Có những khoảnh khắc rất buồn cười. Trong một vườn cây tối om cách Ste-Mere-eeglise 1,5km, Đại úy Lyle Putnam, bác sĩ phẫu thuật của một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 82 thấy mình hoàn toàn đơn độc. Anh thu thập các dụng cụ quân y và bắt đầu tìm đường ra. Gần hàng rào anh thấy một bóng người đang thận trọng đi tới. Putnam khựng lại, ngả người về phía trước và đọc mật khẩu của Sư đoàn 82, “Chớp”. Một giây im lặng, Putnam chờ ám hiệu tương ứng, “Sấm”. Thay vào đó, trong sự ngạc nhiên của anh, Putnam nhớ lại, người kia hét lên “Jesus Christ” và quay lại “bỏ chạy như một kẻ điên”. Bác sĩ bực đến mức quên luôn cả nỗi sợ. Cách đó 800m, bạn anh, Đại úy George Wood, cha tuyên úy Sư đoàn 82 cũng chỉ có một mình và đang bận rộn với chiếc bấm. Không thấy ai bấm trả lời. Rồi anh nhảy dựng lên vì sợ khi một giọng nói vang lên từ đằng sau: “Vì Chúa, mục sư ạ, dừng cái tiếng ồn khỉ gió này lại đi”. Kiềm chế, Wood theo người lính dù rời khỏi đây.
Đến chiều hai người này sẽ ở trong trường học của bà Angeele Levrault ở Ste-Mere-eeglise để chiến đấu một cuộc chiến của riêng mình – một cuộc chiến mà bộ quân phục không làm nên sự khác biệt nào. Họ sẽ chăm sóc những người bị thương của cả hai phía.
Đến 2:00 sáng, mặc dù đã hơn 1 giờ trôi qua kể từ khi tất cả lính dù tiếp đất, nhiều nhóm nhỏ gồm những người ở khắp các đơn vị vẫn còn đang trên đường tiếp cận mục tiêu. Một nhóm trên thực tế đã tấn công mục tiêu được phân công, một vị trí phòng ngự với hầm hào, súng máy và pháo chống tăng ở làng Foucarville ngay sau bãi Utah. Vị trí này hết sức quan trọng, nó kiểm soát mọi sự di chuyển trên con đường chính chạy phía sau khu vực bãi Utah mà xe tăng đối phương có thể lợi dụng để đánh vào đầu cầu. Cần 1 đại đội để tấn công Foucarville nhưng mới chỉ có 11 người dưới quyền Đại úy Cleveland Fitzgerald tới nơi. Fitzgerald quyết định tấn công mà không đợi thêm quân. Trong trận đánh này, trận đánh đầu tiên được ghi chép lại của Sư đoàn 101 trong D-Day, Fitzgerald và đồng đội đã tiếp cận được tới sở chỉ huy của địch. Đó là một trận chiến ngắn ngủi đẫm máu. Fitzerald bị bắn trúng phổi, nhưng khi gục xuống anh cũng hạ được tên Đức. Cuối cùng những lính Mỹ ít hơn phải rút lui ra ngoài chờ trời sáng và viện binh đến. Họ không biết rằng 9 lính dù đã tới Foucarville khoảng 40 phút trước đó. Họ đã rơi vào chính cứ điểm. Giờ họ đang bị canh giữ trong một căn hầm, không biết gì về trận đánh, và nghe một tay lính Đức tập chơi harmonica.
Đó là những giây phút điên loạn đối với tất cả - đặc biệt là các vị tướng. Họ thiếu sĩ quan tham mưu, thiếu phương tiện liên lạc và thiếu quân. Thiếu tướng Maxwell Taylor thấy xung quanh ông có nhiều sĩ quan nhưng chỉ có 2 hay 3 người lính. “Chưa bao giờ lại có ít lính được chỉ huy bởi nhiều sĩ quan thế này”. Ông nói với họ.
Thiếu tướng Matthew B. Ridgway đang đơn độc trên cánh đồng, súng ngắn trong tay, tự thấy mình may mắn. Như ông nhớ lại sau này, “không có đồng đội thì ít nhất cũng không gặp kẻ thù”. Phó của ông, Chuẩn tướng James M “Jumpin Jim” Gavin, người lúc này đang nắm quyền chỉ huy Sư đoàn 82 ở cách đấy vài km trong khu đầm lầy Merderet.
Thiếu tướng (sau này là Đại tướng) Matthew Bunker Ridgway (trái), Sư đoàn trưởng và Chuẩn tướng (sau này là Trung tướng) James Maurice Gavin (phải), Sư đoàn phó Sư đoàn Đổ bộ đường không 82 Mỹ.
Gavin cùng một số lính dù đang cố thu thập các gói trang bị rơi xuống đầm lầy. Chúng bao gồm điện đài, bazooka, súng cối và đạn dược mà Gavin rất cần. Anh biết đến sáng đầu cầu sẽ bị tấn công ác liệt. Giờ trong khi anh đang đứng ngập đến đầu gối trong nước lạnh, một mối lo khác đang đến. Anh không biết chắc mình đang ở đâu, và tự hỏi phải làm gì với những người bị thương đã gặp được nhóm và đang nằm trên bờ.
Gần một giờ trước, nhìn thấy ánh sáng đỏ và xanh ở xa phía bên kia hồ, Gavin đã cử phụ tá của mình, Trung úy Hgo Olson đi tìm hiểu. Anh hy vọng đó là tín hiệu tập hợp của 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 82. Olson vẫn chưa trở về và Gavin càng lúc càng lo lắng. Một trong những sĩ quan của anh, Trung úy John Devine đang trần như nhộng lặn ngụp ở giữa hồ để mò tìm các túi trang bị. “Mỗi lần lên bờ, anh ta đứng như một bức tượng trắng toát”, Gavin nhớ lại, “và tôi không thể không nghĩ là anh ta sẽ trở thành bia sống nếu bọn Đức nhìn thấy”.
Đột nhiên một bóng người chật vật đi tới từ đầm lầy. Người anh ta phủ đầy bùn và ướt nhẹp. Đó là Olson trở về để báo cáo có một đường xe lửa chạy thẳng ở bên kia, nằm trên bờ đường đắp cao chạy qua đầm lầy. Đây là tin tốt đầu tiên. Gavin biết chỉ có một đường xe lửa trong khu vực – đường xe lửa Cherbourg-Carentan chạy qua thung lũng Merderet. Vị tướng bắt đầu cảm thấy khá hơn. Lần đầu tiên anh biết mình đang ở đâu.
Trong một vườn táo phía ngoài Ste-Mere-eeglise, người sẽ phải giữ cửa ngõ phía bắc thị trấn – bên sườn đầu cầu đổ bộ Utah – đang bị đau và cố để không thể hiện ra. Trung tá Benjamin Vandervoort ở Sư đoàn 82 đã bị vỡ mắt cá khi nhảy, nhưng anh quyết định ở lại chiến đấu cho dù chuyện gì xảy ra.
Vận rủi đã đeo đuổi Vandervoort. Anh luôn thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh, đôi lúc quá nghiêm chỉnh. Không giống các sĩ quan khác, Vandervoort không bao giờ có một biệt danh nào hay cho phép mình có một quan hệ gần gũi, dễ dãi với binh sĩ như nhiều người hay làm. Normandy đã thay đổi tất cả - và hơn thế. Nó đã khiến anh trở thành “một trong những chỉ huy dũng cảm nhất, gan lì nhất mà tôi từng biết” như Thiếu tướng Matthew B. Ridgway sau này nhớ lại. Vandervoort sẽ chiến đấu với cái chân bị vỡ mắt cá thêm 40 ngày, sát cánh bên những người mà sự chấp nhận của họ là thứ anh mong muốn nhất.
Bác sĩ quân y của tiểu đoàn Vandervoort, Đại úy Putnam, vẫn đang dò dẫm sau cuộc chạm trán với người lính dù lạ ở hàng rào, tình cờ gặp trung tá và người của anh. Putnam vẫn còn nhớ rõ hình ảnh đầu tiên về Vandervoort mà anh thấy “Anh ta ngồi, trùm áo mưa, xem bản đồ nhờ ánh đèn pin. Anh ta nhận ra tôi và gọi tôi lại, khẽ đề nghị tôi xem chỗ mắt cá cho anh ta càng kín đáo càng tốt. Mắt cá của anh ấy rõ ràng là bị vỡ. Anh ta khăng khăng đòi chiếc bốt và chúng tôi buộc chặt nó lại”. Sau đó, trước sự chứng kiến của Putnam, Vandervoort nhặt khẩu súng trường và dùng nó như một cây nạng, bước từng bước. Anh nhìn những người lính xung quanh. “Nào”, anh nói, “lên đường thôi”. Anh bước đi trên cánh đồng.
Lính dù Sư đoàn 82 ở Normandy, D-Day.
Giống như những lính dù Anh ở phía đông, các lính dù Mỹ - hài hước, buồn phiền, sợ hãi và đau đớn – bắt đầu thực hiện công việc mà vì nó họ đã tới Normandy.
Đó là sự khởi đầu. Những người lính xung kích đầu tiên của D-Day, gần 18.000 quân Mỹ, Anh và Canada đang ở trên hai bên sườn của chiến trường Normandy. Ở giữa họ là 5 bãi đổ bộ và ngoài khơi, hạm đội với 5.000 tàu đang đều đặn tiến đến. Chiếc tàu đầu tiên, USS Bayfield chở theo chỉ huy Lực lượng U của Hải quân, Chuẩn đô đốc D. P. Moon giờ chỉ còn cách bãi Utah 19km và đang chuẩn bị thả neo.
Kế hoạch đổ bộ đang bắt đầu được triển khai một cách chậm rãi – và quân Đức vẫn mù tịt. Có nhiều lí do. Thời tiết, thiếu trinh sát (chỉ có vài máy bay được cử đến khu vực tập kết quân mấy tuần trước, và đều đã bị bắn hạ), niềm tin vững chắc vào việc cuộc đổ bộ sẽ diễn ra ở Pas-de-Calais, sự bối rối và chồng chéo của các mệnh lệnh và thất bại trong việc giải mã các thông điệp của quân kháng chiến, tất cả đều góp phần. Ngay cả các đài radar đêm đó cũng không phát hiện điều gì. Những trạm không bị ném bom đã bị nhầm lẫn bởi các bó “gây nhiễu” – những dải lá thiếc được máy bay Đồng minh thả xuống dọc bờ biển đã che phủ màn hình. Chỉ có một trạm báo cáo về. Nó chỉ cho biết “lưu thông bình thường trên Eo biển”. |