Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lịch Sử] Ngày Dài Nhất | Cornelius Ryan (hoàn)

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2013 20:12:51 | Chỉ xem của tác giả
Bình minh đã gần kề – bình minh mà 18.000 lính dù đang chờ đợi. Trong không đầy 5 giờ đồng hồ, họ đã hoàn thành nhiệm vụ vượt trên cả mong đợi của Đại tướng Eisenhower và các chỉ huy của ông. Lực lượng đổ bộ đường không đã cắt đứt thông tin và gây rối loạn cho đối phương, lúc này họ giữ hai bên sườn khu vực đổ bộ, ngăn chặn viện binh địch cơ động.

Ở khu vực quân Anh, Thiếu tá Howard kiểm soát cả hai đầu cầu quan trọng tại kênh Caen và sông Orne. Đến bình minh 5 cây cầu qua sông Dives sẽ bị phá. Trung tá Otway với tiểu đoàn chắp vá của anh đã chiếm trận địa pháo Merville và lính dù đang bố trí trên các cao điểm nhìn xuống Caen. Như vậy nhiệm vụ chính của quân dù Anh đã hoàn thành, và chừng nào họ còn giữ các trục giao thông, các cuộc phản công của quân Đức sẽ bị chặn đứng hoặc cầm chân.

Ở phía bên kia, quân Mỹ cũng đã làm không kém, bất chấp khó khăn về địa hình và phải thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn. Trung tá Krause giữ đầu mối liên lạc then chốt Ste-Mere-eeglise. Ở phía bắc thị trấn, Trung tá Vandervoort cắt đường giao thông chính chạy qua bán đảo Cherbourg và sẵn sàng đánh phản kích trên hướng này. Chuẩn tướng Gavin bố trí xung quanh những điểm vượt sông chiến lược trên sông Merderet, Douve và giữ phía sau bãi đổ bộ Utah. Sư đoàn 101 của Thiếu tướng Maxwell Taylor vẫn còn bị phân tán, đến bình minh mới chỉ tập hợp được 1.100 người trên tổng số 6.600. Bất chấp điều đó, họ đã tới được trận địa pháo St-Martin-de-Varreville - chỉ để phát hiện những khẩu pháo đã được chuyển đi. Những đơn vị khác đã tiếp cận con đập quan trọng La Barquette kiểm soát việc làm ngập dọc theo vùng cổ họng của bán đảo. Và mặc dù chưa có con đường dẫn ra khỏi bãi Utah nào bị chiếm, các toán quân vẫn đang tiến về đó và đã chiếm giữ sườn tây của khu đất ngập sau lưng bãi biển.



Cầu qua sông Merderet sau khi bị Sư đoàn 82 Mỹ chiếm.

Những người lính dù của Đồng minh đã tiến công Lục địa từ trên không và chiếm giữ khu vực đứng chân ban đầu cho cuộc tiến công từ biển. Giờ họ chờ đợi lực lượng đổ bộ đường biển sẽ cùng với họ tiến vào châu Âu. Lực lượng Mỹ đã nằm ngoài khơi bãi Utah và Omaha 19km. Đối với họ, H-Hour – 6:30 sáng chỉ còn đúng 1 giờ 45 phút nữa.

*

*  *


Lúc 4:45 sáng, chiếc tàu ngầm mini X23 của Đại úy George Honour nổi lên cách bờ biển Normady 1,6km. Cách đó 32km người anh em X20 của nó cũng làm như thế. Hai chiếc tàu dài 17m đã vào vị trí, mỗi chiếc đánh dấu một đầu của khu đổ bộ cho quân Anh-Canada – ba bãi biển Sword, Juno và Gold.

Lúc này mỗi thủy thủ đang dựng một cọc với đèn chiếu sáng, thiết lập các thiết bị liên lạc vô tuyến và dấu hiệu khác, chờ chiếc tàu Anh đầu tiên nhận tín hiệu.

Trên chiếc X23 Honour mở nắp và khó nhọc trèo lên lối đi hẹp phía trên. Sóng vỗ trên boong tàu và anh phải bám để khỏi bị đánh văng đi. Các thủy thủ mệt mỏi đứng sau anh. Họ bám vào những tay vịn, chân lội trong nước và thèm thuồng hít căng lồng ngực không khí ban đêm mát rượi. Họ đã nằm ngoài khơi bãi Sword từ sáng ngày 4 tháng 6 và phải lặn bên dưới hơn 21 tiếng mỗi ngày. Tính từ lúc rời Portsmouth hôm 2 tháng 6, họ đã ở dưới nước khoảng 64 giờ.

Đến lúc này thử thách vẫn chưa kết thúc. Trên các bãi biển của quân Anh, H-Hour là từ 7:00 đến 7:30 sáng. Như vậy, cho tới khi đợt tàu đổ bộ đầu tiên tiến vào, những chiếc tàu ngầm mini sẽ phải giữ vị trí trong 2 giờ nữa. Suốt thời gian đó, X23 và X20 sẽ phơi ra trên mặt nước – những mục tiêu nhỏ, cố định cho pháo binh Đức. Và trời thì sắp sáng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2013 20:14:15 | Chỉ xem của tác giả
Ở khắp nơi người ta chờ đợi bình minh đến, nhưng không ai lo lắng bằng người Đức. Bây giờ một dấu hiệu xấu mới đã xuất hiện trong mớ thông điệp được chuyển đến sở chỉ huy của Rommel và Rundstedt. Dọc theo bờ biển các đơn vị hải quân của Đô đốc Krancke đang phát hiện tiếng tàu biển – không chỉ 1 hay 2 chiếc như trước, mà với số lượng lớn. Trong hơn 1 tiếng các báo cáo đã tăng lên. Lúc gần 5:00 sáng, vị tướng kiên trì Pemsel của Tập đoàn quân 7 gọi cho tham mưu trưởng của Rommel, Thiếu tướng Speidel và nói thẳng thừng: “Tàu đang tập trung trong khoảng giữa cửa sông Vire và Orne. Chúng đưa đến kết luận là cuộc đổ bộ và tấn công quy mô lớn của địch vào Normandy sắp xảy ra”.

Tại sở chỉ huy OB West ngoại ô Paris, Thống chế Gerd Von Rundstedt cũng đã đi đến một kết luận tương tự. Đối với ông đòn tấn công sắp nhằm vào Normandy vẫn giống như một sự “nghi binh” và không phải cuộc đổ bộ thực sự. Mặc dù vậy Rundstedt đã hành động mau lẹ. Ông lệnh cho 2 sư đoàn xe tăng hùng hậu – Sư đoàn Panzer SS 12 và Sư đoàn Panzer Lehr, đều là lực lượng dự bị nằm gần Paris – tập hợp và tiến về phía bờ biển.  Về lý thuyết các sư đoàn này do tổng hành dinh OKW của Hitler nắm và không thể điều động nếu không có sự cho phép đặc biệt của Quốc trưởng. Nhưng Rundstedt đã mạo hiểm; ông không thể tin là Hitler có thể phản đối hay huỷ lệnh đó. Lúc này, tin tưởng mọi dấu hiệu cho thấy Normandy là nơi Đồng minh sẽ “tấn công nghi binh”, Rundstedt chính thức yêu cầu OKW điều động các đơn vị dự bị. Điện của ông viết, “OB West chắc chắn rằng đây thực sự là một chiến dịch lớn của địch và chỉ có thể đối phó thành công nếu hành động ngay lập tức. Nó bao gồm việc chuyển giao ngay hôm nay các đơn vị dự bị chiến lược sẵn có… Sư đoàn SS 12 và Sư đoàn Panzer Lehr. Nếu được tập hợp nhanh chóng và khởi hành sớm họ có thể tham chiến ngay trong ngày. Do đó trong trường hợp này OB West đề nghị OKW chuyển giao lực lượng dự bị”. Đây là một bức điện chiếu lệ, đơn giản chỉ là để ghi vào hồ sơ.



Sư đoàn Panzer Lehr.

Tại tổng hành dinh Hitler ở Berchtesgaden trong khí hậu êm dịu ở miền nam Bavaria, thông điệp trên được chuyển tới văn phòng của Chuẩn thống chế Alfred Jodl, Cục trưởng Tác chiến. Jodl đang ngủ và các sĩ quan tin rằng tình hình chưa nghiêm trọng đến mức phải quấy rầy ông. Bức điện có thể đợi.

Cách đó chưa đến 5km, tại nhà nghỉ trên núi của Hitler, Quốc trưởng và người tình Eva Braun cũng đang ngủ. Hitler đã đi nghỉ như thường lệ lúc 4:00 sáng và bác sĩ riêng Morell đã cho ông ta một liều thuốc ngủ (giờ ông ta không thể ngủ nếu thiếu nó). Lúc khoảng 5:00, phụ tá hải quân của Hitler, Đô đốc Karl Jesko von Puttkamer bị đánh thức bởi cuộc gọi từ sở chỉ huy của Jodl. Người gọi điện – Puttkamer không thể nhớ ra là ai – nói rằng đã có “dấu hiệu cuộc đổ bộ lên Pháp”. Vẫn chưa biết chính xác điều gì - thực tế, Puttkamer được thông báo rằng “những thông điệp đầu tiên hoàn toàn mơ hồ”. Puttkamer có nghĩ là Quốc trưởng nên được biết không? Cả hai trao đổi và quyết định không đánh thức Hitler. Puttkamer nhớ lại rằng “dù sao cũng không có gì nhiều để báo cáo, và chúng tôi đều lo ngại rằng nếu bị đánh thức vào lúc này, ông ta có thể sẽ lại bị một cơn kích động vô tận luôn luôn dẫn tới những quyết định điên rồ nhất”. Puttkamer quyết định rằng buổi sáng là thời gian thích hợp để báo tin cho Hitler. Ông tắt đèn và quay vào ngủ tiếp.

Ở Pháp, các tướng lĩnh OB West và Cụm quân B ngồi xuống chờ đợi. Họ đã báo động quân đội và yêu cầu các đơn vị xe tăng dự bị; giờ, nước đi tiếp theo là của Đồng minh. Không ai đoán được tầm cỡ của cuộc tấn công sắp tới. Không ai biết hay thậm chí đoán được quy mô hạm đội Đồng minh. Và mặc dù mọi thứ đang hướng về Normandy, không ai thực sự chắc chắn hướng chính sẽ là ở đâu. Các tướng lĩnh Đức đã làm tất cả những gì có thể. Phần còn lại phụ thuộc vào những người lính thường của Wehrmacht bảo vệ bờ biển. Bỗng nhiên họ trở nên quan trọng. Từ những công sự phòng thủ, các binh sĩ của Đế chế nhìn ra biển, tự hỏi đây là cuộc báo động tập luyện hay cuối cùng điều đó đã thực sự đến.

*

*  *


Thiếu tá Werner Pluskat trong căn hầm nhìn xuống bãi Omaha không được biết gì từ cấp trên từ lúc 1:00 sáng. Anh thấy lạnh, mệt và bực dọc. Anh cảm thấy bị cô lập. Anh không hiểu vì sao không có thông báo gì từ cả trung đoàn lẫn sư đoàn. Thực tế, việc chiếc điện thoại nằm yên cả đêm chắc chắn là dấu hiệu tốt; nó có nghĩa không có gì nghiêm trọng xảy ra. Nhưng còn lính dù, những đoàn máy bay khổng lồ? Pluskat không thể trút bỏ cảm giác lo lắng cồn cào. Một lần nữa anh quay ống kính về bên trái, bắt lấy hình dáng tối đen của bán đảo Cherbourg và bắt đầu quan sát phía chân trời. Trong ống kính vẫn là màn sương phủ thấp đó, vẫn ánh trăng mờ ảo đó, vẫn mặt biển bập bềnh với những vệt trắng đó. Không có gì thay đổi. Mọi thứ dường như vẫn bình yên.

Trong căn hầm, phía sau anh chú chó Harras đang nằm ngủ. Gần đó, Đại úy Ludz Wilkening và Trung úy Fritz Theen khe khẽ trao đổi. Pluskat nhập bọn với họ. “Vẫn không thấy gì”, anh nói, “tôi nghỉ đây”. Nhưng anh bước lại lỗ châu mai và đứng nhìn khi những tia nắng đầu tiên chiếu rọi bầu trời. Anh quyết định quan sát thêm một lần nữa.

Mệt mỏi, anh lại xoay ống kính về bên trái. Anh chậm chạp dò theo đường chân trời. Anh đến đúng trung tâm vịnh. Ống kính khựng lại. Pluskat căng thẳng, tập trung nhìn chằm chằm.

Phía sau màn sương mỏng và loãng, phía chân trời hiện ra đầy những tàu – đủ mọi kích cỡ và hình dáng, những chiếc tàu cơ động xuôi ngược liên tục như thể chúng đã ở đó hàng giờ. Phải có đến hàng nghìn chiếc. Bằng cách nào đó, một hạm đội ma quái đã hiện ra từ hư không. Pluskat chết lặng, nhìn với sự hoài nghi, không nói nên lời, di chuyển theo cách anh chưa bao giờ làm. Vào thời điểm đó, người lính trong Pluskat sụp đổ. Anh kể rằng trong những giây phút đầu tiên ấy, anh biết một cách bình tĩnh và chắc chắn, “đó là sự kết thúc cho nước Đức”.

Pluskat quay lại Wilkening và Theen và với một sự thờ ơ lạ lùng, nói đơn giản, “Đó là cuộc đổ bộ. Các anh hãy tự xem đi”. Rồi anh nhấc máy gọi cho Thiếu tá Block ở sư đoàn bộ 352.

“Block”, Pluskat nói, “đó là cuộc đổ bộ. Phải có đến mười nghìn tàu ở ngoài này”. Ngay khi nói những từ đó, anh cũng biết là chúng nghe không thể tin được.

“Bình tĩnh đi, Pluskat!”, Block ngắt lời, “Quân Mỹ và Anh hợp lại cũng không có ngần đấy tàu. Không ai có ngần đấy tàu!”.

Sự nghi ngờ của Block đã đưa Pluskat ra khỏi trạng thái bàng hoàng. Anh đột nhiên hét lên, “Nếu anh không tin thì đến đây và tự nhìn đi. Thật quái dị! Thật không thể tin được!”.

Một giây im lặng, rồi Block hỏi, “Những tàu đó hướng vào đâu?”

Pluskat, ống nghe trong tay, nhìn qua lỗ châu mai của căn hầm và trả lời, “Vào chỗ tôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2013 20:15:37 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN BA: NGÀY

Chưa từng có buổi bình minh nào giống như vậy. Tráng lệ và uy nghiêm trong buổi sáng u ám, xầm xì, hạm đội vĩ đại của Đồng minh dàn quân trước 5 bãi đổ bộ trên vùng biển Normandy. Mặt biển tràn ngập những tàu. Những lá quân kỳ tung bay trong gió dọc theo đường chân trời suốt từ bãi Utah ở bán đảo Cherbourg tới bãi Sword gần cửa sông Orne. Hiện lên sừng sững trên nền trời là những thiết giáp hạm khổng lồ, những tuần dương hạm dữ tợn, những khu trục hạm thon dài. Đằng sau chúng là các tàu chỉ huy thấp lùn, chĩa ra cả một rừng ăng ten. Và sau nữa là hàng đoàn tàu vận tải và đổ bộ chở đầy quân, nằm khuất và chậm rãi. Bao quanh những tàu vận tải dẫn đường, hàng đống tàu đổ bộ đang nhấp nhô trên sóng nước chờ hiệu lệnh tiến vào bờ, trên đó chật cứng những người sẽ đổ bộ trong đợt đầu tiên.  

Khối tàu bè hỗn độn này sôi sục lên với những hoạt động và âm thanh. Tiếng động cơ kéo dài khi những tàu tuần tiễu chạy tới chạy lui qua những đám tàu đổ bộ. Tiếng tời kêu vo vo khi mở khoang chứa xe lội nước. Tiếng xích sắt lạch cạch trên cần trục khi xuồng được hạ thủy. Tàu đổ bộ chở đầy những người lính xanh xao liên tục lắc và va vào thành tàu vận tải. Tiếng loa ồn ào, “Giữ đúng hàng! Giữ đúng hàng” khi các binh sĩ Phòng vệ bờ biển hướng dẫn tàu xếp thành đội hình. Trên các tàu vận tải, người ta đứng chật bên lan can, chờ leo những chiếc thang trơn tuột hay những tấm lưới để xuống những tàu đổ bộ đang nhấp nhô trên mặt nước làm tung lên những đám bọt. Và xuyên suốt tất cả, hệ thống loa phóng thanh trên các tàu đều đặn truyền đi các thông điệp và những lời cổ vũ: “Hãy chiến đấu để đưa binh sĩ vào bờ, hãy chiến đấu để bảo vệ tàu, và nếu anh còn chút sức lực nào, hãy chiến đấu vì bản thân mình”… “Tiến lên, Sư đoàn 4, và hãy cho chúng biết tay!” …”Đừng quên, Anh Cả Đỏ sẽ dẫn đầu” …”Biệt kích, vào vị trí” …”Hãy ghi nhớ Dunkirk! Hãy ghi nhớ Conventry! Chúa phù hộ chúng ta!” … "Nous mourrons sur le sable de notre France cheerie, mais nous ne retournerons pas” [Chúng ta thà chết trên bờ biển nước Pháp thân yêu chứ không lùi bước] …”Đây, các anh, hãy nhanh chân và lên đường nào, các anh chỉ có tấm vé một chiều và đây là chặng cuối. Sư đoàn 29, đi thôi!”. Và sau đó là hai thông điệp mà phần lớn mọi người đều nhớ rõ: “Tất cả lên tàu!” và “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện danh Cha..."



Trên boong tàu đổ bộ LST.

Trên boong tàu đông nghịt, nhiều người rời vị trí để chào tạm biệt bạn bè trên những tàu khác. Những người lính và thủy thủ đã trở thành bạn thân sau hành trình dài trên tàu cùng chúc nhau may mắn. Và hàng trăm người tranh thủ trao đổi địa chỉ “để phòng khi”. Hạ sĩ kỹ thuật Roy Stevens Sư đoàn 29 len qua đám đông để tìm người em sinh đôi của mình. “Cuối cùng tôi cũng tìm được cậu ấy”, anh kể, “Cậu ấy cười và chìa tay ra. Tôi nói, “Không, ta sẽ bắt tay nhau trên đất Pháp như đã hẹn”. Chúng tôi chào tạm biệt, và tôi không bao giờ gặp lại cậu ấy nữa”. Trên tàu HMS Prince Leopold, Trung úy Joseph Lacy, cha tuyên uý Tiểu đoàn Biệt kích 2 và 5 bước đi giữa những người lính đang chờ đợi, và Binh nhất Max Cole nghe thấy ông nói, “Ta sẽ cầu nguyện cho các con kể từ bây giờ. Những gì các con sẽ làm hôm nay, bản thân nó cũng đã là một lời cầu nguyện”.

Trên khắp các con tàu, các sĩ quan cổ vũ tinh thần binh lính bằng những câu chữ màu mè và khó quên mà họ thấy thích hợp trong hoàn cảnh này – đôi khi mang lại những kết quả bất ngờ. Trung tá John O’ationeill, người chỉ huy đơn vị công binh chiến đấu đặc biệt sẽ đổ bộ lên bãi Omaha và Utah trong đợt đầu để phá huỷ bãi mìn và vật cản nói to, nghĩ rằng đã tìm ra câu kết lý tưởng cho bài phát biểu của mình, “Bất kể địa ngục hay biển sâu, hãy đập nát đám chướng ngại khốn kiếp đó!”. Ở gần đó, một giọng nói cất lên, “Tôi tin nó cũng đáng sợ!”. Đại úy Sherman Burroughs Sư đoàn 29 nói với Đại úy Charles Cawthon là anh dự định sẽ diễn lại "The Shooting of Dan McGrew" trong quá trình đổ bộ. Trung tá Elzie Moore, chỉ huy một lữ đoàn công binh sẽ đổ bộ lên bãi Utah thì không diễn thuyết gì. Anh đã muốn diễn lại một trích đoạn phù hợp nhất trong câu chuyện về một cuộc tấn công khác vào nước Pháp, một cảnh chiến trận trong vở Henry Very của Shakespear, nhưng tất cả những gì anh có thể nhớ là câu mở đầu, “Vào trận nào, các anh em…” Anh quyết định từ bỏ. Thiếu tá C. K. “Bagger” King ở Sư đoàn 3 Anh sẽ đổ bộ lên bãi Sword trong đợt đầu định đọc cũng vở kịch đó. Anh đã gặp rắc rối trong việc viết ra những câu mình muốn. Chúng kết thúc bằng “Will đã sống sót qua hôm đó, và trở về nhà bình an, khẽ nhón chân khi ngày này được vinh danh…”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 7-8-2013 20:18:07 | Chỉ xem của tác giả
Nhịp độ hoạt động đang gia tăng. Ngoài khơi các bờ biển của quân Mỹ đang có thêm nhiều những tàu chở đầy lính gia nhập vào đoàn đang không ngừng chạy vòng quanh tàu mẹ. Ướt sũng, say sóng và khốn khổ, những người trên tàu này sẽ mở đường vào Normandy qua bãi Omaha và Utah. Ở khu vực vận tải, việc chuyển quân đang được thực hiện hết công suất. Đây là một hoạt động phức tạp và nguy hiểm. Binh sĩ mang quá nhiều trang bị đến nỗi gần như không thể di chuyển được. Mỗi người phải mặc một áo phao bằng cao su và ngoài vũ khí, ba lô, xẻng cá nhân, mặt nạ phòng độc, túi cứu thương, bi đông, dao găm và đồ hộp, họ còn phải đeo thêm lựu đạn, thuốc nổ và đạn dược bổ sung – thường là lên đến 250 viên. Ngoài ra, nhiều người còn phải vác theo những trang thiết bị chuyên môn. Một vài người ước tính mình nặng ít nhất 140kg khi di chuyển ì ạch trên boong và chuẩn bị xuống tàu. Tất cả những thứ này là cần thiết, nhưng đối với Thiếu tá Gerden Johnson Sư đoàn 4 thì người của anh đang trở nên “chậm như rùa bò”. Trung úy Bill Williams Sư đoàn 29 cho rằng binh sĩ phải mang vác quá nặng đến mức “họ không thể chiến đấu được”, và khi Binh nhì Rudolph Mozgo nhìn xuống chiếc tàu xung kích đang dập dềnh trên sóng, va đập vào mạn tàu, anh cho rằng nếu mình và đống trang bị kia có thể xuống tàu được thì “trận đánh đã thắng một nửa”.


Sư đoàn 1 Mỹ triển khai xuống tàu đổ bộ.

Nhiều người, cố gắng giữ thăng bằng trong khi leo xuống những tấm lưới với đống trang bị trên người đã bị thương ngay khi chưa chiến đấu. Binh nhất Harold Janzen ở một đơn vị súng cối mang hai cuộn dây và điện thoại dã chiến cố gắng ước lượng thời điểm lên và xuống của chiếc tàu xung kích bên dưới. Anh nhảy và đã đánh giá sai, rơi từ độ cao 3,6m xuống sàn tàu và tự loại mình ra khỏi cuộc chiến. Còn có những trường hợp nặng hơn. Hạ sĩ Romeo Pompei nghe thấy tiếng gào lên bên dưới, anh nhìn xuống và thấy một người bị treo trên tấm lưới một cách đau đớn khi chân anh ta bị hai bên thành tàu kẹp vào. Bản thân Pompei cũng đâm đầu xuống tàu và bị gãy răng cửa.

Những người đã ở trên tàu và đang được hạ xuống bằng tời cũng không khá hơn. Thiếu tá Thomas Dallas, tiểu đoàn trưởng của Sư đoàn 29 cùng với tiểu đoàn bộ bị treo lơ lửng khi tời bị kẹt. Họ bị treo ở đó suốt 20 phút – chỉ 1,2m ngay bên dưới ống xả chất thải nhà vệ sinh. “Nhà vệ sinh vẫn đang được dùng liên tục, và trong 20 phút đó chúng tôi hứng trọn sản phẩm của nó”, anh nhớ lại.

Sóng cao tới mức nhiều tàu xung kích bị dềnh lên và hạ xuống trên tời như những con lắc yo-yo khổng lồ. Một tàu chở lính biệt kích hạ xuống từ HMS Prince Charles được nửa đường thì một cơn sóng lớn ập đến và gần như ném họ trở lại boong tàu. Con sóng rút xuống và chiếc tàu trượt xuống theo cáp một cách khủng khiếp, làm những người đang say sóng trên đó nảy lên như những con búp bê.

Trong khi triển khai vào các tàu nhỏ, các cựu binh cho các tân binh biết về những gì sẽ đến. Trên HMS Empire Anvil, Binh nhất Micheal Kurtz Sư đoàn 1 tập hợp tiểu đội. “Tôi muốn tất cả cúi thấp sau thành tàu”, anh cảnh báo họ. “Ta sẽ bị bắn ngay khi chúng thấy ta. Nếu các cậu tránh được thì tốt. Còn nếu không, đây sẽ là chỗ tốt để chết. Giờ lên đường”. Khi Kurtz và đơn vị vào trong chiếc tàu trên tời, họ nghe thấy tiếng kêu bên dưới. Một tàu khác đã bị lật úp, ném những người bên trong xuống biển. Tàu của Kurtz được hạ xuống mà không gặp vấn đề gì. Rồi họ thấy những người đang bơi bên cạnh. Khi tàu Kurtz đi qua, một trong số đó hét lên, “Nhanh quá đấy, đồ khốn!”. Kurtz nhìn đồng đội. Anh thấy họ đều ngây ra.  
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2013 07:29:33 | Chỉ xem của tác giả
Lúc này là 5:30 sáng. Đợt quân đổ bộ đầu tiên đã sẵn sàng vào trận. Trong cuộc đổ bộ đường biển vĩ đại mà thế giới tự do đã nỗ lực để tiến hành này, chỉ có khoảng 3.000 lính sẽ dẫn đầu mũi tấn công. Đó là các đơn vị thuộc Sư đoàn 1, 29 và 4 cùng các đơn vị phối thuộc – các đội phá hoại dưới nước của Lục quân và Hải quân, các tiểu đoàn xe tăng và biệt kích. Mỗi đơn vị được giao đảm nhiệm một khu vực đổ bộ. Ví dụ, Trung đoàn 16 thuộc Sư đoàn 1 của Thiếu tướng Clarence R. Huebner sẽ tấn công một nửa bãi Omaha, Trung đoàn 116 thuộc Sư đoàn 29 của Thiếu tướng Charles H. Gerhardt lo nửa còn lại *. Mỗi khu vực được chia thành các khu nhỏ hơn. Sư đoàn 1 đổ bộ lên Easy Red, Fox Green và Fox Red, Sư đoàn 29 đảm nhiệm Charlie, Dog Green, Dog White, Dog Red and Easy Green.

* Mặc dù Sư đoàn 1 và 29 cùng tấn công, thực tế quá trình đổ bộ ban đầu được đặt dưới sự chỉ huy của Sư đoàn 1 – TG.

Thời gian biểu của kế hoạch đổ bộ lên Omaha và Utah được tính đến gần như từng phút. Ở khu vực của Sư đoàn 29, vào H-Hour kém 5 phút – 6:25 sáng – 32 xe tăng lội nước sẽ bơi vào Dog White và Dog Green, chiếm lĩnh vị trí bắn sát mép nước để yểm trợ cho giai đoạn đầu của cuộc đổ bộ. Vào đúng H-Hour – 6:30 sáng – 8 tàu LCT sẽ chở thêm xe tăng đổ bộ thẳng vào Easy Green và Dog Red. Một phút sau – 6:31 sáng – quân đổ bộ tiến vào bờ ở tất cả các khu vực. Hai phút tiếp đó – 6:33 sáng – đến lượt các đội công binh phá hoại dưới nước; họ có nhiệm vụ khó khăn là mở ra 16 cửa mở rộng 50m xuyên qua bãi mìn và vật cản. Họ chỉ có 27 phút để hoàn thành công việc nan giải này. Cứ cách 6 phút, tính từ 7:00 sáng, 5 đợt xung phong, lực lượng chiến đấu chính sẽ bắt đầu đổ bộ.



Tàu đổ bộ LCVP tiến về bãi Omaha dưới sự yểm trợ của tuần dương hạm USS Augusta.

Đó là kế hoạch cơ bản cho cả hai bãi biển. Quá trình lập kế hoạch đã tính toán cẩn thận để đảm bảo các trang bị nặng như pháo binh có thể đổ bộ lên Omaha trong vòng một tiếng rưỡi và thậm chí cả half-track và xe cứu kéo tăng cũng dự kiến lên bờ vào lúc 10:30 sáng. Đó là một thời gian biểu phức tạp, tỉ mỉ mà nhìn qua thì dường như không thể thực hiện được – và rất có thể những nhà lập kế hoạch đã mắc phải sơ suất này.

Đợt quân đầu tiên vẫn chưa thể nhìn thấy bờ biển phủ đầy sương của Normandy. Họ vẫn còn cách 14km. Vài chiến hạm đã bắt đầu đấu pháo với pháo bờ biển của quân Đức, nhưng đối với binh lính trên tàu chuyện đó không can hệ tới họ - chưa có ai bắn trực tiếp vào họ. Say sóng vẫn là mối nguy lớn nhất. Rất ít người thoát được. Các tàu xung kích mỗi chiếc chở khoảng 30 người cùng với trang bị nặng nề chạy chậm đến mức sóng liên tục đập vào mạn tàu. Mỗi lần như thế con tàu lại lắc lư và tròng trành, và Đại tá Eugene Caffey ở Lữ đoàn Công binh đặc biệt số 1 nhớ lại rằng một số thành viên “cứ nằm trong nước lõng bõng, không quan tâm đến sống chết gì nữa”. Nhưng đối với những người không bị thì cảnh tượng của hạm đội vĩ đại xung quanh thực sự kì thú và tuyệt vời. Trên tàu chở công binh phá hoại của Binh nhất Herald Burt, một người lính đã ước có máy quay phim.

*

*  *


Cách đó 48km, Thiếu tá Heinrich Hoffmann trên chiếc E-boat chỉ huy Hải đội 5 nhìn thấy một màn sương lạ bất thường đang phủ lên mặt biển phía trước. Khi Hoffmann đang quan sát, một máy bay xuất hiện từ màn trắng đó. Nó xác nhận nghi ngờ của anh – đó phải là một màn khói. Hoffmann dẫn 2 chiếc E-boat băng qua màn khói để tìm hiểu – và nhận được cú sốc lớn nhất trong đời. Ở bên kia màn khói, anh thấy mình đối mặt với một hàng dài kinh ngạc những chiến hạm – gần như toàn bộ hạm đội Anh. Ở khắp nơi anh thấy những thiết giáp hạm, tuần dương hạm và khu trục hạm sừng sững trước mặt. “Tôi cảm thấy như đang ngồi trên một chiếc thuyền chèo tay”, Hoffmann kể lại. Gần như ngay lập tức đạn pháo rơi quanh những chiếc tàu đang chạy ngoắt ngoéo. Dù bị áp đảo đến mức khó tin, Hoffman vẫn không do dự lấy một giây, tự tin ra lệnh tấn công. Vài giây sau, 18 quả ngư lôi xé nước lao tới hạm đội Đồng minh trong cuộc tấn công duy nhất của Hải quân Đức trong D-Day.

Trên đài chỉ huy khu trục hạm Svenner của Na Uy, Đại úy Hải quân Hoàng gia Desmond Lloyd thấy những ngư lôi đang đến gần. Những sĩ quan trên tàu Warspite, Ramillies và Largs cũng vậy. Tàu Largs nhanh chóng tăng tốc chạy lùi tối đa. Hai quả ngư lôi đi qua giữa Warspite và Ramillies. Svenner không thể tránh. Viên thuyền trưởng hét lên “Sang trái! Động cơ phải tiến tối đa! Động cơ trái lùi tối đa!” trong một nỗ lực vô vọng nhằm xoay tàu thoát khỏi quả ngư lôi. Đại úy Lloyd, qua chiếc ống nhòm thấy chúng sẽ đâm thẳng vào ngay bên dưới đài chỉ huy. Tất cả những gì anh có thể nghĩ là “Mình sẽ bay cao bao nhiêu?”. Với sự chậm chạp khổ sở, Svenner xoay sang trái và trong một khoảnh khắc Lloyd đã nghĩ rằng họ thoát nạn. Nhưng biện pháp đó đã thất bại. Một quả ngư lôi xé toang khoang lò hơi. Svenner dường như bị nâng lên khỏi mặt nước, giật mạnh và vỡ làm đôi. Gần đó, Thợ máy chính Robert Dowie trên tàu quét mìn HMS Dunbar đã kinh ngạc khi thấy chiếc khu trục hạm chìm xuống nước với "mũi và đuôi tạo thành một hình chữ V hoàn hảo”. Có 30 thương vong. Đại úy Lloyd không hề hấn gì, bơi trong khoảng 20 phút, giữ một thủy thủ bị gãy chân nổi trên mặt nước cho tới khi khu trục hạm Swift cứu họ lên.



Tàu khu trục HNoMS Svenner của Hải quân Hoàng gia Na Uy.

Đối với Hoffmann đã trở lại an toàn phía bên kia màn khói thì việc quan trọng lúc này là báo động. Anh cho truyền tin cấp tốc về Le Havre, không hề biết là điện đài đã bị hỏng trong trận chiến chớp nhoáng vừa qua.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2013 07:33:19 | Chỉ xem của tác giả
Trên kỳ hạm Augusta nằm ngoài khơi bãi biển của quân Mỹ, Trung tướng Omar N. Bradley nhét bông vào tai và chĩa ống nhòm về phía những tàu đổ bộ tăng tốc lao vào bờ. Lực lượng dưới quyền ông, Tập đoàn quân 1 Mỹ đang tiến lên một cách vững chắc. Bradley đang rất lo lắng. Cho tới cách đây vài giờ ông vẫn tin rằng bảo vệ khu vực bờ biển từ bãi Omaha cho tới khu vực quân Anh ở phía đông là một sư đoàn “tĩnh” hạng xoàng và bị phân tán của quân Đức, Sư đoàn 716. Nhưng ngay trước khi rời Anh, tình báo Đồng minh cho biết đã có thêm một sư đoàn Đức được điều tới khu vực đổ bộ. Tin tức này đến quá chậm nên Bradley không thể thông báo cho số quân đã được phổ biến và “định đoạt” của ông. Giờ, lực lượng của Sư đoàn 1 và 29 đang tiến về bãi Omaha, không biết rằng Sư đoàn 352 Đức dày dạn đang bố trí phòng thủ. *

* Tình báo Đồng minh cho rằng Sư đoàn 352 chỉ vừa mới triển khai và là để “diễn tập phòng thủ”. Thực tế đơn vị này đã tới và canh phòng bờ biển Omaha hơn 2 tháng và một số còn lâu hơn. Ví dụ, đơn vị pháo binh của Pluskat đã ở đây từ tháng 3. Nhưng cho đến ngày 4 tháng 6, tình báo Đồng minh vẫn xác định vị trí của Sư đoàn 352 ở St-Leo, cách đó hơn 30km – Chú thích của TG.



Trung tướng (sau này là Đại tướng 5 sao) Omar Nelson Bradley, Tư lệnh Tập đoàn quân 1 Mỹ.

Đợt pháo kích của hải quân mà Bradley hy vọng sẽ giúp nhiệm vụ của họ dễ thở hơn chuẩn bị bắt đầu. Cách đó vài km, Chuẩn đô đốc Jaujard trên chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ Montcalm của Pháp, nói với các sĩ quan và thủy thủ: "C'est une chose terrible et monstrueuse que d'eetre oblige de tirer sur notre propre patrie, mais je vous demande de le faire aujourd'hui” [Thật khủng khiếp khi chúng ta phải bắn lên chính mảnh đất quê hương, nhưng hôm nay tôi muốn các bạn thực hiện điều đó]. Ông nói, giọng đầy xúc động. Và ngoài khơi bãi Omaha 6,5km, trên khu trục hạm USS Carmick, Trung tá Robert O. Beer nhấn nút trên bàn điều khiển và nói, “Giờ nghe đây! Đây có lẽ sẽ là bữa tiệc lớn nhất mà các anh từng được tham dự, vì vậy hãy ra ngoài và khiêu vũ đi!”

Lúc này là 5:50 sáng. Các chiến hạm Anh đã bắn phá khu đổ bộ của họ được hơn 20 phút. Giờ cuộc pháo kích của quân Mỹ bắt đầu. Toàn bộ bãi biển chìm đi trong một cơn bão lửa dữ dội. Tiếng nổ rền vang khắp vùng bờ biển Normandy khi những chiến hạm khổng lồ nã pháo không ngớt vào những mục tiêu đã được chỉ định. Bầu trời xám xịt sáng rực lên với những chớp lửa đầu nòng và dọc theo bãi biển những đám khói đen lớn bắt đầu bốc lên.

Ngoài khơi bãi Sword, Juno và Gold, thiết giáp hạm Warspite và Ramillies dội hàng tấn sắt thép từ những khẩu pháo 380mm xuống những trận địa pháo nguy hiểm của quân Đức ở Le Harve và xung quanh cửa sông Orne. Các tuần dương hạm và khu trục hạm cơ động trút đạn vào những lô cốt, hầm ngầm bê tông và đồn bốt. Với sự chính xác kinh ngạc, chiến hạm thiện xạ HMS Ajax của trận chiến River Plate lừng danh triệt hạ một cụm pháo 152mm 4 khẩu từ cự ly 9,5km. Ngoài khơi Omaha, thiết giáp hạm Texas và Arkansas với tổng cộng 10 khẩu pháo 356mm, 12 pháo 305mm và 12 pháo 127mm bắn 600 phát vào trận địa pháo trên đỉnh Pointe du Hoc trong một nỗ lực toàn diện nhằm giảm gánh nặng cho các tiểu đoàn biệt kích đang hướng về vách đá dốc đứng cao 30m này. Ngoài khơi Utah, thiết giáp hạm Nevada và tuần dương hạm Tuscaloosa, Quincy và Black Prince dường như nghiêng đi khi bắn hết loạt này đến loạt khác. Trong khi những tàu lớn khai hỏa từ cự ly 8 đến 10km thì các khu trục hạm nhỏ tiến sát bờ biển 1,5 đến 3km và nối đuôi nhau trút đạn như mưa vào tất cả các vị trí phòng thủ.

Cuộc bắn phá đáng sợ này gây ấn tượng mạnh mẽ đối với những người nghe thấy và chứng kiến nó. Thiếu úy Hải quân Hoàng gia Richard Ryland vô cùng hãnh diện về “sự xuất hiện uy nghiêm của các thiết giáp hạm” và tự hỏi “đây có phải là cơ hội cuối cùng có thể chứng kiến một cảnh tượng như thế này”. Trên USS Nevada, Thông tin viên cấp 3 Charles Langley gần như kinh hoàng trước hoả lực khủng khiếp của hạm đội. Anh không thấy “có quân đội nào có thể chịu đựng được cuộc pháo kích này” và tin rằng “hạm đội có thể rút lui trong 2 hay 3 giờ nữa”. Và trên những tàu xung kích đang lao nhanh, khi đạn gầm rú loé sáng trên đầu, những người lính ướt sũng, say sóng và khổ sở bỏ mũ sắt nhìn lên reo hò.

Giờ một âm thanh khác vang lên. Đầu tiên là chậm rãi, giống như tiếng vo ve của một con ong khổng lồ, và rồi trở thành một tiếng động lớn, những máy bay ném bom và tiêm kích xuất hiện. Chúng bay thẳng bên trên hạm đội, sát cánh, nối đuôi nhau – 9.000 máy bay Spitfire, Thunderbolt và Mustang gầm rít trên đầu. Không để ý tới cơn mưa đạn từ hạm đội, chúng bắn phá các bãi đổ bộ và điểm cao, bay vọt lên, vòng lượn và quay lại. Phía trên, cắt chéo ở tất cả các cao độ là những máy bay ném bom hạng trung B-26 của Tập đoàn Không quân 9, và cao hơn nữa trên tầng mây dày nằm ngoài tầm mắt là những gã khổng lồ - những chiếc Lancaster, Fortress, Liberator của Tập đoàn Không quân 8 và RAF. Dường như bầu trời không thể chứa được hết máy bay. Người ta ngước lên và nhìn chăm chăm, mắt rưng rưng, khuôn mặt nhăn lại vì một cảm xúc bất ngờ dường như không thể kìm nén. Sẽ tốt cả thôi, họ nghĩ. Đó là yểm trợ của không quân – kẻ thù sẽ bị đánh dập đầu, những khẩu pháo sẽ bị phá huỷ, bờ biển sẽ bị cày xới bởi hố bom. Nhưng do không thể quan sát qua màn mây và không muốn ném bom nhầm xuống đồng đội, 329 máy bay ném bom bố trí cho bãi Omaha đã thả 13.000 quả bom vào sâu hơn trong đất liền 4,8km so với mục tiêu của họ, những khẩu pháo chết chóc ở bãi Omaha. *

* Có 8 công sự bê tông trang bị pháo 75mm hoặc lớn hơn, 35 lô cốt với pháo đủ các cỡ và/hoặc súng tự động; 4 cụm pháo binh; 18 pháo chống tăng; 6 hố súng cối; 35 hệ thống phóng rocket trang bị rocket 4 nòng 38mm; và không dưới 85 hoả điểm súng máy. - Chú thích của TG
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2013 07:34:51 | Chỉ xem của tác giả
Tiếng nổ cuối cùng ở rất gần. Thiếu tá Pluskat nghĩ rằng căn hầm đang vỡ thành từng mảnh. Một phát đạn khác bắn vào mặt đồi ở sát căn hầm. Sức ép của nó hất Pluskat văng ra phía sau. Anh rơi uỵch xuống đất. Bụi, đất và mảnh bê tông vỡ rào rào xung quanh. Anh không thể nhìn thấy gì qua màn bụi trắng xoá, nhưng có thể nghe thấy người của mình la hét. Đạn pháo nối nhau rơi xuống đồi. Pluskat bị choáng váng vì sức ép đến mức không thể nói được.

Chuông điện thoại kêu. Đó là sư đoàn bộ 352. “Tình hình thế nào?”, một giọng nói cất lên.

“Chúng tôi đang bị oanh tạc”, Pluskat cố nói, “bị oanh tạc rất mạnh”.

Giờ anh nghe thấy tiếng bom nổ ở đâu đó xa phía sau. Một loạt đạn nữa rơi xuống đỉnh đồi, làm tung những đám đất đá qua các ô cửa của căn hầm. Điện thoại lại kêu. Lần này Pluskat không tìm được nó. Anh để mặc cho nó kêu. Anh nhận ra mình bị bụi trắng phủ kín từ đầu đến chân và bộ quân phục đã rách tả tơi.

Trong một khoảnh khắc đạn ngừng bắn và qua lớp bụi dày Pluskat nhìn thấy Theen và Wilkening nằm trên sàn. Anh hét lên với Wilkening, “Tốt hơn là cậu về vị trí ngay đi khi còn có cơ hội”. Wilkening ủ rũ nhìn Pluskat – đài quan sát của anh ta ở căn hầm khác cách đây một đoạn. Pluskat tranh thủ thời gian yên tĩnh gọi cho các đại đội. Trước sự sửng sốt của anh, toàn bộ 20 khẩu pháo – tất cả đều là loại Krupp mới tinh với nhiều cỡ nòng – đều không hề hấn gì. Anh không thể hình dung làm sao mà các khẩu pháo bố trí chỉ cách bờ biển 800m hoặc hơn thế một chút lại thoát được; thậm chí không một pháo thủ nào thương vong. Pluskat bắt đầu tự hỏi liệu có phải các đài quan sát dọc bờ biển đã bị nhầm là vị trí đặt pháo. Cảnh tàn phá quanh căn hầm của anh có vẻ chỉ ra điều đó.



Một trận địa pháo Đức ở bãi Omaha.

Điện thoại lại kêu ngay khi cuộc oanh tạc tiếp tục. Vẫn giọng nói ban nãy yêu cầu được biết “địa điểm chính xác bị bắn phá”.

“Vì Chúa”, Pluskat hét lên, “chúng bắn khắp nơi. Anh muốn tôi làm gì, ra ngoài và lấy thước đo mấy cái hố à?”. Anh dập máy và nhìn quanh. Có vẻ không người nào trong hầm bị thương. Wilkening đã trở về hầm của anh ta; Theen đang ở bên một ô cửa. Rồi Pluskat nhận ra Harras đã biến mất. Nhưng lúc này anh không có thời gian để quan tâm đến chú chó lớn đó. Anh lại nhấc điện thoại, bước đến bên một ô cửa khác và quan sát. So với lần cuối anh nhìn, có vẻ đã có thêm nhiều tàu đổ bộ đang tới gần. Chúng sẽ sớm ở trong tầm bắn.

Anh gọi cho Đại tá Ocker ở trung đoàn bộ. “Tất cả pháo đều còn nguyên vẹn”.

‘”Tốt”, Ocker nói, “giờ anh nên trở lại sở chỉ huy ngay đi”.

Pluskat gọi cho các sĩ quan tác xạ. “Tôi quay lại đây”, anh bảo họ. “Hãy nhớ, không được bắn cho đến khi quân địch tới mép nước”.

Tàu đổ bộ chở Sư đoàn 1 Mỹ tới bãi Omaha không còn xa nữa. Phía sau những điểm cao nhìn xuống Easy Red, Fox Green và Fox Red, các pháo thủ ở 4 đại đội của Pluskat đang chờ chúng vào gần hơn.

*

*  *


“Đây là thông điệp từ London.

Tôi mang đến cho các bạn một chỉ thị khẩn cấp của Tổng tư lệnh. Mạng sống của rất nhiều người trong các bạn phụ thuộc vào việc phải thực hiện nó thật nhanh chóng và cẩn thận. Thông điệp này dành cho tất cả những người sống trong phạm vi 35km ở bất kì khu vực nào của bờ biển”.

Micheal Hardelay đứng bên cửa sổ ngôi nhà của mẹ anh ở Vierville, đầu phía tây bãi Omaha và quan sát hạm đội chuyển động. Những khẩu pháo vẫn đang bắn, và Hardelay có thể cảm thấy chấn động truyền qua gót giày. Toàn bộ gia đình – mẹ của Hardelay, em trai anh, người cháu gái và cô phục vụ – đã tập trung trong phòng khách. Có vẻ không nghi ngờ gì nữa, họ đều đồng tình: cuộc đổ bộ sẽ diễn ra ở ngay Vierville. Hardelay thản nhiên khi nghĩ về căn biệt thự ven biển của anh; lúc này chắc chắn nó đã bị phá hủy. Trong khi đó, BBC lại tiếp tục truyền đi thông điệp đã được phát đi phát lại suốt hơn một giờ qua.

“Hãy rời đi ngay lập tức, khi bạn đi hãy thông báo cho những người hàng xóm nào không được cảnh báo. …Tránh xa các trục đường. …Hãy đi bộ và đừng mang theo thứ gì nặng. …Hãy tới những chỗ trống trải càng nhanh càng tốt. …Đừng đi thành nhóm đông vì có thể bị nhầm với chỗ tập trung quân địch…”

Hardelay tự hỏi liệu gã Đức cưỡi ngựa có mang cà phê cho đám pháo thủ như thường lệ không. Anh nhìn đồng hồ; nếu có thì gần đến giờ rồi. Rồi Hardelay thấy hắn trên con ngựa mông to, với những bình cà phê vẫn thường mang. Gã Đức bình thản đi xuống con đường, tới chỗ rẽ và nhìn thấy hạm đội. Trong một hay hai giây hắn đờ ra. Rồi hắn nhảy xuống, trượt chân ngã, gượng dậy và chạy đi tìm chỗ nấp. Con ngựa vẫn chậm rãi đi xuống làng. Lúc đó là 6:15 sáng.

Lúc này hàng dài những tàu xung kích nhấp nhô trên sóng nước cách bãi Omaha và Utah không đầy 1,5km. Đối với 3.000 lính Mỹ trong đợt đổ bộ đầu tiên, H-Hour chỉ còn 15 phút nữa.



Tàu LVCP của Sư đoàn 1 Mỹ tiến về bãi Omaha.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2013 07:37:03 | Chỉ xem của tác giả
Tiếng động inh tai khi những chiếc tàu lao vào bờ, làm tung lên những đám bọt trắng xoá phía sau. Trên tàu người ta phải hét lên mới át được tiếng động cơ diesel. Đạn pháo từ hạm đội vẫn đang gầm rít phía trên đầu như một cái ô bằng thép khổng lồ. Và chạy dọc bờ biển là những vụ nổ dữ dội từ các đợt ném bom trải thảm của không quân Đồng minh. Thật kỳ lạ, những khẩu pháo của Bức tường Đại Tây Dương vẫn im lặng. Những người lính nhìn về bãi biển trải dài phía trước và thắc mắc vì không thấy đối phương bắn trả. Có lẽ cuối cùng đây sẽ là một cuộc đổ bộ dễ dàng, nhiều người nghĩ.

Những mũi tàu lớn hình vuông liên tục va vào sóng và nước lạnh tung toé lên tất cả mọi người. Trên những chiếc tàu này không có người hùng nào – chỉ có những người lính đang lạnh cóng, khổ sở, lo âu, chen chúc nhau chật cứng, oằn mình xuống bởi đống trang bị nặng nề đến mức thường xuyên không còn chỗ để nôn ngoại trừ nôn cả vào người khác. Kenneth Crawford ở tờ Newsweek đi cùng đợt đổ bộ đầu tiên lên bãi Utah nhìn thấy một người lính trẻ của Sư đoàn 4 bị phủ đầy người bởi đống bãi nôn của chính anh ta đang chậm rãi lắc lư đầu một cách khổ sở và kinh tởm. “Anh chàng Higgins này thấy việc thiết kế ra con tàu chết tiệt này không có gì đáng tự hào cả”, anh kể.

Vài người không có thời gian để nghĩ về những sự khổ sở của mình – họ đang tát nước vì sự sống còn. Hầu như ngay lúc rời tàu mẹ, các tàu xung kích bắt đầu bị nước tràn vào. Đầu tiên người ta không để ý lắm đến đám nước lõng bõng dưới chân; đó chỉ là một sự phiền phức khác phải chịu. Trung úy Biệt kích George Kerchner nhìn nước dâng lên từ từ trong tàu và tự hỏi liệu nó có nghiêm trọng không. Người ta đã nói với anh là những chiếc LCA không thể chìm được. Nhưng sau đó người của Kerchner nghe thấy tiếng kêu cứu trên điện đài: “Đây là LCA 860! … LCA 860! …Chúng tôi đang chìm! …Chúng tôi đang chìm!”. Và cuối cùng là một câu cảm thán: “Lạy Chúa, chúng tôi chìm rồi!”. Ngay lập tức Kerchner và mọi người bắt đầu tát nước ra.

Ngay sau tàu của Kerchner, Hạ sĩ Regis McCloskey cũng thuộc lực lượng biệt kích có vấn đề của riêng mình. McCloskey và người của anh đã tát nước suốt hơn 1 giờ. Tàu của họ chở đạn dược cho cuộc tấn công Pointe du Hoc cùng tất cả trang bị của lính biệt kích. Con tàu bị ngập đến mức McCloskey tin chắc nó sẽ chìm. Hy vọng cuối cùng của anh là làm nhẹ con tàu đang chìm này. McCloskey ra lệnh bỏ tất cả những thứ không cần thiết. Đồ hộp, quần áo thừa và ba lô bị loại ra. McCloskey ném hết chúng xuống biển. Trong một ba lô là 1200 đô mà Binh nhì Chuck Vella đã thắng bạc; trong một cái khác là hàm răng giả của Thượng sĩ Charles Frederick.

Tàu đổ bộ bắt đầu chìm ở cả khu vực Omaha lẫn Utah – 10 chiếc ngoài khơi Omaha, 7 chiếc ngoài khơi Utah. Vài người được các tàu cứu hộ đi sau vớt lên, một số khác sẽ nổi quanh đó hàng giờ trước khi được cứu. Và một số binh sĩ, tiếng kêu gào của họ không được nghe thấy đã chết đuối vì đống trang bị và đạn dược trên người. Họ chết đuối ở ngay gần bãi đổ bộ, không kịp bắn phát súng nào.

Trong chốc lát cuộc chiến trở thành vấn đề cá nhân. Quân đổ bộ tiến về bãi Utah nhìn thấy một tàu hướng dẫn bỗng nhiên nảy lên và bùng nổ. Vài giây sau những cái đầu nhấp nhô trên mặt nước và những người sống sót cố tìm cách thoát thân bằng cách bám vào những mảnh xác. Một tiếng nổ khác tiếp nối gần như tức thì. Thủy thủ trên xà lan đang cố đưa 4 trong số 32 xe tăng lội nước vào bãi Utah xuống đã đâm vào một quả mìn. Phần mũi xà lan bị bắn tung và Hạ sĩ Orris Johnson trên một chiếc LCT như bị hoá đá vì kinh hoàng, chứng kiến một chiếc xe tăng “văng lên cao hơn 30m, chậm chạp xoay vòng, rơi xuống nước và biến mất”. Sau này Johnson được biết trong số hy sinh có cả người bạn thân của mình, anh lính xe tăng Don Neill.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2013 07:38:22 | Chỉ xem của tác giả
Rất nhiều những người đổ bộ lên Utah thấy những xác chết và nghe thấy tiếng kêu của những người đang chìm. Một người, Thiếu úy Francis X. Riley của lực lượng Phòng vệ bờ biển vẫn còn nhớ rõ cảnh tượng đó. Viên sĩ quan 24 tuổi chỉ huy một tàu LCI chỉ có thể nghe “những tiếng kêu thảm thiết xin giúp đỡ của những người lính và thủy thủ bị thương và choáng khi họ cầu xin chúng tôi kéo họ lên”. Nhưng lệnh mà Riley nhận được là “đổ quân đúng thời gian bất kể thương vong”. Cố gắng quên đi những tiếng kêu gào đó, Riley ra lệnh cho tàu vượt qua những người đang chìm. Anh không thể làm gì hơn. Các đợt đổ bộ vượt lên, và khi chiếc tàu chở Trung tá James Batte cùng lực lượng của Trung đoàn 8 Sư đoàn 4 lách qua những xác chết, Batte nghe thấy một người lính mặt xám ngoét nói “May mắn một cách khốn nạn – họ không còn bị say sóng nữa”.

Cảnh tượng những xác người trên mặt nước, sự căng thẳng vì hành trình dài trên tàu và giờ đây là những bãi biển và cồn cát mang điềm xấu của Utah kéo người ta ra khỏi cơn mê. Binh nhất Lee Cason, người vừa mới bước sang tuổi 20, bỗng thấy mình “nguyền rủa Hitler và Mussolini đã đẩy chúng ra vào cái đống rác này”. Các đồng đội của anh giật mình vì sự kích động đó – họ chưa bao giờ thấy Cason chửi thề. Trên nhiều tàu các binh sĩ bồn chồn kiểm tra đi kiểm tra lại vũ khí. Người ta trở nên keo kiệt về đạn dược đến mức Đại tá Eugene Caffey không thể xin được ai một kẹp đạn cho khẩu súng trường. Caffey, người không nghĩ là sẽ đổ bộ cho tới 9:00 sáng đã nhảy lên chiếc tàu của Trung đoàn Bộ binh 8 này để bắt kịp với Lữ đoàn Công binh 1 kỳ cựu. Ông không có trang bị gì và mặc dù tất cả những người trên tàu đều mang quá nhiều đạn, họ vẫn “giữ chúng để sống”. Caffey cuối cùng cũng gom được đạn bằng cách xin của mỗi người trong số 8 người 1 viên.

Ngoài khơi bãi Omaha một thảm hoạ đang diễn ra. Gần một nửa số xe tăng lội nước dự định để chi viện cho cuộc tấn công đã bị chìm. Theo kế hoạch 64 xe tăng sẽ được thả xuống cách bờ 3 đến 4,5km. Từ đây chúng sẽ bơi vào bờ. Trong số đó 32 chiếc được phối thuộc cho khu vực của Sư đoàn 1 – Easy Red, Fox Green và Fox Red. Các xà lan chở chúng vào vị trí, mở cửa khoang và 29 xe tăng được thả xuống biển. Những chiếc xe có vẻ ngoài quái dị, với lớp bọc bằng vải bạt lớn như bóng bay nhằm hỗ trợ chúng khi xuống nước bắt đầu rẽ sóng tiến vào bờ. Và rồi bi kịch xảy ra với Tiểu đoàn Xe tăng 741. Do sức va đập của sóng, lớp bọc chống nước bị bục, nước tràn vào động cơ và từng cái một, 27 chiếc xe tăng lần lượt chìm nghỉm. Những người lính chui ra từ tháp pháo, bơm phồng áo phao và nhảy xuống biển. Một số may mắn thả được các bè cứu sinh. Những người khác chìm xuống cùng với cỗ quan tài thép.

Hai xe tăng, bị va đập và gần như bị sóng cuốn đi, vẫn tiếp tục tiến vào bờ. Tổ lái của 3 chiếc khác gặp may khi cửa xà lan của họ bị kẹt. Họ sẽ lên bờ sau. 32 chiếc còn lại – dành cho khu vực của Sư đoàn 29 – vẫn an toàn. Các sĩ quan trên tàu bị lấn át bởi thảm hoạ mà họ chứng kiến đã khôn ngoan khi quyết định đưa chúng lên thẳng bãi biển. Nhưng việc mất những chiếc xe tăng của Sư đoàn 1 sẽ khiến hàng trăm người bị thương vong trong mấy phút nữa.

Từ cách 3km binh lính đã thấy những người chết và những người sống trên mặt nước. Những người chết nổi lềnh bềnh, dạt vào bờ theo những con sóng như thể muốn đi cùng đồng đội. Những người sống trồi sụt trên mặt nước kêu cứu trong khi các tàu không thể làm gì. Hạ sĩ Regis McCloskey, chiếc tàu chở đạn của anh đã được an toàn, nhìn những người lính đang gào thét “kêu gọi giúp đỡ, cầu xin chúng tôi dừng lại – và chúng tôi không thể. Không thể vì bất cứ cái gì hay bất cứ ai”. Nghiến chặt răng, McCloskey quay đi khi chiếc tàu phóng vượt qua, vài giây sau anh nôn mửa qua thành tàu. Đại úy Robert Cunningham và đồng đội cũng nhìn thấy những người sống sót đang vùng vẫy. Theo bản năng, các thủy thủ Hải quân lái tàu về phía đó. Một tàu cao tốc chặn họ lại. Loa trên đó kêu, “Các anh không phải là tàu cứu hộ! Hãy tiến vào bờ!”. Trên một tàu khác gần đó, Hạ sĩ Noel Dube ở một tiểu đoàn công binh đọc kinh ăn năn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2013 07:40:36 | Chỉ xem của tác giả
Lúc này bản hoà âm chết chóc của bom đạn dường như tăng lên và dữ dội hơn khi những hàng tàu xung kích vào gần bãi Omaha. Các tàu đổ bộ cách bờ khoảng 900m tham gia cuộc bắn phá; và rồi hàng ngàn chớp sáng của rocket gầm rít lướt qua đầu binh sĩ. Đối với họ dường như không thể tưởng tượng được thứ gì có thể sống sót dưới hoả lực kinh khủng đang dội xuống tuyến phòng thủ của quân Đức. Bãi biển chìm đi trong khói bụi, và những đám khói do cỏ cây bị thiêu đốt lờ đờ bốc lên trên những ngọn đồi. Những họng pháo của quân Đức vẫn im ắng. Những chiếc tàu tiến vào. Trên bãi cát trải dài người ta giờ có thể nhìn thấy một rừng vật cản bằng thép và bê tông. Chúng được bố trí khắp nơi, buộc dây thép gai và gài mìn. Trông chúng xấu xí và dữ tợn như họ đã hình dung. Phía sau lớp phòng thủ bờ biển hoàn toàn hoang vắng; không có ai hay thứ gì di động. Những chiếc tàu càng lúc càng vào gần hơn …450m …400m. Kẻ địch vẫn không bắn. Băng qua những con sóng cao 1,2 đến 1,5m, các tàu xung kích tiến lên, và giờ cuộc bắn phá vĩ đại bắt đầu ngừng lại, chuyển sang các mục tiêu nằm sâu trong đất liền. Những tàu đầu tiên chỉ còn cách bờ chừng 350m khi pháo binh Đức – những khẩu pháo mà không ai nghĩ là có thể thoát khỏi cuộc oanh tạc của không quân và hải quân Đồng minh – bắt đầu khai hoả.

Trong những tiếng la hét và ầm ĩ có một âm thanh gần hơn, chết chóc hơn tất cả những thứ còn lại – tiếng lanh lảnh của đạn súng máy bắn vào mũi tàu bằng thép trông như mũi lợn. Pháo gầm lên. Đạn cối rơi như mưa. Suốt dọc 6,5km bờ biển của bãi Omaha những họng súng của quân Đức trút đạn xuống các tàu xung kích.

Lúc đó là H-Hour.



Quân Mỹ đổ bộ lên bãi Omaha.

Họ đổ bộ lên bãi Omaha, những người vất vả hơn tất cả. Không có một lá quân kỳ nào được phất lên, không có một hồi tù và hay kèn trận nào được thổi. Nhưng họ có lịch sử của mình. Họ đến từ những trung đoàn đã trấn thủ ở Valley Forge, Stone Creek, Antietam, Gettysburg, đã chiến đấu ở Argonne. Họ đã đổ bộ lên bờ biển Bắc Phi, Sicily và Salerno **. Giờ họ có thêm một bãi biển nữa phải đánh chiếm. Họ sẽ gọi nó là “Omaha đẫm máu”.

** Các địa điểm nổi tiếng mà Sư đoàn 1 hoặc Sư đoàn 29 Mỹ từng tham chiến trong quá khứ. Valley Forge, Stone Creek, Antietam, Gettysburg ở Mỹ trong Nội chiến Mỹ. Argonne ở Pháp trong Thế chiến I. Bắc Phi, Sicily (Italia), Salerno (Italia) trong Thế chiến II  năm 1942-1943 – chiangshan.

Hoả lực mạnh nhất đến từ những điểm cao ở cả hai đầu của bãi biển hình trăng lưỡi liềm này – từ khu Dog Green của Sư đoàn 29 ở phía tây tới khu Fox Green của Sư đoàn 1 ở phía đông. Tại đây quân Đức đã tập trung phòng ngự chặt chẽ nhất để giữ hai lối ra chính của bãi biển ở Vierville và tới Colleville. Ở khắp nơi binh sĩ bị bắn khi tàu vào gần, nhưng lực lượng đổ bộ lên Dog Green và Fox Green không có cơ hội nào khác. Các xạ thủ Đức trên đồi hầu như nhìn trực tiếp được xuống các tàu đổ bộ đầy nước đang lắc lư tiến vào. Những con tàu vụng về và chậm chạp đó gần như đứng yên tại chỗ. Họ là những mục tiêu ngon ăn. Các thuyền trưởng cố gắng liều lĩnh lái những con tàu cồng kềnh của mình lách qua bãi mìn và chướng ngại giờ phải hứng chịu hoả lực.

Một số tàu không thể tìm được đường trước mê cung những vật cản và lưới lửa từ trên đồi bắn xuống đã lùi lại, chạy lung tung dọc bờ biển tìm một chỗ phòng thủ yếu hơn để đổ bộ. Những chiếc khác kiên trì tiến vào khu vực được phân công đã bị bắn dữ dội đến mức binh sĩ phải nhảy qua thành tàu xuống nước, nơi họ lập tức bị súng máy hạ gục. Một vài tàu tan tành khi vào gần. Chiếc tàu xung kích của Thiếu úy Edward Gearing chở 30 người ở Sư đoàn 29 vỡ tan trong phút chốc khi cách lối ra Vierville ở Dog Green 270m. Gearing và đồng đội bị ném khỏi tàu và rơi xuống nước. Choáng váng, viên thiếu úy 19 tuổi rơi xuống cách nơi con tàu chìm mấy mét, ngập nửa người. Những người sống sót cũng bắt đầu thấy nhấp nhô trên mặt nước. Vũ khí, mũ sắt và trang bị của họ đều không còn. Viên thuyền trưởng đã biến mất, và gần đó một người lính của Gearing bị chiếc điện đài nặng nề kéo xuống đang gào lên, “Vì Chúa, tôi chết mất!”. Không ai có thể giúp người điện đài viên khi anh ta chìm xuống. Đối với Gearing và những người còn lại trong phân đội, thử thách mới chỉ bắt đầu. Họ sẽ mất 3 giờ nữa mới lên được bãi biển. Rồi Gearing sẽ được biết mình là sĩ quan duy nhất còn lại trong đại đội. Những người khác đã chết hoặc bị thương nặng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách