|
Đối với binh lính, thật tốt khi cuối cùng cũng lên đường mặc dù phía trước là hiểm nguy và gian khổ. Họ vẫn còn căng thẳng nhưng một vài gánh nặng đã được cất đi. Giờ tất cả đơn giản là muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trên những tàu đổ bộ và tàu vận tải, người ta tranh thủ những giờ phút cuối để viết thư, chơi bài, tham gia những cuộc tán gẫu. Thiếu tá Thomas Spencer Dallas Sư đoàn 29 nhớ lại, “Cha tuyên uý rất bận rộn”.
Một mục sư trên chiếc tàu đổ bộ chật cứng, Đại úy Lewis Fulmer Koon, cha tuyên úy của Trung đoàn Bộ binh 12 Sư đoàn 4, thấy mình phải làm nhiệm vụ người cha tinh thần cho tất cả các tôn giáo. Một sĩ quan Do Thái, Đại úy Irving Gray, đề nghị Cha Koon hướng dẫn cả đại đội cùng cầu nguyện “tới vị Chúa mà chúng con tin tưởng, cả Tin lành, Công giáo hay Do Thái, rằng nhiệm vụ sẽ được hoàn thành và nếu có thể chúng con sẽ được trở về an toàn”. Koon vui vẻ nhận lời. Và trong bóng tối chạng vạng, Xạ thủ cấp 3 William Sweeney trên chiếc canô của lực lượng Phòng vệ bờ biển nhớ lại, tàu vận tải xung kích Samuel Chase phát tín hiệu, “Cả khối bắt đầu chuyển động”.
Phần lớn mọi người im lặng trong những giờ đầu tiên của cuộc hành trình. Nhiều người bắt đầu cởi mở và nói về những thứ mà thường họ chỉ giữ cho riêng mình. Hàng trăm người sau này nhớ lại họ cảm nhận nỗi sợ và nói chuyện về những vấn đề cá nhân với sự thẳng thắn hiếm thấy. Họ trở nên gần gũi hơn trong buổi tối bất thường này và giãi bày tâm sự với những người họ chưa bao giờ gặp. “Chúng tôi nói rất nhiều về gia đình, về những gì chúng tôi đã trải qua, những gì sắp tới và về việc mọi thứ sẽ thế nào”, Binh nhất Earlston Hern ở Tiểu đoàn Công binh 146 nhớ lại. Trên mặt boong ẩm ướt và trơn tuột của chiếc tàu đổ bộ, Hern cùng một cứu thương mà anh không bao giờ biết tên đã có một cuộc đối thoại như vậy. “Người cứu thương có chuyện ở nhà. Vợ anh ta, một cô người mẫu muốn li dị. Anh ấy khá lo lắng. Anh ấy nói cô ta sẽ chờ tới khi anh ấy về. Tôi cũng nhớ là trong suốt thời gian chúng tôi nói chuyện, có một chàng trai trẻ đứng gần đó khe khẽ hát một mình. Cậu ta nhận thấy là mình hát tốt nhất từ trước tới giờ và điều đó rõ ràng làm cậu ấy vừa lòng”.
Trên boong chiếc HMS Empire Anvil, Binh nhất Micheal Kurtz của Sư đoàn 1 Mỹ, một cựu binh từng tham gia đổ bộ lên Bắc Phi, Sicily và Italy thấy Binh nhì Joseph Steinber, tân binh bổ sung ở Wisconsin lại gần:
“Binh nhất này”, Steinber nói, “anh có thực sự tin là ta có cơ hội không?”
“Khỉ thật, có chứ, nhóc”, Kurts nói, “Đừng bao giờ lo là mình sẽ chết. Trong đơn vị ta chỉ lo về các trận đánh khi ta gặp chúng”.
Hạ sĩ Bill “L-Rod” Petty của Tiểu đoàn Biệt kích 2 cũng đang lo lắng. Cùng với người bạn, Binh nhất Bill McHugh, Petty ngồi trên boong chiếc tàu hơi nước Isle of Man nhìn vào màn đêm. Petty cảm thấy một sự an ủi lạnh nhạt từ hàng dài những chiếc tàu xung quanh; tâm trí anh đang hướng về vách đá ở Pointe du Hoc. Quay sang McHugh, anh nói: “Chúng ta không có tí hy vọng khốn nạn nào là sẽ sống mà ra được khỏi đó”.
“Cậu bi quan quá đấy”, McHugh nói.
“Có thể”, Petty trả lời, “Nhưng sẽ chỉ có một trong hai ta làm được, Mac ạ”.
McHugh không xúc động. “Đến lúc phải đi thì cứ đi thôi”, anh nói.
Một vài người thử đọc sách. Binh nhất Alan Bodet Sư đoàn 1 bắt đầu với cuốn “Kings Row” của Henry Bellamann, nhưng anh thấy khó mà tập trung vì đang lo cho chiếc jeep. Liệu những chỗ bọc chống thấm nước có chịu được khi anh lái chiếc xe xuống chỗ nước sâu 1 đến 1,2m không? Pháo thủ Arthur Henry Boon của Sư đoàn 3 Canada trên chiếc tàu đổ bộ chở xe tăng cố đọc một cuốn sách bỏ túi có tựa đề gây tò mò “A Maid and a Milion Men”. Cha tuyên úy Lawrence E. Deery của Sư đoàn 1 trên tàu vận tải HMS Empire Anvil thì ngạc nhiên khi thấy một sĩ quan hải quân Anh đọc thơ Horace bằng tiếng Latin. Nhưng bản thân Deery, người sẽ đổ bộ lên bãi Omaha trong đợt đầu tiên với Trung đoàn Bộ binh 16, cũng dành cả buổi tối đọc cuốn “Life of Michelangelo” của Symond. Ở một đoàn khác, trên chiếc tàu đổ bộ lắc lư nhiều đến nỗi hầu như tất cả đều bị say sóng, Đại úy James Douglas Gilan, một người Canada khác đang đọc một chương có ý nghĩa vào tối nay. Để làm yên lòng bản thân và một sĩ quan nữa, anh mở cuốn Thánh ca thứ 23 và đọc to “Chúa là người chăn dắt con; con không muốn …”
Không phải tất cả đều nghiêm nghị. Có cả sự thư giãn nữa. Trên tàu vận tải HMS Ben Machree, một số lính biệt kích buộc những sợi dây chão 2cm từ cột ăng ten với boong rồi bắt đầu leo trèo khắp nơi trước sự ngạc nhiên của các thủy thủ Anh. Trên một tàu khác, thành viên của Sư đoàn 3 Canada tổ chức một buổi tối tài tử với đủ thể loại ngâm thơ, nhảy jig, vũ quay và đồng ca. Hạ sĩ James Percival “Paddy” de Lacy của Trung đoàn Vua (King’s Regiment) xúc động khi nghe kèn túi chơi bài “Rose of Tralee” đã quên mất mình đang ở đâu và đã đứng lên đề nghị chơi “Eamon de Valera” của Ireland để “giữ chúng ta tránh khỏi cuộc chiến”.
Nhiều người đã lo lắng hàng giờ về cơ hội sống sót của mình giờ không thể chờ để đặt chân lên bãi biển. Hành trình trên tàu tỏ ra tệ hơn cả nỗi sợ lớn nhất mà họ dành cho quân Đức. Say sóng đã lan ra khắp 59 đoàn tàu như một bệnh dịch, đặc biệt trên những chiếc tàu đổ bộ lắc mạnh. Mỗi người đều được phát thuốc chống say, cộng với một món đồ được ghi cẩn thận trong danh sách trang bị cơ bản của Lục quân, “Túi nôn, 1”.
Đó là nỗ lực cao nhất của quân đội, nhưng vẫn chưa đủ. “Túi nôn đầy, mũ sắt đầy, thùng chữa cháy bị đổ hết cát và người ta nôn đầy vào đó”, Hạ sĩ kỹ thuật William James Wiedefeld của Sư đoàn 29 nhớ lại. “Anh không thể đứng trên sàn được, và khắp nơi anh nghe người ta nói rằng, “Nếu họ sắp giết chúng ta thì hãy cho ta ra khỏi cái bồn chó chết này đi”. Trên một số tàu đổ bộ người ta mệt đến mức họ doạ - có lẽ còn hiệu quả hơn khi nói một cách nghiêm túc nhất – sẽ nhảy xuống biển. Binh nhì Gordon Laing Sư đoàn 3 Canada phải cố giữ lấy một người bạn đang “năn nỉ tôi bỏ tay khỏi thắt lưng của anh ta”. Một lính đặc công Thủy quân lục chiến Hoàng gia, Hạ sĩ Russel John Wither, nhớ rằng trên tàu của anh “túi nôn nhanh chóng bị dùng hết và chỉ còn lại có một cái duy nhất”. Nó được truyền tay nhau qua từng người.
Do say sóng, hàng nghìn người đã để lỡ bữa ăn tốt nhất mà họ đã chờ hàng tháng. Khẩu phần đặc biệt đã cấp cho tất cả các tàu những đồ ăn tốt nhất có thể. Mỗi tàu có thực đơn đặc biệt, binh lính đặt cho cái tên “bữa ăn cuối cùng”, khác nhau và mỗi người cũng có cảm giác khác nhau. Trên tàu vận tải xung kích Charles Carroll, Đại úy Carroll B. Smith Sư đoàn 29 có cá nướng với trứng ốp la, kem và quả mâm xôi. Hai giờ sau anh sẽ chiến đấu giành một vị trí trên đường xe lửa. Thiếu úy Joseph Rosenblatt, Jr Tiểu đoàn Công binh 112 ăn bảy miếng gà và cảm thấy khoẻ. Hạ sĩ Keith Bryan ở Lữ đoàn Công binh đặc biệt số 5 cũng vậy. Anh ăn sandwich và cà phê và vẫn thấy đói. Một trong những đồng đội của anh kiếm được 4 lít cocktail hoa quả trên tàu và 4 người bọn họ chén sạch nó.
Trên tàu HMS Prince Charles, Hạ sĩ Avery J. Thornhill của Tiểu đoàn Biệt kích 5 tránh xa mọi sự phiều nhiễu. Anh đã uống quá liều thuốc chống say và ngủ một mạch.
Bất chấp nỗi sợ và sự khổ sở, trí nhớ của nhiều người vẫn được ghi lại với sự rõ ràng đáng ngạc nhiên. Thiếu úy Donald Anderson Sư đoàn 29 nhớ rõ cảnh tượng mặt trời lặn khoảng 1 giờ trước khi trời tối, in bóng lên toàn hạm đội. Trước vinh dự của Hạ sĩ Tom Ryan Tiểu đoàn Biệt kích 2, những người lính trong đại đội F tập hợp xung quanh anh và hát “Happy Birthday”. Anh đã 21 tuổi. Và đối với Binh nhì 19 tuổi Robert Marion Allen Sư đoàn 1 đang nhớ nhà thì đó là một “đêm sẵn sàng để bơi thuyền trên sông Mississippi”.
Tất cả, trên những con tàu, những người sẽ làm nên lịch sử vào bình minh ngồi lại để nghỉ ngơi được chút nào hay chút ấy. Trung tá Phillippe Kieffer của đơn vị đặc công Pháp độc lập buông mình xuống đệm trên chiếc tàu đổ bộ, trong tâm trí ông xuất hiện lời cầu nguyện của Sir Jacob Astley trong trận Edgehill ở Anh năm 1642. “Thưa Chúa”, Kieffer cầu nguyện, “Người biết con sẽ phải vất vả như thế nào vào ngày này. Nếu con quên mất Người, xin Người đừng quên con”. Ông kéo chăn và gần như ngay lập tức thiếp đi. |
|