Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Kafka Bên Bờ Biển | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:32:14 | Chỉ xem của tác giả

Chương 8



BÁO CÁO CỦA CỤC TÌNH BÁO QUÂN ĐỘI MỸ (MIS)
Ngày: 12 tháng Năm năm 1946
Tên: Báo cáo về sự kiện Đồi Bát Cơm, 1944
Tài liệu số: PTYX-722-8936745-42216-WWN
Dưới đây là cuộc thẩm vấn ghi âm với Tiến sĩ Shigenori Tsukayama (52 tuổi), giáo sư Khoa Tâm thần học Trường Y khoa, Đại học Hoàng gia Tokyo, diễn ra trong vòng ba giờ tại Đại bản doanh Tư lệnh Tối cao các Lực lượng Đồng minh. Các tài liệu liên quan đến cuộc thẩm vấn này có thể truy cập theo số PTYX-722-SQ-267 đến 291. [Chú thích: các tài liệu 271 và 278 bị mất]
Cảm giác của người thẩm vấn, Trung úy Robert O’Connor: Giáo sư Tsukayama rất bình tĩnh và thoải mái trong suốt cuộc thẩm vấn, như người ta có thể chờ đợi ở một chuyên gia tầm cỡ như ông. Ông là một trong những nhà tâm thần học hàng đầu ở Nhật Bản và đã xuất bản một số sách xuất sắc về vấn đề này. Không giống như phần lớn người Nhật, ông tránh những câu phát biểu mơ hồ, phân biệt rạch ròi giữa sự việc thực tế và phỏng đoán. Trước chiến tranh, ông đã ở Stanford trong khuôn khổ trao đổi và nói tiếng Anh rất thạo. Chắc chắn ông được nhiều người kính trọng và yêu mến.
Chúng tôi được lệnh của bên quân sự là phải tiến hành xem xét ngay những đứa trẻ có vấn đề. Đó là vào giữa tháng Mười một năm 1944. Đối với chúng tôi, những yêu cầu hoặc mệnh lệnh đến từ các nhà chức trách quân sự là điều thật bất thường. Tất nhiên, bên quân sự có ngành y riêng của mình và, với tư cách là một thực thể riêng biệt coi bí mật là ưu tiên hàng đầu, họ thường xử lý các vấn đề trong phạm vi nội bộ. Trừ những trường hợp hiếm hoi khi họ cần đến những kiến thức và kỹ thuật đặc biệt mà chỉ những nhà nghiên cứu hoặc thầy thuốc ngoài quân đội nắm được, họ ít khi cầu đến các nhà nghiên cứu dân sự.
Cho nên khi họ phá lệ này, chúng tôi lập tức đoán rằng một chuyện gì đó bất thường đã xảy ra. Thành thực mà nói, tôi không thích làm việc dưới sự chỉ đạo của quân đội. Trong phần lớn các trường hợp, mục đích của họ là thuần túy thực dụng, chứ không hề quan tâm đến việc theo đuổi chân lý theo nghĩa học thuật, chỉ đi đến những kết luận phù hợp với những tiên kiến của họ. Họ không phải loại người tuân thủ lô-gích. Nhưng đây là thời chiến và chúng tôi không thể nói không. Chúng tôi phải im miệng và làm đúng những gì họ sai bảo.
Chúng tôi vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu của mình, bất chấp các cuộc không kích của Mỹ. Khốn nỗi, phần lớn sinh viên của chúng tôi đã bị động viên và sinh viên Khoa Tâm thần học cũng không được miễn quân dịch. Khi lệnh của bên quân sự đến, chúng tôi bỏ hết mọi công việc và đáp tàu đến [tên bị xóa] ở tỉnh Yamanashi. Chúng tôi có ba người: bản thân tôi, một đồng nghiệp cũng ở Khoa Tâm thần học và một bác sĩ ở Khoa Giải phẫu thần kinh.
Vừa tới nơi, họ đã cảnh báo chúng tôi rằng điều mà họ sắp cho chúng tôi biết là một bí mật mà chúng tôi không bao giờ được để lộ. rồi họ kể với chúng tôi về cái sự kiện xảy ra hồi đầu tháng. Mười sáu học sinh đã bất đồi, sau đó mười lăm em đã hồi tỉnh mà hoàn toàn không nhớ điều gì đã xảy ra. Theo lời họ, một bé trai đã không tỉnh lại và hiện vẫn đang ở trong một viện quân y ở Tokyo.
Ông bác sĩ – thiếu tá quân đội đã khám bọn trẻ ngay sau khi xảy ra chuyện, một chuyên gia nội khoa tên là Toyama – đã giải thích cặn kẽ cho chúng tôi về điều đã xảy ra. Nhiều bác sĩ quân đội thường giống những kẻ quan liêu chỉ lo bảo vệ quyền lợi riêng của mình, nhưng may thay, Thiếu tá Toyama không thuộc loại đó. Ông ta trung thực và thẳng thắn, và hiển nhiên là một bác sĩ tài giỏi. Ông không bao giờ viện cớ chúng tôi là dân sự để át giọng hoặc giấu giếm chúng tôi điều gì, như một số người có thể làm thế. Ông cung cấp mọi chi tiết chúng tôi cần, một cách rất chuyên nghiệp và cho chúng tôi xem những hồ sơ y tế về lũ trẻ. Ông muốn đi vào cốt lõi của vấn đề. Tất cả chúng tôi đều có ấn tượng rất tốt về ông.
Điều quan trọng nhất chúng tôi gạn lọc ra từ những hồ sơ là, về mặt y học, sự cố này không gây hậu quả lâu dài đối với bọn trẻ. Từ ngay sau bữa đó cho đến hôm nay, các cuộc khám và xét nghiệm đều không phát hiện thấy có gì bất bình thường bên ngoài cũng như bên trong nội tạng. Bọn trẻ tiếp tục sống khỏe mạnh như trước khi xảy ra sự kiện đó. Những cuộc khám kỹ lưỡng cho thấy một trong số bọn trẻ có ký sinh trùng, nhưng không có gì nghiêm trọng. Ngoài ra, chúng hoàn toàn không có triệu chứng gì – không đau đầu, đau nhức, buồn nôn, kém ăn, mất ngủ, đờ đẫn, ỉa chảy, ác mộng. Hoàn toàn không.
Điều đặc biệt duy nhất là cả quãng thời gian hai tiếng đồng hồ bất tỉnh trong vùng đồi đã bị xóa sạch khỏi trí nhớ của lũ trẻ. Cứ như thể toàn bộ cái phần ấy đã bị lược đi. Đó là một sự thiếu hụt trí nhớ, chứ không phải mất trí nhớ. Từ này không phải là thuật ngữ y học, tôi dùng nó cho tiện thôi, nhưng có một sự khác biệt lớn giữa mất và thiếu hụt. Tôi đồ rằng nó tựa như... ờ phải, hãưởng tượng một đoàn tàu hàng chạy trên đường sắt. Hàng hóa biến khỏi một toa và toa rỗng không – thế gọi là mất. Nhưng nếu cả cái toa ấy bốc hơi, thì là thiếu hụt.
Chúng tôi bàn cãi về khả năng bọn trẻ hít phải hơi độc. Bác sĩ Toyama nói rằng dĩ nhiên họ đã xem xét giả thuyết này. Chính vì thế mà quân đội can dự vào, ông nói với chúng tôi, nhưng xem ra xác suất là rất nhỏ. Ông nói tiếp: Song đây là bí mật quân sự, các vị không được nói với ai. Quả là quân đội đang phát triển hơi độc và vũ khí sinh học, nhưng việc này được tiến hành bởi một đơn vị đặc biệt ở nội địa Trung Hoa, chứ không phải ở trên chính đất Nhật. Đó là một dự án rất nguy hiểm, không thể thực thi ở nơi đông dân như Nhật Bản được. Tôi không thể nói với các vị là những thứ vũ khí ấy có được tàng trữ ở nơi nào trên đất Nhật hay không, nhưng tôi có thể đảm bảo dứt khoát với các vị rằng chúng không được giữ ở bất cứ nơi nào trong tỉnh Yamanashi.
- Vậy là ông ta dứt khoát phủ nhận việc tàng trữ vũ khí đặc biệt ở trong tỉnh?
Đúng. Ông ta rất rõ ràng về điểm này. Về cơ bản, chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc tin ông ta, vả chăng, xem ra ông ta là người có thể tin được. Chúng tôi cũng kết luận rằng không có lẽ hơi độc lại được ném xuống từ một chiếc máy bay B-29. Nếu người Mỹ đã thực sự phát triển một vũ khí như thế, và quyết định dùng nó, họ ắt phải ném nó xuống một thành phố lớn mới gây được tác hại hàng loạt chứ. Ném một, hai trái bom hơi độc xuống một nơi hẻo lánh sẽ không cho phép họ xác định được hiệu quả của nó. Vả chăng, ngay cả nếu ta chấp nhận giả thuyết là một quả bom hơi độc đã được ném xuống đó, thì cái thứ hơi độc chỉ làm trẻ con bất tỉnh hai giờ mà không có tác hại lâu dài nào khác cũng là vô giá trị về mặt quân sự.
Chúng tôi cũng biết rằng không một thứ hơi độc nào, dù là nhân tạo hay tự nhiên, lại tác động như thế, chẳng để lại hậu quả gì hết. Nhất là khi áp dụng với trẻ con, vốn nhạy cảm hơn người lớn và có hệ miễn dịch yếu hơn, lẽ ra phải có chút hậu quả nào chứ, đặc biệt với mắt hoặc màng nhầy. Chúng tôi loại trừ khả năng ngộ độc thức ăn cũng vì lý do ấy.
Vậy chỉ còn lại những vấn đề tâm lý hoặc những vấn đề liên quan đến chức năng não. Trong trường hợp như vậy, phương pháp y học tiêu chuẩn sẽ không giúp gì vào việc cách ly nguyên nhân. Hậu quả có thể sẽ không thấy được và không định lượng được. Cuối cùng, chúng tôi hiểu ra tại sao bên quân đội lại gọi chúng tôi đến để tham vấn.
Chúng tôi phỏng vấn riêng từng đứa trẻ mắc vào sự cố cũng như cô giáo chủ nhiệm và bác sĩ điều trị. Thiếu ta Toyama cũng tham dự. Nhưng những cuộc phỏng vấn ấy hầu như không đem lại điều gì mới, mà chỉ giúp chúng tôi xác nhận những gì ông thiếu tá đã nói với chúng tôi. Lũ trẻ không nhớ tí gì về sự kiện đó. Chúng nhìn thấy một cái gì giống như máy bay lấp lánh tít trên trời, chúng trèo lên Owan yama (Đồi Bát Cơm) và bắt đầu tìm nấm. Thế rồi có một khoảng trống trong thời gian và điều tiếp theo chúng nhớ được là thấy mình nằm trên mặt đất, xung quanh là những bộ mặt lo lắng của các thầy cô giáo và cảnh sát. Chúng cảm thấy ổn, không đau đớn, khó chịu hoặc buồn nôn gì cả. Chúng chỉ cảm thấy đầu hơi trống rỗng như mới thức giấc vào sáng sớm. Chỉ có thế thôi. Đứa nào cũng trả lời hệt như thế.
Sau khi tiến hành các cuộc phỏng vấn đó, chúng tôi kết luận rằng đây là một ‘ca’ hôn mê hàng loạt. những triệu chứng mà cô giáo chủ nhiệm và ông bác sĩ của nhà trường quan sát được tại chỗ cho thấy giả thuyết này là có lý nhất: nháy mắt đều đặn, nhịp thở, mạch và nhiệt độ đều hơi hạ, trí nhớ hụt hẫng – tất cả đều ứng hợp. chỉ có cô giáo là không bị ngất bởi lẽ cái chất gây nên sự hôn mê hàng loạt này, không hiểu vì lý do gì, không có tác động đối với người lớn.
Tuy nhiên, chúng tôi không thể xác định được nguyên nhân. Nói chung, phải có hai yếu tố mới sinh ra hôn mê tập thể. Thứ nhất, tập thể đó phải gắn bó chặt chẽ và đồng nhất, lại bị đặt trong hoàn cảnh bó hẹp. Thứ hai, phải có cái gì phát động phản ứng, một cái gì tác động cùng một lúc lên tất cả mọi người. Trong trường hợp cụ thể này, tác nhân đó có thể là cái ánh lấp lánh của chiếc máy bay mà chúng đã nhìn thấy. Xin nhớ, đây chỉ là một giả thuyết – chúng tôi không tìm thấy tác nhân nào khác – và rất có thể có một nhân tố nào khác đã khởi phát hiện tượng này. Tôi trình bày với Thiếu tá Toyama giả thuyết về một “ca” hôn mê tập thể, nhấn mạnh đó chỉ là một phỏng đoán. Nói chung, hai đồng nghiệp của tôi cũng đồng ý. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên: điều này lại gián tiếp liên quan đến một đề tài nghiên cứu mà chính chúng tôi đang thực hiện.
“Có vẻ như khớp với những bằng chứng,” Thiếu tá Toyama nói sau một lát suy nghĩ. “Đây không phải là lĩnh vực của tôi, nhưng xem ra đây là cách giải thích có lý nhất. Nhưng có một điều tôi không hiểu: điều gì làm cho chúng thoát ra khỏi cơn hôn mê? Chắc phải có một thứ cơ chế khởi động nghịch đảo chứ?”
Tôi thừa nhận là mình thực sự không biết. Tôi chỉ có thể suy biện mà thôi. Giả thuyết của tôi là thế này: cơn hôn mê có thể đã được lập trình để tự động chấm dứt sau một quãng thời gian nào đó. Cơ thể con người có một cơ chế tự vệ rất mạnh; nếu một hệ thống bên ngoài tạm thời chiếm lĩnh, thì chỉ sau một quãng thời gian, nó sẽ phản ứng tựa như rung chuông báo động, khởi động một hệ thống đột xuất để hóa giải cái hệ thống ngoại lai (trong trường hợp này là cơn hôn mê) đang chặn đứng cơ chế tự vệ nội
Rủi thay, tôi không có sẵn tư liệu trong tay nên không thể dẫn ra những con số chính xác, nhưng tôi đã nói với Thiếu tá Toyama, đã có những báo cáo về những sự kiện tương tự xảy ra ở nước ngoài. Tất cả những vụ đó đều được coi như những bí ẩn không giải thích một cách lô-gích được. Một số lớn trẻ con đồng thời bất tỉnh rồi vài giờ sau hồi tỉnh mà không nhớ điều gì đã xảy ra.
Nói cách khác, sự kiện này rất khác thường nhưng không phải không có tiền lệ. Một thí dụ kỳ lạ đã diễn ra vào khoảng năm 1930 ở ven một làng thuộc Devonshire, nước Anh. Chẳng vì lý do cụ thể nào, một nhóm ba mươi học sinh trung học phổ thông lần lượt gục ngã bất tỉnh trên một con đường nông thôn. Mấy giờ sau, như không có chuyện gì xảy ra, tất cả hồi tỉnh và tự đi bộ về trường. Một thầy thuốc đã khám ngay cho chúng, nhưng không phát hiện thấy điều gì không ổn về mặt y học. Không một đứa nào nhớ được điều gì đã xảy ra.
Vào cuối thế kỷ trước, một sự cố tương tự đã xảy ra ở Úc. Ở ngoại thành Adelaide, mười lăm nữ sinh một trường nữ học tư thục đã bất tỉnh trong một cuộc đi chơi ngoại khóa, rồi tỉnh lại. Đây cũng lại không có tổn thương nào, không có hậu quả gì. Cuối cùng, chuyện này được xếp loại là một “ca” say nhiệt, nhưng tất cả đã ngất rồi tỉnh lại gần như cùng một lúc mà không ai bộc lộ triệu chứng say nhiệt cả, nên nguyên nhân thực sự vẫn là một bí ẩn. Thêm nữa, hôm xảy ra chuyện ấy không phải là một ngày đặc biệt nóng. Có lẽ họ kết luận như thế vì không có cách giải thích nào khác.
Những trường hợp kể trên có một số điểm chung: xảy đến với một nhóm trẻ nhỏ, trai hoặc gái, ở cách trường chúng khá xa, tất cả đều bị bất tỉnh, về cơ bản là đồng thời rồi cùng tỉnh dậy một lúc mà không bộc lộ hậu quả gì. Theo báo cáo, một số người lớn đ bọn trẻ cũng bị ngất, còn một số thì không. Về điểm này, mỗi trường hợp một khác.
Còn có một số sự kiện khác tương tự, nhưng hai trường hợp này là có đầy đủ tài liệu nhất và do đó trở thành những “ca” tiêu biểu cho hiện tượng này. Tuy nhiên, thí dụ gần đây ở tỉnh Yamanashi chứa đựng một yếu tố khiến nó khác biệt với những trường hợp khác: cụ thể là có một bé trai không tỉnh lại. Đứa bé này là chìa khóa để mở ra sự thật về toàn bộ biến cố này. Chúng tôi trở về Tokyo sau những cuộc phỏng vấn ở Yamanashi và đến thẳng viện quân y nơi thằng bé được điều trị.
- Vậy là quân đội chỉ quan tâm đến sự cố này vì họ ngờ rằng nó có thể gây nên bởi hơi độc?
Theo tôi hiểu thì là thế. Nhưng thiếu tá Toyama chắc biết rõ hơn và tôi đề nghị các ông nên trực tiếp hỏi ông ấy.
- Thiếu tá Toyama đã chết trong một trận không kích ở Tokyo hồi tháng Ba năm 1945 trong khi thi hành công vụ.
Tôi lấy làm tiếc khi nghe tin đó. Chúng ta mất bao nhiêu người tài giỏi trong chiến tranh.
- Tuy nhiên, cuối cùng, quân đội kết luận đây không phải do loại vũ khí hóa học nào gây ra. Họ không thể xác định được nguyên nhân, nhưng họ lại khẳng định – có phải thế không? – rằng sự việc này không liên quan gì với cuộc chiến.
Phải, tôi nghĩ đúng là như vậy. Đến đoạn đó là họ kết thúc cuộc điều tra. Nhưng thằng bé Nakata vẫn được ở lại viện quân y vì đích thân Thiếu tá Toyama quan tâm đến “ca” này và có quan hệ với những người phụ trách ở đây. Thành thử chúng tôi có thể đến bệnh viện hàng ngày và thay phiên nhau trực đêm để tìm hiểu kỹ hơn trường hợp của đứa bé bất tỉnh này từ nhiều góc độ khác nhau.
Mặc dù bất tỉnh, các chức năng cơ thể của thằng bé vẫn tiếp tục bình thường. Nó được tiêm chất dinh dưỡng qua đường ven và tiểu tiện với những khoảng cách đều đặn. Ban đêm, nó nhắm mắt ngủ khi chúng tôi tắt đèn và mở mắt lại vào buổi sáng. Ngoài việc mất ý thức, nó có vẻ hoàn toàn khỏe mạnh. Nó ở trong một cơn hôn mê, nhưng rõ ràng là nó không mơ. Khi người ta mơ, điều đó bộc lộ ra bằng những cử động đặc biệt của nhãn cầu hoặc những sắc thái của nét mặt. Nhịp tim tăng lên khi phản ứng với những gì thấy trong mơ. Nhưng với Nakata, chúng tôi không thể phát hiện thấy bất cứ dấu hiện tương tự nào. Nhịp tim, nhịp thở và nhiệt độ của nó vẫn hơi thấp, nhưng ổn định một cách lạ lùng.
Nói thế này nghe cũng kỳ, nhưng quả là cứ như thằng cu Nakata thật đã đi chơi đâu, tạm thời để lại cái vỏ xác và cái vỏ xác này, trong khi nó đi vắng, vẫn duy trì mọi chức năng cơ thể ở mức tối thiểu cần thiết để tự bảo toàn. Cái cụm từ “hồn thoát xác” vụt đến trong óc. Ông có biết cụm từ ấy không? Tuyện dân gian Nhật Bản đầy những thứ như vậy: hồn tạm thời rời khỏi xác, đi đến một nơi rất xa để lo một việc có tính chất sống còn nào đó, rồi trở về nhập lại vào xác. Cái loại hồn mang thù hận trong Truyện Genji có một cái gì tương tự như thế. Cái khái niệm cho rằng hồn không chỉ lìa khỏi xác khi chết mà còn có thể tách khỏi xác người còn sống khi ý muốn đó đủ mạnh, có lẽ là một ý tưởng đã bắt rễ ở Nhật Bản từ thời cổ đại. Dĩ nhiên, chẳng có bằng chứng khoa học nào về hiện tượng đó và tôi thậm chí còn thấy e ngại không dám nêu ý kiến đó.
Vấn đề thực tế trước mắt chúng tôi là làm sao kéo thằng bé ra khỏi cơn hôn mê và trả nó về trạng thái ý thức. Chúng tôi xoay xở đủ mọi cách để tìm ra một cơ cấu khởi động nghịch đảo nhằm hóa giải tình trạng hôn mê. Chúng tôi đưa cha mẹ nó đến, bảo họ kêu tên nó thật to. Làm thế mấy ngày, chẳng có phản ứng gì cả. Chúng tôi thử mọi ngón trong sách dạy xử lý hôn mê – vỗ tay theo nhiều cách trước mặt nó. Chúng tôi mở những đĩa nhạc nó thích, đọc to những bài học của nó, cho nó ngửi món ăn ưa thích của nó. Thậm chí chúng tôi còn mang theo con mèo nó đặc biệt yêu quý đến. Chúng tôi dùng mọi phương pháp có thể nghĩ ra để đưa nó trở về thực tại, nhưng vẫn không đem lại kết quả.
Qua gần hai tuần đánh vật, khi chúng tôi đã cạn sáng kiến, mệt lử và nản chí, thì đùng một cái, thằng bé tự nó tỉnh dậy. Không phải do bất kỳ cái gì chúng tôi đã làm. Không hề báo trước, như thể thời điểm này đã được định sẵn, nó hồi tỉnh.
- Hôm ấy, có điều gì khác thường xảy ra không?
Chẳng có gì đáng kể. Đó là một ngày như mọi ngày khác. Vào lúc mười giờ sáng, cô y tá đến để lấy mẫu máu xét nghiệm. Ngay sau đó, nó hơi bị ngạt và một chút máu rớt trên ga giường. Chẳng mấy tí và người ta đã cho thay ga giường ngay. Đó có lẽ là điều khác thường duy nhất trong ngày hôm ấy. Khoảng nửa giờ sau đó thì thằng bé tỉnh dậy. Đùng một cái, nó ngồi nhổm dậy trên giường, vươn vai và nhìn quanh phòng. Nó đã trở lại trạng thái ý thức và hoàn toàn ổn về phương diện y học. Tuy nhiên, chúng tôi sớm nhận ra rằng nó đã hoàn toàn mất trí nhớ. Thậm chí nó không nhớ nổi tên mình. Nơi nó đã sống, ngôi trường của nó, mặt cha mẹ nó, tất cả đã bị xóa sạch trong đầu. Nó không còn biết đọc và thậm chí không có khái niệm gì về nước Nhật hay TrĐất nữa. Nó đã trở về thế giới này với đầu óc sạch trơn. Như một tờ giấy trắng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:33:53 | Chỉ xem của tác giả

Chương 9


Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm như một khúc gỗ trên đất ẩm giữa bụi rậm. Trời tối quá, tôi chẳng nhìn thấy gì.
Dựa đầu lên bụi mâm xôi tua tủa gai, tôi hít một hơi thật sâu và ngửi thấy mùi cây, mùi đất lẫn với mùi cứt chó khăm khẳm. Tôi nhìn thấy trời đêm qua những cành cây. Vắng trăng sao, nhưng trời sáng một cách kỳ lạ. Mây như tấm bình phong phản chiếu tất cả ánh sáng từ bên dưới. Xa xa, tiếng còi xe cấp cứu rền rĩ, lại gần hơn rồi nhỏ bặt dần. Lắng tai nghe thật kỹ, tôi có thể nhận ra tiếng bánh xe chạy rào rạo trên đường. Tôi đoán mình hẳn đang ở một chỗ nào đó trong thành phố.
Tôi cố tĩnh trí lại và gom lượm các mảnh của bản ngã tôi vương vãi khắp xung quanh như những miếng rời của một trò chơi ghép hình. Đây là lần đầu tiên mình ở trong hoàn cảnh thế này, tôi nghĩ. Hay là không phải? Tôi đã có cái cảm giác này ở đâu đó, trước đây. Nhưng vào thời điểm nào? Tôi lục lọi trí nhớ, nhưng sợi chỉ mỏng manh ấy liền đứt phựt. Tôi nhắm mắt lại và để mặc thời gian trôi qua.
Tôi giật nảy mình hoảng hốt khi chợt nhớ đến chiếc ba lô. Tôi đã để nó ở đâu nhỉ? Không thể để mất nó được: tất cả những gì tôi sở hữu đều ở trong đó. Nhưng làm sao tôi có thể tìm ra nó trong đêm tối? Tôi ráng đứng dậy, nhưng chân tay tôi đã kiệt lực, rã rời.
Tôi cố giơ bàn tay trái lên - sao đột nhiên nó lại nặng thế? - và gí chiếc đồng hồ vào sát mặt, dõi mắt vào nó thì đọc thấy: 23g26 ngày 28 tháng Năm71;n cuối nhật ký của mình. 28 tháng Năm... tốt - vậy là tôi đã không mất ngày nào. Tôi đã không nằm đây lạnh lẽo nhiều ngày. Cùng lắm, tôi mới chỉ bất tỉnh mấy tiếng đồng hồ. Có thể độ bốn giờ, tôi đoán.
28 tháng Năm... một ngày như bất kỳ ngày nào khác, vẫn y xì cái thông lệ ấy, chẳng có gì bất thường. Tôi đến phòng tập thể dục, rồi đến Thư viện Komura. Tập trên các thiết bị như mọi khi, đọc Soseki vẫn trên chiếc ghế bành ấy. Ăn tối ở gần ga xe lửa, tôi còn nhớ là ăn cá hồi với xúp miso và sa-lát, hai lần xới cơm. Sau đó... sau đó, tôi không biết điều gì đã xảy ra.
Vai trái tôi hơi đau. Cảm giác hồi lại, cái đau cũng thức giấc. Chắc tôi đã đâm sầm vào một vật gì khá rắn. Tôi đưa tay phải xoa xoa chỗ đau. Không thấy vết thương hoặc sưng tấy gì. Có lẽ tôi bị đụng xe chăng? Nhưng quần áo tôi không bị rách và chỗ đau duy nhất là ở vai trái. Có lẽ chỉ là một vết bầm.
Tôi rờ rẫm quanh trong bụi rậm, nhưng chỉ thấy cành nhánh cứng đơ và cong queo như trái tim những con vật nhỏ bị hành hạ. Chẳng thấy ba lô nào cả. Tôi lục hết các túi quần. Đội ơn Chúa, ví hãy còn đây. Trong đó có chút tiền mặt, chìa khóa khách sạn, một thẻ điện thoại. Ngoài ra, tôi còn có một túi tiền xu, một mùi soa, một bút bi. Trong chừng mực tôi có thể nhận biết trong đêm tối, thì không thiếu gì cả. Tôi đang mặc một chiếc quần vải bông màu kem, một chiếc áo phông trắng cổ chữ V bên trong một chiếc sơ mi bò dài tay cộng thêm đôi giày Topsiders màu xanh nước biển. Riêng chiếc mũ bóng chày mang tên đội New York Yankees đã biến mất. Tôi nhớ là có đội nó khi ra khỏi khách sạn, nhưng bây giờ thì không. Chắc tôi đã đánh rơi nó hoặc để quên ở chỗ nào đó. Không quan trọng lắm. Thứ này một đồng một tá, mua đâu chả có.
Cuối cùng, tôi cũng tìm thấy cái ba lô của mình. Nó dựa vào một thân cây thông. Quái quỷ làm sao mà tôi lại để nó đấy rồi đâm đầu gục ngã trong cái bụi rậm này? Tôi đang ở cái chỗ quái ỷ nào đây? Trí nhớ của tôi đông cứng lại rồi. Dù sao, điều quan trọng là tôi đã tìm thấy nó. Tôi lấy chiếc đèn pin mini ở túi cạnh ra soi để kiểm tra bên trong. Xem ra không thiếu gì cả. Đội ơn Chúa, toàn bộ tiền của tôi ở trong đó cả.
Tôi khoác ba lô lên vai và bước khỏi bụi rậm, gạt những cành nhánh chắn lối, cho đến khi ra tới một chỗ quang hơn. Ở đây có một con đường nhỏ và tôi cứ theo vệt sáng của cây đèn pin đến một khoảng có chút ánh sáng. Đó có vẻ là khuôn viên của một miếu đường Shinto. Thì ra tôi đã bị ngất trong một cánh rừng nhỏ đằng sau tòa chính của miếu đường.
Một ngọn đèn thủy ngân trên một cây cột cao soi sáng cả khu miếu đường rộng, rọi một thứ ánh sáng lạnh lẽo lên hòm đựng đồ cúng tế cùng các bài vị bên trong miếu đường. Bóng tôi trên lớp sỏi nom dài đến độ quái dị. Tôi thấy tên của miếu đường trên một bảng tin và ghi nó vào trong bộ nhớ. Không có ai khác ở quanh đây. Thấy một phòng vệ sinh gần đó, tôi bước vào; hóa ra nó khá sạch. Tôi cởi ba lô và rửa mặt, rồi kiểm tra hình ảnh của mình phản chiếu trên tấm gương mờ xỉn bên trên bồn rửa mặt. Tôi chờ đợi thấy mình xấu xí nhất và tôi đã không thất vọng - nom tôi thật gớm ghiếc. Một bộ mặt tái nhợt với đôi má hóp đang trừng trừng nhìn lại tôi, cổ đầy bùn, tóc tua tủa chĩa ra khắp phía.
Tôi chợt nhận thấy một cái gì đen đen phía trước áo phông của tôi, tựa như con bướm lớn xòe cánh. Tôi phủi nó đi nhưng nó vẫn bám chặt. Tôi sờ vào nó, thấy tay mình dính nhớp. Tôi cần phải bình tĩnh lại, cho những tôi cố tình dềnh dàng, chậm rãi cởi cả hai chiếc áo đang mặc. Dưới ánh đèn nêông, tôi nhận ra đó là một vết máu - khá nhiều máu còn tươi và ướt, nhưng đã đen lại khi thấm vào vải. Tôi đưa lên mũi ngửi, nhưng nó không có mùi gì. Máu cũng vấy sang cả áo sơ mi bò, nhưng ít thôi và không lộ rõ trên nền vải xanh thẫm. Vệt máu trên áo phông thì khác - rõ mồn một trên nền trắng, không thể lầm lẫn
Tôi giặt chiếc áo phông ở bồn rửa mặt. Máu hòa vào nước, nhuộm đỏ chất sứ của bồn. Mặc dù tôi ra sức vò, vết hoen vẫn không đi. Tôi đã toan quẳng chiếc áo phông vào thùng rác, song lại thôi. Nếu phải vứt bỏ thì nên tìm chỗ khác tốt hơn. Tôi vắt kiệt rồi nhét nó vào một túi ni lông cùng với những đồ đã giặt, và tống tất cả vào ba lô. Tôi dấp nước lên tóc, gỡ cho khỏi quá bù rối. Rồi lấy xà phòng trong túi đựng đồ vệ sinh ra, rửa tay. Tay vẫn còn hơi run, nhưng tôi cứ nhẩn nha, rửa thật kỹ các kẽ ngón và dưới móng. Tôi lấy khăn ướt chùi sạch chỗ máu thấm vào ngực. Rồi mặc chiếc sơ mi bò vào, cài cúc đến tận cổ, nhét vạt vào trong quần cẩn thận.
Tôi không muốn người ta nhìn mình nên phải chỉnh trang lại, ít ra nom cũng gần như bình thường.
Nhưng tôi vẫn sợ chết khiếp, răng vẫn đánh đàn. Dù cố hết sức, tôi cũng không sao kìm được. Tôi xòe tay ra nhìn. Cả hai tay đều hơi run, nom như tay người khác chứ không phải tay mình. Như hai con thú nhỏ có đời sống độc lập. Gan bàn tay nhoi nhói như vừa nắm phải một thanh sắt nóng.
Tôi tì hai tay lên thành bồn rửa mặt, ngả người về phía trước, áp đầu vào gương. Tôi cảm thấy muốn khóc, nhưng cho dù tôi có khóc, cũng sẽ chẳng có ai đến cứu tôi. Chẳng có ai...
Chà, làm sao cậu dính đầy máu trên người thế? Cậu làm cái quái quỷ gì vậy? Nhưng mà cậu chả nhớ gì sất, đúng không. Tuy nhiên, trên người cậu không có vết thương nào, thế cũng đỡ. Cũng không đau đớn gì thực sự - trừ chỗ nhói buốt ở vai trái. Vậy chắc là máu của ai khác, chứ không phải của cậu. Máu của một người nào khác.
Dù sao chăng nữa, cậu cũng không thể ở lại đây mãi. Nếu như tình cờ một chiếc xe tuần tra phát hiện ra cậu ởngười đầy máu, thì rắc rối to đấy, bạn trẻ ạ. Cố nhiên, quay về khách sạn có thể không phải là một ý hay. Biết đâu chả có người đã rình sẵn ở đấy, sẵn sàng chộp cậu. Thận trọng mấy cũng không thừa. Có vẻ như cậu bị dính vào một tội ác nào đó, một vụ gì mà cậu không nhớ nổi. Có khi chính cậu là thủ phạm cũng nên. Biết đâu đấy?
May sao, cậu vẫn còn tất cả đồ đạc bên mình. Cậu đã khá cẩn thận, luôn luôn tha mọi thứ mình sở hữu theo trong cái ba lô nặng như cối đá này. Thế là tốt. Cậu đã làm những gì cần làm, không việc gì phải áy náy. Đừng sợ. Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi. Nên nhớ: cậu là trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất hành tinh, đúng không nào? Hãy tự chủ! Hít mấy hơi thật sâu và vận dụng trí não đi. Mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng cậu phải rất cẩn thận đấy. Chúng ta vừa nói đến máu, máu thật chứ chẳng chơi đâu, máu của một người khác. Mà không phải là một vài giọt. Biết đâu trong khi chúng ta đang nói chuyện đây, người ta đang truy lùng cậu cũng nên.
Tốt nhất là lên đường đi. Chỉ có một việc duy nhất cần làm, một nơi duy nhất cần đến. Và cậu biết đó là nơi nào.
Tôi hít vài hơi thật sâu để trấn tĩnh lại, rồi xách ba lô, ra khỏi phòng vệ sinh. Dưới ánh đèn thủy ngân, tôi giẫm trên sỏi lạo xạo, cố khởi động bộ não. Bật công tắc, vặn tay quay cho suy nghĩ vào guồng. Nhưng nó không chịu chạy - ắc-quy không đủ điện để phát động mô-tơ. Tôi cần một nơi nào ấm áp và an toàn để trốn tạm và tĩnh trí lại. Nhưng nơi nào? Nơi duy nhất tôi có thể nghĩ ra là thư viện. Nhưng Thư viện Komura lại đóng cửa cho đến mười một giờ trưa mai, và tôi cần có chỗ để ẩn náu cho đến lúc đó.
Tôi đi đến một phương án. Tôi ngồi xuống một chỗ kín và lấy chiếc điện thoại di động trong ba lô ra. K thấy nó vẫn kết nối với tổng đài trung tâm, tôi lục ví tìm số điện thoại của Sakura rồi bấm số. Ngón tay tôi vẫn còn lóng ngóng nên phải mất mấy lần mới bấm đúng và đầy đủ số. Đội ơn Chúa, cô không để máy trả lời tự động. Sau mười hai hồi chuông, cô cầm máy. Tôi xưng tên.
"Kafka Tamura," cô nhắc lại, không phấn khởi gì cho lắm. "Cậu có biết bây giờ là mấy giờ khuya rồi không? Mai mình lại phải dậy rất sớm."
"Tôi biết, tôi xin lỗi đã gọi muộn thế," tôi nói, giọng căng thẳng. "Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi đang gặp rắc rối và chị là người duy nhất tôi có thể nghĩ tới."
Đầu dây đằng kia không thấy trả lời. Hình như cô đang phân tích, cân nhắc giọng nói của tôi trong ý nghĩ.
"Chuyện có... nghiêm trọng không?" cuối cùng, cô hỏi.
"Tôi chưa thể nói chắc được, nhưng tôi nghĩ đó là chuyện nghiêm trọng đấy. Chị phải giúp tôi. Chỉ một lần này thôi. Tôi xin hứa sẽ không quấy rầy chị lâu."
Cô nghĩ một lúc. Không, không phải là cô do dự hay thế nào đâu, cô chỉ suy nghĩ thôi. "Vậy cậu đang ở đâu?"
Tôi nói tên của miếu đường.
"Có phải ở thành phố Takamatsu không?"
"Tôi không dám cô hắc hoàn toàn, nhưng tôi nghĩ thế."
"Thậm chí cậu không biết mình đang ở đâu?" cô sửng sốt hỏi.
"Đây là một câu chuyện dài."
Cô buông một tiếng thở dài. "Cậu hãy bắt taxi, đến cửa hàng Lawson. Nó ở góc phố gần chung cư mình đang ở, có treo biển rất to, không thể lọt khỏi mắt được." Cô chỉ hướng cho tôi. "Cậu có tiền đi taxi chứ?"
"Có," tôi nói.
"Tốt," cô nói và gác máy.
Tôi ra khỏi cái cổng rách nát của miếu đường và đi về phía đường cái để vẫy taxi. Cũng không phải chờ lâu. Tôi hỏi người lái có biết cửa hàng Lawson ở đâu không và anh ta nói có. Hỏi có xa không, anh ta bảo chỉ một cuốc xe mười "đô" thôi.
Xe đậu bên ngoài cửa hàng Lawson. Tôi trả tiền người lái xe, tay vẫn chưa hết run. Tôi khoác ba lô vào trong cửa hàng. Tôi khẩn trương đến nỗi Sakura còn chưa kịp tới. Tôi mua một bịch sữa, hâm nóng lên trong lò vi ba và chậm rãi nhấp từng ngụm. Sữa nóng trôi qua cuống họng, làm dịu dạ dày tôi đôi chút. Khi tôi bước vào cửa hàng, người gác gườm gườm nhìn cái ba lô của tôi, cảnh giác đề phòng bọn giả làm khách hàng để ăn cắp đồ, rồi sau đó chẳng ai chú ý đến tôi nữa. Tôi đứng ở ngăn báo, tạp chí, giả vờ chọn, kỳ thực để rà soát lại hình ảnh mình phản chiếu trên tủ kính. Tuy đầu óc tôi hãy còn hơi bù rối, nhưng khó ai có thể nhận ra vết máu trên chiếc sơ mi bò. Mà ví dụ có ai để ý thấy, chắc họ cũng nghĩ đó chỉ là một vết vấy bẩn. Lúc này, chỉ cần tôi đừng run nữa.
Mười phút sau, Sakura tới. Đã gần một giờ sáng. Cô mặc áo choàng dài tay và quần jeans bạc màu. Tóc đuôi ngựa, mũ lưỡi trai New Balance màu xanh nước biển. Vừa thấy cô, răng tôi hết đánh đàn. Cô tiến đến bên tôi và nhìn tôi từ đầu đến chân như xem xét hàm răng một con chó mà cô định mua vậy. Cô thốt ra một âm thanh nửa như thở dài nửa như rên rẩm, rồi khẽ vỗ vai tôi hai cái. "Đi nào," cô nói.
Căn hộ của cô ở cách cửa hàng Lawson hai khối nhà. Một ngôi nhà hai tầng tồi tàn. Cô lên cầu thang, lấy chìa khóa trong túi, mở cánh cửa gỗ màu xanh lá mạ. Căn hộ gồm hai phòng cộng với bếp và buồng tắm. Tường mỏng, sàn kêu cót két và có lẽ ánh sáng tự nhiên duy nhất nơi này có được vào ban ngày là khi nắng quái chiều hôm rọi vào. Tôi nghe thấy tiếng xả nước ở một căn hộ khác, tiếng đóng cửa tủ kèn kẹt đâu đó. Xoàng xinh, nhưng ít ra cũng đem lại cảm giác là có những con người thật đang sống những cuộc sống thật. Bát đĩa chồng đống trong bồn rửa ở bếp, những chai nhựa không, những số họa báo đọc dở, những đóa hoa tuy líp tàn úa, một bảng kê những thứ cần mua sắm dán trên tủ lạnh, những chiếc tất dài vắt trên thành ghế, một tờ báo trên bàn giở ra ở trang chương trình tivi, một cái gạt tàn, một hộp thuốc lá điếu mảnh Virginia Slims. Vì một lý do kỳ lạ, cái cảnh này lại làm tôi thư giãn.
"Đây là căn hộ của con bạn mình," cô giải thích. Trước nó cùng làm với mình trong một salon ở Tokyo, nhưng năm ngoái nó phải trở về Takamatsu, quê nó. Thế rồi nó bảo nó muốn đi du lịch Ấn Độ một tháng và nhờ mình đến trông nhà hộ. Mình làm thay công việc của nó trong khi nó đi vắng. Nó cũng là thợ uốn tóc. Mình nghĩ đây là một dịp tốt để thay đổi không khí, ra khỏi Tokyo một thời gian. Nó thuộc loại New Age, nên mình ngờ là nó sẽ không chỉ ở lại Ấn Độ có một tháng thôi đâu."
Cô bảo tôi ngồi vào bàn ăn và mang cho tôi một lon Pepsi lấy từ tủ lạnh, không kèm theo cốc. Bình thường, tôi không uống loại này: quá ngọt và hại răng. Nhưng tôi đang chết khát, nên nốc cạn cả lon.
"Cậu muốn ăn gì không? Mình chỉ có mì ăn liền, có được không?"
"Tôi không đói," tôi nói.
"Trông sắc diện cậu thật khiếp, cậu biết không?"
Tôi gật đầu.
"Vậy đã xảy ra chuyện gì?"
"Giá mà tôi biết được!"
"Cậu không có ý niệm gì về điều đã xảy ra. Cậu thậm chí không biết mình đã ở đâu. Và đó là một câu chuyện dài," cô nói, liệt kê gọn các dữ liệu. "Nhưng rành là cậu đang gặp rắc rối."
"Rành là thế," tôi đáp. Tôi hy vọng là chí ít cô cũng tin vậy.
Im lặng. Trong khi đó, cô cau mày nhìn tôi chằm chằm. "Cậu thực sự không có bà con họ hàng ở Takamatsu, phải không? Cậu trốn nhà đi hoang."
Tôi lại gật đầu.
"Một lần, hồi bằng tuổi cậu, mình đã trốn khỏi nhà. Mình nghĩ mình hiểu những gì cậu đang trải qua. Vì thế mình mới cho cậu số điện thoại di động của mình. Mình nghĩ có thể cậu cần nó."
"Thành thực cám ơn chị," tôi nói.
"Gia đình mình ở Ichikawa thuộc tỉnh Chiba. Mình xung khắc với cha mẹ và không thích đi học, nên mình lấy trộm của gia đình một số tiền và bỏ trốn, cố đi thật xa. Hồi ấy mình mười sáu tuổi. Mình đến tận Abashiri, trên mạn Hokkaido ấy. Mình tạt vào một cái trạm tình cờ trên đường, xin làm việc ở đó. Mình sẽ làm bất cứ việc gì - mình nói với họ thế - và mình sẽ làm hết sức, không cần trả lương chừng nào họ cho mình ăn đầy đủ và một mái nhà che đầu. Bà chủ ở đó nhã nhặn mời mình ngồi dùng trà. Em chờ đây một chút nhé, bà nói vậy. Điều tiếp theo mình kịp nhận ra là một chiếc xe tuần tra xịch đến và cảnh sát lôi mình về nhà. Đó không phải là l đầu bà chủ trại gặp chuyện như thế này. Bấy giờ mình mới nảy ra ý nghĩ là phải học một nghề gì đó, để rồi đây dù đi đến đâu cũng có thể kiếm được việc làm. Thế là mình bỏ trường trung học, chuyển sang một trường học nghề và trở thành thợ uốn tóc." Cô nhếch mép, khẽ mỉm cười. "Cậu có thấy đó là một cách lành mạnh để tiếp cận sự đời không?"
Tôi đồng ý với cô.
"Này, cậu có muốn kể cho mình nghe đầu đuôi câu chuyện không?" cô vừa nói vừa châm một điếu thuốc lá. "Đằng nào đêm nay mình cũng chả ngủ được mấy nữa, cho nên mình sẵn sàng nghe hết."
Tôi giải thích tất cả cho cô nghe, từ lúc bỏ nhà đi. Tuy nhiên, tôi bỏ qua phần liên quan đến điềm báo. Điều đó, tôi không thể kể cho bất kỳ ai, tôi biết thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:39:53 | Chỉ xem của tác giả

Chương 10


Vậy thì nếu Nakata này gọi cậu là Kawamura thì có được không?” Lão nhắc lại câu hỏi với mèo nâu vằn, phát âm chậm rãi, cố hết sức làm cho lời mình nói thật dễ hiểu.
Chú mèo này đã nói với lão là hình như chú đã bắt gặp Goma, con mèo cái mai rùa một tuổi bị lạc, ở quanh vùng này. Nhưng theo quan điểm của Nakata thì cách nói của chú rất kỳ. Cảm giác này là chung cho cả hai vì mèo ta dường như cũng chẳng hiểu lão mấy. Cuộc trò chuyện thành ra ông nói gà bà nói vịt.
“Tôi không phản đối, cái đầu cao nhất.”
“Xin lỗi, nhưng Nakata này không hiểu cậu nói gì. Cậu bỏ quá cho, Nakata này không được sáng dạ cho lắm.”
“Toàn là cá ngừ, t đến cuối.”
“Cậu nói cậu muốn ăn cá ngừ chăng?”
“Không. Hai tay bị trói trước.”
Nakata không bao giờ hy vọng có thể truyền đạt mọi điều một cách dễ dàng trong những cuộc trò chuyện với loài mèo như thế này. Cần phải dự kiến trước một số vấn đề khi mèo và người nói chuyện với nhau. Và còn có một nhân tố khác cần xem xét: chính cách nói năng của Nakata cũng có vấn đề - không chỉ với mèo mà cả với người nữa. Cuộc trò chuyện dễ dàng của lão với Otsuka tuần trước là một ngoại lệ chứ không phải thông lệ, vì truyền đạt một thông điệp, dù đơn giản, bao giờ cũng đòi hỏi rất nhiều cố gắng. Vào những ngày không thuận lợi thì cứ như hai người đứng hai bên bờ sông gào lên với nhau trong tiếng gió rít vậy. Và hôm nay cũng là một ngày như vậy.
Lão không biết tại sao, nhưng bắt trúng sóng của mèo nâu vằn là khó nhất. Với mèo đen đa phần là trôi chảy. Dễ nhất là giao tiếp với mèo Xiêm, nhưng khốn thay lại chẳng có mấy mèo Xiêm lang thang ngoài phố, cho nên hiếm khi gặp được. Mèo Xiêm thường được nâng niu chăm bẵm trong nhà. Và vì một lý do nào đó, mèo nâu vằn chiếm đa số trong đám đi hoang.
Ngay cả đã biết trước, Nakata vẫn thấy Kawamura là bất khả giải mã. Chú phát âm không rõ, khiến Nakata không sao nắm bắt được nghĩa của từng từ cũng như tương quan giữa các từ. những gì chú thốt ra nghe giống câu đố hơn là câu nói đích thực. tuy nhiên, Nakata cực kỳ kiên nhẫn, lại có thừa thời gian. Lão nhắc đi nhắc lại cùng một câu hỏi, khiến mèo ta phải nhắc lại câu trả lời nhiều lần. cả hai ngồi trên bức tường đá thấp rào quanh một công viên nhỏ dành cho thiếu nhi trong một khu dân cư. Họ đã nói chuyện với nhau gần một tiếng đồng hồ, cứ loanh quanh luẩn quẩn trong mớ bòng bong.
“Kawamura chỉ là cái tên lão đặt ra để gọi cậu cho tiện, chứ chẳng có nghĩa gì cả... Nakata này đặt tên cho mỗi cô cậu mèo cho dễ nhớ thôi. Lão đảm bảo nó sẽ không gây phiền phức gì cho cậu. Lão chỉ thích gọi cậu như thế, nếu cậu không phản đối.”
Kawamura đáp lại bằng những tiếng lầm bầm không ai hiểu nổi. Thấy tình hình này khó mà sớm chấm dứt, Nakata quyết định chuyển hướng bằng cách đưa cho Kawamura xem tấm hình con Goma một lần nữa.
“Cậu Kawamura, đây là Goma, con mèo mà Nakata này đang tìm. Một con mèo mai rùa một tuổi. Chủ của nó là ông bà Koizumi ở khối nhà 3. Nogata. Nó biến mất tăm một thôi rồi. Bà Koizumi mở cửa sổ, thế là nó nhảy vọt ra ngoài, chạy mất. Vậy một lần nữa, lão xin hỏi cậu, cậu có trông thấy nó không?”
Kawamura lại nhìn bức ảnh và gật đầu.
“Nếu là cá ngừ, Kwa’mura trói. Trói chặt, cố tìm ra.”
“Xin lỗi, nhưng như lão vừa nói lúc nãy, Nakata này không sáng dạ cho lắm, nên không hiểu rõ cậu nhằm chỉ cái gì. Xin cậu vui lòng nhắc lại.”
“Nếu là cá ngừ, Kwa’mura cố. Cố tìm ra và trói chặt nó lại.”
“Cậu nói cá ngừ theo đúng nghĩa là cá chứ?”
“Thử cá ngừ, trói nó, Kwa’mura.”
Nakata vò mái tóc muối tiêu húi cua, ngẫm nghĩ. Làm thế nào để giải câu đố cá ngừ này và thoát ra khỏi cuộc trò chuyện rắm rối như mớ bòng bong này? Nhưng tha hồ cho lão vắt óc, vẫn không ra manh mối nào. Nói cho cùng, suy nghĩ theo lô-gích không phải là sở trường của lão. Hoàn toàn dửng dưng với thế bí của lão, Kawamura nhấc một chân sau lên gãi cằm sồn sột.
Đúng lúc ấy, Nakata có tiếng cười khe khẽ sau lưng. Lão ngoảnh lại và trông thấy một mèo Xiêm thon thả, kiều diễm, ngồi trên một bức tường bê tông thấp tè cạnh một ngôi nhà, đang him mắt nhìn lão.
“Xin lỗi, chẳng hay có phải bác Nakata đấy không? Mèo Xiêm ỏn ẻn hỏi.
“Phải, chính thế. Tên lão là Nakata. Rất hân hạnh.”
“Rất hân hạnh,” mèo Xiêm đáp.
“Từ sáng nay trời đã đầy mây, nhưng lão không nghĩ là sắp mưa,” Nakata nói.
“Hy vọng là sẽ không mưa.”
Đó là một nàng mèo Xiêm xấp xỉ trung niên. Cô nàng kiêu hãnh dựng thẳng đuôi lên và phô một vòng cổ có gắn thẻ ghi tên. Nét mặt dễ thương, người thon thả, không một chút mỡ thừa.
“Xin gọi em là Mimi. Mimi trong bài Cô gái Bô-hê-miêng ấy. Có một bài hát về em mà. Si, Mi Chiamano Mimi.”
“Ra thế,” Nakata nói, thật ra chẳng hiểu gì.
“Một vở nhạc kịch của Puccini. Ông chủ em rất mê nhạc kịch,” Mimi nói với một nụ cười khả ái. “Em những muốn hát bài đó cho bác nghe, nhưng tiếc thay, giọng em lại quá dở.”
“Nakata này rất sung sướng được gặp cô, Mimi-san[10].”
“Em cũng thế, thưa bác Nakata.”
“Cô ở gần đây?”
“Vâng, ở ngôi nhà hai tầng đằng kia kìa. Nhà ông bà Tanabe. Bác trông thhứ? Ngôi nhà có chiếc BMW530 màu kem đậu trước cửa ấy.”
“Ra thế,” Nakata lặp lại. Lão chẳng biết BMW là gì, nhưng lão có thấy một cái ô-tô màu kem. Chắc Mimi định nói cái ấy.
“Bác Nakata,” Mimi nói, “em thuộc loại mèo tự chủ, hay có thể nói là rất thích sự riêng tư, nên bình thường em không can thiệp vào chuyện của người khác. Nhưng cái thằng nhỏ kia – cái thằng mà hình như bác gọi là Kawamura ấy? – không phải là đứa thông minh sáng láng gì. Tội nghiệp, dạo bé nó bị xe đạp cán, va đầu vào bê-tông. Từ đó trở đi nó đâm ngớ ngẩn. Thành thử, dù bác có kiên nhẫn đến mấy với nó (như em đã thấy thế), bác cũng chả đi tới đâu. Em đã quan sát một lúc và em nghĩ mình không thể chỉ ngồi suông. Em biết thế này là đường đột, nhưng em cần phải nói đôi điều.”
“Không, xin cô đừng nghĩ thế. Lão rất mừng được cô chỉ giáo. Nakata này cũng đần độn như Kawamura và không thể nên cơm cháo gì nếu không được người khác giúp đỡ. Vì thế nên lão mới được ngài Tỉnh trưởng chợ cấp hàng tháng. Nên lão rất mừng được nghe ý kiến của cô, Mimi-san ạ.”
“Em hiểu là bác đang tìm một con mèo,” Mimi nói. “Xin bác lưu ý, em không nghe trộm đâu, nhưng tình cờ nó lọt vào tai em trong khi em ngủ trưa ở đây. Bác nói tên nó là Goma?”
“Phải, chính xác thế.”
“Và Kawamura đã trông thấy Goma?”
“Là nó nói với lão thế. Nhưng rồi sau đó, nó nói gì lão chả hiểu.”
“Bác Nakata, nếu bác không phiền, em sẽ vào cuộc và thử nói chuyện với nó. Hai mèo giao lưu với nhau vẫn dễ hơn, mà em lại rất quen với cách nói của nó. Vậy hãy để em thăm dò nó, moi thông tin, rồi sẽ tóm tắt bác nghe.
“Thế thì được việc quá.”
Mèo Xiêm khẽ gật đầu, rồi như một vũ nữ ba-lê, nhẹ nhàng nhảy từ bức tường bê-tông xuống. Cái đuôi đen dựng đứng như cái cột cờ, cô nàng thong dong bước tới, ngồi cạnh Kawamura. Nó lập tức hít hà mông Mimi, nhưng nàng mèo Xiêm vả ngay cho nó một cái vào mõm, làm mèo nhóc lùi lại. Không để nó kịp thở, Mimi bồi thêm một cú nữa vào giữa mũi.
“Giờ thì chú ý nghe cho kỹ nhé, đồ óc bã đậu thối tha!” Mimi rít lên, rồi quay lại phía Nakata như để phân bua. “Phải cho nó biết đâu là người trên kẻ dưới, kẻo sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu. Nếu không, nó sẽ ú ớ suốt và bác sẽ chỉ nghe toàn những thứ nhăng cuội. Tình trạng này không phải lỗi tại nó, và em cũng ái ngại cho nó, nhưng biết làm thế nào?”
“Lão hiểu,” Nakata nói, mà không dám chắc mình hiểu cái gì.
Hai con mèo bắt đầu trò chuyện, nhưng chúng nói nhanh và lí nhí đến nỗi Nakata không nắm bắt được tí gì. Mimi cật vấn Kawamura bằng một giọng gay gắt, con mèo nhóc trả lời một cách rụt rè, mỗi lần ngập ngừng lại ăn một cái tát không thương xót vào mặt. Cô nàng mèo Xiêm này vừa thông minh vừa có học vấn. Cho đến nay, Nakata đã gặp rất nhiều mèo, nhưng chưa từng thấy con nào biết thưởng thức nhạc kịch và thông thạo các mô-đen xe hơi. Kính nể, lão theo dõi Mimi tiến hành cuộc điều tra một cách khẩn trương, đầu hiệu quả.
Nghe xong mọi thứ, Mimi đuổi chú mèo nhóc đi. “Xéo!” cô nàng quát và nó cun cút lủi mất.
Mimi thân ái sà vào nằm gọn trong lòng Nakata. “Em nghĩ là đã nắm được cốt lõi vấn đề.”
“Đa tạ,” Nakata nói.
“Con mèo này – tức Kawamura – nói nó đã trông thấy Goma mấy lần ở một bãi cỏ ngay cuối con đường này. Đó là một bãi đất trống, người ta định xây nhà trên đó. Một hãng kinh doanh bất động sản đã mua cái xưởng phụ tùng của một công ty xe hơi, phá bỏ đi để xây dựng một chung cư cao cấp thế vào. Một phong trào của cư dân trong khu đã phản đối dự án này, cuộc chiến pháp lý nổ ra và việc xây dựng phải đình lại. Thời buổi này chuyện như thế xảy ra thường xuyên. Nơi này cỏ mọc um tùm và chẳng mấy người lai vãng, nên trở thành nơi trú ngụ lý tưởng cho tất cả bọn mèo đi hoang trong vùng. Em chả giao du nhiều, em không muốn lây rận, nên chả mấy khi đến đấy. Chắc bác cũng biết, rận cũng giống như thói quen, một khi mắc phải thì khó mà rũ bỏ được.”
“Lão hiểu,” Nakata nói.
“Nó bảo em là con kia giống con trong ảnh: một con mai rùa bé xinh, nhút nhát, đeo đai cổ chống rận. nó cũng không thạo nói. Rõ ràng đó là một con mèo nhà ngây ngô không tìm ra đường về nhà.”
“Không biết đó là hôm nào nhỉ?”
“Lần gần đây nhất Kawamura thấy nó là cách đây ba hay bốn hôm. Nó chẳng sáng dạ gì, thậm chí không biết ngày thứ mấy nhưng nó nói đó là sau hôm mưa, nên em nghĩ chắc là thứ Hai. Em nhớ là hôm Chủ nhật mưa rất to mà.”
“Nakata này cũng không thông thạo các ngày trong tuần, nhưng cũng nghĩ trời đã đổ mưa vào quãng ấy. Kể từ đó Kawamura không thấy nó nữa ư?”
“Đó là lần cuối cùng. Những con mèo khác cũng không thấy nó nữa, Kawamura nói thế. Tuy nó đần độn, vô tích sự, nhưng em đã dồn ép nó ráo riết và em tin phần lớn những điều nó nói.”
“Lão thành thực cảm ơn cô.”
“Có gì đâu, chính em cảm thấy hài lòớn thời gian em chỉ có lũ mèo ẩm ương quanh đây để chuyện trò, chẳng có gì là tâm đầu ý hợp cả. Bực hết chỗ nói. Cho nên được nói chuyện với một con người khôn ngoan như bác, giống như đang oi nồng bỗng được một luồng khí mát vậy.”
“Lão hiểu,” Nakata nói. “Có một điều Nakata này chưa rõ lắm. cậu Kawamura cứ luôn miệng nhắc đến cá ngừ, không biết có nhằm chỉ đích thị con cá ấy không?”
Mimi uyển chuyển nhấc chân trước bên trái lên, xem xét kỹ lòng bàn chân hồng hồng và cười khúc khích. “Em nghĩ từ vựng của cái thằng nhóc này chẳng giàu có gì cho lắm.”
“Từ vựng ư?”
“Em muốn nói số từ nó biết rất hạn chế. Cho nên đối với nó, bất cứ cái gì ăn ngon miệng đều là cá ngừ. Đối với nó, cá ngừ là tinh hoa của tinh hoa trong lĩnh vực thức ăn. Nó đâu có biết là còn có những thứ như cá tráp, cá bơn lưỡi ngựa, cá đuôi vàng.”
Nakata hắng giọng. “Thực ra Nakata này cũng rất khoái món cá ngừ. Cố nhiên, lão thích cả lươn nữa.”
“Em cũng khoái ăn lươn. Tuy đó không phải là thứ ngày nào cũng có mà ăn.”
“Đúng thế. Không phải ngày nào cũng có lươn mà ăn.”
Rồi cả hai im lặng một lúc, đắm trong những tơ tưởng về lươn.
“Dù sao đi nữa, điều Kawamura muốn nói là thế này,” Mimi nói, như chợt nhớ ra. “Không lâu sau khi lũ mèo hoang trong khu bắt đầu chọn bãi đất trống này làm chỗ trú chân, một người xấu chuyên bắt mèo xuất hiện. Đám mèo khác cho rằng người này đã bắt Goma mang đi. Y kiếm thức ăn ngon nhử bọn chúng, rồi bỏ chúng vào một cái bị lớn. Người ắt mèo rất thiện nghệ và một con mèo ngây thơ, đói ăn như con Goma rất dễ rơi vào bẫy của y. Ngay cả đám mèo hoang sống quanh đây, vốn rất thận trọng, cũng mất vài mống vào tay y. Thật gớm ghiếc, vì đối với một con mèo, không gì khốn khổ hơn là bị nhét vào trong một cái bị.”
“Lão hiểu,” Nakata nói và một lần nữa lại đưa tay lên vò mái tóc muối tiêu. “Nhưng cái gã ấy nó làm gì với những con mèo sau khi bắt chúng?”
“Cái ấy thì em không biết. Dạo xưa, người ta thường lấy da mèo làm dây đàn shamisen, nhưng ngày nay không có nhiều người chơi shamisen nữa. Với lại, em nghe nói bây giờ người ta chủ yếu dùng dây bằng plastic. Ở một số nơi trên thế giới, người ta ăn thịt mèo, tuy nhiên, đội ơn Chúa, ở Nhật Bản thì không. Cho nên em nghĩ ta có thể loại trừ cả hai khả năng ấy. Còn lại... Để em xem... Mèo còn được dùng trong những thí nghiệm khoa học. Số này khá nhiều đấy. Thực tế, một con bạn em đã bị đưa vào một cuộc thử nghiệm tâm lý ở trường Đại Học Tokyo. Một sự khủng khiếp, nhưng đó là một câu chuyện dài, lúc này em không muốn kể. Lại còn có những kẻ bệnh hoạn thích hành hạ mèo, chẳng hạn như bắt mèo rồi chặt đứt đuôi, coi đó là một thú vui, số này không nhiều, nhưng cũng phải tính đến.”
“Sau khi chặt đuôi mèo, họ làm gì?”
“Chẳng gì nữa hết. họ chỉ muốn hành hạ mèo và làm đau chúng, thế thôi. Vì một lý do nào đó, họ cảm thấy dễ chịu khi làm thế. Trên đời có những kẻ quái đản như thế đấy.”
Nakata ngẫm nghĩ một lúc. Làm sao mà chặt đuôi một con mèo lại có thể là một thú vui được? “Vậy cô nói rằng có thể một trong số những con người quái đản ấy đã bắt Goma đi?” lão hỏi.
Mimi cau mày, bộ ria mép dài trắng xoắn lên. “Em đâu có muốn nghĩ thế, nhưng đó là một khả năng. Bác Nakata sống chưa được bao năm, nhưng em đã thấy những điều kinh khủng không tưởng tượng nổi. Nhiều người nhìn bề ngoài tưởng đời sống của mèo là tuyệt vời – suốt ngày nằm dài tắm nắng, chẳng phải động chân nhấc tay làm một việc gì. Nhưng đời sống của mèo đâu có thơ mộng thế. Loài mèo là những sinh vật nhỏ bé, yếu đuối, dễ bị tổn thương. Chúng tôi không có mai cứng như rùa, không có cánh như chim. Chúng tôi không biết đào sâu vào lòng đất như chuột chũi, không đổi được màu như tắc kè hoa. Thiên hạ không hề biết mỗi ngày có bao nhiêu mèo bị thương hoặc chết thảm chết thê. Em may mắn được sống với ông bà Tanabe trong một gia đình ấm cúng và thân ái, lũ trẻ đối xử tốt với em và em có mọi thứ em cần. Nhưng ngay cả như thế, đời sống của em không phải lúc nào cũng dễ dàng. Còn bọn mèo hoang thì thật là khốn khổ.”
“Mimi, cô thật là thông minh,” Nakata nói, thán phục tài hùng biện của nàng mèo Xiêm.
“Không, không đâu,” Mimi đáp, nheo mắt lại bối rối. “Chỉ là em suốt ngày nằm dài trước tivi và kết quả là thế này: đầu em trở nên đầy những kiến thức vô bổ. Bác Nakata, bác có bao giờ xem tivi không?”
“Không, Nakata này không xem tivi. Những người trên tivi nói quá nhanh, lão không nghe kịp. Lão đần, không biết đọc mà đã không biết đọc thì tivi chả có mấy ý nghĩa. Thi thoảng lão cũng nghe đài, nhưng đài nói cũng quá nhanh, làm lão mệt. Không, lão khoái thế này hơn nhiều: ra ngoài trò chuyện với mèo dưới bầu trời xanh.”
“Thật vậy,” Mimi nói.
“Chính thế,” Nakata nói.
“Em thực sự hy vọng là Goma không sao.”
“Cô Mimi, Nakata này sẽ đến ngó qua cái bãi trống ấy một cái.”
“Theo Kawamura, người ấy rất, y đội một cái mũ cao thành kỳ dị và đi ủng da, bước rất nhanh. Nom y thật khác thường, nên bác có thể nhận ra ngay. Bọn mèo quen tụ tập ở bãi trống, hễ trông thấy y là chạy tán loạn đi khắp phía. Nhưng con nào mới đến không biết thì...”
Nakata cẩn thận cất giữ thông tin đó vào một ngăn kéo trong đầu để khỏi quên: người ấy rất cao, đội một cái mũ cao thành kỳ dị và đi ủng da.
“Hy vọng là em cũng giúp ích được phần nào,” Mimi nói.
“Nakata này xin đa tạ về tất cả những gì cô đã làm. Nếu cô không có nhã ý lên tiếng, thì đến giờ lão vẫn còn luẩn quẩn với hai chữ cá ngừ. Lão rất cảm ơn.”
“Em nghĩ,” Mimi nói, lo âu ngước nhìn Nakata, “con người này đem lại rắc rối đấy. Rất nhiều rắc rối là đằng khác. Y nguy hiểm hơn bác tưởng nhiều. Ở địa vị bác, em sẽ chẳng bén mảng đến bãi đất trống ấy làm gì. Nhưng xét cho cùng, bác là một con người, bác có công việc của bác, nhưng em mong bác hết sức cẩn trọng.”
“Cám ơn nhã ý của cô, lão sẽ hết sức thận trọng.”
“Bác Nakata, thế giới này là một chốn hung bạo khủng khiếp. Và không ai có thể thoát khỏi sự hung bạo. Xin bác hãy luôn nhớ điều này. Có cẩn trọng bao nhiêu cũng không thừa. Điều đó áp dụng với cả mèo lẫn người.”
“Lão sẽ ghi nhớ điều đó,” Nakata đáp.
Nhưng sự hung bạo ấy ở đâu và như thế nào, thì lão chẳng hay biết chút gì. Thế giới này đầy những thứ mà Nakata không tài nào hiểu nổi và phần lớn những thứ dính dáng đến hung bạo đều thuộc loại này.
Sau khi chào tạm biệt Mimi, lão đến xem khu bãi trống. hóa ra nó chỉ bằng một cái sân chơi nhỏ, quây kín bởi một hàng rào can bằng gỗ dán, với một tấm biển mang dòng chữ: CẤM VÀO – CÔNG TRƯỜNG XÂY DỰNG NAY MAI (mà dĩ nhiên Nakata không đọc được). Một khóa xích nặng nề chắn lối vào, nhưng vòng ra phía sau thì có một lỗ hổng ở hàng rào, và lão có thể chui vào dễ dàng. Chắc là đã có ai phá ra.
Toàn bộ nhà kho trước đây đã dỡ bỏ, nhưng đất chưa được san nền để xây dựng, nên cỏ mọc um tùm. Một đôi bướm dập dờn quanh những ngọn cỏ roi vàng cao bằng đầu trẻ con. Những mô đất rắn lại bởi nước mưa, có chỗ nhô cao thành gò. Một nơi lý tưởng cho mèo. Người chẳng ai rỗi hơi mò đến, bên trong rất nhiều chỗ ẩn nấp, lại có đủ loại sinh vật nhỏ nhoi để săn bắt.
Chẳng thấy Kawamura đâu cả. Có hai con mèo gầy nhom, lông xác xơ đang ở đó, nhưng khi Nakata lên tiếng chào thân ái, chúng chỉ lạnh lùng nhìn lão rồi biến vào trong đám cỏ rậm. Điều đó cũng dễ hiểu – ai lại muốn bị bắt và bị chặt đuôi? Bản thân Nakata chắc chắn cũng không muốn điều đó xảy ra với mình, mặc dù lão không có đuôi. Chả có gì là lạ khi bọn mèo e ngại lão.
Nakata đứng lên một mô đất cao hơn, nhìn khắp xung quanh. Chẳng có ai khác, chỉ thấy lũ bướm bay lượn trên đám cỏ dại, tìm kiếm một cái gì. Lão tìm thấy một chỗ ngồi tốt, đặt chiếc túi vải khoác trên vai xuống, lấy ra hai cái bánh nhân đậu xanh, ăn thay bữa trưa. Lão uống trà nóng từ một bình thủy mang theo, lim dim mắt lặng lẽ nhấp từng ngụm nhỏ. Một cuối trưa yên tĩnh. Mọi vật đều yên bình và hài hòa. Nakata thấy khó tin là có kẻ đang rình rập để bắt mèo về tra tấn.
Lão vừa nhai vừa vò mái tóc muối tiêu cắt ngắn. nếu có ai khác cùng ngồi đây, hẳn lão đã phân trần Nakata chẳng sáng dạ gì, nhưng rủi thay, lão chỉ có một mình. Lão chỉ có thể gật gù với chính mình một vài lần vếp tục nhai. Ăn xong hai cái bánh, lão gấp tờ giấy bóng kính gói bánh lại thật vuông vắn rồi cất vào túi. Lão đậy nắp phích, vặn chặt lại và cũng bỏ vào túi luôn. Trời có một lớp mây che phủ, nhưng nhìn màu mây, Nakata biết mặt trời đang ở ngay trên đỉnh đầu.
Người ấy rất cao, đội một cái mũ cao thành kỳ dị và đi ủng da.
Nakata cố hình dung con người ấy, nhưng lão không sao mường tượng được một cái mũ cao thành kỳ dị và đôi ủng da như thế nào. Kawamura đã nói với Mimi rằng nhìn thấy y là biết ngay thôi. Cho nên Nakata quyết định là cứ đợi đến khi nhìn thấy y. Đó rành là kế hoạch tốt nhất. Lão đứng dậy và tè luôn vào đám cỏ - một bãi nước đái thật thà không khách sáo, kéo dài – rồi đi tới một góc bãi khuất kín nhất và ngồi đó đến hết buổi chiều, chờ con người kỳ dị kia xuất hiện.
Chờ đợi là một nhiệm vụ chán ốm. Lão không có manh mối bào để biết bao giờ thì người ấy xuất hiện trở lại – có thể là mai, có thể là cả tuần nữa. Hoặc có thể là chẳng bao giờ nữa cũng nên – đó cũng là một khả năng chứ. Nhưng Nakata đã quen chờ đợi vô mục đích, tiêu thời gian một mình, chẳng làm gì cả. Lão chẳng mảy may lấy thế làm phiền.
Thời gian không thành vấn đề đối với lão. Thậm chí lão không cần đồng hồ. Nakata hành động theo cảm thức riêng của mình về thời gian. Trời rạng ra là sáng, mặt trời lặn và trời tối đen là đêm. Hễ trời tối là lão đến nhà tắm công cộng gần chỗ mình ở, tắm xong thì về nhà ngủ. Có một số ngày trong tuần, nhà tắm công cộng đóng cửa, những hôm đó lão nghỉ tắm và về thẳng nhà. Dạ dày báo cho lão biết giờ ăn và khi nào đến kỳ đi lĩnh chợ cấp (gần đến ngày đó, bao giờ cũng có một ai đó có nhã ý nhắc lão) là lão biết thêm một tháng đã trôi qua. Ngày hôm sau thế nào lão cũng đến cắt tóc ở hiệu cắt tóc đầu phố. Mùa hè nào cũng có người trong phường đãi lão món lươn, và đầu nvào dịp Tết người ta lại mang bánh nếp đến cho lão.
Nakata thả lỏng toàn thân, ngắt mạch suy nghĩ, mặc cho mọi thứ bồng bềnh trôi nổi. Đó là một động thái tự nhiên đối với lão, từ bé lão vẫn làm thế, không cần nghĩ ngợi. Chẳng mấy chốc, biên giới của ý thức lão bắt đầu chấp chới như những cánh bướm. Bên kia biên giới đó là một vực thẳm tối đen. Đôi khi, ý thức của lão bay qua biên giới và chao lượn bên trên vực sâu đen ngòm đến chóng mặt đó. Nhưng Nakata không sợ bóng tối hoặc độ sâu của nó. Mà tại sao lão lại phải sợ? Cái thế giới không đáy của bóng tối ấy, cái tĩnh lặng hỗn độn nặng nề ấy là một người bạn cũ và đã trở thành một bộ phận của chính lão từ lâu rồi. Nakata hiểu nó quá rõ. Trong cái thế giới ấy không có chữ viết, không có cả các ngày trong tuần, không có ông Tỉnh trưởng dễ sợ, không có nhạc kịch, không có BMW. Không dao kéo, không mũ cao thành. Mặt khác, cũng không có lươn, không có bánh nhân đậu xanh ngon lành. Có tất cả, nhưng không có bộ phận. Mà đã không có bộ phận thì không cần phải thay thế cái này bằng cái khác. Không cần phải bớt cái gì hoặc thêm cái gì. Không cần phải nghĩ về những điều khó khăn, cứ thả mình bồng bềnh, cho tất cả thấm vào mình. Với Nakata, không gì có thể tốt đẹp hơn thế.
Thi thoảng, lão thiếp đi. Tuy nhiên, ngay cả khi ngủ, những giác quan luôn luôn cảnh giác của lão vẫn quan sát bãi trống. Nếu có gì xảy ra, nếu có ai đến, lão có thể thức dậy ngay và làm những gì cần làm. Bầu trời bị một lớp mây xám che phủ khắp nhưng ít nhất thì cũng sẽ không mưa ngay. Tất cả bọn mèo đều biết thế. Và cả Nakata cũng biết thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:41:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11


Khi tôi kể xong, đêm đã rất khuya. Suốt thời gian đó, Sakura lắng nghe rất chăm chú, đầu tựa vào hai tay chống khuỷu tay trên bàn bếp. Tôi thú thật với cô rằng tô mới mười lăm tuổi, đang học trung học, rằng tôi đã ăn cắp tiền của bố rồi trốn khỏi ngôi nhà ở Quận Nakano, Tokyo. Rằng tôi đang trọ ở một khách sạn ở Takamatsu và hằng ngày, đến đọc sách ở một thư viện. Rằng đùng một cái, tôi thấy mình nằm gục bên ngoài miếu đường, mình đầy máu. Kể hết. Thật ra chỉ gần hết thôi, còn chừa một điều quan trọng mà tôi không thể nói ra.
"Vậy là mẹ cậu bỏ nhà đi, mang theo chị gái cậu, khi cậu mới lên bốn. Để lại cậu với cha cậu."
Tôi lấy trong ví ra tấm ảnh hai chị em tôi chụp bên bờ biển, đưa cho cô xem. "Đây là chị gái em," tôi nói. Sakura nhìn tấm ảnh một lúc rồi trả lại cho tôi, không bình luận một lời.
"Từ đó đến nay em không gặp lại chị ấy," tôi nói. "Cả mẹ em nữa. Bà không bao giờ liên lạc và em không biết hiện bà ở đâu. Thậm chí em không nhớ nổi hình dong bà ra sao nữa. Em không còn cái ảnh nào của mẹ. Em có thể nhớ mùi và bàn tay vuốt ve của mẹ, chứ không nhớ mặt."
"Hừm," Sakura nói, hai tay vẫn chống cằm, mắt nheo lại nhìn tôi. "Chắc cậu khổ tâm lắm?"
"Vâng, có lẽ..."
Cô tiếp tục lặng lẽ nhìn tôi đăm đăm. "Vậy là cậu không hợp với cha cậu?" cô hỏi sau một hồi lâu.
Không hợp? Tôi phải trả lời câu hỏi này như thế nào? Tôi không nói gì, chỉ lắc đầu.
"Một câu hỏi ngớ ngẩn - tất nhiên là thế rồi. Nếu không cậu đã chẳng trốn khỏi nhà," Sakura nói. "Vậy, tóm lại, cậu đã bỏ nhà và hôm nay, đột nhiên, cậu bất tỉnh, hoặc mất trí nhớ, hoặc gì gì đó."
"Vâng."
"Điều này trước đây đã bao giờ xảy ra chưa?"
"Đôi lần," tôi thành thực nói với cô. "Khi em nổi cáu thì như châm ngòi nổ. Tựa hồ có ai bấm nút trong đầu, thế là cơ thể bùng phát, lý trí không theo kịp. Tựa như em đang ở đây, mà cách nào đó, lại không phải là em."
"Cậu muốn nói: cậu mất tự chủ và làm một điều gì hung bạo?"
"Vâng, điều đó đã xảy ra mấy lần."
"Cậu đã làm ai bị thương bao giờ chưa?"
Tôi gật đầu. "Hai lần. Nhưng không nặng lắm."
Cô ngẫm nghĩ một lát.
"Liệu lần này có phải là vẫn điều đó xảy ra không?"
Tôi lắc đầu. "Đây là lần đầu tiên xảy ra một điều tệ hại đến như vậy. Lần này... em không biết nó khởi đầu như thế nào và em hoàn toàn không nhớ điều gì đã xảy ra. Cứ như trí nhớ của em đã bị xóa sạch. Trước đây chưa bao giờ tệ hại đến thế."
Cô nhìn chiếc áo phông tôi vừa lôi từ ba lô ra, xem xét thật kỹ vết máu mà tôi đã không tẩy sạch được. "Vậy điều cuối cùng cậu còn nhớ được là bữa ăn tối ở tiệm ăn gần ga, phải không?"
Tôi gật đầu.
"Và tất cả những gì sau đó là một khoảng trống. Điều tiếp theo cậu nhận biết được là thấy mình nằm trong bụi rậm đằng sau miếu đường ấy. Tức là khoảng bốn giờ sau. Tỉnh dậy thì thấy áo phông dầy máu và vai bên trái đau nhói."
Tôi gật đầu. Cô giở một tấm bản đồ thành phố, ước lượng khoảng cách giữa nhà ga và miếu đường.
"Không xa lắm, nhưng đi bộ thì cũng lâu đấy. Nhưng trước nhất, tại sao cậu lại ở chỗ đấy nhỉ? Nó ở ngược hướng với khách sạn của cậu. Trước đây cậu đã bao giờ đến đó chưa?"
"Chưa bao giờ."
"Cậu cởi áo ra một lát xem," cô nói.
Tôi cởi trần đến thắt lưng. Cô bước ra sau tôi và nắm chặt lấy vai trái tôi. Ngón tay cô bấm sâu vào thịt khiến tôi không khỏi kêu lên khe khẽ. Cô gái này quả có sức.
"Có đau không?"
"Còn phải hỏi," tôi nói.
"Cậu đã va rất mạnh vào một cái gì đó. Hoặc cái gì đó đã quật rất mạnh vào cậu."
"Em không nhớ tí gì cả."
"Dù sao cũng không gãy cái xương nào," cô nói. Cô tiếp tục xoa nắn xung quanh chỗ đau, và nếu quên cái đau đi thì những ngón tay cô thật dễ chịu. Khi tôi nói với cô thế, cô mỉm cười.
"Mình xưa nay vẫn giỏi ngón xoa bóp mà. Đó là một kỹ thuật hữu ích cho thợ làm tóc."
Cô tiếp tục xoa bóp chỗ vai tôi. "Xem ra không có gì nghiêm trọng cả. Cứ ngủ một giấc đẫy qua đêm, rồi cậu sẽ cảm thấy đỡ thôi."
Cô nhặt cái áo phông của tôi, bỏ vào một túi nhựa rồi vứt vào sọt rác. Cô xem xét lại chiếc sơ mi bò của tôi một lầnồi ném vào máy giặt. Lục lọi trong tủ áo và moi ra một cái áo phông trắng, đưa cho tôi. Một chiếc áo mới toanh trắng lốp với dòng chữ Maui Whale Watching Cruise, có cả hình một cái đuôi cá voi nhô khỏi mặt nước.
"Đây là chiếc áo to nhất mà mình có thể tìm được. Nó không phải của mình nhưng cậu đừng ngại. Đó chỉ là vật lưu niệm của một người nào đó. Có thể không hợp "gu" cậu nhưng cứ thử coi."
Tôi mặc vừa khít.
"Nếu muốn thì cậu cứ giữ mà dùng," cô nói.
Tôi cảm ơn cô.
"Vậy trước đây cậu chưa bao giờ mất trí nhớ hoàn toàn như thế?" cô hỏi.
Tôi gật đầu, rồi nhắm mắt lại, mân mê chiếc áo phông, hít cái mùi mới tinh của nó. "Chị Sakura ạ, em thấy sợ thực sự," tôi nói. "Em không biết phải làm gì. Em tuyệt nhiên không nhớ có làm ai bị thương hay không. Bất kể điều gì khiến người em đầy máu, em cũng không thể nhớ ra. Nếu em đã phạm tội, thì dù em có nhớ hay không, em vẫn cứ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, phải không?"
"Có thể chỉ là đổ máu cam. Một người nào đó đi trên phố, va phải một cái cột điện và đổ máu mũi. Và cậu chỉ đỡ người ta dậy thôi. Rõ không? Mình hiểu tại sao cậu lo, nhưng ta hãy cố nghĩ ra những kịch bản về những trường hợp xấu nhất, được không? Ít nhất thì đêm nay cũng chưa có chuyện gì. Sáng mai ta sẽ xem báo, theo dõi tin trên tivi. Nếu có gì ghê gớm đã thực sự xảy ra, chúng ta sẽ biết. Bây giờ ta sẽ cân nhắc các phương án. Có rất nhiều lý do khiến người ta chảy máu, và đa phần không đến nỗi ghê gớm như ta tưởng. Mình là con gái, nên đã quen nhìn thấy máu - tháng nào mình chả nhìn thấy máu. Cậu hiểu mình muốn nói gì chứ?"
Tôi gật đầcảm thấy hơi đỏ mặt. Cô xúc mấy thìa Nestcafé đổ vào một tách lớn, đun một ít nước trong một cái xoong nhỏ. Cô hút thuốc, chờ nước sôi. Rít vài hơi, rồi tắt điếu thuốc bằng vòi nước. Tôi thoáng thấy mùi bạc hà.
"Mình không muốn thóc mách, nhưng có một điều mình muốn hỏi cậu. Cậu có phiền không?"
"Không," tôi đáp.
"Chị gái cậu là con nuôi. Cha mẹ cậu xin được ở đâu đó trước khi sinh cậu, đúng không?"
"Đúng," tôi đáp. "Em không biết tại sao, nhưng quả là có chuyện ấy. Sau đó, em ra đời. Hình như ngoài mong muốn của cha mẹ em."
"Vậy cậu đích thị là con của cha cậu và mẹ cậu?"
"Theo như em biết thì đúng vậy," tôi nói.
"Nhưng khi bỏ đi, bà không mang cậu theo, mà lại mang chị cậu mặc dù đó không phải là con bà rứt ruột đẻ ra," Sakura nói. "Thông thường, một người đàn bà đâu có làm thế."
Tôi không nói gì.
"Tại sao bà ấy lại làm thế?"
Tôi lắc đầu. "Em không biết," tôi đáp. "Em đã tự đặt cho mình câu hỏi này hàng tỉ lần.
"Chắc cũng đau đớn lắm nhỉ?"
Có đau không? "Em cũng không biết nữa. Nhưng nếu một ngày kia em lấy vợ, em nghĩ em sẽ không sinh con làm gì. Nếu em có con, em sẽ không biết làm sao để hòa hợp với chúng."
"Gia cảnh của mình thì không đến nỗi phức tạp như vậy," cô nói, "nhưng từ lâu mình đã không hợp với bố mẹ và vì thế mình mắc vào một lô chuyện ngu xuẩn... Cho nên mình biết cậu cảm thấy như thế nào. Nhưng quyết định quá sớm như thế - rằng mình sẽ không sinh con - không phải là một ý hay. Ở đời chẳng có gì là tuyệt đối đâu."
Cô đứng trước lò bếp, nhấm nháp tách Nestcafé nghi ngút hơi. Thành tách có vẽ hình những nhân vật của bộ phim hoạt hình nổi tiếng Moomin. Cả hai chúng tôi đều không nói gì.
"Cậu có họ hàng hay người quen nào có thể giúp cậu không?" lát sau, Sakura hỏi.
"Không," tôi đáp. "Ông bà nội em mất lâu rồi và cha em chẳng có anh, chị, em hay cô, dì, chú, bác gì cả. Không một ai. Em không thật chắc chắn lắm, nhưng em biết cha em không bao giờ dây dưa với họ hàng. Và em cũng không bao giờ nghe nói gì về họ hàng bà con về phía bên mẹ em. Em muốn nói thậm chí em còn không biết tên tục của mẹ em nữa kia, cho nên làm sao em biết được về họ hàng của bà."
"Nghe như thể cha cậu là người ngoài trái đất ấy," Sakura nói. "Như thể ông ấy từ một hành tinh xa lắc nào đến, đội lốt người, cuỗm lấy một phụ nữ của Trái Đất, rồi sinh ra cậu để nối dõi tông đường. Rồi mẹ cậu phát hiện ra, hoảng sợ và bỏ trốn. Như trong một bộ phim khoa học viễn tưởng đen."
Tôi chẳng biết nói sao.
"Thôi không giỡn nữa," cô nói và ngoác miệng cười để chứng tỏ mình chỉ nói đùa, "ý mình là, trong cái thế giới mênh mông này, kẻ duy nhất cậu có thể trông cậy vào là bản thân cậu."
"Có lẽ thế."
Cô đứng đó, dựa vào bồn giặt, tiếp tục uống cà phê.
"Mình phải ngủ một chút đây," cô nói như chợt ớ ra. Đã hơn ba giờ sáng. "Mình phải dậy lúc bảy rưỡi nên sẽ không ngủ nhiều được, nhưng có một chút còn hơn không. Mình không thích đi làm sau một đêm thức trắng. Vậy bây giờ cậu định làm gì?"
"Em có mang theo túi ngủ," tôi nói với cô, "nên nếu không có gì phiền, thì em chỉ xin chị một góc thôi."
Tôi lấy chiếc túi ngủ cuộn chặt trong ba lô ra, trải xuống sàn và thổi phồng nó lên một chút.
Sakura nhìn, thán phục. "Một Hướng đạo sinh chính hiệu," cô nói.
Sau khi Sakura tắt đèn và lên giường, tôi chui vào túi ngủ, nhắm mắt lại, cố ngủ. Nhưng tôi không thể xua được hình ảnh chiếc áo phông đầy máu ấy. Tôi vẫn thấy cái cảm giác bỏng rát nơi lòng bàn tay. Tôi mở mắt ra, nhìn trân trân lên trần. Tiếng sàn nhà cót két đâu đây. Ai đó vặn vòi nước máy. Và một lần nữa, tôi lại nghe thấy tiếng còi xe cấp cứu, tận xa nhưng ré vang trong đêm tối.
"Không ngủ được à?" cô thì thầm trong bóng tối.
"Vâng," tôi nói.
"Mình cũng thế. Đáng ra mình không nên uống cốc cà phê ấy. Rõ thật ngốc," Cô bật đèn đầu giường, xem giờ, rồi tắt đèn. "Đừng có hiểu lầm mình," cô nói, "nhưng nếu cậu thích thì cậu có thể đến nằm cạnh mình. Đằng nào mình cũng chả ngủ được."
Tôi chui ra khỏi túi ngủ và trèo lên giường với cô. Tôi mặc quần đùi và áo phông. Cô mặc bộ đồ ngủ màu hồng nhạt.
"Mình đã có bạn trai ở Tokyo. Anh ta chẳng có gì xuất sắc lắm, nhưng đó là bồ của mình. Cho nên mình không quan hệ tình dục với ai khác. Có thể trông bề ngoài mình không có vẻ thế, nhưng mình rất nghiêm túc trong chuyện tình dục. Cậu có thể gọi mình là cổ hủ. Không phải bao giờ mình cũng thế - dạo trước mình cũng bừa bãi ra trò nhưng bây giờ mình không quậy nữa. Cho nên đừng có nghĩ lung tung, OK? Cứ nghĩ chúng mình là chị em, hiểu không?"
"OK," tôi nói.
Cô quàng tay ôm tôi, ghì sát vào mình và áp má lên trán tôi. "Tội nghiệp cậu," cô nói.
Khỏi phải nói là tôi lập tức dựng cột buồm. Cứng như đá. Và bởi nằm sát cạnh nhau như thế nên không thể không cọ vào đùi cô.
"Chà, lại thế nữa!" cô nói.
"Xin lỗi," tôi nói, "em không cố tình."
"Không sao," cô nói. "Mình biết cái ấy kể cũng bất tiện, chả làm cách nào ngăn được nó."
Tôi gật đầu trong bóng tối.
Cô do dự một lúc, rồi kéo quần lót của tôi xuống, lôi thằng cu cứng như đá của tôi ra và nhẹ nhàng nâng nó trong tay. Như thể muốn kiểm tra một cái gì, như cách một ông bác sĩ xem mạch vậy. Bàn tay mềm mơn man làm tôi cảm thấy một cái gì - một ý nghĩ mơ hồ? - nổi lên ở vùng háng.
"Chị cậu bây giờ độ bao nhiêu tuổi?"
"Hăm mốt," tôi nói. "Hơn em sáu tuổi."
Cô nghĩ một lúc. "Cậu có muốn gặp lại chị cậu không?"
"Có thể," tôi nói.
"Có thể?" Tay cô riết chim tôi chặt hơn một chút, "Có thể nghĩa là thế nào? Cậu thực sự không muốn gặp lại chị cậu l, phải không?"
"Em không biết gặp nhau rồi sẽ nói chuyện gì và có thể chị ấy không muốn gặp em cũng nên. Với mẹ em cũng thế. Cả hai, không ai tìm em. Em muốn nói, họ đã bỏ đi, bỏ tất cả."
Bỏ mặc em, tôi thầm nói trong đầu cho trọn ý.
Sakura không nói gì. Tay cô lỏng ra một chút, rồi lại riết chặt hơn. Theo nhịp ấy, chim tôi mềm đi, rồi lại cứng lên hơn lúc nào hết.
"Cậu muốn sướng không?" cô hỏi.
"Có thể," tôi nói.
"Lại có thể!"
"Muốn lắm," tôi chữa.
Cô khẽ thở dài và bắt đầu đưa đẩy tay. Một cảm giác như lên tiên. Không chỉ là một động tác đưa lên đẩy xuống, mà giống như một vuốt ve toàn bộ. Những ngón tay cô dịu dàng mơn man dương vật và tinh hoàn của tôi. Tôi nhắm mắt lại và thở dài đánh thượt một cái.
"Cậu không được sờ mình. Khi nào sắp ra thì bảo mình để khỏi dây ra ga trải giường."
"Vâng," tôi nói.
"Thế nào? Mình có khéo không?"
"Tuyệt."
"Mình đã bảo cậu mình rất khéo tay mà. Nhưng đây không phải là sex. Mình chỉ giúp cậu thư giãn thôi. Cậu đã qua một ngày gay go, cậu quá căng thẳng và sẽ không ngủ được nếu ta không làm cái gì đó. Hiểu không?"
"Vâng, em hiểu," tôi nói. "Nhưng em hỏi một câu."
"Gì vậy?"
"Em có thể tưởng tượng là chị không mặc gì được không?"
Tay cô chững lại và cô nhìn thẳng vào mắt tôi. "Cậu muốn tưởng tượng mình trần truồng trong khi chúng ta làm thế này ư?"
"Vâng. Em đã cố ngăn mình tưởng tượng thế, nhưng không được."
"Thật ư?"
"Nó như cái màn hình tivi mình muốn tắt đi mà không được."
Cô cười phá lên. "Mình không hiểu đấy. Cậu không việc gì phải nói với mình điều ấy. Tại sao cậu không mặc nhiên tưởng tượng cái gì cậu thích? Cậu không cần phải xin phép mình. Làm sao mình có thể biết được cái gì ở trong đầu cậu?"
"Em không đừng được. Tưởng tượng ra cái gì là rất quan trọng cho nên em nghĩ tốt hơn là cứ nói với chị. Điều này không liên quan với chuyện chị biết hay không biết."
"Cậu thật là một chú bé lễ phép," cô nói, giọng cảm kích, "Tuy nhiên, mình nghĩ cậu cho mình biết thế cũng tốt. OK, mình cho phép. Cứ việc tưởng tượng mình trần truồng đi."
"Cám ơn," tôi nói.
"Thế nào? Người mình đẹp chứ?"
"Tuyệt," tôi nói.
Cái cảm giác uể oải ấy lan khắp nửa dưới cơ thể tôi như làn nước lềnh bềnh trên bề mặt. Tôi báo cho Sakura biết, cô lấy một tờ giấy vệ sinh ở cạnh giường và tôi xuất ồngộc hết đợt này đến đợt khác... Một lúc sau, cô vào bếp vứt tờ giấy vệ sinh và rửa tay.
"Xin lỗi," tôi nói.
"Không sao," cô vừa nói vừa trở vào giường nằm. "Không cần phải xin lỗi. Đó là một bộ phận của cơ thể cậu. Vậy... cậu có cảm thấy dễ chịu hơn không?"
"Dễ chịu hơn hẳn."
"Tốt." Cô nghĩ một lúc rồi nói. "Mình đang nghĩ giá mình là chị cậu thật thì hay biết bao."
"Em cũng nghĩ thế," tôi nói.
Cô khẽ vuốt tóc tôi. "Bây giờ mình ngủ đây. Cậu trở về cái túi ngủ của cậu đi. Mình phải nằm một mình mới ngủ ngon được và tôi không muốn cái cọc sắt của cậu cứ thọc vào tôi suốt đêm, OK?"
Tôi trở về cái túi chăn của mình và nhắm mắt lại. Lần này, tôi ngủ được. Một giấc ngủ sâu, thật sâu, có lẽ sâu nhất kể từ khi tôi bỏ nhà đi. Tựa hồ tôi đang ở trong một cái thang máy to đùng, nó lặng lẽ, từ từ chở tôi xuống mỗi lúc một sâu hơn trong lòng đất. Cuối cùng, mọi ánh sáng, mọi âm thanh đều tắt.
Khi tôi dậy, Sakura đã đi làm. Chín giờ sáng. Vai tôi hầu như không đau nữa. Đúng như Sakura đã nói. Tôi thấy trên bàn bếp một tờ báo buổi sáng, một mẩu thư và một cái chìa khóa.
Mẩu thư viết: Mình đã xem bản tin bảy giờ trên tivi và lướt qua toàn bộ tờ báo, mà không thấy nói đến vụ đổ máu nào quanh vùng này cả. Cho nên mình nghĩ cái chỗ máu ấy chẳng là cái gì cả. Vậy là tốt rồi. Trong tủ lạnh không có nhiều thức ăn lắm, nhưng cậu cứ tự nhiên, thoải mái dùng bất cứ cái gì cậu cần trong nhà này. Nếu cậu không định đi đâu, thì cứở đây. Nếu ra ngoài thì để chìa khóa dưới tấm thảm chùi chân ở trước cửa.
Tôi lấy một can sữa trong tủ lạnh, kiểm tra hạn sử dung rồi rưới lên mấy chiếc bánh ngô, đun một chút nước để pha một cốc trà Darjeeling. Nướng mấy lát bánh mì, ăn với bơ loại ít béo. Rồi giở báo ra, xem mục tin địa phương. Đúng như Sakura nói, không hề có vụ tội ác hung bạo nào trên các dòng tít. Tôi thở phào nhẹ nhõm, gấp tờ báo lại để vào chỗ cũ. Ít nhất, tôi cũng không phải chạy long tóc gáy khắp chỗ để trốn cảnh sát. Nhưng tôi quyết định, tốt hơn hết là không nên quay trở lại khách sạn cho an toàn. Tôi vẫn chưa biết điều gì đã xảy ra trong bốn tiếng đồng hồ bị xóa khỏi trí nhớ ấy.
Tôi gọi khách sạn. Một người đàn ông trả lời và tôi không nhận ra giọng anh ta. Tôi bảo anh ta là tôi có việc đột xuất, phải trả phòng. Tôi cố hết sức làm ra vẻ người lớn. Tôi đã trả tiền trước nên chắc là không có vấn đề gì. Còn vài thứ đồ vặt vãnh trong phòng có thể thải đi, tôi bảo anh ta vậy. Anh ta kiểm tra trên máy tính và thấy hóa đơn đã cập nhật. "Mọi thứ đều đâu vào đấy, thưa ông Tamura," anh ta nói. "ông không còn gì phải thanh toán." Chìa khóa phòng là một tấm thẻ bằng plastic nên không cần phải gửi trả lại. Tôi cảm ơn anh ta và gác máy.
Tôi tắm vòi hoa sen. Đồ lót và tất của Sakura phơi trong buồng tắm. Tôi cố không nhìn vào những thứ ấy để tập trung vào công việc thông thường của mình là kỳ cọ thật kỹ toàn thân. Và tôi ráng hết sức không nghĩ đến đêm hôm trước. Tôi đánh răng và mặc một cái quần trong máy giặt. Không có máy sấy nên sau chu trình quay giặt, tôi gấp tất cả lại cho vào một túi nhựa bỏ luôn vào ba lô. Những thứ này đem sấy khô ở một máy giặt tự động lúc nào chả được.
Tôi rửa tất cả bát đĩa chồng đống trong bồn, để ráo nước, lau khô rồi xếp lên giá. Rồi tôi rà soát lại những thứ trong tủ lạnh, vứt bỏ những gì đã thiu thốiố đã nặng mùi - mấy bắp cải hoa đã mốc, một quả dưa chuột mềm nhũn, một gói đậu phụ đã quá "đát" từ lâu. Tôi chuyển tất cả những gì còn ăn được sang những bao, hộp đựng mới và chùi sạch chút nước xốt bị vãi ra. Tôi vứt tất cả những đầu mẩu thuốc lá, xếp những tờ báo vương vãi thành một chồng gọn gàng và rê máy hút bụi khắp phòng. Sakura có thể mát xa rất khéo nhưng đến mục nội trợ thì cô thật là đoảng hết chỗ nói. Tôi là chiếc sơ mi cô vo viên nhét vào tủ rồi tính chuyện đi chợ và chuẩn bị bữa tối. Hồi còn ở nhà tôi thường tự làm mọi việc nội trợ, nên những thứ này chả khó khăn gì. Nhưng nếu ôm lấy cả việc nấu bữa tối nữa thì hơi quá đấy, tôi quyết định.
Xong mọi việc, tôi ngồi vào bàn bếp và nhìn quanh phòng. Tôi biết mình không thể ở đây mãi. Tôi sẽ hầu như thường xuyên cương cứng, thường xuyên tưởng tượng. Tôi không thể không ngó nhìn những cái xì líp đen nhỏ xíu phơi trong buồng tắm kia, không thể lúc nào cũng xin phép cô để cho trí tưởng tượng lông bông lang bang. Nhưng trên tất cra, tôi không thể quên những gì cô làm cho tôi đêm qua.
Tôi để lại cho Sakura mấy dòng viết bằng cây bút chì cùn trên xấp giấy ghi bên cạnh máy điện thoại. Cảm ơn. Chị thực sự đã cứu em. Em xin lỗi vì đêm qua đã đánh thức chị khuya thế. Nhưng chị là người duy nhất em có thể nhờ cậy. Tôi dừng lại một lát để nghĩ xem nên viết tiếp thư thế nào và đảo mắt nhìn quanh phòng. Cảm ơn chị đã để em ở lại qua đêm. Em rất biết ơn chị đã nói là em có thể ở lại bao lâu tùy thích. Nếu em có thể ở lại thì tốt biết mấy, nhưng em nghĩ em không nên quấy rầy chị thêm nữa. Có đủ các thứ lý do mà em không tiện kể ra đây. Em phải tự lực xoay xở thôi. Em hy vọng lần sau em lâm nạn, chị vẫn còn cảm tình với em.
Tôi lại ngừng. Ở căn hộ bên cạnh, ai đó mở âm lượng tivi to hết cỡ, một sô diễn buổi sáng dành cho các bà nội trợ. Các nhân vật tham gia sô diễn thi nhau gào và những màn quảng cáo cũng không chịu kém. Tôi ngồi ở bàn, xoay xoay chiếc bút chì c trong tay, cố tập trung tư tưởng. Tuy nhiên, nói thực tình, em không xứng đáng với lòng tốt của chị. Em đang cố gắng hết sức mình để là một người tốt hơn, nhưng sự thể không tiến triển như ý. Em hy vọng lần sau gặp nhau, em sẽ hành xử chững chạc hơn. Nhưng em chưa dám chắc lắm. Cám ơn về đêm qua. Thật tuyệt vời.
Tôi lấy một cái tách chặn lên bức thư, khoác ba lô lên vai và ra khỏi căn hộ, để chìa khóa dưới thảm như cô dặn. Một chú mèo trắng đốm đen nằm ngủ giữa cầu thang. Chú hẳn rất dạn người vì chú không buồn nhúc nhích để đứng dậy khi tôi xuống cầu thang. Tôi ngồi xuống vuốt ve chú một lúc. Chú mèo him mắt lại và bắt đầu rên hừ hừ. Chúng tôi ngồi trên bậc thang như thế một hồi lâu, mỗi bên tận hưởng cái cảm giác thân mật đó theo cách riêng của mình. Cuối cùng tôi chào tạm biệt chú và ra phố. Một cơn mưa bụi bắt đầu rơi.
Giờ đây, khi đã trả phòng khách sạn và rời khỏi căn hộ của Sakura, tôi không biết hôm nay sẽ qua đêm ở đâu. Trước khi mặt trời lặn, tôi phải kiếm ra một mái nhà, một nơi nào an toàn để ngủ lại. Tôi không biết bắt đầu từ đâu, nhưng cứ quyết định đáp tàu ra ngoại thành về hướng Thư viện Komura. Một khi đến đó, sẽ nảy ra một giải pháp nào đó. Tôi không biết tại sao, nhưng trực giác bảo tôi là sẽ có cách giải quyết.
Số phận dường như đang đưa đẩy tôi theo những hướng mỗi lúc một kỳ lạ hơn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:47:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12


19 Tháng Mười 1972
Thưa Giáo sư kính mến,
Tôi dám chắc Giáo sư sẽ ngạc nhiên khi đột nhiên nhận được lá thư này của tôi. Xin thứ lỗi cho sự đường đột của tôi. Thưa Giáo sư, tôi nghĩ ông không còn nhớ tên tôi. Tôi đã có một thời là cô giáo ở một trường tiểu học nhỏ ở tỉnh Yamanashi. Có thể khi đọc thư này, ông sẽ nhớ ra đôi điều về tôi. Tôi chính là cô giáo phụ trách cái nhóm học sinh đồng loạt bị bất tỉnh trong một chuyến đi dã ngoại. Sau đó, như ông hẳn còn nhớ, tôi đã có dịp nói chuyện với ông cùng các đồng nghiệp từ trường đại học Tokyo của ông nhiều lần khi các ông cùng các vị bên quân đội đến tỉnh chúng tôi để tiến hành điều tra.
Trong năm sau, tôi hay thấy tên ông được nhắc đến một cách nổi bật trên báo chí và tôi đã theo dõi sự nghiệp cùng những thành tựu của ông với lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Với lòng cảm mến, tôi cũng nhớ những lần gặp gỡ với ông, nhất là cách phát biểu hoạt bát và chính xác của ông. Tôi cũng cảm thấy may mắn được đọc một số sách của ông. Tôi luôn thán phục sự uyên thâm của ông và tôi thấy thế giới quan thể hiện trong tất cả những trước tác của ông là rất thuyết phục – cụ thể là quan điểm cho rằng mỗi chúng ta, với tư cách một cá nhân, là cực kỳ đơn độc, đồng thời tất cả chúng ta lại được liên kết bởi một ký ức có tính chất nguyên mẫu. Đã có những lần trong cuộc đời của chính mình, tôi cảm thấy đúng như thế. Cho nên, từ xa, tôi vẫn cầu nguyện cho ông tiếp tục thành công.
Sau cái sự kiện ấy, tôi vẫn tiếp tục dạy ở ngôi trường tiểu học đó. Nhưng cách đây mấy năm, tôi đột ngột ngã bệnh, phải nằm điều trị ở Bệnh viện tổng hợp Kofu một thời gian dài, và vào đận này tôi nộp đơn xin thôi việc. Trong một năm, tôi cứ ra vào bệnh viện mãi, nhưng rồi cuối cùng cũng bình phục. Sau khi được cho về nghỉ, tôi mở một lớp phụ đạo nhỏ trong tỉnh. Học sinh ở lớp này là con cái những học sinh cũ của tôi. Thời gian bay vùn vụt là một nhận xét quá nhàm nhưng thật đúng: tôi thấy năm tháng qua đi nhanh đến mức không tin nổi.
Trong chiến tranh, tôi đã mất chồng tôi và cha tôi, rồi mốt mẹ tôi trong thời kỳ hỗn loạn sau khi Nhật Bản đầu hàng. Cưới nhau chưa được bao lâu thì chồng tôi phải ra mặt trận, chúng tôi không có con, nên tôi chỉ còn trơ trọi một mình trên đời. Tôi không thể nói là đời mình đã hạnh phúc, nhưng đối với tôi, được dạy dỗ bao thế hệ học sinh trong bao năm cũng là một ân phước. Tôi tạ ơn Trời đã cho tôi cơ may đó. Nếu không làm cô giáo, chắc tôi đã không sống qua được đoạn trường ấy.
Thưa Giáo sư, hôm nay tôi thu hết can đảm để viết thư này cho ông bởi vì tôi không bao giờ quên được vụ hôn mê tập thể trong rừng vào mùa thu năm 1944 ấy. Hai mươi tám năm đã trôi qua, nhưng nó vẫn còn tươi nguyên trong trí tôi như mới xảy ra ngày hôm qua. Ký ức ấy luôn theo tôi như cái bóng, từng phút từng giây khi tôi thức. Tôi đã qua không biết bao đêm mất ngủ, suy ngẫm về nó, thậm chí nó còn ám ảnh những giấc mơ của tôi.
Cứ như thể những chấn động về sau của sự kiện ấy đã chi phối mọi mặt đời sống của tôi. Xin đơn cử một thí dụ: bất cứ khi nào tình cờ gặp một trong số học sinh nạn nhân của vụ đó (một nửa trong số họ vẫn sống ở tỉnh này và giờ đã 35-36 tuổi), tôi đều tự hỏi sự kiện đó đã có ảnh hưởng thế nào đối với họ và bản thân tôi. Một cú sốc như thế ắt còn để lại những chấn thương vật thể hoặc tâm lý trong tất cả chúng tôi. Tôi không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu bảo nêu đích xác đó là loại chấn thương gì và mức độ của nó đến đâu, thì tôi chịu.
Như Giáo sư biết đấy, giới quân sự đã giữ không để cho tin tức về vụ này được đến với công chúng. Trong thời kỳ chiếm đóng, quân đội Mỹ đã bí mật tiến hành cuộc điều tra riêng của họ. Giới quân sự, dù là Nhật hay Mỹ, bao giờ cũng vậy. Ngay cả khi đã bãi bỏ kiểm duyệt sau thời kỳ chiếm đóng, vẫn không có bài nào về vụ này xuất hiện trên các báo hay tạp chí. Tôi nghĩ điều đó cũng có thể hiểu được vì chuyện xảy ra đã bao năm và không ai vì vậy mà chết c
Bởi vậy, hầu hết dân chúng không hề biết một vụ như thế đã xảy ra. Trong chiến tranh, đã có biết bao sự kiện khủng khiếp và hàng triệu người đã thiệt mạng, cho nên tôi đồ rằng những gì xảy ra ở cái tỉnh nhỏ của chúng tôi hẳn cũng chẳng làm cho thiên hạ xúc động gì lắm. Ngay cả ở đây, cũng không mấy người còn nhớ chuyện gì đã xảy ra và những ai còn nhớ thì có vẻ không muốn nhắc đến nó nữa. Có thể nói đa số những người còn nhớ vụ này đều coi đó là một ký ức chẳng thú vị gì mà họ không muốn đả động.
Cùng với thời gian, hầu hết mọi sự chìm vào quên lãng. Ngay cả chiến tranh và cuộc đấu tranh sinh tử mà người ta đã trải qua, giờ đây cũng tựa như một cái gì từ dĩ vãng xa xăm. Chúng ta quá bấn bíu với cuộc đời thường nhật đến nỗi những sự kiện của quá khứ biến mất khỏi quỹ đạo tâm trí của chúng ta như những vì sao đã tắt. hàng ngày, có quá nhiều điều chúng ta phải nghĩ đến, quá nhiều điều mới chúng ta phải học. thông tin mới, kiểu cách mới, kỹ thuật mới, thuật ngữ mới... Tuy nhiên, bất kể bao nhiêu thời gian qua đi, bất kể mọi biến cố, có một số điều ta không thể chôn vào quên lãng, những ký ức mà ta không bao giờ có thể xóa nhòa. Chúng ta còn lại mãi nơi chúng ta như phiến đá đỉnh vòm. Và với tôi, chuyện xảy ra ở trong rừng hôm ấy là một trong những ký ức đó.
Tôi nhận ra rằng giờ đây mình chẳng thể làm gì được nữa và rất thông cảm nếu như ông thấy bối rối không hiểu tại sao tôi lại khuấy lên câu chuyện cũ ấy vào cái thời điểm muộn mằn này. Nhưng chừng nào tôi còn sống, tôi cần trút vợi những gì chứa chất trong lòng.
Dĩ nhiên trong chiến tranh, chúng ta phải chịu chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo và có những điều chúng ta không dễ dàng bàn đến. Thưa Giáo sư, khi tôi gặp ông hồi ấy, nhiều sĩ quan quân đội cũng có mặt, tôi không thể tự do thoải mái nói chuyện với ông. Hơn nữa, dạo ấy tôi chưa biết gì về ông cũng như về công việc của ông, cho nên, trong tư thế một thiếu phụ trò chuyện với một người đàn ông không quen biết, chắc chắn tôi không thể thật thà bộc bạch mọi chuyện riêng tư thầm kín. Thành thử tôi đã giấu một số sự việc. Nói cách khác, trong cuộc điều tra chính thức, tôi đã cố tình xuyên tạc một số sự việc liên quan. Và sau chiến tranh, khi quân đội Mỹ phỏng vấn tôi, tôi đã bám chặt lấy câu chuyện cũ. Vì sợ và để giữ thể diện, tôi đã lặp lại vẫn những điều dối trá tôi đã nói với ông. Điều đó có thể đã gây thêm khó khăn cho ông trong việc điều tra và có thể đã làm sai lệch những kết luận của ông. Tôi biết thế. Ý thức đã giày vò tôi trong nhiều năm và tôi xấu hổ vì những gì mình đã làm.
Tôi hy vọng điều đó giải thích được tại sao tôi viết bức thư dài này gửi ông. Tôi hiểu ông rất bận và có thể không có thời gian dành cho việc này. Nếu vậy, xin ông cứ coi đây như những lời dông dài của một mụ già và vứt nó vào sọt rác. Vấn đề là, chừng nào còn sống, tôi cảm thấy cần phải thú nhận tất cả những gì đã thực sự xảy ra hôm đó, viết ra trên giấy trắng mực đen, chuyển tới người thích đáng. Tôi đã lành bệnh nhưng có trời biết lúc nào nó lại tái phát. Tôi hy vọng ông chiếu cố điều đó.
Cái đêm trước hôm đưa bọn trẻ đi chơi ngoại khóa trên đồi, tôi nằm mơ thấy chồng tôi ngay trước lúc rạng sáng. Anh ấy đã bị động viên ra mặt trận. Giấc mơ đầy nhục dục và rất cụ thể - một loại giấc mơ cực kỳ sinh động đến nỗi khó mà phân biệt được giữa mơ và thực.
Trong giấc mơ, chúng tôi làm tình trên một phiến đá rộng. Đó là một phiến đá màu xám nhạt gần đỉnh núi, bằng cỡ hai chiếc chiếu tatami, bề mặt nhẵn mượt và ẩm. Trời đầy mây và có vẻ như sắp nổi giông, nhưng không có gió. Hình như đã gần tối và chim chóc đang vội vã về tổ. Như vậy, hai chúng tôi nằm đó, dưới bầu trời đầy mây, lặng lẽ yêu nhau. Chúng tôi cưới chưa được bao lâu, chiến tranh đãìa mỗi người một ngả. Thân thể tôi bừng bừng thèm khát chồng tôi.
Tôi cảm thấy một nỗi khoái lạc không sao tả xiết. Chúng tôi thử đủ mọi tư thế, làm đi làm lại, liên tiếp đạt đến cực khoái, hết đợt này đến đợt khác. Bây giờ nghĩ lại thấy thật kỳ lạ, bởi vì trong đời thực, cả hai chúng tôi đều là người trầm tĩnh, đa phần hướng nội. Chúng tôi chưa bao giờ trút hết mình vào cuộc ân ái đến độ ấy, với nhiều tư thế như vậy và chưa bao giờ trải nghiệm một khoái cảm chín-tầng-mây như vậy. Nhưng trong giấc mơ, chúng tôi đã vứt bỏ mọi kìm nén và lao vào cuộc như những con thú.
Khi tôi mở mắt dậy, bên ngoài hãy còn mờ tối và tôi có cảm giác rất kỳ. Toàn thân nằng nặng, tôi có thể cảm thấy chồng tôi vẫn ngập sâu trong tôi. Tim tôi đập thình thịch và tôi thấy khó thở. Cửa mình tôi ướt đẫm, y như sau cuộc giao hoan. Như thể tôi đã làm tình thực sự, chứ không phải nằm mơ. Nói ra thật xấu hổ, nhưng lúc ấy tôi đã thủ dâm. Tôi đang cháy bỏng nhục dục và tôi cầm làm một cái gì đó cho nguôi dịu đi.
Sau đó, tôi đạp xe đến trường như mọi khi và đưa bọn trẻ đi dã ngoại ở Đồi Bát Cơm. Khi chúng tôi đi lên con đường núi, những cảm giác tình dục vẫn còn vương vấn trong tôi. Tôi chỉ việc nhắm mắt lại là có thể cảm thấy chồng tôi cắm ngập trong tôi, tinh dịch của anh ấy phọt vào thành tử cung tôi. Tôi lấy hết sức níu lấy anh ấy, giạng hai chân hết cỡ, gót chân quắp lấy đùi anh. Tình thật, tôi đưa bọn trẻ lên đồi trong một trạng thái ngây ngất: tôi cảm thấy như vẫn đang giữa giấc mộng dâm dục như thực ấy...
Chúng tôi leo lên đồi, tới chỗ đã định và đúng lúc bọn trẻ chuẩn bị tản ra để tìm nấm, thì bất thình lình tôi bắt đầu ra kinh. Đúng ra là chưa đến kỳ, lần gần đây mới cách có mười ngày, mà bình thường kinh nguyệt tôi rất đều. Có lẽ giấc mơ kích dục nọ đã khuấy động một cái gì bên trong tôi và gây ra điều1;ng đó. Cố nhiên là tôi không dự phòng chuyện này và chúng tôi lại đang ở giữa vùng đồi xa thành phố.
Tôi bảo bọn trẻ dừng lại nghỉ một lúc và đi một mình vào sâu trong rừng, tìm cách làm vệ sinh cá nhân, lau thấm bằng hai chiếc khăn tôi mang theo. Máu ra rất nhiều, tung tóe khắp, nhưng tôi chắc có thể tạm thời cầm cự cho đến khi trở về trường. Đầu tôi hoàn toàn trống rỗng và tôi không sao tập trung được. Tôi cảm thấy mình có lỗi vì đã mơ một giấc mơ phóng túng đến thế, đã thủ dâm và lại còn mường tượng chuyện ân ái ngay trước mặt đám học sinh của mình. Bình thường, tôi thuộc loại biết kiềm chế những ý nghĩ như vậy.
Tôi cho bọn trẻ đi hái nấm và nghĩ bụng có lẽ nên rút ngắn cuộc đi chơi và trở về càng sớm càng tốt. Về tới trường, tôi sẽ có thể rửa ráy sạch sẽ hơn. Tôi ngồi xuống, theo dõi bọn trẻ đi tìm nấm, đếm đầu chúng để đảm bảo không đứa nào ở ngoài tầm mắt.
Tuy nhiên, sau một lúc, tôi thấy một thằng bé tay cầm cái gì đi lại phía tôi. Đó là Nakata, chính cái thằng bé sau đó không tỉnh lại và phải đưa vào bệnh viện. Nó đang cầm những chiếc khăn máu tôi đã dùng. Tôi ngớ ra và không thể tin ở mắt mình. Tôi đã giấu chúng khuất mắt, tận xa, ở một chỗ tôi nghĩ bọn trẻ ắt không mò đến. Chắc ông hiểu điều đó là điều ngượng ngùng nhất đối với một phụ nữ, một thứ mà phụ nữ nói chung không muốn để ai thấy. Tôi không biết làm thế nào mà Nakata có thể mò ra những chiếc khăn ấy.
Trước khi kịp nhận ra mình đang làm gì, tôi đã tát nó. Tôi túm lấy vai nó và tát thật mạnh vào má. Có thể tôi còn la lối điều gì nữa nhưng tôi không nhớ. Tôi đã mất tự chủ, không còn tỉnh trí nữa. Tôi nghĩ mình ngượng quá đâm sốc. Trước đây, tôi chưa bao giờ đánh một học sinh. Nhưng bây giờ chính tôi đã làm điều ấy.
Bỗng nhiên tôi nhận thấy tất cả bọn trẻ đã ở đó, nhìn tôi. Đứa đứng, đứa ngồi tất cả đều đối mặt tôi. Cảnh tượng bày ra trước mắt chúng: tôi đứng sững, mặt tái nhợt, Nakata bị mấy cái tát ngã gục trên mặt đất, những chiếc khăn máu. Đó là một thời điểm ngưng đọng trong thời gian. Không ai động đậy, không ai nói nửa lời. Bọn trẻ không biểu cảm, mặt lạnh như những mặt nạ đồng. Một im lặng sâu thẳm trùm lên cánh rừng. Chỉ nghe thấy tiếng chim chiêm chiếp. Tôi không sao xóa bỏ được cảnh này ra khỏi tâm trí.
Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Có lẽ cũng không lâu nhưng tưởng như cả một thiên thu, dồn tôi đến mấp mé bờ vực thế giới. Cuối cùng, tôi vùng được ra khỏi được trạng thái đó. Sắc màu trở lại với thế giới quanh tôi. Tôi giấu những chiếc khăn máu ra sau tôi và bế Nakata lên. Tôi ghì chặt nó và hết lời xin lỗi: “Cô xin em, cô sai rồi, cô xin em hãy tha lỗi cho cô.” Nom nó như vẫn còn bị sốc. Mắt nó mở như vô hồn và tôi đồ rằng nó chẳng nghe thấy tôi nói gì. Vẫn ôm nó trên tay, tôi quay sang những đứa khác, bảo chúng cứ tiếp tục tìm nấm. Có lẽ chúng không thể hiểu điều gì vừa xảy ra vì nó quá kỳ lạ, quá đột ngột.
Tôi đứng đó, ôm chặt Nakata trong tay, cảm thấy như muốn chết hay biến mất. Nơi chân trời, chiến tranh khốc liệt đang tiếp diễn, vô số người đang chết. Tôi không còn biết thế nào là đúng, thế nào là sai nữa. Có thật tôi đang nhìn thấy thế giới thực tại không? Tiếng chim tôi đang nghe thấy có thực hay không? Tôi thấy mình đứng trơ trọi trong rừng, bối rối tột độ, máu vẫn cứ trào ra từ tử cung. Tôi tức giận, sợ hãi, bối rối – tất cả hòa làm một.
Và chính vào lúc ấy lũ trẻ gục xuống.
Tôi không kể lại với các vị bên quân sự điều gì đã thực sự xảy ra. Đó là thời chiến và chúng tôi phải giữ thể diện. Cho nên tôi bỏ qua đoạn tôi thấy kinh, đoạn Nakata tìm thấy những chiếc khăn máu và đoạn tôi đánh nó. Khi ông điều tra, tôi lại tiếp tụgiấu. Tôi e rằng điều này đã cản trở công việc của ông. Cuối cùng, giờ đây tôi đã nói ra hết được, ông có thể hình dung là tôi cảm thấy nhẹ người biết bao.
Thật kỳ lạ, không một đứa nào trong bọn trẻ nhớ gì về sự việc này. Không đứa nào nhớ những chiếc khăn máu hoặc chuyện tôi đánh Nakata. Những ký ức này đã hoàn toàn biến khỏi đầu chúng. Ít lâu sau vụ việc này, tôi đã có dịp gián tiếp thăm dò từng đứa và qua đó xác định đúng là thế. Có lẽ cơn hôn mê tập thể đã bắt đầu từ lúc ấy.
Tôi muốn nói thêm đôi điều về bé Nakata với tư cách là cô giáo cũ của nó. Những gì đã xảy đến với nó sau vụ này, tôi thực sự không biết. Khi người ta phỏng vấn tôi sau chiến tranh, viên sĩ quan Mỹ nói với tôi là nó đã được đưa đến một bệnh viện ở Tokyo và cuối cùng, đã hồi tỉnh. Nhưng ông ta không cho tôi biết thêm chi tiết nào. Tôi đoán, về chuyện này, ông biết rõ hơn tôi, thưa Giáo sư.
Nakata là một trong những học sinh từ Tokyo sơ tán về tỉnh chúng tôi và là đứa thông minh nhất, đạt điểm cao nhất trong số đó. Với nét mặt dễ thương và quần áo luôn luôn chỉnh tề, Nakata là một chú bé hiền dịu, không bao giờ can thiệp vào chuyện của người khác. Trong lớp, nó chưa một lần xung phong trả lời, nhưng khi tôi gọi đến, bao giờ nó cũng trả lời chính xác và khi tôi hỏi ý kiến nó, nó luôn phát biểu đâu ra đấy. Bất luận đề tài gì, nó cũng nắm bắt được ngay. Mỗi lớp đều có một học sinh như vậy. Loại này tự giác học những điều cần học không cần phải giám sát, sau này chắc chắn sẽ vào một trường đại học hàng đầu và kiếm được một công việc ưu hạng. Loại trẻ có khả năng thiên bẩm.
Nhưng với tư cách là cô giáo của Nakata, tôi phải nói rằng ở nó có đôi điều làm tôi băn khoăn. Nhiều khi, tôi cảm thấy ở nó một thứ cam chịu. Ngay cả những lúc làm tốt những đề bài khó, nó cũng có vẻ không vui. Nó không bao giờ ph đấu để thành công, không bao giờ có vẻ trải nghiệm nỗi dằn vặt của thử thách hay lầm lẫn. Nó không bao giờ thở dài hoặc nhoẻn miệng cười. Cứ như thể nó chỉ đơn giản làm những điều nó phải làm. Nó xử lý bất kỳ nhiệm vụ gì đến tay một cách hiệu quả - như một công nhân làm việc dây chuyền, với chiếc tuốc-nơ-vít trong tay, siết chặt những đinh ốc của từng bộ phận lần lượt đến trên băng chuyền.
Tôi chưa bao giờ gặp cha mẹ Nakata – họ ở tận Tokyo – nên không dám khẳng định điều gì, nhưng chắc chắn nguồn gốc vấn đề là ở gia đình. Tôi đã thấy một số trường hợp như vậy. Người lớn luôn luôn áp đặt đối với trẻ nhỏ, chính vì chúng có khả năng xử lý. Bọn trẻ bị ngợp bởi những nhiệm vụ đặt ra trước chúng và dần dà mất đi tính hồn nhiên và cảm giác thỏa mãn vốn có. Khi bị đối xử như vậy, trẻ con bắt đầu thu mình vào vỏ ốc và giữ kín mọi điều trong lòng. Phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới khiến chúng cởi mở trở lại. Trái tim trẻ con dễ uốn, nhưng một khi đã uốn thì khó mà làm cho nó trở lại dạng ban đầu. Trong đa số trường hợp là gần như không thể. Nhưng có lẽ tôi không nên phát biểu ý kiến với ông về vấn đề này – đó là lĩnh vực chuyên môn của ông mà.
Tôi cũng cảm thấy một thoáng bạo lực trong môi trường sống của cậu bé này. Thi thoảng, mắt nó lóe lên một ánh sợ hãi, dường như đó là một phản ứng bản năng với việc bị đối xử bạo ngược lâu dài. Bạo ngược đến mức nào thì tôi không cách chi biết được. Nakata là một đứa trẻ rất tự giác tuân thủ kỷ luật và khéo giấu nỗi sợ của mình. Nhưng đôi khi nó vô tình bộc lộ một chút nao núng, dù chỉ thoáng qua, nhưng không giấu được. Tôi biết một cái gì bạo ngược đã xảy ra trong gia đình họ. Một khi tiếp xúc nhiều với trẻ con, ta trở nên nhạy cảm với những biểu hiện này.
Các gia đình ở nông thôn có thể rất hung bạo. Phần lớn cha mẹ là nông dân, phải vật lộn mới đủ ăn. Họ làm quần quật từ sáng đến tối, mệt lử và khi có tí rượu vào, nổi đóa lên, họ dễ đi đến chỗ thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Điều đó diễn ra thường xuyên, ai cũng biết, và phần lớn thời gian con cái họ dễ dàng hứng chịu như không và tiếp tục sống mà chẳng hề mang vết sẹo tình cảm nào. Nhưng cha của Nakata là một giáo sư đại học và mẹ nó, theo nhận định của tôi qua những lá thư bà ấy gửi cho tôi, là một phụ nữ rất có học. Nói cách khác, một gia đình trung lưu lớp trên ở thành phố. Nếu bạo lực xảy ra trong một gia đình như thế, đó ắt phải là một cái gì phức tạp hơn và kín đáo hơn những gì lũ trẻ nông dân từng nếm trải. Cái loại bạo lực mà một đứa trẻ giữ kín trong lòng.
Chính vì thế mà tôi hết sức hối tiếc về việc đã đánh Nakata hôm đó, bất kể đó là một hành động vô thức hay hữu thức. Đáng ra tôi không bao giờ nên hành động như thế. Tôi cảm thấy có tội và rất xấu hổ. Tôi càng hối hận hơn vì cái chú bé bị dứt khỏi cha mẹ đến môi trường xa lạ này, rốt cuộc, trước khi xảy ra vụ việc này, đã sắp sửa bộc bạch nỗi lòng với tôi.
Hành động bạo lực của tôi hôm ấy có thể đã giết chết ý muốn thổ lộ đang chớm nở trong Nakata. Tôi đã hy vọng có được cơ hội sửa chữa những sai lầm, nhưng hoàn cảnh không cho phép. Còn ở trong tình trạng bất tỉnh, Nakata đã phải chuyển lên bệnh viện ở Tokyo và tôi không bao giờ gặp lại nó nữa. Một điều mà đến nay tôi vẫn còn hối tiếc. Tôi vẫn có thể thấy bộ mặt của Nakata khi tôi đánh nó. Cái nỗi sợ ghê gớm và vẻ cam chịu trong mắt nó lúc bấy giờ.
Tôi xin lỗi, tôi không định viết một bức thư dài đến thế này, nhưng còn một điều nữa tôi muốn nhắc đến. Nói thật tình, khi chồng tôi chết ở Philippines ngay trước khi chiến tranh kết thúc, đó không phải là một cú sốc lớn lắm. Tôi không cảm thấy tuyệt vọng hay căm giận – chỉ là một cảm giác bất lực sâu sắc. Tôi không khóc. Tôi đã biết lở đâu đó, trên một bãi chiến trường xa xôi, chồng tôi rồi sẽ thiệt mạng. Ngay từ năm trước, khi tất cả những điều tôi viết trong thư này diễn ra – cái giấc mơ dâm dục, việc tôi thấy kinh sớm, việc tôi đánh Nakata, việc bọn trẻ gục ngã trong cơn hôn mê bí hiểm nọ - tôi đã chấp nhận cái chết của chồng tôi là không thể tránh khỏi, là định mệnh rồi. Cho nên tin anh ấy tử trận chỉ đơn thuần xác nhận điều tôi đã biết. Toàn bộ trải nghiệm trên đồi hôm đó vượt lên trên bất kỳ điều gì tôi từng nếm trải.
Cuối cùng, tôi xin chúc công việc nghiên cứu của ông tiếp tục thành công rực rỡ. xin ông bảo trọng.
Lời chào chân thành.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:50:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13


Đã quá mười hai giờ. Tôi đang ăn bữa trưa và nhìn ra vườn thì Oshima đi tới ngồi xuống bên cạnh tôi. Hôm nay, cả thư viện chỉ có mình tôi. Như mọi khi, bữa trưa của tôi vẫn là hộp cơm trưa rẻ nhất mua ở cái tiệm nhỏ gần ga xe lửa. Chúng tôi nói chuyện một hồi rồi Oshima ép tôi nhận nửa phần xăng-uých của anh.
"Hôm nay mình lấy thừa ra để mời cậu," anh gặng. "Đừng hiểu sai ý mình, nhưng nom cậu cứ như chẳng ăn gì ấy."
"Em đang cố tập tạ cho dạ dày nhỏ lại," tôi giải thích.
"Cậu cố tình?"
Tôi gật đầu.
"Cậu làm thế để tiết kiệm tiề
Lại gật.
"Mình có thể hiểu điều đó, nhưng ở tuổi này cậu phải ăn và hễ có dịp là ăn cho no. Cậu cần chất dinh dưỡng."
Chiếc xăng-uých anh mời tôi trông thật ngon lành. Tôi cảm ơn anh và bắt đầu ăn. Cá hồi hun khói, cải xoong, củ cải đỏ và rau diếp kẹp giữa hai lát bánh mì trắng cùi giòn ruột mềm phết đẫm bơ.
"Anh làm đấy à?"
"Chẳng có ai làm hộ thì phải làm lấy thôi," anh nói.
Anh rót cà phê đen từ chiếc phích của mình vào một cái cốc, trong khi tôi uống sữa từ hộp các tông.
"Mấy hôm nay cậu đọc gì?"
"Toàn tập Natsume Soseki," tôi đáp. "Còn mấy cuốn tiểu thuyết của ông ấy, em chưa đọc, đây là dịp để đọc nốt."
"Cậu thích ông ta đến mức muốn đọc tất cả những gì ông viết ư?" Oshima hỏi.
Tôi gật đầu.
Hơi bốc lên từ cốc cà phê nơi tay anh. Ngoài trời u tối và đầy mây, nhưng ít nhất thì cơn mưa cũng đã tạnh.
"Cậu đã đọc cuốn tiểu thuyết nào của ông ấy từ hôm đến đây?"
"Em đã đọc hết Người thợ mỏ và hiện đang đọc Hoa anh túc."
"Người thợ mỏ hả?" Oshima nói, rõ ràng đang ôn lại nội dung cuốn sách mà anh còn nhớ mang máng. "Đó là câu chuyện một sinh viên ở Tokyo, rốt cuộc đi làm trong một hầm mỏ, phải không? Và sau bao đận gay go gian khổ cùng các thợ mỏ khác, cuối cùng anh ta trở về với thế giới bên ngoài? Một cuốn tiểu thuyết với độ dài trung bình, theo như mình nhớ. Cốt truyện không như nngười đọc tthường chờ đợi ở Soseki và văn vẻ cũng không trau chuốt lắm. Không phải là một trong những tác phẩm hay nhất của ông ta. Cậu thích gì ở cuốn đó?"
Tôi cố diễn đạt bằng những cảm nghĩ của mình về cuốn tiểu thuyết, nhưng tôi cần sự giúp đỡ của Quạ. Và gã liền xuất hiện (chẳng biết từ đâu chui ra), xòe rộng đôi cánh và tìm ra những từ chuẩn xác cho tôi.
"Nhân vật chính thuộc một gia đình giàu có," tôi nói, "nhưng anh ta mắc vào một chuyện tình ngang trái, đâm chán chường và bỏ nhà đi. Anh đang lang thang thì cái nhân vật mờ ám nọ tiếp cận anh, dỗ vào làm việc ở mỏ. Anh nhắm mắt theo hắn ta rồi một hôm thấy mình trong mỏ đồng Ashio, làm việc dưới sâu trong lòng đất, nếm trải đủ mọi điều anh không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Chàng trai nhà giàu ngây thơ bỗng thấy mình lăn lê bò toài giữa đám cặn bã của xã hội."
Tôi nhấp một ngụm sữa, cố sắp xếp đầu đuôi ngọn ngành phần còn lại của những điều muốn nói. Phải mất một lúc Quạ mới trở lại, nhưng Oshima vẫn kiên nhẫn chờ.
"Những điều anh ta kinh qua trong hầm mỏ là những trải nghiệm sống còn. Cuối cùng, anh thoát ra khỏi và trở về với cuộc sống cũ. Nhưng trong cuốn tiểu thuyết, không hề thấy chỉ ra rằng anh ta đã học được gì từ những trải nghiệm ấy, rằng cuộc đời anh ta đã thay đổi, rằng giờ đây anh ta đã suy nghĩ sâu xa về ý nghĩ của cuộc đời hoặc bắt đầu đặt ra những câu hỏi về xã hội loài người, hay bất cứ cái gì. Ta cũng không cảm thấy là anh ta trưởng thành. Ta gấp sách lại với một cảm giác kỳ lạ như đang tự hỏi Soseki định nói gì vậy. Dường như cái đọng lại trong lòng người đọc chính là không-biết-tác-giả-thực-sự-ịnh-nói-gì. Em không thể cắt nghĩa được điều ấy."
"Vậy cấu trúc của Người thợ mỏ hoàn toàn khác với loại Bildungsroman[11] hiện đại của cậu, thí dụ như Sanshiro của Soseki chứ gì?"
Tôi gật đầu. "Em không biết gì về loại ấy, nhưng có thể anh nói đúng. Trong truyện, Sanshiro lớn lên, gặp những trở ngại, suy ngẫm sự đời, vượt qua khó khăn, phải không? Nhưng nhân vật chính trong Người thợ mỏ thì khác. Anh ta chỉ nhìn sự việc xảy đến và chấp nhận tất. Thật ra, đôi khi anh ta cũng đưa ra ý kiến riêng, nhưng chẳng có gì sâu sắc lắm. Đằng này, anh ta chỉ nghiền ngẫm về cuộc tình của mình. Anh ta ra khỏi mỏ cũng gần gióng như khi anh ta vào trong đó. Anh ta không hề ý thức rằng đó là điều mà bản thân anh ta đã quyết định làm hoặc rằng anh ta đã có thể lựa chọn. Có vẻ như anh ta hoàn toàn bị động. Nhưng em nghĩ trong cuộc đời thực, người ta cũng thế. Không dễ gì để tự mình lựa chọn."
"Cậu có thấy mình giống giống nhân vật chính trong Người thợ mỏ không?"
Tôi lắc đầu. "Không, em không bao giờ nghĩ thế."
"Nhưng người ta cần bấu víu vào một cái gì chứ," Oshima nói. "Họ cần phải vậy để tồn tại. Cậu cũng làm thế mặc dù cậu không nhận ra. Như Goethe đã nói: Tất thảy đều là ẩn dụ."
Tôi ngẫm nghĩ một lát về ý đó.
Oshima nhấp một ngụm cà phê. "Dù sao đó cũng là một quan điểm thú vị về Người thợ mỏ. Nhất là vì nhân vật chính trong đó và cậu, cả hai đều bỏ nhà đi. Điều đó làm mình muốn đọc lại nó."
n hết chiếc xăng-uých, tôi bóp bẹp hộp sữa bằng các tông ném vào sọt rác. "Anh Oshmia à," tôi nói, quyết định đặt thẳng vấn đề, "em đang gặp thế bí và anh là người duy nhất em có thể vấn kế."
Anh xòe rộng cả hai tay, vẻ khuyến khích: Cứ nói đi!
"Đây là một câu chuyện dài, nhưng trước mắt, em không có chỗ nào trú chân đêm nay. Em có một cái túi ngủ, nên em không cần giường hoặc nệm hay bất cứ cái gì. Chỉ cần một mái nhà trên đầu thôi. Anh có biết chỗ nào như thế quanh đây không?"
"Tôi đoán cậu không nghĩ đến khách sạn hay lữ quán đấy chứ?"
Tôi lắc đầu. "Tiền cũng là một vấn đề. Nhưng chủ yếu là em không muốn bị để mắt tới."
"Tôi chắc cậu ám chỉ ban vị thành niên của cảnh sát?"
"Vâng."
Oshima nghĩ một lát rồi nói: "Được, cậu có thể ở lại đây."
"Trong thư viện ư?"
"Nhất định rồi. Có một mái nhà nhé, lại có một phòng trống, ban đêm không ai dùng đến."
"Nhưng theo anh, thế liệu có được không?"
"Tất nhiên là trước hết ta sẽ phải thu xếp một số việc. Nhưng có thể được. Hay nói đúng hơn, không phải là không thể được. Tôi dám chắc là tôi có thể lo ổn chuyện này."
"Bằng cách nào?"
"Cậu thích đọc sách hay, thích tự mình nghĩ ra những ý này nọ. Coi bộ có thể lực tốt và thuộc loại có tinh thần độc lập. Cậu thích sống quy củ và cậu giàu ý chí, kể cả ý chí muốn làm cho dạ dày mình bé lại, phải không nào? Tôi sẽ bàn với Miss Saeki về chuyện lấy cậu làm phụ việc cho tôi và để cậu ở căn phòng trống ở đây, ngay trong thư viện."
"Anh muốn em phụ việc cho anh?"
"Cậu sẽ không phải làm gì nhiều," Oshima nói. "Cơ bản là giúp tôi mở và đóng cửa thư viện. Những việc nặng - dọn dẹp, lau chùi - hay nhập dữ liệu vào máy tính, chúng tôi đã thuê những người chuyên nghiệp làm. Công việc còn lại chả nhiều nhặn gì. Cậu có thể tha hồ muốn đọc gì thì đọc. Nghe ngon lành đấy chứ?"
"Vâng, tất nhiên rồi..." tôi không biết nên nói gì. "Nhưng em không nghĩ là Miss Saeki sẽ đồng ý. Em mới mười lăm tuổi, lại là một đứa bỏ nhà đi và Cô chẳng biết gì về em cả."
"Nhưng Miss Saeki... Nói thế nào nhỉ?" Oshima ngập ngừng (điều hiếm thấy ở anh), tìm lời để diễn tả cho chính xác. "Cô hơi khác người."
"Khác người là thế nào?"
"Cô có cách nhìn sự vật không giống mọi người."
Tôi gật đầu. Một cách nhìn khác? Điều đó nghĩa là thế nào? "Anh muốn nói Cô là một người dị thường?"
Oshima lắc đầu. "Không, mình không muốn nói thế. Nếu nói dị thường thì phải là mình đây. Cô chỉ là không bảo thủ thôi."
Tôi vẫn cố hình dung ra sự khác nhau giữa khác và dị thường, nhưng rồi quyết định thôi không hỏi thêm gì nữa. Tạm thời trong lúc này.
Sau một lát, Oshima nói: "Tuy nhiên, ở lại đây đêm nay thì chưa được. Tôi sẽ đưa cậu đến một chỗ khác ở tạm vài hôm cho đến khi chúng tôi thu xếp ổn thỏa. Cậu không phiền chứ? Chỗ ấy hơi xa một chút."
"Không thành vấn đề," tôi nói.
"Năm giờ thư viện đóng cửa," Oshima nói, "tôi phải thu dọn mọi thứ, vậy khoảng năm rưỡi chúng ta đi. Tôi sẽ chở cậu bằng xe riêng của tôi. Hiện không có ai ở chỗ đó. Đừng lo - chỗ đó có một mái nhà trên đầu mà."
"Em rất cảm ơn."
"Cậu có thể cảm ơn tôi sau khi chúng ta tới đó. Có thể không như cậu tưởng tượng đâu."
Tôi trở lại phòng đọc và đọc tiếp cuốn Hoa anh túc từ chỗ bỏ dở lúc nãy. Tôi không phải là một người đọc nhanh. Tôi thích kề cà trên mỗi câu, thưởng thức văn phong của tác giả. Nếu không khoái cách viết là tôi bỏ liền. Ngay trước năm giờ, tôi đọc hết cuốn sách, đặt trả về trên giá rồi quay lại ngồi trên chiếc sofa, nhắm mắt lại, nghĩ về những gì xảy ra trong đêm hôm trước. Về Sakura. Về căn phòng của cô. Về những gì cô làm với tôi. Về tất cả những ngoắt ngoéo trong dòng sự kiện.
Đến năm rưỡi, tôi ra ngoài thư viện chờ Oshima. Anh dẫn tôi đến bãi đậu xe ở đằng sau và chúng tôi lên chiếc xe thể thao màu xanh lá cây của anh. Một chiếc Mazda Miata bỏ mui được. Ba lô của tôi to quá bỏ vào cốp xe không vừa, phải cột chặt vào giá để hàng phía sau.
"Một cuốc dài đấy, cho nên ta sẽ dừng ăn tối dọc đường," Oshima nói và xoay chìa khoá, khởi động xe.
"Chúng ta đi về hướng
"Kochi," anh đáp. "Đến đó bao giờ chưa?"
Tôi lắc đầu. "Bao xa?"
"Chạy xe mất độ hai tiếng rưỡi. Về phía Nam, bên kia dãy núi."
"Anh không phiền khi phải đưa em đi xa thế chứ?"
"Không sao. Đường thẳng băng và trời hãy còn sáng mà. Với lại, mình vừa đổ đầy bình xăng."
Xe chạy qua những đường phố tranh sáng tranh tối, rồi ra xa lộ, hướng về phía Tây. Oshima chuyển làn ngọt xớt, lách giữa các xe khác, sang số êm ru. Mỗi lần như thế, tiếng máy ro ro chỉ hơi khác đi một tí. Cuối cùng, anh dận hết ga và chiếc xe nhỏ nhanh chóng vượt qua tốc độ chín mươi km/giờ.
"Xe này đã được chỉnh đặc biệt nên gia tốc oách lắm. Không như loại Miara thông thường. Cậu có biết nhiều về xe hơi không?"
Tôi lắc đầu. Xe hơi rõ ràng không phải chuyên môn của tôi.
"Anh khoái lái xe lắm hả?" tôi hỏi.
"Bác sĩ bắt mình từ bỏ mọi môn thể thao nguy hiểm. Cho nên mình chuyển sang lái xe để bù lại."
"Anh bị làm sao?"
"Tên y học dài lê thê, nhưng gọi nôm na là bênh máu không đông," Oshima xuề xoà nói. "Cậu có biết nó ra thế nào không?"
"Em cũng biết sơ sơ," tôi nói. "Em có được học qua trong giờ sinh học. Ai mắc chứng ấy, hễ chảy máu là không cầm lại được. Cái đó thuộc về gien, nó làm cho máu không đông
"Đúng thế. Có đủ dạng bệnh máu không đông và cái loại mình bị là khá hiếm. Nó không tệ hại lắm, nhưng mình phải cẩn thận đừng để bị thương. Hễ mình bị chảy máu là phải đi bệnh viện lền. Với lại, dạo này, lượng máu dự trữ ở các bệnh viện đang có vấn đề. Chết dần chết mòn vì AIDS không phải là một lựa chọn cho mình. Cho nên mình bắt mối với một số nơi trong thành phố để cung cấp máu sạch, đề phòng trường hợp phải tiếp máu. Vì có bệnh nên mình không đi du lịch được. Trừ những lần đi kiểm tra định kỳ tại bệnh viện đại học Hiroshima, mình chả mấy khi ra khỏi thành phố. Tuy nhiên cũng chẳng đến nỗi tệ - dù sao mình cũng không máu mê du lịch hay thể thao gì cho lắm. Mình không được dùng dao bếp, nên chuyện nấu nướng bị loại trừ, kể cũng đáng tiếc."
"Lái xe cũng là một môn thể thao khá nguy hiểm đấy chứ," Tôi nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:53:01 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13 (tiếp)


"Nhưng đó là một loại nguy hiểm khác. Hễ ngồi vào sau tay lái là mình ráng phóng nhanh hết mức có thể. Nếu bị tai nạn vì phóng nhanh thì mình sẽ không chỉ đứt một ngón tay mà thôi. Nếu mất rất nhiều máu, sẽ không có sự khác nhau giữa một người mắc chứng máu không đông với bất kỳ ai khác. Thế là hòa cả làng, cơ may sống sót là ngang nhau. Sẽ không phải lo lắng về những chuyện như máu đông hay không đông hay bất cứ cái gì, như vậy có chết thì cũng chết thanh thản, không có gì phải tiếc."
"Em hiểu."
"Đừng lo," Oshima cười lớn. "Mình sẽ không gây tai nạn đâu. Mình lái cẩn thận lắm và không hề liều lĩnh. Mình cũng bảo quản xe rất tốt. Với lại, khi nào chết, mình muốn chết một mình và thật yên tĩnh cơ."
"Vậy kéo theo một người khác cùng chết cũng không phải là một lựa chọn.""Cậu hiểu đúng đấy."
Chúng tôi ghé vào một nhà hàng ở một trạm dừng xe dọc đường để ăn tối. Tôi ăn xa-lát gà, còn anh gọi món hải sản nấu cà ri và xa-lát. Gọi là nhét đầy dạ dày thôi. Oshima trả tiền và chúng tôi lại lên xe. Trời đã tối hẳn. Anh dận ga và kim đồng hồ chỉ tốc độ vọt lên.
"Mình bật tí nhạc nhé, cậu có phiền không?" Oshima hỏi.
"Tất nhiên là không," tôi đáp.
Anh bấm nút CD và một khúc nhạc piano cổ điển bắt đầu. Tôi nghe một lát, cố đoán tác giả. Tôi biết đó không phải là Beethoven, cũng không phải Schumann. Có lẽ đâu đó ở quãng giữa hai vị đó.
"Có phải Schubert?" tôi hỏi.
"Chính xác," anh đáp. Tay đặt trên vô lăng theo tư thế kim đồng hồ chỉ mười giờ, anh liếc qua tôi. "Cậu thích Schubert không?"
"Không thích lắm," tôi nói.
"Khi lái xe, mình thích những bản xô-nát viết cho piano của Schubert, mở với âm lượng lớn. Cậu biết tại sao không?"
"Không."
"Bởi vì chơi những xô-nát cho piano của Schubert cho hay là một trong những điều khó nhất trên đời. Đặc biệt là bài này, bài xô-nát cung Rê trưởng[12]. Rất khó làm chủ được nó. Một số nghệ sĩ piano có thể chơi hoàn hảo một hay hai chương, nhưng nếu nghe cả bốn chương như một tổng thể thì, theo ý mình, chưa có ai thành công. Nhiều nghệ sĩ pian đã thử nhận thách thức ấy, nhưng hình như bao giờ cũng thiêu thiếu một cái gì. Chưa bao giờ có ai thể hiện tới mức mà ta có thể nói: Đúng, thật là hoàn hảo! Cậu biết tại sao không?"
"Không," tôi đáp.
"Tại vì bản xô-nát này không hoàn hảo. Robert Schumann rất hiểu các xô-nát của Schubert và ông ta dán cho bản này cái nhãn là "tẻ nhạt tuyệt trần".
"Nếu nhạc phẩm này không hoàn hảo, tại sao nhiều nghệ sĩ piano lại cố làm chủ nó đến thế?"
"Câu hỏi hay đấy," Oshima nói và ngừng lại để âm nhạc lấp đầy im lặng. "Mình không biết giải thích thế nào cho thỏa đáng, nhưng mình có thể nói điều này: những tác phẩm có chút bất cập đó lại có một sức hấp dẫn chính vì lý do đó, hay ít nhất, nó hấp dẫn một số loại người. Cũng như cuốn Người thợ mỏ của Soseki hấp dẫn cậu vậy. Có một cái gì đó trong đó lôi cuốn cậu hơn là những cuốn tiểu thuyết hoàn thiện hơn như Kokoro hay Sanshiro. Cậu phát hiện thấy trong tác phẩm ấy một cái gì làm tim mình xao động - hay có thể nói tác phẩm ấy phát hiện ra cậu. Bản xô-nát cung rê trưởng của Schubert thuộc loại như vậy."
"Để trở lại câu hỏi," tôi nói, "tại sao anh thích nghe những bản xô-nát của Schubert? Nhất là khi lái xe?"
"Những xô-nát của Schubert, nhất là bản này, nếu chơi nguyên xi, đó không phải là nghệ thuật. Như Schumann đã chỉ ra, nó dài lê thê và quá nhiều chất đồng quê, lại quá đơn giản về mặt kỹ thuật. Nếu chơi y xì như nguyên bản, nó sẽ bèn bẹt, vô vị, chỉ là một thứ đồ cổ bụi bặm. Vì thế nên mỗi nghệ sĩ piano thể hiện nó đều thêm vào một cái gì của riêng mình, một thứ phụ gia. Như đoạn này này - cậu có nghe thấy tay ấy cấu âm quãng này như thế nào không? Thêm rubato[]. Điều chỉnh nhịp độ, chuyển gam, bất kỳ. Nếu không, tổng thể sẽ không trụ vững. Tuy nhiên phải rất cẩn thận, kẻo những ngón phụ gia ấy sẽ phá huỷ tính chất của tác phẩm. Như vậy sẽ không còn là Schubert nữa. Mỗi một nghệ sĩ piano chơi bản xô-nát này đều phải vật lộn với nghịch lý ấy."
Anh lắng nghe tiếng nhạc, âm ư giai điệu rồi nói tiếp:
"Chính vì thế mà mình thích nghe Schubert trong khi lái xe. Như mình đã nói, mọi diễn tấu đều không hoàn hảo. Sự thiếu hoàn hảo, nếu đậm đặc chất nghệ thuật, sẽ kích thích ý thức và giữ cho ta tỉnh táo. Nếu mình nghe một nhạc phẩm kịch kỳ hoàn hảo được diễn tấu một cách cực kỳ hoàn hảo trong khi lái xe, mình sẽ có thể muốn nhắm lại và chết luôn. Nhưng nghe bản Rê trưởng, mình có thể cảm nhận được giới hạn của khả năng con người - rằng một dạng hoàn hảo nào đó chỉ có thể thực hiện được qua một sự tích lũy vô hạn của cái không hoàn hảo. Và riêng mình, mình thấy điều đó đầy khích lệ. Cậu có hiểu ý mình không?"
"Hơi hơi..."
"Xin lỗi, Oshima nói, "mình dễ bốc khi bàn về đề tài này."
"Nhưng có đủ mọi dạng và cấp độ không hoàn hảo, đúng không?" tôi nói.
"Tất nhiên rồi."
"So sánh các cách diễn tấu bản xô-nát cung Rê trưởng, anh thấy ai chơi hay nhất?"
"Hỏi khó đấy," Oshima nghĩ một lát. Anh giảm tốc độ, chuyển làn, mau lẹ vượt qua một chiếc xe đông lạnh kếch sù mười tám bánh, tăng tốc để trở về làn đường của mình mình. "Mình không có ý làm cậu hốt, nhưng ban đêm, xe Miata xanh là loại khó thấất trên xa lộ. Nó đã thấp lại xanh nên dễ lẫn vào đêm tối. Nhất là cánh lái xe tải ngồi trong cabin cao lại càng khó nhìn thấy nó. Nếu không chú ý thì rất nguy hiểm, đặc biệt trong đường hầm. Quả thật, xe thể thao đáng ra nên là màu đỏ thì mới nổi bật lên. Vì vậy, phần lớn xe Ferrari đều màu đỏ. Nhưng khốn nỗi mình lại thích màu xanh, cho dù nó có thể gây nguy hiểm. Xanh là màu của rừng cây. Còn đỏ là màu của máu."
Anh liếc nhìn đồng hồ và lại âm ư theo điệu nhạc. "Nói chung, mình nghĩ Brendel và Ashkenazy là những người diễn tấu hay nhất, tuy nhiên họ không làm mình xúc động. Âm nhạc của Schubert thách thức và đập tan các cung cách của thế gian. Đó là cốt lõi của chủ nghĩa lãng mạn và âm nhạc của Schubert là sự đúc kết của dòng này."
Tôi tiếp tục lắn gnghe bản xô-nát.
"Cậu thấy thế nào? Hơi chán hả?"
"Vâng, hơi chán," tôi thừa nhận.
"Phải tự rèn luyện mới thấy được giá trị của Schubert. Mình cũng thế, lần đầu nghe ông, mình thấy chán ốm. Cái đó là tự nhiên đối với lứa tuổi cậu. Với thời gian, cậu sẽ vỡ dần ra. Người ta nhanh chóng mệt mỏi với những thứ không chán, thế nhưng lại không mệt mỏi với những gì mới đầu tưởng là chán. Nghĩ mà xem. Mình có thể rỗi hơi mà chán, nhưng không bao giờ mệt mỏi với những gì mình yêu thích. Phần đông người đời không phân biệt được hai cái đó."
"Anh nói anh là người khác thường. Có phải là tại cái chứng máu không đông ấy không?"
"Có phần thế đấy," anh nói với một nụ cười ma mãnh. "Nhưng không phải chỉ vậy thôi, còn có cái gì đó khác nữa."
Khi bản xô-nát dài "tẻ nhạt tuyệt trần" của Schubert kết thúc, chúng tôi không nghe thêm gì nữa. Chúng tôi lặng thinh, mỗi người lấp đầy im lặng bằng những ý nghĩ lang bang của mình. Tôi lơ đãng nhìn những biển báo vùn vụt qua. Tới một ngã tư, chúng tôi rẽ vào một ngả đường hướng Nam đi về phía núi, xuyên hết đường hầm này đến đường hầm khác. Oshima hết sức tập trung mỗi khi anh vượt một xe khác. Chúng tôi vượt một số xe tải chạy chậm rì rì và mỗi lần như thế, lại nghe thấy tiếng rít viu víu của không khí như thể một linh hồn vừa thoát xác. Thi thoảng tôi ngoái nhìn lại để yên trí rằng chiếc ba lô của mình vâẫ đường cột chặt an toàn ở đó.
"Chỗ bọn mình đến nằm sâu trong núi, chắc chắn không phải là căn nhà khang trang nhất thế giới," Oshima nói. "Mình chắc cậu sẽ không gặp ai khác trong thời gian cậu ở đó. Không có radio, tivi hay điện thoại gì hết. Chắc cậu không phiền chứ?"
"Không," tôi đáp.
"Cậu đã quen với cô đơn," Oshima bình luận.
Tôi gật đầu.
"Nhưng cô đơn cũng có ba bảy loại. Cái thứ cô đơn đang chờ đợi cậu có thể là hơi bất ngờ đấy."
"Bất ngờ như thế nào?"
Oshima đẩy cái cầu gọng kính trên sống mũi lên. "Quả thực mình chả biết tả thế nào, cũng có thể nó sẽ thay đổi, do ở cậu."
Chúng tôi ra khỏi xa lộ và theo con đường liên tỉnh nhỏ. Đi một quãng ngắn, tới một thị trấn nhỏ ven đường, Oshima dừng ở một cửa hàng mở cửa ban đêm, mua đủ thứ thực phẩm đến độ hầu như cả h chúng tôi không mang hết - rau quả, bánh quy giòn, sữa, nước khoáng, đồ hộp, các túi thực phẩm ăn liền, phần lớn là những thứ không đòi hỏi mất nhiều công nấu nướng. Tôi định rút ví ra nhưng anh lắc đầu, giành phần trả tiền tất cả.
Quay về chiếc xe thể thao, chúng tôi đi xuôi đường liên tỉnh. Tôi ôm những bịch không cho vào cốp xe được. Ra khỏi thị trấn nhỏ, tất cả đều tối đen xung quanh chúng tôi. Không có nhà cửa gì cả, họa hoằn mới gặp một chiếc xe, đường thì hẹp đến nôỗ hai xe khó mà vượt nhau được.Oshima bật pha hết cỡ, tiếp tục lao tới, hết hãm phanh lại dận ga, liên tục sang số từ hai lên ba, rồi lại từ ba xuống hai. Vẻ mặt anh im sững vì tập trung lái, môi mím chặt, mắt nhìn trân trân vào một điểm phía trước trong bóng tối, tay phải giữ chắc vô lăng, tay trái đặt trên cần sang số trong tư thế sẵn sàng.
Một vách đá dốc đứng xuất hiện bên trái chúng tôi. Có vẻ như ở bên dưới có một khe suối. Các khúc cua trở nên gấp hơn, đường trơn hơn và một đôi lần, phần sau xe bị trượt bánh, nhưng tôi quyết định không bận tâm lo lắng về điều đó: đối với Oshima, để xảy ra tai nạn ở đây chắc chắn không phải là một lựa chọn.
Đồng hồ tôi chỉ gần chín giờ. Tôi hạ kính cửa sổ cho khí lạnh ủa vào. Ở đây, mọi âm vang đều khác. Chúng tôi đang ở giữa vùng núi và còn đi sâu vào nữa. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi, cuối cùng, con đường tách ra xa bờ vực và rẽ vào một khu rừng. Những ngọn cây cao vút như bóng ma trên đầu chúng tôi. Ánh đèn pha lần lượt liếm vào từng thân cây bật sáng. Đường quãng này không rải nhựa và bánh lốp làm những viên sỏi bắn lên va vào gầm xe. Bộ giảm xóc nhún lên nhún xuống trên mặt đường gồ ghề. Trời không trăng không sao. Những giọt mưa nhỏ thi thoảng táp vào tấm kính chắn gió.
"Anh có hay đến đây không?" tôi hỏi.
"Dạo trướơ. Bây giờ mắc công việc và bận bịu linh tinh, mình không đến luôn được. Anh trai mình là vận động viên lướt sóng, anh ấy sống ở ven biển, tỉnh Kochi. Anh ấy có một cửa hàng bán dụng cụ luớt sóng và làm ván lướt. Thỉnh thoảng anh ấy cũng đến đây. Cậu có chơi lướt sóng không?"
"Em chưa bao giờ thử."
"Nếu có dịp, cậu nên nhờ anh trai mình dạy cho. Anh ấy lướt sóng rất cừ," Oshima nói. "Nếu cậu gặp anh ấy, cậu sẽ thấy anh ấy chả giống mình tí nào. Anh ấy to con, da ngăm ngăm, ít nói, không thích giao du lắm và khoái bia. Và chẳng biết Schubert khác Wagner thế nào. Nhưng hai anh em mình rất hợp nhau."
Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào rừng rậm và cuối cùng, tới đích. Oshima hãm phanh nhưng vẫn để nổ máy, xuống xe, mở khóa một thứ cổng rào lưới sắt, đẩy ra rồi trở lại xe, lái vào trong, đi tiếp trên một con đường ngoằn ngoèo, gồ ghề cho tới một chỗ quang cuối đường. Oshima dừng xe, thở trút ra, đưa cả hai tay vuốt tóc ra đằng sau rồi tắt máy và cài phanh tay.
Quạt gió vẫn chạy ro ro để làm nguội động cơ quá nhiệt, trong khi một làn hơi bốc lên từ capô, nhưng vì máy đã tắt nên lúc này một im lặng nặng nề bao trùm chúng tôi. Tôi nghe tiếng nước róc rách từ một con suối nhỏ gần đâu đây. Trên cao, gió rì rào mơ hồ. Tôi mở cửa xe, bước ra ngoài. Những mảng sương giá lạnh lơ lửng trong không trung. Tôi kéo lên tận cổ phéc-mơ-tuya của chiếc áo khoác không thấm nước mà tôi vừa mặc ra ngoài áo phông.
Trước mặt chúng tôi là một căn nhà nhỏ. Trời tối quá, không nhìn rõ, nhưng có vẻ đây là một cái lều gỗ. Chỉ thấy một đường viền đen chờn vờn trên nền của rừng cây. Đèn pha đầu xe vẫn bật sáng, Oshima từ từ lại gần căn lều, tay cầm đèn pin, bước lên bậc thềm, lấy ra một chiếc chìa khóa, mở cửa, vào trong và đánh diêm châm đèn. Rồi cầm đèn, bước ra ngoài hiên, trịnh trọng thông báo: "Chào mừng đế tệ xá!" Cứ như từ một bức vẽ minh họa truyện cổ tích bước ra vậy.
Tôi bước lên bậc thềm vào nhà. Oshima thắp một chiếc đèn treo lớn dòng từ trần xuống. Căn nhà gỗ gồm độc một phòng lớn hình hộp. Một chiếc giường nhỏ kê trong góc, một cái bàn ăn với hai ghế gỗ, một cái sofa cũ kỹ, một tấm thảm bạc phếch - vẻ như một mớ đồ đạc cũ không ai màng, vơ quàng vơ quấy để dùng tạm. Một cái giá gỗ chật cứng sách, những cuốn sách bìa đã xác xơ vì đọc đi đọc lại bao lần. Còn có một cái tủ cũ để đựng quần áo. Và một gian bếp đơn sơ với một quầy, một cái bếp ga nhỏ và một bồn rửa nhưng không thấy vòi nước. Thay vào đó là một cái xô nhôm chắc để đựng nước. Một cái xoong và một ấm đun nước trên giá, một cái chảo treo trên tường. Và giữa phòng, một cái bếp lò đun củi màu đen.
"Anh trai mình làm cái nhà này gần như một mình. Nguyên nó là một cái lều gỗ của thợ rừng, anh ấy đã cải tạo lại hoàn toàn. Anh ấy rất khéo tay. Dạo ấy mình còn bé, chỉ giúp việc vặt, giữ cho khỏi xây chân đứt tay. Phương tiện thì rất thô sơ. Điện không, nước máy không, toa-lét cũng không. Tiện nghi duy nhất là khí prôpan để đun nấu." Oshima đổ chút nước khoáng vào ấm và bắt đầu đun.
"Vùng đất núi này trước kia là tài sản của ông nội mình. Cụ là một phú hộ ở Kochi, sở hữu rất nhiều tài sản. Cụ mất cách đây mười mấy năm và hai anh em mình được thừa kế toàn bộ khu đất núi này. Không ai trong họ muốn nó cả, vì quá hẻo lánh và chẳng đáng giá là bao. Nếu muốn khai thác lâm sản thì phải thuê người tốn kém lắm."
Tôi vén tấm rèm che cửa sổ. Chỉ thấy một bức tường bóng tối mịt mùng.
"Hồi mình trạc tuổi cậu," Oshima nói tiếp, bỏ mấy túi trà hoa cúc vào bình, "mình rất hay đến đây sống một mình. Không gặp ai khác, không trò chuyện với ai. Anh trai như ép mình làm thế. Thông thường, với một người mắc cái bệnh giống mình, người ta không làm như vậy - ở một mình giữa nơi hoang vắng thế này là quá nguy hiểm cho họ. Nhưng anh mình bất cần." Anh ngả người dựa vào quầy, chờ cho nước sôi. "Anh ấy không tìm cách gò mình vào kỷ luật hay gì hết mà chỉ nghĩ rằng đó là cái mình cần. Nhìn lại, mình thấy đó là một trải nghiệm tốt, đúng là cái mình cần thật. Mình có điều kiện đọc rất nhiều, suy ngẫm mọi sự. Nói thật tình, sau một thời gian, mình gần như không thể đi học được nữa. Giữa trường học và mình có một thứ quan hệ ghét bỏ nhau. Mình khác mọi người. Do hảo tâm, người ta để cho mình tốt nghiệp trung học, và sau đó, về cơ bản, mình tự thân vận động. Y như cậu vậy. Mình đã kể với cậu mọi chuyện đó chưa nhỉ?"
Tôi lắc đầu. "Có phải vì thế mà anh tốt với em như vậy không?"
"Có phần thế," anh nói rồi ngừng một lát. "Nhưng lý do không phải chỉ có vậy."
Oshima đưa tôi một tách trà và nhấp nhấm nháp tách của mình. Thần kinh tôi căng thẳng sau chuyến đi dài và vị hoa cúc đúng là cái tôi cần để thư giãn.
Oshima liếc nhìn đồng hồ đeo tay. "Mình sắp phải đi, nên hãy để mình giải thích mọi thứ. Có một con suối lành gần đây, cậu có thể lấy nước ở đó mà dùng. Nó chảy từ đầu nguồn nên cậu có thể uống nguyên như thế, tốt hơn nước khoáng đóng chai nhiều. Có củi chất sau nhà, nên cậu có thể dùng bếp lò nếu cậu thấy lạnh. Nơi này rét đáo để. Thậm chí vào tháng Tám, mình đã phải dùng tới bếp lò vài lần. Nếu cậu cần dụng cụ gì khác hoặc bất cứ cái gì thì cứ lục cái kho ở sau nhà. Và cứ thoải mái mặc bất kỳ đồ cũ nào của ông anh mình mà cậu thấy trong tủ quần áo. Anh ấy chẳng bận tâm đâu, ai mặc đồ của anh ấy cũng được."
Oshima đứng chống nạnh, đảo mắtkhắp căn lều. "Chắc chắn đây không phải là một nơi ở ẩn lãng mạn. Nhưng để sống đạm bạc thì ổn đấy. Có một điều mình phải cảnh cáo cậu: chớ có đi sâu quá vào trong rừng. Rừng ở đây thực sự rậm rạp và không có đường ra đường xuyên suốt đâu. Phải giữ sao cho căn lều bao giờ cũng ở trong tầm nhìn. Nếu cậu đi xa hơn sẽ rất dễ lạc và khó mà tìm thấy đường về. Mình đã một lần nếm mùi ấy, thật dễ sợ. Mình chỉ đi cách đây khoảng hai trăm mét mà mà mất đứt nửa ngày đi lòng vòng. Cậu có thể nghĩ Nhật Bản là một nước nhỏ, không thể lạc trong rừng được. Nhưng hãy tin mình đi, một khi mạo hiểm sâu vào những cánh rừng này, cậu sẽ lạc là cái chắc."
Tôi ghi điều này vào bộ nhớ để tham chiếu sau này.
"Và trừ trường hợp thật khẩn cấp, đừng có xuống núi một mình. Mọi nhà đều ở cách rất xa. Cứ đợi ở đây, trong vòng vài ngày, mình sẽ quay lại đón cậu. Cậu có đủ cái ăn để cầm cự cho đến lúc đó. À, cậu có điện thoại di động không nhỉ?"
"Em có," tôi nói, tay chỉ vào ba lô.
Anh nhoẻn cười với tôi. "Cứ giữ nó ở trong ba lô. Ở đây không dùn được đâu: ngoài tầm phủ sóng. Và tất nhiên, đài phát thanh cũng thế. Cậu bị cắt rời khỏi thế giới. Như vậy cậu sẽ có ối thì giờ mà đọc."
Tôi chợt nghĩ đến một vấn đề rất thực tế. "Không có toa-lét thì em đi vệ sinh ở đâu?"
Oshima dang rộng cánh tay: "Cậu có cả một khu rừng, muốn cho ra đâu chả được."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:54:05 | Chỉ xem của tác giả

Chương 14


Cuối mỗi ngày Nakata đều ghé qua nhà những người đã thuê lão, báo cáo tình hình tìm kiếm: lão đã đi những đâu, lượm được những thông tin gì. Mỗi ngày, lão được trả công khoảng ba nghìn yen. Chẳng ai chính thức định giá như thế, nhưng người ta cứ truyền tai nhau rằng trong vùng có lão Nakata là tổ sư tìm mèo, muốn nhờ thì cứ xì ra mỗi ngày chừng nấy. Bao giờ họ cũng muốn cho lão thêm chút gì ngoài tiền công – đồ ăn thức uống, có khi cả quần áo nữa. Và khi tìm thấy con mèo mất tích, lão còn được nhận một khoản mười nghìn yen tiền thưởng nữa.
Không phải lúc nào cũng có người thuê Nakata tìm mèo lạc, cho nên số tiền công lão gom góp được mỗi tháng chẳng nhiều nhặn gì. Người lớn nhất trong số em trai lão thanh toán các khoản dịch vụ công cộng, lấy từ phần thừa kế khiêm tốn mà cha mẹ Nakata để lại, và lão sống bằng những món tiền để dành còm cõi cộng với một khoản trợ cấp hàng tháng của thành phố cho người già khuyết tật. Lão xoay sở chỉ ăn uống sinh hoạt bằng số trợ cấp trên, để có thể tiêu xài tiền công tìm mèo theo ý riêng, và đối với lão đó là một món khá sộp. Tuy nhiên, đôi khi lão không nghĩ ra được ý nào khác hơn là thưởng thức món ăn ưa thích của mình – lươn nướng. Ra ngân hàng hay lập sổ tiết kiệm thì phải điền nhiều mục vào tờ khai mà lão lại không biết đọc biết viết, nên còn lại bao nhiêu tiền lão giấu béng dưới chiếc chiếu tatami trong phòng.
Khả năng nói chuyện được với mèo là một bí mật của Nakata mà chỉ riêng lão và lũ mèo biết. Người ta sẽ tưởng lão điên nếu lão nói ra điều đó, nên lão cứ ngậm tăm. Ai nấy đều biết lão chẳng thông minh sáng láng gì, nhưng đần độn và điên rồ lại là chuyện hoàn toàn khác.
Đôi khi có người đi ữa lúc lão đang mải mê trò chuyện với một con mèo nào đó, nhưng chẳng ai buồn để ý. Xét cho cùng, thấy một ông già nói chuyện với súc vật như với người đâu phải chuyện gì quá khác thường. Nhưng nếu có ai chợt bình luận về cái tài tìm mèo của lão và nói đại loại như thế này: “Bác Nakata, làm sao bác có thể rành những thói quen của loài mèo đến thế? Cứ như là bác có thể nói chuyện với chúng vậy”, thì lão chỉ tủm tỉm và cho qua thôi. Nakata bao giờ cũng nghiêm túc và lễ phép, với một nụ cười hòa nhã, và rất được các bà nội trợ trong khu quý mến. Một phần cũng vì vẻ bề ngoài sạch sẽ gọn gàng của lão. Nghèo xác xơ, nhưng Nakata năng tắm giặt và những bộ quần áo mới toanh các khách hàng thường cho lão càng khiến bộ dạng lão thêm tươm tất. Một số, như chiếc sơ mi đánh golf mang nhãn Jack Nicklaus chẳng hạn, không hợp với lão, nhưng Nakata bất cần chừng nào nó sạch sẽ tinh tươm.
Nakata đang đứng ở cửa trước, ngập ngừng báo cáo với bà Koizumi khách hàng mới của lão về tình hình tìm kiếm con mèo Goma của bà ta.
“Cuối cùng Nakata này đã có đôi chút thông tin về bé Goma,” lão mào đầu. “Một ông tên là Kawamura nói rằng mấy hôm trước ông ta đã trông thấy một con mèo giống Goma ở bãi trống đằng kia, cái bãi có tường bao quanh ở khối 2 ấy. Bãi cách đây hai phố lớn và theo ông ta tả thì nó cũng cùng tuổi, cùng màu lông như Goma và cũng có cái đai cổ chống rận như thế. Nakata này bèn quyết định canh chừng ở bãi trống, ngày ngày tới đấy ăn trưa tại chỗ, ngồi lì từ sáng đến lúc mặt trời lặn. Không, bà đừng băn khoăn về chuyện đó, tôi có ối thời gian rảnh rỗi, nên tôi chẳng thấy phiền gì hết, trừ phi trời đổ mưa lớn. Nhưng nếu bà nghĩ tôi không cần phải rình nữa thì xin cứ bảo. Lão xin thôi ngay.”
Lão không nói với bà rằng cái ông Kawamura ấy không phải là một người, mà là một con mèo vằn. Lão nghĩ nói thế chỉ tổ rắc rối vấn đề.
Bà Koizumi cảm ơn lão. Hai đứa con gái nhỏ của bà rầu rĩ suốt từhi con vật yêu của chúng mất tích, không thiết ăn nữa. Mẹ chúng không tài nào giải thích cho chúng hiểu rằng giống mèo thường vẫn thỉnh thoảng biết mất đột ngột một thời gian. Nhưng dù thương con, bà cũng không có thì giờ đi khắp thành phố tìm mèo cho chúng. Cho nên bà rất mừng khi kiếm được một người làm hết sức mình để tìm cho ra Goma, như Nakata. Nakata là một lão già kỳ dị, có cách nói khác thường, nhưng thiên hạ đồn rằng lão là một thiên tài trong việc tìm mèo. Bà biết mình nghĩ vậy là không phải, nhưng quả thật coi bộ lão chẳng đủ thông minh để lừa ai. Bà đưa cho lão tiền công ngày đựng trong một chiếc phong bì kèm theo một hộp cơm nắm và khoai môn bà vừa nấu.
Nakata cúi rạp đầu nhận hộp cơm, đưa lên mũi hít hít và cảm ơn. “Đa tạ bà. Khoai môn là một trong những món ưa thích của Nakata này.”
“Chúc cụ ngon miệng,” bà Koizumi đáp.
Một tuần đã qua kể từ khi lão bắt đầu dò dõi bãi hoang này. Trong thời gian đó, Nakata đã thấy rất nhiều mèo lui tới đây. Kawamura, con mèo vằn màu nâu, mỗi ngày ghé thăm vài lần. Nakata chào nó, chuyện gẫu linh tinh: mưa nắng, chợ cấp… Lão vẫn không nắm được nó nói những gì.
“Kawara gặp rắc rối, nằm rạp trên đường”, Kawamura nói. Hình như nó muốn truyền đạt điều gì với Nakata, nhưng lão già không hiểu và lão bảo nó thế.
Con mèo có vẻ bối rối vì thế và nhắc lại – có lẽ vẫn điều đó, nhưng diễn tả cách khác. “Kawara bị trói, la hét.” Nakata lại càng hoang mang.
Đáng tiếc là Mimi không có đây giúp mình, lão nghĩ. Nếu có đây ắt Mimi sẽ cho nó cái tát vào mõm để nó nói cho gẫy gọn. Mimi thật là một con mèo thông minh. Nhưng Mimi không bao giờ xuất hiện ở một nơi như thế này vì sợ bị lây rận từ bọn mèo hoang.
Sau khi xổ ra những câu mà Nakata chẳng hiểu gì, Kawamura hơn hớn bỏ đi.
Những con mèo khác lẻ tẻ ra ra vào vào. Thoạt đầu chúng còn đề phòng khi phát hiện thấy Nakata, gườm gườm nhìn lão từ xa, nhưng sau khi thấy lão chỉ ngồi đấy, chẳng làm gì, chúng liền quên phắt lão đi. Theo cái cách thân ái điển hình của lão, Nakata tìm cách gợi chuyện. Lão cất tiếng chào và tự giới thiệu, nhưng hầu hết giả ngây giả điếc không buồn nghe hoặc chỉ trừng trừng nhìn lão. Lũ mèo ở đây đặc biệt thạo môn phớt lờ người. Chắc chúng đã nếm mùi điêu đứng trong quan hệ với con người. Nakata hiểu là mình chẳng có quyền đòi hỏi gì ở chúng và không hề trách chúng về thái độ lạnh lùng ấy. Lão hiểu rất rõ rằng trong thế giới loài mèo, bao giờ lão cũng chỉ là một kẻ ngoài rìa.
Duy nhất có một con trong đám mèo ở bãi hoang tỏ ra rất tò mò muốn làm quen với Nakata. Nó đã mấy lần đáp lại lời chào của lão.
“Vậy ra bác biết nói tiếng mèo hả?” cuối cùng, chú mèo mướp nhị thể đen trắng rách tai vừa ngập ngừng hỏi vừa đưa mắt nhìn quanh. Giọng nói cộc cằn, nhưng xem ra khá hồ hởi.
“Phải, chút ít thôi,” Nakata đáp.
“Dù sao thế cũng oách rồi,” mèo mướp bình luận.
“Tên lão là Nakata,” Nakata tự giới thiệu. “Còn cậu tên gì?”
“Tôi làm gì có tên,” mèo mướp cấm cảu.
“Vậy Okawa nghe thế nào? Lão gọi cậu là Okawa được không?”
“Gì cũng được.”
“Vậy thì cậu Okawa này,” Nakata nói, “để đánh dấu cuộc gặp gỡ của chúng ta, cậu không từ chối vài con cá mòi khô chứ?”
“Nghe hấp dẫn đấy, cà mòi là một món ưa thích của tôi.”
Nakata lấy từ trong bị ra một con cá mòi bọc giấy bóng kính, mở ra cho Okawa. Lão luôn mang theo mấy con cá mòi, phòng khi cần đến. Okawa ngấu nghiến con cá từ đầu đến đuôi, rồi liếm mép.
“Thật đúng lúc, buồn ngủ gặp chiếu manh. Đa tạ. Nếu bác thích, tôi sẽ liếm cho bác bất kỳ ở chỗ nào.”
“Không, không cần đâu. Nakata này cám ơn nhã ý của cậu, nhưng ngay bây giờ lão chả cần được liếm ở chỗ nào cả, dù sao cũng cám ơn. Thật ra, có một con mèo bị mất tích, chủ nó nhờ lão tìm hộ. Một con mèo cái lông mai rùa tên là Goma.” Nakata lấy từ trong túi ra tấm hình màu của Goma, đưa cho Okawa xem. “Có người nói đã thấy nó ở bãi hoang này. Cho nên Nakata này mới đến ngồi đây mấy ngày liền, chờ Goma xuất hiện. Không biết cậu có tình cờ gặp nó không?”
Okawa liếc nhìn tấm ảnh và sa sầm nét mặt. Những nếp nhăn hiện ra giữa đôi mày cau lại và nó chớp mắt liên hồi. “Xin thật lòng cám ơn về con cá mòi. Nhưng xin đừng hiểu lầm, tôi không thể nói về chuyện này, kẻo sẽ mang vạ vào thân.”
Nakata ngớ ra. “Cậu sẽ mang vạ vào thân nếu nói ra ư?”
“Đó là một vụ việc nguy hiểm, tai ác. Tôi nghĩ tốt hơn là bác nên quên con mèo ấy đi. Và nếu bác biết cái gì là tốt cho mình thì hãy tránh xa nơi này. Tôi không muốn bác lâm nạn. Rất tiếc đã không giúp được bác, nhưng xin hãy coi lời cảnh báo này như một cách cảm ơn bác đã cho ăn.”
Nói rồi, Okawa đứng dậy, nhìn quanh rồi biến vào một bụi rậm.
Nakata thở dài, lấy chiếc phích ra và chậm rãi nhấp mấy ngụm trà. Okawa nói là ở đây nguy hiểm, nhưng Nakata không hình dung được mối nguy hiểm đó ra sao. Tất cả những gì lão đang làm chỉ là tìm một con mèo bị lạc. Làm sao cái đó lại có thể nguy hiểm được? Có thể là nguy hiểm đến từ gã bắt mo đội cái mũ kỳ dị mà Kawamura đã mô tả. Nhưng Nakata này là người chứ đâu phải mèo. Vậy tại sao lão lại phải sợ một gã bắt mèo?
Nhưng thế giới này đầy những thứ mà Nakata không mong gì thấu hiểu nổi, cho nên lão thôi không nghĩ về điều đó nữa. Với một bộ óc như lão thì nghĩ chỉ tổ đau đầu. Nakata nhấp ngụm trà cuối cùng, vặn nắp phích lại, bỏ phích trở vào trong bị.
Sau khi Okawa biến vào trong bụi rậm, hồi lâu không thấy con mèo nào khác xuất hiện. Chỉ thấy những cánh bướm dập dờn trên cỏ. Một đàn chim sẽ bay vào chỗ đất trống, tản ra nhiều phía, tụ trở lại rồi bay đi. Nakata ngủ chập chờn vài lần, rồi lại giật mình tỉnh dậy. Bằng vào vị trí của mặt trời, lão ang áng biết lúc này là mấy giờ.
Vào khoảng gần tối thì con chó ấy xuất hiện trước mặt lão.
Đó là một con chó đen kếch sù, nó đột ngột chui ra từ bụi rậm, lặng lẽ lặc lè đi tới. Từ chỗ Nakata ngồi, nom nó giống một con bê hơn một con chó. Chân dài, lông ngắn, cơ bắp cuồn cuộn rắn như thép, tai nhọn như mũi dao, không có đai cổ. Nakata không thạo mấy về các giống chó, nhưng vừa thoáng nhìn lão đã biết đây là loại dữ, hay ít nhất cũng có thể trở nên dữ khi cần thiết. Loại chó người ta dùng trong quân đội hay cảnh sát.
Mắt nó hoàn toàn vô cảm và lớp da quanh mồm nó cuộn lên, để lộ những chiếc nanh trắng nom thật gớm. Cái lưỡi đỏ tươi thè lè giữa hai hàm răng như một ngọn lửa. Con chó đứng đó, không động đậy, im lặng, trân trân nhìn Nakata hồi lâu. Nakata cũng im lặng. Lão không biết nói chuyện với chó, chỉ biết tiếng mèo thôi. Mắt con chó đơ đơ vô hồn như nước ao tù đông đặc.
Nakata thở gằn, khẽ khàng, nhưng lão không sợ. Lão biết mình đang đối mặt với một con vật hung hãn, thù địch (lão không hiểu tại sao lại thế). Nhưng lão không đẩy ý nghĩ đó xa hơn đến độ tự coi là mình đang bị đe dọa. Cái khái niệm chết nằm ngoài khả năng tưởng tượng của lão. Và đau đớn thể xác là một cái gì trừu tượng đối với lão cho đến khi lão thực sự có cảm giác ấy. Còn ở dạng khái niệm thì đau đớn chả có nghĩa gì sất. Do đó, lão chẳng sợ, cho dù con chó quái đản ấy cứ gườm gườm nhìn lão. Lão chỉ bối rối thôi.
Đứng lên! Con chó nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:56:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 14 (tiếp)


Nakata nuốt khan đánh ực. Con chó đang nói! Không hẳn là nói, vì miệng nó không hề động đậy, mà chính xác ra là nó đang truyền đạt bằng một phương tiện khác ngoài ngôn ngữ.
Đứng lên và đi theo tôi! Con chó ra lệnh.
Nakata làm theo lời nó, lồm cồm đứng dậy. Lão toan cất tiếng chào nó, nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Ngay cả nếu đôi bên có thể trò chuyện, thì cũng chả ích gì lắm. Hơn nữa, lão cũng không cảm thấy muốn trò chuyện với con chó này, càng không muốn đặt tên cho nó. Có mất bao nhiêu thời gian cũng chẳng biến nó thành bạn được.
Một ý nghĩ thoáng hiện trong đầu lão. Có thể con chó này có chút liên quan đến ông Tỉnh Trưởng, ông ta phát hiện ra là lão đang kiếm tiền bằng nghề tìm mèo, nên muốn cắt chợ cấp của lão. Nếu con chó cảnh sát này là của ông tỉnh trưởng thì cũng chả có gì là lạ, lão nghĩ thầm. Và nếu sự tình ra như thế thì mình gặp rắc rối to rồi!
Khi Nakata đứng dậy rồi, con chó bèn bắt đầu đi. Nakata khoác bị lên rồi đi theo nó. Dưới cuống cái đuôi ngắn của nó thò lò hai hòn dái to tướng.
Con chó cắt ngang bãi đất trống và lách qua một chỗ hổng ở hàng rào gỗ ra ngoài. Nakata ra theo và con chó không hề ngoái nhìn lại lấy một lần. Chắc hẳn nghe tiếng chân của Nakata, nó biết là lão đang ở đằng sau nó. Khi đến gần khu buôn bán, phố xá đông đúc hơn, phần lớn là các bà nội trợ đi mua sắm. M nhìn thẳng về phía trước, con chó bước tiếp, tư thế oai nghiêm. Trông thấy con thú khổng lồ, dữ tợn ấy, mọi người vội né sang bên, thậm chí vài người còn xuống xe đạp, dắt sang bên kia đường để tránh phải đối mặt với nó.
Đi sau con quái vật ấy khiến cho Nakata có cảm giác là mọi người tránh xa mình. Có thể họ nghĩ là lão dắt chó đi dạo mà không cần dây xích. Và quả thật, một số người bắn vào lão những tia nhìn trách móc. Điều đó làm cho lão buồn. Tôi làm thế không phải vì tôi muốn thế, lão những muốn phân trần với họ, Nakata này đang bị con chó này dắt đi. Nakata này không phải là một người mạnh, mà là một kẻ yếu.
Lão đi cách con chó một quãng xa. Cả hai qua mấy ngã tư và ra khỏi khu phố buôn bán. Con chó phớt lờ đèn tín hiệu giao thông ở các ngã tư. Đường phố không rộng lắm, xe cộ chạy không nhanh, nên qua đường khi đang đèn đỏ cũng chẳng mấy nguy hiểm. Các lái xe dận phanh gấp khi thấy con vật to đùng ấy trước mũi xe. Còn nó thì nhe nanh, nhìn chòng chọc vào người tài xế và tiếp tục lững thững qua đường với vẻ thách thức. Nakata cảm thấy rõ con chó thừa biết đèn giao thông có nghĩa là thế nào, nhưng nó cố tình phớt lờ đi. Con vật này đã quen thói chỉ làm theo ý mình.
Nakata không còn biết mình đang ở đâu nữa. Lúc đi ngang qua một khu nhà ở thì lão nhận ra nơi đó thuộc quận Nakano quen thuộc, nhưng rồi khi rẽ vào một phố khác thì lão mù tịt. Nakata cảm thấy lo lo. Ngộ nhỡ lạc và không tìm thấy đường về thì lão biết làm sao đây? Lão biết là đây không còn là địa bàn quận Nakano nữa. Lão vươn cổ cò, cố tìm những điểm mốc quen thuộc, nhưng chẳng thấy. Đây là một khu phố lão chưa từng đặt chân tới.
Tỉnh bơ, con chó vẫn đi tiếp, giữ một nhịp mà nó biết Nakata có thể theo kịp, đầu cất cao, tai vểnh, hai hòn dái lủng lẳng như cái quả lắc đồng hồ.
“Này, đây có còn là quận Nakano không?” Nakata
Con chó không trả lời, cũng chẳng buồn ngoảnh lại.
“Cậu làm việc cho ông tỉnh trưởng phải không?”
Vẫn không có câu trả lời.
“Nakata này chỉ muốn tìm một con mèo lạc thôi. Một con mèo mai rùa, tên là Goma.”
Vô công.
Chẳng ăn thua gì và lão thôi không hỏi nữa.
Đến một khu cư xá yên tĩnh, nhiều nhà to nhưng không người qua lại, con chó mạnh bạo đi qua hai cánh cửa mở của một cái cổng lớn kiểu cổ dẫn vào một ngôi nhà có tường đá cũ bao quanh. Một chiếc xe hơi lớn đậu ở một ga-ra trống – nó cũng to và đen bóng như con chó. Cửa trước của ngôi nhà cũng mở. con chó vào thẳng bên trong, không chút do dự. trước khi bước vào theo, Nakata cởi đôi giầy vải cũ, xếp gọn gàng bên ngoài cửa, nhét cái mũ giang hồ vào bị và phủi những lá cỏ bám trên quần. con chó đứng đấy, chờ Nakata sửa lại y phục cho chỉnh tề rồi theo một hành lang lát gỗ bóng loáng dẫn lão đến một nơi có vẻ là phòng khách hay thư viện.
Căn phòng tối om. Mặt trời đã sắp lặn hẳn, tấm rèm dày nặng ở cửa sổ nhìn ra vườn đã kéo lại. Không có ngọn đèn nào bật sáng. Ở cuối phòng là một bàn giấy lớn và hình như có ai ngồi cạnh đó. Nakata biết mình phải đợi cho quen mắt mới nói chắc được, còn lúc này chỉ thấy vật vờ một bóng đen giống như hình cắt giấy thôi. Khi Nakata vào trong phòng, cái bóng, ngồi trên một chiếc ghế xoay – từ từ quay lại phía lão. Nhiệm vụ đã hoàn thành, con chó dừng lại, nằm phịch xuống sàn, nhắm mắt lại.
“Xin chào,” Nakata nói với cái bóng đen.
Người kia không nói gì
“Tên tôi là Nakata, xin lỗi vì đã quấy rầy, nhưng không phải là tôi đột nhập.”
Vẫn không thấy trả lời.
“Con chó này bảo tôi đi theo nó, cho nên tôi tới đây. Xin thứ lỗi, nhưng tại con chó cứ xồng xộc vào, và tôi vào theo nó. Nếu ngài cho phép thì tôi xin đi ngay thôi.”
“Hãy ngồi vào chiếc ghế kia nếu bác muốn,” người kia nói, giọng nhỏ nhẹ nhưng hách dịch.
“Vâng, tôi xin ngồi,” Nakata nói và ngồi xuống chiếc ghế bành. Ngay cạnh lão, con chó nằm im như một pho tượng. “Ngài có phải là tỉnh trưởng không ạ?”
“Đại khái thế,” người kia nói từ trong bóng tối. “Nếu nghĩ vậy làm bác thấy thoải mái hơn thì cứ việc tin là thế đi. Cái đó không quan trọng.”
Y xoay người, kéo một sợi dây để bật một ngọn đèn sàn. Một ánh sáng vàng, kiểu đèn thời cổ, yếu ớt nhưng vừa đủ cho căn phòng.
Trước mặt lão là một người đàn ông cao, gầy, đội một cái mũ lụa màu đen. Y ngồi trên một chiếc ghế xoay bọc da, hai chân bắt tréo trước mặt. Y mặc một cái áo đuôi tôm màu đỏ vừa khít bên ngoài một chiếc vest đen, một chiếc quần trắng như tuyết bó sát và đi ủng cao màu đen. Một tay y đưa lên vành mũ như đang lễ phép ngả mũ chào một công nương. Tay trái y cầm một chiếc can màu đen với núm đầu dát vàng. Nhìn chiếc mũ, Nakata chợt nghĩ: đây hẳn là kẻ bắt mèo.
Nét mặt người này không đến nỗi dị thường như trang phục của y. cách nào đó, y là một thứ trung dung – giữa trẻ và già, giữa đẹp và xấu. lông mày rậm và sắc, má hồng hào, mặt nhẵn thín không chút râu ria. Bên dưới đôi mắt him him, một nụ cười lạnh lùng phảng phất trên môi y. một loại mặt khó nhớ, t là vì trang phục kỳ dị của y mới chính là cái bắt mắt. hẳn là người ta sẽ không nhận ra y trong một bộ đồ khác.
“Bác biết tôi là ai chứ?”
“Không, thưa ngài,” Nakata nói.
Y có vẻ hơi chưng hửng.
“Có chắc không?”
“Chắc ạ. Tôi quên không thưa rằng Nakata này chẳng thông minh sáng láng gì.”
“Bác chưa từng gặp tôi bao giờ ư” y đứng dậy khỏi ghế, đến cạnh Nakata, một chân nhấc lên như kiểu đang bước đi. “Không gợi nhớ chút gì ư?”
“Không, xin lỗi, tôi không sao nhận ra ngài.”
“Tôi hiểu. Vậy có lẽ bác không phải là dân nghiện whisky.”
“Đúng thế. Nakata này không uống rượu cũng không hút thuốc. Tôi nghèo, sống nhờ chợ cấp, lấy đâu ra tiền mà rượu chè.”
Người kia ngồi trở lại, hai chân bắt tréo. Y nhấc một chiếc ly trên bàn, tợp một ngụm whisky. Những cục đá lanh canh trong ly. “Vô phép bác.”
“Không dám. Xin ngài cứ tự nhiên.”
“Cám ơn,” y nói, mắt đăm đăm dõi vào Nakata. “Vậy bác thực sự không biết tôi là ai?”
“Xin lỗi, nhưng quả tình tôi không biết.”
Người kia khẽ nhếch môi. Trong một thoáng nụ cười lạnh lùng hiện trên môi y như một gợn sóng làm nhăn mặt nước, biến mất rồi lại hiện lên. “Bất cứ ai khoái whisky ắt sẽ nhận ra tôi ngay lập tức, nhưng không sao. Tên tôi là Johnnie Walker. Johnnie Walker. Hầu như mọi người đều biết tôi. Không phải khoe, chứ tôi nổi tiếng khắp thế giới. Có thể nói là một gương mặt biểu tượng. Tất nhiên tôi không phải là Johnnie Walker thật. Tôi chẳng có liên quan gì với cái công ty sản xuất rượu ấy của nước Anh. Tôi chỉ mượn cái mã ngoài và tên của ông ta thôi. Con người ta phải có tên, cái mã chứ, đúng không?”
Im lặng bao trùm căn phòng, Nakata không hiểu người kia nói những gì, điều duy nhất lão nắm được là cái tên Johnnie Walker.
“Thưa ngài Johnnie Walker; ngài có phải là người ngoại quốc không ạ?”
Johnnie Walker nghiêng đầu. “Nếu nghĩ vậy khiến bác thoải mái thì xin cứ tin là thế. Hoặc không phải là thế. Bởi vì cả hai đằng đều đúng.”
Nakata hoang mang. Khác nào nói chuyện với con mèo Kawamura. “Vậy ngài vừa là người ngoại quốc, vừa không phải là người ngoại quốc. Có phải ngài muốn nói thế không?”
“Chính xác.”
Nakata không tiếp tục hỏi sâu về điểm đó nữa. “Vậy có phải ngài sai con chó này dẫn tôi đến đây không?”
“Phải,” Johnnie Walker trả lời gọn lỏn.
“Có nghĩa là… ngài có điều muốn hỏi tôi?”
“Đúng hơn là, bác có điều cần hỏi tôi,” Johnnie Walker đáp rôi nhấp một ngụm whisky nữa. “Theo tôi hiểu, bác đã trực ở cái bãi trống ấy nhiều ngày, chờ tôi xuất hiện.”
“Vâng, đúng thế. Tôi quên bẵng mất! Nakata này chẳng thông minh sáng láng gì và mau quên lắm. Đúng như ngài nói, tôi đã chờ ngài ở bãi đất trống ấy để hỏi về một con mèo mất tích.”
Johnnie Walker đập đập chiếc can đen vào cạnh chiếc ủng, tiếng bồm bộp khô khốc vang lên trong phòng, làm con chó khẽ ngọ nguậy đôi tai. “Mặt trời đang lặn, thủy triều đang xuống. Vậy tại sao ta không đi thẳng vào vấn đề,” Johnnie Walker nói. “Bác muốn gặp tôi vì con mèo ấy?”
“Vâng, đúng thế. Bà Koizumi nhờ Nakata này tìm nó. Và trong khoảng mười ngày qua, tôi đã tìm Goma khắp nơi. Ngài có biết Goma không?”
“Tôi biết nó rất rõ.”
“Và ngài có biết liệu nó đang ở đâu không?”
“Quả là tôi có biết.”
Môi hơi hé, Nakata dán mắt vào cái mũ lụa rồi nhìn xuống bộ mặt bên dưới. Đôi môi mỏng của Johnnie Walker mím chặt với vẻ tự tin.
“Nó có ở gần đây không?”
Johnnie Walker gật đầu mấy cái liền. “Có, rất gần.”
Nakata nhìn quanh phòng, nhưng chẳng thấy con mèo nào. Chỉ có cái bàn giấy, cái ghế xoay Johnnie Walker đang ngồi, cái ghế bành chính lão đang ngồi, hai cái ghế tựa khác, ngọn đèn sàn và một bàn cà phê. “Vậy tôi có thể mang con Goma về được không?” Nakata hỏi.
“Điều đó hoàn toàn tùy thuộc ở bác.”
“Tùy thuộc ở Nakata này?”
“Đúng. Tất cả tùy thuộc ở bác,” Johnnie Walker nói, một bên lông mày hơi nhướn lên. “Nếu bác quyết định làm theo yêu cầu, bác có thể mang Goma về nhà và làm cho Koizumi cùng các con gái bà ta sung sướng. Hoặc là bác sẽ chẳng bao giờ mang được nó về và do đó làm tan nát trái tim họ. Tôi đoán bác không muốn làm thế.”
“Không. Nakata này
“Tôi cũng vậy. Tôi cũng không muốn làm họ thất vọng.”
“Vậy tôi phải làm gì?”
Johnnie Walker xoay xoay chiếc can. “Tôi muốn bác làm cho tôi một việc.”
“Liệu Nakata này có làm nổi không?”
“Tôi không bao giờ yêu cầu điều bất khả thi. Làm thế chỉ tổ mất thì giờ, bác đồng ý không?”
Nakata nghĩ một lát. “Tôi đồ là thế.”
“Có nghĩa, điều tôi yêu cầu là một việc bác có thể làm được.”
Nakata lại ngẫm nghĩ. “Vâng, có lẽ là thế.”
“Thông thường, mọi luận thuyết đều có phản chứng.”
“Tôi không hiểu,” Nakata nói.
“Mỗi luận thuyết đều có phản chứng – nếu không, khoa học không thể tiến bộ được,” Johnnie Walker nói lại đập can vào ủng với vẻ thách thức. con chó lại vểnh tai lên. “Dứt khoát không thể tiến bộ được.”
Nakata im lặng.
“Nói thật tình, từ lâu tôi đã tìm kiếm một người như bác,” Johnnie Walker nói. “Nhưng không dễ gì kiếm được đúng người. Tuy nhiên, hôm nọ, tôi trông thấy bác nói chuyện với một con mèo và tôi chợt nhận ra: đây đích thị là người mình đang tìm. Chính vì thế mà tôi đã cho rước bác đến tận đây. Tôi cảm thấy áy náy để bác phải vất vả, tuy nhiên…”
“Đâu có vất vả gì, Nakata này có ối thì giờ rảnh rỗi mà.”
“Tôi đã chuẩn bị vài luận thuyết về bác,” Johnnie Walker nói. “Và dĩ nhiên là kèm theo nhiều phản chứng. Nó giống như một cuộc chơi. Phải, tôi chơi một trò chơi tinh thần. Nhưng đã chơi thì phải có bên thắng, bên thua. Trong trường hợp cụ thể này, sự thắng, thua sẽ xác định luận thuyết nào đúng, luận thuyết nào trật. Nhưng tôi nghĩ là bác không hiểu tôi đang nói gì.”
Nakata lặng lẽ gật đầu.
Johnnie Walker đập chiếc can vào ủng hai cái, hiệu lệnh cho con chó đứng dậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2012 11:59:04 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15


Oshima trèo vào chiếc Miata thể thao và bật đèn pha. Khi anh dận ga, những hòn sỏi bắn lên, gại vào gầm xe. Anh lùi xe, rồi quành lại, hướng ra đường cái. Anh giơ tay chào tạm biệt và tôi cũng làm như thế. Bóng tối nuốt chửng ánh đèn hậu, tiếng máy nổ nhỏ dần rồi tắt hẳn và rừng cây trở lại lặng tờ.
Tôi quay vào nhà và chốt cửa từ bên trong. Như thể nó đã rình sẵn, im lặng quây chặt lấy tôi một khi tôi chỉ còn một mình. Không khí ban đêm lạnh đến nỗi khó mà tin là chỉ mới vào hè, nhưng đốt lò thì đã quá muộn. Đầu tôi hơi mụ mẫm vì thiếu ngủ và cơ bắp ê ẩm vì xóc nẩy người trên xe suốt chặng đường dài. Tôi vặn nhỏ đèn. Những cái bóng trong bốn góc phòng sẫm thêm. Ngại thay đồ phiền phức, tôi cứ mặc nguyên cả quần jeans và áo khoác ngoài chui vào túi ngủ.
Tôi nhắm mắt lại nhưng không thể ngủ ngay: thân thể thì thèm nghỉ muốn chết, nhưng đầu óc lại tỉnh như sáo. Thi thoảng, một con chim phá vỡ im lặng đêm. Nhiều tiếng động khác cũng lọt vào mà tôi không xác định được - một cái gì giẫm trên lá rụng; một cái gì nặng nề khua lách cách những cành cây; một âm thanh tựa như một hơi thở sâu; thi thoảng, tiếng cọt kẹt của những bậc thềm gỗ ngoài hiên. Nghe như ở cạnh nhà. Như thể cả một đạo quân gồm những sinh vật vô hình đang bao vây tôi.
Và tôi cảm thấy như có người đang theo dõi tôi. Da tôi nhoi nhói dưới những tia nhìn phóng vào mình. Tim tôi đập thình thịch. Mấy lần, từ trong túi ngủ, tôi hé mắt ngó quanh căn phòng lờ mờ sáng để yên trí rằng không có ai khác ở đó. Cửa trước đã chốt chặt bằng chiếc then to gộc và những tấm rèm dày đã che kín các cửa sổ. Vậy là ổn cả, tôi tự nhủ, chỉ có mình mày trong phòng, làm gì có ai dòm ngó mày qua cửa sổ.
Thế nhưng tôi vẫn không rũ bỏ được cái cảm giác mình đang bị theo dõi. Cổ họng tôi khô rát và tôi thấy khó thở. Tôi cần phải uống chút nước, nhưng nếu uống thì sẽ phải đi giải, có nghĩa là phải ra ngoài. Tôi phải cầm cự đến sáng thôi. Co ro trong túi ngủ, tôi khẽ lắc đầu.
Cậu giỡn tớ đấy hả? Cậu như một thằng nhóc nhát gan, thấy im lặng và bóng tối là sợ mất vía. Cậu sắp lộ rõ bản chất yếu đuối ra trước mắt tớ chăng? Xưa nay cậu vẫn tưởng mình kiên cường, nhưng cháy nhà ra mặt chuột, giờ nom cậu như sắp sửa khóc òa lên. Nhìn kìa, tớ cuộc là cậu sắp tè ra quần rồi!
Phớt lờ thằng cu tên là Quạ, tôi nhắm nghiền mắt, kéo phéc-mơ-tuya túi ngủ đến tận dưới mũi và xua mọi ý nghĩ ra khỏi đầu. Bất cứ cái gì cũng không làm tôi mở mắt - dù là tiếng cú rúc hay vật gì rơi đánh thịch bên ngoài. Ngay cả nếu tôi cảm thấy có gì di chuyển trong nhà. Mình đang trải qua thử thách, tôi tự nhủ. Dạo bằng tuổi mình, Oshima cũng đã qua nhiều ngày một mình ở đây. Chắc anh ấy cũng đã sợ mất vía như mình. Anh ấy nói cô đơn cũng có nhiều kiểu nghĩa là thế đấy. Oshima biết đích xác cảm giác của mình khi phải đơn độc ở đây ban đêm, vì anh ấy đã trải qua cảnh ấy cùng những xúc động ấy. Ý nghĩ đó giúp tôi thư giãn một chút. Tôi cảm thấy nhưạm vào những cái bóng của quá khứ và hình dung bản thân mình như một bộ phận của quá khứ ấy. Tôi thở thật sâu rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Tôi thức giấc sau sáu giờ sáng. Không khí đầy tiếng chim chóc gọi nhau. Chúng bận rộn chuyền từ cành này sang cành khác, gọi nhau the thé. Thông điệp của chúng tuyệt nhiên không bợn chút dư vang nặng nề và hàm ẩn hãi hùng của những tiếng động đêm qua. Khi tôi kéo những rèm cửa ra, toàn bộ bóng tối bao quanh căn lều đêm qua đã biến mất không sót lại mảnh nhỏ nào. Tất cả đều lấp lánh trong một ánh vàng óng mới nhen. Tôi đốt lò, đun sôi một chút nước khoáng, pha một tách trà hoa cúc rồi mở một hộp bánh quy giòn và ăn mấy cái cùng với phó mát. Sau đo, tôi đánh răng, rửa mặt.
Tôi mặc áo gió và bước ra ngoài. Ánh ban mai rọi qua hàng cây cao tràn xuống khoảng trống trước căn lều, giữa những tia nắng lan khắp, dập dờn mấy mảng sương như những linh hồn mới sinh. Không khí tinh khiết theo mỗi hơi thở xuyên vào phổi tôi. Tôi ngồi xuống một bậc thềm, nhìn lũ chim bay liệng từ cây này sang cây khác, nghe tiếng chúng gọi nhau. Phần lớn bay từng cặp, luôn luôn kiểm tra xem bạn mình đang ở đâu, không ngừng líu lo để giữ liên lạc.
Tôi lần theo tiếng nước róc rách và tìm ngay ra con suối ở gần đấy. Ở một chỗ, giữa những tảng đá quây tròn, nước tràn vào thành vũng, xoáy tít từng vòng trước khi ào ra trở lại dòng chính. Nước suối trong và đẹp. Tôi lấy tay vốc, uống thử - mát tuyệt - rồi thả tay xuống dòng nước chảy xiết.
Trở về lều, tôi rán giăm bông với trứng trong chảo, nướng bánh bằng vỉ sắt và đun sữa trong xoong. Ăn xong, tôi kéo ghế ra ngoài hiên, gác chân lên lan can, đọc cả buổi sáng. Tủ sách của Oshima đầy ự sách - hàng mấy trăm quyển. Chủ yếu là sách kinh điển, chỉ có một số tiểu thuyêt. Phần lớn là sách về triết học, xã hội học, lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên, kinh tế học - rất nhiều đề tài, đủ mọi lĩnh vực. Oshima đã nói là anhấy theo học ở trường chẳng được mấy, cho nên đây hẳn là cách anh ấy tự trau dồi văn hóa.
Tôi lấy một cuốn về vụ án Adolf Eichmann. Tôi mang máng biết hắn là một tên Đức quốc xã tội phạm chiến tranh, nhưng không đặc biệt quan tâm đến hắn. Cuốn sách chỉ tình cờ bắt mắt tôi, vậy thôi. Tôi bắt dầu đọc và được biết tên trung tá SS có đầu óc cực kỳ thực tế, đeo cặp kính gọng kim loại và mái tóc lưa thưa này, ngay sau khi chiến tranh bùng nổ đã được tổng hành dinh Đức quốc xã giao cho thiết kế một "giải pháp cuối cùng" dành cho dân Do Thái - có nghĩa là hủy diệt. Và hắn đã nghiên cứu cách tốt nhất để thực hiện "giải pháp" này. Rõ ràng hắn chẳng mấy bận tâm đến vấn đề đạo lý của công việc hắn làm. Điều duy nhất hắn quan tâm là làm sao để thực hiện tốt nhất, nhanh nhất và đỡ tốn kém nhất việc thủ tiêu những người Do Thái. Theo tính toán của hắn, thì số người Do Thái ở châu Âu cần xoá sổ lên tới khoảng mười một triệu [3].
Eichmann nghiên cứu xem có thể lèn bao nhiêu người Do Thái vào một toa xe lửa, bao nhiêu phần trăm có thể chết vì những nguyên nhân "tự nhiên" trong khi vận chuyển, số nhân viên tối thiểu cần thiết để tiến hành nhiệm vụ này, phương pháp rẻ nhất để tiêu hủy các xác chết - hỏa thiêu, hay chôn, hay hòa tan bằng hóa chất. Ngồi ở bàn giấy, Eichmann suy đi tính lại những con số ấy. Một khi hắn đưa vào thực thi, mọi sự đều diễn ra đúng như kế hoạch. Trước khi chiến tranh kết thúc, sáu triệu người Do Thái (hơn một nửa chỉ tiêu hắn đề ra) dã bị thủ tiêu. Kỳ lạ thay, hắn không hề cảm thấy ăn năn. Ngồi sau tấm kính chống đạn, giữa tòa án Tel Aviv, Eichmann có vẻ hết sức ngỡ ngàng không sao hiểu nổi duyên cớ gì mà hắn lại bị đưa ra xét xử, hoặc vì sao toàn thế giới đều chú mục vào hắn. Hắn nhấn đi nhấn lại rằng hắn chỉ là một kỹ thuật viên đã tìm ra giải pháp hiệu quả nhất cho nhiệm vụ hắn được giao. Chẳng phải hắn đã làm đúng những gì mà mọi viên chức tốt đều phải làm đó ư? Vậy tại sao hắn lại bị tách riêng ra để kết tộ
Ngồi trong cánh rừng tĩnh mịch với tiếng chim ríu rít xung quanh, tôi đọc câu chuyện của con người có "đầu óc thực tế" ấy. Ở cuối sách, trên một trang giấy trắng, có một đoạn ghi bằng bút chì của Oshima. Nét chữ anh ta rất dễ nhận: Tất cả vấn đề là ở trí tưởng tượng. Trách nhiệm của chúng ta bắt đầu với khả năng tưởng tượng. Đúng như Yeats nói: Trách nhiệm bắt đầu từ trong mơ. Đảo ngược lại, ta có thể nói không có khả năng tưởng tượng thì không thể phát sinh trách nhiệm. Đúng như ta thấy ở trường hợp Eichmann.
Tôi hình dung Oshima ngồi trên chiếc ghế này, ta cầm cây bút chì vót nhọn quen thuộc, ngẫm lại nội dung cuốn sách và ghi cảm tưởng. Trách nhiệm bắt đầu từ trong mơ. Câu dẫn thật trúng.
Tôi gấp sách lại, để trên lòng và nghĩ về trách nhiệm của chính mình. Tôi không thể không nghĩ. Chiếc áo phông trắng của tôi đẫm máu tươi. Tôi đã giặt sạch máu bằng đôi bàn tay này, nhiều máu đến nỗi đỏ cả bồn rửa. Tôi tưởng tượng mình sẽ bị buộc trách nhiệm về sự đổ máu này. Tôi cố hình dung mình bị xử ở một phiên tòa, những người bên nguyên nằng nặc kết tội tôi, phẫn nộ chỉ mặt tôi và quắc mắt nhìn tôi. Tôi cố cãi rằng không thể buộc trách nhiệm cho một người về một điều mà anh ta không nhớ nổi. Tôi hoàn toàn không biết điều gì đã thực sự xảy ra, tôi nói với họ thế. Nhưng họ vặn lại như thế này: "Ai là người đầu tiên mơ thấy thế, điều đó không quan trọng. Nhưng anh cũng mơ đúng như thế, vậy thì anh phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì diễn ra trong giấc mơ ấy. Giấc mơ ấy đã theo hành lang tăm tối của tâm hồn anh mà luồn lách vào trong anh đó."
Hệt như Adolf Eichmann mặc nhiên vướng vào những giấc mơ vĩ cuồng quái đản của một người tên là Hitler vậy.
Tôi đặt sách xuống, đứng dậy vươn vai. Tôi đã đọc khá lâu và cần đứng dậy, đi quanh quanh một chút. Tôi xách cái xô nhôm cạnh bồn rửa ra suối múc nước. Sau đó, tôi ôm một ôm củi từ lán sau vào để cạnh bếp lò.
Ở góc hiên, có một sợi dây nilông để phơi quần áo. Tôi lấy mớ quần áo ẩm trong balô ra, vuốt cho phẳng và đem phơi. Tôi lôi tất cả những thứ khác ra khỏi balô, rải lên giường rồi ngồi vào bàn ghi nhật ký. Tôi dùng một cái bút ngòi nhỏ ghi lại bằng chữ rất nhỏ tất cả những gì đã xảy đến với tôi trong mấy ngày qua. Tôi không biết liệu mình có thể nhớ mọi chi tiết được bao lâu, cho nên tốt nhất là cứ ghi lại càng sớm càng tốt. Tôi lục soát trí nhớ. Nào là tôi đã bất tỉnh rồi tỉnh lại trong rừng đằng sau một miếu thờ như thế nào. Đêm tối và cái áo phông đẫm máu. Nào là gọi điện cho Sakura, qua đêm ở chỗ cô, trò chuyện với nhau, và cô làm cái ấy cho tôi như thế nào.
Cô ấy nói: Mình không hiểu đấy. Cậu không việc gì phải nói với mình điều ấy. Tại sao cậu không mặc nhiên tưởng tượng cái gì cậu thích? Cậu không cần phải xin phép mình. Làm sao mình có thể biết được cái gì ở trong đầu cậu?
Nhưng cô ấy hiểu trật. Điều tôi tưởng tượng có thể là rất quan trọng. Vô cùng quan trọng trên đời.
Chiều hôm đó, tôi quyết đi vào rừng. Oshima bảo đi quá sâu vào trong rừng là nguy hiểm. Phải giữ sao cho căn lều bao giờ cũng ở trong tầm nhìn, anh ấy dặn tôi thế. Nhưng có lẽ tôi sẽ ở đây dăm bảy ngày, vậy tôi nên biết đôi chút về bức-tường-rừng-cây đồ sộ bao quanh tôi chứ. Tôi nghĩ biết một chút còn hơn không biết gì. Hai tay không, tôi chào tạm biệt quãng trống tươi nắng và dấn bước vào rừng rậm âm u.
Có một con đường mòn thô sơ tạo nên bởi bước chân người xuyên rừng, phần lớn nương theo địa hình, nhưng đây đó có lát những phíên đá phẳng cho dễ đi. Những chỗ bị xói mòn được gia cố bằng ván gỗ, nên ngay cả nếu cỏ dại mọc tràn lấn, vẫn không mất dấu con đường. Có lẽ anh trai của Oshima đã sửa sang dần con đường ngày một ngày hai, mỗi lần anh ấy lưu lại đây. Tôi theo con đường này vào rừng, thoạt đầu đầu lên dốc rồi xuôi xuống, lượn vòng một khối đá cao trước khi lại đi lên. Nói chung, đa phần là đi lên nhưng không đến nỗi dốc lắm. Hai bên là những cây cao thân xỉn với những cành to chĩa khắp ngả và vòm lá bên là xòe tán trên đầu. Phía dươi,sẽ đám cây bụi và dương xỉ ráng hết sức hấp thụ những tia nắng lọt xuống, được chừng nào hay chừng nấy. Ở những chỗ mặt trời không rọi đến, rêu lặng lẽ phủ đầy những tảng đá.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách