mỉm cười. Một lát sau anh mới nói tiếp. "Nếu phải trả lời thì mình sẽ nói như sau: bất kể cậu đang tìm kiếm điều gì, nó cũng sẽ đến dưới dạng cậu chờ đợi."
"Kiểu như một lời tiên đoán gở."
"Như trong Cassandra."
"Cassandra?"
"Một vở bi kịch Hy Lạp. Cassandra là công chúa thành Troy có tài tiên tri. Nàng vào đền làm nữ tu sĩ và được Apollo ban cho khả năng đoán trước số mệnh. Đổi lại, Apollo ép nàng ngủ với mình, nhưng nàng từ chối và vị thần đã hô thần chú ếm nàng. Các vị thần Hy Lạp mang nhiều tính chất huyền thoại hơn là tôn giáo. Nghĩa là họ cũng có những khuyết điểm giống như con người: cũng nổi nóng, cũng thèm khát tình dục, cũng ghen tuông, cũng lú lẫn, tật gì cũng có."
Anh lấy từ hộc đựng găng một hộp kẹo chanh, bỏ một viên vào miệng. Anh ra dấu mời tôi và tôi cũng lấy một viên.
"Thần chú như thế nào?"
"Thần chú yểm Cassandra ấy à?"
Tôi gật đầu.
"Là mọi tiên đoán của nàng đều ứng, nhưng sẽ không có ai tin nàng cả. Hơn nữa, mọi tiên đoán ấy đều nhằm chuyện gở: phản bội, tai nạn, chết chóc, đất nước suy vong. Đại loại như thế. Người ta chẳng những không tin mà còn bắt đầu khinh ghét nàng. Nếu cậu chưa đọc kịch Euripdes và Aeschylus[15], thì mình khuyên cậu nên đọc đi. Tác phẩm của họ nêu nhiều vấn đề cốt tử mà thậm chí tới nay, chúng ta vẫn còn phải đương đầu. Thông qua các koros
"Koros là cái gì?"
"Đó là dàn đồng ca trong các bi kịch Hy Lạp. Họ đứng đằng sau sân khấu, đồng thanh giải thích các tình huống hoặc bình luận những diễn biến nội tâm nhân vật. Thậm chí đôi khi còn khuyên bảo nhân vật. Đó là một thủ pháp rất tiện lợi. Đôi khi mình ước sao có riêng một dàn đồng ca đứng đằng sau mình."
"Anh có khả năng tiên tri không?"
"Mình đâu có cái may mắn ấy," anh tủm tỉm cười. "Khốn thay - hay may thay - mình lại không có cái năng lực ấy. Nếu như mình có vẻ như luôn luôn tiên đoán những điều gở, đó là vì mình là một thằng thực dụng. Mình dùng phương pháp lập luận suy diễn để khái quát hóa, và mình đồ rằng kết quả suy luận của mình đoi khi nghe những dự báo điều chẳng lành. Cậu biết tại sao không? Bởi thực tại chỉ là sự tích tụ của những dự báo gở trở thành hiện thực. Cậu chỉ việc giở một tờ báo bất kỳ ngày nào ra và bắc lên bàn cân một bên là tin tốt và bên kia là tin xấu, cậu sẽ rõ mình muốn nói gì."
Đến một vòng cua, Oshima đều thận trọng giảm tốc độ, sang số nhẹ như không. Chỉ nhận ra ở tiếng động cơ hơi thay đổi.
"Tuy nhiên, mình có một tin tốt cho cậu đây," anh nói. "Chúng tôi đã quyết định nhận cậu. Cậu sẽ là một nhân viên của Thư viện Tưởng niệm Komura. Mình nghĩ cậu đủ tiêu chuẩn đấy."
Bất giác tôi liếc nhìn anh. "Anh muốn nói là em sẽ làm việc ở thư viện?"
"Chính xác hơn, từ nay trở đi, cậu sẽ thuộc về thư viện. Cậu sẽ ở ngay trong thư viện, sống tại đó. Cậu sẽ mở cửa và đóng cửa thư viện đúng giờ quy định. Như mình đ trước đây, cậu có vẻ là người có kỷ luật tự giác và khá khỏe mạnh, nên mình nghĩ công việc sẽ không quá vất vả đối với cậu. Cả Miss Saeki lẫn mình về thể chất đều không khỏe lắm, có cậu thêm chân thêm tay, sẽ đỡ đần chúng mình rất nhiều. Ngoài ra, cậu sẽ chỉ giúp vào những công việc vặt hàng ngày thôi. Không có gì đáng kể đâu: pha cà phê ngon cho mình, đi mua sắm giúp bọn này. Chúng mình đã chuẩn bị một căn phòng ở khu nhà phụ của thư viện cho cậu. Đó trước là phòng của khách, nhưng không có khách nào nghỉ lại qua đêm, nên đã lâu không dùng đến. Cậu sẽ ở đó. Cậu có thể tắm vòi hoa sen ngay trong phòng. Điều hay nhất là cậu sẽ ở luôn trong thư viện, nên có thể đọc bất cứ cái gì cậu thích."
"Nhưng tại sao..." tôi mở đầu nhưng không nói hết câu.
"Tại sao bọn mình làm thế chứ gì? Tất cả đều dựa trên một nguyên lý rất đơn giản. Mình hiểu cậu và Miss Saeki hiểu mình. Mình chấp nhận cậu, còn Miss Saeki chấp nhận mình. Cho nên mặc dù cậu là một thiếu niên mười lăm tuổi bỏ nhà và xa lạ, cũng không thành vấn đề. Vậy cậu nghĩ thế nào?"
Sau một lát suy nghĩ tôi nói: "Tất cả những gì em kiếm tìm là một mái nhà che đầu. Lúc này đây, chỉ có cái đó là quan trọng. Em không thật sự hiểu thuộc về thư viện nghĩa là thế nào, nhưng nếu nó có nghĩa là em có thể ở đấy, thì em rất hàm ơn. Ít nhất em cũng sẽ không phải đi đi lại lại hằng ngày bằng xe lửa nữa."
"Vậy là ngã ngũ nhé," Oshima nói. "Ta hãy đến thư viện. Để cậu có thể trở thành một bộ phận thuộc về nó."
Chúng tôi theo xa lộ, qua một số thị trấn, qua một panô to tướng quảng cáo cho một công ty tín dụng, một trạm xăng với những trang trí lòe loẹt, một cửa hàng ăn uống với những phòng kính, một khách sạn ái tình bắt chước kiểu một lâu châu Âu, một cửa hàng cho thuê băng video đã phế bỏ còn trơ lại tấm biển, một phòng chơi pachinko[16] với bãi đỗ xe rộng mênh mông, một cửa hàng McDonald's, những siêu thị 7-Eleven, Yoshinoya, Denny's... Thực tại ồn ào bắt đầu bắt đầu bao quanh chúng tôi. Tiếng rít phanh hơi của những xe tải mười tám bánh, tiếng còi, tiếng xả khí. Tất cả những thứ mới vừa đây còn gần gũi với tôi: ngọn lửa trong bếp lò, những vì sao lấp lánh, cái tĩnh lặng của khu rừng... giờ biến mất tăm; thậm chí tôi thấy khó mà hình dung ra chúng.
"Có một đôi điều cậu cần biết về Miss Saeki," Oshima nói. "Hồi nhỏ mẹ mình và Miss Saeki là bạn cùng lớp, rất thân nhau. Mẹ mình kể rằng bà là một nữ sinh xuất sắc, luôn đạt điểm cao, thuộc loại giỏi trong môn tập làm văn, thể dục thể thao và còn chơi dương cầm rất hay nữa. Làm bất cứ cái gì, bà cũng nhất. Lại xinh đẹp nữa. Tất nhiên, bây giờ, bà vẫn còn là một phụ nữ kiều diễm."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:14:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17 (tiếp)


Tôi gật đầu.
"Khi còn ở tiểu học, Miss Saeki đã có đã có người yêu. Con trai lớn của gia đình Komura - trên thực tế là có họ xa. Hai người cùng tuổi, rất đẹp đôi, y như Romeo và Juliet vậy. Hai nhà ở gần nhau, họ luôn xoắn xuýt bên nhau không rời. Và khi đến tuổi trưởng thành, họ yêu nhau thật sự, cả thể xác lẫn tâm hồn hòa làm một. Ấy là theo lời mẹ mình."
Chúng tôi dừng xe trước một đèn đỏ và Oshima ngước nhìn trời. Khi đèn bật xanh, anh dận ga và chúng tôi vượt một chiếc xe chở xăng. "Cậu có nhớ những gì mình nói với cậu ở thư viện không? Về chuyện con người ta cứ loanh quanh đi tìm cái nửa kia của mình ấy?"
"Cái đoạn đực/đực, cái/cái và đực/cái ấy à?"
"Phải. Những điều Aristophanuốt đời, chúng ta long đong lận đận đi tìm cái nửa kia của chúng ta một cách tuyệt vọng. Nhưng Miss Saeki và chàng trai của mình thì không phải làm thế. Họ sinh ra đã có cái nửa kia ngay trước mặt mình."
"Họ thật may mắn."
Oshima gật đầu. "Đúng vậy. Đến một mức độ nào đó."
Anh đưa tay xoa xoa cằm như để kiểm tra xem cạo có tốt không. Không có vết dao cạo nào trên làn da nhẵn như sứ.
"Năm mười tám tuổi, chàng trai lên Tokyo để vào đại học. Chàng đạt điểm cao và muốn theo một chuyên khoa. Chàng cũng muốn được tận mắt thấy thủ đô to đẹp như thế nào. Nàng thì vào một trường đại học của tỉnh nhà, học chuyên khoa piano. Đây là một địa phương bảo thủ và nàng lại xuất thân từ một gia đình truyền thống chủ nghĩa. Nàng là con một, cha mẹ nàng không muốn để con gái đi Tokyo. Vậy là lần đầu tiên trong đời, hai người xa nhau. Cứ như Thượng đế đã tách đôi họ bằng một lưỡi dao vậy."
"Dĩ nhiên là ngày nào họ cũng viết thư cho nhau. 'Có thể việc chúng mình thử xa nhau thế này lại là tốt cũng nên,' chàng viết cho nàng. 'Như vậy, chúng mình có thể thực sự hiểu chúng mình cần cho nhau đến độ nào.' Nhưng nàng không tin thế. Nàng biết họ gắn bó keo sơn với nhau đến mức không cần phải thử thách quan hệ đó bằng một cuộc phân ly. Mối cơ duyên của họ là tiền định, cả triệu mới có một, không thể chia lìa. Nàng tuyệt đối tin chắc thế. Nhưng chàng thì không. Hoặc có thể chàng cũng tin thế, nhưng không chịu chấp nhận. Thế là chàng cứ đi Tokyo, chàng nghĩ rằng vượt qua một số trở ngại sẽ càng củng cố thêm tình yêu của họ với nhau. Đàn ông đôi khi vốn thế."
"Năm mười chín tuổi, Miss Saeki viết một bài thơ, tự phổ nhạc và vừa hát vừa đệm piano. Đó là một giai điệu đẹp, buồn và ngây thơ. Mặt khác, ca từ lại mang tính chất tượng trưng, đầy suy tưởng và trừu tượng. Sự tương phản ấy khiến cho bài hát có hồn và có sức truyền cảm trực tiếp. Tất nhiên, toàn bộ bài hát, cả nhạc lẫn lời, thể hiện nỗi buồn nhớ người yêu phương xa. Cô có hát cho một số người nghe dăm ba lần. Bình thường cô là người nhút nhát, nhưng cô thích hát và thậm chí đã từng tham gia một ban nhạc dân gian ở trường đại học. Có người cảm kích với bài hát, đã thu một băng demo gửi cho một người bạn là giám đốc một công ty thu băng đĩa. Ông này rất thích bài hát, bèn mời cô lên studio của họ ở Tokyo để thu.
"Đó là lần đầu tiên cô đến Tokyo và cô đã có dịp gặp người mình yêu. Tranh thủ thời gian giữa những buổi thu, họ có thể yêu nhau như xưa. Theo mẹ mình, họ đã có quan hệ tình dục từ hồi mười bốn tuổi. Cả hai đều sớm phát triển tính dục, và cũng như nhiều đứa trẻ phát triển tính dục, họ khó có thể thành người lớn. Cứ như là họ vĩnh viễn ở tuổi mười bốn, mười lăm vậy. Họ quấn quýt với nhau và lại có thể cảm thấy tình yêu của họ mãnh liệt đến nhường nào. Cả hai đều chưa bị bất cứ ai khác hấp dẫn. Ngay cả khi họ xa nhau, cũng không có ai khác xen vào giữa được. Xin lỗi... mình có làm cho cậu chán với câu chuyện tình cổ tích này không?"
Tôi lắc đầu. "Em có cảm giác là sắp đến một bước ngoặt."
"Đúng," Oshima nói. "Cái hay của các câu chuyện là ở chỗ đó - một bước ngoặt, một xoay chuyển tình thế bất ngờ. Hạnh phúc thì chỉ có một loại, nhưng bất hạnh thì đến dưới mọi dạng, mọi cỡ. Như Tolstoy đã nói: hạnh phúc là ngụ ngôn, bất hạnh là chuyện đời. Dù sao đi nữa, đĩa hát được tung ra thị trường và thành công lớn. Số đĩa bán được liên tục tăng - một triệu, hai triệu, mình không nhớ chắc con số chính xác. Bất kể thế nào, đó là một con số phá mọi kỉ lục của thời bấy giờ. Hình của cô in trên bìa đĩa, một hình chụp cô ngồi trước một chiếc piano cánh dơi trong studio, mỉm cười với ống kính.
"Vì cô chưa sáng tác bài hát nào khác nên mặt B của đĩa vẫn là bài đó dưới dạng khí nhạc - piano và dàn nhạc. Tất nhiên, phần piano do cô đảm nhiệm. Một cuộc trình diễn xuất sắc. Đó là vào khoảng năm 1970 gì đó. Hồi đó, từ trung ương đến địa phương, đài nào cũng phát đi phát lại bài ấy. Dạo ấy, mình chưa đẻ, nên mọi chuyện đều do mẹ mình kể lại. Đó là bài hát duy nhất của cô với tư cách là ca sĩ chuyên nghiệp. Cô không cho ra thêm đĩa nào nữa."
"Em không biết mình đã bao giờ nghe bài hát này chưa."
"Cậu có hay nghe đài không?"
Tôi lắc đầu. Tôi hầu như không bao giờ nghe đài.
"Vậy thì chắc là cậu chưa bao giờ nghe bài hát ấy. Trừ phi trong một chương trình hồi cố. Nhưng đó là một bài hát tuyệt vời. Mình có bài ấy trong một đĩa CD và thỉnh thoảng vẫn nghe lại. Tất nhiên là vào những lúc không có mặt Miss Saeki. Bà ghét mọi thứ gợi nhớ đến nó. Bà không thích ai gợi lại quá khứ."
"Tên bài hát là gì?"
"Kafka bên bờ biển." Oshima nói.
"Kafka bên bờ biển?"
"Phải, Kafka Tamura. Cùng tên với cậu. Một sự trùng hợp kỳ lạ, phải không?"
"Nhưng Kafka không phải là tên thật của em. Tuy nhiên, Tamura thì đúng là họ của em."
"Nhưng chính cậu đã chọn cái tên Kafk
Tôi gật đầu. Tôi đã quyết định từ lâu rằng đó sẽ là cái tên phù hợp với con người mới của tôi.
"Mình nghĩ đó là điểm mấu chốt đấy," Oshima nói.
Người yêu của Saeki chết năm hai mươi tuổi. Oshima kể tiếp. Đúng vào lúc Kafka bên bờ biển trở thành một "hit"[17]. Trường đại học của anh bãi khóa trong thời kỳ sinh viên nổi loạn và phải đóng cửa. Một đêm, vào khoảng trước mười giờ, anh mang đồ tiếp tế đến cho một người bạn ở chiến lũy. Các sinh viên chiếm giữ trường tưởng lầm anh là thủ lĩnh của nhóm đối lập (quả la rất giống người đó), liền bắt anh, trói vào một cái ghế và tra hỏi anh như tra hỏi một tên gián điệp. Anh cố giải thích rằng họ đã lầm, nhưng mỗi lần anh mở miệng, họ lại quát anh bằng một cây gậy hoặc một cái ống bằng thép. Khi anh gục xuống sàn, họ vẫn dùng ủng đá anh túi bụi. Anh chết vào lúc rạng sáng. Sọ hõm sâu, xương sườn gãy nát, rách cả hai lá phổi. Họ vứt xác anh ra ngoài phố như một con chó chết. Hai ngày sau, theo yêu cầu của nhà trường, lực lượng vệ binh quốc gia tới và trong vòng vài giờ, dẹp xong cuộc dấy loạn. Nhiều sinh viên bị bắt và kết tội giết người. Họ nhận tội và bị đưa ra xét xử. Nhưng vì đó không phải là hành động có mưu tính trước, nên hai trong số bọn họ bị khép tội giết người không chủ định và chỉ chịu án tù ngắn hạn. Thành thử cái chết của anh hoàn toàn vô nghĩa.
Saeki thôi hẳn không bao giờ hát nữa. Cô giam mình trong phòng và không muốn trò chuyện với ai, kể cả qua điện thoại. Cô không đến dự đám tang của anh và bỏ học luôn. Sau vài tháng, người ta đột nhiên nhận ra rằng cô không còn ở thành phố nữa. Không ai biết cô đi đâu hoặc làm gì. Cha mẹ cô từ chối không muốn nói đến chuyện này. Có lẽ họ cũng không biết cô đang ở đâu. Cô biến mất tăm. Ngay cả bạn thân nhất của cô, mẹ Oshima, cũng không nắm được manh mối nào. Người ta đồn rằng sau một lần tự tử không thành trong rừng sâu gần núi Fuji, cô đã được đưa vào một bệnh viện tâm thần. Một số người khác lại nói một người bạn của bạn họ đã trông thấy cô trên đường phố Tokyo. Theo người này, cô đã trở thành nhà văn hay gì gì đó ở Tokyo. Lại có tin đồn khác là cô đã lấy chồng và có một con. Tuy nhiên, tất cả những tin đó đều vô căn cứ, không có gì làm bằng. Hai mươi lăm năm[4] trôi qua.
Bất kể trong suốt thời gian ấy cô ở đâu hay làm gì, Saeki cũng không gặp khó khăn về tiền nong. Tiền tác quyền của về Kafka bên bờ biển được đưa vào một tài khoản ngân hàng và ngay cả sau khi nộp thuế vẫn còn lại một con số đáng kể. Mỗi lần bài hát được phát trên đài hay được đưa vào một chương trình hồi cố, cô đều được hưởng tác quyền. Cho nên cô có thể dễ dàng sống ẩn dật, xa hẳn chốn phồn hoa đô hội. Phải chăng, gia đình cô giàu có và cô lại là con một.
Đột nhiên, hai mươi lăm năm qua, Miss Saeki xuất hiện trở lại ở Takamatsu. Lý do bề ngoài là về chịu tang mẹ. (Cha bà đã mất năm năm trước đó, song bà đâu có về.) Bà làm một lễ cầu siêu nhỏ cho mẹ, rồi sau khi mọi chuyện êm xuôi, bán ngôi nhà nơi bà ra đời và lớn lên. Bà mua một căn hộ ở một khu yên tĩnh trong thành phố và dường như muốn định cư hẳn ở đó. Sau đó một thời gian, bà đã có những cuộc nói chuyện với gia đình Komura (Sau cái chết của người con trai cả, ý trung nhân của Saeki, chủ gia đình là người em trai kém anh ba tuổi. Không ai biết đích xác họ bàn với nhau những gì trong các cuộc nói chuyện tay đôi). Kết quả là Miss Saeki trở thành người đứng đầu Thư viện Komura.
Ngay cả giờ đây, bà vẫn mảnh dẻ, vẫn đẹp và vẫn có cái dáng vẻ thông minh, nền nã như ta thấy trên bìa bọc đĩa Kafka bên bờ biển. Duy chỉ thiếu nụ cười đẹp tươi, ngây thơ. Đành rằng thi thoảng bà vẫn mỉm cười, một nụ cười thật duyên dáng nhưng chỉ thoáng qua không bao giờ đậu lại. Một bức tường cao vô hình rào quanh bà, khiến mọi người phải đứng cách một sải tay. Sáng sáng bà lái chiếc Volkswagen Golf xám đến thư viện và tối lại lái về.
Trở về thành phố quê hương, Miss Saeki rất ít đi lại với bà con, bạn bè cũ... Nếu tình cờ gặp nhau, bà lịch sự tiếp chuyện, nhưng hiếm khi đi quá một vài đề tài vô thưởng vô phạt. Nếu thảng hoặc đụng chạm đến chuyện quá khứ, nhất là lại liên quan đến bản thân, lập tức bà khéo léo lái sang chuyện khác. Bà bao giờ cũng lịch sự, hòa nhã, nhưng lời lẽ không còn cái tò mò, háo hức thủa xưa. Tình cảm đích thực của bà - ví như điều đó vẫn còn - ẩn sâu tận đáy lòng. Trừ trường hợp cần có quyết định về một vấn đề thiết thực, bà không bao giờ phát biểu ý kiến cá nhân về bất cứ điều gì. Bà ít khi nói về bản thân mình, mà thường lắng nghe người khác nói và nhiệt thành gật đầu tán thưởng. Nhưng nhiều người đã bắt đầu cảm thấy không thoải mái khi nói chuyện với bà, như thể họ ngờ ngợ rằng mình đang làm phí thì giờ của bà, đột nhập vào thế giới riêng tư phong nhã và trang nghiêm của bà. Và về cơ bản, cảm giác ấy là đúng.
Vậy là ngay cả khi trở về định cư ở thành phố quê hương, bà vẫn là một ẩn số. Một phụ nữ phong nhã với một màn bí mật tinh tế bao quanh. Có một cái gì nơi bà khiến người ta khó tiếp cận. Ngay cả gia đình Komura, trên danh nghĩa là chủ của bà, cũng giữ một khoảng cách.
Cuối cùng, Oshima được tuyển vào làm việc ở thư viện và trở thành trợ lý của bà. Dạo ấy Oshima đã thôi học nhưng chưa đi làm, chỉ ở nhà đọc sách và nghe nhạc. Trừ một số người thường cùng anh trao đổi thư điện tử, Oshima hầu như không có bạn. Vì chứng bệnh máu không đông, anh mất khá nhiều thời gian đến khám chuyên khoa ở bệnh viện, hoặc dạo quanh thành phố trong chiếc Mazda Miata. Và trừ những lần khám định kỳ tại Bệnh viện Đại học ở Hiroshima và đôiần tới ở căn nhà gỗ trong vùng núi Kochi, anh không bao giờ ra khỏi thành phố. Chẳng phải là anh không bằng lòng với cuộc sống này. Một hôm, mẹ Oshima tình cờ giới thiệu anh với Miss Saeki và hai cô cháu lập tức quý mến nhau. Ý tưởng làm việc ở thư viện hấp dẫn Oshima. Chẳng bao lâu anh trở thành người duy nhất mà KS tiếp xúc hằng ngày và cùng trò chuyện.
"Nghe anh kể em có cảm giác như Miss Saeki trở về đây cốt để phụ trách thư viện," tôi nói.
"Mình cũng nghĩ thế. Đám tang mẹ bà chỉ là cơ hội để bà trở về. Thành phố quê hương đầy những kỷ niệm chua xót, cho nên mình nghĩ việc trở về này hẳn là một quyết định khó khăn đối với bà."
"Tại sao thư viện lại quan trọng đến thế với bà?"
"Người yêu của bà trước kia ở một căn nhà nằm trong khuôn viên thư viện. Ông là con cả trong gia đình Komura và vốn mê đọc sách từ trong máu. Ông thích sống một mình, đây cũng là một nét đặc trưng của gia đình. Cho nên lên trung học là ông nằng nặc đòi ở một căn tách biệt hẳn với ngôi nhà chính và hai cụ thân sinh chấp nhận. Cả gia đình đều mê đọc sách nên thông cảm với ý muốn của ông: nếu con muốn quanh mình toàn là sách thì cũng tốt thôi, đại loại các cụ nghĩ thế. Vậy là ông ở căn nhà phụ ấy một mình, không ai quấy rầy, chỉ quay về ngôi nhà chính vào những bữa ăn. Miss Saeki hầu như ngày nào cũng đến thăm ông ở đó. Hai người cùng học, cùng nghe nhạc và trò chuyện miên man. Và rất có thể là làm tình ở đó luôn. Nơi này là thiên đường riêng của họ."
Cả hai tay đặt trên vô lăng, Oshima ngoái sang nhìn tôi. "Đó là nơi cậu sẽ ở, Kafka. Trong căn phòng ấy. Như mình đã nói, thư viện đã được tân trang, nhưng phòng đó vẫn để y nguyên."
Tôi
"Cuộc đời Miss Saeki về cơ bản đã dừng lại ở tuổi hai mươi, khi người yêu của bà chết. Không, có lẽ không phải ở tuổi hai mươi, mà sớm hơn nhiều... Mình không rõ thật cụ thể, nhưng cậu cần biết điều này: những kim của chiếc đồng hồ chôn sâu trong lòng bà đã dừng lại vào thời điểm đó. Dĩ nhiên, thời gian bên ngoài vẫn tiếp tục trôi chảy, nhưng không tác động đến bà. Đối với bà, cái mà ta thường gọi là thời gian chẳng có nghĩa gì hết."
"Không có nghĩa gì hết?"
Oshima gật đầu. "Như thể nó không hề tồn tại."
"Anh muốn nói Miss Saeki hiện vẫn sống trong cái thời gian ngưng đọng ấy?"
"Chính xác. Nhưng không có nghĩa là bà là một thứ thi thể sống đâu. Khi nào cậu biết rõ hơn, cậu sẽ hiểu."
Oshima đặt tay lên đầu gối tôi trong một cử chỉ hoàn toàn tự nhiên. "Kafka ạ, trong đời mỗi con người, đều có một điểm không-đường-trở-lui. Và trong một số rất ít trường hợp, lạ có một điểm không thể tiến thêm chút nào nữa. Và một khi ta tới điểm đó, ta chỉ còn một nước là lặng lẽ chấp nhận sự việc. Như thế mới tiếp tục sống được."
Ngay trước lúc đi vào xa lộ chính, Oshima dừng xe, kéo mui lên và bỏ một đĩa xô-nát Schubert vào ổ CD.
"Còn một điều nữa mình muốn cậu nên biết," Oshima nói thêm. "Miss Saeki có một trái tim bị thương. Thực ra, trong chừng mực nào đó, chúng ta đều thế, kể cả mình lẫn cậu. Nhưng ở Miss Saeki, đó là một vết thương cá nhân đặc biệt vượt quá cái nghĩa thông thường của từ ấy. Tâm hồn bà có những xáo động bí ẩn. Mình không nói bà là người nguy hiểm đừng hiểu sai ý mình. Thường ngày, bà xứng xử rất đúng mực, có lẽ còn chỉn chu hơn mọi người mình biết. Bà duyên dáng, sâu sắc, thông minh. Nhưng đừng lo lắng nếu thi thoảng cậu nhận thấy một điều gì kỳ dị ở bà."
"Kỳ dị?" tôi không thể không hỏi.
Oshima lắc đầu. "Mình thực sự quý mến và kính trọng Miss Saeki. Mình dám chắc rồi đây cậu cũng sẽ chia sẻ những tình cảm ấy với mình."
Đây không thực sự là một câu trả lời cho câu hỏi của tôi, song Oshima không nói thêm gì nữa. Anh sang số rất đúng lúc, dận ga và vượt một chiếc xe tải nhỏ trước khi đi vào một đường hầm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:18:19 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18


Nakata tỉnh dậy thấy mình nằm ngửa trên một đám cỏ. Lão từ từ mở mắt. Đêm đã xuống, một đêm không trăng sao. Tuy nhiên, trời vẫn nhờ nhờ sáng. Lão ngửi thấy mùi cỏ mùa hè ngào ngạt và nghe thấy tiếng côn trùng ran ran xung quanh. Vẻ như lão đã trở về cái bãi hoang nơi lão đến thường phục hàng ngày. Cảm thấy có cái gì ram ráp, âm ấm cọ vào mặt, lão xoay đầu và thấy hai con mèo nồng nhiệt liếm cả hai má lão bằng cái lưỡi nhỏ xíu của chúng. Đó là Goma và Mimi. Lão chậm rãi ngồi dậy, đưa tay ra vuốt ve chúng. “Nakata này vừa ngủ phải không?”
Hai con mèo cùng kêu ra ý phàn nàn điều gì, nhưng Nakata không nắm rõ lời. Lão không hiểu chúng nói gì. Những gì lão nghe được chỉ là tiếng mèo kêu meo meo.
“Lão xin lỗi, nhưng lão không hiểu các bạn nói gì.” Lão đứng dậy và soát lại toàn thân cho chắc là không có gì bất bình thường. Lão không thấy đau ở chỗà chân tay vẫn cử động thoải mái. Mắt lão phải mất một lúc mới thích ứng được với bóng tối, nhưng một khi đã quen mắt, lão có thể thấy tay chân, quần áo mình không dính chút máu nào. Quần áo lão cũng không hề nhàu nát hay xộc xệch, nom vẫn chỉnh tề như lúc lão ra khỏi nhà. Cái bị vải bố đựng phích và suất ăn trưa ở ngay bên cạnh lão, và cái mũ trong túi quần, đúng chỗ của nó. Mọi thứ đều đâu vào đấy. Nakata không hình dung được điều gì đang diễn ra.
Để cứu hai con mèo lão đã đâm chết Johnnie Walker – kẻ hủy diệt mèo. Điều đó thì lão nhớ rất rõ. Lão vẫn có thể cảm thấy con dao trong tay mình. Đó không phải là một giấc mơ – máu đã phọt ra từ Johnnie Walker và y đã gục xuống sàn, nằm cong queo và chết. Nakata đã nằm vật trên sofa và bất tỉnh. Và điều tiếp theo lão biết là lão đang nằm đây giữa đám cỏ trong bãi trống này. Nhưng làm sao lão trở về đây được? Thậm chí lão không hề biết đường về. Và quần áo lão lại không hề dính tí máu nào. Việc Mimi và Goma ở bên cạnh lão chứng tỏ đó không phải là một giấc mơ, nhưng vì một lý do kỳ lạ nào đó, lão không hiểu một lời nào của chúng.
Nakata thở dài. Lão không thể nghĩ cho vỡ nhẽ. Nhưng không sao - rồi sau lão sẽ nghĩ ra thôi. Lão khoác bị lên vai, bế hai con mèo lên và rời khỏi bãi trống. Khi ra khỏi hàng rào, Mimi bắt đầu quẫy cựa như thể đòi được thả xuống.
Nakata thả nó xuống đất. “Mimi lão nghĩ cô có thể về nhà một mình được. Nhà cô gần đây mà.”
Đúng thế, cái đuôi vẫy vẫy của Mimi như muốn nói.
“Nakata này không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng vì một lý do nào đó, lão không nói chuyện với cô được nữa. Cơ mà lão đã tìm được Goma và tốt hơn hết là lão cứ mang cô ta về cho ông bà Koizumi đã. Cả nhà họ đang chờ. Cám ơn cô rất nhiều về mọi sự, Mimi.”
Mimi lại vẫy đuôi, kêu meo meo, rồi chạy đi và biến mất ở góc đường. Trên người nó cũng không có vết máu nào. Nakata quyết định phải ghi nhớ chi tiết này.
Gia đình Koizumi quá đỗi vui mừng với sự trở về của Goma. Đã hơn mười giờ đêm nhưng bọn trẻ vẫn còn thức, đang đánh răng trước khi đi ngủ. Bố mẹ chúng đang uống trà và xem tin tức trên tivi. Họ nồng nhiệt chào đón Nakata. Hai đứa con gái vận đồ ngủ tranh nhau ôm ấp con vật yêu quý và hối hả lấy sữa cùng thức ăn của mèo cho Goma. Nó vồ lấy ăn ngon lành.
“Lão xin lỗi đã đến vào lúc đêm hôm khuya khoắt thế này. Nakata này muốn đến sớm hơn, nhưng không thể.”
“Không sao,” bà Koizumi nói. “Xin bác đừng ngại chuyện ấy.”
“Bác đừng lo chuyện giờ giấc,” ông chồng nói. “Con mèo này như một thành viên trong gia đình. Tôi không sao tả xiết nỗi vui mừng của chúng tôi vì bác tìm thấy nó. Bác vào nhà làm một chén trà nhé?”
“Không, cảm ơn. Nakata này phải đi đây. Lão chỉ muốn mang Goma về cho nhà ta càng sớm càng tốt thôi.”
Bà Koizumi sang một phòng khác và trở lại với số tiền công của Nakata bỏ trong một phong bì. Ông chồng đỡ lấy chiếc phong bì đưa cho Nakata. “Chẳng nhiều nhặn gì, nhưng xin bác hãy nhận lấy, coi như đền đáp công sức của bác. Chúng tôi rất biết ơn.”
“Đa tạ. Cám ơn ông bà,” Nakata nói.
“Tuy nhiên, tôi lấy làm lạ là bác có thể tìm thấy nó trong đêm tối như thế này.”
“Vâng, đó là một câu chuyện dài. Nakata không thể kể hết được. Lão chả thông minh sáng láng gì và không thạo giải thích dài dòng.
“Thế là tốt lắm rồi. chúng tôi chịu ơn bác nhiều lắm, bác Nakata,” bà Koizumi nói, “Tôi xin lỗi, còn ít cà nướng và dưa chuột ngâm dấm, bác cầm về dùng tạm nhé.”
“Rất vui lòng. Cà nướng và dưa chuột ngâm dấm là những món ưa thích của Nakata này.”
Nakata nhét chiếc cặp lồng thức ăn và chiếc phong bì vào bị, ra khỏi nhà. Lão rảo bước đến một đồn cảnh sát gần khu phố buôn bán. Một viên cảnh sát trẻ ngồi ở bàn giấy trong đồn đang chăm chú viết một cái gì đó, mũ để trên bàn.
Nakata đẩy cánh cửa kính lùa ra. “Xin chào. Xin lỗi đã quấy rầy cậu,” lão nói.
“Chào,” viên cảnh sát trả lời. anh ta ngước mắt lên khỏi xấp giấy, nhìn Nakata từ đầu đến chân. Về cơ bản là một ông già hiền lành, vô hại, anh ta nhận định, chắc là ghé vào để hỏi đường.
Đứng ở cửa ra vào, Nakata bỏ mũ đút vào túi và móc ở túi kia ra một chiếc khăn tay, hỉ mũi. Lão gấp khăn tay lại, nhét trả vào túi.
“Có việc gì đấy bác?” viên cảnh sát hỏi.
“Vâng, có việc đấy. Nakata vừa giết một người.”
Viên cảnh sát buông rơi bút, há hốc mồm, giương mắt nhìn ông già. Anh ta ngớ ra một lúc, không thốt ra được tiếng nào. Cái quái quỷ gì...?
“Ờ... à... bác ngồi xuống đây đã,” anh ta nói, nghi nghi hoặc hoặc, tay chỉ một cái ghế trước mặt. Anh ta đưa tay kiểm tra lại cho chắc là khẩu súng lục, cây dùi cui và chiếc còng số tám vẫn ở trên người.
“Cám ơ và ngồi xuống. Lưng thẳng, tay đặt trong lòng, lão nhìn thẳng vào viên cảnh sát.
“Vậy bác vừa nói là... bác đã giết một ai đó?”
“Vâng. Nakata đã giết một người bằng một con dao. Mới cách đây một lúc thôi,” Nakata thành thực thừa nhận.
Viên cảnh sát trẻ lấy ra một tờ mẫu khai, liếc nhìn đồng hồ trên tường và ghi thời điểm chính xác của lời khai báo một vụ giết người bằng dao. “tôi cần ghi họ tên và địa chỉ của bác.”
“Họ tên lão là Satoru Nakata và địa chỉ là...”
“Khoan đã, tên bác viết thế nào?”
“Lão không biết chữ. Xin lỗi, Nakata này không biết viết, cũng chẳng biết đọc.”
Viên cảnh sát cau mày. “Bác nói là bác không biết đọc? Cả đến tên mình bác cũng không biết viết?”
“Đúng thế. Cho đến năm lên chín, lão vẫn còn biết đọc biết viết. Nhưng rồi sau một tai nạn, lão quên tiệt. Nakata này chẳng thông minh sáng láng gì.”
Viên cảnh sát thở dài, đặt bút xuống. “Tôi không thể ghi tờ khai nếu tôi không biết viết tên bác như thế nào.”
“Lão xin lỗi.”
“Bác có gia đình, bà con gì không?”
“Nakata này chỉ có một mình, không có gia đình, bà con nào, không cả việc làm. Lão sống bằng tiền chợ cấp của ngài Tỉnh trưởng cho.”
“Bây giờ đã khá muộn, tôi đề nghị bác hãy về nhà đi. Về nhà và ngủ một giấc thật đẫy, rồi mai, nếu bác nhớ ra điều gì thì trở lại gặp tôi. Lúc đó, ta sẽ có thể nói chuyện.”
Viên cảnh sát đã sắp hết phiên trực và muốn viết nốt báo cáo trước khi giao ca. Anh ta đã hẹn uống với đồng nghiệp ở một quán bar gần đấy sau khi xong việc, nên hoàn toàn không muốn lãng phí thời gian nói chuyện với một lão già lẩn thẩn.”
Nhưng Nakata nghiêm nghị nhìn anh ta và lắc đầu. “Không, thưa cậu, Nakata này muốn kể hết mọi chuyện trong khi còn nhớ. Nếu đợi đến mai, lão có thể quên một điều gì đó quan trọng. Nakata này lúc ấy đang ở cái bãi trống trong khu 2. Chả là ông bà Koizumi có nhờ lão tìm hộ con mèo Goma bị lạc. Thế rồi một con chó đen to tướng thình lình xuất hiện và dẫn lão đến một ngôi nhà. Một ngôi nhà to đùng với một cái cổng to đùng và một chiếc xe hơi màu đen. Lão không biết địa chỉ cụ thể. Trước nay, lão chưa từng đến khu vực đó bao giờ. Nhưng lão dám chắc đó là ở trong quận Nakano. Bên trong ngôi nhà có một người đàn ông tên là Johnnie Walker, đội một cái mũ đen nom rất ngộ. Một cái mũ cao lênh khênh. Bên trong cái tủ lạnh để trong bếp, có hàng dãy đầu mèo. Lão ước độ trên dưới hai mươi cái. Hắn ta đi bắt mèo gom lại, cưa đứt đầu chúng và ăn tim chúng. Hắn gom hồn mèo để làm một cây sáo đặc biệt. Rồi hắn sẽ dùng cây sáo ấy để gom hồn người. Ngay trước mặt Nakata này, Johnnie Walker đã dùng dao giết cậu Kawamura cùng mấy mèo khác. Hắn lấy dao rạch bụng chúng. Hắn sắp sửa giết cả Goma và Mimi. Nhưng Nakata này bèn dùng một con dao giết Johnnie Walker.”
“Johnnie Walker nói hắn muốn Nakata này giết hắn. Chứ Nakata này không tính giết hắn. Trước nay, lão chưa giết ai bao giờ. Lão chỉ muốn ngăn Johnnie Walker khỏi giết thêm nhiều mèo nữa. Cơ mà chân tay lão không nghe theo lão. Nó làm theo ý nó. Nakata này vớ lấy một trong những con dao để ở đó và đâm Johnnie Walker hai nhát. Johnnie Walker gục xuống, mình đầy máu và chết. Lúc ấy, Nakata này cũng đầy máu. Lão ngồi xuống cái ghế bành và hẳn đã ngủ thiếp đi. Khi lão tỉnh dậy thì đã nửa đêm và lão thấy mình lại ở bãi trống với Mimi và Goma ở bên cạnh. Và mới chỉ cách đây một lúc thôi. Nakata này bèn đưa Goma về, được bà Koizumi cho ít cà nướng và dưa chuột ngâm dấm, và đến thẳng đây luôn. Lão nghĩ là nên báo cáo ngay với ngài Tỉnh trưởng. Kể cho ngài nghe những gì đã xảy ra.”
Suốt trong thời gian thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Nakata ngồi rất ngay ngắn và khi kể xong, lão thở dài đánh thượt. Cả đời lão chưa bao giờ nói một mạch dài thế. Lão cảm thấy hoàn toàn kiệt lực. “Vậy xin cậu hãy trình chuyện này lên ngài Tỉnh trưởng,” lão nói thêm.
Viên cảnh sát trẻ đã nghe toàn bộ câu chuyện với một vẻ lơ đãng và không mấy hiểu ý đồ của ông già. Goma? Johnnie Walker? “Tôi hiểu,” anh ta đáp. “Tôi sẽ trình để ngài Tỉnh trưởng biết, chắc chắn thế.”
“Lão hy vọng ngài sẽ không cắt chợ cấp của lão.”
Vẻ khó chịu, viên cảnh sát trẻ giả vờ điền vào một tờ khai. “Tôi hiểu, tôi sẽ ghi như thế này: Đương sự muốn trợ cấp của mình không bị cắt. Thế được chưa nào?”
“Vâng, tốt rồi. Đa tạ. Xin lỗi đã làm mất thì giờ của cậu. Và nhờ cậu cho lão gửi lời chào ngài Tỉnh trưởng.”
“Tôi sẽ chuyển. Vậy bác đừng lo, cứ về nghỉ thoải mái đi,” viên cảnh sát nói. Anh ta không thể không đưa thêm một nhận xét cá nhân: “Này quần áo bác nom khá sạch, đâu có vẻ là vừa giết người. Chả có vết máu nào cả.”
“Vâng, cậu nói hoàn toàn đúng. Tình thật, Nakata này cũng thấy cái đó rất kỳ lạ. Thật vô lý. Đáng nhẽ người lão phải đầy máu, thế nhưng khi lão tỉnh dậy nhìn lại thì đã biến mất ráo. Quả là rất kỳ lạ.”
“Kỳ lạ là cái chắc,” viên cảnh sát nói, giọng nhuốm vẻ của một ngày làm việc cật lực.
Nakata đẩy cánh cửa lùa ra và sắp sửa đi khỏi thì chợt dừng bước và quay lại. “Xin lỗi cậu, tối mai cậu có ở đây không ạ?”
“Có,” viên cảnh sát thận trọng đáp. “Tối mai, tôi trực ở đây. Bác hỏi làm gì?”
“Lão khuyên cậu nên mang theo ô, ngay cả nếu ban ngày trời nắng.”
Viên cảnh sát gật đầu. Anh ta quay lại nhìn đồng hồ trên tường. Người đồng nghiệp hẳn sắp gọi điện thoại. “được, tôi sẽ mang theo ô.”
“Sẽ có cá từ trên trời rơi xuống như mưa. Vô số cá. Lão nghĩ đa phần là cá mòi. Xen lẫn vài con cá thu.”
“Cá mòi và cá thu hả?” viên cảnh sát cười rộ. “Thế thì tốt nhất là quay ngược ô lại, hứng lấy mấy con cá về nấu dấm làm một bữa!”
“Cá thu nấu dấm là một món ưa thích của Nakata này,” Nakata nói, vẻ rất nghiêm trang. “Nhưng giờ này ngày mai, chắc lão đã đi xa rồi.”
Ngày hôm sau, khi một cơn mưa cá mòi và cá thu thật sự trút xuống một khu của Quận Nakano, mặt viên cảnh sát tái nhợt đi như tờ giấy. Không hề có chút dấu hiệu báo trước nào, khoảng hai nghìn con cá mòi và cá thu từ trên mây ào ào rơi xuống mặt đất. Phần lớn khi chạm đất đều nát bét, nhưng một số vẫn còn sống và giãy đành đạch trên đường ngay trước khu phố buôn bán. Lũ cá tươi nguyên còn nồng mùi biển. Cá rơi xuống mái nhà, xuống mui xe, xuống cả người, nhưng vì độ cao rõ ràng là không lớn lắm, nên không gây ra tổn thương nào nghiêm trọng. Đây chủ yếu là một cú sốc tâm lý hơn bất cứ gì khác. Một số lượng lớn cá đổ xuống như mưa đá – thực sự như là tận thế!
Cảnh sát đã điều tra vụ này nhưng không phát hiện ra điều gì khả dĩ giải thích được làm sao lại xảy ra chuyện như vậy. Không có chợ cá hay tàu đánh cá nào kêu mất cá mòi và cá thu với số lượng lớn. Không có máy bay nào, kể cả trực thăng, bay qua vào thời điểm ấy. Cũng không thấy thông báo về một cơn lốc nào. Khả năng đây là một trò đùa tinh vi cũng bị loại trừ - kẻ nào mà lại có thể làm một điều cực kỳ quái gở như vậy? Theo yêu cầu của cảnh sát, phòng y tế quận Nakano đã lượm một số đem về xem xét, nhưng chẳng thấy điều gì bất thường: đó chỉ là những con cá mòi và cá thu thông thường – tươi và trông có vẻ rất ngon. Tuy nhiên, do sợ những con cá bí hiểm kia có thể chứa một chất gì nguy hiểm, cảnh sát đã phái một chiếc xe phóng thanh đi khắp vùng lân cận cảnh báo dân chúng chớ nên ăn.
Đó là loại tin mà tivi vồ lấy ngay và những đoàn máy quay đổ xô đến. Phóng viên tới tấp quanh khu phố buôn bán và gửi tin về sự kiện kỳ lạ này đi khắp nước. Họ lấy xẻng xúc cá trước ống kính để minh họa điều đã xảy ra. Họ còn phỏng vấn một bà nội trợ bị một con cá thu rơi trúng đầu, vây nó làm bà toạc cả má. “May mà không phải là một con cá ngừ,” bà vừa nói vừa ấp khăn tay vào má. Bà nói nghiêm túc nhưng khán giả xem tivi đều cười. Một phóng viên táo tợn đã nướng và ăn thử mấy con tại chỗ. “Ngon tuyệt,” anh ta vênh vang nói. “Rất là tươi với chất béo vừa độ. Tiếc là không có củ cải đỏ và cơm nóng để ăn kèm.”
Viên cảnh sát trẻ hoang mang. Cái lão già lẩm cẩm kỳ quái ấy – tên lão ta là gì nhỉ - đã tiên đoán trận mưa cá đó. Cá mòi và cá thu, đúng như lời lão nói... Thế mà mình đã cười xòa gạt phắt đi, anh ta nghĩ thầm. Thậm chí mình còn không ghi tên và địa chỉ của lão nữa. Mình có nên báo cáo với sếp chuyện này không nhỉ? Đúng ra là phải làm thế, nhưng bây giờ thì còn ích gì? Không ai bị thương và không có gì chứng tỏ đây là một vụ liên quan đến hình sự. Chỉ là một cơn lốc cá từ trên trời trút xuống, thế thôi.
Nhưng liệu sếp có tin lời mình không? Giả dụ mình kể lại với ông ta toàn bộ câu chuyện – rằng đêm trước hôm xảy ra vụ này, một lão già kỳ quặc đã ghé vào đồn và tiên đoán rằng sẽ có một trận mưa cá. Ông ấy sẽ nghĩ rằng mình hoàn toàn mất trí. Và câu chuyện sẽ lan truyền khắp vùng, mỗi người kể lại đều thêm mắm thêm muối, và cuối cùng thành giai thoại để mọi người cười vào mũi mình.
Còn một điều nữa, viên cảnh sát nghĩ. Lão già đến để trình báo rằng lão đã giết một ai đó. Nói cách khác là tự nộp mình. Vậy mà mình không hề coi lời khai của lão là thật. Thậm chí cũng chẳng buồn ghi vào sổ trực nữa. Rõ ràng là vi phạm quy định, có thể bị cảnh cáo. Nhưng mà câu chuyện của lão thật quá phi lý. Ắt chẳng cảnh sát nào có thể coi lời lão là thật. Cái đồn cảnh sát này đôi khi bận bịu như điên, giấy tờ chất như núi. Thế giới này đầy những kẻ chập mạch và như thể thông đồng với nhau, vào lúc này lúc nọ, họ đều tìm đến đồn cảnh sát để tuôn ra những chuyện quàng xiên chẳng đâu vào đâu. Nếu lưu tâm đến tất cả đám điên ấy thì chính anh cũng sẽ hóa rồ.
Nhưng lời tiên đoán về trận mưa cá kia – mà đó cũng có vẻ là một tuyên bố điên rồ - lại ứng nghiệm thật sự, cho nên chưa biết chừng (chưa biết chừng thôi) câu chuyện lão kể là đã giết chết ai đó mà lão gọi là Johnnie Walker, có thể là thật cũng nên. Giả dụ đúng là vậy, thì sẽ là vấn đề lớn đây, bởi anh ta đã khước từ một kẻ đến thú tội giết người và thậm chí còn không viết báo cáo về việc đó nữa.
Cuối cùng, một xe rác tới hót hết những đống cá. Viên cảnh sát trẻ đứng ra điều hành giao thông, chặn lối vào khu buôn bán không cho xe hơi vào. Vẩy cá dính chặt trên mặt đường trước các cửa hàng, vòi nước phun mạnh thế nào cũng không gột đi được. Đường phố ướt sũng khiến mấy bà nội trợ đi xe đạp bị trượt ngã. Khu vực này taồng mùi cá nhiều ngày sau đó, khiến lũ mèo nhốn nháo cả lên. Viên cảnh sát trẻ bận bịu với việc dọn dẹp không còn thì giờ nghĩ đến ông già kỳ lạ nữa.
Tuy nhiên, ngày hôm sau trận mưa cá, viên cảnh sát suýt nghẹn vì sốc khi xác một người đàn ông bị đâm chết được phát hiện ở khu lân cận. Người chết là một nhà điêu khắc nổi tiếng và người phát hiện thấy xác ông ta là bà lao công cứ cách một ngày lại đến dọn vệ sinh giúp. Cái xác trần truồng nằm giữa một vũng máu. Ước đoán thời gian xảy ra án mạng là vào buổi tối hai hôm trước và hung khí là một con dao bếp. Trong cơn bàng hoàng, cuối cùng, viên cảnh sát trẻ buộc phải tin những gì ông già đã kể với anh ta. Trời, anh ta thầm nghĩ, mình đã dính vào một chuyện rắc rối nhường bao! Đáng ra mình phải gọi lên quận và đưa lão già vào phòng tạm giam. Lão đến thú tội giết người, vậy lẽ ra mình phải giao nộp lão lên cấp trên và để họ quyết định xem lão có điên hay không. Nhưng mình đã lẩn tránh nhiệm vụ. Giờ đã đến nước này thì tốt nhất là ngậm miệng và xem như chuyện đó không bao giờ xảy ra, anh ta quyết định.
Nhưng lúc này, Nakata đã không còn ở trong thành phố nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:22:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19


Hôm đó là thứ Hai, thư viện đóng cửa. Bình thường đã khá tĩnh lặng, những hôm đóng cửa thư viện lại càng giống như một miền đất bị thời gian bỏ quên. Hay đúng hơn, một miền đất đang nín thở, hy vọng là thời gian đừng chạm tới mình.
Đi xuôi theo hành lang từ phòng đọc, qua tấm biển DÀNH CHO NHÂN VIÊN, ta thấy một khoang bếp, có cả một lò vi ba, có thể pha cà phê hoặc trà ở đó. Tiếp iền đó, là cửa vào phòng ngủ dành cho khách có tủ tường và buồng tắm nhỏ xíu. Cạnh chiếc giường một là một tủ nhỏ đầu giường trên đặt một chiếc đèn đọcà một bộ bàn ghế kiểu cổ để tiếp khách và một hòm đựng quần áo. Bên trên một tủ lạnh cỡ nhỏ là một giá để bát đĩa. Nếu muốn tự làm một bữa ăn đơn giản, thì khoang bếp ở ngay ngoài cửa. Buồng tắm được trang bị vòi hoa sen, xà phòng và dầu gội đầu, máy sấy tóc và nhiều khăn tắm. Tất cả những tiện nghi cần thiết cho một kỳ tạm trú ngắn. Qua một cửa sổ mở về hướng Tây, có thể thấy cây trong vườn. Đã sắp tối và ánh chiều tà lấp lánh qua những cành tuyết tùng.
"Mình đã ở đây vài lần, khi không tiện về nhà," Oshima nói. "Ngoài ra, chưa có ai khác dùng căn phòng này. Theo mình biết, thì Miss Saeki chưa bao giờ đặt chân vào đó. Mình muốn nói là cậu ở đây không chiếm chỗ của ai cả."
Tôi đặt balô xuống sàn và nhìn quanh nơi ở mới của mình.
"Giường nệm sạch tinh tươm và tủ lạnh có đủ thức cho cậu dùng. Sữa, hoa quả, rau, bơ, giăm bông, phómát... Không đủ cho một bữa ăn tươm tất, nhưng chí ít cũng đủ cho một món xa-lát hay xăng-uých. Nếu cậu muốn xôm hơn thì có thể gọi nhà hàng mang tới hoặc ra ngoài ăn. Riêng khoản quần áo bẩn, có lẽ cậu phải tự giặt lấy trong buồng tắm thôi. Thế nhé, mình còn bỏ sót điều gì không nhỉ?"
"Miss Saeki thường làm việc ở đâu?"
Oshima chỉ lên trần. "Cậu có nhớ cái phòng trên tầng hai mà cậu đã thấy hôm tham quan không? Bao giờ bà cũng ngồi viết ở đấy. Khi nào mình có việc phải ra ngoài, thì bà xuống tầng trệt trực thay ở quầy. Nhưng trừ phi bà có việc phải làm dưới trệt, bà luôn luôn ở phòng đó."
Tôi gật đầu.
"Ngày mai mình sẽ có mặt ở đây trước mười giờ để chỉ dẫn cụ thể công việc của cậu. Từ giờ đến lúc đó, cậu cứ nghỉơi thoải mái."
"Cám ơn anh về mọi sự," tôi nói.
"My pleasure[18]," anh đáp.
Sau khi anh rời khỏi, tôi bỏ đồ trong balô ra. Xếp mớ quần áo nghèo nàn vào hòm, treo sơ mi và áo vest lên mắc, để sổ tay và bút lên bàn viết, các đồ dùng vệ sinh vào buồng tắm và cuối cùng, cho chính cái balô vào tủ tường.
Phòng không có trang trí gì ngoài một bức sơn dầu nhỏ, chân dung tả thực một cậu bé bên bờ biển. Không tồi, tôi khẳng định - có lẽ là tác phẩm của một họa sĩ nổi tiếng chăng? Cậu bé khoảng mười hai tuổi, đội một cái mũ che nắng màu trắng và ngồi trên một chiếc ghế bố nhỏ, chống khuỷu tay lên ghế, đỡ lấy cằm. Vẻ hơi buồn nhưng đồng thời cũng có phần mãn nguyện. Một con chó bẹc-giê Đức màu đen ngồi cạnh chú bé như một vệ sĩ. Trên nền sau là biển và vài ba người khác, nhưng quá xa không thấy rõ mặt. Thấp thoáng một hòn đảo nhỏ và vài đám mây hình quả đấm trôi trên bầu trời. Rành là một cảnh mùa hè. Tôi ngồi vào bàn viết và ngắm bức tranh hồi lâu, kỳ đến lúc bắt đầu cảm thấy như đang nghe tiếng sóng vỗ bờ và ngửi mùi muối mặn của biển.
Chú bé trong tranh có thể là chú bé đã từng sống trong căn phòng này, người yêu thuở xưa của Miss Saeki. Chàng trai bị mắc kẹt giữa những cuộc đụng độ trong phòng trào sinh viên và đã bị đánh đến chết một cách phi lý. Không có căn cứ chắc chắn, nhưng tôi dám cuộc đó là ai. Cảnh trong tranh nom rất giống những gì ta thấy ở quanh đây. Nếu đúng thế, thì đây chắc là khoảng bốn mươi năm[5] trước - đối với một đứa như tôi, quãng thời gian đó là cả một thiên thu. Tôi cố hình dung mình bốn mươi năm sau, nhưng thật chẳng khác nào cố tưởng tượng ra những gì ở bên ngoài.
Sáng hôm sau, Oshima nói và chỉ cho tôi những việc phải làm trước khi mở cửa thư viện. Trước hết, phải mở khóa, mở các cửa sổ cho thông thoáng các phòng, lia nhanh một tua máy hút bụi, lau các mặt bàn, thay hoa trong các bình, bật đèn, thỉnh thoảng tưới nước trong vườn cho sạch bụi và đến giờ thì mở cửa ra vào. Đến giờ đóng cửa, cũng vẫn những công việc ấy theo thứ tự đảo ngược - khóa các cửa sổ, lau các mặt bàn, tắt đèn và đóng cửa trước.
"Ở đây chẳng có nhiều thứ cho kẻ trộm dòm ngó, cho nên có lẽ chúng ta không cần lúc nào cũng lo khóa cửa chính," Oshima nói. Nhưng Miss Saeki và mình không thích cung cách làm ăn cẩu thả. Cho nên chúng tôi cố gắng làm việc theo đúng quy tắc. Đây là ngôi nhà của chúng tôi, chúng tôi trân trọng nó. Và tôi hy vọng cậu cũng sẽ làm như thế."
Tôi gật đầu.
Sau đó, anh chỉ dẫn cho tôi công việc ở quầy tiếp tân, làm thế nào để giúp những người đến đọc ở thư viện.
"Hiện tại, cậu chỉ cần ngồi cạnh mình, quan sát những gì mình làm. Cũng chẳng có gì khó lắm đâu. Nếu có gì phức tạp cậu không xử lý được, cậu cứ lên gác hỏi Miss Saeki. Bà sẽ giải quyết."
Miss Saeki đến trước mười một giờ một chút. Chiếc Volkswagen Golf của bà có tiếng động cơ rất dễ phân biệt, nó vừa đến là tôi nhận ra ngay. Đậu xe xong, bà vào bằng lối cửa sau và chào hai chúng tôi. "Chào buổi sáng," bà nói. "Chào cô," chúng tôi đáp. Chuyện trò giữa chúng tôi chỉ tới chừng đó. Miss Saeki mặc một chiếc áo dài xanh nước biển ngắn tay, vai đeo túi, tay khoác một chiếc áo vest. Không có chút gì có thể gọi là đồ trang sức, son phấn trang điểm chỉ loáng thoáng. Tuy nhiên, ở bà có một cái gì thật rực rỡ. Bà liếc nhìn tôi đứng cạnh Oshima, vẻ như muốn nói điều gì, song lại thôi. chỉ hơi mỉm cười với tôi rồi lên phòng làm việc của mình trên tầng hai.
"Đừng ngại," Oshima trấn an tôi. "Bà không thắc mắc gì về sự có mặt của cậu ở đây đâu. Bà vốn không thích chuyện phiếm, có thế thôi."
Đúng mười một giờ, Oshima và tôi mở cửa chính, nhưng hồi lâu không có ai đến. Trong khoảng thời gian đó, anh hướng dẫn tôi cách tìm sách trên máy tính. Máy ở đây đều thuộc loại dành cho thư viện tôi đã quen dùng. Sau đó anh bày cho tôi cách sắp xếp tất cả các phiếu nhập sách. Hằng ngày, thư viện nhận được những sách mới xuất bản và một trong những nhiệm vụ của tôi là tạo phiếu cho sách mới đến.
Khoảng mười một rưỡi, hai phụ nữ cùng đến, mặc quần jeans giống hệt nhau. Người thấp hơn tóc húi cua như một vận động viên bơi, còn người cao hơn tết tóc thành bím vắt vẻo sau lưng. Cả hai đều đi giày chạy bộ, một người mang đôi Nike, người kia mang đôi Asics. Người cao trạc bốn mươi tuổi, đeo kính, mặc sơ mi carô, người thấp, khoảng ba mươi, mặc áo cánh trắng. Cả hai đều đeo ba lô nhỏ sau lưng, vẻ mặt u ám như bầu trời đầy mây và chẳng nói gì mấy. Oshima đề nghị họ gửi ba lô ở cửa vào và hai người đàn bà, vẻ không hài lòng, lấy bút và sổ tay ra trước khi gửi lại.
Hai người đàn bà đi khắp thư viện, xem xét từng ngăn sách một, ráo riết lật giở từng bìa phiếu, thỉnh thoảng lại ghi ghi chép chép. Họ không đọc gì, cũng chẳng thèm ngồi. Họ hành xử không giống độc giả của thư viện mà giống những thanh tra sở thuế đến kiểm tra sổ sách của một công ty kinh doanh vậy. Oshima và tôi không thể đoán được họ là ai hoặc định làm gì. Anh nháy mắt với tôi và nhún vai. Tôi cảm thấy chuyện này chẳng có gì tốt lành, nói vậy còn là nhẹ.
Đến trưa, trong khi Oshima ra ngoài vườn ăn trưa, tôi thay anh đứng quầy.
"Xin lỗi, cho tôi hỏi một câu," một trong hai phụ nữ, bà cao, tiến đến, nói với tôi. Giọng bà ta khô khốc, rắn đanh như một ổ bánh bỏ quên lâu ngày trong góc chạn.
"Vâng, tôi có thể làm gì cho bà?"
Bà ta cau mày nhìn tôi như nhìn một cái khung tranh méo. "Cậu là học sinh trung học?"
"Vâng, đúng thế, tôi đang tập sự," tôi đáp.
"Tôi muốn nói chuyện với cấp trên của cậu, có ai trong số họ ở đây không?"
Tôi ra vườn kiếm Oshima. Anh chậm rãi nhấp một ngụm cà phê để chiêu chút thức ăn trong miệng, phủi những vụn bánh vãi trên lòng và vào nhà.
"Vâng, tôi có thể giúp gì cho bà?" Oshima nhã nhặn đáp.
"Xin nói cho anh biết, chúng tôi đang điều tra các phương tiện văn hóa công cộng trong toàn quốc từ quan điểm nữ giới, trên các mặt: dễ sử dụng, dễ tiếp cận và một số vấn đề khác," bà nói. "Nhóm chúng tôi đang tiến hành một cuộc điều tra kéo dài một năm và dự định sẽ xuất bản một báo cáo về những phát hiện của mình. Một số lớn phụ nữ đã tham gia vào dự án và hai chúng tôi đây được giao phụ trách khu vực này."
"Nếu bà không phiền," Oshima nói, "xin cho biết tên của tổ chức đó?"
Bà ta rút ra một tấm danh thiếp, chìa cho anh.
Vẻ mặt không chút thay đổi, Oshima đọc kỹ tấm danh thiếp, đặt lên quầy rồi ngước lên nhìn bà ta đăm đắm với một nụ cười nồng cháy. Một nụ cười hảo hạng, đảm bảo có thể là đỏ mặt bất kỳ người đàn bà dồi dào sinh lực nào.
Lạ thay, người đàn bà này không hề phản ứng, thậm chí không cả nhướn mày. "Thật không may, chúng tôi đã đi đến kết luận là thư viện này có một số vấn đề cần xét."
"Bà nói từ quan điểm nữ giới," Oshima bình luận.
"Đúng, từ quan điểm nữ giới," bà ta đáp. Bà ta hắng giọng. "Và chúng tôi muốn nêu vấn đề với ban quan trị ở đây và nghe họ trả lời, nếu anh không phiền."
"Chúng tôi không có cái thứ sang trọng gọi là "ban quản trị", nhưng tôi xin vui lòng nghe bà."
"Tốt, trước hết, ở đây không có nhà vệ sinh dành riêng cho phụ nữ. Đúng không?"
"Vâng, đúng thế. Thư viện này không có nhà vệ sinh dành riêng cho nữ giới. Chúng tôi có một nhà vệ sinh cho cả nam và nữ."
"Ngay cả những cơ sở tư nhân, một khi đã mở cho công chúng, thì về nguyên tắc, cũng phải có nhà vệ sinh riêng rẽ cho nam và nữ, anh có nghĩ thế không?"
"Về nguyên tắc?" Oshima nói.
"Đúng. Nam nữ dùng chung nhà vệ sinh dễ gây ra đủ kiểu quấy rầy tình dục. Theo điều tra của chúng tôi, đa số phụ nữ không muốn dùng chung nhà vệ sinh với nam giới. Đây là một bằng chứng rõ ràng vệ sự xao lãng đối với các độc giả phái nữ."
"Xao lãng..." Oshima nói và nhăn mặt như vừa nuốt nhầm phải một cái gì đắng nghét. Xem ra anh chẳng thích gì âm hưởng của cái từ ấy.
"Một s tình bỏ qua."
"Cố tình bỏ qua," anh nhắc lại và ngẫm nghĩ một chút về cụm từ vụng về ấy.
"Vậy anh phản ứng như thế nào về chuyện đó?" bà ta hỏi, hầu như không kìm nổi giận dữ[6].
"Như bà có thể thấy," Oshima nói, "đây là một thư viện rất nhỏ. Và khốn thay, chúng tôi lại không có đủ không gian để bố trí hai nhà vệ sinh riêng rẽ. Tất nhiên nếu được như thế thì tốt, nhưng cho tới nay, chưa ai trong số độc giả của chúng tôi phàn nàn về điều đó. May thay - hay rủi thay - thư viện chúng tôi không đông độc giả lắm. Nếu bà muốn tiếp tục đi sâu thêm về vấn đề toa-lét riêng rẽ này, tôi khuyên bà nên đến trụ sở hãng Boeing ở Seattle và chất vấn họ về tiện nghi vệ sinh trên các máy bay 747. Một chiếc Boeing 747 to hơn thư viện của chúng tôi nhiều và đông khách hơn nhiều. Theo chỗ tôi biết thì tất cả toa-lét trên các máy bay phản lực chở hành khách đều chung cho cả nam lẫn nữ."
Bà cao cau mặt nghiêm nghị nhìn Oshima, đôi gò má gồ lên khiến cặp kính trượt trên sống mũi. "Chúng tôi không điều tra tiện nghi trên máy bay. Anh nói đến Boeing 747 là lạc đề."
"Dù là máy bay hay trong thư viện chúng tôi, thì về nguyên tắc, những vấn đề nảy sinh cũng như nhau, bà không thấy thế sao?"
"Chúng tôi đang điều tra lần lượt các phương tiện công cộng. Chúng tôi không đến đây để tranh cãi về nguyên tắc."
Nụ cười mềm mỏng của Oshima không lúc nào rời môi anh trong suốt cuộc trao đổi. "Chẳng phải đích thị nguyên tắc là đầu đề tranh cãi của chúng ta đó sao?"
Bà kia nhận ra mình đã hớ. Bà hơi đỏ mặt, tuy nhiên không phải vì sức quyến rũ tình dục của Oshima. Bà bè đổi chiến thuật. "Dù sao đi nữa, nói đến máy bay phản lực khổng lồ ở đây là không phù hợp. Anh đừng tìm cách làm rối vấn đề."
"Tôi hiểu. Thôi không nói đến may bay nữa," Oshima hứa. "Ta sẽ chuyển vấn đề xuống mặt đất vậy."
Người đàn bà trừng trừng nhìn anh ta và, sau khi hít một hơi, bà tiếp tục tấn công. "Một vấn đề khác tôi muốn nêu lên: các tác giả ở đây được phân chia theo giới tính."
"Đúng. Người tiền nhiệm của chúng tôi đã lập danh mục tác giả và không biết vì lý do gì, đã chia ra hai bên nam bên nữ. Chúng tôi đã nghĩ đến việc sắp xếp lại nhưng cho đến nay vẫn chưa có điều kiện."
"Chúng tôi không phê phán điểm ấy," bà ta nói.
Oshima hơi nghiêng đầu.
"Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ trong tất cả các loại sách, các tác giả nam đều được liệt kê trước các tác giả nữ," bà ta nói. "Theo cách nghĩ của chúng tôi, điều đó vi phạm nguyên tắc bình đẳng giới và hoàn toàn không công bằng."
Oshima lại cầm tấm danh thiếp của bà ta lên, lướt mắt trên các dòng chữ, rồi lại đặt xuống mặt quầy. "Thưa bà Soga," anh mở đầu, "khi điểm danh ở trường, người ta ắt phải gọi tên bà trước cô Tanaka và sau cô Sekini. Liệu bà có khiếu nại không? Liệu bà có đòi người ta đảo lộn trật tự? Chữ G có bất bình vì phải đứng sau chữ F trong vần chữ cái không? Trong một cuốn sách, trang 68 có nổi dậy làm cách mạng chỉ vì bị xếp sau trang 67 không?"
"Nói lạc đề rồi," bà ta nổi cáu. "Anh cố tình làm rối vấn đề."
Người ụ nữ thấp hơn đang đứng ghi chép trước một chồng sách, nghe thấy bà kia cao giọng, bèn chạy đến.
"Cố tình làm rối vấn đề," Oshima nhắc lại, như thể nhấn mạnh lời bà ta.
"Anh phủ nhận hả?"
"Một con cá trích đỏ," Oshima đáp.
Người đàn bà tên là Soga đứng ngây, miệng há hốc, không thốt ra được một tiếng nào.
"Trong tiếng Anh, thành ngữ red herring (cá trích đỏ) có nghĩa là một cái gì lý thú nhưng lại dẫn đi chệch khỏi đề tài trích. Tuy nhiên tôi chưa đi sâu tìm hiểu nguyên do của cái thành ngữ ấy."
"Cá trích hay cá thu hay gì gì nữa vẫn chỉ là chuyện anh né tránh vấn đề."
"Thật ra, tôi đang đảo ngược phép loại suy," Oshima nói. "Một trong những phương pháp lập luận hiệu quả nhất, theo Aristotle. Những công dân của Athens cổ đại rất khoái dùng cái thủ pháp trí tụê này. Tuy nhiên, thật đáng tiếc là vào thời đó, phụ nữ lại jko được bao gồm trong định nghĩa về công dân."
"Anh đang giễu chúng tôi đấy hả?"
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:24:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19 (tiếp)


Oshima lắc đầu. "Đâu có, điều tôi đang cố gắng diễn đạt là thế này, tôi dám chắc rằng, để kiểm tra xem các quyền của phụ nữ Nhật Bản có được bảo đảm hay không, có nhiều cách hiệu quả hơn là đến ngửi hít quanh quanh một cái thư viện nhỏ trong một cái thành phố nhỏ và phàn nàn về nhà vệ sinh với phiếu kê. Chúng tôi đang làm hết khả năng của mình sao cho cái thư viện khiêm tốn này của chúng tôi giúp ích được cho cộng đồng. Chúng tôi đã thu thập gom góp được một bộ sưu tập sách thượng thặng để phụ v những người ham đọc. Và chúng tôi làm hết sức mình để tất cả những giao dịch của mình với công chúng mang một bộ mặt người. Có thể bà không biết, chứ bộ sưu tập tư liệu liên quan đến thơ từ những năm 1910 đến thời kỳ trung-Showa của thư viện chúng tôi đã được công nhận trong toàn quốc. Tất nhiên, còn có những điều chúng tôi có thể làm tốt hơn và những thành quả của chúng tôi còn hạn chế. Nhưng xin hãy tin rằng chúng tôi sẽ cố gắng hết mình. Tôi nghĩ là sẽ tốt hơn nhiều nếu bà tập trung vào những gì chúng tôi đã làm tốt chứ không phải vào những gì chúng tôi chưa thể làm được. Như vậy mới gọi là công bằng, bà có thấy thế không?"
Bà cao nhìn bà thấp, bà thấp ngước mắt lên nhìn lại bà cao và lần đầu tiên mở miệng. "Anh vừa mới né tránh vấn đề, thở ra những luận điệu rỗng tuếch nhằm trốn trách nhiệm," bà ta nói bằng một giọng the thé. "Trên thực tế - thôi thì dùng luôn từ ấy cho tiện - anh chỉ cố gắng tự biện hộ một cách dễ dãi. Không phải nói ngoa, anh là một thí dụ lịch sử bi thiết về thói đề cao dương vật như là trung tâm vũ trụ."
"Một thí dụ lịch sử bi thiết," Oshima nhắc lại, rõ ràng là thán phục. Qua giọng anh, tôi cảm thấy anh khoái âm hưởng của cụm từ đó.
"Nói cách khác, anh là một con đực gia trưởng trọng nam khinh nữ điển hình," bà cao chêm vào, không giấu nổi sự tức tối."
“Một con đực gia trưởng," Oshima lại nhắc lại.
Bà thấp không thèm để ý, tiếp tục nói. "Anh viện dẫn hiện trạng với cái lô gích rẻ tiền "dương vật là trung tâm" làm bệ đỡ, để hạ thấp toàn bộ nữ giới xuống hàng công dân hạng hai, để hạn chế và tước đoạt các quyền chính đáng của phụ nữ. Anh làm điều đó một cách vô thức chứ không phải có dụng ý, nhưng như thế, anh càng thêm nặng tội. Anh bảo vệ những quyền lợi đã thủ đắc của nam giới và trở nên chai sạn trước nỗi đau của những người khác giới, thậm chí không chịu cố gắng tìm hiểu xem sự mù quáng của mình đã gây hại cho phụ nữ và xã hội như thế nào. Tôi hiểu những vấn đề toa-lét và phiếu danh mục chỉ là chi tiết, nhưng nếu chúng tôi không bắt đầu từ những chuyện nhỏ, thì chúng tôi sẽ không bao giờ có thể vứt bỏ được tấm màn bưng bít che phủ xã hội. Đó là những nguyên tắc hành động của chúng tôi."
"Tất cả những phụ nữ biết điều hơn lẽ thiệt đều cảm nghĩ theo cách ấy," bà cao, chêm vào, mặt không chút biểu cảm.
"Thử hỏi người phụ nữ có tinh thần quảng đại nào có thể ứng xử cách khác trước những tra tấn mà tôi đang phải chịu đựng," Oshima nói.
Hai bà đứng sững im lặng như hai tảng băng.
"Đó là một câu thoại trong Electra của Sophocles. Một vở kịch tuyệt vời. Và tiện đây, xin nói: từ "gender (giống)" thoạt kỳ thủy được dùng để chỉ giống trong ngữ pháp thôi. Tôi cảm thấy khi chỉ sự khác nhau về giới tính, thì dùng từ "sex" hợp hơn. Trong trường hợp này, dùng "gender" là không chuẩn. Xin lưu ý một điểm trên khía cạnh ngôn ngữ học như vậy."
Im lặng giá băng.
"Dù sao đi nữa, những điều các bà đã nói đều sai về cơ bản," Oshima nói tiếp, bình tĩnh nhưng dằn từng tiếng "Tôi dứt khoát không phải là một thí dụ lịch sử bi thiết về một con đực gia trưởng."
"Vậy anh hãy giải thích một cách đơn giản những điều chúng tôi nói có gì sai?" bà thấp thách thức.
"Mà không né tránh vấn đề hoặc phô trương ến thức," bà cao bổ sung.
"Được. Tôi sẽ làm đúng như thế - giải thích một cách đơn giản và trung thực, không né tránh hoặc phô phang kiến thức," Oshima nói.
"Chúng tôi đang đợi đây," bà cao nói và bà thấp gật đầu ra ý tán thành.
"Trước hết tôi không phải là một con đực," Oshima thông báo.
Tất cả mọi người im lặng sững sờ. Tôi nuốt khan và liếc nhìn Oshima.
"Tôi là một phụ nữ," anh nói.
"Tôi xin anh đừng có giỡn hoài," bà thấp nói sau một hồi im lặng để lấy hơi. Tuy nhiên, không được tự tin lắm, tựa như chỉ vì bà ta cảm thấy ai đó cần phải nói một câu gì.
Oshima rút ví từ túi quần, lấy tấm bằng lái xe ra, đưa cho bà ta. Bà đọc những dòng chữ trên đó, cau mày rồi đưa cho người bạn cao của mình, bà này đọc và sau một giây lưỡng lự, đưa trả tấm bằng cho Oshima, vẻ cay cú hiện trên nét mặt.
"Cậu cũng muốn xem chứ?" Oshima hỏi tôi. Khi tôi lắc đầu, anh nhét tấm bằng lái vào ví, bỏ túi quần. Rồi đặt cả hai tay lên quầy, anh nói. "Như các bà thấy, về mặt sinh học và pháp lý, tôi là một con cái không ai phủ nhận được. Vì thế nên những gì bà nói về tôi cơ bản là sai. Tôi dứt khoát không thể, như lời bà nói, là một con đực gia trưởng trọng nam khinh nữ điển hình.
"Phải, nhưng..." bà cao nói nhưng lại ngừng bặt. Bà thấp, môi mím chặt, vân vê cổ áo[19]. "Thân thể tôi là đàn bà, nhưng tinh thần tôi thì hoàn toàn là đàn ông," Oshima nói tiếp. "Về mặt xúc cảm, tôi sống như một người đàn ông. Cho nên tôi nghĩ cái khái niệm một thí dụ lịch sử của bà có thể là đúng. Và có thể tôi trọng nam khinh nữ, biết đâu đấy. Nhưng tôi không phải là một người nữ đồng giới tình dục, mặc dù tôi ăn mặc thế này. Sở thích tình dục của tôi là với đàn ông. Nói cách khác, tôi là nữ, nhưng lại là nam trong hành xử đồng giới tình dục. Tôi hoạt động tình dục qua hậu môn và không bao giờ dùng âm hộ để làm tình. Âm vật của tôi nhạy cảm, nhưng vú tôi lại vô cảm. Tôi không hành kinh. Vậy thì tôi phân biệt giới ở điểm nào?"
Ba chúng tôi nghe cứ ngẩn tò te, không nói nên lời. Một trong hai bà đằng hắng, tiếng khục khặc trong cổ vang lên trong căn phòng. Chiếc đồng hồ trên tường cao giọng tích tắc điểm từng giây.
"Tôi xin lỗi," Oshima nói, "tôi đang ăn dở bữa trưa. Lúc các bà gọi tôi đến, tôi đang ăn món cá ngừ cuốn rau dền, mới hết nửa. Nếu tôi để ngoài đó quá lâu, bọn mèo quanh đây sẽ cuỗm mất. Nhiều người đem những con mèo con họ không ưng vứt vào khu rừng gần biển, nên khu vực này đầy mèo. Nếu các bà không phiền, tôi xin quay về với bữa trưa của mình. Vậy các bà bỏ quá cho. Nhưng xin các bà cứ thư thả và thăm thú thư viện. Thư viện của chúng tôi mở cửa cho tất cả mọi người. Chừng nào các bà tuân theo nội quy và không làm phiền các độc giả khác, các bà có thể thoải mái làm bất cứ điều gì mình thích. Các bà có thể xem xét bát cứ cái gì các bà cần. Cứ tiếp tục điều tra và viết những gì các bà muốn trong báo cáo của mình. Chúng tôi bất cần. Chúng tôi không nhận tài trợ từ bất cứ nơi nào và làm mọi việc theo cách riêng của chúng tôi. Và đó là cách chúng tôi ưa thích."
Sau khi Oshima đi khỏi, hai bà nhìn nhau, rồi cùng nhìn tôi chòng chọc. Có thể họ tưởng tôi là bồ của Oshima hay gì đó. Tôi không nói gì và bắt đầu xếp các thẻ danh mục. Hai bà thầm thì với nhau giữa các ngăn sách và không lâu sau, thu dọn đồ lề rồi bắt đầu rút lui. Mặt lạnh tanh, họ không buồn nói một lời cảm ơn khi tôi trao cả những chiếc ba lô nhỏ cho họ
Một lúc sau, Oshima ăn xong, quay vào. Anh đưa tôi hai chiếc nem cuốn cá ngừ với rau dền xanh rưới xốt kem trắng bên trên. Đó là bữa trưa của tôi. Tôi đun ít nước, pha trà Earl Grey để chiêu.
"Tất cả những điều mình nói lúc nãy đều là thật," Oshima nói khi tôi ăn xong quay về.
"Vậy là điều anh định ám chỉ khi nói với em anh là một con người đặc biệt, có nghĩa là thế?"
"Khi ấy mình không có ý huênh hoang," anh nói, "nhưng giờ thì cậu hiểu là mình đã không nói quá, phải không?"
Tôi lặng lẽ gật đầu.
Oshima tủm tỉm cười. "Về mặt giới tính, mình dứt khoát là đàn bà, tuy vú mình không phát triển mấy và mình không bao giờ có kinh. Nhưng mình không có dương vật và tinh hoàn, không có râu ria. Tóm lại, mình chẳng có gì. Một thứ cảm giác nhẹ tếch, nếu như cậu muốn gài một ngụ ý tích cực vào đó. Tuy nhiên, mình không chắc cậu có thể hiểu được cảm giác đó."
"Em chắc là không," tôi nói.
"Đôi khi, chính mình cũng không hiểu. Quỷ tha ma bắt, mình là cái gì nhỉ? Thực vậy, theo cậu, mình là cái gì?"
Tôi lắc đầu. "Chao, em cũng chẳng biết em là cái gì nữa."
"Một sự khủng hoảng bản sắc mang tính cổ điển."
Tôi gật đầu.
"Nhưng ít nhất thì cậu cũng biết bắt đầu từ đâu. Không như mình."
"Em bất cần anh là cái gì. Bất kể anh là gì, em cũng vẫn thích anh," tôi nói. Cả đời, tôi chưa bao giờ nói với ai như thế, và những lời nói đó làm tôi đỏ mặt.
"Cám ơn," Oshima nói và dịu dàng đặt tay lên vai tôi. "Mình biết là mình hơi khác mọi người, nhưng mình vẫn là một con người. Mình muốn cậu nhận thức rõ điều đó. Mình là một con người bình thường, chứ không phải một quái vật. Mình cảm nhận sự vật như mọi người, hành động như mọi người. Tuy nhiên, đôi khi cái khác biệt nho nhỏ ấy lại như một vực thẳm ngăn cách. Nhưng có lẽ mình cũng đành chịu vậy thôi, biết làm thế nào." Anh cầm một cây bút chì dài vót nhọn ở trên quầy lên, đăm đăm nhìn như thể đó là một phần kéo dài của cơ thể. "Mình đã muốn kể với cậu tất cả những điều này vào thời điểm sớm nhất có thể, nói trực tiếp chứ không để cậu nghe qua một người nào khác. Cho nên mình nghĩ hôm nay là một cơ hội tốt. Tuy nhiên, đó không phải là một trải nghiệm thú vị lắm, phải không?"
Tôi gật đầu.
"Mình đã nếm trải đủ mọi kiểu phân biệt đối xử," Oshima nói. "Chỉ những người đã bị phân biệt đối xử mới thực sự hiểu điều đó đau đớn biết nhường nào. Mỗi người cảm nhận nỗi đau theo cách riêng của mình, mỗi người mang những vết sẹo riêng. Thế nên mình nghĩ là mình khát thèm bình đẳng và công bằng không kém bất kỳ ai. Nhưng điều làm mình ghê tởm hơn nữa là những kẻ không có tí đầu óc tưởng tượng nào. Loại người mà T.S.Eliot gọi là những người rỗng tuếch[20]. Những kẻ lấp đầy khoảng trống vắng trí tưởng tượng bằng những cọng rơm không chút tâm cảm, mà thậm chí chẳng biết mình đang làm gì. Những kẻ chai lì ném vào anh hàng mớ lời chữ rỗng tuếch, ra sức cưỡng bách anh làm những điều anh không muốn. Giống như cái cặp bài trùng khả ái mà chúng ta vừa gặp."
Anh thở dài, xoay xoay cây bút chì dài mảnh trong tay. "Đám đồng giới tình dục nam cũng như nữ, đám dị giới tình dục, những người hoạt động đòi phụ nữ bình quyền, bọn lợn phát xít, những người cộng sản, những thành viên của giáo phái Hare Krishna[21]- mình chẳng ngại đám nào cả. Mình bất cần họ giương cờ gì. Nhưng cái mà mình không thể chịu nổi là những kẻ rỗng tuếch. Hễ có mặt họ là mình hết chịu nổi và rốt cuộc thể nào cũng xổ ra những điều lẽ ra không nên nói. Với hai bà vừa rồi, lẽ ra mình nên cho qua hoặc giả gọi Miss Saeki đến giải quyết. Trong trường hợp ấy, bà ắt tươi cười giải thích êm xuôi mọi chuyện. Nhưng mình thì không thể làm thế được. Mình nói những điều không nên nói, làm những điều không nên làm. Mình không kiểm soát được bản thân. Đó là một trong những nhược điểm của mình. Cậu có biết tại sao đó lại là một nhược điểm không?"
"Bởi vì nếu với mỗi một người thiếu đầu óc tưởng tượng, anh đều bận tâm một cách nghiêm túc, thì chả biết bao giờ cho xong."
"Chính thế," Oshima nói. Anh lấy đầu có tẩy của cây bút chì khẽ dỗ dỗ vào thái dương. "Nhưng mình muốn cậu nhớ điều này, Kafka ạ. Chính cái loại người như thế đã giết chết người tình thời trẻ của Miss Saeki. Đầu óc hẹp hòi triệt tiêu trí tưởng tượng. Không khoan nhượng, lý thuyết tách rời khỏi thực tế, ngôn từ sáo rỗng, lý tưởng vay mượn, hệ thống cứng nhắc. Đó chính là những cái làm mình thực sự kinh hãi. Những cái mình cực kỳ khiếp sợ và ghê tởm. Dĩ nhiên, cần phải biết cái gì là đúng và cái gì là sai. Sai lầm cá nhân trong nhận định thường có thể sửa được. Chừng nào anh có can đảm nhận lỗi, mọi sự vẫn có thể cứu vãn được. Nhưng thói cứng nhắc, hẹp hòi thiếu trí tưởng tượng giống như những ký sinh trùng làm biến đổi ch thể bị nó ăn bám, thay đổi hình dạng và tiếp tục sinh sôi nảy nở. Cái đám ấy là không thể cứu vãn và mình không muốn thấy bất kỳ ai trong bọn họ đặt chân vào đây.
Oshima chỉ đầu nhọn của cây bút chì vào những ngăn sách. Tất nhiên là anh nhằm cả thư viện nói chung.
"Mình ước sao có thể cười khẩy không đếm xỉa đến loại người như thế mà không được."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:27:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20


Đã hơn tám giờ tối khi chiếc xe tải ĐÔNG LẠNH mười tám bánh rẽ khỏi xa lộ Tomei và thả Nakata xuống bãi đậu xe của khu nghỉ Fujigawa. Tay xách túi đồ và ô, lão lụi hụi bước xuống mặt đường rải nhựa.
“Chúc bác may mắn kiếm được một chuyến xe khác,” người lái xe thò đầu qua cửa xe nói. “Bác cứ hỏi quanh đây, chắc thể nào cũng có.”
“Đa tạ. Nakata này cám ơn cậu đã giúp đỡ.”
“Vô tư đi,” người lái nói, rồi vẫy tay và quay xe trở về xa lộ.
Fu-ji-ga-wa, người lái xe đã nói thế. Nakata không biết Fu-ji-ga-wa là nơi nào, song lão hiểu là mình đã rời Tokyo và đi về hướng Tây. Chả cần đến la bàn hay bản đồ, bản năng lão mách vậy. Giá bây giờ có chiếc xe tải nào đi về hướng Tây, cho lão quá giang thì hay quá.
Đói bụng, Nakata quyết định vào nhà hàng của khu nghỉ làm một bát mì. Cơm nắm và Sô-cô-la trong bị, lão để dành, phòng trường hợp đột xuất. Vì không đọc, lão phải mất một lúc để tìm hiểu xem làm cách nào để mua được đồ ăn. Trước khi vào phòng ăn, phải mua phiếu ăn từ một máy bán hàng tự động, lão phải nhờ người đọc hộ nút bấm. “Mắt lão kém, không nhìn rõ,” lão nói với một bà trung niên. Bà này bỏ tiền vào cho lão, bấm nút và đưa tiền thối lại cho lão. Kinh nghiệm đã dạy cho lão là tốt nhất đừng để người ta biết là lão mù chữ. Bằng không, họ sẽ trừng trừng nhìn lão như nhìn một con quái vật.
Ăn xong, Nakata vai đeo túi, tay xách ô, đi tua các xe tải trong bãi đậu, hỏi xin quá giang. Nakata này đi về hướng Tây – lão giải thích – có cậu nào hảo tâm cho lão quá giang không? Nhưng tất cả các tài xế đều lắc đầu sau khi nhìn lão từ đầu đến chân. Một lão già xin đi nhờ xe là điều ít thấy và dĩ nhiên, họ phải cẩn thận đề phòng chuyện bất trắc. Rất tiếc, công ty chúng tôi không cho phép lấy khách quá giang, họ đều nói vậy.
Nakata đã phải mất một thời gian dài để đi từ quận Nakano đến ngả vào xa lộ Tomei. Trước đó, lão chưa bao giờ ra khỏi Nakano và không biết xa lộ ở chỗ nào. Lão có một tấm thẻ đặc biệt đi các tuyến xe buýt nội thành miễn phí mà lão vẫn dùng thường xuyên, nhưng lão chưa bao giờ đi xe điện ngầm hay xe lửa một mình, dùng các phương tiện này thì cần phải mua vé.
Trước mười giờ sáng một chút, lão bỏ một bộ quần áo, khăn mặt, xà phòng, bàn chải, thuốc đánh răng và một ít lương thực vào chiếc túi vải bố, lấy số tiền giấu dưới chiếu cất cẩn thận vào ruột tượng cho an toàn, rồi xách cái ô đen to tướng rời khỏi căn hộ. Khi lão hỏi người lái xe buýt nội thành làm sao đến được xa lộ, anh ta cả cười.
“Xe buýt này chỉ đến ga Shinjuku thôi. Xe buýt nội thành không chạy trên xa lộ. Bác phải bắt xe đò chạy đường dài cơ.”
“Thế bến xe chạy đường dài đến xa lộ To-mei ở đâu?”
“Ga Tokyo,” người tài xế trả lời. “Bác đáp chuyến xe buýt này đến ga cuối, rồi chuyển sang đi tàu đến ga Tokyo, tới đó bác đặt vé trước để giành chỗ. Chuyến xe đò ấy sẽ đưa bác đến xa lộ Tomei.”
Nakata không hiểu rõ lắm những chỉ dẫn của anh ta, nhưng cứ đáp chuyến xe đó đến tận Shinjuku. Nhưng khi tới đó, lão thấy ngợp. Cái nhà ga mênh mông chật ních những người là người, lão phải khó khăn lắm mới lách qua được đám đông. Có bao nhiêu là tuyến đường, lão không sao biết được tuyến nào đi đến ga Tokyo. Không đọc được biển chỉ dẫn, lão phải hỏi những người đi ngang qua, nhưng họ giải thích quá nhanh, quá rắc rối, với những địa danh lão chưa nghe thấy bao giờ. Thà nói chuyện với Kawamura còn dễ dàng hơn, Nakata nghĩ thầm. Kể ra có thể hỏi đường ở trạm cảnh sát đặt ở trong ga, nhưng lão sợ họ lầm tưởng lão là một ông già lẫn cẫn và tạm giữ lại, điều mà dạo trước lão đã từng bị một lần. Loanh quanh mãi trong ga, hơi người và tiếng ồn ào bắt đầu làm lão cảm thấy váng vất. Lần theo những lối đỡ đông hơn, lão mò ra ngoài, tìm thấy một công viên nhỏ giữa hai tòa nhà cao tầng và ngồi xuống một chiếc ghế băng.
Nakata hết sức hoang mang. Lão ngồi đó, thỉnh thoảng lại lầm bầm, xoa xoa cái đầu húi cua. Trong công viên, không thấy bóng một con mèo, nhưng lại đầy quạ sà xuống bới những thùng rác. Nakata nhìn lên bầu trời mấy lần, và bằng vào vị trí của mặt trời, có thể đoán được là mấy giờ. Khí thải bão hòa nhuộm bầu trời một màu kỳ lạ.
Đến trưa, nhân viên từ các tòa nhà gần đấy tràn ra công viên ăn trưa. Nakata cũng lấy mấy cái bánh rán nhân đậu ra ăn, chiêu bằng nước trà nóng từ cái phích lão luôn mang theo. Hai cô gái kéo nhau đến ngồi ở chiếc ghế băng bên cạnh. Lão quyết định bắt chuyện với họ. Làm thế nào đến được xa lộ To-mei? Lão hỏi. Họ nói với lão y hệt như người lái xe buýt đã chỉ dẫn. Đáp tàu tuyến Chuo đến ga Tokyo rồi lên xe đò đi xa lộ Tomei.
“Nakata này đã thử làm thế mà không xong,” lão thú nhận. “Trước nay, lão chưa bao giờ ra khỏi quận Nakano, nên không biết đi tàu. Lão chỉ biết đi xe buýt nội thành thôi. Lão không biết đọc, thành thử không mua được vé. Lão đã đi xe buýt nội thành đến đây, nhưng không biết làm thế nào để đi xa hơn.”
Bác không biết đọc? Họ ngạc nhiên hỏi. Nom lão có vẻ là một ông già vô hại. Tươi cười, ăn mặc gọn gàng. Trời đẹp như thế này mà mang cái ô tổ bố kể cũng hơi kỳ, song lão không có vẻ là kẻ vô gia cư. Mặt mày dễ coi, đặc biệt là đôi mắt sáng long lanh.
“Trước nay, bác chưa bao giờ ra khỏi quận Nakano, bác nói thật đấy chứ?” cô gái tóc đen hỏi.
“Phải. Lão đã cố không bao giờ ra khỏi đó. Nếu Nakata này bị lạc, sẽ không có ai đi tìm đâu.”
“Và bác không biết đọc?” cô kia, nhuộm tóc nâu, hỏi.
“Đúng thế. Lão hoàn toàn không biết đọc. Lão biết mấy chữ số đơn giản, nhưng không biết cộng.”
“Hmm. Cháu nghĩ thế thì bác khó mà đi tàu được.”
“Vâng, rất khó. Lão không thể mua được vé.”
“Nếu có thì giờ, chúng cháu có thể đưa bác tới ga rồi đảm bảo đưa bác lên đúng chuyến tàu, nhưng chúng cháu sắp phải quay về làm việc rồi. Cháu thực tình xin lỗi.”
“Không, không cần phải xin lỗi đâu. Lão sẽ nghĩ ra cách nào đó.”
“M nghĩ ra rồi!” cô tóc đen reo lên. “Chẳng phải Togeguchi ở bộ phận bán hàng bảo hôm nay anh ta phải đi Yokohama đấy sao?”
“Ừ nhỉ, giờ cậu nhắc mình mới nhớ. Chúng mình nhờ thì anh ta sẽ giúp thôi. Anh ta hơi u sầu nhưng vốn không phải người xấu, thật đấy,” cô tóc nâu nói.
“Nếu bác không biết đọc thì nên vẫy xe xin quá giang, có lẽ tốt hơn,” cô tóc đen nói.
“Xin quá giang?”
“Bác hỏi ai đó xin đi nhờ xe. Nên hỏi cánh lái xe tải chạy đường dài, chứ đám du lịch đi xe con ít khi chịu cho đi nhờ lắm.”
“Nakata này không biết xe tải chạy đường dài như thế nào.”
“Bác cứ thử hỏi các tay lái xe tải, khắc được đấy. Hồi còn ở trường đại học, cháu đã xin quá giang một lần. Cánh lái xe tải thường rất hảo tâm.”
“Bác định đến tận đâu trên xa lộ Tomei?” cô tóc nâu hỏi.
“Nakata này không biết,” lão đáp.
“Bác không biết?”
“Chừng nào đến đó, lão sẽ biết thôi. Vậy nên, khởi đầu, lão sẽ đi về hướng Tây trên xa lộ To-mei. Sau đó, lão sẽ nghĩ về nơi mình sẽ đến. Dù thế nào đi nữa, lão vẫn phải đi theo hướng Tây.”
Hai cô gái nhìn nhau, nhưng những lời của Nakata có sức thuyết phục kỳ lạ khiến họ bỗng có thiện cảm với ông già. Họ ăn nốt bữa trưa của mình, vứt hộp vào thùng rác và đứng dậy.
“Bác hãy đi với chúng cháu,” cô tóc đen nói. húng ta sẽ nghĩ ra một cách nào đó.”
Nakata đi theo họ vào một tòa nhà gần đó. Trước nay, lão chưa từng đặt chân vào tòa nhà nào lớn như vậy. Hai cô gái đặt lão ngồi ở một chiếc ghế dài gần quầy tiếp tân, rồi nói với nhân viên tiếp tân và bảo Nakata chờ đó một lát. Họ biến vào một trong những buồng thang máy trong sảnh. Trong khi lão ngồi đấy ôm chiếc ô và túi vải, đám nhân viên lũ lượt trở vào sau giờ ăn trưa. Thêm một cảnh tượng nữa lão chưa từng thấy trong đời. Như thể đã thỏa thuận với nhau, tất cả những người này đều ăn vận thật đẹp – cà vạt, cặp bóng lộn, giày cao gót, tất cả đều hối hả rảo bước về cùng một phía. Nakata không tài nào hiểu nổi cái đám người đông đến thế có thể làm gì ở đây.
Sau một hồi, hai cô gái trở lại cùng một gã cao kều mặc sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc.
“Đây là anh Togeguchi,” cô tóc nâu giới thiệu. “Anh ấy sắp lái xe đi Yokohama. Anh ấy nhận sẽ đưa bác đi cùng. Anh ấy sẽ thả bác ở bãi đậu xe Kohoku trên xa lộ Tomei. Hy vọng tại đó bác sẽ có thể kiếm được một người khác cho đi nhờ tiếp. Bác cứ đi một vòng hỏi các tài xế, nói là bác muốn đi về hướng Tây. Và nếu có ai cho bác quá giang, bác nhớ mua đãi anh ta một suất ăn khi dừng lại nghỉ ở đâu đó. Bác có hiểu không?”
“Nhưng liệu bác có đủ tiền để làm thế không?” cô tóc đen hỏi.
“Dạ, lão có đủ.”
“Bác Nakata là bạn tụi em, hãy tử tế với bác, nghe anh,” cô tóc nâu nói với Togeguchi.
“Nếu cô tử tế với tôi,” chàng trai rụt rè nói.
“Ờ, một ngày nào đó...” cô tóc đen nói.
Khi chào tạm biệt, hai cô gái“Đây là một chút quà chia tay. Phòng khi bác đói bụng.” Họ đưa cho Nakata mấy nắm cơm và một thanh sô-cô-la vừa mua ở siêu thị.
“Lão không biết cảm ơn các cô thế nào cho vừa về tất cả những gì các cô đã làm,” Nakata nói. “Lão sẽ cầu nguyện cho những điều tốt lành đến với cả hai cô.”
“Cháu hy vọng lời cầu nguyện của bác trở thành sự thật,” cô tóc nâu nói trong khi cô bạn cười rúc rích.
Togeguchi để Nakata ngồi ở ghế cạnh mình trên chiếc xe Hi-Ace, rồi theo đường Metropolitan, cho xe chạy đến xa lộ Tomei. Đường bị kẹt xe nhiều quãng, nên hai người nói đủ các thứ chuyện trong khi xe nhích từng tí một. Togeguchi vốn tính nhút nhát, thoạt đầu không nói gì mấy, nhưng sau khi quen với sự hiện diện của Nakata, gã bắt đầu thao thao đến mức, rốt cuộc, thay vì đôi bên trò chuyện, chỉ có mình gã độc thoại. Có rất nhiều điều gã muốn nói và gã thấy dễ dàng dốc bầu tâm sự với một người xa lạ như Nakata mà hẳn gã sẽ không bao giờ gặp lại. Gã kể gã đã cắt đứt với vợ chưa cưới cách đây một tháng. Cô ta có một thằng bồ khác, hai đứa vẫn lén lút gặp nhau suốt. Gã nói là gã không hợp với các sếp trong công việc và đang tính xin thôi. Cha mẹ gã ly hôn từ hồi gã còn học cấp hai và mẹ gã chẳng bao lâu đã tái hôn với một tay vô tích sự. Gã đã rút hết tiền tiết kiệm cho một thằng bạn vay, chả biết bao giờ nó mới trả. Và cái thằng sinh viên ở căn hộ bên cạnh suốt ngày mở nhạc to tướng làm gã chẳng ngủ được mấy.
Nakata chăm chú lắng nghe, phụ họa ở những điểm thích hợp, thi thoảng chêm vào một ý kiến riêng. Đến lúc chiếc xe rẽ vào bãi đậu xe Kohoku, Nakata đã biết gần hết những điều cần biết về chàng trai này. Có vô khối điều lão không hiểu, nhưng lão có thể hình dung được toàn cảnh cuộc đời Togeguchi, chàng trai tội nghiệp này đã cố gắng sống một cuộc đời ngay thẳng, nhưng cứ vấp phải hàng lô vấn đề.
“Đa tạ,” lão nói. “Nakata này rất cám ơn cậu đã cho đi nhờ xe.”
“Chính cháu phải cám ơn bác, bác Nakata. Giờ, cháu cảm thấy hoàn toàn thư giãn. Trước nay, cháu chưa từng nói chuyện như thế với ai bao giờ. Và cháu lấy làm mừng là đã có thể kể tất cả với bác. Cháu hy vọng đã không làm bác chán ngấy với những vấn đề của cháu.”
“Không, hoàn toàn không. Nakata cũng rất sung sướng được nói chuyện với cậu. Cậu Togeguchi, lão tin chắc những điều đại cát sắp đến với cậu.”
Chàng trai lấy trong ví ra một chiếc thẻ điện thoại đưa cho Nakata. “Xin bác nhận lấy chiếc thẻ này. Đây là sản phẩm của công ty cháu. Hãy coi đây như một món quà chia tay. Cháu những muốn có cái gì hay hơn để tặng bác.”
“Cám ơn rất nhiều,” Nakata nói và cẩn thận nhét chiếc thẻ vào ví mình. Lão chẳng có ai quen để gọi điện thoại, cũng không biết cách dùng thẻ ra sao, nhưng lão nghĩ cứ nhận cho lịch sự. Lúc này là ba giờ chiều.
Phải mất thêm một tiếng nữa mới kiếm được một tài xế xe tải đồng ý cho lão đi nhờ đến Fujigawa. Đó là một người to béo trạc ngoại tứ tuần, tay như khúc gỗ, bụng phệ, chở cá tươi trên xe đông lạnh.
“Mong bác không phiền vì mùi cá,” người lái xe nói.
“Cá là một trong những món ăn ưa thích của Nakata này,” Nakata đáp.
Người lái xe cả cười. “Bác quả là một người kỳ dị.”
“Đôi khi người ta cũng bảo lão thế.”
“Tôi lại thích những ngư̖ kỳ dị,” người lái xe nói. “Những người coi bộ bình thường và sống một cuộc sống bình thường lại chính là những kẻ ta phải đề phòng.”
“Thế ư?”
“Hãy tin tôi, đời nó thế đấy. Dù sao đó cũng là ý kiến của tôi.”
“Nakata này không có nhiều ý kiến. Tuy nhiên, lão thích lươn.”
“Tốt, thích lươn cũng là một ý kiến.”
“Lươn cũng là một ý kiến à?”
“Tất nhiên, bác nói bác thích lươn, đó là một ý kiến.”
Cứ thế hai người đi đến Fujigawa. Người lái xe nói tên anh ta là Hagita.
“Vậy bác nghĩ thế giới này rồi sẽ ra sao, bác Nakata?” anh ta hỏi.
“Xin lỗi, lão không phải là người thông minh, lão mù tịt về chuyện í,” Nakata nói.
“Có ý kiến riêng và không thông minh là hai chuyện khác nhau.”
“Nhưng thưa cậu Hagita, không thông minh thì làm sao nghĩ được về chuyện í.”
“Nhưng bác chả nói bác thích lươn là gì.”
“Phải, lươn là một trong những món ưa thích của Nakata này.”
“Đó là một mối liên quan, bác thấy không?”
“Ừm.”
“Bác có thích cơm gà với trứng không?
“Có, đó cũng là một món ưa thích của Nakata này.”
“Ấy đấy, lại một tương quan nữa,” Hagita nói. “Cứ lần lượt lập những tương quan là tự khắc hình thành ý nghĩa lúc nào không biết. Càng nhiều tương quan, ý nghĩa càng sâu. Bất kể là lươn hay cơm gà, hay cá nướng. Bác hiểu không?”
“Không, lão vẫn không hiểu. Thức ăn cũng liên quan với các sự vật ư?”
“Không chỉ thức ăn. Xe điện, hoàng đế, tất tật.”
“Cơ mà lão không bao giờ đi xe điện.”
“Hay đấy. này nhé, điều tôi muốn nói là: chỉ riêng việc ta đang sống đã thiết lập một mối liên hệ giữa ta với sự vật xung quanh, bất kể chúng là gì. Điều quan trọng là phải xem điều đó diễn ra có tự nhiên hay không. vấn đề không phải thông minh hay đần độn, mà là nhìn sự vật bằng đôi mắt của chính mình.”
“Cậu Hagita, cậu rất chi là thông minh.”
Hagita cười phá lên. “Đã bảo đây không phải là vấn đề thông minh mà. Tôi chẳng thông minh gì lắm đâu. Tôi chỉ có cách nghĩ riêng của mình thôi. Vì thế người ta ngán tôi. Họ kết tội tôi là luôn luôn nhiễu sự. Hễ anh dùng đầu mình để suy nghĩ là thiên hạ không muốn dây với anh.”
“Nakata này vẫn chưa hiểu, cơ mà cậu vừa nói là có một mối liên hệ giữa việc thích ăn lươn với việc thích cơm gà trộn trứng phải không?”
“Tôi nghĩ bác có thể diễn đạt theo cách ấy. Bao giờ cũng có một mối liên quan giữa bác, ông già Nakata, với những thứ mà bác quan tâm tới. Cũng như có một mối liên quan giữa lươn và cơm gà. Và khi mạngới những liên quan đó phát triển rộng ra, tự khắc sẽ hình thành một mối liên quan giữa bác, ông già Nakata, với các nhà tư bản và giai cấp vô sản.”
“Vô gì?”
“Giai cấp vô sản,” Hagita nói, cất tay khỏi vô lăng, khoa lên. Hai bàn tay to tướng như găng bóng chày, Nakata nghĩ thế. “Những con người làm lụng cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm miếng cơm, đó là giai cấp vô sản. Ngược lại, có những kẻ ngồi mát ăn bát vàng, không động một ngón tay, chỉ ra lệnh cho người khác mà hưởng gấp trăm lần lương tôi. Đó là bọn tư bản.”
“Lão không biết gì về những người cậu gọi là tư bản. Nakata này nghèo, đâu có biết ai quyền quý như thế. Người quyền quý nhất lão biết là ngài Tỉnh trưởng Tokyo. Ngài Tỉnh trưởng có phải là một nhà tư bản không?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 12:30:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20 (tiếp)


“Phải, tôi chắc thế. Tuy nhiên, các tỉnh tưởng dễ là chó kiểng của bọn tư bản hơn.”
“Ngài Tỉnh trưởng là một con chó ư?” Nakata nhớ đến con chó đen kếch sù đã đưa lão đến nhà Johnnie Walker, và hình ảnh dễ sợ ấy cùng ngài Tỉnh trưởng chồng lên nhau trong tâm trí lão.
“Thế giới này nhan nhản những loại chó như thế. Những quân cờ của bọn tư bản.”
“Quân cờ?”
“Tức là những con chó ngoan ngoãn tuân lệnh chủ.”
“Thế có mèo tư bản không?”
Hagita cười phá lên. “Chà, bác Nakata, bác thật khác người. Nhưng tôi thích cái cách của bác. Mèo tư bản! Thật là hay. Bác có một ý kiến rất chi là độc đáo.”
“Cậu Hagita này...”
“Gì vậy bác?”
“Vì lão nghèo nên ngài Tỉnh trưởng cấp cho lão một món chợ cấp hàng tháng. Việc lão nhận chợ cấp có phải là sai trái không?”
“Mỗi tháng bác được bao nhiêu?”
Nakata cho anh ta biết số tiền.
Hagita lắc đầu, vẻ ghê tởm. “Thật khó mà sống nổi với một món tiền bọ ấy.”
“Được chứ, vì Nakata này có tiêu gì mấy đâu. Ngoài chợ cấp, lão còn kiếm thêm bằng cách giúp người ta tìm mèo lạc.”
“Không đùa đấy chứ? Một tay tìm mèo chuyên nghiệp?” Hagita nói, vẻ thán phục. “Tôi phải nói bác là một quái kiệt.”
“Tình thật, lão biết nói chuyện với mèo,” Nakata nói. “Lão có thể hiểu chúng nói gì. Điều đó giúp lão tìm ra những con bị mất tích.”
Hagita gật đầu. “Tôi chắc điều đó không ngoài tầm của bác.”
“Thế nhưng cách đây không lâu, lão phát hiện ra là mình không nói chuyện với mèo được nữa. Lão không hiểu tại sao.”
“Sự vật thay đổi từng ngày, bác Nakata ạ. Mỗi sớm thức dậy, thấy thế giới không còn như hôm trước nữa. Bản thân mình cũng không còn là con người từng là mình hôm qua. Bác hiểu tôi muốn nói gì chứ?”
“Vâng.”
“Những mối liên quan cũng thay đổi. Ai là tư bản, ai là vô sản. Ai thuộ cánh hữu, ai thuộc cánh tả. Cách mạng thông tin, cổ phiếu, biến động vốn, tái cấu trúc nghề nghiệp, công ty đa quốc gia – cái gì tốt, cái gì xấu? Ranh giới giữa sự vật không ngừng được xóa nhòa. Có lẽ vì thế mà bác không nói chuyện được với mèo nữa.”
“Nakata này chỉ có thể phân biệt được tả với hữu. Đây là hữu, còn đây là tả. Đúng không?”
“Chính xác,” Hagita đồng ý. “Đó là tất cả những gì bác cần biết.”
Cuối cùng, họ cùng ăn với nhau một bữa trong tiệm ăn ở khu nghỉ chân. Hagita gọi hai suất lươn và khi Nakata đòi trả tiền để cám ơn anh đã cho đi nhờ, anh lắc đầu quầy quậy.
“Không được,” anh nói. “Tôi không đời nào để bác dùng cái khoản tiền còm người ta trợ cấp cho bác để đãi tôi đâu.”
“Vậy thì đa tạ. cám ơn cậu về bữa ăn ngon,” Nakata nói, vui vẻ chấp nhận sự hảo tâm của Hagita.
Nakata bỏ cả một tiếng đồng hồ ở khu tạm nghỉ Fujigawa đi hỏi các lái xe, nhưng không tìm được ai thuận tình cho quá giang. Tuy nhiên, lão vẫn không hoảng sợ hoặc buồn bã. Trong ý thức của lão, thời gian qua rất chậm. Hoặc gần như ngưng đọng.
Lão ra ngoài cho thoáng và lang thang đây đó. Trời không một vẩn mây, trăng sáng vằng vặc. Nakata dạo quanh bãi đậu xe đầy những chiếc xe tải to đùng như những con vật khổng lồ vai kề vai nằm nghỉ. Một số xe có ít nhất là hai mươi bánh, mỗi bánh cao bằng đầu người. Ngần nấy xe đều chạy trên xa lộ vào đêm khuya, không biết chở gì bên trong nhỉ? Nakata không thể hình dung nổi. Nếu mình đọc được những chữ viết trên thành xe, liệu mình có thể đoán ra không nhỉ? Lão
Sau khoảng một tiếng đồng hồ, lão phát hiện ra độ chục chiếc mô-tô ở một góc của bãi đậu, nơi có ít ô-tô hơn. Một nhóm thanh niên đứng thành vòng tròn gần đó, xem một cái gì và la hét. Tò mò, Nakata tiến lại gần. có thể bọn họ đã khám phá ra một cái gì bất thường.
Khi đến gần hơn, lão thấy là họ đang vây quanh một người nằm dưới đất và đang đấm đá người đó – nói chung là ráng hết sức làm cho anh ta đau. Hầu hết đều tay không trừ một gã cầm một dây xích và một gã khác cầm một cây gậy ngắn màu đen nom giống như dùi cui cảnh sát. Họ mặc sơ mi cộc tay không cài khuy, một số mặc áo phông. Phần lớn đều nhuộm tóc vàng hoặc nâu, một số xăm hình trên cánh tay. Người thanh niên bị họ đang đấm đá cũng ăn vận tương tự như thế.
Khi Nakata tới gần, đầu nhọn của chiếc ô gõ lách cách trên mặt đất rải nhựa khiến vài gã chột dạ quay lại nhìn lão trừng trừng, nhưng trấn tĩnh lại khi thấy đó chỉ là một ông già vô hại. “Này, bố già phắn đi!” một gã quát.
Tỉnh bơ, Nakata bước lại gần hơn. Người nằm dưới đất ứa máu mồm. “Máu đang chảy ra kìa,” Nakata nói. “Khéo cậu ấy chết mất.”
Bị bất ngờ, bọn kia không kịp phản ứng.
“Liệu đấy, bố già, kẻo tụi tôi giết cả bố luôn thể,” gã cầm xích nói. “Giết một hay hai cũng vậy thôi, chả khó khăn gì hơn.”
“Các cậu không thể giết người vô cớ,” Nakata nài nỉ.
“Các cậu không thể giết người vô cớ,” một gã nhại lại và cả bọn cười ồ lên.
“Tụi này có cớ đấy anh ạ,” một gã khác nói. “Với lại, tụi này có giết nó hay không, cũng chẳng bận gì đến anh già. Vậy nên hãy xách cái ô thổ tả của anh già mà biến đi trước khi trời đổ mưa.”
Người nằm dưới đất bắt đầu trườn lên và một gã đầu trọc liền xông tới đá thật mạnh vào sườn anh ta bằng đôi ủng lao động.
Nakata nhắm mắt lại. Lão cảm thấy một cái gì dâng lên bên trong mình, không kiểm soát nổi, khiến lão hơi buồn nôn. Lão chợt nhớ lại lúc đâm Johnnie Walker. Bàn tay lão còn nguyên cái cảm giác khi cầm dao cắm vào ngực một con người. Liên quan. Phải chăng đây là một trong những mối liên quan cậu Hagita đã nhắc tới ban nãy? Lươn = dao = Johnnie Walker? Tiếng của bọn thanh niên trộn vào nhau méo mó, không tách biệt, hòa với tiếng bánh xe rào rạo không dứt trên xa lộ thành một âm thanh kỳ lạ. Tim lão dồn đẩy máu đến tận những đầu mút của cơ thể trong khi đêm tối bao quanh lão.
Nakata nhìn lên trời rồi chậm rãi mở ô, giương lên che đầu. Rất thận trọng, lão lùi lại sau mấy bước, mở một khoảng cách giữa lão với bọn kia. Lão nhìn quanh rồi lùi thêm vài bước nữa.
Thấy vậy, bọn thanh niên cười hô hố. “Này, nom anh già kìa,” một gã nói. “Anh già giương ô lên thật kìa!”
Nhưng chúng không cười được lâu. Bất thình lình, những vật bầy nhầy từ trên trời rơi xuống đất bồm bộp ngay sát chân chúng. Chúng ngừng đá nạn nhân của mình và ngước nhìn trời. Không một đám mây, vậy mà rành là từ một chỗ trên trời, những vật đó vẫn nối tiếp nhau rơi xuống. Mới đầu còn lác đác, rồi dần dần dồn dập hơn, thành một trận mưa rào thực sự, trút xuống chúng những vật nhỏ đen đen dài độ hơn ba phân. Trong ánh đèn của bãi đậu xe, nom như tuyết đen lấp lánh đang rơi xuống vai, cổ và cánh tay đám thanh niên rồi dính chặt vào đấy. Chúng cuống cuồng tìm cách dứt những vật ấy ra mà không được
“Đỉa!” một gã la lớn.
Như tuân theo một hiệu lệnh, cả lũ kêu ầm lên và chạy qua bãi đậu xe về phía nhà vệ sinh. Một gã tóc vàng đâm sầm vào một chiếc xe hơi, ngã nhào xuống đất. Gã bật dậy, vung tay đấm lên capô và lớn tiếng chửi người lái xe. Tuy nhiên, gã dừng lại ở mức đó và tập tễnh đi về phía nhà vệ sinh.
Cơn mưa đỉa ập xuống ào ào một lúc, ngớt dần rồi tạnh hẳn. Nakata cụp ô lại, phủi những con đỉa bám vào quần áo và trở lại xem người bị đánh ra sao. Một đống đỉa nhung nhúc xung quanh và phủ lên anh ta khiến lão không thể đến gần hơn. Nhìn thật kỹ, Nakata có thể thấy máu rỉ ra từ hai mí mắt bị rách và mấy chiếc răng bị gãy. Nakata biết một mình lão thì không thể xoay xở được nên chạy về tiệm ăn bảo một nhân viên là có người bị thương nằm ở bãi đậu xe. “Cậu nên gọi cảnh sát mau kẻo cậu ta chết mất.” lão nói.
Sau đó không lâu, Nakata tìm được một tay lái xe tải đồng ý cho lão quá giang đến Kobe. Một gã khoảng hai mươi lăm, hai sáu tuổi, mắt gà gà như buồn ngủ, không cao lắm, để tóc đuôi ngựa, đeo khuyên tai và đội chiếc mũ của đội bóng chày Chunichi Dragons. Gã ngồi trong tiệm ăn, vừa hút thuốc vừa xem một cuốn truyện tranh. Một chiếc sơ mi Hawai sặc sỡ và đôi giày Nike quá cỡ hoàn tất trang phục của gã. Gã vẩy tàn thuốc lá vào mấy sợi mì còn sót lại trong bát, trừng trừng nhìn Nakata rồi gật đầu với vẻ miễn cưỡng. “ờ, thôi được. Ông có thể đi cùng. Ông có cái gì giông giống ông nội cháu. Cung cách, hay có lẽ lối nói tựa như lạc đề của ông... Về sau, ông cụ đâm lẫn cẫn rồi chết. Cách đây mấy năm.”
Gã giải thích rằng sáng mai, xe phải đến Kobe giao đồ gỗ cho một cửa hàng lớn của thành phố này. Xe vừa ra khỏi bãi đậu đã gặp ngay một tai nạn giao thông. Hai chiếc xe tuần tra đã có mặt tại hiện trường, đèn đỏ chớp loang loáng, và một cảnh sát đang điều khiển giao thông bằng một đèn tín hiệu. Có vẻ như không đến nỗi nghiêm trọng lắm. Mấy chiếc xe va quệt nhau, thành một chiếc buýt mini bị xây xước, một chiếc đèn hậu bị vỡ.
Gã tài xế thò đầu ra cửa xe, trao đổi vài câu với một cảnh sát tuần tra, rồi quay cửa kính xe lên. “Anh ta bảo một đống đỉa từ trên trời rơi xuống,” gã nói, thản nhiên như không. “Chúng bị xe nghiền nát, làm cho đường rất trơn, và một số lái xe bị lạng tay lái. Vậy nên hãy đi từ từ và thoải mái, anh ta bảo cháu thế. Ngoài ra có một băng đảng mô-tô tính sổ với nhau, đánh một tên thừa sống thiếu chết. Đỉa và băng đảng mô-tô một sự phối kết kỳ quái! Ít nhất thì cũng làm cho cảnh sát bận rộn.”
Gã thận trọng lái về phía lối ra khỏi xa lộ. Ngay cả đi rất chậm, xe cũng đôi lần bị trượt bánh và gã tài xế khéo léo lựa tay lái, chỉnh lại ngay ngắn. “Chà, có vẻ là cả một núi đỉa ụp xuống thật, đường trơn như mỡ. Chao, đỉa, cái giống thật tởm! Ông đã bao giờ bị đỉa bám vào người chưa?”
“Chưa, theo trí nhớ của Nakata này, thì hình như chưa bao giờ,” Nakata đáp.
“Cháu lớn lên ở vùng núi Gifu và chuyện đó xảy đến với cháu bao nhiêu lần. Đang đi trong rừng, đùng một cái nó từ trên cây rơi xuống. Đang lội suối, nó lao đến bám vào bắp chân. Cháu chả lạ gì cái giống đỉa, hãy tin cháu. Một khi nó đã bám vào mình rồi thì khó rứt ra lắm. Nếu rứt một con bự, da sẽ bị tuột theo và để lại sẹo. Cho nên tốt nhất là đốt cho nó rụng xuống. Thật gớm ghiếc, cái cách nó hút máu người ta! Khi hút no, nó phình ra, nung núc, mềm nhão. Thật tởm lợm, phải không?
“Vâng, chắc chắn là thế,” Nakata đồng ý.
“Nhưng đỉa không thể từ trên trời rơi xuống một bãi đậu xe của một khu dừng chân dọc đường. Cháu chưa bao giờ nghe thấy chuyện gì vớ vẩn đến thế. Dân vùng này chẳng biết tí gì về đỉa cả. Đời thuở nào đỉa lại từ trên trời rơi xuống bao giờ?”
Nakata lặng thinh không trả lời.
“Cách đây mấy năm, một số lượng rết nhiều vô kể đồng loạt xuất hiện ở tỉnh Yamanashi và xe hơi bị trượt bánh khắp nơi. Cũng giống như thế này, đường sá trơn như mỡ gây nên rất nhiều tai nạn. rết tràn ngập cả đường sắt, xe lửa cũng không chạy được. nhưng rết không rơi từ trên trời xuống, mà từ một nơi nào đó bò ra. Bất kỳ ai cũng biết thế.”
“Lâu lắm rồi, lão đã từng sống ở Yamanashi. Trong thời gian chiến tranh.”
“Ông không đùa đấy chứ?” gã lái xe nói. “Là cuộc chiến tranh nào vậy?”


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách