Cách đó vài cây số một chiếc xe sĩ quan Đức với lá cờ hiệu màu đen, trắng và đỏ tung bay đang chạy dọc con đường dẫn tới làng Picauville. Thiếu tướng Wilhelm Falley của Sư đoàn Không vận 91 cùng với người phụ tá và lái xe đã di chuyển trên chiếc Horch này suốt gần 7 giờ, kể từ lúc ông lên đường tới tham dự cuộc diễn tập ở Rennes lúc gần 1:00 sáng. Khoảng giữa 3:00 và 4:00 sáng, tiếng máy bay không ngớt và tiếng bom nổ phía xa đã khiến Falley quay trở lại.
Họ chỉ còn cách sở chỉ huy ở phía bắc làng Picauville có mấy km khi đạn súng máy nã thẳng vào mũi xe. Tấm kính chắn gió vỡ vụn và người phụ tá của Falley ngồi bên cạnh lái xe gục xuống bên chiếc ghế. Chiếc Horch vẫn còn gầm rú, loạng quạng lao chệch đi và đâm sầm vào một bức tường thấp. Cửa bật tung, người lái xe và Falley lao ra. Khẩu súng của Falley văng ra phía trước. Ông bò qua đường về phía nó. Người lái xe, run rẩy và mụ mẫm, thấy những lính Mỹ xông tới. Falley kêu lên, “Đừng bắn! Đừng bắn!”, nhưng ông vẫn bò lại chỗ khẩu súng. Một tiếng nổ và Falley đổ xuống mặt đường, một tay vẫn vươn đến chỗ cây súng.
Trung tướng Wilhelm Falley, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không vận 91 Đức.
Trung úy Malcolm Branne ở Sư đoàn Đổ bộ đường không 82 nhìn xuống người chết. Anh cúi xuống nhặt chiếc mũ của viên sĩ quan. Trên vành mũ ghi cái tên “Falley”. Viên sĩ quan Đức này mặc bộ quân phục xám xanh với những dải đỏ dọc theo viền quần. Cầu vai hẹp màu vàng và vạch quân hàm đỏ với lá sồi vàng trên ve áo. Tấm Huân chương Chữ thập Sắt với dải ruy băng đen đính trên cổ. Branne không chắc lắm, nhưng có vẻ anh đã hạ được một viên tướng.
*
* *
Trên sân bay gần Lille, Phi đoàn trưởng Josef “Pips” Priller và Hạ sĩ Heinze Wordarczyk chạy tới chỗ 2 chiếc tiêm kích FW-190 lẻ loi.
Sở chỉ huy Luftwaffe và Quân đoàn Tiêm kích đã gọi điện. “Priller”, viên sĩ quan tác chiến nói, “cuộc đổ bộ đã bắt đầu. Tốt hơn là anh nên tới đó”.
Priller nổ tung: “Giờ các anh đã bỏ qua nó! Lũ ngốc khốn kiếp! Anh muốn tôi làm cái chó gì với 2 máy bay? Các tiểu đoàn của tôi đâu? Các anh có gọi họ về được không?”
Người sĩ quan tác chiến vẫn bình tĩnh đến tuyệt vời. “Priller”, anh ta nói, “chúng tôi vẫn chưa biết chính xác các tiểu đoàn của anh đã hạ cánh ở đâu, nhưng chúng tôi sẽ điều họ về sân bay Piox. Đưa các nhân viên kỹ thuật của anh tới đó ngay. Trong lúc đó anh nên tới ngay khu vực đổ bộ. Chúc may mắn, Priller”.
Bình tĩnh tựa như cơn giận đã qua, Priller hỏi, “Làm ơn cho tôi biết cuộc đổ bộ diễn ra ở đâu?”.
Viên sĩ quan điềm tĩnh đáp, “Normandy, Pips – đâu đó phía trên Caen”.
Priller mất một giờ để tiến hành những công việc cần thiết cho việc di chuyển các nhân viên kỹ thuật. Giờ anh và Wodarczyk đã sẵn sàng – sẵn sàng để thực hiện cuộc tấn công duy nhất của Luftwaffe chống lại cuộc đổ bộ ngày hôm đó. *
* Một vài nguồn viết rằng 8 máy bay ném bom Ju-88 đã tấn công bãi biển trong thời gian cuộc đổ bộ. Máy bay ném bom đã hoạt động ở khu vực bãi biển đêm 6-7 tháng 6 nhưng tôi không tìm thấy có cuộc tập kích nào trong buổi sáng D-Day trừ phi vụ của Priller – TG.
Ngay trước khi lên máy bay, Priller bước lại chỗ người trợ thủ. “Giờ nghe đây”, anh nói, “chỉ có hai chúng ta. Ta không thể tách nhau được. Vì Chúa, hãy làm chính xác những gì tôi làm. Bay sau tôi và làm theo”. Họ đã chiến đấu cùng nhau một thời gian dài và Priller cảm thấy nên rõ ràng. “Chúng ta đi một mình”, anh nói, “và tôi không nghĩ sẽ quay về được”.
Họ cất cánh lúc 9:00 sáng (với Priller là 8:00 sáng). Họ hướng về phía tây, bay sát mặt đất. Ngay phía trên Abbeville, ở trên đầu, họ bắt đầu thấy máy bay tiêm kích Đồng minh. Priller nhận thấy chúng không bay theo đội hình chặt chẽ cần thiết. Anh nhớ lại đã nghĩ là “nếu tôi chỉ cần có thêm vài máy bay, họ sẽ là những cái bia sống”. Tới gần Le Harve, Priller nâng độ cao để ẩn nấp trong mây. Họ bay trong mấy phút rồi lao xuống. Ở phía dưới là một hạm đội vĩ đại – hàng trăm tàu đủ cỡ, đủ loại dường như trải dài vô tận suốt Eo biển. Có những tàu đổ bộ đều đặn chở quân vào bãi biển, và Priller có thể thấy khói trắng từ những vụ nổ trên và phía sau bãi biển. Bờ cát đen đặc những lính, xe tăng và đủ thứ trang bị. Priller vòng trở lại để cân nhắc xem nên làm gì. Có quá nhiều máy bay, quá nhiều chiến hạm ngoài khơi, quá nhiều lính trên bãi biển, nên anh tính chỉ có thời gian để bay qua bãi biển một lần trước khi bị bắn rơi.
Bãi Sword sau khi quân Anh đổ bộ.
Giờ không cần giữ im lặng qua điện đài nữa. Gần như vui vẻ, Priller nói vào loa. “Thật là một màn trình diễn! Thật là một màn trình diễn!”. “Mọi thứ có ở đây – ở mọi nơi. Tin tôi đi, đây chính là cuộc đổ bộ!”. Rồi anh nói, “Wodarczyk, ta tấn công thôi! Chúc may mắn!”.
Họ lao xuống bãi biển của quân Anh với tốc độ 640km/h, tấn công ở độ cao dưới 45m. Priller không có thời gian để ngắm. Anh chỉ đơn giản là giữ nút bắn trên cần lái và cảm thấy họng súng rung lên. Lướt qua gần như ngay trên đầu, anh thấy những khuôn mặt giật mình nhìn lên.
Trên bãi Sword, Trung tá Philippe Kieffer ở đơn vị đặc công Pháp thấy Priller và Wodarczyk tới. Ông lao xuống nấp. Sáu tù binh Đức nhân cơ hội đó định chạy trốn. Người của Kieffer nhanh chóng hạ gục chúng. Trên bãi Juno, Binh nhì Robert Rogge ở Lữ đoàn Bộ binh 8 Canada nghe thấy tiếng máy bay và thấy chúng “lao tới ở độ cao thấp tới mức tôi có thể nhìn rõ mặt phi công”. Anh cũng như những người khác nhào xuống, nhưng anh kinh ngạc khi thấy một người “bình tĩnh đứng thẳng, xả đạn từ khẩu Sten”. Ở rìa phía đông bãi Omaha, Thiếu úy Hải quân Mỹ William J. Eisemann há hốc mồm khi chứng kiến 2 chiếc FW-190 với họng súng khạc lửa, phóng tới ở độ cao dưới 15m và luồn lách giữa những quả khí cầu. Và trên tàu HMS Dunbar, Thợ máy chính Robert Dowie dõi theo những khẩu pháo phòng không của hạm đội nổ súng bắn vào Priller và Wodarczyk. Hai chiếc tiêm kích vượt qua mà không hề hấn gì, rồi hướng vào đất liền và biến mất trong mây. “Dù có phải bọn Jerry hay không thì cũng chúc may mắn”, Dowie nói, vẫn không thể tin được, “Chúng mày khá lắm”. |