Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tâm Lý - Xuất Bản] Giết Con Chim Nhại | Harper Lee (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 6-2-2013 16:51:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12
(tiếp theo)

“Sao cô ấy không mang chúng theo, mục sư?” Tôi hỏi. Những người Da đen có con nhỏ mà phải làm việc ngoài đồng thường đặt chúng dưới bất cứ bóng mát nào ở đó trong khi họ làm việc - thường thì những đứa bé ngồi trong bóng mát giữa hai hàng cây vải bông. Những đứa chưa tự ngồi vững thì được buộc vào những túi địu trên lưng mẹ chúng, hoặc ở trong những túi vải họ mang theo.

Mục sư Sykes ngập ngừng. “Nói thật với cô, cô Jean Louise. Hồi này Helen khó mà tìm được việc làm... khi đến mùa gặt hái, ta nghĩ ông Link Deas sẽ nhận cô ấy”.

“Sao không, mục sư?”

Trước khi ông kịp trả lời, tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia đặt lên vai tôi. Trước sức ép của nó, tôi nói, “Chúng cháu cảm ơn ông vì đã cho chúng cháu đến”. Jem lặp lại lời tôi, và chúng tôi lên đường về nhà.

“Cal, con biết Tom Robinson đang ở tù và anh ta đã làm điều gì đó khủng khiếp, nhưng tại sao người ta không thuê Helen vậy?” Tôi hỏi.

Calpurnia, trong bộ áo váy voan xanh nước biển và chiếc mũ hải quân, đi giữa Jem và tôi nói. “Đó là do những gì người ta cho là Tom đã làm” bà nói. “Người ta đâu có muốn...dính líu đến một ai trong gia đình anh ta”.

“Thế anh ta đã làm gì vậy, Cal?”

Calpurnia thở dài. “Lão già Bob Ewell đã buộc anh ta tội cưỡng hiếp con gái lão ta và khiến anh ta bị bỏ tù...”

“Ông Ewell?” Ký ức tôi khuấy động. “Anh ta có quan hệ gì với mấy thằng Ewell chỉ đến trường ngày đầu năm học rồi nghỉ luôn không? Bố Atticus nói họ là thứ hoàn toàn không ra gì... Con chưa từng nghe bố Atticus nói về người khác theo kiểu ông nói về người nhà Ewell. Ông nói...”

“Phải, chính cái nhà đó đó”.

“Nếu ai ở Maycomb cũng biết người nhà Ewell là thế nào, thì họ phải vui vẻ thuê Helen chứ... mà cưỡng hiếp là gì vậy, Cal?”

“Đó là điều mà cô nên hỏi ông Finch,” bà nói, “ông có thể giải thích nó rõ hơn tôi. Cô cậu đói chưa? Ông mục sư mất nhiều thời gian giải quyết công việc sáng nay quá, thường thì ông không chán ngắt như thế”.

“Ông ấy cũng giống như Cha giảng đạo của tụi con,” Jem nói, “nhưng sao mọi người ở đây hát thánh ca theo kiểu đó?”

“Hát theo hả?” Bà hỏi.

“Nó gọi là vậy phải không?”

“Phải, nó được gọi là hát theo. Người ta làm thế từ lâu lắm rồi”.

Jem nói họ có thể để dành tiền quyên góp trong một năm để mua sách thánh ca.

Calpurnia bật cười. “Chẳng ăn thua gì” bà nói. “Họ đâu có biết đọc”.

“Không biết đọc?” Tôi hỏi. “Tất cả à?”

“Đúng vậy” Calpurnia gật đầu. “Không biết đọc, cả giáo xứ First Purchase này đều không biết đọc trừ khoảng bốn người... trong đó có tôi”.

“Bà học trường nào vậy, Cal?” Jem hỏi.

“Chẳng ở trường nào cả. Cô cậu muốn biết ai dạy chữ cho tôi hả? Đó là gì của cô Maudie Atkinson, cô Buford già...”

“Bà già tới vậy sao?”

“Tôi già hơn cả ông Finch nữa đó”. Calpurnia mỉm cười. “Nhưng chắc không lớn hơn bao nhiêu. Có lần chúng tôi bắt đầu nhớ lại, ráng tính xem tôi bao nhiêu tuổi... Tôi có thể nhớ xa hơn ông ấy vài năm, tức là tôi không lớn hơn ông ấy nhiều lắm, khi đó mình rút ra kết luận rằng đàn ông không nhớ dai bằng đàn bà”.

“Sinh nhật của bà là ngày nào, Calpurnia?”

“Tôi cứ cho nó trùng với Giáng sinh, như thế dễ nhớ hơn - tôi không có ngày sinh nhật thật”.

“Nhưng bà Cal này,” Jem phản đối, “trông bà thậm chí còn chưa già bằng bố Atticus”.

“Người da màu không lộ vẻ già nua nhanh lắm” bà nói.

“Chắc tại họ không biết đọc. Cal, bộ bà dạy Zeebo đọc hả?”

“Phải, cậu Jem. Hồi nó còn nhỏ, thậm chí ở đây một ngôi trường cũng chưa có nữa. Dù vậy tôi vẫn bắt nó học”.

Zeebo là con trai lớn của Calpurnia. Nếu tôi từng nghĩ về điều này, hẳn tôi đã nhận ra từ trước kia rằng Zeebo đã tới tuổi trưởng thành rồi - Zeebo đã có con hơi lớn rồi - nhưng hồi đó tôi không nghĩ ra được như vậy.

“Bà dạy anh ấy theo một cuốn sách vỡ lòng, như tụi con vậy hả?” Tôi hỏi.

“Không, tôi bắt nó học mỗi ngày một trang Kinh Thánh, còn cô Buford thì dạy tôi theo một cuốn sách khác - tôi chắc là cô cậu không biết ở đâu mà tôi có được nó” bà nói.

Chúng tôi không biết.

Calpurnia nói, “Cụ nội Finch của cô cậu cho tôi đó”.

“Bà từng ở Landing hả?” Jem hỏi. “Bà chưa hề kể cho tụi con nghe chuyện đó”.

“Phải rồi, cậu Jem. Tôi lớn lên ở đó giữa điền trang nhà Buford với Landing. Suốt ngày tôi phải làm việc hoặc cho Buford hoặc cho Landing, và tôi chuyển đến Maycomb khi bố và mẹ cô cậu cưới nhau”.

“Cuốn sách đó là cuốn gì vậy?” Tôi hỏi Cal.

Commetaries của BlackStone [7]”.

Jem kinh ngạc. “Ý bà là bà đã dạy Zeebo theo cuốn đó hả?”

“Phải, thưa cậu Jem”. Calpurnia rụt rè đưa những ngón tay lên che miệng. “Tôi chỉ có mấy cuốn đó. Ông nội cậu nói Blackstone viết tiếng Anh rất chuẩn...”

“Đó là lý do tại sao bà không ăn nói giống như những người còn lại đó” Jem nói.

“Những người còn lại nào?”

“Những người da màu khác. Cal, nhưng bà ăn nói giống như người ta ăn nói trong nhà thờ...”

Tôi chưa từng nghĩ Cal có một cuộc sống kép giản dị. Ý nghĩ bà có một cuộc sống riêng lẻ ngoài gia đình tôi là một ý tưởng mới lạ, chưa nói đến chuyện bà thông thạo hai loại ngôn ngữ.

“Cal,” tôi hỏi, “sao bà dùng lối-nói-mọi-đen với... với người của bà trong khi bà biết nói thế không đúng?”

“Ờ thì, thứ nhất tôi là người da đen...”

“Điều đó không có nghĩa là bà phải nói theo cách đó khi bà hiểu biết nhiều hơn” Jem nói.

Calpurnia nghiêng mũ và gãi đầu, rồi cẩn thận kéo mũ trùm xuống tai. “Quả là khó noi” bà nói. “Giả sử như cậu và Scout dùng lối nói của người da màu ở nhà thì quả là không phù hợp, phải không? Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu như tôi dùng lối nói của người da trắng tại nhà thờ này, với người hàng xóm của tôi? Họ sẽ nghĩ tôi làm ra vẻ ta đây hơn người”.

“Nhưng Cal, bà biết nhiều hơn cơ mà” tôi nói.

“Không cần thiết phải nói mọi điều mình biết. Như thế không đúng kiểu quý cô - thứ hai, người ta không thích xung quanh ai đó biết nhiều hơn họ. Nó làm cho họ bực thêm. Cô sẽ không thay đổi được bất kỳ ai trong số họ bằng việc nói đúng, tự họ phải cảm thấy muốn học hỏi, và khi họ không muốn học thì cô chẳng thể làm gì ngoài việc im miệng hoặc nói bằng thứ ngôn ngữ của họ”.

“Cal, thỉnh thoảng con có thể đến gặp bà không?” Tôi hỏi.

Calpurnia nhìn xuống tôi, “Gặp tôi, bé cưng? Cô gặp tôi mỗi ngày mà”.

“Tới nhà bà đó” tôi nói. “Đôi khi sau giờ làm việc được không? Bố Atticus có thể dẫn con tới”.

“Bất cứ lúc nào cô muốn” bà nói. “Chúng tôi rất vui được đón cô”.

Chúng tôi đang đi trên lề đường ngang nhà Radley.

“Nhìn hàng hiên đằng kia kìa” Jem nói.

Tôi nhìn sang nhà Radley, mong được thấy con người bí ẩn đó đang sưởi nắng trên xích đu. Chiếc xích đu trống trơn.

“Ý tao nói hiên nhà mình kìa” Jem nói.

Tôi nhìn xuôi theo con đường. Thích chí, thẳng tưng, kiên quyết không rời, bà Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh chính xác như thể bác đã ngồi đó từng ngày một suốt cả đời bác.

Chú thích:

[1] Biểu tình ngồi lì: một vũ khí hữu hiệu của giới công nhân ở thời đại khủng hoảng kinh tế, họ ngồi tại xưởng, họ không làm việc và không cho ai khác làm việc, cho đến khi giới chủ chịu đàm phán với họ.

[2] Một trong ba người bị vua Nebuchadnezzar ném vào lò lửa, theo sách Daniel trong Cựu ước. Nhờ đức tin vào Thiên chúa, cả ba thoát nạn không chút hề hấn.

[3] Mardi Gras (gốc tiếng Pháp, nghĩa đen là thứ Ba béo): đợt lễ hội, vui chơi và diễu hành khi bước vào tuần chay mùa Phục sinh của người Công giáo, bắt đầu bằng thứ Tư lễ Tro.

[4] Nghĩa là món mua sắm đầu tiên.

[5] Nghĩa là: Ánh sáng của thế gian

[6] Kinh thánh tiếng Việt phiên âm thành Ghếtsêmani: nơi Jesus tới cầu nguyện vào đêm trước khi bị đóng đinh trên thập giá.

[7] Một trong những tác phẩm quan trọng nhất về luật pháp của Anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 09:08:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13

Để túi của tôi vào phòng ngủ đằng trước, Calpurnia” là câu đầu tiên bác Alexandra nói. “Jean Louise, thôi gãi đầu đi” là câu thứ hai bác nói.

Calpurnia xách chiếc va li nặng trịch của bác lên và mở cửa. “Để con xách cho” Jem nói, và đón lấy nó. Tôi nghe tiếng va li rớt xuống nền phòng ngủ cái rầm. Âm thanh kéo dài trầm đục.

“Bác đến chơi hả” tôi hỏi. Những cuộc viếng thăm từ Landing của bác Alexandra thường hiếm, và bác du lịch trong tư thế người giàu có và cao sang. Bác có một chiếc Buick tinh tươm màu xanh lá cây và một tài xế da đen, cả xe lẫn người luôn phải ở trong tình trạng ngăn nắp đến bệnh hoạn, nhưng hôm nay chẳng thấy cả hai đâu.

“Bố các cháu không nói với các cháu hả?” Bác hỏi.

Jem và tôi lắc đầu.

“Có lẽ ông ấy quên. Bố các cháu chưa về hả?”

“Chưa. Bố cháu thường về muộn” Jem nói.

“À, bố cháu và ta quyết định đã đến lúc ta đến ở với các cháu một thời gian”.

“Một thời gian” ở Maycomb có nghĩa là từ ba ngày đến ba mươi năm. Jem và tôi liếc nhìn nhau.

“Jem giờ đã lớn, và cháu cũng vậy” bác nói với tôi. “Bố cháu với ta quyết định rằng có một số ảnh hưởng nữ giới là tốt nhất cho cháu. Jean Louise, không lâu nữa cháu sẽ quan tâm đến quần áo và bọn con trai...”

Tôi có thể đưa ra nhiều câu trả lời cho điều này: Cal là con gái, phải nhiều năm nữa tôi mới để ý đến bọn con trai, tôi sẽ không bao giờ quan tâm đến quần áo... nhưng tôi giữ im lặng.

“Còn bác Jimmy?” Jem hỏi. “Bác ấy cũng đến chứ?”

“Ồ, không, ông ấy ở Landing. Ông coi sóc công việc ở đó”.

Ngay lúc mở miệng hỏi, “Bác không nhớ bác ấy sao?” thì tôi nhận ra ngay đây là một câu hỏi không tế nhị. Bác Jimmy hiện diện hay bác Jimmy vắng mặt có khác nhau đâu, bác không hề nói bất cứ câu gì. Bác Alexandra phớt lờ câu hỏi của tôi.

Tôi chẳng nghĩ được điều gì khác để nói với bác. Thực tế tôi chưa hề nghĩ đến điều gì để nói với bác, và tôi ngồi nghĩ về những cuộc nói chuyện chán ngắt giữa chúng tôi trước đây: cháu thế nào Jean Louise? Cháu khỏe, cám ơn bác, còn bác thì sao? Rất khỏe, cám ơn, lâu nay cháu sinh hoạt thế nào? Không có gì cả. Cháu không làm gì cả à? Không thưa bác. Chắc cháu có bạn? Dạ có. Bọn cháu làm gì? Không làm gì hết.

Rõ ràng là bác nghĩ tôi cực kỳ ngu ngốc, bởi vì có lần tôi nghe bác nói với bố Atticus rằng trông tôi lờ đờ.

Có một chuyện gì đó đằng sau tất cả vụ này nhưng tôi không có ý muốn gặng hỏi bác. Hôm nay là Chủ nhật, và bác Alexandra chắc chắn dễ cáu vào ngày của Chúa. Tôi đoán đó là do cái áo nịt ngực mặc ngày Chủ nhật của bác. Bác không mập, nhưng to con, và bác chọn thứ quần áo bảo vệ nâng ngực của bác tới độ cao chóng mặt, siết chặt eo bác, xòe ra phần mông, và tạo ấn tượng rằng bác Alexandra từng có vóc dáng của một cái đồng hồ cát. Từ bất cứ góc độ nào nó cũng gây ấn tượng khả kính.

Buổi chiều còn lại trôi qua trong không khí ảm đạm nhè nhẹ vốn thường xảy ra khi có bà con xuất hiện, nhưng tan biến ngay khi chúng tôi nghe tiếng xe hơi quẹo vào lối vào nhà. Đó là bố Atticus, từ Montgormery trở về. Jem, quên mất vị thế của mình, chạy ào ra cùng tôi đón ông. Jem cầm lấy cặp và túi của ông, tôi bổ nhào vào cánh tay ông, cảm thấy cái hôn khô khan mơ hồ của ông và nói, “Bố có đem sách về cho con không? Bố có biết bác ở đây không?”

Bố Atticus trả lời hai câu hỏi bằng thể khẳng định. “Tụi con chắc thích lắm khi bác đến sống với mình?”

Tôi nói tôi rất thích, đó là lời nói dối, nhưng người ta phải nói dối trong những tình huống nào đó và vào mọi lúc mà người ta chẳng thể thay đổi gì được nó.

“Bác với bố cảm thấy đây là thời điểm bọn trẻ các con cần... giống như lúc này, Scout”. Bố Atticus nói. “Bác giúp ích cho bố cũng như cho các con. Bố không thể ở nhà suốt ngày với tụi con, và mùa hè này sẽ nóng đấy”.

“Vâng, thưa bố” tôi nói, không hiểu một lời nào ông nói. Tuy nhiên tôi có ý nghĩ rằng sự có mặt của bác Alexandra không phải là do ý của bố Atticus mà đúng hơn là ý của chính bác. Bác có một kiểu tuyên bố Điều Gì Là Tốt Nhất Cho Gia Đình, và tôi cho rằng việc bác đến sống với chúng tôi nằm trong kiểu đó.

Maycomb chào đón bác. Cô Maudie Atlkinson nướng chiếc bánh nướng Lane pha quá nhiều rượu làm tôi say; cô Stephanie Crawford đến chơi lâu với bác Alexandra, phần lớn thời gian cô Stephanie chỉ lắc đầu và kêu, “Ừ, ừ, ừ”. Cô Rachel cạnh nhà mời bác tôi sang uống cà phê vào các buổi chiều, và ông Nathan Radley còn bước ra sân trước và nói ông ta rất vui được gặp bác.

Khi bác đến ở với chúng tôi và cuộc sống trở lại nhịp điệu hàng ngày của nó, thì bác Alexandra làm như là đã luôn luôn sống với chúng tôi từ xưa đến nay vậy. Những món ăn nhẹ đãi Hội truyền giáo của bác làm tăng thêm danh tiếng bà chủ nhà của bác (bác không cho phép Calpurnia làm những món ăn đặc biệt cần có để Hội đủ sức trải qua những báo cáo dài về người Thiên chúa giáo thuộc thế giới thứ ba); bác gia nhập và trở thành thư ký của Câu lạc bộ Thư ký Maycomb. Đối với tất cả các nhóm hiện có và tham gia vào đời sống của hạt, bác Alexandra là người cuối cùng thuộc lớp người cả bác: bác có cung cách của thời người ta học trường nội trú, đi phà trên sông; cứ để cho mọi bài học đạo đức xuất hiện và bác sẽ tuân theo nó; bác được sinh ra trong một trường hợp khách quan; bác là một người lắm chuyện vô phương cứu chữa. Hồi bác Alexandra còn đi học, sự tư vấn không hề có trong bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, vì vậy bác không có nghĩa của nó. Bác không bao giờ buồn chán, và khi có được cơ hội nhất bác sẽ sử dụng đặc quyền làm bà chúa của mình: bác sẽ bố trí, khuyên bảo, dặn dò, và cảnh báo.

Bác không bao giờ bỏ lỡ cơ hội chỉ ra những thiếu sót của các nhóm thuộc dòng họ khác nhằm cho thấy sự vinh quang lớn hơn của dòng họ chúng tôi, một thói quen giúp vui cho Jem hơn là làm anh ấy bực mình, “Bác Alexandra nên cẩn thận với cách bác nói chuyện - bới lông tìm vết hầu hết người dân ở Maycomb trong khi họ cũng là họ hàng của chúng ta”.

Bác Alexandra, khi nhấn mạnh bài học về vụ tự tử của Sam Merriweather trẻ, đã nói đó là dấu vết bệnh tật trong dòng họ. Nếu có một cô gái mười sáu tuổi cười rúc rích trong đội đồng ca thì bác sẽ nói, “Chuyện xảy ra chỉ để cháu thấy tất cả phụ nữ nhà Penfield đều nông nổi”. Có vẻ như mọi người ở Maycomb đều có một Dấu vết: Dấu vết Say xỉn, Dấu vết Cờ bạc, Dấu vết Ích kỷ, và Dấu vết Lập dị.

Một lần, khi bác cam đoan với chúng tôi rằng xu hướng quan tâm đến công việc của người khác ở cô Stephanie Crawford là di truyền, bố Atticus nói, “Bà chị, khi bác bình tâm để nghĩ về chuyện đó, bác sẽ thấy thế hệ của chúng ta thực sự là thế hệ đầu tiên trong dòng họ Finch không cưới anh em họ của nhau. Chắc chị sẽ nói họ nhà Finch có Dấu vết Loạn luân?”

Bác nói không, chính dấu vết di truyền khiến chúng tôi có bàn tay và bàn chân nhỏ nhắn.

Tôi không hiểu nổi nỗi ám ảnh về di truyền của bác. Ở nơi nào đó, tôi đã có được ấn tượng rằng Những Người Tốt là những người đã làm hết khả năng của họ với ý thức mà họ có, nhưng bác Alexandra có quan điểm được biểu lộ một cách gián tiếp rằng một dòng họ chiếm dụng một khu đất càng lâu dòng họ đó càng tốt hơn.

“Nếu vậy thì dòng họ Ewell sẽ là những người tốt” Jem nói. Dòng tộc bao gồm Burris Ewell và anh em ông ta đã sống trên cùng mảnh đất phía sau bãi rác Maycomb, và đã sống ngon lành nhờ tiền phúc lợi của hạt suốt ba thế hệ.

Thế nhưng lý thuyết của bác Alexandra có điều gì đó đằng sau nó. Maycomb là một thị trấn cổ xưa. Nó cách Finch’s Landing hai mươi dặm về phía Đông, nằm sâu trong nội địa một cách khó chịu đối với một thị trấn cổ như thế. Nhưng Maycomb sẽ gần sông hơn nếu không vì sự nhanh trí của một ông Sinkfieid nọ, người trong buổi bình minh của lịch sử đã kinh doanh một quán trọ nơi hai đường mòn gặp nhau, quán rượu duy nhất trong vùng. Sinkfield, không phải là một người yêu nước, ông ta phục vụ và cung cấp đạn dược cho người Da đỏ cũng như dân khai hoang định cư, không biết mà cũng không cần biết mình có thuộc về Lãnh thổ Alabama hay Xứ Creek [1] hay không miễn là công việc làm ăn còn tốt đẹp. Việc làm ăn rất thuận lợi khi thống đốc William Wyatt Bibb, với ý định đấy mạnh trị an trong hạt mới thành lập, phải một đội giám định đến xác định trung tâm chính xác của nó và thiết lập cơ quan chính phủ ở đó. Nhóm giám định, khách của Sinkfield, nói với ông chủ quán rằng ông ta ở trong địa giới của hạt Maycomb, và chỉ cho ông ta khu đất nơi chắc chắn trung tâm của hạt sẽ được xây dựng. Nếu Sinkfield không có hành động táo bạo để bảo toàn tài sản của ông ta, thì chắc hạt Maycomb đã được đặt ở giữa vùng Đầm Winston, một nơi hoàn toàn không có nguồn lợi nào. Thay vào đó, Maycomb phát triển và trải rộng ra từ trung tâm của nó, quán rượu của Sinkfield, bởi vì một tối nọ Sinkfield đã phục vụ rượu cho các vị khách say khướt đến mức không biết trời trăng gì nữa, thuyết phục họ bày ra các bản đồ và biểu đồ của họ, cắt bỏ một chút ở đây, thêm một chút ở kia, và chỉnh sửa trung tâm của hạt để đáp ứng những yêu cầu của ông ta. Ngày hôm sau ông ta bảo họ cút xéo với các biểu đồ và năm thùng rượu Whisky trên túi yên ngựa của họ - hai cho mỗi người và một cho thống đốc.

Bởi vì lý do chủ yếu cho sự tồn tại của nó là chính phủ, nên Maycomb tránh được cái vẻ bẩn thỉu đặc trưng ở hầu hết các thị trấn Alabama cùng kích cỡ với nó. Trong buổi đầu, những tòa nhà ở đó chắc chắn, tòa án của nó uy nghi, đường phố của nó vô cùng rộng rãi. Tỉ lệ người có nghề chuyên môn ở Maycomb tăng cao: người ta đến đó để nhổ răng, sửa xe, khám bệnh, gửi tiền, cứu rỗi linh hồn, chữa bệnh cho mấy con lừa. Nhưng người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu ra được cái khôn ngoan tột đỉnh trong thủ đoạn của Sinkfield. Ông ta đã đặt thị trấn non trẻ này quá xa loại phương tiện chuyên chở công cộng duy nhất thời đó - thuyền trên sông - và nó khiến một người từ cực Bắc của hạt phải mất hai ngày mới tới được Maycomb để mua hàng hóa tại các cửa hiệu. Do đó thị trấn vẫn giữ nguyên kích thước ban đầu cả trăm năm nay, một hòn đảo giữa một biển những cánh đồng bông vải và rừng khai thác gỗ.

Dù Maycomb đã bị bỏ quên suốt cuộc Nội chiến, nhưng sự suy thoái kinh tế và luật lệ Thời kỳ tái thiết [2] đã buộc Maycomb phát triển. Nó phát triển từ trong ra. Hiếm có người mới định cư ở đó, vẫn những dòng họ đó kết hôn với những dòng họ đó cho đến khi các thành viên của cộng đồng trông có vẻ hơi hơi giống nhau. Thỉnh thoảng có người từ Montgomery hoặc Mobile trở về cùng một người ngoài, nhưng kết quả này chỉ gây ra làn sóng gợn trong dòng chảy lặng lẽ của sự giống nhau trong gia đình. Mọi chuyện ít nhiều vẫn y như vậy trong suốt thời thơ ấu của tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 09:10:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13
(tiếp theo)

Thực tế ở Maycomb có một sự phân biệt đẳng cấp, nhưng trong suy nghĩ của tôi nó đi theo cách này: những công dân lớn tuổi, thế hệ hiện thời gồm những người sống bên nhau từ bao năm nay, hoàn toàn có thể hiểu nhau: họ biết quá rõ những thái độ, những khác biệt về tính cách, thậm chí cả cử chỉ, vì vẫn lặp đi lặp lại trong mỗi thế hệ và được hoàn thiện qua thời gian. Vì vậy những tổng kết kiểu như Không một người họ Crawford nào quan tâm đến công việc của hắn. Cứ ba người nhà Merriweather thì có một người bệnh hoạn. Sự thật thà không có ở họ Delafield.All người nhà Buford đều đi theo kiểu đó, đơn giản là những hướng dẫn cho sinh hoạt hàng ngày: không bao giờ nhận ngân phiếu từ một người họ Delafield mà không kín đáo gọi điện đến ngân hàng; vai cô Maudie Atkinson nghiêng vì cô là người họ Buford; nếu bà Grace Merriweather nhấm nháp rượu gin từ những chai Lydia E. Pinkham [3] thì không có gì là bất thường - mẹ bà ta cũng làm y như thế.

Bác Alexandra hòa hợp với thế giới của Maycomb giống như một bàn tay khít với găng tay, nhưng không bao giờ hòa hợp với thế giới của Jem và tôi. Tôi cũng thường tự hỏi làm sao bác có thể là chị của bố Atticus và của chú Jack đến độ những câu chuyện chỉ còn nhớ mang máng về việc đánh tráo con và những củ nhân sâm mà Jem đã thêu dệt từ lâu sống lại trong tâm trí tôi.

Những câu chuyện này là các suy đoán trừu tượng trong tháng đầu tiên bác lưu lại, vì bác ít khi nói chuyện với Jem và tôi, và chúng tôi chỉ gặp bác vào giờ ăn và vào ban đêm trước khi chúng tôi đi ngủ. Bây giờ là mùa hè và chúng tôi ở ngoài đường suốt. Dĩ nhiên có một số buổi chiều khi chạy vào nhà để uống nước, tôi thường thấy phòng khách đầy những quý bà Maycomb, nhấm nháp thức uống, xì xào quạt, và tôi sẽ bị gọi, “Jean Louise, đến nói chuyện với các quý cô đây”.

Khi tôi xuất hiện ngay ngưỡng cửa, có vẻ như bác hối tiếc về yêu cầu của mình; người tôi thường lấm bùn đất hoặc đầy cát.

“Nói chuyện với chị họ Lily của cháu đi” một chiều nọ bác đã nói vậy khi bắt được tôi trong hành lang.

“Ai ạ?” Tôi hỏi.

“Chị họ Lily Brooke của cháu” bác Alexandra nói.

“Cô ấy là chị họ của tụi cháu hả? Cháu không biết chuyện đó”.

Bác Alexandra cố nở một nụ cười theo kiểu chuyển được một lời phân trần nhẹ nhàng tới chị họ Lily và bày tỏ sự thất vọng dữ dội với tôi. Khi chị họ Lily Brooke ra về tôi biết mình sẽ gặp phiền toái.

Quả là điều đáng tiếc khi bố tôi quên nói cho tôi biết về Dòng họ Finch, hoặc cài đặt bất cứ lòng tự hào nào vào những đứa con của ông. Bác cho gọi Jem đến, anh thận trọng ngồi trên chiếc trường kỷ cạnh tôi. Bác rời phòng và quay lại với một cuốn sách bìa màu tía trên đó có dòng chữ Meditations of Joshua S. St. Clair [4] mạ vàng.

“Người bà con của cháu đã viết cuốn này” bác Alexandra nói. “Cậu ta là một nhân vật tuyệt vời”.

Jem xem xét cuốn sách nhỏ đó. “Đây là người họ hàng Joshua đã bị bỏ tù từ rất lâu đó hả?”

Bác Alexandra nói. “Sao cháu biết chuyện đó?”

“Bố Atticus nói ông ta đã đi vòng qua khúc cua tại trường đại học. Bố Atticus nói ông ta muốn bắn ông hiệu trưởng. Bố Atticus kể Joshua nới rằng ông ta chẳng là gì ngoài một tên thanh tra cống rãnh và cố bắn ông ta bằng một khẩu súng kíp, nó chỉ trúng bàn tay ông ta. Bố Atticus nói gia đình phải tốn năm trăm đô la để cứu ông ta ra khỏi vụ đó...”

Bác Alexandra đứng ngây ra như một cái chĩa. “Đủ rồi” bác nói. “Chúng ta sẽ xem xét chuyện này”.

Trước giờ ngủ tôi ở trong phòng Jem định mượn một cuốn sách thì bố Atticus gõ cửa bước vào. Ông ngồi xuống mép giường Jem, nhìn chúng tôi một cách nghiêm nghị, rồi cười toét.

“E hèm” ông nói. Bố bắt đầu giới thiệu mấy điều ông định nói bằng một cái hắng giọng, và tôi nghĩ rốt cuộc bố hẳn đang già đi, nhưng trông bố vẫn thế. “Bố không biết phải nói chuyện này như thế nào đây” ông bắt đầu.

“Bố cứ nói đi” Jem hỏi. “Tụi con đã làm chuyện gì bậy bạ sao?”

Bố bồn chồn. “Không, bố chỉ muốn giải thích với tụi con rằng... bác Alexandra yêu cầu bố... con trai, con biết con là một người nhà Finch, đúng không?”

“Con đã được nghe nói điều này”. Jem nhìn bằng đuôi mắt. Anh cao giọng một cách mất kiểm soát, “Bố Atticus, có chuyện gì vậy?”

Bố Atticus bắt chéo chân và khoanh tay lại. “Bố định nói với con mấy điều về chuyện con người ra đời như thế nào”.

Vẻ chán nản của Jem càng sâu thêm. “Con biết hết chuyện đó rồi” anh nói.

Bất chợt bố Atticus trở nên nghiêm túc. Bằng giọng điệu luật sư, không chút lên xuống giọng, ông nói, “Bác tụi con yêu cầu bố cố gây ấn tượng với con và Jean Louise rằng các con không xuất thên từ giới tầm thường, rằng các con là sản phẩm của vài thế hệ có giáo dục tử tế...” Bố Atticus ngừng, quan sát tôi đang tìm con rệp đỏ lẩn khuất đâu đó trên chân.

“Có giáo dục tử tế,” bố nói tiếp, khi tôi đã tìm ra và gãi nó, “và rằng con phải sống cho xứng đáng với tên của mình...” Bố Atticus cứ nói mà không quan tâm đến chúng tôi, “Bác yêu cầu bố nói với các con rằng các con phải cố cư xử giống như một quý co và quý ông nhỏ tuổi, đúng như vị trí của các con hiện giờ. Bác muốn nói chuyện với các con về dòng họ và nó có ý nghĩa gì với hạt Maycomb bao năm qua, để các con ý thức được mình là ai, để các con có thể có cách cư xử cho phù hợp” ông kết thúc thật nhanh.

Choáng váng, Jem và tôi nhìn nhau, rồi nhìn bố Atticus, có vẻ cái cổ áo đang làm ông bực bội. Chúng tôi không nói gì với ông cả.

Lúc đó tôi cầm cái lược trên bàn của Jem và cứa nó vào thành bàn.

“Dừng trò làm ồn đó lạ” bố Atticus nói.

Sự cộc lốc của ông xúc phạm tôi. Chiếc lược đang cứa nửa chừng và tôi quăng nó xuống. Không vì lý do gì tôi nhận thấy mình bắt đầu khóc, nhưng tôi không thể dừng lại. Đây không phải là bố tôi. Bố tôi không bao giờ có những ý nghĩ này. Bố tôi không bao giờ nói như thế. Bằng cách nào đó, bác Alexandra đã khiến ông như thế này. Qua màn nước mắt tôi thấy Jem cũng trong một cõi tách biệt tương tự, đầu anh ngoẹo sang một bên.

Không biết phải đi đâu, nhưng tôi vẫn quay người đi ra và đụng phải ngực áo vest của bố Atticus. Tôi vùi đầu vào đó lắng nghe những tiếng động nhỏ bên trong vang ta từ phía sau lớp vải xanh nhạt: đồng hồ của ông đang kêu tích tắc, tiếng lắc rắc mơ hồ của chiếc áo sơ mi hồ bột của ông, âm thanh nhẹ nhàng của hơi thở ông.

“Dạ dày của bố đang sôi” tôi nói.

“Bố biết” ông đáp.

“Tốt hơn bố nên uống ít thuốc tiêu”.

“Chốc bố uống” ông nói.

“Bố Atticus, mấy chuyện cư xử và các thứ này có quan trọng gì không? Ý con là bố...”

Tôi cảm thấy bàn tay ông vuốt gáy tôi. “Các con đừng lo nghĩ bất cứ điều gì nữa” ông nói. “Chưa đến lúc phải lo đâu”.

Khi tôi nghe câu này, tôi biết ông đã trở lại với chúng tôi. Máu ở chân tôi bắt đầu chảy lại, và tôi ngẩng đầu lên. “Bố thực sự muốn tụi con làm mọi chuyện đó hả? Con không nhớ hết nổi mọi việc mà những người nhà Finch có bổn phận phải làm...”

“Bố không muốn các con nhớ rõ. Quên nó đi”.

Ông đi đến cửa và ra khỏi phòng, đóng cửa lại phía sau. Ông suýt đập mạnh nó vào, nhưng đến phút cuối ông nhận ra và đóng nó lại nhẹ nhàng. Khi Jem và tôi nhìn theo, cửa mở ra lần nữa và bố Atticus nhìn vào. Lông mày ông nhướn lên, kính bố trễ xuống. “Càng ngày bố càng giống Joshua, đúng không? Con có nghĩ cuối cùng bố sẽ làm gia đình mất năm trăm đô la không?”

Bây giờ tôi biết ông đang cố làm gì, nhưng bố Atticus chỉ là một người đàn ông. Cần có một người phụ nữ để làm công việc đó.

Chú thích:

[1] Một liên minh Da đỏ gồm nhiều bộ tộc ở vùng Alabama, Georgia và Mississippi. Sau trận chiến 1813-14 họ bị người da trắng xua sang bờ Tây sông Mississippi.

[2] Reconstruction: thời kỳ trong khoảng 1867-1877, khi các bang miền Nam được tổ chức và xây dựng lại sau Nội chiến.

[3] Lydia E. Pinkham: nhà sản xuất những loại thuốc thông thường vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hầu hết thuốc bào chế của Pinkham nhắm vào nữ giới, và phần lớn đều chứa một lượng cồn khá cao.

[4] Nghĩa là những suy ngẫm của Joshua S. St. Clair.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 8-2-2013 08:40:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 14

Dù chúng tôi không nghe thêm gì về Dòng họ Finch từ miệng bác Alexandra, nhưng chúng tôi nghe đủ thứ chuyện về họ nhà tôi từ dân thị trấn. Vào những ngày thứ Bảy, đem theo những đồng năm xu, khi Jem cho tôi đi theo anh (hiện anh rất dị ứng với sự có mặt của tôi cạnh anh ở nơi công cộng), chúng tôi thường đi luồn lách đi qua những đám đông mướt mồ hôi trên vỉa hè và đôi khi nghe thấy, “Con của ông ta đó” hoặc “Có mấy đứa nhỏ nhà Finch đằng kia kìa”. Quay sang đối mặt với những kẻ buộc tội, chúng tôi thường chỉ thấy một cặp vợ chồng nông dân đang săm soi những chiếc túi đựng chất lỏng dùng để thụt ruột trong ô kính bày hàng của nhà thuốc Mayco. Hoặc hai phụ nữ nông thôn thấp béo đội mũ rơm ngồi trên cỗ xe ngựa hai bánh.

“Chúng có thể chạy rông rồi cưỡng hiếp khắp vùng nông thôn cho cả bọn điều hành hạt này lo chơi”, là một lời bình phẩm khó hiểu mà chúng tôi gặp phải từ một quý ông gầy nhòm khi ông ta đi ngang qua chúng tôi. Câu đó làm tôi nhớ mình có một câu hỏi cần hỏi bố Atticus.

“Cưỡng hiếp là gì?” Tối đó tôi hỏi bố Atticus.

Đằng sau tờ báo bố Atticus đưa mắt nhìn quanh. Ông đang ngồi trên ghế cạnh cửa sổ. Khi chúng tôi lớn hơn, Jem và tôi nghĩ thật rộng rãi khi cho bố Atticus được ngồi một mình ba mươi phút sau bữa ăn.

Ông thở dài, nói cưỡng hiếp là tiếp xúc về mặt tình dục với một người nữ thông qua vũ lực mà không có được sự đồng ý.

“Nếu chỉ có vậy tại sao Calpurnia bảo con im đi khi con hỏi bà nó là gì?”

Bố Atticus có vẻ trầm ngâm. “Nói lại coi chuyện đó thế nào”.

“Bữa đó trên đường từ nhà thờ về con hỏi Calpurnia nó là cái gì và bà ấy biểu hỏi bố nhưng con quên và bây giờ con hỏi bố”.

Ông đặt tờ báo xuống đùi. “Nói lại lần nữa coi” ông bảo.

Tôi kể ông nghe chi tiết chuyến đi lễ nhà thờ của Calpurnia. Bố Atticus có vẻ thích thú, nhưng bác Alexandra, người đang ngồi trong góc nhà lặng lẽ khâu, đặt đồ thêu xuống và nhìn chúng tôi.

“Chủ nhật đó hai cháu về từ nhà thờ của Calpurnia hả?”

Jem nói, “Dạ, bà ấy dắt tụi cháu đi”.

Tôi nhớ lại một điều, “À, bà còn hứa con có thể đến nhà bà vào buổi chiều nào đó. Bố Atticus, nếu được thì Chủ nhật tới con đi, được không? Cal nói bà sẽ đón con nếu bố lái xe chở con đến”.

“Cháu không được đi”.

Bác Alexandra nói câu đó. Tôi quay sang, giật mình, rồi quay trở lại bố Atticus đúng lúc để bắt gặp ông nhìn nhanh sang bác, nhưng đã quá trễ. Tôi nói, “Cháu không hỏi bác!”

Tuy to con, nhưng bố Atticus có thể đứng lên ngồi xuống một cái ghế nhanh hơn bất kỳ ai tôi từng biết. Ông đứng bật dậy, “Xin lỗi bác ngay” ông nói.

“Con không hỏi bác ấy, con hỏi bố...”

Bố Atticus quay sang và nhìn tôi nghiêm khắc. Giọng bố đanh lại, “Thứ nhất, xin lỗi bác của con”.

“Cháu xin lỗi, bác” tôi lầm bầm.

“Còn bây giờ,” ông nói “chúng ta làm rõ điều này: con làm như Calpurnia bảo con, con làm như bố bảo con, và chừng nào bác con còn ở trong nhà này, con sẽ làm như bác bảo con. Hiểu chưa?”

Tôi hiểu, cân nhắc một hồi, và kết luận rằng cách duy nhất tôi có thể rút lui với một chút thể diện là đi vào phòng tắm, tôi ở lại đó đủ lâu để họ nghĩ rằng tôi phải vào đó. Trở lại, tôi nấn ná trong hành lang để nghe một cuộc tranh luận gay gắt đang diễn ra trong phòng khách. Qua cánh cửa tôi có thể thấy Jem ngồi trên trường kỷ với tạp chí bóng bầu dục trước mặt, đầu anh quay qua quay lại chứ như trên các trang báo đang có một trận quần vợt trực tiếp.

“... cậu phải làm điều gì đó với nó” bác nói tôi. “Cậu đã để mọi thứ xảy ra quá lâu. Atticus, quá lâu”.
“Em thấy chẳng có hại gì trong việc cho nó đi đến đó. Cal sẽ chăm sóc nó ở đó tốt như bà ấy làm ở đây vậy”.

“Nó” mà họ đang nói đến là ai vậy? Lòng tôi chùng xuống: tôi. Tôi cảm thấy các bức tường bông vải màu hồng của trại cải huấn đang vây siết lấy tôi, và đây là lần thứ hai trong đời tôi nghĩ tới việc bỏ trốn. Ngay lập tức.

“Atticus, đa cảm thì cũng tốt thôi, cậu là người đàn ông dễ dãi, nhưng cậu có một đứa con gái phải nghĩ đến. Một đứa con gái đang lớn”.

“Đó là điều em đang nghĩ đến”.

“Và đừng có lẩn tránh nó. Sớm muộn gì cậu cũng phải đối mặt với nó và tốt nhất là tối nay. Bây giờ chúng ta không cần bà ấy nữa”.

Giộng bố Atticus ôn tồn, “Alexandra, Calpurnia sẽ không rời khỏi nhà này cho đến khi bà ấy muốn thế. Chị có thể nghĩ khác, nhưng em không thể xoay xở được nếu như không có bà ấy trong những năm tháng này. Bà ấy là thành viên trung thành của gia đình này và đơn giản là chị phải chấp nhận mọi thứ như hiện nay. Với lại, chị à, em không muốn chị mệt óc vì gia đình em... Chị không có lý do gì phải làm điều đó. Tụi em vẫn rất cần Calpurnia như từ trước tới nay”.

“Nhưng Atticus...”

“Vả lại em không nghĩ bọn trẻ đau khổ vì việc bà ấy nuôi dạy chúng. Nếu có thể nói thì bà ấy nghiêm khắc với chúng theo một số cách nào đó hơn cả một bà mẹ... Bà ấy không bao giờ ngại trừng phạt chúng vì bất cứ chuyện gì, bà ấy không bao giờ nuông chiều chúng theo kiểu hầu hết các bà vú da màu vẫn làm. Bà cố nuôi dạy chúng theo lòng tin của bà, và lòng tin của Cal khá tốt... và còn một điều nữa, bọn trẻ yêu bà ấy”.

Tôi thở phào. Đó không phải là tôi, họ đang nói về Cal. Nhẹ nhõm, tôi bước vào phòng khách. Bố Atticus quay lại với tờ báo và Alexandra trở về với việc thêu thùa của bác. Pum, pum, pum, kim của bác làm xô lệch vòng căng vải. Bác ngừng tay, và kéo vải chặt hơn: pum, pum, pum. Bác bực bội.
Jem đứng dậy và bước nhẹ qua tấm thảm. Anh ra dấu bảo tôi theo sau. Anh dẫn tôi vào phòng anh và đóng cửa lại. Khuôn mặt anh nghiêm trang.

“Họ vừa cãi nhau, Scout”.

Những ngày này Jem và tôi gây nhau thường xuyên, nhưng tôi chưa bao giờ nghe hoặc thấy ai cãi nhau với bố Atticus. Đó không phải là cảnh dễ chịu.

“Scout, cố đừng làm trái ý bác, nghe không?”

Những nhận xét của bố Atticus vẫn còn đang day dứt, làm tôi quên đi lời thỉnh cầu trong câu hỏi của Jem. Người tôi lại sởn da gà, “Anh đang cố bảo em phải làm gì đó hả?”

“Không, chỉ là... hiện bố có quá nhiều chuyện bận tâm, chưa kể chuyện tụi mình còn quấy bố nữa”.
“Như chuyện gì?” Bố Atticus không có vẻ có điều gì bận tâm cả.

“Vụ Tom Robinson này đã khiến bố lo muốn chết rồi...”

Tôi nói bố Atticus chẳng lo về bất cứ chuyện gì cả. Ngoài ra vụ án này chẳng gây phiền cho chúng tôi trừ mỗi tuần khoảng một lần và nó không kéo dài.

“Đó là bởi vì em không để tâm đến điều gì lâu” Jem nói. “Với người lớn thì khác, tụi mình...”

Vẻ người lớn đáng ghét của anh hồi gần đây là không thể chịu được. Anh không muốn làm bất cứ điều gì ngoài việc đọc và bỏ đi một mình. Bất cứ điều gì đọc được anh vẫn truyền đạt cho tôi, nhưng có khác ở chỗ: trước đó, bởi vì anh nghĩ tôi thích nó; bây giờ anh làm vậy để mở mang kiến thức và trí tuệ cho tôi.

“Quỷ bắt anh đi, Jem! Anh tưởng anh là ai chứ?”

“Bây giờ anh nói thật đây, Scout, em mà làm phiền bác, anh sẽ... anh sẽ đét đít em”.

Điều đó làm tôi nổi điên. “Anh là đồ lường tịnh thối tha, em giết anh đó!” Anh ấy đang ngồi trên giường, và thật dễ để tóm mớ tóc trước trán anh và đấm một tay vào mồm anh. Anh đập tôi và tôi cố đấm một cú tay trái nữa, nhưng một quả đấm vào bụng đã khiến tôi ngã quay xuống sàn. Nó khiến tôi muốn tắc thở, nhưng thế không vấn đề gì vì tôi biết anh đang đánh, anh đang đánh tôi. Chúng tôi vẫn còn bình đẳng.

“Giờ anh cũng chẳng còn cao sang uy thế gì đâu, thấy chưa!” Tôi gào lên, tiếp tục lao vào anh. Anh vẫn ở trên giường và tôi không thể có được tư thế vững chắc, nên tôi dùng hết sức lực lao vào anh, đập, kéo, nhéo, móc. Cuộc chiến đấu bằng nắm đấm đã trở thành một cuộc đánh lộn ầm ĩ. Chúng tôi vẫn tiếp tục vật lộn khi bố Atticus tách chúng tôi ra.

“Thôi đi” ông nói. “Hai đứa đi ngủ ngay tức khắc”.

“Lêu lêu!” tôi kêu lên với Jem. Anh bị bắt đi ngủ vào giờ ngủ của tôi.

“Ai gây chuyện trước?” Bố Atticus hỏi, vẻ chịu đựng.

“Jem đó. Anh ấy cố bảo con phải làm gì. Giờ con đâu cần phải nghe lời anh ấy, đúng không?”

Bố Atticus mỉm cười. “Bây giờ chúng ta tạm giải quyết như vậy: con nghe lời Jem bất cứ khi nào anh ấy có thể khiến con nghe lời. Được không?”

Bác Alexandra xuất hiện nhưng im lặng, và khi bác đi ra hành lang với bố Atticus, tôi nghe bác nói, “... chỉ là một trong nhiều việc chị đã nói với cậu” một cụm từ có tác dụng liên kết chúng tôi lại.

Phòng của chúng tôi tiếp giáp nhau; khi tôi đóng cửa thông giữa hai phòng, Jem nói, “Ngủ ngon, Scout”.

“Ngủ ngon” tôi lầm bầm, lần mò băng qua phòng để bật đèn lên. Khi đi ngang qua giường tôi giẫm phải một cái gì ấm, co dãn, và hơi trơn. Nó không giống hẳn như cao su cứng, và tôi có cảm giác nó là vật sống. Tôi cũng nghe nó di chuyển.

Tôi bật đèn lên và nhìn xuống chỗ sàn cạnh giường. Vật tôi giẫm phải đã biến mất. Tôi đập cửa phòng Jem.

“Cái gì?” Anh nói.

“Con rắn rờ thấy làm sao?”

“Kiểu ram ráp. Lạnh. Trơn. Chi vậy?”

“Chắc có một con dưới gầm giường em. Anh vô xem thử được không?”

“Em có giỡn không đó?” Jem mở cửa. Anh đã mặc quần ngủ. Tôi nhận thấy, không khỏi khoái chí, dấu vết nắm đấm của tôi vẫn còn trên miệng anh. Khi anh hiểu ra tôi nói thật tình, anh nói, “Nếu em nghĩ anh sẽ dí cái mặt vô một con rắn thì em lầm to rồi đó. Chờ anh một chút”.

Anh xuống bếp đem lên một cây chổi. “Tốt nhất là em leo lên giường đi” anh nói.

“Bộ anh nghĩ có con rắn thiệt hả?” Tôi hỏi. Đây là một sự kiện. Những ngôi nhà của chúng tôi ở đây không có tầng hầm; chúng được xây trên những khối đá cao hơn mặt đất vài tấc, việc loài bò sát chui vào không phải là không có nhưng không phải là chuyện thường thấy. Cái cớ để uống một ly rượu mạnh nguyên chất mỗi sáng của cô Rachel Haverford là do cô không bao giờ thắng được nỗi sợ hãi của việc tìm thấy một con rắn chuông cuộn mình trong tủ phòng ngủ của cô, trên mớ quần áo giặt của cô, khi cô treo áo khoác ngoài lên.

Jem quét thử một phát dưới gầm giường. Tôi nhìn qua chân xem có con rắn nào bò ra không. Không hề. Jem quét sâu hơn.

“Bộ rắn biết kêu hả?”

“Nó không phải là rắn” Jem nói. “Là ai đó”.

Bất ngờ một chiếc túi nâu bẩn thỉu thò ra dưới gầm giường. Jem giơ cây chổi lên và suýt đập trúng đầu của Dill khi nó ló ra.

“Chúa lòng lành” giọng Jem đầy tôn kính.

Chúng tôi nhìn Dill từ từ chui ra. Nó đã bự hơn. Nó đứng lên, thả lỏng vai, xoay cổ chân, chà xát gáy. Sau khi máu huyết lưu thông đều lại, cậu ta nói, “Xin chào”.

Jem kêu Chúa lần nữa. Tôi không nói nên lời.

“Tao gần chết rồi” Dill nói. “Có gì ăn không?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 8-2-2013 08:43:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 14
(tiếp theo)

Như trong cơn mơ, tôi xuống nhà bếp. Tôi mang lên cho nó ít sữa và nửa bịch bánh ngũ cốc còn lại sau bữa tối. Dill ăn ngấu nghiến, nhai bằng răng cửa, theo thói quen của nó.

Cuối cùng tôi cũng nói thành tiếng được. “Mày đến đây bằng cách nào?”

Theo một lộ trình vòng vo. Tỉnh lại nhờ thức ăn, Dill kể lại câu chuyện: sau khi bị bố dượng buộc bằng dây xích và bị bỏ cho đến chết trong tầng hầm (ở Meridian có những tầng hầm), ông ta không thích cậu ấy, và được bí mật giữ cho cầm hơi bằng những hạt đậu sống của một bác nông dân, người đi ngang qua nghe tiếng cậu khóc xin giúp đỡ (người đàn ông tốt bụng này đã nhét từng quả đậu qua lỗ thông gió), Dill tự giải thoát bằng cách kéo bật sợi xích khỏi tường. Vẫn mang cùm ở cổ tay, nó lang thang hai dặm ra khỏi Meridian, phát hiện ra ở đó đang có một cuộc triển lãm thú vật nho nhỏ và lập tức được thuê tắm rửa cho lạc đà. Nó đi theo cuộc triển lãm khắp Mississippi cho đến khi trực giác không nhầm lẫn về phương hướng mách bảo nó rằng nó đang ở hạt Abbott, Alabama, và bên kia sông là Maycomb. Nó đã đi bộ quãng đường còn lại.

“Sao cậu đến đây được?” Jem hỏi.

Nó đã lấy ba mươi đô la từ ví của mẹ nó, đi chuyến xe chín giờ khởi hành từ Meridian và xuống ga Maycomb. Nó đã đi bộ mười hoặc mười một dặm trong số mười bốn dặm đến Maycomb, men theo những bụi cây tránh khỏi xa lộ vì sợ các giới chức đang truy tìm nó, và đã vượt quãng đường còn lại bằng cách leo lên bửng sau của một chiếc xe chở bông vải. Nó đã nằm dưới gầm giường độ chừng hai tiếng; nó nghe tiếng tụi tôi trong phòng ăn, và tiếng thìa chạm vào đĩa khiến nó gần phát điên. Nó tưởng như Jem và tôi sẽ chẳng bao giờ đi ngủ; nó đã nghĩ đến việc bò ra và giúp tôi đánh Jem, vì Jem đã cao hơn nhiều, nhưng nó biết ông Finch sẽ sớm can thiệp thôi, vì vậy nó nghĩ tốt nhất là cứ nằm ở chỗ cũ. Nó đã kiệt sức, bẩn đến khó tin, và đã về tới nhà.

“Không được cho ai biết cậu ở đây” Jem nói. “Mình sẽ biết họ có truy tìm cậu không...”

“Tao biết người ta vẫn còn lục soát mọi buổi chiếu phim ở Meridian”. Dill nhe răng cười.

“Cậu phải cho mẹ cậu biết cậu đang ở đâu” Jem nói. “Cậu phải cho cậu biết cậu đang ở đây...”

Đôi mắt Dill nhìn Jem nhấp nháy, Jem nhìn xuống sàn. Rồi anh đứng dậy, và phá vỡ quy ước còn lại của thời thơ ấu của bọn tôi. Anh ra khỏi phòng và đi dọc hành lang. “Bố Atticus,” anh gọi từ xa, “bố vào đây một lát, được không?”

Bên dưới lớp bụi bẩn nhễ nhại mồ hôi, khuôn mặt của Dill chuyển sang trắng nhợt. Tôi cảm thấy muốn khóc. Bố Atticus đã đứng ở ngưỡng cửa.

Ông bước vào giữa phòng, hai tay trong túi, nhìn xuống Dill.

Cuối cùng tôi cũng lên tiếng được, “Không sao đâu, Dill. Chừng nào bố muốn mày biết gì đó, bố sẽ nói cho mày nghe”.

Dill nhìn tôi. “Ý tao là không sao” tôi nói tiếp. “Mày biết là bố sẽ không làm khó mày đâu, mày biết là mày đâu phải sợ bố Atticus mà”.

“Tao không sợ...” Dill lầm bầm.

“Chỉ đói thôi, ta chắc như vậy”. Giọng bố Atticus vui vẻ tỉnh táo như thường lệ. “Scout, mình có thể làm tốt hơn một bịch bánh ngũ cốc, đúng không? Con cho anh chàng này ăn no và khi bố trở lại chúng ta sẽ tính coi mình có thể xem xét chuyện gì”.

“Ông Finch, đừng nói với cô Rachel, đừng bắt cháu phải quay lại, cháu xin ông! Cháu sẽ bỏ trốn mất...!”

“Ha, con trai” bố Atticus nói. “Chẳng ai định bắt cháu phải đi đâu ngoài việc đi ngủ sớm. Ta sẽ chỉ qua nói với cô Rachel là cháu đang ở đây và hỏi xin cô cho cháu ở lại đây với chúng ta - cháu muốn vậy, đúng không? Và vì Chúa hãy trả đất về lại với đất, chuyện xói mòn đất đã đủ tồi tệ rồi”.

Dill nhìn theo bóng bố tôi khuất hẳn.

“Ông đang cố pha trò” tôi nói. “Ý ông là đi tắm đi. Thấy chưa, tao đã nói là ông không gây khó cho mày đâu mà”.

Jem đứng trong góc phòng, trông như một kẻ phản bội. “Dill, tớ phải cho bố tớ biết” anh nói. “Cậu không thể vượt ba trăm dặm mà mẹ cậu không biết được”.

Chúng tôi để anh lại đó mà không nói một lời.

Dill ăn, và ăn, và ăn. Nó chẳng ăn gì từ tối hôm qua. Nó đã tiêu hết số tiền nó có để mua vé, lên xe lửa như nó đã làm nhiều lần, tỉnh bơ nói chuyện với người soát vé, mà Dill vốn là một hình ảnh quên thuộc, nhưng ông ta không có đủ can đảm viện dẫn đến luật lệ về việc trẻ em đi xa một mình: nếu bạn mất tiền người soát vé sẽ cho bạn mượn đủ tiền và ba bạn sẽ trả lại cho ông ta vào cuối chặng đường.

Dill đã ăn hết thức ăn còn thừa và đang ăn đến lon thịt lợn và đậu trong tủ thì tiếng kêu Do-oo- Je-sus của cô Rachel vang lên ngoài tiền sảnh. Nó run lên như một con thỏ.

Nó can đảm chịu đựng câu Cứ Chờ Coi Ta Đưa Cháu Về, Người Nhà Cháu Lo Lắng Đến Phát Điên của cô ấy, hoàn toàn bình tĩnh khi nghe câu Toàn Bộ Tính Chất Của Dòng Họ Harris Trong Cháu Hiện Ra Rồi, mỉm cười trước câu Ta Cho Là Cháu Có Thể Ở Lại Đây Một Đêm, và đáp lại cái ôm mà sau cùng cô ấy cũng dành cho nó.

Bố Atticus đẩy mắt kính lên trán và chà sát mặt.

“Bố cháu mệt rồi” bác Alexandra nói, có vẻ đó là lời đầu tiên của bác ấy trong mấy giờ qua. Bác đã ở đó, nhưng tôi cho rằng phần lớn thời gian bác đớ người không biết nói gì. “Giờ thì các cháu phải đi ngủ”.

Chúng tôi để họ lại trong phòng ăn. Bố Atticus vẫn chà mặt ông. “Từ cưỡng hiếp đến nổi loạn rồi bỏ trốn” tụi tôi nghe ông cười khùng khục. “Tôi tự hỏi hai tiếng nữa sẽ có chuyện gì đây”.

Vì mọi việc có vẻ tiến triển tốt, Dill và tôi quyết định phải lịch sự với Jem. Ngoài ra Dill phải ngủ với anh ấy do đó chúng tôi cũng nên ăn nó lễ độ với anh ấy.

Tôi mặc đồ ngủ vào, đọc sách một lát và thấy mình không mở mắt nổi nữa. Dill và Jem đã im lặng; khi tôi tắt đèn đọc sách thì không còn một vệt sáng nào bên dưới cánh cửa sang phòng Jem.

Hẳn tôi đã ngủ rất lâu, vì khi tôi bị lay dậy căn phòng đã lờ mờ sáng ánh trăng đang lặn.

“Dịch sang một bên, Scout”.

“Anh ấy nghĩ phải làm vậy” tôi lẩm bẩm. “Đừng bực anh ấy”.

Dill bò lên giường cạnh tôi. “Tao không giận,” nó nói, “tao chỉ muốn ngủ với mày. Mày thức rồi hả?”

Lúc này tôi đã tỉnh, nhưng quá lười biếng. “Sao mày làm vậy?”

Không trả lời. “Tao hỏi sao mày bỏ trốn? Ông ta thực tình ghét mày như mày nói sao?”

“Không...”

“Bố con mày không đóng thuyền như viết trong thư sao?”

“Ông ta chỉ nói tụi tao sẽ đóng. Bọn tao có đóng gì đâu”.

Tôi chống khuỷu tay nhổm người lên, nhìn mặt Dill. “Đó không phải là lý do để bỏ trốn. Đến nửa số lần là người ta không có thời gian để làm những gì họ đã nói họ sẽ làm...”

“Không phải vậy, ông ta... họ chỉ không quan tâm đến tao”.

Đó là lý do bỏ trốn kỳ cục nhất mà tôi từng nghe. “Nghĩa là sao?”

“Họ đi suốt, và thậm chí khi ở nhà, họ cũng rút vào phòng với nhau suốt”.

“Họ làm gì trong đó?”

“Chẳng làm gì, chỉ ngồi đọc sách... Nhưng họ không muốn có mặt tao”.

Tôi đẩy chiếc gối tựa lên đầu giường và ngồi dậy. “Mày biết gì không? Tao đang tính bỏ trốn tối nay bởi vì tất cả họ ở đây. Mày đâu muốn học lúc nào cũng quanh quẩn bên mày, Dill...”

Dill thở một hơi đầy kiên nhẫn, gần như thở dài.

“... Chúc ngủ ngon, bố Atticus đi cả ngày và đôi khi đến nửa buổi tối và ở lại trong cơ quan lập pháp và tao không biết cái gì... Mày đâu muốn họ dòm ngó mày suốt ngày, Dill, mày không thể làm bất cứ điều gì nếu có họ”.

“Không phải vậy”.

Khi Dill giải thích, tôi thấy mình đang tự hỏi cuộc sống sẽ ra sao nếu Jem khác đi, thậm chí, khác xa con người anh hiện nay, tôi sẽ làm gì nếu bố Atticus không cảm thấy cần sự có mặt, giúp đỡ và lời khuyên của tôi. Ô, ông ấy không thể ổn thỏa một ngày mà không có tôi. Thậm chí Calpurnia cũng không thể xoay xở, khi có mặt tôi. Họ cần tôi.

“Dill, mày không nói hết với tao... Bố mẹ mày không xoay xở được nếu không có mày. Có điều họ chỉ ích kỷ với mày thôi. Để tao nói cho mày biết phải làm gì với chuyện đó...”

Giọng của Dill tiếp tục đều đặn trong bóng tôi, “Vấn đề là, điều tao muốn nói là... Họ sống hòa thuận với nhau nhiều hơn nếu không có tao, tao không thể giúp họ bất cứ điều gì. Họ không ích kỷ với tao. Họ mua cho tao mọi thứ tao muốn, nhưng cái kiểu của họ là giờ-con-đã-có-nó-hãy-chơi-với-nó-đi. Mày có một căn phòng đầy nhóc các thứ. Mẹ-đã-mua-cho-con-cuốn-sách-đó-vậy-lo-đọc-nó-đi”. Dill cố gằn giọng. “Mày không phải con trai. Con trai ra ngoài và chơi bóng chày với những thằng nhóc khác, nó không quẩn quanh trong nhà làm rộn bố mẹ nó”.

Giọng Dill trở lại bình thường. “Ô, họ không ích kỷ. Họ hôn mày, ôm chặt mày, chúc mày ngủ ngon, chúc buổi sáng tốt lành và tạm biệt rồi nói họ yêu mày... Scout, kiếm cho mình một em bé đi”.
“Ở đâu?”

Dill nghe nói có một người đàn ông với chiếc xuồng chuyên chèo thuyền tới một hòn đảo đầy sương mù nơi tất cả em bé ở đó, mày có thể đặt hàng một đứa...

“Người ta nói dóc đó. Bác Alexandra nói Chúa thả chúng xuống ống khói. Ít nhất tao nghĩ là bác ấy nói thế”. Chỉ trong vụ này là cách nói của bác ấy không rõ ràng.

“Không phải vậy. Mày có em bé từ người khác. Nhưng đã có cái ông đó rồi.. Ông ta có những em bé đang chờ thức dậy, ông ta thổi sự sống vào chúng...”

Dill lại im. Những điều tốt đẹp đang trôi nổi trong cái đầu mơ mộng của nó. Nó có thể đọc hai cuốn sách so với một cuốn của tôi, nhưng nó thích ma thuật trong những bịa đặt của nó hơn. Nó có thể cộng và trừ nhanh hơn tia chớp, nhưng nó thích thế giới mờ ảo của nó hơn, một thế giới các em bé ngủ, chờ được người ta nhận lấy như những bông hoa huệ tây buổi sáng. Nó chậm rãi nói chuyện với chính mình để thiếp đi và đưa tôi theo cùng, nhưng trong cái tĩnh lặng của hòn đảo mờ sương của nó đã hiện ra hình ảnh mờ nhạt của ngôi nhà xám với những cánh cửa nâu ảm đạm.

“Dill?”

“Ưmmmmm?”

“Tại sao mày nghĩ Boo Radley không bao giờ bỏ trốn?”

Dill thở một hơi dài và quay khỏi tôi.

“Có lẽ ông ta không có chỗ nào để trốn đi...”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 8-2-2013 16:13:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15

Sau nhiều cú điện thoại, rồi biết bao thỉnh cầu nhân danh bị cáo, và sau khí có một lá thư tha thứ dài từ mẹ nó, Dill mới được phép ở lại. Chúng tôi có một tuần thư thái ở bên nhau. Sau đó, một chút, có vẻ vậy. Một cơn ác mộng ập xuống chúng tôi.

Bắt đầu bằng một tối sau bữa ăn. Dill đã sang, bác Alexandra ngồi trên ghế trong một góc, bố Atticus ngồi ghế của ông. Jem và tôi ngồi đọc dưới sàn nhà. Đó là một tuần bình yên: tôi đã quan tâm đến bác; Jem đã hết thích chơi cái nhà trên cây, nhưng anh giúp tôi và Dill làm một cái thang dây mới cho nó. Dill đã nghĩ ra một kế hoạch chu đáo để dụ cho Boo Radley ra ngoài mà chúng tôi không bị mất mát cái gì (rắc một vệt giọt nước chanh từ cửa sau đến sân trước và ông ta sẽ theo nó, giống như một con kiến). Có tiếng gõ cửa trước và Jem ra mở và báo rằng có ông Heck Tate tới.
“Mời ông ấy vào” bố Atticus nói.

“Con mời rồi. Còn mấy người nữa ngoài sân, họ muốn bố ra”.

Ở Maycomb, người lớn đứng ngoài sân chỉ với hai lý do: chết và chính trị. Tôi tự hỏi ai đã chết, Jem và tôi đi ra cửa trước, nhưng bố Atticus gọi, “Quay vào trong nhà”.

Jem tắt đèn phòng khách và gí mũi vào lưới cửa sổ. Bác Alexandra phản đối. “Chút xíu thôi, bác, để tụi cháu xem đó là ai” anh nói.

Dill và tôi chiếm một cửa sổ khác. Một đám đông đang vây quanh bố Atticus. Có vẻ như tất cả đang nói cùng một lúc.

“... Chuyển hắn đến nhà tù hạt vào ngày mai” ông Tate nói. “Tôi không muốn có rắc rối nào, nhưng tôi không thể đảm bảo ở đó sẽ không có bất cứ...”

“Đừng ngốc thế, Heck” bố Atticus nói. “Đây là Maycomb”.

“... đã nói tôi chỉ thấy khó chịu thôi”.

“Heck, chúng ta đã được tạm hoãn vụ này chỉ để chắc rằng không có chuyện gì phải khó chịu. Hôm nay thứ Bảy,” bố Atticus nói, “phiên tòa có lẽ diễn ra vào thứ Hai. Anh có thể giữ anh ta một đêm, đúng không? Tôi không nghĩ có bất cứ ai ở Maycomb này bực bội vì tôi có một thân chủ, những lúc gian khó thế này”.

Có tiếng rì rầm vui sướng bất ngờ tắt ngấm khi ông Link Deas nói, “Không ai quanh đây muốn làm bất cứ điều gì bậy bạ cả, tôi chỉ ngại người ở Old Sarum... Anh không thể có vụ... gọi là gì vậy, Heck?”

“Thay đổi nơi xử” ông Tate nói. “Chuyện đó không có cơ sở lắm đâu, đúng không?”

Bố Atticus nói điều gì đó nghe không rõ. Tôi quay sang Jem, anh ra dấu cho tôi im lặng.

“... Vả lại,” bố Atticus nói, “anh không sợ đám đông đó, phải không?”

“... Biết họ làm thế nào khi đã xỉn”.

“Họ thường không nhậu vào Chủ nhật, họ đi nhà thờ cả ngày...” bố Atticus nói.

“Dù sao thì đây cũng là một dịp đặc biệt...” Ai đó nói.

Họ bàn tán rì rầm cho đến khi bác Alexandra bảo Jem nếu không bật đèn phòng khách lên anh sẽ khiến người ta chê cười cả nhà. Jem không nghe bác nói.

“... thứ nhất không hiểu tại sao anh lại dính vào chuyện này” ông Link Deas nói. “Vì vụ này anh đã mất mọi thứ, Atticus. Tôi nói thực là mọi thứ”.

“Ông nghĩ thế thật à?”

Đây là câu hỏi nguy hiểm của bố Atticus. “Con có thực sự nghĩ con muốn đi nước đó không, Scout?” Bam, bam, bam và tôi bị ăn sạch hết các quân cờ. “Con có thực sự nghĩ điều đó không, con trai? Vậy đọc cái này đi”. Thế là Jem sẽ phải vật lộn suốt cả buổi tối đó để đọc cà diễn văn của Henry W. Grandy.

“Link, chàng trai đó có thể lên ghế điện, nhưng anh ta sẽ không lên cho đến khi sự thật được phơi bày”. Giọng của bố Atticus đều đều. “Và ông biết sự thật là gì mà”.

Giữa nhóm người đó dấy lên tiếng rì rầm, làm tình hình xấu đi nhiều khi bố Atticus lui tới bậc thềm và đám người sấn lại gần ông hơn.

Bất chợt Jem hét toáng lên, “Bố Atticus, có điện thoại!”

Đám người đó hơi giật mình và tản ra; họ là những người chúng tôi gặp hàng ngày: thương nhân, nông dân trong thị trấn; bác sĩ Reynolds cũng ở đó; cả ông Avery nữa.

“Ừ, trả lời điện thoại đi, con trai” bố Atticus gọi.

Họ bật cười ồ. Khi bố Atticus bật đèn phòng khách, ông thấy Jem đang ở ngay cửa sổ, tái nhợt trừ vết đỏ của cửa lưới in trên mũi anh.

“Sao tụi con ngồi trong bóng tối vậy?” Ông hỏi.

Jem nhìn bố đi đến chiếc ghế của ông và cầm tờ báo buổi chiều lên. Đôi khi tôi nghĩ bố Atticus đã bình tĩnh đánh giá mọi cuộc khủng hoảng của cuộc đời ông đằng sau mấy tờ The Mobile Register, The Birmingham News và The Montgomery Advertiser.

“Họ đang rầy rà bố, phải không?” Jem đi đến bên ông. “Họ muốn bắt bí bố, đúng không?”

Bố Atticus hạ tờ báo xuống nhìn Jem. “Con đã đọc cái gì vậy?” Ông hỏi. Rồi ông nói nhẹ nhàng. “Không, con trai, những người đó là bạn của chúng ta”.

“Đó không phải là một... một băng đảng hả?” Jem liếc nhìn bố.

Bố Atticus cố nén một nụ cười nhưng không được. “Không, chúng ta không có những băng đảng và thứ nhảm nhí đó ở Maycomb. Bố chưa từng nghe nói ở Maycomb có một băng đảng”.

“Có lần băng Ku Klux truy đuổi mấy người Thiên chúa giáo”.

“Bố cũng chưa từng nghe có bất cứ người Thiên chúa giáo nào ở Maycomb,” bố Atticus nói, “con đã nhầm chuyện đó với một điều gì khác. Hồi khoảng năm 1920 có một đảng Klan, nhưng đó là một tổ chức chính trị hơn là bất cứ gì khác. Ngoài ta họ không thể tìm ra bất cứ ai để dọa. Có đêm họ tụ tập ở cạnh nhà ông Sam Levy, nhưng Sam chỉ đứng ở hiên nhà ông và bảo họ mọi thứ đã đến chỗ bi đát, ông đã bán cho họ chính những tấm vải trên lưng họ. Sam đã khiến họ quá xấu hổ về bản thân họ đến họ đã bỏ đi”.

Dòng họ Levy đã hội đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành Những Người Tốt; họ làm việc tốt hết sức mình với ý thức mà họ có được, và họ đã sống trên cùng một khu đất ở Maycomb trong năm thế hệ.

“Đảng Ku Klux đã biến mất” bố Atticus nói. “Nó sẽ không bao giờ trở lại”.

Tôi đi về nhà cùng Dill và trở lại đúng lúc nghe được bố Atticus nói với bác, “... Vì lợi ích của phụ nữ miền Nam cũng như bất cứ ai, nhưng không vì bảo tồn sự giả tạo lịch sự mà làm tổn hại đến mạng sống con người” một tuyên bố vốn khiến tôi e rằng họ lại cãi nhau nữa.

Tôi đi tìm Jem và thấy anh trong phòng, nằm trên giường chìm sâu vào suy tư. “Họ lại cãi nhau nữa hả?” Tôi hỏi.

“Đại khái vậy. Bác ấy sẽ không để bố yên với vụ Tom Robinson đâu. Bác ấy gần như nói rằng bố Atticus đã làm nhục cả dòng họ. Scout... Anh sợ”.

“Sợ cái gì?”

“Sợ cho bố Atticus. Ai đó có thể làm tổn thương bố”. Jem thích giữ vẻ bí ẩn; trước những câu hỏi của tôi anh chỉ nói là đi chỗ khác và để anh yên.

Ngày hôm sau là Chủ nhật. Trong lúc nghỉ giữa buổi học giáo lý và lễ nhà thờ khi giáo đoàn nghỉ giải lao tôi thấy bố Atticus đứng trong sân với một nhóm người khác. Ông Heck Tate cũng có mặt, và tôi tự hỏi phải chăng ông ta đã trở nên sùng đạo. Ông ta chưa bao giờ đến nhà thờ. Cả ông Underwood cũng có mặt ở đó. Ông Underwood không chịu nổi bất cứ tổ chức nào trừ tòa báo The Maycomb Tribune, mà ông là chủ, biên tập viên, kiêm luôn thợ in. Suốt ngày ông ở bên dàn máy sắp chữ, thỉnh thoảng ông lại rót cho mình một ly từ bình rượu dâu nằm thường trực gần đó. Ông hiếm khi đi thu lượm tin tức; người ta đưa nó đến cho ông. Người ta nói rằng ông hình thành mọi số báo The Maycomb Tribune từ trong đầu ông và viết nó ra với dàn máy sắp chữ. Đây là điều có thể tin được. Hẳn có một thứ gì đó đã đến lôi ông Underwood ra.

Tôi thấy bố Atticus bước đến cửa, và nói rằng họ đã chuyển Tom Robinson đến nhà tù Maycomb. Ông cũng nói, với chính ông hơn là với tôi, rằng nếu họ giữ anh ta ở đó ngay từ đầu thì đã không có chuyện nhộn nhạo nào. Tôi nhìn ông kiếm chỗ ngồi ở hàng thứ ba từ trên xuống, và nghe ông lầm bầm, “Chúa ở cùng anh chị em” chậm hơn tất cả chúng tôi. Ông không bao giờ ngồi cùng với bác Alexandra, Jem và tôi. Ông thích ngồi một mình trong nhà thờ.

Sự thanh bình giả tạo vốn phổ biến vào những ngày Chủ nhật càng trở nên khó chịu hơn với sự có mặt của bác Alexandra. Bố Atticus sẽ lánh thẳng về văn phòng ông ngay sau bữa ăn, ở đó nếu thỉnh thoảng nhìn vào, chúng tôi sẽ thấy ông ngồi dựa lưng vào chiếc ghế xoay và đọc. Bác Alexandra tự cho phép mình chợp mắt hai tiếng và cấm không cho chúng tôi gây bất cứ tiếng động nào trong sân, hàng xóm đang nghỉ ngơi. Jem trong cái tuổi chín chắn của anh đã ôm vào phòng mình một đống tạp chí bóng bầu dục. Vì vậy Dill và tôi dành những ngày Chủ nhật của mình bò quanh tronh bãi Hoẵng sau nhà.

Việc săn bắn vào ngày Chủ nhật bị cấm, vì vậy Dill và tôi đã quả bóng của Jem quanh cánh đồng một lát, một việc chẳng thú vị gì. Dill hỏi tôi liệu tôi có thích chọc ghẹo Boo Radley không. Tôi nói tôi nghĩ chẳng tốt đẹp gì khi quấy rầy ông ta, và dành buổi chiều còn lại để kể cho Dill nghe những sự việc xảy ra hồi mùa đông năm ngoái. Nó bị ấn tượng mạnh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 8-2-2013 16:14:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15
(tiếp theo)

Chúng tôi chia tay vào giờ ăn tối, và sau bữa ăn khi Jem và tôi đang bắt đầu một buổi tối như thường lệ thì bố Atticus làm một việc khiến chúng tôi chú ý: ông bước vào phòng khách mang theo sợi dây điện dài. Có một bóng đèn ở đầu dây.

“Bố sẽ ra ngoài một lát” ông nói. “Các con chắc đã ngủ khi bố về, vì vậy bây giờ bố sẽ chúc tụi con ngủ ngon trước”.

Nói xong, ông đội mũ và đi ra cửa sau.

“Bố đi lấy xe” Jem nói.

Bố chúng tôi có vài thói quen lập dị: một là ông không bao giờ ăn tráng miệng; một điều khác nữa là ông thích đi bộ. Theo trí nhớ của tôi, luôn luôn có một chiếc Chevrolet trong tình trạng cực tốt ở nhà xe, và bố Atticus chỉ dùng đến nó trong những chuyến đi xa vì công việc, nhưng ở Maycomb ông đi bộ tới văn phòng làm việc mỗi ngày bốn lần đi và về, tổng cộng khoảng hai dặm. Ông nói việc tập thể dục duy nhất của ông là đi bộ. Ở Maycomb, nếu một người đi dạo không có mục đích rõ rệt trong đầu, thì người ta tin rằng đầu óc của người đó không có khả năng nghĩ ra một mục đích rõ ràng.

Sau đó, tôi chúc bác và anh trai tôi ngủ ngon rồi chìm đắm vào một cuốn sách, khi đó tôi nghe Jem lục đục trong phòng anh. Những âm thanh trước khi ngủ của anh quá quen thuộc với tôi đến độ tôi gõ cửa phòng anh, “Sao anh chưa đi ngủ?”

“Anh sẽ xuống thị trấn một lát”. Anh đang thay quần.

“Chi vậy? Gần mười giờ rồi, Jem”.

Anh biết điều đó, nhưng anh vẫn đi như thường.

“Vậy em sẽ đi với anh. Nếu anh nói em đừng đi, thì em cũng cứ đi, nghe không?”

Jem thấy rằng anh phải đánh nhau với tôi để buộc tôi ở nhà, và tôi cho rằng anh nghĩ việc đánh nhau sẽ làm phiền bác, nên anh miễn cưỡng cho tôi đi theo.

Tôi mặc đồ thật nhanh. Chúng tôi chờ cho đến khi đèn của bác tắt, và chúng tôi đi thật nhẹ xuống những bậc thềm sau nhà. Tối nay không có trăng.

“Dill sẽ muốn đi đó” tôi thì thào.

“Thì nó cứ muốn” Jem rầu rĩ nói.

Chúng tôi phóng qua bức tường cạnh đường xe chạy, đi qua sân bên hông nhà cô Rachel đến cửa sổ phòng Dill. Jem huýt sáo. Khuôn mặt Dill xuất hiện ngay khung cửa lưới, biến mất, và năm phút sau cậu ta mở chốt cửa lưới và bò ra. Là một tay lão luyện, nó không nói gì cho đến khi chúng tôi ra đến vỉa hè. “Đi đâu?”

“Jem đi lòng vòng chơi” một tình trạng mà Calpurnia nói tất cả bọn con trai đều mắc phải ở tuổi anh.

“Tớ chỉ mới có cảm giác này,” Jem nói, “đúng cái cảm giác này”.

Chúng tôi đi ngang nhà bà Dubose, nó vắng vẻ và các cánh cửa đóng kín, những cây hoa trà của bà mọc chen lẫn cỏ dại. Còn tám ngôi nhà nữa mới tới góc phố bưu điện.

Cạnh Nam của quảng trường vắng hoe. Những bụi cây bách tán khổng lồ che phủ một góc đường, và chạy giữa chúng là một con đường sắt lấp lánh dưới ánh sáng đèn đường. Một ngọn đèn chiếu sáng trong nhà vệ sinh của hạt, thường thì phía đó của tòa án tối om om. Một vòng lớn hơn gồm các cửa hàng vây quanh quảng trường tòa án; những ngọn đèn sáng mờ mờ ở sâu bên trong những cửa hàng đó.

Văn phòng của bố Atticus nằm bên trong tòa án hồi ông bắt đầu hành nghề, nhưng sau vài năm ông chuyển đến một khu yên tĩnh hơn trong tòa nhà ngân hàng Maycomb. Khi quẹo ở góc quảng trường, chúng tôi thấy xe của ông đậu trước cửa ngân hàng. “Bố ở trong đó” Jem nói.

Nhưng ông không có ở đó. Muốn đến văn phòng ông phải đi qua một hành lang dài. Nhìn theo hành lang, chúng tôi thường thấy dòng Atticus Finch, Luật sư bằng những chữ nhỏ thanh tú nổi bật trên ánh sáng từ bên trong cánh cửa phòng ông. Lúc này nó tối thui.

Jem nhìn vào cửa ngân hàng cho chắc ăn. Anh xoay nắm cửa. Cửa đã khóa. “Mình đi tiếp. Chắc bố đến gặp ông Underwood”.

Ông Underwood không chỉ điều hành tòa soạn từ The Maycomb Tribune, ông còn sống trong đó. Đúng ra là ở tầng trên đó. Ông tường thuật tin tức tòa án và nhà tù đơn giản bằng cách nhìn qua cửa sổ trên lầu của mình. Ngôi nhà tòa soạn nằm ở góc Tây Bắc cửa quảng trường, và muốn tới đó chúng tôi phải đi qua nhà tù.

Nhà tù Maycomb là một trong những tòa nhà đáng ngán nhất và khủng khiếp nhất trong số các công sở của hạt. Bố Atticus nói có vẻ như nó do người bà con Joshua St. Clair thiết kế. Nó chắc chắn là ước mơ của ai đó. Hoàn toàn lạc điệu trong một thị trấn gồm những cửa hàng quay mặt ra quảng trường và những ngôi nhà mái dốc, nhà tù Maycomb là một trò đùa kiểu Gothic thu nhỏ với chiều ngang bằng một xà lim và cao bằng hai xà lim rồi có cả những lỗ châu mai nhỏ xíu và cột vòm chống đỡ tường. Sự tưởng tượng của nó được tăng thêm bởi mặt tiền xây bằng gạch đỏ và những thanh chắn bằng thép dày tại các cửa sổ kiểu nhà thờ. Nó không nằm trên một ngọn đồi trơ trụi, mà chen giữa Cửa hàng kim khí Tyndal và tòa soạn tờ The Maycomb Tribune. Nhà tù là câu chuyện đáng bàn duy nhất của Maycomb: những kẻ chê bai nói nó giống một nhà vệ sinh thời Victoria;những kẻ ủng hộ nói nó tạo cho thị trấn một vẻ nghiêm trang rõ rệt, và không một người lạ nào từng nghi ngờ chuyện nó chứa đầy bọn mọi đen.

Khi đi theo vỉa hè, chúng tôi thấy một ánh đèn lẻ loi sáng ở đằng xa. “Thật buồn cười,” Jem nói, “nhà tù không có đèn phía ngoài”.

“Nhìn như có đèn phía trên cánh cửa” Dill nói.

Một đoạn dây điện dài chui qua song sắt của cửa sổ xà lim tầng hai và thả xuống hông tòa nhà. Trong ánh sáng từ bóng đèn trần trụi ở đầu dây, bố Atticus đang ngồi dựa vào cửa trước. Ông ngồi trên một trong những chiếc văn phòng của ông, và ông đang đọc, không để ý đến những con thiêu thân bay lảng vảng trên đầu ông.

Tôi định chạy đến, nhưng Jem ngăn lại. “Đừng đến chỗ bố,” anh nói, “có thể bố không thích thế. Bố ổn cả, tụi mình về đi. Anh chỉ muốn biết bố ở đâu thôi”.

Khi chúng tôi đi tắt qua quảng trường thì có bốn chiếc xe hơi đầy bụi đường xuất hiện từ phía xa lộ Medirian, chạy chầm chậm thành một hàng. Chúng chạy vòng quảng trường, qua tòa nhà ngân hàng, và dừng lại trước nhà tù.

Không ai bước ra. Tôi thấy bố Atticus rời mắt khỏi tờ báo ngước nhìn lên. Ông gấp nó lại, cuộn nó một cách cẩn thận, đặt lên đùi, và đẩy mũ ngược ra sau đầu. Có vẻ ông đang đợi họ.

“Tới coi” Jem thì thào. Chúng tôi phóng qua quảng trường, băng qua đường, và núp ngay cửa siêu thị Jitney Jungle. Jem nhìn theo lề đường. “Tụi mình có thể đến gần hơn” anh nói. Chúng tôi chạy đến khung cửa của Cửa hàng kim khí Tyndal - đủ gần, mà vẫn kín đáo.

Từng người hoặc từng hai người một bước ra khỏi xe. Những cái bóng biến thành hình khối cụ thể khi ánh đèn cho thấy các hình dáng rõ ràng di chuyển về phía cửa nhà tù. Bố Atticus vẫn đứng chỗ cũ. Những người đàn ông đó ché khuất ông khỏi tầm mắt chúng tôi.

“Hắn ở trong đó hả, ông Finch?” Một người hỏi.

“Phải,” chúng tôi nghe bố Atticus trả lời, “anh ta ngủ. Đừng đánh thức anh ta”.

Nghe lời bố tôi, sự việc diễn ra sau đó là điều mà sau này tôi hiểu ra là một khía cạnh khôi hài đáng ngán của một tình huống không vui vẻ gì: những người đó nói chuyện gần như thì thào.

“Ông biết chúng tôi muốn gì mà” một người khác nói. “Tránh khỏi cái cửa đó đi, ông Finch”.

“Ông có thể quay lưng về nhà đi, Walter” bố Atticus nói một cách thoải mái, “Heck Tate đang ở quanh đâu đây”.

“Mặc xác ông ta” người khác đó nói. “Cả đám của Heck đã vào tuốt trong rừng và tới sáng họ mới về”.

“Thật ư? Sao lại thế?”

“Bọn họ đi săn dẽ giun [1] rồi” một câu trả lời ngắn gọn. “Ông chưa hề nghĩ về trò đó hả, ông Finch?”

“Từng nghĩ đến, nhưng không tin. Vậy,” giọng bố tôi vẫn đều đều, “điều đó làm thay đổi mọi việc, phải không?”

“Vậy đó” một giọng khác lên tiếng. Người nói là một bóng đen.

“Ông thực sự nghĩ thế à?”

Đây là lần thứ hai tôi nghe bố Atticus hỏi câu hỏi đó trong hai ngày, và điều đó nghĩa là người của ai đó sẽ phải nhảy dựng lên. Vụ này quá hay không thể bỏ lỡ. Tôi bỏ Jem và phóng thật nhanh đến chỗ bố Atticus.

Jem hét lên và cố túm tôi lại, nhưng tôi đã bỏ xa anh và Dill. Tôi chen lấn qua những thân thể hôi hám tối thui và ào vào vòng ánh sáng.

“Ch...ào bố Atticus!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 8-2-2013 16:17:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15
(tiếp theo)

Tôi nghĩ ông sẽ ngạc nhiên thú vị, nhưng khuôn mặt ông giết chết niềm vui của tôi. Một vẻ sợ hãi hiện ra trong mắt ông, nhưng biến mất khi thấy Jem và Dill chen vào chỗ ánh đèn.

Có mùi Whisky lên men và mùi chuồng heo phảng phất, khi nhìn quanh tôi phát hiện ra rằng những người này toàn là những kẻ lạ hoắc. Họ không phải là người tôi đã thấy tối qua. Tôi hết sức lúng túng: tôi đã phóng một cách đắc thắng vào đám người mà tôi chưa từng gặp trước đây.

Bố Atticus đứng dậy khỏi ghế, nhưng ông di chuyển một cách chậm chạp, giống một ông già. Ông đặt tờ báo xuống một cách cẩn thận, sửa những nếp gấp của nó bằng những ngón tay chần chừ. Chúng hơi run.

“Về nhà đi, Jem” ông nói. “Dẫn Scout với Dill về”.

Chúng tôi đã quan với việc nhắc nhở, nhưng không phải lúc nào cũng vui vẻ nghe theo những chỉ thị của bố Atticus, nhưng theo kiểu anh ấy đứng thì Jem không nghĩ đến việc nhúc nhích.

“Bố bảo về nhà”.

Jem lắc đầu. Khi bố Atticus chống nạnh, Jem cũng chống nạnh, và khi họ đối mặt nhau tôi có thể thấy họ ít giống nhau: đôi mắt và mái tóc nâu mềm mại của Jem, khuôn mặt trái xoan và đôi tai ép sát của anh là của mẹ chúng tôi, tương phản kỳ lạ với mái tóc xám bạc và những đường nét cương nghị của bố Atticus, nhưng họ giống nhau theo kiểu nào đó. Sự thách thức lẫn nhau khiến họ giống nhau.

“Con trai, bố bảo về nhà”.

Jem lắc đầu.

“Tôi sẽ đưa cậu ta về nhà” một người đàn ông lực lưỡng nói, và thô bạo chộp lấy cổ áo Jem. Ông ta gần như nhấc hẳn Jem lên khỏi mặt đất.

“Ông không được đụng vào anh ấy!” Tôi lẹ làng đá người đó. Chỉ có chân trần, tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta lui lại với vẻ đau đớn thật sự. Tôi định đá vào xương ống chân ông ta, nhưng lại nhắm quá cao.

“Thôi đi, Scout” bố Atticus đặt tay lên vai tôi. “Đừng đã người ta. Đừng...” Ông nói, khi tôi đang kiếm cớ bào chữa.

“Không ai được đối đãi với Jem kiểu đó” tôi nói.

“Được rồi, ông Finch, đưa chúng tránh khỏi chỗ này” ai đó gầm gừ. “Ông có mười lăm giây để đưa chúng khỏi chỗ này”.

Giữa nhóm người lạ này, bố Atticus cố làm cho Jem nghe lời ông. “Con không đi” là câu trả lời kiên quyết của anh trước những đe dọa, yêu cầu, và cuối cùng là câu, “Bố xin con, Jem, đưa tụi nó về nhà đi” của bố Atticus.

Tôi cảm thấy hơi mệt với chuyện này, nhưng cảm thấy Jem có những lý do của anh ấy để phản ứng như anh đã làm, trước viễn cảnh của anh một khi bố Atticus lôi được anh về nhà. Tôi nhìn quanh đám đông. Đó là một đêm hè, nhưng hầu hết những người này mặc quần áo bảo hộ lao động và áo sơ mi cài nút đến tận cổ. Tôi nghĩ những người này bị lạnh bẩm sinh, vì họ không xắn tay áo lên mà cài nút tới tận cổ tay. Một số đội mũ kéo sụp đến tận tai. Họ là những con người trông cau có, mắt ngái ngủ có vẻ không quen thức khuya. Tôi lại đảo mắt tìm một khuôn mặt quen thuộc, và ngay giữa đám người đứng thành vòng cung tôi tìm thấy một khuôn mặt như thế.

“Chào ông Cunningham”.

Có vẻ như người đó không nghe tiếng tôi.

“Chào ông Cunningham. Vụ tài sản thừa kế của ông tới đâu rồi?”

Những sự vụ pháp lý của ông Walter Cunningham tôi đã quá rành; bố Atticus có lần mô tả chúng rất kỹ. Người đàn ông to lớn này nhấp nháy mắt và móc ngón tay cái của ông ta và dây quai của bộ đồ bảo hộ lao động. Ông ta có vẻ không thoải mái; ông ta hắng giọng và nhìn chỗ khác. Khúc dạo đầu thân thiện của tôi đã thất bại.

Ông Cunningham không đội mũ, và nửa trán phía trên của ông ta trắng bệch tương phản với khuôn mặt rám nắng của ông, điều đó khiến tôi tin rằng ông ta hầu như ngày nào cũng đội mũ. Ông nhúc nhích bàn chân trong đôi giày lao động nặng nề.

“Ông không nhớ cháu hả, ông Cunningham? Cháu là Jean Louise Finch. Có một lần ông đã mang cho tụi cháu một mớ hồ đào, nhớ không?” Tôi bắt đầu cảm thấy sự vô ích mà người ta cảm thấy khi một người quen tình cờ không nhận ra họ.

“Cháu đi học cùng với Walter” tôi lại bắt đầu. “Nó là con trai của ông, đúng không? Đúng không, ông?”

Ông Cunningham miễn cưỡng gật đầu. Rốt cuộc là ông có biết tôi.

“Bạn ấy học chung với cháu,” tôi nói, “bạn ấy học khá. Bạn ấy tốt lắm,” tôi nói thêm, “một cậu trai thực sự tốt. Có lần tụi rủ bạn ấy về nhà ăn trưa. Có lẽ bạn ấy có nói với ông về cháu, có lần cháu đánh bạn ấy, nhưng bạn ấy vẫn thật thoải mái với chuyện đó. Nhờ ông cho cháu gửi lời chào bạn ấy, được không?”

Bố Atticus đã từng nói rằng lịch sự là nói với người khác về những gì họ quan tâm, chứ không nói về những gì mình quan tâm. Ông Cunningham không biểu lộ sự quan tâm đến con trai ông, vì vậy tôi nói về vụ hạn chế thừa kế của ông ấy một lần nữa trong nỗ lực cuối cùng để khiến ông ấy cảm thấy thoải mái.

“Những khoản hạn chế thừa kế thì thiệt tệ” tôi góp ý với ông ta, rồi tôi từ từ nhận ra rằng tôi đang nói chuyện với cả nhóm người đó. Tất cả đều nhìn tôi, một số người há hốc miệng. Bố Atticus đã thôi thúc giục Jem: họ đang đứng bên cạnh Dill. Sự chú ý của họ đã lên tới mức ngây cả người. Miệng bố Atticus thậm chí hơi há ra, một cử chỉ mà ông từng mô tả là thô lậu. Mắt chúng tôi chạm nhau và ông nhắm lại.

“Bố Atticus, con đang nói với ông Cunningham rằng vụ hạn chế thừa kế thiệt là tệ, và nhiều điều khác nữa, nhưng bố đã nói là đừng lo, đôi khi nó mất nhiều thời gian.. rằng...bố với ông ấy sẽ xoay xở vượt qua được...” Tôi từ từ ngừng nói, tự hỏi mình đã phạm phải sự ngu xuẩn lớn lao gì đây. Vụ hạn chế thừa kế có vẻ như rất phù hợp cho một cuộc nói chuyện ở phòng khách.

Tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi túa ra từ chân tóc, tôi có thể chịu đựng mọi thứ trừ chuyện một nhóm người cứ nhìn tôi chòng chọc. Họ đứng im hoàn toàn.

“Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

Bố Atticus chẳng nói gì. Tôi nhìn quanh và nhìn lên ông Cunningham, khuôn mặt của ông cũng không để lộ cảm xúc nào. Rồi ông làm một việc lạ kỳ. Ông ngồi xuống nắm hai vai tôi.

“Tôi sẽ nói với nó cô gửi lời chào, quý cô bé bỏng” ông nói.

Rồi ông đứng thẳng dậy, vẫy bàn tay to bè. “Chúng ta giải tán” ông gọi to. “Chúng ta đi thôi, các bạn”.

Như khi họ đến, từng người hoặc từng hai người lại chui vào những chiếc xe cũ nát của họ. Cửa đóng sầm lại, máy nổ khục khặc, và họ đi mất.

Tôi quay sang bố Atticus, nhưng bố Atticus đã đi đến nhà tù và tựa người quay mặt vào tường. Tôi đến bên ông kéo tay áo ông. “Mình về nhà bây giờ được chưa?” Ông gật đầu, lấy khăn tay ra lau khắp mặt và thở phì thật mạnh.

“Ông Finch?”

Một giọng khàn khàn nhỏ nhẹ từ chỗ tối bên trên, “Họ đi rồi hả?”

Bố Atticus lùi lại, nhìn lên. “Họ đi hết rồi” ông nói. “Ráng ngủ chút đi, Tom. Họ sẽ không quấy rầy anh nữa đâu”.

Từ hướng khác, một giọng nói nữa cắt thẳng qua bóng đêm. “Ông đúng quá rồi chúng sẽ không quấy rầy nữa đâu. Tôi rình sẵn yểm trợ ông nãy giờ đó, Atticus”.

Ông Underwood và khẩu súng hai nòng thò ra cửa sổ bên trên tòa soạn tờ The Maycomb Tribune.

Đã quá giờ ngủ của tôi lâu rồi và tôi càng lúc càng mệt; có vẻ như bố Atticus với ông Underwood sẽ nói chuyện suốt đêm. Ông Underwood từ cửa sổ chõ xuống và bố Atticus nói vọng lên chỗ ông ta. Cuối cùng bố Atticus quay lại, tắt ngọn đèn bên trên cửa nhà tù, và cầm ghế của ông lên.

“Để cháu mang nó cho, ông Finch” Dill nói. Nãy giờ nó không nói một lời.

“Ô, cảm ơn, con trai”.

Đi về phía văn phòng, Dill và tôi đi sau bố Atticus và Jem. Dill bị cái ghế làm vướng chân nên bước đi của nó chậm hơn. Bố Atticus và Jem đã bỏ xa chúng tôi, và tôi cho rằng bố Atticus đang rầy la anh vì không chịu về nhà, nhưng tôi đã lầm. Khi họ đi qua dưới anh đèn đường, bố Atticus đưa tay xoa đầu Jem, một cử chỉ trìu mến của ông.

Chú thích:

[1] Đi săn dẽ giun: một trò đùa trong đó một nhóm dẫn một người đi săn chim dẽ giun trong rừng sâu, và khi người đó lo đi tìm giống chim đó thì cả bọn trốn về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 9-2-2013 07:26:26 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16

Jem nghe tiếng tôi sụt sịt. Anh thò đầu qua cửa thông giữa hai phòng. Khi anh đến bên giường tôi đèn của bố Atticus đã bật lên. Chúng tôi ở yên tại chỗ cho đến khi ánh đèn đó tắt; chúng tôi nghe ông trở mình, và chờ cho đến khi ông im lặng trở lại.

Jem dẫn tôi qua phòng anh và đặt tôi lên giường cạnh anh. “Ráng ngủ đi” anh nói. “Có lẽ ngày mai mọi chuyện sẽ qua thôi”.

Chúng tôi lặng lẽ vào nhà, để không làm bà bác thức giấc. Bố Atticus tắt máy xe trên đường rẽ vào nhà và thả cho xe chạy đến nhà xe; chúng tôi vào bằng cửa sau và ai về phòng nấy không nói một lời. Toi quá mệt, và trôi vào giấc ngủ với ký ức về việc bố Atticus bình tĩnh xếp tờ báo và đẩy mũ ra sau trở thành bố Atticus đang đứng giữa con đường chờ trống trơn, đẩy cặp kính lên. Việc hiểu rõ ý nghĩa của các sự kiện trong đêm làm tôi khóc. Jem quá tế nhị trong chuyện này: như một ngoại lệ anh nhắc tôi nhớ rằng những người gần chín tuổi không làm những việc giống như vậy.

Sáng nay mọi người ăn không thấy ngon, trừ Jem; anh ăn hết ba quả trứng. Bố Atticus theo dõi với vẻ thán phục rõ ràng; bác Alexandra nhấp cà phê và lộ vẻ không tán thành theo từng chặp. Trẻ con lẻn ra ngoài vào ban đêm là một nỗi ô nhục cho gia đình. Bố Atticus nói rằng ông rất vui vì những ô nhục của ông đã đi theo ông, nhưng bà bác nói, “Nhảm nhí, ông Underwood lúc nào cũng ở đó”.
“Chị biết đó, có một điều buồn cười ở ông Braxton này” bố Atticus nói. “Ông ta khinh thường người da đen, sẽ không để người nào ở gần ông ta”.

Quan điểm địa phương cho rằng ông Underwood là một con người nhỏ thó báng bổ, mạnh mẽ, cha ông ta trong một lúc nổi máu hài hước quái dị đã đặt tên thánh cho ông là Braxton Bragg [1], một cái tên mà ông Underwood đã làm hết sức để mọi người quên đi. Bố Atticus nói việc đặt tên cho con theo các tướng lĩnh miền Nam khiến người ta uống rượu lâu say.

Calpurnia phục vụ thêm cà phê cho bác Alexandra, và bác lắc đầu trước những gì mà tôi nghĩ là ánh mắt nài xin đầy thuyết phục. “Cháu còn nhỏ quá” bà nói. “Bác sẽ nói cho cháu nghe khi cháu lớn hơn”. Tôi nói như thể có ích cho dạ dày tôi. “Được rồi” bà nói, và lấy một cái tách từ tủ bát đĩa. Bà rót một thìa cà phê vào đó và chế sữa tới miệng tách. Tôi cám ơn bà bằng cách thè lưỡi vào húp, và nhìn lên bắt gặp cái nhìn cảnh cáo của bác tôi. Nhưng đó là bác đang cau mày với bố Atticus.

Bác chờ cho đến khi Calpurnia vào nhà bếp mới nói, “Đừng ăn nói như vậy trước mặt họ”.

“Nói làm sao trước mặt ai?” Bố hỏi.

“Giống như vậy trước mặt Calpurnia. Cậu nói Braxon Underwood khinh thường người da đen ngay trước mặt bà ấy”.

“Phải, em chắc Calpurnia biết rõ điều đó. Mọi người ở Maycomb đều biết chuyện đó”.

Tôi bắt đầu nhận thấy một thay đổi tinh tế ở bố tôi mấy ngày nay, điều đó lộ ra khi ông nói chuyện với bác Alexandra. Nó là sự khó chịu ẩn khuất sâu bên trong không bao giờ lộ ra ngoài. Có một vẻ gay gắt mơ hồ trong giọng ông khi ông nói. “Bất cứ điều gì nói tại bàn ăn được thì nói trước mặt Calpurnia cũng được. Bà ấy biết bà có ý nghĩa thế nào với gia đình này”.

“Tôi không nghĩ đó là một thói quen tốt, Atticus. Nó khích lệ họ. Cậu biết họ nói chuyện giữa họ với nhau như thế nào mà. Mọi việc xảy ra trong thị trấn này đều lan tới khu da đen trước khi mặt trời lặn”.

Bố tôi đặt con dao xuống. “Em không biết luật nào nói họ không thể nói chuyện. Nếu chúng ta đừng gây những chuyện cho họ bàn tán thì chắc họ sẽ im lặng. Sao con không uống cà phê của con đi, Scout?”

Tôi đang nghịch chiếc muỗng trong ly. “Con nghĩ ông Cunningham là một trong những người bạn của chúng ta. Bố nói vậy với con từ lâu rồi”.

“Ông ta vẫn là bạn”.

“Nhưng tối hôm qua ông ta muốn hại bố”.

Bố Atticus đặt cái đĩa xuống cạnh con dao và đẩy cái đĩa của ông sang một bên. “Ông Cunningham về cơ bản là một người tốt,” ông nói, “ông ta chỉ có thành kiến giống những người khác trong chúng ta thôi”.

Jem nói. “Đừng nói đó là thành kiến. Ông ta đã định giết bố tối hôm qua khi ông ta vừa đến đó”.

“Ông ta có thể làm bố bị thương chút ít,” bố Atticus thừa nhận, “nhưng con trai, con sẽ hiểu con người hơn khi con lớn hơn chút nữa. Dù gì đi nữa thì một đám đông hung hăng cũng gồm những con người đơn lẻ. Tối qua ông Cunningham chỉ là một phần của đám đông hung hăng đó, nhưng ông ta vẫn là một con người. Mọi đám đông hung hăng trong mọi thị trấn nhỏ bé ở miền Nam này luôn luôn gồm những người con đã biết... điều đó quá bình thường dễ hiểu, đúng không?”

“Con sẽ nói không” Jem nói.

“Vậy thì cần một đứa bé tám tuổi để họ bình tĩnh lại, phải không?” Bố Atticus nói. “Điều đó chứng minh điều gì đó - rằng một đám thú hoang vẫn có thể bị ngăn lại được, đơn giản bởi họ vẫn là con người. Hừm, có lẽ chúng ta cần một lực lượng cảnh sát gồm toàn trẻ em... Bọn trẻ các con tối hôm qua đã khiến Walter Cunningham ở vào hoàn cảnh của bố trong một lát. Vậy là đủ rồi”.

Ồ, tôi hy vọng Jem sẽ hiểu con người hơn một chút khi anh ấy lớn; tôi thì không, “Ngày đầu tiên Walter quay lại trường sẽ là ngày cuối cùng của nó” tôi khẳng định.

“Con không được đụng tới nó” bố Atticus nói thẳng thừng. “Bố không muốn cả hai đứa mang lòng hận thù về chuyện này, bất chấp chuyện gì xảy ra”.

“Cậu thấy đó, phải không,” bác Alexandra nói, “những việc giống vầy sẽ đi tới đâu. Đừng nói là tôi không báo trước với cậu”.

Bố Atticus nói ông sẽ chẳng bao giờ nói như vậy, đẩy ghế ra và đứng lên. “Xin lỗi, em còn cả một ngày trước mặt. Jem, bố muốn con hôm nay và Scout đừng xuống thị trấn, làm ơn nghe lời bố đi”.

Khi bố Atticus vừa rời đi, Dill nhảy chân sáo từ hành lang vào phòng ăn. “Sáng nay xôn xao khắp thị trấn,” cậu ta thông báo, “về chuyện làm thế nào chúng ta đẩy lùi được hàng trăm người bằng tay không...”

Bác Alexandra nhìn cậu ấy chằm chằm ra hiệu im lặng. “Không có hàng trăm người,” bác nói, “và không có ai đẩy lùi bất cứ ai hết. Đó chỉ là hang ổ của những tên Cunningham, say sưa và ồn ào”.

“Ồ, bác, Dill chỉ nói vậy thôi” Jem nói, ra hiệu cho bọn tôi theo anh.

“Bữa nay tất cả các cháu ở chơi trong sân” bác nói khi chúng tôi tiến về hàng hiên trước nhà.

Hôm ấy giống như ngày thứ Bảy. Dòng người từ phía Nam hạt kéo ngang qua nhà chúng tôi một cách nhàn nhã nhưng đều đặn.

Ông Dolphus Raymond lảo đảo đi qua trên con ngựa thuần chủng của ông ta. “Không thấy kiểu ông ta ngồi trên yên thế nào sao” Jem thì thào. “Làm sao em có thể say xỉn khi chưa tới tám giờ sáng?”

Một chiếc xe chở toàn các quý bà đi ngang qua chúng tôi. Họ đội mũ vải và mặc áo tay dài. Một người đàn ông râu ria đội chiếc mũ len điều khiển xe. Đằng xa có một nhóm người theo phái Mennonite, Jem nói với Dill, “Họ không có nút áo”. Họ sống sâu trong rừng, gần như chỉ buôn bán với bên kia sông, hiếm khi đến Maycomb. Dill khoái chí, “Mắt của tất cả họ đều xanh,” Jem giải thích, “và những người đàn ông này không thể cạo râu sau khi cưới vợ. Vợ họ thích họ mơn trớn các bà bằng râu của họ”.

Ông X Billups cưỡi lừa đi ngang qua và vẫy chào chúng tôi. “Ông này ngộ lắm nghe” Jem nói. “X là tên ông ta, không phải viết tắt tên ổng đâu. Có lần ông ta đến tòa án và người ta hỏi tên ông ấy. Ông ta nói là X Billups. Viên thư ký yêu cầu ông ta đánh vần nó và ông ta nói X. Yêu cầu lần nữa, ông ta nói X. Họ cứ nói vậy cho đến khi ông ta viết chữ X lên một tờ giấy và đưa ra cho mọi người xem. Họ hỏi vì sao ông ta có tên đó ông ta nói đó là cách người nhà ông đăng ký cho ông khi ông mới chào đời”.

Khi cả hạt đi ngang qua chúng tôi, Jem kể cho Dill nghe những câu chuyện và quan điểm chung của những nhân vật nổi bật hơn: ông Tensaw Jones ủng hộ luật cấm rượu; cô Emily Davis lén hít thuốc lá bột; ông Byron Walter chơi được vĩ cầm; ông Jake Slade đang làm hàm răng giả thứ ba của ông.

Một xe chở hàng đầy những công nhân mặt mày nghiêm trang khác thường xuất hiện. Khi họ chỉ vào sân nhà cô Maudie Atkinson, vốn nở rộ những bông hoa mùa hè, thì chính cô Maudie bước ra hàng hiên. Có một cái gì đó khác lạ ở cô Maudie - đứng trên hiên nhà, cô ở quá xa nên chúng tôi không thể thấy rõ nét mặt cô, nhưng chúng tôi có thể biết được tâm trạng cô thông qua cách cô đứng. Cô đứng chống nạnh, vai cô hơi xuôi xuống, đầu cô nghoẹo sang một bên, cặp kính cô lấp lánh trong ánh nắng. Tôi biết cô đã bày ra một nụ cười kinh dị nhất.

Người đánh xe ghìm ngựa chậm lại, và một phụ nữ giọng the thé nói vọng ra, “Kẻ đến trong phù hoa sẽ ra đi trong tăm tối!”

Cô Maudie đáp, “Lòng mừng vui làm hân hoan nét mặt [2]”

Tôi đoán những người theo phái rửa chân nghĩ rằng Quỷ sứ đang trích dẫn Kinh Thánh vì mục đích của hắn, vì người đánh xe thúc bọn lừa tăng tốc. Lý do tại sao họ phản đối cái sân của cô Maudie là một điều bí ẩn, điều bí ẩn đó càng tăng lên trong đầu tôi bởi vì đối với những ai dành cả ngày ở ngoài trời, thì sự thông thạo Kinh Thánh của cô Maudie thật sự ấn tượng.

“Sáng nay cô có đến tòa án không?” Jem hỏi. Chúng tôi đã thả bộ sang đó.

“Không” cô đáp. “Sáng nay cô chẳng có việc gì với tòa án cả”.

“Cô không xuống đó để theo dõi sao?” Dill hỏi.

“Không. Quả là bệnh hoạn, theo dõi một kẻ khốn khổ bị xử tội chết. Nhìn tất cả những người kia xem, trông cứ như một ngày hội của người La Mã”.

“Họ phải xử anh ta công khai, cô Maudie” tôi nói. “Nếu không làm vậy là sai”.

“Cô biết rõ điều đó” cô nói. “Chỉ bởi vì nó công khai, nên việc gì cô phải đi, đúng không?”

Cô Stephanie Crawford đi ngang qua. Cô đội mũ và đeo găng tay. “E, e hèm” cô nói. “Nhìn đám người kia kìa - bạn sẽ nghĩ là William Jennings Bryan [3] đang nói”.

“Chị tính đi đâu vậy, Stephanie?” cô Maudie hỏi.

“Tới siêu thị Jitney Jungle”.

Cô Maudie nói cả đời cô chưa từng thấy cô Stephanie đến siêu thị Jitney Jungle với cái mũ trên đầu.
“Phải” cô Stephanie nói, “Tôi nghĩ mình có thể ghé mắt vào tòa án, để xem Atticus làm gì trên đó”.

“Tốt hơn là nên cẩn thận kẻo ông ta trao cho chị cái trát hầu tòa”.

Chúng tôi yêu cầu cô Maudie giải thích: cô nói cô Stephanie có vẻ biết quá nhiều về vụ án này nên cô cũng có thể bị triệu tập để làm chứng.

Chúng tôi dằn lòng đến trưa, khi bố Atticus về nhà dùng bữa trưa và nói họ đã dành ra cả buổi sáng để chọn bồi thẩm đoàn. Sau bữa trưa, chúng tôi đến đón Dill và xuống thị trấn.

Đây là một ngày hội. Vòng buộc công cộng không còn chỗ cho một con vật nào nữa, lừa và xe ngựa được buộc vào mọi gốc cây còn chừa ở đó. Quảng trường tòa án đầy các nhóm cắm trại ngồi trên những tờ báo ăn bánh quy với xi rô và uống sữa nóng rót ra từ những bình trái cây. Vài người gặm thịt gà nguội và những miếng sườn chiên nguội. Vài người khá giả hơn thanh toán thức ăn và Coca-Cola trong những ly soda dạng bầu tròn mua từ tiệm tạp phẩm. Những đứa trẻ có khuôn mặt mũm mĩm vung roi da qua đám đông, và trẻ sơ sinh vục đầu vào vú mẹ.

Ở góc xa quảng trường, những người Da đen ngồi lặng lẽ ngoài nắng, ăn trưa với cá mòi, bánh quy và những hương vị sống động hơn của Nehi Cola. Ông Dolphus Raymond ngồi với họ.

“Jem,” Dill nói, “ông ta đang uống từ một cái bao”.

Có vẻ như ông Dolphus Raymond đang làm thế: hai ống hút màu vàng chạy từ miệng ông vào tuốt sâu bên trong một túi giấy nâu.

“Chưa từng thấy ai làm vậy sao?” Dill thì thào.

“Làm thế nào ông ta đựng cái gì trong đó được vậy?”

Jem cười rúc rích. “Ông ta có một chai Coca-Cola đựng đầy rượu mạnh trong đó. Làm vậy để các bà không cằn nhằn. Cậu sẽ thấy ông ta nhấm nhấp suốt buổi chiều, ông ta sẽ ra ngoài một lát để nạp đầy chai lại”.

“Sao ông ta ngồi với những người da màu vậy?”

“Luôn luôn vậy. Tớ nghĩ là ông ta thích bọn họ hơn thích chúng ta. Ông ta sống một mình gần biên giới hạt. Ông ta có một bà da màu và những đứa con lai. Nếu thấy chúng tớ sẽ chỉ cho cậu”.

“Trông ông ta có vẻ nghèo khổ” Dill nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 9-2-2013 07:28:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16
(tiếp theo)

“Ổng đâu có nghèo, ổng sở hữu tất cả đất bên kia sông, với lại ông ta xuất thân từ một dòng họ thực sự lâu đời”.

“Sao ông ta lại làm thế?”

“Cái kiểu của ông ta là vậy” Jem nói. “Họ nói ông ta không bao giờ quên được đám cưới của mình. Ông ta dự trù sẽ cưới một trong các... cô con gái nhà Spencer, tớ nghĩ vậy. Họ chuẩn bị một đám cưới linh đình, nhưng không có được - sau buổi thử áo, cô dâu đã lên lầu và bắn vào đầu mình. Súng săn, cô ta đạp cò bằng ngón chân”.

“Họ có biết lý do không?”

“Không” Jem nói. “Chẳng ai biết tại sao trừ ông Dolphus. Họ nói đó là do cô ta biết được người phụ nữ da màu của ông, ông ta cho rằng ông ta có thể giữ bà ta mà vẫn cưới được vợ như thường. Từ đó trở đi ông ta cứ say xỉn. Dù sao ông ta cũng rất tốt với bọn trẻ đó...”

“Jem,” tôi hỏi, “trẻ lai là gì?”

“Nửa trắng, nửa màu. Em thấy tụi nó rồi mà, Scout. Em biết thằng nhỏ tóc đỏ kỳ cục giao hàng cho cửa hàng thực phẩm không? Nó lai trắng đấy. Tụi nó thật đáng buồn”.

“Buồn, nghĩa là sao?”

“Chúng không thuộc về bất cứ đâu. Người da màu không dung chứa chúng bởi vì chúng lai trắng; người da trắng không chấp nhận chúng bởi vì chúng lai da màu, vì vậy chúng chỉ đứng ở giữa, không thuộc về đâu cả. Nhưng ông Dolphus, hiện giờ, họ nói ông đã đưa hai đứa con ông lên miền Bắc. Ở miền Bắc họ không quan tâm đến chúng. Đằng kia là một đứa trong bọn tụi nó”.

Một chú nhóc nắm chặt tay một người phụ nữ da đen đi về phía chúng tôi. Với tôi nó giống mọi người da đen khác. Nó có màu da Sôcôla đậm với lỗ mũi to và hàm răng tuyệt đẹp. Thỉnh thoảng nó nhảy chân sáo thật phấn khởi, và người phụ nữ da đen giật mạnh tay nó để bắt nó dừng lại.

Jem chờ cho đến khi họ đi ngang chúng tôi. “Đó là một trong những đứa trẻ lai” anh nói.

“Sao cậu dám chắc?” Dill hỏi. “Tớ thấy nó cũng là da đen thôi”.

“Có khi cậu không thể phân biệt, trừ khi cậu biết họ là ai. Nhưng nó có nửa dòng máu của Raymond đó”.

“Nhưng làm sao anh dám chắc?” Tôi hỏi.

“Anh đã nói với em rồi, Scout, em phải biết chúng là ai”.

“Vậy làm sao anh biết chúng tôi không phải là người da đen?”

“Chú Jack Finch nói chúng ta thực sự không biết. Chú nói trong chừng mực chú lần ngược được gốc gác dòng họ Finch thì chúng ta không phải, nhưng theo tất cả những gì chú biết thì có thể chúng ta đến từ Ethiopia [4] trong Cựu Ước”.

“Nếu chúng ta đến từ thời Cựu Ước, thì chuyện đã quá lâu rồi không đáng kể nữa”.

“Anh cũng nghĩ vậy,” Jem nói, “nhưng ở đây nếu em từng có một giọt máu da đen, điều đó làm em hành đen hoàn toàn. Ê, nhìn kìa...”

Một dấu hiệu vô hình nào đó đã khiến những người ăn trưa trên quảng trường nhỏm dậy và bỏ bừa những tờ báo, giấy bóng kính, và giấy gói. Trẻ em chạy đến bên mẹ, những đứa trẻ được bế lên hông khi đàn ông với những chiếc mũ ố mồ hôi tập họp gia đình họ lại và lùa chúng qua các cửa tòa án. Ở góc xa của quảng trường, những người da đen và ông Dolphus Raymond đứng lên và phủi đít. Có ít phụ nữ và trẻ em trong số họ, điều đó có vẻ xua tan tâm trạng lễ hội. Họ kiên nhẫn chờ đợi tại các cửa phía sau những gia đình da trắng.

“Tụi mình vô đi” Dill nói.

“Tốt hơn là tụi mình chờ cho họ vào hết, bố Atticus có lẽ sẽ không thích nếu ông thấy tụi mình” Jem nói.

Tòa án hạt Maycomb gợi nhớ đến Arlington ở một khía cạnh: những cột bê tông đỡ mái phía Nam của nó quá bề thế so với trọng lượng nhỏ bé mà chúng chống đỡ. Những cây cột này là thứ duy nhất còn đứng vững khi tòa án ban đầu bị cháy năm 1856. Một tòa án khác được xây quanh chúng. Nói rõ hơn là, được xây bất chấp chúng. Nhưng đối với mặt phía Nam, tòa án hạt Maycomb mang dáng dấp thời đầu Victoria, bày ra một khung cảnh hài hòa khi nhìn từ phía Bắc. Tuy nhiên, nhìn từ góc cạnh khác, những cây cột kiểu Hy Lạp được phục hồi này trong trái mắt với chiếc tháp đồng hồ khổng lồ thế kỷ mười chín chứa một công cụ gỉ sét không đáng tin cậy, một hình ảnh cho thấy một dân tộc nhất quyết bảo tồn mọi mảnh vụn vật chất của quá khứ.

Đã đến được phòng xử án trên tầng hai, người ta phải đi qua nhiều phòng nhỏ kín mít khác nhau dành cho các công chức trong hạt: người thẩm định thuế, nhân viên thuế, thứ ký hạt, cố vấn pháp luật, thư ký lưu động, thẩm phán tòa án xử các vụ liên quan đến di chúc sống trong những ô nhỏ tối mờ mát lạnh bốc mùi những tập hồ sơ mục nát trộn lẫn với mùi vị xi măng ẩm thấp cũ kỹ và mùi những tiểu ngai ngái. Ban ngày cũng phải bật đèn, luôn luôn có một lớp bụi phủ lên ván sàn thô ráp. Người trong các phòng này là những sinh vật thuộc môi trường của họ: những người nhỏ thó với khuôn mặt xám xịt, có vẻ như họ không bị nắng gió chạm đến.

Chúng tôi biết bên trong rất đông, nhưng chúng tôi không ngờ được khối người đặc nghẹt ở hành lang tầng một. Tôi bị tách khỏi Jem và Dill, nhưng đi được đến bức tường cạnh cầu thang, biết rằng sau cùng Jem cũng sẽ đến tìm tôi. Tôi thấy mình lọt giữa câu lạc bộ Idlers [5], và cố sao để mình càng ít bị chú ý càng tốt. Đây là nhóm các ông già, mặc quần kaki có dây đeo qua vai, áo sơ mi trắng, họ sống cả đời chẳng làm gì và trải qua những tháng ngày tàn tạ bằng việc ngồi trên những băng ghế bằng gỗ thông dưới bóng các cây sồi ở quảng trường. Là những người chỉ thích phê bình những công việc của tòa án, bố Atticus nói họ rành luật pháp như chánh án Tối cao pháp viện, qua nhiều năm dài quan sát. Bình thường, chỉ có họ là khán giả của tòa án, và hôm nay họ có vẻ bực tức vì bị gián đoạn thói quen thoải mái của mình. Cuộc nói chuyện là về bố tôi.

“... nghĩ ông ta biết mình đang làm gì” một người nói.

“Ô - ô, không, tôi không nói thế” người khác nói. “Atticus Finch là người đọc kỹ, một người đọc rất kỹ”.

“Ông ta đọc nhiều, và ông ta chỉ làm có vậy”. Cả câu lạc bộ cười khúc khích.

“Bây giờ để tôi nói với ông một chuyện, Billy,” người thứ ba nói, “anh biết tòa án chỉ định ông ta biện hộ cho tên da đen đó”.

“Phải, nhưng Atticus quyết biện hộ cho hắn. Đó là điều tôi không ưa”.

Đây là tin tức, tin tức soi rọi một ánh sáng khác vào mọi việc: bố Atticus đã phải làm vậy, dù ông muốn hay không. Tôi nghĩ thật kỳ lạ ông đã không nói bất cứ điều gì với chúng tôi về chuyện này - chúng tôi có thể sử dụng nó nhiều lần để biện hộ cho ông và cho cả chúng tôi. Ông đã phải làm việc này, đó là lý do tại sao ông làm việc này, với ít xung đột hơn và ít lộn xộn hơn. Nhưng điều đó có giải thích thái độ của cả thị trấn này không? Tòa án chỉ định bố Atticus biện hộ cho anh ta. Bố Atticus quyết bảo vệ anh ta. Đó là lý do tại sao họ không thích. Chuyện này thật rối trí.

Những người da đen, sau khi chờ cho những người da trắng lên lầu, mới bước vào. “Khoan nào, chờ một chút” một thành viên của câu lạc bộ nói, lấy cây gậy của ông chặn lại. “Khoan cho họ lên lầu một lát”.

Cả câu lạc bộ lụm cụm kéo nhau leo lên và gặp phải Jem và Dill đang đi tìm tôi. Hai đứa chen qua đám đông và Jem gọi, “Scout, lên đây, chẳng còn chỗ ngồi đâu. Tụi mình phải đứng thôi”.

“Nhìn kìa, ồ” anh nói một cách bực bội, khi những người da đen tràn lên lầu, những ông già đi trước họ hẳn đã chiếm hết chỗ đứng. Chúng tôi thiếu may mắn và đó là do lỗi tại tôi, Jem trách tôi. Chúng tôi đứng khổ sở ở cạnh tường.

“Tụi cháu không vô được hả?”

Mục sư Sykes nhìn xuống bọn tôi, chiếc mũ đen cầm trên tay.

“Chào mục sư” Jem nói. “Không được ạ, tại Scout đấy”.

“Để xem chúng tôi có thể làm được gì nào”.

Mục sư Sykes thận trọng lách mình lên lầu. Vài phút sau ông quay lại. “Dưới nhà không còn chỗ. Bọn cháu có chịu ra chỗ ban công với ta không?”

“Hay quá” Jem nói. Mừng rõ, bọn tôi chạy trước mục sư Sykes để vào bên trong tòa. Ở đó chúng tôi leo lên một cầu thang có mái che và chờ ở cửa. Mục sư Sykes thở phì phò đằng sau chúng tôi, và dẫn chúng tôi nhẹ nhàng lách qua những người da đen ở ban công. Bốn người da đen đứng lên và nhường cho chúng tôi ngồi ở hàng ghế đầu.

Ban công dành cho người da màu chạy dọc ba bức tường của tòa án giống hành lang ở tầng hai và từ đó chúng tôi có thể thấy mọi thứ.

Bồi thẩm đoàn ngồi bên trái, dưới những cửa sổ dài. Gầy và da rám nắng, tất cả bọn họ đều có vẻ là nông dân, nhưng điều này là tự nhiên: dân thị trấn hiếm khi tham gia làm bồi thẩm đoàn, họ hoặc bị bệnh hoặc được miễn. Một hoặc hai người trong bồi thẩm đoàn trông hơi giống những người nhà Cunningham ăn mặc tươm tất. Lúc này họ ngồi thẳng và chăm chú.

Luật sư tòa lưu động và một người khác, bố Atticus và Tom Robinson ngồi tại những chiếc bàn quay lưng về phía chúng tôi. Có một cuốn sách nâu và vài tờ bìa vàng trên bàn của viên luât sư; bàn của bố Atticus trống trơn.

Ngay bên trong hàng rào chia tách cử tọa với tòa, nhân chứng ngồi trên những chiếc ghế lót nệm da bò. Lưng họ quay về phía chúng tôi.

Quan tòa Taylor ngồi trên ghế chủ tọa, trông giống một con cá mập già ngái ngủ, con cá hoa tiêu của ông ta ghi chép lẹ làng phía dưới ngay trước mặt ông ta. Quan tòa Taylor trông giống hầu hết các quan tòa tôi từng gặp: hòa nhã, tóc bạc, mặt hơi đỏ, ông ta là người điều hành tòa án với phong cách buông tuồng đáng ngại - đôi khi ông gác chân lên, ông thường cậy móng tay bằng con dao bỏ túi. Trong những buổi thẩm vấn kéo dài, đặc biệt là sau bữa ăn, ông tạo ấn tượng bằng ông đang ngủ gật, một ấn tượng tan biến mãi mãi khi có lần một luật sư cố ý đẩy một chồng sách xuống sàn nhà trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm đánh thức ông dậy. Không mở mắt, quan tòa Taylor lầm bầm, “Ông Whitley, làm chuyện đó lần nữa là nó sẽ khiến ông mất một trăm đô đó”.

Ông là người học ngành luật, và dù có vẻ nhận công việc của mình một cách hờ hững, nhưng thực tế ông ta nắm vững tất cả mọi thủ tục tồn tại trước ông. Chỉ một lần duy nhất người ta thấy quan tòa Taylor lâm vào hoàn cảnh bế tắc trong phiên tòa công khai,và những người nhà Cunningham khiến ông bó tay. Old Sarum, khu vực quen thuộc của họ, đã có hai dòng họ riêng rẽ và tách biệt sinh sống từ đầu, nhưng không may lại mang cùng tên. Người họ Cunningham cưới họ Coningham cho đến khi việc viết chính tả tên này chỉ mang tính lý thuyết - lý thuyết cho đến khi một người họ Cunningham tranh chấp quyền sở hữu đất đai với một người họ Coningham và dẫn đến thưa kiện. Trong suốt cuộc tranh luận về chữ viết này, Jeems Cunningham khai rằng mẹ ông ta đã viết là Cunningham trên các bằng khoán và các thứ, nhưng bà thực sự là một Coningham, bà là một người viết chính tả không trôi chảy, một người ít đọc, và đôi khi có thói quen nhìn xa xăm khi bà ngồi trên hành lang trước nhà vào buổi tối. Sau chín giờ lắng nghe những thói quen kỳ dị của các cư dân Old Sarum, quan tòa Taylor đã ném vụ án này khỏi tòa án. Khi được hỏi dựa vào lý do gì, quan tòa Taylor đáp, “thông đồng chia án phí” và tuyên bố ông hy vọng ở Chúa những người kiện tụng được hài lòng vì mỗi người đều được ăn nói công khai trước công chúng. Họ đã hài lòng. Đó là tất cả những gì họ muốn.

Quan tòa Taylor có một thói quen thú vị. Ông cho phép hút thuốc trong phòng xử của ông nhưng bản thân ông thì không: đôi khi nếu may mắn, người ta có đặc ân thấy ông đặt một điếu xì gà khô dài lên miệng, và nhai nó từ từ. Dần dần điếu xì gà đó biến mất, để vài giờ sau tái xuất hiện thành một mớ lầy nhầy dẹp lép, tinh chất của nó bị rút ra và trộn lẫn với dịch vị của quan tòa Taylor. Có lần tôi hỏi bố Atticus làm sao bà Taylor chịu hôn ông ta cho nổi, nhưng bố Atticus nói họ không hôn nhau nhiều.

Bục nhân chứng nằm ở bên phải của quan tòa Taylor, và khi chúng tôi an vị ông Heck Tate đã đứng trên đó.

Chú thích:
[1] Chỉ huy binh đoàn miền Tây của phe miền Nam trong Nội chiến, Bragg có binh nghiệp không lẫy lừng lắm và binh đoàn của ông cuối cùng đại bại.

[2] Câu trước của người ngồi xe là tục ngữ, câu sau của cô Maudie trích từ sách Châm ngôn (Cựu ước)

[3] William Jennings Bryan (1860-1925): luật sư, chính khách (từng ra tranh cử Tổng thống ba lần) và là nhà hùng biện nổi tiếng. Diễn văn của ông thu hút rất đông người, nhất là ở miền Nam.

[4] Trong thời Cựu Ước, Ethiopia là một Vương quốc ở Đông bắc châu Phi. Ngày nay, nó là một nước ở Đông Phi.

[5] Nghĩa là những kẻ ở không.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách