|
Chương 12
(tiếp theo)
“Tôi muốn biết tại sao chị đưa mấy nhóc da trắng đến nhà thời của dân da đen”.
“Chúng là khách của tôi” Calpurnia nói. Tôi lại thấy giọng bà nghe là lạ: bà nói chuyện giống hầu hết bọn họ.
“Phải, tôi cho là bà cũng là khách của nhà Finch suốt cả tuần”.
Tiếng xì xầm lan khắp đám đông. “Đừng lo”. Calpurnia thì thầm với tôi, nhưng những bông hoa trên mũ bà run lên đầy phẫn nộ.
Khi Lula bước sấn về phía chúng tôi, Calpurnia nói, “Đứng lại đó, con mọi đen”.
Lula dừng lại, nhưng chị ta nói, “Chị không việc gì phải đưa bọn nhóc da trắng đến đây... chúng có nhà thờ của chúng, chúng ta có nhà thờ của chúng ta. Đây là nhà thờ của chúng ta, đúng không, cô Cal?”
Calpurnia nói, “Chúng thờ cùng một Chúa với ta, đúng không?”
Jem nói, “Mình về thôi, Cal, họ không muốn tụi tôi ở đây...”
Tôi đồng ý: họ không muốn chúng tôi ở đây. Tôi có cảm giác, hơn là thấy, rằng chúng tôi đang được đẩy tới. Có vẻ như họ đang tiến lại gần chúng tôi hơn, nhưng khi tôi nhìn Calpurnia thì thấy có một sự thích thứ trong mắt bà. Khi tôi nhìn xuống lối đi lần nữa, Lula đã đi mất. Ngay chỗ chị ra là một đám đông những người da màu.
Một trong số họ bước khỏi đám đông. Đó là Zeebo, người quét rác. “Cậu Jem,” anh ta nói, “chúng tôi rất hân hạnh khi cô cậu đến đây. Đừng quan tâm đến Lula, cô ta ưa gây sự bởi vì Cha Sykes dọa không cho cô ấy vào nhà thờ. Cô ấy là người hay gây rối từ lâu nay, có những ý nghĩ quái gở và cung cách phách lối... tụi tôi rất hân hạnh khi cô cậu đến đây”.
Thế là Calpurnia dẫn chúng tôi đến cửa nhà thờ nơi Đức cha Sykes đón chào chúng tôi, ông dẫn chúng tôi tới hàng ghế đầu.
Nhà thờ First Purchase không đóng trần và không được sơn bên trong. Dọc bức tường nhà thờ có những cây đèn dầu hỏa chưa thắp sáng treo trên những giá đỡ bằng đồng, những băng ghế gỗ thông được dùng làm ghế nguyện. Phía sau bục giảng bằng gỗ sồi xù xì là một biểu ngữ bằng lụa hồng đã bạc màu có dòng chữ ‘Thiên Chúa Là Tình Thương’, nó là món trang trí duy nhất của nhà thờ nếu không kể bản in kẽm trong bức tranh The Light of the World [5] của Hunt. Không có bóng dáng của đàn dương cầm, phong cầm, những tập thánh ca, những chương trình hành lễ - những thứ quen thuộc của nhà thờ mà chúng tôi thường thấy mỗi Chủ nhật. Bên trong tối mờ, với cái lạnh ẩm ướt dần dần bị xua tan khi giáo dân tập trung vào. Ở mỗi chố ngồi có một cái quạt bằng bìa giấy cứng rẻ tiền in hình Khu vườn Gethsemane [6] lòe loẹt, quà tặng của công ty Tydal’s Hardware Co. (Với khẩu hiệu Bạn-cần-gì-chúng-tôi-bán-nấy).
Calpurnia đẩy chúng tôi xuống cuối hàng ghế và ngồi giữa chúng tôi. Bà lục tìm trong ví, lôi ra chiếc khăn tay, mở lấy một mớ tiền lẻ cột ở góc khăn. Bà đưa một đồng mười xu cho tôi và một đồng mười xu cho Jem. “Tụi con có tiền rồi” anh thì thầm với tôi. “Bà cứ giữ lấy”. Calpurnia nói, “Cô cậu là khách của tôi”. Tôi thoáng thấy nét do dự về đạo đức trên mặt Jem xem có nên giữ lại đồng mười xu của mình nhưng thói lịch sự bẩm sinh của anh đã thắng và anh nhét đồng mười xu vào túi. Tôi làm theo không chút băn khoăn.
“Cal,” tôi thì thầm, “sách thánh ca đâu?”
“Tụi tôi không có cuốn nào hết” bà nói.
“Sao lại...”
“Suỵt” bà nói. Cha Sykes đang đứng sau bục giảng nhìn giáo đoàn ra hiệu im lặng. Ông là người thấp, chắc nịch trong bộ đồ đen, nơ đen, và sơ mi trắng, và một dãy đồng hồ vàng lấp lánh trong ánh sáng từ những cửa sổ đầy tuyết.
Ông nói, “Hỡi anh chị em, chúng ta đặc biệt vui vì có những người bạn đến với chúng ta sáng nay. Cậu và cô Finch. Tất cả các bạn đều biết cha họ. Trước khi bắt đầu tôi sẽ đọc mấy thông báo”.
Cha Sykes lật giở mấy tờ giấy, chọn một tờ và giơ thẳng ra trước mặt. “Hội truyền giáo họp ở nhà chị Annette Reeves thứ Ba tuần sau. Đem theo đồ may vá của các bạn”.
Ông đọc một tờ giấy khác. “Tất cả các bạn đều biết vụ rắc rối của người anh em Tom Robinson. Anh ấy là thành viên trung tín của First Purchase từ hồi còn là cậu bé. Tiền quyên góp được hôm nay và trong ba Chủ nhật tôi sẽ gửi đến cho Helen - vợ của Tom, để giúp chị ấy lúc túng quẫn ở nhà”.
Tôi thúc Jem, “Đó là cái ông Tom mà bố Atticus sắp...”
“Suỵt!”
Tôi quay sang Calpurnia nhưng đã bị chặn lại trước khi kịp nói ra. Tôi nén lại, dán sự chú ý vào Cha Sykes, người có vẻ như chờ tôi bình tĩnh trở lại. “Sẽ có người phụ trách âm nhạc hướng dẫn chúng ta trong bài thánh ca đầu tiên” ông nói.
Zeebo nhỏm dậy khỏi ghế và bước tới lối đi ở giữa, dừng lại trước mặt chúng tôi và đối diện với giáo đoàn. Anh cầm một cuốn thánh ca đã sờn cũ. Anh mở nó ra và nói, “Tất cả chúng ta sẽ hát bài số hai trang bảy mươi ba”.
Đến vụ này thì tôi hết chịu nổi. “Làm sao mà hát được khi không có cuốn thánh ca nào cả?”
Calpurnia mỉm cười, “Suỵt, cô bé,” bà thì thầm, “cô sẽ thấy ngay thôi”.
Zeebo hắng giọng và đọc nghe như tiếng rền của đạn pháo từ xa;
“Có một vùng đất bên kia con sông”.
Kỳ diệu thay, cùng với độ cao, cả trăm giọng cùng hát to những lời của Zeebo. Âm tiết cuối cùng, tan thành tiếng ngân nga khàn khàn, kế theo đó là tiếng của Zeebo.
“Mà chúng ta gọi là miền đất dấu yêu mãi mãi”.
Âm nhạc lại dâng lên quanh chúng tôi ; nốt cuối cùng ngân dài và Zeebo nối sang câu hát kế tiếp, “Và chúng ta chỉ tới được bờ đó bằng sức mạnh đức tin”.
Giáo đoàn ngập ngừng, Zeebo lập lại câu đó một cách cẩn thận, và mọi người hát theo. Tới đoạn đồng ca, Zeebo gấp sách lại, một dấu hiệu cho giáo đoàn hát tiếp mà không cần anh lĩnh xướng.
Khi từ “Lễ mừng,” tắt dần Zeebo nói, “trong miền đất xa xôi dấu yêu mãi mãi đó, ngay bên kia dòng sông sáng rực”.
Từng câu một, mọi người hát theo với sự hòa âm đơn sơ cho đến khi kết thúc bài thánh ca bằng tiếng thì thầm buồn bã.
Tôi nhìn Jem, anh đang liếc nhìn Zeebo. Tôi cũng chẳng tin, nhưng cả hai chúng tôi đều nghe thấy nó.
Sau đó Cha Sykes cầu Chúa ban phúc cho những kẻ bệnh tật và đau khổ, một thủ tục không khác thủ tục của nhà thờ chúng tôi, trừ việc Cha Sykes xin Thượng đế chú ý đến vài trường hợp cụ thể.
Bài giảng của ông là sự tố cáo tội lỗi một cách thẳng thắn, một tuyên ngôn đơn giản về phương châm trên tường sau lưng ông: ông cảnh báo con chiên của ông trước những tai ương của rượu chè, cờ bạc, phụ nữ lạ. Bọn buôn bán rượu lậu đã gây đủ rắc rối trong khu này rồi, nhưng phụ nữ còn tồi tệ hơn. Một lần nữa, như tôi thường thấy trong nhà thờ của chúng tôi, tôi gặp phải học thuyết về sự ô uế của phụ nữ vốn có vẻ như ám ảnh mọi tu sĩ.
Jem và tôi nghe bài giảng giống vậy hết Chủ nhật này đến Chủ nhật khác, với duy nhất một ngoại lệ. Cha Sykes sử dụng bục giảng của ông một cách thoải mái hơn để biểu lộ các quan điểm của mình về những sa ngã cá nhân: Jim Hardy đã vắng mặt ở nhà thờ năm Chủ nhật và anh ta không hề bệnh; Constance Jackson nên cẩn thận hơn trong cách cư xử của mình... cô ta đang gặp nguy hiểm vì cãi nhau với những láng giềng; cô ta đã dựng lên hàng rào thù hận duy nhất trong lịch sử của khu dân cư này.
Mục sư Sykes kết thúc bài giảng của mình. Ông đứng cạnh cái bàn trước bục giảng và kêu gọi quyên góp buổi sáng, một nghi thức kỳ lạ với Jem và tôi. Từng người một, giáo đoàn tiến về phía trước bỏ những đồng năm xu và mười xu vào bình cà phê phủ mem đen. Jem và tôi cũng bắt chước, và nhận được lời nói dịu dàng, “Cám ơn, cám ơn” khi những đồng mươi xu của chúng tôi bỏ xuống kêu leng keng.
Trước sự ngạc nhiên của bọn tôi, mục sư Sykes đổ chiếc bình ra bàn và hốt những đồng xu trong tay. Ông đứng thẳng người và nói, “Bấy nhiêu chưa đủ, chúng ta phải có mười đô”.
Giáo đoàn xôn xao. “Tất cả các bạn đều biết nó để làm gì... Helen không thể bỏ bọn trẻ để đi làm trong khi Tom ở tù. Nếu mọi người đều cho thêm một đồng mười xu nữa, chúng ta sẽ có đủ...” Mục sư Sykes vẫy tay gọi ai đó ở phía sau nhà thờ. “Alec, đóng các cửa lại. Không ai rời khỏi đây cho đến khi chúng ta có đủ mười đô”.
Calpurnia móc trong túi ra chiếc ví da mòn cũ đựng tiền xu. “Không, Cal,” Jem thì thầm, khi bà trao cho anh đồng hai mươi lăm xu sáng loáng, “tụi con có thể góp tiền của tụi con vào. Đưa anh đồng mười xu của em, Scout”.
Nhà thờ trở nên ngột ngạt, và tôi nhận ra rằng mục sư Sykes có ý định để cho các con chiên của ông đổ mồ hôi hột đúng mức. Quạt kêu xoanh xoạch, những bàn chân bồn chồn, những người nhai thuốc lá bực bội.
Mục sư Sykes làm tôi giật mình bằng câu nói nghiêm khắc, “Carlow Richardson, ta chưa thấy con đi trên lối đi này”.
Một người đàn ông gày gò trong chiếc quần ka ki bước trên lối đi và đóng góp một đồng xu. Giáo đoàn lầm rầm tán đồng.
Sau đó mục sư Sykes nói, “Ta muốn tất cả các con, trừ trẻ em, hy sinh một chút và mỗi người cho mười xu nữa. Vậy là chúng ta sẽ có đủ”.
Từ từ, một cách đau khổ, mười đô được gom đủ. Cửa mở ra, và một luồng khí ấm làm chúng tôi tỉnh lại. Zeebo đọc từng câu trong bài thánh ca On Jordan’s Stormy Banks, và buổi lễ kết thúc.
Tôi muốn ở lại để tìm hiểu thêm, nhưng Calpurnia đã đẩy tôi theo lối đi trước bà. Tại cửa nhà thờ, trong khi bà dừng lại để nói chuyện với Zeebo và gia đình anh, Jem và tôi nói chuyện với mục sư Sykes. Trong tôi dấy lên cả đống thắc mắc, nhưng tôi quyết định để chúng cho Calpurnia trả lời.
“Chúng tôi đặc biệt vui khi cô cậu đến đây” mục sư Sykes nói. “Nhà thờ này không có người bạn nào tốt hơn cha cô cậu”.
Cơn tò mò của tôi bộc lộ, “Tại sao mọi người đều tham gia quyên góp cho vợ của Tom Robinson?”
“Cô không biết lý do à?” Mục sư Sykes hỏi. “Helen có ba đứa con nhỏ dại và cô ấy không thể bỏ nhà đi làm được...” |
|