Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Spica
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác - Xuất Bản] Nghìn Lẻ Một Đêm | Nhiều Tác Giả

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:01:15 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 11
---------------------------------------

So với đêm trước thì đêm nay Dinarzade không được nhanh nhẩu bằng. Hầu như trời đã tờ mờ sáng khi nàng nói với hoàng hậu:

- Chị thân yêu của em, nếu chị không còn ngủ thì xin chị nói cho em biết có gì đã xảy ra ở cái lâu đài tráng lệ mà chị đã dừng lại đêm qua đó.

- Chị sẽ nói ngay cho em biết đây - Scheherazade đáp rồi quay sang nói với hoàng đế - Tâu hoàng thượng, thế rồi người tu sĩ tiếp tục kể như thế này:

“Khi tôi đã kể câu chuyện của mình cho bốn mươi thiếu phụ nghe xong, một vài nàng ngồi gần tôi còn nán lại để cùng tôi trao đổi thêm, trong khi đó thì những người kia, thấy đêm đã xuống, bèn đứng lên đi tìm nến thắp. Họ mang tới rất nhiều nến, thắp lên sáng trưng chẳng kém ánh sáng ban ngày, nhưng các nàng đã sắp đặt bày biện thật cân xứng đẹp mắt.

Những thiếu phụ khác bày lên bàn những trái cây khô, những loại mứt và các đồ uống. Các thứ rượu uống bày đầy trong tủ. Một số các nàng xuất hiện với các nhạc cụ trong tay. Khi tất cả đã chuẩn bị xong, các nàng mời tôi ngồi vào bàn và họ cũng cùng ngồi xuống. Chúng tôi ngồi cùng nhau khá lâu. Những nàng có nhiệm vụ chơi đàn và những nàng phải hoà giọng ca của mình theo nhạc đều đứng lên và hình thành một đàn đồng ca thật quyến rũ. Những nàng khác bắt đầu một điệu vũ từng đôi một cầm tay nhau nhảy, hết đôi nọ đến đôi kia, yểu điệu và duyên đáng vô cùng.
Quá nửa đêm, cuộc vui ngừng lại. Một trong các thiếu phụ cất tiếng, bảo tôi:

- Chàng đã mệt vì đoạn đường đi hôm nay, đã đến lúc chàng cần phải nghỉ ngơi. Buồng riêng của chàng đã được sửa soạn, nhưng trước khi về đó chàng hãy chọn cơ nào trong bọn thiếp mà chàng thấy thích hơn cả. Chàng hãy đưa cô ấy về ngủ cùng chàng.

Tôi đáp là sẽ không làm việc chọn lựa đó theo lời đề nghị vì tôi thấy tất cả các nàng đều đẹp, đều thông minh, đều xứng đáng với sự tôn trọng và ý thức phục vụ của tôi. Tôi không muốn mắc vào khuyết điểm bất lịch sự nếu bảo thích người nọ hơn người kia.

Cũng thiếu phụ đã nói với tôi lại bảo:

- Chúng em rất tin ở sự thẳng thắn của chàng và chúng em thấy rõ là chàng sợ chúng em sẽ sinh lòng ghen tuông với nhau nên giữ ý. Nhưng xin chàng đừng ngại: chúng em đã cùng nhau thoả thuận là hạnh phúc của cô nào được chàng chọn không làm cho chúng em ghen tuông chút nào, vì hằng đêm lần lượt chúng em đều được hưởng hạnh phúc đó. Cứ bốn chục ngày là đến lượt và lại bắt đầu lượt mới. Vậy chàng hãy cứ tự do lựa chọn đi, chớ nên để mất thời gian cần cho sự nghỉ ngơi của chàng.

Tôi đành phải nhượng bộ và giơ tay ra cho nàng đã thay mặt tất cả chị em trao đổi với tôi, nàng cũng đưa tay cho tôi và chúng tôi được dẫn tới một căn phòng lộng lẫy. Người ta để chúng tôi chỉ còn hai người với nhau, còn các thiếu phụ khác đều về phòng riêng của mình...”.

- Nhưng trời lại đã sáng mất rồi, tâu bệ hạ - Scheherazade nói với hoàng đế - và xin Người hãy cho phép thiếp để lại tu sĩ vôi nàng thiếu phụ cửa chàng ở trong căn phòng riêng của họ.

Schahriar lặng thinh nhưng ông đứng lên tự nhủ: phải công nhận là câu chuyện tuyệt hay, ta sẽ mắc sai lầm to nhất trong thiên hạ nếu không để chút thì giờ nghe nốt cho đến cuối.

***
Dinarzade, tàn đêm hôm sau, không quên bảo chị:

- Chị ơi? Nếu chị không muốn ngủ nữa, thì em xin chị kể nốt câu chuyện kỳ thú về người tu sĩ thứ ba cho em nghe đi?

- Chị xin vui lòng - Scheherazade đáp - Và đây là lời của vị hoàng tử đó kể tiếp chuyện mình:

“Sáng hồm sau, chỉ vừa mới mặc xong quần áo thì ba mươi chín thiếu phụ kia đã kéo đến phòng tôi, tất cả đều trang điểm khác hẳn ngày hôm trước. Các nàng chúc tội một ngày tốt đẹp và hỏi han tôi về sức khoẻ. Rồi các nàng đưa tôi vào buồng tắm, tự tay kỳ cọ cho tôi và mặc dù ngoài ý muốn của tôi, các nàng vẫn giúp tôi mọi việc cần thiết. Các nàng mặc cho tôi một bộ quần áo khác còn đẹp hơn cả bộ hôm qua.

Suốt ngày hầu như chúng tôi chỉ ngồi ở bàn ăn và khi tới giờ đi ngủ, các nàng lại bảo tôi chọn người để qua đêm. Thưa bà, để bà khỏi nhàm chán vì cứ phải nghe nhắc đi nhắc lại cùng một việc đó, tôi xin nói tóm tắt là suốt một năm tròn tôi sống với bốn mươi thiếu phụ và lần lượt mỗi đêm tôi ngủ với một người. Và suốt cả thời gian đó, cuộc sống đầy hoan lạc đó không hề bị bất cứ một sự buồn phiền nhỏ nhặt nào làm cho gián đoạn.

Cuối năm đó (không gì làm tôi bất ngờ hơn), bốn mươi thiếu phụ đó đáng lẽ đến với tôi vui vẻ như thường ngày, hỏi thăm sức khoẻ... thì một buổi sáng vào phòng tôi, nước mắt chan hoà. Họ lần lượt đến ôm hôn tôi và nói: Vĩnh biệt hoàng tử yêu quí, vĩnh biệt? Chúng em buộc phải xa chàng thôi”.

Nước mắt của các nàng làm tôi xốn xang. Tôi yêu cầu họ cho biết căn nguyên nỗi buồn của họ và sự ly biệt mà họ vừa nói. Tôi nói thêm:

- Nhân danh Thượng đế, các cô em xinh đẹp của tôỉ, hãy cho tôi biết là có thể làm gì để có thể an ủi và giúp ích được các cô em bây giờ?

Đáng lẽ trả lời rõ ràng thì các nàng lại nói:

- Thượng đế chứng giám! Thà là chúng em. chưa hề quen biết chàng! Nhiều người trước chàng cũng đã có dịp tới thăm hỏi chúng em nhưng không một ai có được sự duyên dáng, dịu dàng, trẻ trung vui vẻ và tư cách như chàng. Chúng em chẳng biết rồi đây sẽ phải sống ra sao khi thiếu chàng.

Nói xong câu đó, các nàng lại khóc thảm thiết:

- Các cô nàng đáng yêu của tôi - Tôi nói - Tôi xin các nàng đừng làm cho tôi sầu não hơn nữa, hãy nói ngay cho tôi biết nguyên nhân nỗi đau lòng của các nàng.

- Than ôi! - Các nàng bảo - Còn có điều gì khác làm cho chúng em đau lòng là phải xa chàng nữa đâu? Có thể chúng em chẳng còn bao giờ được thấy chàng nữa? Tuy vậy nếu chàng muốn và vì chuyện này mà tự chủ được bản thân thì không phải là không thể lại gặp được nhau.

- Các nàng? - Tôi lại nói - Tôi chẳng hiểu các nàng muốn nói gì. Xin hãy nói rõ ra xem nào.

- Vậy thì - Một nàng nói - Để làm vừa lòng chàng, em nói cho chàng biết chúng em đều là công chúa, con gái vua. Chúng em cùng nhau sống chung ở đây trong cảnh lạc thú mà chàng thấy đó, nhưng cứ mỗi năm là chúng em phải bắt buộc vắng mặt bốn mươi ngày cho những bổn phận cần thiết không thể nói ra được. Sau đó chúng em sẽ lại trở về đây. Hôm qua là ngày hết năm, hôm nay chúng em phải từ biệt chàng. Vì vậy đó là nguyên nhân nỗi đau buồn của chúng em. Trước khi ra đi, chúng em sẽ để lại cho chàng tất cả những chìa khoá? đặc biệt là chìa khoá cửa của trăm gian phòng mà chàng sẽ thấy trong đó tất cả những thứ hay, lạ khả dĩ có thể thoả mãn óc hiếu kỳ và làm dịu đi nỗi buồn cô đơn của chàng trong thời gian chúng em vắng mặt. Nhưng vì điều tất cho chàng và vì lợi ích riêng của chúng em, xin chàng chớ có đụng tới và mở cái cánh cửa bằng vàng của một phòng đặc biệt trong số một trăm phòng kia. Nếu chàng mà mở ra thì chẳng. bao giờ chúng ta cò thấy lại nhau nữa và chính nỗi lo đó lại càng làm chúng em đau khổ. Chúng em mong là chàng sẽ làm theo lời chúng em căn dặn. Nó quan hệ tới sự an bình, đến hạnh phúc của cuộc sống, chàng hãy thận trọng, nếu chàng để cho tính tò mò thóc mách lấn át thì đó là chàng đã mắc một sai lầm lớn. Chúng em khuyên chàng chớ mắc vào sai lầm đó và để cho chúng em nuôi hy vọàg là sẽ được thấy lại chàng tại đây trong vòng bơn mươi ngày nữa. Chúng em có thể mang theo chìa khoá của cái cửa bằng vàng đó, nhưng sẽ là một sự xúc phạm đối với một hoàng tử đàng hoàng như chàng, là đã nghi ngờ tính kín đáo và sự kiềm chế bản thân của chàng”.

Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng nhìn thấy trời đã sáng. Hoàng đế, tò mò muốn biết là người tu sĩ đó làm gì khi chỉ còn một mình trong lâu đài sau khi bốn mươi thiếu phụ đã ra đi nên tự hẹn đến đêm sau chắc sẽ được làm sáng tỏ.

***
Cô gái hảo tâm Dinarzade thức giấc dậy khá lâu trước khi trời sáng, gọi hoàng hậu:

- Chị ơi, nếu chị không ngủ nứa thì chị nên kể tiếp cho hoàng đế, lãnh chúa của chúng ta nghe câu chuyện mà chị đã bắt đầu đi!

Scheherazade ngoảnh về phía Schahrlar nói:

- Tâu hoàng thượng, Người đã biết là người tu sĩ vẫn kể chuyện mình cho Zobéide nghe. Anh ta kể tiếp như thế này:

“Thưa bà, lời dặn dò của những nàng công chúa xinh đẹp này thực sự làm tôi đâu lòng. Tôi bày tỏ với các nàng là sự vắng mặt của các nàng làm tôi buồn nhớ vô hạn. Tôi hết sức cảm ớn về những lời dặn dò chu đáo. Tôi hứa với họ là sẽ nghe theo và hết sức cố gắng làm những việc khó khăn hơn để có hạnh phúc được sống những ngày còn lại cùng những người đàn bà hiếm có như các nàng. Cuộc chia tay diễn ra đầy lưu luyến. Tôi lần lượt ôm hôn họ. Rồi các nàng ra đi, còn một mình tôi ở lại lâu đài.

Niềm lạc thú trong cuộc sống chung, những bữa tiệc thịnh soạn, các buổi hoà nhạc, những trò vui chơi làm tôi bận rộn suốt cả năm khiến tôi chẳng còn thời gian cũng như chẳng có một chút ý muốn nào xem những kỳ quan có thể đầy đẫy trong cái lâu đài huyền ảo này. Tôi cũng chẳng mảy may chú ý gì đến tất cả những đồ vật đẹp tuyệt vời dưới mắt tôi hàng ngày vì còn mải mê say đắm trước nhan sắc của các thiếu phụ, được nhìn thấy họ chỉ duy nhất quan tâm tới việc làm cho tôi vui thích. Tôi buồn đến nẫu ruột khi họ ra đi và, tuy sự vắng mặt của họ chỉ trong vòng bốn chục ngày, mà tôi tháy như mình phải sống không có các nàng hàng thế kỷ.

Tôi tự hứa với mình là sẽ không quên lời dặn dò quan trọng của họ là không bao giờ được mở cái cánh cửa bằng vàng. Và dường như chỉ cần thế, tôi được phép thoả mãn trí tò mò ở những cánh cửa kia. Tôi cầm lấy chiếc chìa khoá thứ nhất đã được sắp xếp thứ tự.

Tôi mở cánh cửa thứ nhất và đi vào một khu vườn cây ăn quả mà tôi tưởng là trong toàn vũ trụ không có một vườn quả nào so sánh nổi. Tôi cũng không nghĩ là vườn thiên đàng mà đạo giáo chúng ta hứa hẹn với những tín đồ sau khi chết liệu có hơn được thế này không. Tính đối xứng, vẻ sạch sẽ, cách bố trí tuyệt vờl các cây trồng, sự phong phú và sự đa dạng của hàng ngàn loại quả lạ, tươi tốt, đẹp đẽ tất cả làm tôi ngợp mắt. Tôi cũng chẳng được phép bỏ qua để lưu ý với bà, thưa bà, là khu vườn tuyệt diệu này được tưới tắm một cách rất khác thường. Những rãnh nước đứợc đào khéo léo và cân đoí đem nước thật đầy đủ tới rễ các cây đang cần trổ lá non và trổ hoa; những rãnh nước khác thì đưa lượng nước vừa đủ tới gốc những cây đang bắt đầu ra quả; những rãnh khác thì đưa ít nước hơn tới những gốc cây mà quả đã lớn; những rãnh khác chỉ tưới vừa đủ cho những cây mà quả chỉ còn chờ hái xuống thôi. Và những trái cây này cũng to hơn rất nhiều lần so với những quả thường có trong các khu vườn của chúng ta. Còn những mương nước khác dẫn nước cho những cây mà quả đã chín thì chỉ cần vừa đủ độ ẩm để giữ nguyên chất lượng cho quả chưa kịp hái xuống mà thôi.

Tôi ngắm nhìn không biết chán một nơi có phong cảnh đẹp tuyệt vời như thế và không còn muốn rời đi nữa nếu không thấy thoáng qua trong đầu là còn rất nhiều điều kỳ thú mà mình chưa được nhìn thấy. Đi ra khỏi vườn, trong đầu óc đầy những điều kỳ diệu, tôi đóng cửa thứ nhất lại và mở cánh cửa tiếp theo.

Thay cho một vườn cây ăn quả là một vườn trồng hoa, cũng chẳng kém phần đặc biệt về loại vườn này. Vườn gồm có một khoảnh đất rộng được tướí nước không phải theo cách như bên vườn cây ăn quả nhưng công phu hơn nhiều để mỗi loại hoa nhận được nước vừa đủ cho sự sinh trưởng của mình. Hoa hồng, hoa nhài, hoa tím, hoa thuỷ tiên, hoa dạ lài, hoa mẫu đơn, hoa uất kim cương, hoa mao hương, hoa cẩm chướng, hoa huệ và vô vàn những thứ hoa khác mà nếu ở nơi khác thì chỉ nở theo mùa, nhưng ở đây lại cùng lúc nở rộ muôn hồng nghìn tía. Thật không ở đâu sảng khoái bằng ở khu vườn mà không khí thấm đẫm hương thơm này.

Tôi mở cánh cửa thứ ba, đó là một nhà nuôi chim rất rộng. Nền nhà lát đá hoa cẩm thạch đủ các màu sắc, vào loại đá quý nhất và hiếm nhất. Lồng chim bằng gỗ đàn hương và trầm hương. Những chiếc lồng rộng lớn đó chứa vô số những chim hoạ mi, chim kim oanh, chim bạch yến, chim sơa ca và các loại chim khác có tiếng hót thật du dương mà tôi chưa từng thấy người nào nói trong đời. Những chiếc bình đựng hạt và nước uống cho chim đều được làm bằng đá hoa vân và mã não vào loại quí nhất.

Nhà nuôi chim này vô cùng sạch sẽ. Cứ nhìn vào qui mô của nó, tôi ước lượng là phải có không dưới một trăm con ngườì thì mới bảo quản giữ gìn được tinh tươm như vậy. Thế nhưng chẳng thấy có một bóng người nào xuất hiện, cũng như trong các khu vườn mà tôi đã vào thăm không hề có một ngọn cỏ dại, một sự thừa thãi nhỏ nào làm chướng mắt.

Mặt trời đã lặn, tôi trở ra, tai còn vang vang những tiếng hót của muôn loài chim lúc này đang tìm chỡ đỗ thuận tiện nhất để nghỉ đêm. Tôi về phòng riêng và định bụng là sẽ lần lượt mở những cánh cửa khác vào những ngày sau trừ cánh cửa bằng vàng thứ một trăm.

Ngày hôm sau, tôi không quên đi đến mở cánh cửa thứ tư. Nếu những gì mà tôi nhìn thấy ngày hôm trước đã gây cho tôi bao sự ngạc nhiên, thì những gì tôi thấy luc này làm tôi mê mẩn. Tôi đặt chân trong một cái sân rộng, quây xung quanh là một toà nhà với kiến trúc tuyết diệu mà tôi chẳng tả ra đây làm gì để tránh sự dài dòng.

Toà nhà này có bốn chục cửa, mỗi cửa mở đi vào một kho tàng và trong số kho tàng đó có những kho giá trị hơn cả sự giàu có của những vương quốc lớn nhất. Kho thứ nhất chứa hàng núi ngọc trai những viên ngọc quí nhất ngoài mọi sức tưởng tượng, đều to bằng những quả trứng chim bồ câu. Trong kho thứ haí là những viên kim cương, ngọc hồng và ngọc tía. Trong kho thứ ba gồm toàn ngọc bích. Kho thứ tư: vàng thỏi; kho thứ năm: tiền đồng; kho thứ sáu: bạc nén. Hai kho tiếp theo: tiền các loại. Các kho khác chứa ngọc tía, ngọc xanh, ngọc vàng, ngọc mắt mèo, ngọc lam, ngọc vân và tất cả nhũng loại đá quí khác mà ta không biết, rồi mã não, vân thạch và san hô: San hô ở đây có cả một kho đầy không chỉ là cành san hô mà là những cây san hô nguyên vẹn.

Đầy kinh ngạc và khâm phục, sau khi xem tất cả những của cải quý báu đó, tôi thất lên:

- Chà, tất cả các kho tàng của tất cả các quốc gia trên trái đất này nếu được tập họp lại một nơi cũng không thể bằng được những của cải này. Hạnh phúc của ta thật là vô bờ được sở hữu tất cả các kho báu này cùng với các nàng công chúa vô cùng khả ái!

Tôi không ngừng lại, thưa bà, để kể chi tiết tất cả những vật quý hiếm mà tôi thực mục sở thị những ngày tiếp sau. Chỉ nói để bà hay là tôi đã mất không dưới ba mươi chín ngày để mở hết chín mươi chín cánh cửa, để nhìn ngắm tất cả những gì bày ra trước mắt và không còn đủ lời để trầm trồ khâm phục. Duy chỉ còn cánh cửa thứ một trăm thì tôi đã bị ngăn cấm...”.
Ánh sáng ban ngày chiếu rọi vào hậu cung của hoàng đế Ấn Độ đã làm Scheherazade nín lặng. Những câu chuyện này đã làm cho Schahriar vô cùng thích thú nên chẳng có ý nào không muốn nghe tiếp vào hôm sau. Vị quốc vương này đứng lên trong ý nghĩ đó.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:02:58 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 11
--------------------------------------------


Dinarzade cũng nôn nóng chẳng kém gì . Schahriar trong việc muốn biết có gì kỳ lạ bên trong cánh cửa thứ một trăm đã được khoá kín nên thức giấc và cất tiếng gọi hoàng hậu rất sớm:

- Chi ơi, nếu chị không ngủ nũa, xin chị kể nốt câu chuyện kỳ lạ của người tu sĩ thử ba đi.

- Anh ta đã kể tiếp như sau - Scheherazade nói.

“Đang là ngày thứ -bốn mươi, tính từ ngày các nàng công chúa yêu kiều duyên dáng ra đi. Nếu ngày này tôi làm chủ được mình như cần pllải có thì tôi đã là một người sung sướng nhất trongtất cả các người đàn ông trên thế gian này chứ đâu phải là một người khổ sở nhất như bây giờ. Ngày mai các nàng sẽ về tới nơi và niềm vui được thấy lại các nàng lẽ ra phải là cái hãm có hĩệu quả tính tò mò của tôi mới phải, nhưng bởi sự yếu đuối mà tôi không bao giờ ngừng hối hận, tôi đã đầu hàng dưới sự quyến rũ của quỷ sứ nó không cho tôi được yên ổn chút nào cho đến khi tôi tự dấn thân vào con đường khổ ải bắt buộc phải trải qua.

Tôi mở cái cánh cửa tai hoạ mà tôi đã hứa là sẽ không mở. Mới đợm chân bước vào thì một mùi thơm khá dễ chịu nhưng không hợp với tạng người mình đã làm tôi ngã và ngất xỉu. Nhưng rồi tôi tỉnh lại và đáng lẽ tuân theo lời cảnh bảo đó mà đóng cửa lại, từ bỏ mãi mãi cái ý muốn thoả mãn trí tò mò thì tôi lại bước vào. Chờ một lát cho cái mùi hương lạ đó nhạt dần đi, tôl thấy trong người trở lại bình thường.

Đây là một nơi rộng rãi, lợp mái vòm và trên sàn rải rác những củ nghệ. Nhiều cây đèn bằng vàng khối với những thỏi nến đang cháy nồng mùi trầm và xạ hương. Ánh sáng này được bổ sung thêm bằng những chiếc đèn đầu, có nhiều mùi hương khác nhau, bằng vàng và bạc.

Trong số rất nhiều đồ vật thu hút sự chú ý, tôi nhìn thấy một con ngựa màu đen, đẹp và được chế tạo một cách rất tinh xảo ít có trên đời. Tôi đến gần để ngắm thật kỹ: yên ngựa và đây cương ngựa cũng bằng vàng chạm trổ công phu, máng ăn của nó đặt bên cạnh chứa lúa mạch và vừng một bên, bên kia là nước hoa hồng. Tôi cầm đây cương kéo nó ra ngoài để ngắm cho rõ hơn. Tôi nhảy lên lưng và thúc cho nó tiến lên. Vì thấy nó không nhúc nhích, tôi dùng chiếc roi đã nhặt được trong cái chuồng ngựa tráng lệ đó, quật vào mông nó một cái. Tức thì nó hí lên một tiếng khủng khiếp rồi giương đôi cánh, mà tôi không nhận thấy, bay vút lên khoảng không. Tôi chỉ còn cách giữ cương cho thật chặt và mặc dù sợ hãi hết hồn, tôi vẫn không sao cả. Nó hạ thấp đần xuống và đỗ trên sân thượng một toà lâu đài rồi không cho tôi kịp tụt xuống nó rung mình thật mạnh làm tôi ngã bật ra phía sau, và chót đuôi nó chọc thẳng vào mắt bên phải của tôi.

“Đó, vì sao mà tôi thành chột mắt và tôi bỗng nhớ lại lời báo trước của mười chàng trai. Con ngựa tiếp tục giương cánh bay lên mất hút. Tôi nhổm đậy vô cùng đau xót vì tai hoạ mà tự mình đã chuốc lấy. Tôi bước đi. Trên sân thượng, bàn tay bịt lấy con mắt vừa bị chọc thủng đau nhức nhối. Tôi đi xuống và thấy mình đang ở trong một phòng khách quen thuộc vì nhận thấy có mười chiếc bệ bày thành vòng tròn, một chiếc đặt chính giữa thấp hơn một chút. Đây đúng là lâu đài nơi mà tôi đã bị con đại bàng quắp đi trong bộ da cừu.

Mười chàng trai không có mặt trong phòng khách. Tôi ngồi chờ họ và chẳng mấy chốc họ đã đi vào sau ông già. Họ không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy tôi và việc tôi bị chột mắt phải.

Chúng tôi lấy làm tiếc - Họ bảo tôi - là không thể chúc mừng sự trở về của ngài như cách chúng tôi hằng mong ước. Nhưng chúng tôi đâu phải là những người gây nên nỗi bất hạnh của ngài.

- Tôi sẽ rất sai lầm - Tôi đáp - nếu đổ tội cho các ngài về chuyện đó. Đó là tự tôi chuốc lấy thôi. Tôi xin nhận tất cả lỗi lầm về mình.

- Nếu câu “đồng bệnh tương liên” là đúng - Họ lại nói - Thì gương của chúng tôi đây cũng có thể góp một phần an ủi ngài. Tất cả những gì xảy ra với ngài thì chúng tôi cũng đã từng nếm qua. Chúng tôi đã tận hưởng tất cả những lạc thú có ở trên đời suốt một năm tròn, và có lẽ cũng vẫn tiếp tục được hưởng hạnh phúc nếu chúng tôi không dại dột mở cánh cửa bằng vàng trong khi các nàng công chúa đi vắng. Ngài cũng chẳng khôn ngoan gì hơn chúng tôi và ngài cũng đã nhận được sự trừng phạt chẳng khác gì chúng tôi. Chúng tôi rất muốn giữ ngài lại đây để cùng hảnh xác như chúng tôi đang làm chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Nhưng chúng tôi cũng đã từng nói với ngài có nhiều lý do đã ngăn cấm không cho nhận ngài vào nhóm được. Vậy thì ngài hãy đi đi, đi tởí tận triều đình Bagdad? ở đó ngài sẽ thấy ai là người quyết định số phận của ngài.

Họ chỉ vẽ cho tôi đường phải đi, và thế là tôi từ biệt họ.

Dọc đường di, tôi đã cạo râu tóc; lông mày và khoác áo tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi. Tôi đi rất lâu. Cuối cùng thì ngày hôm nay đã tới thành phố này vào lúc chập tối. Tôi gặp ở cổng thành người tu si này, đồng đạo của tôi. Cả ba người đều hết sức ngạc nhiên thấy cùng bị chột bên mắt phải. Nhưng chúng tôi chưa có thời gian để hỏi han nhau về cái tai nạn chung đó. Thưa bà, chúng tôi chỉ còn đủ thời gian để đến đây nài xin sự giúp đỡ và đã được bà gia ân một cách thật hào hiệp.

Tu sĩ khổ hạnh thứ ba đã kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh và cả hai người tu sĩ kia:

- Các ngài hãy đi đi, cả ba ngài đều được tự do, muốn đi đâu tuỳ ý.

Nhưng một trong ba người nói:

- Thưa bà, xin miễn thứ cho chúng tôi vì tính tò mò, hãy để cho chúng tôi được nghe chuyện của các ngài kia, họ còn chừa được nói.

Người thiếu phụ bèn quay sang phía hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour mà nàng chưa biết là những người như thế nào, bảo họ:

- Bây giờ đến lượt các ngài kể chuyện mình cho tôi nghe. Hãy kể đi?

Tể tướng Giafar vẫn là người phát ngôn, lải trả lờị Zobéide:

- Thưa bà, để vâng theo lời bà, chúng tôi chỉ xin nhắc lại điều mà chúng tôi đã nói trước khi vào quý xá. Chúng tôi ông nói tiếp - là những thương nhân ở Mossoul đến Bagdad để thương lượng mua bán hàng. Hiện nay hang hoá của chúng tôi còn để ở khọ một trang trại mà chúng tôi tạm trú. Ngày hôm nay chúng tôi đã tiệc tùng với rất nhiều đồng nghiệp tại một nhà buôn ở thành phố. Ông này sau khi chiêu đãi chúng tôi thật thịnh soạn, đã cho gọi một đoàn vũ nữ và vũ công cùng với các ca sĩ và nhạc công tôi giúp vui. Những tiếng ồn do chúng tôi gây ra đã làm cho lính tuần tra kéo đến bắt giữ nhiều người. May mắn, chúng tôi đã trốn thoát, nhưng vì đêm đã khuya, cổng trang trại đã đóng kín nên chúng tôi chẳng biết về đâu. Tình cờ đi qua phố này, nghe thấy tiếng đàn hát vui chơi trong nhà nên đánh bạo gõ cửa. Đó, thữa bà, chuyện của chúng tôi chỉ có thế xin được thuật lại theo lệnh của bà.

Zobéide nghe xong dường như lưỡng lự chưa biết xử trí thế nào. Các tu sĩ nhận thấy, xin nàng đối xử với ba nhà buôn ở Mossoul cũng có độ lượng như đối với họ.

- Thôi được - Nàng bảo họ - Ta đồng ý. Ta muốn là mọi người đều được đối xử như nhau. Ta tha cho các người nhưng với điều kiện là tất cả phải lập tức ra khỏi nhà này và đi đâu thì tuỳ ý.

Zobéide ra lệnh đó với thái độ tỏ ra bắt mọi người phải tuân theo. Nhà vua, tể tướng, Messoul, ba tu sĩ và anh khuân vác đi ra không một tiếng phàn nàn vì sự có mặt của bảy tên nô lệ vũ trang khiến họ chẳng dám ho he. Khi đã đi ra ngoài và cửa toà nhà đã đóng lại, hoàng đế vẫn chưa để lộ hình tích, bảo những tu sĩ:

- Các ngài là những người lạ và mới tôi thành phố này, bây giờ định đi đâu, trời thì chưa sáng hẳn?

- Thưa ngài - Họ đáp - Đó là điều làm chúng tội lung túng.

- Thế thì hãy theo chúng tôi - Nhà vua tiếp – Chúng tôi sẽ giúp các ngài thoát khỏi khó khăn.

Rồi ông quay sang bảo tể tướng:

- Ngươi hãy đưa họ về nhà ngươi và sáng mai dẫn họ đến chỗ ta. Ta muốn cho chép lại những câu chuyện của họ. Những chụyện đó đáng được ghi vào biên niên triều đại ta.

Tể tướng Giafar dẫn theo mình ba tu sĩ. Anh khuân vác thì đi về nhà. Còn hoàng đế có Mesrour hộ giá trở về hoàng cung. Ông đi nằm nhưng không sao nhắm được mắt, đầu ỏc còn bị bao nhiêu những chuyện kỳ lạ mắt nhìn thấy, tai nghe thấy chi phối. Ông băn khoăn nhất không rõ Zobéide là người như thế nào, vì sao mà nàng lại hành hạ đã man hai con chó mực cái và vì sao mà Amine lại có bộ ngực đầy sẹo. Trời sáng rõ rồi mà đầu óc ông vẫn bận rộn vì những ý nghĩ đó. Ông đứng lên và đi ra thiết triều, ngồi lên ngai.

Tể tướng tới sau một lát và chúc tụng nhà vua như thường lệ. Hoàng đế bảo:

- Tể tướng này, công việc cần phải giải quyết hôm nay không có gì cấp bách lắm mà việc ba thiếu phụ và hai con chó mực cái còn gấp hơn nhiều. Ta không thể nào ăn ngon ngủ yên khi chưa được biết rõ tất cả bao nhiêu chuyện làm ta sửng sốt. Nhà ngươi hãy đi triệu tất cả các thiếu phụ ấy và cả các tu sĩ khổ hạnh nữa tới đây cho ta. Đi đi, và nhớ là ta nóng lòng chờ đợi nhà ngươi trở về đấy.

Tể tướng biết rất rõ tính tình sôi nổi và nôn nóng của chủ mình nên vội vã chấp hành. Ông tới nhà các thiếu phụ, thẳng thắn trình bày với họ lệnh của hoàng đế triệu họ mà không nói gì tới chuyện gì đã xảy ra tại nhà họ đêm hôm trước.

Các thiếu phụ lấy mạng che mặt và đi cùng với tể tướng, ông này tạt qua nhà mình và dẫn luôn cả ba tu sĩ cùng đi. Các tu sĩ đã có thời gian để biết rõ là mình vô tình đã được tiếp xúc với hoàng đế.

Tể tướng dẫn cả bọn vào hoàng cung coi như đã làm tròn nhiệm vụ. Hoàng đế rất hài lòng về sự mau lẹ này. Để giữ lịch sự trước triều thần có mặt lúc đó, nhà vua đã cho các thiếu phụ đứng sau cửa căn phòng dẫn tới hậu cung và giữ ba tu sĩ lại bên cạnh mình. Vẻ cung kính của ba chàng tỏ ra là họ đã biết mình đang đứng trước mặt ai.

Sau khi các thiếu phụ đã yên vị, hoàng đế ngoảnh về phía họ bảo:

- Thưa các bà, nói để các bà biết là tôi đã cải trang thành thương nhân và được vào nhà các bà tối hôm đó. Chắc các bà lo sợ, cho là vì có điều gì xúc phạm đến ta mà đã được gọi tới đây để bị xử phạt. Nhưng xin cứ yên tâm. Hãy tin rằng ta đã quên tất cả những gì thuộc về quá khứ và còn rất hài lòng về cách xử sự của các bà. Ta ước sao tất cả phụ nữ của thành Bagdad này cũng đều khôn ngoan lịch thiệp như các bà mà ta đã được chứng kiến. Ta luôn luôn nhớ tới thái độ ôn hoà của các bà trước hành vi thiếu lịch sự của chúng ta. Lúc đó ta là thương nhân ở Mossoul, nhưng bây giờ đây ta là Haroun Alraschid, hoàng đế thứ năm của triều đại Abbas quang vinh, đang trị vì thay thế cho đấng tiên tri vĩ đại của chúng ta. Ta triệu các bà tới đây, đơn thuần chỉ muốn biết các bà là ai và cũng để hỏi xem vì sao mà một trong các bà, sau khi hành hạ hai con chó mực cái, lại khóc lóc cùng với chúng. Ta cũng lại còn muốn biết vì sao một bà lại có bộ ngực đầy vết sẹo.

Mặc dù hoàng đế nói những lời trên đây rất rõ rang rành mạch và các thiếu phụ đều nghe chăm chú nhưng tế tướng Giafar, với vẻ thật trịnh trọng vẫn nhắc lại các câu trên cho các bà nghe...”

- Nhưng, tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Trời sáng mất rồi. Nếu hoàng thượng còn muốn nghe tiếp thì Người sẽ lại phải cho thiếp sống đến ngày mai thôi. Hoàng đế gật đầu đồng ý, chắc là Scheherazade sẽ kể cho nghe. chuyện nàng Zobéide mà ông chẳng phải là không muốn nghe.

***

- Chị thân yêu của em - Dinarzade kêu chị lúc sắp tàn đêm - Nếu chị không còn ngủ nữa, thì xin chị nói về Zobéide vì em chắc là bà thiếu phụ này thể nào cũng kể chuyện của mình với nhà vua.

- Đúng vậy em ạ - Scheherazade đáp - Khi nhà vua đã nói cho bà ta yên tâm như vừa rồi thì người thiếu phụ này cũng đáp ứng yêu cầu của nhà vua và trình bày như sau:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:04:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12

CHUYỆN KỂ CỦA NÀNG ZOBÉIDE


- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Nàng nói - Chuyện tôi kể hầu Người sau đây là một trong các chuyện kỳ lạ nhất chưa ai từng nghe nói. Hai con chó mực cái và tôi vốn là ba chị em cùng một cha mẹ sinh ra. Tôi sẽ kể Người nghe vì cơn cớ gì mà họ lại hoá thành chó.

Hai thiếu phụ ở cùng với tôi và hiện đang có mặt tại đây cũng là chị em của tôi nhưng cùng cha khác mẹ. Cô em mà ngực đầy vết sẹo tên là Amine, cô kia có tên là Safie, còn tôi là ZobéiDe.

Sau khi cha chúng tôi tạ thế, của cải ngườI để lại được chia đều cho mọi người chúng tôi. Sau khi nhận phần của mình, hai cô em này chIa tay nhau và mỗi cô đều về sóng với mẹ đẻ của mình. Hai người chị và tôi ở lại sống với mẹ. Sau đó mẹ chúng tôi qua đời để lại cho chúng tôi mỗi người một nghìn đồng sequins.

Khi mọi người chúng tôi đã nhận đủ phần tài sản của mình thì hai chị tôi (tôI là em út) thành gia thất đi theo chồng và để tôI ở LạI một mình. Sau hôn nhân một thời gian ngắn thì người chồng của chị cả tôi bán đi tất cả gia sản, đồ đạc nhà cửa rồi cả haI vợ chồng sang sinh sống bên châu Phi. Tại đây, người chồng tiêu xài hoang phí, rượu chè trai gái nên chẳng bao lâu mà vốn liếng của anh ta và vốn riêng của chị tôi hết sạch. Cuối Cùng, thấy mình hoàn toàn khánh kiệt, anh ta kiếm cớ ruồng rẫy vợ và đuổi chị đi. Chị tôi trở về Bagdad, trải bao gian nan khổ ải trong một chuyến đi dài, chị về trú ngụ tại nhà tôi trong tình trạng vô cùng đáng thương, làm xót xa đến cả những tấm lòng cứng rắn. Tôi đón nhận chị với tất cả sự yêu thương mà chị có thể chờ đợi ở tôi. Tôi hỏi chị nguyên nhân của hoàn cảnh khốn khổ này. Chị khóc kể cho tôi nghe hạnh kiểm xấu xa của chồng và sự đối xử tàn tệ của hắn đối với chị. Tôi rất xúc động về nỗi bất hạnh của chị và cũng không sao cầm được dòng nước mắt thương cảm. Tôi bảo chị đi tắm rửa, đưa cho chị quần áo của tôi để chị thay và bảo chị: “Chị của em, chị là chị cả, em coi chị như mẹ. Khi chị rời đây đi theo chồng thì với phần tài sản được chia, nhờ ơn Thượng đế, em đã dùng số vốn ít ỏi đó chăn nuôi tằm và đã ăn nên làm ra. Xin chị hãy coi tất cả những gì em có đây như là của chị, chị muốn sử dụng ra sao tuỳ ý.

Trong nhiều tháng liền, chúng tôi sống với nhau thật hoà thuận. Chúng tôi thường luôn luôn trao đổi chuyện trò về người chị thứ hai và rất lấy làm ngạc nhiên là tuyệt nhiên không có một tin tức nào. Thì ra chị ấy cũng lâm vào hoàn cảnh đáng phàn nàn chẳng khác gì chị cả. Chồng của chị cũng đối xử với chị tàn tệ như thế. Và tôi lại đón nhận chị cũng đầy tình thân ái như thế.

Một thời gian sau hai bà chị của tôi, dưới cớ không muốn là gánh nặng cho tôi mãi, tỏ ý muốn tái giá. Tôi trả lời hai chị là nếu họ không có lý do gì ngoài ý cho mình là gánh nặng cho tôi thì xin cứ yên tâm sống cùng tôi, là vốn liếng của tôi cũng đủ chu cấp cho cả ba một cuộc sống chẳng đến nỗi thiếu thốn. Nhưng - tôi nói thêm - em sợ là các chị có ý muốn đi bước nữa. Nếu thực là như thế, thì thú thật là em vô cùng ngạc nhiên. Sau kinh nghiệm mà các chị vừa trải qua trong cuộc hôn nhân chẳng tất đẹp gì, chẳng lẽ các chị còn muốn sa vào lần thứ hai? Các chị cũng chẳng còn lạ gì là tìm được một người đàn ông chân chính bây giờ thật vô cùng khó khăn. Hãy tin em đi, chúng ta hãy tiếp tục cuộc sống chung với nhau như thế này, há chẳng phải là ấm cúng dễ chịu sao!

Tất cả những lời chân tình tôi nói với họ đều hoàn toàn vô ích. Họ đã quyết định lại đi lấy chồng và họ thực hiện quyết định đó. Nhưng, chỉ vài tháng sau họ lại quay về thiết tha xin lỗi là đã không nghe theo lời khuyên của tôi.

- Em là em út của các chị - Họ bảo tôi - Nhưng em khôn ngoan hơn các chị nhiều. Nếu em lại vui lòng đón nhận các chị và coi các chị như những nô lệ của em thì các chị sẽ chẳng bao giờ mắc sai lầm như thế nữa.

- Các chị yêu quý! - Tôi đáp - Kể từ ngày các chị chia tay mới đây, em vẫn một lòng thương yêu, chẳng có gì thay đổi đối với các chị cả. Các chị hãy trở về đây và cùng chung hưởng với nhau những gì mà em sở hữu.

Tôi ôm hôn họ và chúng tôi lại cùng chung sống với nhau như trước đây.

Được một năm, chúng tôi sống trong tình đoàn kết và được Thượng đế phù hộ cho cái vốn liếng nhỏ nhoi của mình phát triển. Tôi nảy ra ý định làm một chuyến đi biển và thử vận may trong buôn bán. Vì vậy tôi và hai chị chuyển đến Balsora mua một con tàu đầy đủ trang thiết bị, chất đầy hàng mà tôi cho chở tới từ Bagdad. Giương buồm và được thuận gió, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã qua Vịnh Persique. Ra khơi, chiếu thẳng sang Ấn Độ và sau hai chục ngày lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi đã nhìn thấy đất liền. Đó là một ngọn núi rất cao, dưới chân núi một thành phố có vẻ ngoài thật trù phú.

Vì đang thuận gió nên chúng tôi cặp bến sớm và thả neo.

Không đủ kiên nhẫn đợi các chị trang điểm và sửa soạn đi theo, tôi xuống tàu một mình và đi thẳng vào thành phố. Tôi thấy một đám đông, người thì ngồi, người thì đứng, mỗi người trong tay đều cầm một cái gậy, tất cả đều có vẻ mặt xấu xí khủng khiếp khiến tôi hoảng sợ. Nhưng nhận thấy tất cả đều im lìm bất động và ngay cả đồng tử mắt cũng không động đậy, tôi vững dạ tiến đến gần hơn và thấy đó là những con người đã hoá đá.

Tôi đi vào trong thành, qua nhiều đường phố mà từng quãng từng quãng lại có những người trong đủ các tư thế nhưng đều bất động vì đã hoá đá. Ở khu vực buôn bán, phần lớn các quán hàng đều đóng cửa, còn trong số ít những quán cửa mở thì những người ở đó cũng đều đã hoá đá. Ngước mắt lên nhìn những ống khói các bếp, không nhìn thấy khói toả, tôi đoán là tất cả những ai ở trong nhà cũng như những người ở bên ngoài đều hoá đá rồi.

Đến trước một công trường lớn ở giữa thành phố, tôi phát hiện ra một cái cổng lớn hai cánh để mở dát những tấm vàng ròng. Phía trước có một tấm rèm lụa rủ xuống và một cái đèn treo ngay phía trên cổng. Sau khi ngắm kỹ toà nhà, tôi không chút nghi ngờ đó là cung điện của một vị quốc vương trị vì xứ sở này. Nhưng vô cùng kinh ngạc là không gặp một sinh vật nào mà tôi thì hy vọng là tại đây có thể thấy một người nào đó. Tôi nâng bức rèm lên và lại càng kinh ngạc khi chỉ nhìn thấy dưới tiền đình một vài người gác cổng hoặc tuần canh đều đã hoá đá, người đứng, kẻ ngồi hoặc nửa nằm nửa ngồi.

Tôi đi qua một cái sân lớn có rất đông người. Những người này thì hình như đang đi, những người kia đang đến và chẳng ai nhúc nhích vì họ đều hoá đá như tất cả những người đã gặp. Tôi đi qua một cái sân thứ hai rồi đến cái sân thứ ba, mọi chỗ đều cô quạnh, im lặng đến rùng rợn.

Tiến tới một cái sân thứ tư, tôi nhìn thấy ngay trước mặt mình một đinh thự lộng lẫy mà các cửa sổ đều đóng các tấm lưới bằng vàng khối. Đoán đó là nơi ở của hoàng hậu, tôi đi vào. Trong một căn phòng thấy rất nhiều hoạn nô da đen đã hoá đá. Bước tiếp đến một căn phòng bài trí lộng lẫy, tôi thấy một bà mệnh phụ cũng đã hoá đá. Tôi biết đó là hoàng hậu vì trên đầu có vương miện bằng vàng và một chuỗi ngọc trai rất tròn và lớn hơn hạt dẻ. Tôi ngắm nghía thật gần và thấy chưa từng nhìn được một thứ nào đẹp hơn.

Tôi ngắm nhìn một lát tất cả những sự giàu có và sang trọng trong căn phòng này nhất là chiếc thảm chùi chân, những tấm gối dựa và chiếc sập trải tấm vải Ấn Độ thêu chỉ vàng với những hình người và vật thêu sợi bạc vô cùng tinh xảo.”
Scheherazade đáng lẽ còn tiếp tục kể nếu không thấy tia sáng bình minh đã len lỏi vào phòng ngủ. Hoàng đế say sưa nghe chuyện. Ông đứng lên tự bảo: ta cần phải biết cái chuyện những con người hoá đá lạ lùng này rồi sẽ đi tới đâu.

***


Dinarzade rất thích thú về đoạn đầu chuyện nàng Zobéide nên đã không quên kêu hoàng hậu trước khi trời sáng:

- Chị ơi? Nếu chị đã thức thì hãy kể tiếp cho em biết là Zobéide còn nhìn thấy những gì trong cái cung điện kỳ lạ mà bà ta đã đi vào.

- Người thiếu phụ này - Scheherazade nói - đã kể tiếp chuyện của mình với hoàng đế như sau:

- Tâu bệ hạ - Nàng kể - Từ phòng hoàng hậu hoá đá, tôi đã qua rất nhiều buồng và các phòng trong cung điện. Các nơi này đều rất sạch sẽ và tráng lệ. Cuối cùng tôi đến một căn phòng to rộng khác thường, ở đó có một bệ bằng vàng khối cao mấy bậc và có đính những viên ngọc bích rất to. Trên bệ đặt một chiếc giường trải gấm viền ngọc trai. Điều làm ngạc nhiên và khâm phục hơn cả là thấy có một luồng sáng chói ngời phóng ra từ phía chiếc giường đó. Tò mò muốn biết rõ sự tình, tôi trèo lên, nghển đầu nhìn thấy trên chiếc ghế đẩu một viên kim cương to bằng trứng đà điểu hoàn mỹ đến mức không thấy một vệt nhỏ nào trên mình nó. Viên kim cương phát sáng làm mắt tôi bị chói loà.

Hai bên đầu giường có hai cây đuốc thắp không rõ để làm.gì. Dù sao trong hoàn cảnh như vậy cũng khiến tôi đoán là có một ai đó sống trong cái cung điện nguy nga tráng lệ này vì những cây đuốc không thể tự nó thắp sang được. Rất nhiều những cái khác thường đã giữ tôi dừng lại ở căn phòng này, chỉ riêng viên kim cương mà tôi vừa nói cũng đã là vô giá.

Cũng vì tất cả các cửa đều để ngỏ hoặc chỉ khép hờ nên tôi đã đi vào những phòng khác cũng đẹp và sang trọng như những phòng tôi đã qua. Tôi đi đến tận các nhà bếp và các kho chứa đồ đầy ắp những của cải và mải chú ý tới tất cả những kỳ quan đó mà quên khuấy cả bản thân mình. Tôi chẳng còn nghĩ gì đến con tàu cũng như các chị mình mà chỉ nghĩ tới làm sao cho thoả trí tò mò. Nhưng đêm đang tới nhắc tôi là đã đến giờ rút ra về. Tôi muốn quay lại con đường qua các khoảng sân mà từ đó tôi đã đi nhưng chẳng phải dễ dàng gì mà tìm lại được. Tôi đi lạc trong các phòng và thấy mình lại vào căn phòng to rộng ở đó có cái bệ cao, cái giường, viên kim cương khổng lồ và những cây đuốc thắp sáng. Tôi quyết định qua đêm ở đây và sáng sớm mai sẽ tìm đường về con tàu của mình. Tôi đặt mình xuống glường không khỏi rùng mình sợ hãi thấy trơ trọi một mình ở một nơi hoang phế như thế này và chắc là vì sự sợ hãl đã làm tôi không sao mà ngủ được.

Vào khoảng nửa đêm bỗng tôi nghe thấy như tiếng một người đàn ông đọc kinh Coran, cũng giống kiểu cách và giọng đọc như chúng ta thường đọc trong đền thờ đạo Hồi của chúng ta. Điều này làm tôi vui mừng hết sức. Tôi lập tức bật dậy cầm lấy một cây đuốc để soi đường. Tôi đi từ phòng này sang phòng khác về phía nghe thấy tiếng nói đó vọng lại. Dừng lại trước cửa một phòng mà tôi thấy không thể nhầm được là tiếng nói phát ra từ trong đó. Tôi đặt cây đuốc xuống đất nhìn qua khe cửa thấy căn phòng như một nơl rao giảng. Đúng vậy, cũng như trong đền thờ của chúng ta, có một cái khám để các tín đồ quay vào cầu nguyện, những ngọn đèn treo thắp sáng và hai chân đèn với những cây nến trắng to cũng đang cháy sáng.
Tôi cũng nhìn thấy một cái thảm nhỏ trải sẵn theo cách như ở chúng ta để đặt mình lên trên và cầu kinh. Một người trẻ tuổi vẻ mặt hiền từ đang ngồi trên tấm thảm, chăm chú đọc quyển kinh Coran đặt trên một chiếc giá nhỏ trước mặt. Nhìn thấy vậy, lòng tràn đầy ngưỡng mộ, tôi tự hỏi trong đầu làm sao lại có thể chỉ còn một mình anh ta sống trong một thành phố mà tất cả mọi người đều đã hoá đá và chẳng còn nghi ngờ gì nữa là trong chuyện này có một cái gì đó kỳ quặc khác thường.
Vì cửa chỉ khép hờ nên tôi đẩy ra, bước vào và đứng thẳng người trước khám, xướng to lời cầu nguyện: “Ngợi ca Thượng đế đã phù hộ cho chúng con được thuận buồm xuôi gió. Xin Người hãy ban phúc lành và che chở cho chúng con như thế cho đến lúc về lại nước nhà. Xin hãy nghe và chấp nhận lời cầu xin của chúng con”.

Chàng thanh niên đưa mắt nhìn tôi nói:

- Thưa quý bà, xin cho biết quý bà là ai và việc gì đã đưa bà tới cái thành phố ảm đạm này. Để đáp lại, tôi sẽ cho bà biết tôi là ai, có gì đã xảy ra với tôi và vì lý do gì mà toàn bộ dân cư thành phố này lại lâm tới tình trạng mà bà đã thấy và vì sao chỉ có riêng một mình tôi đã được an toàn vô sự trong cái cảnh tàn phá khủng khiếp này.

Tôi kể tóm tắt cho chàng ta nghe tôi từ đâu tới, điều gì đã khiến tôi làm cuộc hành trình này và đã may mắn cập bến sau hai chục ngày lênh đênh trên sóng nước như thế nào. Khi kể xong, tôi yêu cầu chàng ta thực hiện lời đâ hứa và cũng nói lên sự xúc động của mình vì cảnh tượng bi thảm của tất cả những nơi tôi đã đi qua.

- Thưa quý bà - Chàng trẻ tuổi nói - Xin hãy kiên nhẫn một chút.

Nói xong, chàng khép cuốn kinh Coran lại, cho vào một cál túi quí và đặt vào trong khám. Tôi lợi dụng khoảnh khắc này để ngắm kỹ chàng trai trẻ và thấy chàng thật đẹp và duyên dáng khiến tôi thấy lòng mình rung động, một tình cảm trước đây chưa từng có. Chàng bảo tôi ngồi bên cạnh mình, và trước khi chàng bắt đầu câu chuyện, tôi không ngăn được để nói với chàng tình cảm mà chàng đã gợi lên cho tôi:

- Hơi chàng trai quý mến và thân thương! Không ai có thể nôn nóng hơn tôi lúc này là đang chờ đợi một lời làm sáng tỏ về biết bao nhiêu sự kiện kỳ lạ đập vào mắt tôi ngay từ bước đầu tiên tôi đi vào thành phố của chàng mà óc hiếu kỳ của tôi chưa được thoả mản. Xin chàng hãy nói đi; hãy cho tôi biết nhờ có phép màu nào mà chỉ duy nhất có chàng còn sống giữa bao nhiêu con người đã chết một cách dị thường”.

Scheherazade đến đoạn này thì ngừng lại và nói với Schahriar:

- Tâu bệ hạ, chắc là Người chưa nhận thấy là trời vừa sáng. Nếu thiếp tiếp tục kể e là mang tiếng lợi dụng sự quá tập trung chú ý của Người.

Hoàng đế đứng lên, quyết định đêm sau sẽ nghe nốt câu chuyện đặc biệt kỳ lạ này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:05:35 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 12
--------------------------------------------

- Chị ơi, nếu chị đã thức giấc - Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng ngày hôm sau - thì em xin chị kể tiếp những gì đã xảy ra giữa nàng Zobélde và chàng trai trẻ nàng gặp trong toà cung điện mà chị tả lại là rất đẹp đó.

- Chị sẽ làm vui lòng em ngay đây - Hoàng hậu nói.

“ Zobéide kể tiếp câu chuyện của nàng như sau:

- Thưa bà - Chàng trẻ tuổi đó bảo tôi - Tôi thấy là bà biết rõ đấng Thượng đế chán chính qua lời cầu nguyện vừa rồi. Bà sẽ nghe một chuyện sau đây nó làm rõ sự vĩ đại và quyền lực của Người. Tôi xin nói thành phố này là kinh đô của một quốc gia hùng mạnh mà quốc vương cha tôi mang tên. Vị quốc vương này, cả triều đình của ông, dân cư trong thành phố và tất cả các bầy tôi của ông đều là các đạo sĩ pháp sư, thờ thần lửa và thần Nardoun, cựu vương của những người khổng lồ chống lại Thượng đế.

Mặc dù sinh ra từ cha mẹ theo tà giáo, tôi đã có may mắn là trong thời thơ ấu có gia sư bảo mẫu là một phụ nữ hiền hậu theo đạo Hồi thuộc lòng kinh Coran và thuyết giảng thật là hoàn hảo. Bà thường luôn luôn bảo tôi: “Hoàng tử thân yêu? Chỉ có một đấng Thượng đế chân chính mà thôi. Nhớ là không được thừa nhận và tôn thờ các vị khác”. Bà dạy tôi đọc chữ A-rập và tôi tập đọc ngay ở quyển kinh Coran mà bà đưa cho. Khi tôi bắt đầu hiểu biết, bà giảng giải cho tôi tất cả những điểm hay về mọi mặt trong quyển sách hoàn hảo đó và làm cho tôi thấm nhuần tinh thần đạo Hồi giấu vụng cha tôi và tất cả mọi người. Bà tạ thế, nhưng cũng đã kịp trao cho tôi những kiến thức cần thiết để hoàn toàn tin tưởng vào chân lý của đạo Hồi. Từ khi bà mất, tôi vẫn ghi nhớ được những điều dạy bảo của bà và ghê sợ tà thần Narđoun và các tín đồ tôn thờ thần lửa.

Cách đây ba năm ba tháng, một giọng nói bất thần vang lên khắp thành phố mọi người nghe rõ từng lời: “Hỡi nhân dân, hãy từ bỏ sự phụng thờ Nardoun và thần lửa. Hãy tôn thờ Thượng đế duy nhất bác ái nhân từ”.

Cũng giọng nói đó vang lên suốt ba năm liền, nhưng không một ai cải đạo. Ngày cuối cùng của năm thứ ba vào khoảng ba, bốn giờ sáng, toàn thể dân cư đều hoá đá trong chốc lát, môi người ở một tư thế đúng như lúc đó. Quốc vương cha tôi cùng chung một số phận: ông biến thành đá đen như đã thấy ở một chỗ trong hoàng cung, và hoàng hậu mẹ tôi cũng thế.

Tôi là người duy nhất mà Thượng đế không giáng đòn trừng phạt khủng khiếp. Từ ngày đó tôi tiếp tục phụng sự . Người với tấm lòng nhiệt thành chưa từng thấy, và thưa quý bà xinh đẹp, tôi tin là Người đã phái bà tới đây để an ủi tôi. Tôi xin tỏ lòng vô cùng biết ơn Người vì, xin thú thực với bà là cuộc sống cô đơn này đã làm cho tôi vô cùng buồn nản”.

Tất cả câu chuyện và nhất là những lời nói về cuối này làm tình cảm của tôi đối với chàng càng thêm nồng đậm.

Thưa hoàng tử - Tôi nói với chàng - Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính đấng Tối cao đã run rủi tôi đến đây để được gặp chàng và để đưa chàng ra khỏi cái chốn đầy tang tóc này. Con tàu đã đưa tôi đến đây cũng đủ để làm cho chàng tin là tôi cũng có chút tiếng tăm ở Bagdad mà tại đó tôi còn có một tài sản khá lớn. Tôi mạo muội xin hiến chàng một chỗ trú chân cho tới khi đức Thống lĩnh các tín đồ, đại diện của đấng tiên tri vĩ đại mà chàng đã biết, nhận ra chàng và ban cho mọi vinh dự mà chàng xứng đáng. Vị quốc vương danh tiếng này ngự ở Bagdad, chẳng mấy chốc sẽ biết chàng tới kinh đô của Người, sẽ cho chàng biết là sẽ chẳng uơng công khi cầu xin sự ủng hộ của Người. Không thể nào mà chàng còn ở lại lâu hơn nữa trong một thành phố mà mọi vật đều làm cho chàng không chịu nổi. Con tàu của tôi sẵn sàng phục vụ chàng và chàng có thể sử dụng nó một cách tự do tuyệt đối.

Hoàng tử nhận lời và chúng tôi bàn bạc với nhau về việc rời đi qua nốt phần đêm còn lại.

Tảng sáng hôm sau, chúng tôi rời cung điện đi ra bến cảng. Các chị tôi, người thuyền trưởng và các nô lệ của tôi đều đang rất lo lắng về tôi. Sau khi giới thiệu các chị tôi với hoàng tử, tôi kể cho các chị lý do vì sao không về được tàu ngày hôm trước, cuộc gặp gỡ hoàng tử trẻ, câu chuyện của chàng và nguyên nhân của tai hoạ cho một thành phố tráng lệ như vậy.

Các thuỷ thủ phải mất nhiều thì giờ để dỡ hàng mà tôi đã mang theo và thay thế bằng hàng chất lên là những thứ quí nhất trong cung điện bằng đá quí, bằng vàng và bằng bạc. Chúng tôi phải để lại những đồ gỗ và vô số những đồ đạc bằng vàng bạc vì không mang đi xuể. Có lẽ cần phải rất nhiều tàu mới chở hết các tài sản có trước mắt.

Sau khi xếp lên tàu những thứ muốn mang theo, chúng tôi lấy thêm thực phẩm và nước ngọt. Về lương thực, thì hãy còn nhiều vì đã tiếp tế ở Balsora. Cuối cùng, chúng tôi giương buồm trong chiều gió thuận đúng như mong ước”.

Kể đến đây, trời vừa hửng sáng. Scheherazade ngừng lại, còn hoàng đế chẳng nói gì, đứng lên. Nhưng ông tự hứa với mình là sẽ nghe đến cuối câu chuyện của Zobéide và chàng hoàng tử trẻ tuổi đó đã được sống sót thật thần kỳ.

***

Vào lúc tàn đêm hôm sau, Dinarzade nóng lòng muốn biết chuyến tàu trở về ra sao, gọi hoàng hậu:

- Chị ơi. Nếu chị đã thức, em xin chị hãy kể nốt chuyện hôm qua. Chị hãy cho em hay là chàng hoàng tử trẻ và Zobéide có thuận buồm xuôi gió về tới Bagdad không.

- Rồi em sẽ rõ thôi, em ạ - Scheherazade nói – Zobéide vẫn nói với hoàng đế, kể tiếp như sau:

“ - Tâu bệ hạ - Zobéide nói - Chàng hoàng tử trẻ, hai chị thiếp và thiếp hằng ngày đàm đạo thật vui vẻ ấm áp. Nhưng, than ôi! Sự đoàn kết hoà thuận của chúng tôi kéo dài chẳng được bao lâu. Những bà chị tỏ ra ghen tức vì nhận thấy giữa hoàng tử và tôi thể hiện có tình cảm đặc biệt với nhau, và một hôm hỏi tôi vẻ ranh mãnh là sẽ làm gì với hoàng tử khi về tới Bagdad. Tôi thấy rõ là đặt ra câu hỏi đó, các bà chị muốn thăm dò tình cảm của tôi. Vì vậy, làm ra vẻ vui đùa, tôi trả lời họ là sẽ lấy chàng hoàng tử làm chồng. Rồi quay về chàng tôi bảo: “Xin hoàng tử hãy đồng ý. Về tới Bagdad em muốn tự hiến mình cho chàng để trở thành nô lệ của chàng, hầu hạ chàng và công nhận chàng là ông chủ tuyệt đối của em”. - “Thưa bà - Hoàng tử đáp Không rõ có phải đây chỉ là một lời đùa vui hay không, nhưng về phía mình? tôi xin tuyên bố rất nghiêm chỉnh trước mặt các bà chị của bà đây, là tôi rất vui lòng nhận sự dâng hiến của bà, không phải để coi bà như một nô tì, nhưng mà là phu nhân của tôi, bà chúa của tôi, và hứa là sẽ không có bất cứ một sự lấn lướt nào trong mọi hành động của mình”. Các chị tôi biến sắc mặt khi nghe những lời trên đây và tôi nhận thấy là từ đó thái độ của họ đối với tôi không còn như trước.

Chúng tôi đã tới vịnh Persique, đang tiến tới gần Balsora, và với gió thuận như lúc này, tôi hy vọng là trong ngày mai sẽ tới bến này. Nhưng trong đêm, lợi đụng lúc tôi ngủ say, các chị tôi đã khiêng tôi lẳng xuống biển. Cả hoàng tử cũng bị cùng số phận và bị chết đuối. Tôi vùng vẫy một hồi trên mặt nước, và may mắn làm sao, đúng ra là như được có phép màu, tôi thấy chân mình chạm đất. Tôi bước vào một khoảng đen ngòm có vẻ như đất liền vì bóng tối dày đặc không sao phân biệt nổi. Quả là tôi đang đặt chân lên một bãi cát và ánh sáng bình minh rạng dần, tôi thấy mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ, cách Balsora vào khoảng hai mươi hải lý. Chẳng mấy chốc mà dưới ánh mặt trời, áo quần tôi đã khô kiệt và trong lúc bước đi, tôi nhận thấy trên đảo có rất nhiều thứ quả ăn được và cả nước ngọt. Tôi hy vọng phần nào là có thể bảo tồn được mạng sống của mình.

Đang ngồi nghỉ trong bóng râm, bất thình lình thấy một con rắn có cánh rất to và rất dài đang uốn khúc trườn tới phía tôi, lưỡi thè dài. Đoán là có cái gì đang đe dọa nó, tôi đứng lên và nhìn thấy một con rắn khác to hơn nó đang ngậm lấy đuôi và đang gắng sức để nuốt sống nó. Đáng lẽ phải chạy đi nhưng vì động lòng thương tôi đã đứng lại và táo bạo nhặt một hòn đá to, may mắn ở vừa tầm tay mình lấy hết sức ném trúng đầu con rắn to giết chết nó. Con rắn có cánh, thoát nạn, giương ngay đôi cánh lên và bay vút đi. Tôi nhìn theo mãi nó trên cao như một vật lạ cho đến khi khuất tầm mắt, rồi lại tới nghỉ dưới bóng râm ở một chỗ khác và ngủ thiếp đi.

Khi thức dậy, ngài có thể tưởng tượng được sự ngạc nhiên của tôi tới mức nào khi thấy bên cạnh mình một phụ nữ da đen nét mặt sắc sảo nhưng dịu dàng nắm trong tay một dây xích buộc hai con chó cái cũng cùng màu đen. Tôi ngồi lên và hỏi bà ta là ai? “Ta là - Bà ta đáp - con rắn có cánh mà cô đã giải thoát khỏi kẻ thù hung bạo cách đây không lâu. Ta nghĩ không -có gì tốt bằng hành động mà ta vừa làm để trả cái ơn rất lớn mà cô đã làm cho ta. Ta biết sự phản bội của hai người chị của cô, để trả thù cho cô khi ta đang được tự do nhờ sự cứu giúp hào hiệp của cô, ta đã triệu tập rất nhiều các bạn cũng là tiên như ta, cùng với ta mang toàn bộ hàng hoá trên tàu chuyển về các kho của cô ở Bagdad trước khi đánh đắm tàu. Hai con chó mực cái này là hai người chị của cô mà ta đã cho biến thành đó. Nhưng sự trừng phạt này cũng chưa đủ đâu, ta muốn là cô sẽ còn đối xử với chúng bằng cách mà ta sẽ nói”.

Nói đoạn, bà tiên ôm chặt lấy tôi bằng một bên tay và tay bên kia ôm chặt hai con chó, bay lên không và đưa tất cả về nhà tôi ở Bagdad. Tôi thấy trong kho toàn bộ tài sản mà tàu của tôi đã chất đầy. Trước khi chia tay, bà trao cho tôi hai con chó cái và bảo:

- Nếu cô không muốn bị hoá thành chó cái như các chị cô thì hãy tuân theo lệnh của ta. Nhân danh đấng thần linh cai quản tất cả các sông biển trên mặt đất, ta lệnh cho cô hằng đêm phải đánh cho mỗi người chị của cô một trăm roi để trừng phạt chúng đã phạm tội với bản thân cô và đã làm cho hoàng tử trẻ tuổi đó bị chết đuối.

Tôi bắt buộc phải hứa với bà là sẽ chấp hành lệnh của bà. Và từ đó, tôi đã xử sự, mỗi đêm với bao sự miễn cưỡng bằng cách mà bệ hạ đã chứng kiến. Với những giọt nước mắt tôi khóc sau mỗi trận đánh đòn, tôi muốn tỏ ra với các chị là tôi biết bao đau đớn và bất nhẫn phải làm tròn một bổn phận thật là nghiệt ngã, như vậy tôi đáng được phàn nàn hơn là đáng bị trách móc. Nếu còn có điều gì đó lien quan tới tôi mà bệ hạ còn muốn được biết rõ thì cô em Amine của tôi sẽ hầu bệ hạ bằng chính câu chuyện của cô ấy.

Sau khi nghe hết chuyện của Zobéide, với tấm long mến phục, hoàng đế truyền tể tướng lệnh cho nàng Amine dịu dàng tới để trình bày cho hoàng đế rõ vì sao mà người nàng lại đầy vết sẹo...”

Nhưng, tâu bệ hạ - Tới đây Scheherazade nói - Trời vừa sáng, thiếp chẳng đám giữ Người lại lâu hơn nữa. Schahriar đinh ninh là chuyện mà Scheherazade còn kể tiếp sẽ là chuyện kết thúc cho tất cả những gì đã kể trước - Ông tự nhủ - ta cần phải có được cái thú trọn vẹn. Ông đứng lên và quyết định còn để cho hoàng hậu sống thêm ngày hôm đó.

***

Dinarzade mong muốn một cách say mê được nghe chuyện về Amine. Vì thế, đã thức dậy trước khi trời sáng rất lâu rồi mới đánh thức hoàng hậu.

- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em biết vì sao mà nàng Amine đáng yêu đó lại có bộ ngực dọc ngang vết sẹo.

- Chị đồng ý - Scheherazade đáp- Và để không mất thì giờ, em sẽ thấy là Amine, hướng về hoàng đế, bắt đầu câu chuyện của nàng ta như sau:

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:07:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13

CHUYỆN KỂ CỦA NÀNG AMINE


- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Nàng bắt đầu kể - Để không phải lặp lại những điều mà Người đã biết qua câu chuyện của bà chị tôi, tôi xin nói ngay là mẹ tôi sau khi đã mua một căn nhà để ở riêng trong cảnh goá bụa, thì gả tôi, cùng với của hồi môn cha tôi để lại, cho một trong những người thừa kế giàu có nhất thành phố này.

Thành hôn chưa được một năm thì chồng tôi qua đời để lại cho tôi thừa hưởng khoản tài sản, lên tới chín mươi nghìn equins. Riêng lợi tức của khoản tiền này cũng đủ cho tôi chi dùng suốt đời một cách lương thiện. Nhưng qua sáu tháng đầu chịu tang, tôi cho may mười bộ áo quần khác nhau và cùng vào loại sang trọng lộng lẫy, giá mỗi bộ tới một ngàn sequins. Tôi bắt đầu trưng diện các bộ quần áo ấy vào dịp đầu năm.

Một hôm, tôi ở nhà một mình lo các việc trong nhà thì được báo là có một bà nào đó muốn gặp. Tôi ra lệnh cho đưa vào. Đó là một bà rất già. Bà ta hôn đất chào tôi và nói với tôi ở tư thế quỳ:

- Thưa quý bà, xin bà thứ lỗi cho là đã dám mạo muội tới làm phiền bà. Niềm tin vào lòng nhân hậu của bà đã làm cho tôi mạnh dạn. Thưa bà đáng kính, tôi xin nói là tôi có một đứa con gái mồ côi cha phải lấy chồng ngày hôm nay, mà con gái tôi và tôi đều là người xa lạ không một chút quen biết với ai trong thành phố này. Điều đó làm chúng tôi bối rối vì chúng tôi muốn cho bên gia đình rất đông người sẽ là thông gia của mình thấy chúng tôi không phải là những người bần hàn mà cũng có vốn liếng. Vì vậy nên, thưa quý bà nhân hậu, nếu bà có thể tới tham dự lễ cưới của con gái tôi thì chúng tôi sẽ vô cùng đội ơn. Các bà quê tôi sẽ không còn coi chúng tôi là những kẻ cùng khổ khi thấy một con người cao sang như bà đã hạ cố cho chúng tôi một vinh hạnh lớn lao. Nhưng nếu bà khước từ lời cầu xin của tôi, thì than ôi! Chúng tôi sẽ vô cùng tủi khổ, vì chẳng còn biết nhờ cậy vào ai nữa.

Bà già tội nghiệp vừa nói vừa khóc làm tôi cầm long chẳng được, bảo bà:

- Bà má ơi, bà chớ nên quá buồn tủi. Tôi sẵn sàng vui lòng làm theo lời yêu cầu của bà. Bà hãy nói xem tôi phải đi đâu, tôi chỉ cần thời gian để ăn mặc cho gọn gàng một chút.

Bà già nghe vậy tỏ vẻ mừng rỡ, bất ngờ nhanh nhẹn ôm hôn bàn chân tôi làm tôi không kịp ngăn.

- Thưa quý bà nhân hậu - Bà già đứng lên nói - Thượng đế sẽ ban thưởng cho bà vì lòng tốt đối vớí các tôi tớ và sẽ làm cho tám lòng của bà được mãn nguyện cũng như bà đã làm mãn nguyện tấm lòng của chúng tôi. Bây giờ chưa phải phiền đến bà phải vất vả mà bà chỉ cần đến với tôi chiều hôm nay là đủ rồi, và vào giờ nào thì tôi sẽ xin đến rước bà sau. Xin tạm biệt bà, thưa bà - bà già nói them. Hân hạnh sẽ được gặp lại bà.

Bà già vừa đi khỏi, tôi chọn mặc bộ trang phục mình ưng nhất với một chuỗi hạt ngọc trai làm vòng cổ, với nhẫn và hoa tai kim cương đẹp nhất bóng nhất. Tôi có linh cảm cái gì đó sẽ xảy ra với tôi.

Chập tối, bà già trở lại với vẻ hớn hở vui mừng khôn tả. Bà hôn tay tôi và bảo:

- Thưa bà kính yêu, họ hàng con rể tôi là những quý bà tai to mặt lớn ở thành phố này đã tề tựu đông đủ. Bà tới lúc nào cũng được, tôi lúc nào cũng sẵn sàng làm người hướng đạo hầu bà.

Chúng tôi lên đường ngay. Bà ta đi trước, tôi theo sau, cùng với một số đông những nô tì ăn vận sạch sẽ tháp tùng. Chúng tôi dừng lại trong một đường phố rộng rãi, vừa được quét tước và phun nước tưới, trước một cổng lớn có một chiếc đèn lồng chiếu sáng. Trên cổng, tôi đọc được một dòng chữ vàng sau: Đây là nơi trú ngụ vĩnh viễn của nhữug lạc thú và sự hân hoan bất tận. Bà già giơ tay gõ cửa và cửa mở tức thì.

Tôi được dẫn tới cuối sân vào một gian phòng lớn và được một thiếu phụ trẻ đẹp chưa từng thấy ra đón mời. Nàng ta tiến đến trước mặt tôi và sau khi ôm hôn và mời tôi ngồi cạnh nàng trên một chiếc sập có đặt chiếc ngai bằng gỗ quý khảm kim cương, nàng bèn nói với tôi:

- Thưa bà, bà được mời tới đây để dự lễ cưới, nhưng tôi mong bà sẽ thấy đám cưới nay khác hẳn những đám cưới mà bà hình dung. Tôi có một ông anh khôi ngô tuấn tú và hoàn hảo về các mặt hơn tất cả mọi đấng nam nhi. Anh ấy quá say mê cái chân dung được nghe người ta tả về sắc đẹp của bà đến mức thấy số phận của mình hoàn toàn bị phụ thuộc vào bà. Anh ấy sẽ vô cùng đau khổ nếu không được bà đoái thương. Anh ấy biết địa vị của bà trong xã hội và tôi có thể đoan chắc với bà là địa vị của anh ấy cũng chẳng đến nỗi không xứng trong sự kết hợp này. Thưa bà, nếu những lời cầu xln của tôi có một chút nào tác dụng thì tôi xin góp thêm vào lời của anh tôi và mong bà chẳng nỡ khước từ mà chấp nhận lời cầu hôn của anh ấy được đón rước bà làm vợ.

Từ ngày chồng mất, tôi chưa từng có ý nghĩ tái giá, nhưng không đủ sức để khước từ một chuyện tốt đẹp như vậy. Tôi chỉ biết ngầm tỏ vẻ ưng thuận bằng sự im lặng kèm theo sắc ửng hồng hiện trên mặt. Thiếu phụ trẻ vỗ tay: cánh cửa một căn phòng bật mở và từ đó bước ra một thanh niên phong thái chững chạc và thật duyên dáng làm cho tôi thấy mình thực là may mắn đã chinh phục được một chàng traỉ quá điều mong ước. Chàng ngồi xuống cạnh tôi và qua câu chuyện trao đổi tôi càng thấy giá trị của chàng còn vượt hơn cả những lời giới thiệu của thiếu phụ với tôi.

Khi nhận thấy là chúng tôi đã cùng ưng nhau, nàng vỗ tay lần nữa. Một pháp quan bước vào, lập tờ hôn thú, ký vào đó và bắt cả bốn người làm chứng mà ông ta đem theo cùng ký vào. Điều cam kết duy nhất mà chú rể đòi hỏi ở tôi là ngoài anh ta ra thì tôi không được gặp gỡ, chuyện trò với bất cứ một người đàn ông nào. Anh ta hứa với tôi lả ngoài điều kiện đó ra thì tôi hoàn toàn có thể hài lòng anh tạ về mọi mặt. Cuộc hôn nhân của chúng tôi được ký kết và kết thúc theo cách đó. Như vậy tôi hoá ra là vai trò chính trong lễ cưới mà tôi lại là người khách duy nhất được mời.

Một tháng sau kể từ ngày hôn lễ, cần một thứ vải may mặc, tôi xin phép chồng tôi ra phố để mua sắm. Chàng đồng ý, tôi đem theo bà già mà tôi đã nói đến ở trên là người trong nhà cùng với hai nô tì của tôi nữa.

Khi chúng tôi đến phố của những người buôn bán, bà già bảo tôi: “Bà chủ tốt bụng của tôi ơi! Vì bà muốn mua một mảnh vải lụa, tôi sẽ dẫn bà tới một ngưởi bán hàng trẻ tuổi mà tôi quen biết. Anh ta có đủ các mặt hàng, bà sẽ thấy ở đó thứ bà cần mà chẳng ở đâu có cả. Chẳng phải đi hết cửa hàng nọ đến cửa hàng kia cho mệt”. Tôi để cho bà già dẫn đi và vào một cửa hàng của một người trẻ tuổi khá điển trai. Tôi ngồi xuống và bảo bà gìa nói với anh ta cho xem những tấm lụa đẹp nhất trong cửa hàng. Bà già cứ muốn tôi tự đặt ra yêu cầu đó nhưng tôi bảo bà là một trong những điều cam kết trong hôn nhân của tôi là ngoài chồng tôi ra thì không được nói năng gì với bất cứ người đàn ông nào. Vì vậy nên tôi không được làm trái điều đó.

Người chủ cửa hàng đưa ra cho tôi xem nhiều tấm vải có một tấm tôi thích hơn tất cả và cho hỏi giá tiền bao nhiêu. Hắn nói với bà già: “Dù bằng vàng bằng bạc tôi cũng không bán nhưng tôi sẽ biếu không nếu nàng ấy cho tôi hôn mọt cái vào má”. Tôi bảo bà già trả lời hắn thật là quá táo bạo mà dám đề nghị như vậy. Nhưng đáng lẽ phải tuân lệnh tôi thì bà già lại bảo là đề xuất của người bán hàng cũng có gì là to tát và quan trọng lắm đâu: không phải nói năng gì mà chỉ có việc giơ má ra thôi, thế là xong. Tôi rất muốn có mảnh lụa đó mà đã nhẹ dạ nghe theo lời khuyên của bà già. Bà ta cùng những nô tì của tôi đứng che phía trước để không ai nhìn thấy và tôi lật mạng che mặt lên nhưng thay cho cái hôn thì tên bán hàng lại cắn má tôi tới chảy máu.

Bị đau và quá kinh ngạc, tôi ngã lăn xuống bất tỉnh. Khá lâu ở trong tình trạng bất tỉnh đủ thời gian để cho tên chủ đóng cửa hàng và chạy trốn. Khi tỉnh lại, tôi thấy má mình đẫm máu. Bà già và các nô tì của tôi đã cẩn thận che mạng kín cả khuôn mặt cho tôi để mọi người chạy tới không nhận biết được gì và cho là tôi chỉ bị một cơn suy nhược thôi.”

Scheherazade kể đến đây, thấy trời hửng sáng nên ngừng lại. Hoàng đế thấy chuyện vừa nghe quả là kỳ lạ, đứng lên và tự hứa sẽ phải nghe tiếp cho thoả trí tò mò.

***


Tàn đêm hôm sau, Dinarzade thức giấc, gọi hoàng hậu:

- Chị ơi? Nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị kể nốt cho em nghe chuyện nàng Amine đi!

- Thiếu phụ đó kể tiếp như thế này – Scheherazade nói:

“Bà già đi theo tôi - Nàng kể tiếp - hết sức lo lắng về chuyện vừa xảy ra, cố gắng trấn an tôi:

- Thưa bà chủ tốt bụng, già này xin bà tha lỗi cho vì đã gây nên tai hoạ này. Già đưa bà chủ tới cửa hàng này vì người bán hàng là người đồng hương và không ngờ hắn ta lại làm nên chuyện động trời như thế. Xin bà chớ nên quá lo buồn, không nên để mất thời gian nữa, hãy cùng nhau về nhà, già sẽ đưa cho bà chủ thuốc sẽ chữa bà khỏi trong vòng ba ngày không còn để lại dấu vết gì.

Đợt ngất đi đã làm tôi yếu sức đến mức không đi được. Tuy vẫn về được tới nhà, nhưng tôi lại ngất đi vì quá suy nhược khi bước vào buồng ngủ. Nhưng bà già đã mang thuốc đến cho tôi, tôi tỉnh lại và lên giường nằm.

Đêm xuống, chồng tôi về. Chàng nhận thấy đầu tô; trùm kín, hỏi tôi làm sao. Tôi trả lời chàng là bị đau đầu và hy vọng là chàng chỉ hỏi thế thôi. Nhưng chàng đã đưa ngọn nến đến gần xem và nhìn thấy vết thương ở má tôi.

- Vì sao có vết thương này?- Chàng hỏi tôi.

Mặc dù tội của tôi chẳng lấy gì làm nặng nề cho lắm, tôi cũng không dám nói lên sự thật. Tôi cho là thú nhận sự việc đó với một người chồng có vẻ như là một cái gì đó thiếu phần tế nhị. Tôi bảo chàng là lúc đi mua mảnh lụa để dùng và đã được chàng cho phép, một người gánh củi đi quá gần trong một đường phố hẹp, đã vô ý để một cành củi chạm vào làm sầy da mặt, có việc nhỏ thế thôi

Chồng tôi đùng đùng nổi giận:

- Hành động đó - Chàng nói - cần phải bị trừng phạt. Ta sẽ ra lệnh pháp quan ngày mai bắt giữ lại tất cả bọn kiếm củi đem xử giảo hết. Lo sợ mình là nguyên nhân cái chết của bao nhiêu người vô tội, tôi bảo chàng:

- Chàng ạ, em sẽ rất chạnh lòng khi để sự bất công to lớn đó xảy ra. Em xin chàng đừng phạm phải. Em sẽ không bao gịờ đáng được tha thứ nếu gây ra sự bất hạnh này.

- Vậy thì nàng hãy thành thật nói cho ta rõ – Chàng bảo - Ta phải nghĩ như thế nào về vết thương của nàng?

Tôi lại bảo chàng là do sự vô ý của một anh bán chổi cưỡi trên lưng lừa đi phía sau tôi. Anh này ngoảnh mặt sang phía khác nên con lừa không được điều khiển đã hích vào tôi làm tôi ngã, má đập vào mảnh kính.

- Nếu đúng như vậy - Chồng tôi nói ngay - thì ngày mai ngay lúc mặt trời chưa mọc thì tể tướng Glafar sẽ được biết sự hỗn xược này. Ông ta sẽ cho tất cả những người bán chổi xuống suối vàng...

- Ôi, nhân danh Thượng đế - Tôi ngắt lời chàng – Em xin chàng hãy khoan thứ cho họ. Họ không phải là thủ phạm.

- Thế là thế nào, thưa bà - Chàng nói - Ta phải tin sao đây? Bà hãy nói đi. Ta muốn chính miệng bà phải nói ra sự thật.

- Chàng ạ - Tôi đáp - Em bị chóng mặt quay cuồng và bị ngã. Có thế thôi mà.

Nghe đến đây, chồng tôi không còn kiên nhẫn được nữa, chàng thét lên:

- A, mất bao nhiêu là thời gian để nghe những lời quanh co dối trá!

Nói đoạn, chàng vỗ tay, ba tên nô lệ đi vào.

- Hãy lôi nó ra khỏi giường - Chàng bảo chúng - Nọc nó ra giữa phòng cho ta.

Lũ nô lệ tuân lệnh chàng, một đứa giữ đầu, một đứa giữ hai chân tôi. Chàng ra lệnh cho tên thứ ba đi lấy kiếm. Và khi tên này mang kiếm tới, chàng bảo nó: “Mày chém đi. Chặt nó ra làm hai và ném xuống sông Tigre để làm mồi cho cá rỉa. Đó là hình phạt ta dành cho những người mà ta đã hết lòng thương yêu nhưng lại phản bội ta.

Thấy tên nô lệ còn lưỡng lự, chàng bảo:

- Chém đi, cái gì làm cho mày do dự, mày còn chờ cái gì nữa?

- Thưa bà - Tên nô lệ lúc bấy giờ bảo tôi - Bà đang chạm vào giây phút cuối cùng của- cuộc sống, bà thử xem xem còn muốn trối trăng điều gì trước khi chết không.

Tôi xin được nói một điều. Được chấp nhận, tôi ngửng đầu lên, nhìn chồng tôi âu yếm:

- Than ôi? - Tôi bảo chàng - Sao em lại phải đến nỗi này! Sao em lại phải chết giữa những ngày hạnh phúc nhất đời này...

Tôi muốn nói tiếp nhưng nghẹn lời, nước mắt rơi tầm tã. Chồng tôi chẳng chút mủi lòng, ngược lại còn cất lời trách mắng thậm tệ. Biết nói thêm cũng chỉ là vô ích, tôi chuyển sang cầu khẩn nhưng chàng vẫn khăng khăng một mực và lệnh cho tên nô lệ thi hành nhiệm vụ. Giữa lúc đó, bà già vốn là bà vú nuôi chồng tôi đi vào, gieo thình cạnh chân chàng và cố làm cho chàng nguôi cơn giận dữ:

- Con trai ơi - Bà nói - Để trả công ơn ta nuôi dưỡng, ta xin con hãy tha thứ cho nàng. Con hãy nhớ câu “sát nhân giả tử”, kẻ giết người sẽ bị người giết lại còn sẽ làm bại hoại danh tiếng của mình và sự mến mộ của mọi người đối với mình. Trách sao mà người ta chẳng sẽ đồn đại về một cơn gíận dữ tới mức đổ máu này.

Bà nói những câu trên đầy vẻ xúc động kèm theo những giọt nước mắt nóng hổi gây nên một ấn tượng mạnh mẽ đối với chồng tôi.

Vậy thì - Chàng nói với bà vú nuôi mình - Vì nể vú, ta cho nó sống nhưng ta muốn nó phải mang theo dấu tích trên người làm nó luôn nhớ lại tội lỗi của mình.

Nói xong, một tên nô lệ, theo lệnh chàng, dang thẳng cánh quất vào hai bên sườn và trên ngực tôi bằng một cái roi có nhiều đoạn gấp khúc làm tôi nứt da toác thịt. Tôi ngất lịm không còn biết gì nữa. Sau đấy, chàng bắt bọn nô lệ, tay sai cho sự điên giận của chàng, quẳng tôi vào một ngôi nhà, ở đó bà già vú nuôi chàng đã chăm sóc tôi thật chu đáo. Tôi nằm liệt giường suốt bốn tháng trời. Cuối cùng tôi khỏi, nhưng những vết sẹo mà bệ hạ nhìn thấy hôm qua do sự sơ ý của tôi, thì vẫn còn lại tới giờ. Khi tôi đã bước đi được và ra bên ngoài được, tôi muốn trở lại nhà chồng trước, nhưng thấy chỉ còn một bãi đất trống không. Người chồng thứ hai của tôi, trong cơn thịnh nộ quá đáng không những đã phá đổ mà còn san bằng cả dãy phố mà trên đó có ngôi nhà của tôi. Bạo lực đó quả thật là chưa từng có, nhưng tôi biết thưa kiện ai? Kẻ gây ra chuyện này đã tìm cách giấu mặt giấu tên, tôi làm sáo biết được rõ. Mà cho dù tôi có biết hắn là ai chăng nữa thì há tôi cũng đã chẳng thừa biết là cách xử sự với tôi như vậy được bắt nguồn từ một quyền uy tuyệt đối đó hay sao? Vậy thì tôi còn có dám thưa kiện nữa không?

Hoang mang, khốn đốn, mất trắng tay tất cả, tôi tới xin nương nhờ chị Zobéide thân yêu của tôi mà bệ hạ vừa nghe chị ấy kể về mình hầu Người đó.

Và tôi đã kể hết cho chị nghe về hoạn nạn của tôi. Chị vui vẻ đón nhận tôi với tấm lòng nhân hậu vơn có của mình và động viên tôi hãy kiên nhẫn chịu đựng.

- Đời là thế đó - Chị Zobéide bảo - Thông thường nó tước đoạt của ta của cải hoặc bạn bè hoặc những người ta yêu quý và luôn luôn là tất cả cùng một lúc, và để chứng minh cho điều chị vừa nói, chị kể cho tôi nghe cái chết của vị hoàng tử trẻ do sự ghen tuông của hai người chị ruột của chị. Chị còn cho tôi biết vì sao mà hai người chị này lại hoá thành chó. Cuối cùng, sau khi tỏ rõ tình thân mật đậm đà với tôi, chị giới thiệu cô em út cũng đã đến với chị sau khi mẹ chúng tôi tạ thế.

Thế là, tạ ơn Thượng đế, cả ba chị em chúng tôi được đoàn tụ, cùng nhau quyết định là sẽ chẳng bao giờ sống xa nhau nữa. Chúng tôi cùng sống với nhau một cuộc sống êm đềm từ rất lâu rồi. Và vì là người chịu trách nhiệm việc chi tiêu trong nhà, nên tôi thường lấy làm thích thú được tự mình đi mua sắm các thứ. Hôm qua đi mua hàng, tôi đã thuê một người khuân vác để vận chuyển các thứ mua. Thấy anh là một người thông minh, vui tính nên chúng tôi đã đồng ý giữ lại để cùng nhau vui chơi giải trí. Ba tu sĩ khổ hạnh cũng bất ngờ tới vào lúc màn đêm vừa buông và xin chúng tôi cho trọ tới sáng. Chúng tôi tiếp nhận họ với một điều kiện mà họ chấp nhận và sau khi mời họ ngồi vào bàn ăn, họ vui vẻ hiến cho chúng tôi một bản hoà ca theo kiểu của họ thì giữa lúc đó lại có tlếng gõ cửa. Đó là ba thương nhân ở Mossoul vớl dáng vẻ thật hiền lành cũng xin chúng tôi được tạm tá túc như ba chàng tu sĩ. Chúng tôi cũng đồng ý tiếp nhận họ với cùng một điều kiện. Nhưng rồi họ đều như nhau, chẳng ai muốn tôn trọng điều kiện đó cả. Tuy nhiên mặc đù chúng tôi có đủ tư cách và có toàn quyền để trừng trị họ, nhưng chỉ giới hạn ở việc bắt họ lần lượt kể chuyện của mình, và chỉ trả thù họ một cách nhẹ nhàng là mời họ ra khỏi nhà, không cho trọ lại qua đêm như họ đã yêu cầu.

Hoàng đế Haroun Alraschid rất hài lòng được hiểu rõ những gì muốn biết và công khai tỏ lòng khâm phục thích thú đối với những chuyện vừa được nghe kể...”

- Nhưng, tâu bệ hạ - đến đây Scheherazade nói - Mặt trời đã bắt đầu nhô lên không còn cho phép thiếp được kể tiếp vì sao mà giải phép được cho hai con chó mực cái để trở lại thành người.

Schahriar, đoán là tối hôm sau hoàng hậu sẽ kết thúc chuyện năm thiếu phụ với ba tu sĩ khổ hạnh. Ông đứng lên và lại để cho Scheherazade sống đến ngày mai.

***

Trước trời sáng, Dinarzade gọi chị:

- Chị ơi! Nhân danh Thượng đế, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin hãy kể cho em nghe làm thế nào mà hai con chó mực lại có thể trở về hình hài cũ và còn ba người tu sĩ khổ hạnh thì ra sao.

- Cứ yên tâm - Scheherazade nói- ,Chị sẽ thoả mãn trí tò mò của em ngay bây giờ đây.

Rồi ngoảnh về Schahriar, nàng kể tiếp như sau:

“ Tâu bệ hạ, sau khi đã được thoả mãn óc hiếu kỳ, hoàng đế muốn tỏ rõ quyền uy và lòng độ lượng đối với các hoàng tử tu sĩ và sự hào hiệp đối với ba thiếu phụ. Không cần qua sự trung gian của tể tướng, ông tự mình nói với Zobéide:

- Thưa bà, vị tiên nữ lúc đầu dưới dạng con rắn và áp đặt cho bà một luật lệ rất hà khắc, có cho bà biết chỗ ở của mình không và có hứa sẽ gặp lại bà và giải phép cho hai con chớ để trở lại làm người không?

- Thưa đáng Thơng lĩnh các tín đồ - Zobéide đáp – Tôi đã quên không nói lại vớì hoàng thượng là tiên nữ có đặt vào tay tôi một bọc tóc nhỏ, nói là sẽ có ngày tôi phải cần tới lúc ấy, chỉ cần lấy ra hai sợi tóc, dùng lửa đất cháy thì bà ấy sẽ lập tức có mặt dù đang ở phía bên kia rặng núi Caucase.

- Thế cái bọc tóc đó - Hoàng đế hỏi - Hiện giờ ở đâu?

Zobéide bèn móc từ chiếc túi luôn đeo bên người, lấy cái bọc có mớ tóc ra, khẽ hé rèm che đưa Người xem.

- Vậy thì - Hoàng đế bảo - Chúng ta hãy triệu bà tiên tới đây. Không lúc nào hợp hơn lúc này vì ta muốn thế.

Zobéide nhất trí, lửa được mang tới và Zobéide đặt lên trên cả bọc tóc. Tức thì cả cung điện rung chuyển, bà tiên hiện lên trước mặt Hoàng đế dướI dạng một người đàn bà ăn vận rất đẹp.

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đố - Bà nói với nhà vua - Người thấy đó, tôi đang sẵn sàng nhận lệnh của Người. Người thiếu phụ vừa gọi tôi theo lệnh của bệ hạ đã từng cứu mạng tôi. Để trả ơn đó tôi đã trả thù hộ nàng về tội bất nhân bất nghĩa của hai người chị nàng và biến họ thành chó. Nhưng nếu hoàng thượng muốn thì tôi sẽ trả lại cho chúng cái hình dạng tự nhiên như trước đây.

- Hỡi tiên nữ xinh đẹp - Hoàng đế nói - Ta thật không có gì vui hơn, hãy cho chúng cái ơn đó đi, sau đó ta sẽ tìm cách an ủi chúng là đã phải chịu đựng một cuộc sống thật khổ nhục. Nhưng trước hết ta cũng xin bà hãy ra tay cứu giúp người thiếu phụ đã bị người chồng hành hạ một cách thật dũ dằn. Vì bà không hiểu mọi sự nên chắc bà không thể không biết việc này: bà hãy vui lòng cho biết rõ cái tên man rợ không những đã đối xử với vợ tàn bạo như vậy mà lại còn tước đoạt một cách hết sức bất công tất cả tài sản của nàng. Ta lấy làm ngạc nhiên là một hành động tối vô nhân đạo, tối bất công như vậy nó xúc phạm tới uy danh ta mà ta lại không hề hay biết.

- Để bệ hạ được mãn ý - Tiên nữ nói - Tôi sẽ cho hai con chó này trở lại nguyên hình, sẽ chữa cho người thiếu phụ này khỏi hẳn các vết sẹo coi như nàng chưa bao giờ bị đánh đập và cuối cùng tôi sẽ cho bệ hạ rõ kẻ nào đã hành hạ nàng như vậy.
Hoàng đế sai người đi dắt hai con chó ở nhà Zobéide tới Tiên nữ bảo lấy cho bà một chén nước đầy. Bà lầm bầm khấn khứa trên chén nước những câu gì đó chẳng ai nghe được rồi rẩy nước trong chén lên người Amine và hai con chó. Tất cả các vết sẹo trên người Amine mất hết, và hai con chó cái biến thành hai thiếu phụ đẹp lộng lẫy. Rồi bà tiên nói với hoàng đế.

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, bây giờ xin tiết lộ với bệ hạ cái người chồng đã man giấu tên kia mà bệ hạ muốn biết: người đó rất thân cận với bệ hạ vì đó là hoàng tử Amin, con trai cả của Người, anh ruột của hoàng tử Mamoun, con trai thứ của Người. Nghe tiếng đồn về sắc đẹp hiếm có của người thiếu phụ, hoàng tử Amin phải lòng mê mệt đã tìm mọi cách lôi kéo nàng về nhà và cưới nàng. Về trận đòn chàng ta sai đánh nàng, về phương diện nào đó, có thể được phần nào tha thứ. Người đàn bà vợ chàng có phần quá đễ đãi và những lời đưa ra biện bạch có thể làm người ta cho là nàng đã phạm tội nặng hơn là thực tế. Đó là tất cả những gì tôi có thể tâu trình để bệ hạ được giải toả mọi thắc mắc.

Nói xong, tiên nữ cúi chào hoàng đế và biến mất:

Hoàng đế vô cùng khâm phục và hài lòng về tất cả những biến đổi vừa qua nhờ có sự can thiệp của mình, liền có những hành động mà người ta còn nhắc đến mãi. Đầu tiên, ông cho gọi hoàng tử Amin, con trai cả của ông tới, bảo cho chàng rõ là ông đã biết cuộc hôn nhân bí mật của chàng và nói cho con trai biết nguyên nhân thực về vết thương ở má nàng. Hoàng tử không đợi vua cha phán bảo, chàng đón nhận nàng ngay.

Hoàng đế tuyên bố tiếp là sẽ cưới Zobéide làm vợ và gợi ý cho ba chị em kia của nàng lấy ba chàng tu sĩ làm chồng, được các chàng ưng thuận ngay với sự biết ơn sâu sắc. Hoàng đế ban cho mỗi người một lâu đài tráng lệ ở thành phố Bagdad, cất nhắc họ lên các chức vị cao sang trong nước và cho họ được tham dự vào các công việc triều chính. Đệ nhất pháp quan thành Bagdad được triệu tới cùng với những người làm chứng lập các giấy giá thú, và vị hoàng đế danh tiếng Haroun Alraschid mang lại hạnh phúc cho bao nhiêu người từng trải qua nhiều khổ ải, được mọi người ca ngợi và chúc tụng.

Trời chưa sáng thì Scheherazade kết thúc câu chuyện đã biết bao lần phải bỏ đở giữa chừng. Vậy là lúc này có thể bắt đầu một chuyện khác. Nàng hướng về hoàng đế và nói:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:11:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 14

BA QUẢ TÁO


Tâu hoàng đế, thiếp đã có vinh dự một lần được kể với Người chuyến vi hành của hoàng đế Haroun Alraschid ra khỏi kinh thành vào một đêm trước. Thiếp xin kể hầu hoàng đế một chuyến vi hành khác của vị hoàng đế này.

Một hôm, nhà vua báo cho tể tướng Giafar phải có mặt ở cung điện vào tối hôm sau:

- Tể tướng à - Nhà vua bảo - Ta muốn đi một vòng xung quanh thành phố để nghe ngóng xem dư luận nhân dân ra sao và nhất là để biết xem họ có điều gì không được hài lòng với những pháp quan của ta không. Nếu thấy có những lời kêu ca phàn nàn, thì lập tức ta sẽ cách chức chúng và thay thế bằng những người khác có đầy đủ tài đức để làm tròn trách nhiệm. Ngược lại nếu có những pháp quan được dân chúng ca ngợi thì ta sẽ có những sự nhìn nhận xứng đáng.

Tể tướng tới cung điện đúng giờ quy định cùng với Mesrour, tổng thái giàm. Cả ba người cải trang để không ai nhận biết và cùng ra khỏi cung điện.

Họ đi qua nhiều công trường ,nhiều chợ và khi đi vào một đường phố nhỏ, họ nhìn thấy dưới ánh trăng một ông lão có bộ râu trắng bạc, thân hình cao, trên đầu đội một tấm lưới đánh cá, một tay cắp bên sườn chiếc rổ bằng lá dừa, một tay chống gậy.
Trông bề ngoài thì lão già này chẳng phải là ngườI giàu có - Hoàng đế nói - Chúng ta hãy tiếp cận lão và hỏI lão tình hình làm ăn ra sao.

- Này ông già - Tể tướng hỏi - Nhà ngươi là ai vậy?

- Thưa các ngài - Ông già đáp - Tôì là người đánh cá nhưng là người nghèo khổ nhất trong cái nghề này. Tôi từ nhà ra đi từ sớm, nhưng cho đến giờ vẫn chưa được một con cá nhỏ nào. Tôi có vợ và các con nhỏ, không biết lấy gì mà nuôi cả nhà đây!
Hoàng đế, động lòng thương hại bảo lão:

- Liệu nhà ngươi có can đảm quay lại chỗ cũ quăng lưới một lần nữa không? Chúng ta sẽ cho nhà ngươi một trăm đồng sequins đổi lấy bất cứ cái gì nhà ngươi kéo lên được .

Nghe vậy, lão đánh cá quên hết mệt nhọc trong ngày, cùng vớI hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour quay lạI sông Tigre, lòng thầm nhủ: “Các ngài này có vẻ là những người lương thiện, đứng đắn chẳng lẽ lại nuốt lời. Chỉ cần một phần trăm của số tiền đó đối với ta cũng đã là quá nhiều rồi”.

Họ đến bờ sông Tigre. Lão đánh cá buông lưới rồi kéo lên được một chiếc hòm đóng kín khá nặng. Hoàng đế tức thì bảo tể tướng đếm đưa cho lão đủ một trăm đồng sequins và cho lão về. Mesrour theo lệnh hoàng đế vác chiếc hòm lên vai. Hoàng đế nôn nóng muốn biết xem trong hòm chứa gì, vội vã quay về hoàng cung. Hòm được mở ra, người ta thấy một cái túi to đan bằng lá dừa, miệng túi được khâu lại bằng một sợi len đỏ. Để hoàng đế khỏi sốt ruột, chẳng ai muốn tỉ mỉ gỡ dần sợi len đó mà dùng dao sắc cắt đi cho mau. Họ lôi ra khỏi túi một cái bọc bằng vải thô buộc dây thừng. Cởi sợi thừng và mở cái bọc, họ kinh hãi trông thấy thân thể bị chặt ra làm nhiều mảnh của một phụ nữ trẻ da trắng như tuyết đọng.”

Scheherazade tới đây, nhận thấy trời đã sáng nên ngừng lời. Đêm hôm sau nàng kể tiếp:

***

“- Tâu hoàng đế, hẳn là Người cũng đã hình dung là vị hoàng đế đã kinh ngạc như thế nào trước cái cảnh tượng ghê rợn đó: Nhưng từ kính ngạc ông chuyển sang gỉận dữ, ném cho tể tướng một cái nhìn toé lửa: “A, quân khốn kiếp - Ông kêu lên - Phải chăng đó là cách nhà ngươi cai trị và nắm được mọi hành động của dân chúng? Người ta đã ngang nhiên phạm tội sát nhân ngay tại kinh đô của ta, người ta đã ném những thần dân của ta xuống sông Tigre để họ đòi trả hận ta trong ngày phán xử cuối cùng? Nếu nhà ngươi không mau tìm ra được kẻ sát nhân để trả thù cho người phụ nữ này thì ta thề có Thượng đế với tên thánh của Người là ta sẽ treo cổ ngươi, ngươi và cả bốn chục người họ hàng thân tộc nhà ngươi.

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Tể tướng tâu -Xin hoàng đế cho thần thời gian để tiến hành cuộc điều tra.

- Ta cho ngươi ba ngày - Hoàng đế bảo - Ngươi hãy suy nghĩ kỹ.

Tể tướng Giafar lui về, lòng hết sức hoang mang: “Chao ôi! - Ông thầm than - Trong một thành phố rộng mông mênh và dân cư đông đúc như Bagdad này, làm sao mà ta khui lên được một tên giết người, có thể nó phạm tội ác này không người chứng kiến, và có thể nó đã cao chạy xa bay rồi cũng nên. Một kẻ nào khác ta thì có thể vào trong nhà giam lôi một tên tội phạm khốn khổ nào đó ra và xử tội chết để làm hài lòng hoàng đế, nhưng ta thì không thể làm cái điều trái lương tâm ấy được. Ta thà chết còn hơn là cứu sống mình bằng cách đó! .

Ông lệnh cho các quan hành pháp và toà án dưới quyền làm một cuộc săn lùng hung thủ. Họ tung người của họ và cả chính họ vào cuộc săn lùng này. Nhưng rồi tất cả những nỗ lực của họ đều vô ích. Dù khẩn trương và mẫn cán tới đâu chăng nữa thì họ cũng không sao phát hiện được kẻ gây ra vụ án mạng: Tể tướng thấy là nếu không có sự giúp dập của trời thì mạng ông thật khó toàn.

Quả nhiên, ngày thứ ba đã tới, một lính cặn vệ tớI nhà viên đại thần đáng thương này bắt đi theo y. Tể tướng cúi đầu chịu lệnh. Hoàng đế hỏi thủ phạm đâu.

- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Ông tâu vua giọng đầy nước mắt - Không tìm thấy một người nào cung cấp cho thần bất cứ một tin tức gì cả.

Hoàng đế nổi giận lôi đình, nặng lời quở mắng rồi ra lệnh treo cổ tể tướng cùng với bốn chục người họ hàng thân thích của ông trước cổng hoàng cung.

Trong khi những người thừa hành bận rộn trong việc dựng các giá treo cổ và cho người đi bắt bốn chục người trong họ tể tướng thì viên quan truyền tin theo lệnh hoàng đế đi rao tin này trong khắp các khu vực trong thành phố. Những ai muốn chứng kiến hình phạt xử giảo tể tướng Giafar cùng với bốn chục thân nhân tể tướng thì tới ngay công trường ngay phía trước hoàng cung!”.

Khi mọi việc đã sẵn sàng, viên quan thi hành án cùng với đám rất đông lính cận vệ điều tể tướng cùng với bốn chục thân nhân của ông ra đặt mỗi người đứng dưới một cái giá gỗ dành cho họ, quàng vào cổ mỗi người vòng dây thừng dùng để kéo họ lên lửng lơ khỏi mặt đất. Dân chúng kéo tới kín đặc cả công trường, nhìn cảnh đau lòng không sao cầm được nước mắt vì tể tướng Giafar và những thân nhân của vị quan thanh liêm, trung thực này đối với họ vô cùng thân thiết và đáng kính.

Không có gì có thể ngăn cản được việc thi hành lệnh bất di bất dịch của vị hoàng đế nghiệt ngã này. Mạng sống của những con người nhân hậu nhất kinh thành này đang như treo trên sợi tóc thì một chàng trai rất khôi ngô tuấn tú và ăn vận lịch sự rẽ đám đông, đi tới tận chỗ tể tướng đầu triều đang đứng chờ treo cổ, và sau khi kính trọng hôn tay ông, chàng nói:

- Thưa ngài tể tướng tôn quý, người đứng đầu các đại thần trong triều, nơi nương tựa của dân nghèo, ngài không phải là thủ phạm mà cần phải có mặt tại đây. Xin ngài hãy lui bước và để cho tôi đền mạng cho người thiếu phụ đã bị ném xuống sông Tigre. Chính tôi là kẻ đã giết nàng và xứng đáng phải bị trừng phạt.

Mặc dù những lời thú tội trên đây đã làm cho tể tướng hết sức vui mừng, nhưng ông không khỏi cảm thấy thương hại chàng trai mà khuôn mặt đáng ra phải có vẻ hung hãn thì lại là một cái gì đó dịu dàng quyến rũ. Ông đang sắp sửa trả lời chàng trai thì lại có một người to lớn đã đứng tuổi cũng rẽ đám đông bước tới và nói với tể tướng:

- Xin ngài đừng tin những gì chàng trai này nói. Không có ai ngoài tôi ra là người đã giết người thiếu phụ đã tìm thấy ở trong hòm ấy. Sự trừng phạt phải giáng xuống chỉ một mình tôi thôi. Nhân danh Thượng đế, tôi tha thiết xin chớ trừng phạt kẻ vô tội.

- Thưa ngài - Chàng thanh niên nói với tể tướng - Tôi xin thề là chính tôi đã có hành động độc ác đó và không có một người nào đồng loã.

- Con trai của ta ạ - Ông già cắt ngang - Chẳng qua là vì tuyệt vọng bất mãn với số phận mà anh tới đây để nói thế. Còn ta, ta đã sống trên đời này quá lâu rồi, cần phảI rời bỏ thôi. Hãy để ta chết thay anh. Thưa ngài - Ông nói tiếp với tể tướng- Tôi xin nhắc lại là chính tôi mới là kẻ giết người. Hãy xử tôi, chớ nên chần chừ nữa.

Lơi thú nhận của ông già và chàng trai buộc tể tướng Giafar phải đưa cả hai tới trước hoàng đế dưới sự cho phép rất dễ dàng vui vẻ của viên chỉ huy pháp trường.

Khi đã tới trước hoàng đế, tể tướng hôn mặt đất bảy lần và tấu trình:

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, thần đưa ông già và chàng trai này tới bệ kiến hoàng thượng. Cả hai người đều nhận mình là thủ phạm đã sát hại người phụ nữ đó.

Thế là hoàng đế hỏI các bị can ai trong hai người đã tàn sát người thiếu phụ quá dã man và ném xác xuống sông Tigre như vậy. Chàng trai một mực nhận chính là mình, nhưng ông già thì nói ngược lại. Hoàng đế bảo tể tướng:

- Đưa cả hai đi xử giảo.

- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Nhưng chỉ có một sát nhân. Thật bất công nếu bắt cả hai cùng chết.

Nghe vậy, chàng trai lại nói:

- Thề có Thượng đế đã nâng trời lên cao như hiện nay, chính tôi là người đã giết người phụ nữ đó, chính tôi đã chặt bà ta ra nhiều khúc và ném xuống sông Tigre cách đây bốn hôm . Tôi sẽ không được ở bên phía những người quang minh chính đại trong ngày phán xử cuối cùng, nếu điều tôi nói đây là giả dối. Tôi mới đúng là ngườI đáng chịu hình phạt.

Hoàng đế ngạc nhiên về lời thề đó và ông tin, hơn nữa ông già cũng không phản bác. Vì vậy, ngoảnh về chàng trai, ông bảo:

- Quân khốn kiếp! Vì cớ gì mà mi lại phạm vào một tội ác kinh khủng như vậy? Và nguyên nhân nào đã thúc đẩy mi tới đây nộp mình?

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Chàng trai đáp - Nếu có thể ghi chép lại những gì xảy ra giữa người đàn bà này và tôi thì thiết nghĩ đó cũng là một chuyện giúp ích rất nhiều cho những người đàn ông trên đời này.

- Vậy mi hãy kể cho ta nghe đi - Hoàng đế bảo - Ta ra lệnh cho mi đó. Chàng trai tuân theo và bắt đầu kể chuyện mình bằng lời lẽ như sau...”

Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng buộc phải để lại đêm hôm sau.

***

Schahriar nhắc nhở hoàng hậu và hỏi nàng là chàng trai đó kể gì với hoàng đế Haroun Alraschid.

- Tâu hoàng thượng - Scheherazade đáp - Chàng ta cất tiếng và kể như thế này:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:13:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15

NGƯỜI THIẾU PHỤ BỊ SÁT HẠI VÀ NGƯỜI CHỒNG NÀNG


- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ biết cho rằng người thiếu phụ bị sát hại đó chính là vợ tôi, con gái ông già mà Người đã biết đó lại là chú ruột tôi. Khi nàng mới có mười hai tuổi thì ông đã gả cho tôi làm vợ và đến nay là mười một năm đã qua. Tôi có với nàng ba con trai hiện nay còn sống cả. Và cứ công bằng mà nói thì nàng chưa từng bao giờ làm cho tôi phải bực mình cáu giận. Nàng khôn ngoan, có đức hạnh và luôn chú ý chiều chuộng tôi. Về phía mình, tôi yêu nàng thực lòng, chiều theo tất cả các ý muốn của nàng, chưa bao giờ cấm đoán một điều gì.

Cách đây khoảng hai tháng, nàng ngã bệnh. Tôi hết lòng chăm sóc, không ngần ngại bất cứ việc gì cố sao để làm cho nàng mau lành bệnh. Được một tháng bệnh thuyên giảm, sửc khoẻ khá lên dần nàng muốn đi ra nhà tắm. Trước khi ra khỏi nhà, nàng bảo tôi: “Anh họ của em ơi! (nàng thường thân mật gọi tôi thế) Em muốn ăn táo quá đi mất, em sẽ cực kỳ vui thích nếu anh tìm được cho em vài quả. Em đã thèm ăn táo lắm rồi, thú thật với anh là em thèm tới mức là nếu không sớm được ăn thì em sợ là sức khoẻ em súy sụp mất. “ Rất vui lòng thôi - Tôi trả lời nàng - Anh sẽ cố gắng hết sức để chiều em.”

Ngay tức thì, tôi đi lùng tìm khắp các chợ, khắp các cửa hàng để mua ít quả táo, nhưng không thấy dù chỉ một quả, dù tôi đã sẵn sàng trả tiền cho mỗi quả một đồng sequin. Tôi trở về nhà rất buồn vì mất công toi. Về phần vợ tôi, khi đi tắm về không thấy có táo, nàng buồn rầu trằn trọc suốt đêm không ngủ. Sáng hôm sau tôi dậy sớm đi thăm khắp các vườn cây nhưng kết quả cũng chẳng hơn gì hôm trước. Tôi chỉ gặp được một người làm vườn có tuổi bảo tôi là dù có mất bao nhiêu công sức đi tìm thì cũng chẳng đâu có táo lúc này trừ trường hợp ở vườn ngự uyển của đức vua ở Balsora.

Tôi vốn rất yêu vợ và chiều chuộng nàng hết mức, không muốn để nàng phải phật ý vì bất cứ một điều gì nên tôi đã mặc vào mình bộ y phục đi đường và sau khi nói cho nàng biết ý định của mình, tôi lên đường đi Balsora. Tôi đi rất khẩn trương nên chỉ trong vòng nửa tháng đã có mặt tại nhà. Tôi mang về ba quả táo giá mỗi quả là một đồng sequin. Trong vườn chỉ có ngần ấy quả và ông làm vườn nhất định không để cho tôi rẻ hơn. Vợ tôi rất hài lòng nhận ba quả táo và đặt chúng ngay bên cạnh mình. Tuy nhiên nàng vẫn còn ốm và tôi chẳng biết dùng thuốc gì để chữa khỏi bệnh cho nàng.

Sau cuộc đi của tôi ít ngày, một hôm ngồi trong cửa hàng ở nơi công cộng bán đủ các loại vải lụa đẹp, tôi nhìn thấy một nô lệ da đen cao to mặt mũi dữ dằn, tay cầm một quả táo mà tôi nhận đích xác đó là quả táo mà tôi mang về từ Balsora. Không thể nhầm được vì tôi biết là ở Balsora cũng như ở các vườn quả các vùng lân cận không có một quả táo nào. Tôi gọi người nô lệ:

- Này anh bạn, làm ơn cho tôi biết, anh đã lấy được quả táo này ở đâu vậy?

- Đó là Anh ta cười đáp - tặng vật của tình nhân tôi. Hôm nay đến thăm, tôi thấy nàng hơi ốm: Có ba quả táo để bên cạnh, tôi hỏi nàng mua được ở đâu, nàng trả lời tôi đó là của người chồng tốt bụng của nàng kiếm được mang về cho nàng sau một chuyến đi tới nửa tháng trời. Chúng tôi cùng nhau ăn một bữa nhẹ, và khi chia tay, tôi đã cầm một quả mang theo.

Những lời trên đây của người nô lệ da đen làm tôi điên tiết. Tôi rời khỏi chỗ ngồi, đóng cửa hàng lại và chạy về nhà, vào trong buồng vợ. Đầu tiên tôi nhìn chỗ để những quả táo, chỉ thấy hai quả, tôi hỏi quả thứ ba đâu. Lúc này vợ tôi mới nguảnh đầu nhìn vào chỗ để táo, thấy còn có hai quả, lạnh lùng bảo tôi:

- Anh họ ơi? Em chẳng biết ra sao cả.

Nghe nàng đáp thế, tôi cho ngay là người nô lệ kìa đã nói đúng. Một cơn ghen tuông như bão tố nổi lên, tôi rút dao vẫn cài ở thắt lưng, đâm một nhát trúng tim con khốn nạn. Rồi tôi cắt đầu, chặt ngườI nàng ra mấy khúc, cho vào cái túi gấp và sau khi khâu miệng túi bằng một sợi len đỏ, tôi nhét cái túi vào một chiếc hòm gỗ, đợi trời tối, vác lên vai và quẳng xuống sông Tigre.

Hai đứa con của tôi đều đã đi ngủ, đứa con lớn đã đi đâu ra khỏi nhà. Khi tôi về thì thấy nó đang ngồi tựa cửa và khóc nức nở. Tôi hỏi vì sao nó khóc. Nó nói:

- Cha ơi, sáng nay con lấy trộm của mẹ một quả táo mà cha đã mang về đó. Con vẫn chưa ăn vì mải chơi với một lũ bạn thì giữa lúc đó một người nô lệ cao lớn đi qua đã giật mất quả táo trong tay con rồi bước rảo đi. Con đuổi theo đòi lại và nói với hắn là mẹ ốm, cha đã phải đi lùng tìm suốt nửa tháng mới mua về cho mẹ được ba quả táo. Nhưng vô ích, hắn vẫn không chịu trả và vì con vẫn đi theo để lớn tiếng đòi, hắn quay lại đánh con rồi gié chân chạy, luồn qua các ngõ hẻm mất hút. Từ lúc đó con đi lang thang ra ngoài thành phố chờ cha về để xin cha đừng nói gì với mẹ kẻo mẹ lại ốm thêm thì khổ.
Nói xong, con tôi lại ôm mặt khóc nức nở.

Những lời kể của con làm tôi bàng hoàng đau đớn không sao tả xiết. Tôi đã phạm tội ghê gớm, hối hận nhưng đã quá muộn. Tôi đã mù quáng tin vào những lời bịa đặt của tên nô lệ khốn kiếp, nó đã dựa vào lời con tôi để dựng lên một câu chuyện hoang đường tai hại mà tôi đã cho là thật. Chú tôi, có mặt tại đây khi đến thăm con gái đã biết được chuyện đau lòng này. Tôi không giấu ông tí gì và không đợi ông lên án, tôi đã tự kết tội mình là một tên sát nhân tồi tệ nhất trong thiên hạ.

Thế nhưng, đáng lẽ phải đánh mắng xỉ vả tôi đến nơi đến chốn, một việc tất nhiên và hợp lý, thì ông lại cùng tôi chia sẻ nỗi đau, suốt ba ngày tôi và ông cùng khóc ròng. Ông, vì mất người con gái mà ông yêu thương nhất mực; tôi vì mất một người vợ yêu quí mà tôi đã tự tay mình sát hại một cách vô cùng hung ác chỉ vì nhẹ dạ cả tin vào một tên nô lệ dối trá khốn kiếp.
Bẩm đấng Thống lĩnh các tín đồ, đó là tất cả sự thật mà Người đòi hỏi tôi phải thổ lộ. Lúc này, Người đã rõ nhũng hoàn cảnh đã đẩy tôi tới chỗ phạm tội ác, xin Người hãy ra lệnh trừng phạt. Dù cho hình phạt kia có nặng nề khắc nghiệp tới đâu, tôi cũng chẳng dám kêu ca nửa tiếng và còn thấy là hãy còn quá nhẹ.

Nghe lọt tất cả câu chuyện, hoàng đế vô cùng sửng sốt”

Scheherazade, kể tới đây thấy trời đã hửng sáng bèn ngừng lời. Nhưng đêm sau, nàng lại kể tiếp:

***

Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị hoàng đế này cực kỳ kinh ngạc về những điều chàng trai vừa kể. Nhưng ông là một vị vua công minh nên thấy chàng đáng được thương xót hơn là phải đối xử như một tội phạm nên phán rằng:

- Hành động của chàng trai này đáng được khoan dung trước Thượng đế và đáng được đại xá trước loài người. Tên nô lệ độc ác kia là nguyên nhân chính của vụ án sát nhân này. Nó là tên duy nhất cần phải trừng phạt. Vì vậy Ông ngoảnh về phía tể tướng nói - Ta cho nhà ngươi ba ngày để tìm ra nó. Nếu nhà ngươi, trong thời hạn đó mà không lôi được cổ nó về đây thì ta sẽ treo cổ ngươi thay nó.

Viên tể tướng khốn khổ tưởng là đã thoát nạn, nào ngờ lại phải nhận cái lệnh mớI oái oăm này của hoàng đế. Nhưng vì không dám cãi lại một ông vua mà ông đã biết rõ tính tình, nên chỉ còn cách là lảng đi và trở về nhà nước mắt rơi lã chã, chắc mẩm là còn sống được ba ngày nữa thôi. Tin chắc là không sao có thể tìm thấy được tên nô lệ đó nên ông chẳng mảy may nghĩ tới việc lùng tìm. Ông nghĩ bụng: “Làm sao mà phân biệt nổi trong thành Bagdad này có đến hàng ngàn vạn nô lệ da đen, để chỉ được đích danh một tên là thủ phạm. Trừ phi có Thượng đế ra tay giúp đỡ như Người đã giúp cho khám phá ra kẻ sát nhân vừa rồi, còn thì chẳng gì có thể cứu được ta lúc này”.

Hai ngày đầu ông cùng với gia đình thở than khóc lóc, rên rỉ về sự hà khắc của hoàng đế. Ngày thứ ba tới, ông chuẩn bị sẵn sàng chết một cách cứng cỏi như một ông quan công minh, liêm khiết chẳng hề có một điều gì đáng trách dù hết sức nhỏ nhặt. Ông cho vời các pháp quan và nhân chứng tới đông ký vào di chúc trước mặt họ. Sau đó ông ôm hôn vợ và các con nói lời vĩnh biệt. Toàn thể gia đình ông than khóc om sòm. Thật không có một cảnh tượng nào đáng xúc động hơn.

Cuối cùng, một viên quan cảnh vệ hoàng cung đi tới cho biết là hoàng đế sốt ruội vì chẳng có tin tức gì về ông cũng chẳng có tin tức gì về tên nô lệ da đen mà Người đã lệnh cho ông truy tìm. Viên quan đó nói thêm:

- Tôi được lệnh tới mờI ngài vào cung bệ kiến.

Ngài tể tướng đau khổ sửa soạn mũ áo để đi theo viên quan. Nhưng vừa định bước ra cửa thì người nhà đưa tới cô con gái út của ông chừng năm, sáu tuổi, để ông được nhìn thấy lần cuối cùng.

Vì rất mực yêu thương cô con gái út bé bỏng này nên ông xin viên quan cảnh vệ được nán lại một lát. Rồi ông tới gần con gái, ôm lấy cô bé và hôn đi hôn lại. Khi ôm hôn, ông cảm thấy con gái có cái gì cồm cộm ở ngực, lại toả ra mùi thơm, ông hỏi:
Con gái yêu quí của cha, con có cái gì ở ngực thế?

- Cha yêu quí của con - Cô bé đáp - Đó là một quả táo trên đó có viết tên hoàng đế, lãnh chúa và là ông chủ của chúng ta. Rihan, nô lệ của nhà ta đã bán cho con hai đồng equin đấy.

Nghe nói đến quả táo và nô lệ, tể tướng Giafar kêu lên ngạc nhiên pha lẫn vui mừng, lập tức thò tay vào ngực áo con lôi ra một quả táo. Ông cho gọi người nô lệ, không ở xa đó mấy, và khi tên này đã đứng trước mặt, ông hỏi:

- Marand, mày lấy quả táo này ở đâu?

- Thưa ngài - Tên nô lệ đáp - Tôi thề là không lấy trộm quả táo này ở nhà ngài cũng như ở trong vườn của đấng Thống lĩnh các tín đồ. Ngày hôm nọ, khi tôi đl qua một đường phố có ba bốn đứa trẻ đang chơi đùa, thấy trong tay một đứa có quả táo tôi đã giật lấy mang đi. Đứa bé chạy theo tôi nói quả táo không phải của nó nhưng là của mẹ nó đang ốm, là cha nó phải đi rất xa mới mua được ba quả mang về cho mẹ nó đỡ cơn thẻm. Đây là một quả nó lày vụng mẹ. Nó van xin tôi trả lại cho nó, nhưng tôi không nghe, mang về nhà và bán cho bé tiểu thư nhà ngài lấy hai đồng equin. Đó là tất cả sự thật tôi xin trình ngài rõ.

Tể tướng Giafar không sao có thể tưởng tượng được là sự dối trá của một tên nô lệ lại là nguyên nhân của cái chết thảm khốc của một người đàn bà vô tội và gần hầu như cả là nguyên nhân cái chết của chính mình nữa. Ông dẫn tên nô lệ theo và khi đứng trước hoàng đế ông kể lại cho nhà vua nghe chi tiết tất cả những gì tên nô lệ đã trình bày và do tình cờ ra sao mà ông khám phá ra tội phạm.

Không có gì có thể đánh giá được sự ngạc nhiên của hoàng đế. Ông không sao ngăn được một tràng cười ròn rã. Cuối cùng, lấy lại vẻ nghiêm trang, ông bảo tể tướng là vì nô lệ của tể tướng đã gây nên một vụ lộn xộn thật là kỳ cục vậy nó xứng đáng phải chịu một hình phạt để làm gương.

- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Thần chẳng dám phủ nhận. Nhưng tội ác của nó không phải là không thể dung xá. Thần biết một chuyện còn kỳ thú hơn về một tể tướng xứ Caue tên là Noureddin Ali và Bedreddin Hassan ở Balsora. Vì bệ hạ cũng rất muốn nghe những chuyện tương tự, thần xin sẵn sàng kể hầu Người với điều kiện là nếu Người thấy hay lạ hơn câu chuyện này thì xin Người gia ân tha cho tên nô lệ của thần.

- Ta cũng muốn vậy - Hoàng đế nói - Nhưng sợ nhà ngươi phiêu lưu, ta không tin là sẽ cứu được tên nô lệ của ngươi vì câu chuyện về những quả táo thật vô cùng kỳ lạ.

Tể tướng Giafar hắng giọng bắt đầu câu chuyện như sau:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:17:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16

NOUREDDIN ALI VÀ BEDREDDIN HASSAN


- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, ngày xưa ở đất nước Ai-cập có một vị hoàng đế chí công, chí đức và rất hùng mạnh khiến cho các lân bang đều nể vì sợ hãi. Ông yêu thương dân nghèo và chở che cho các nhà thông thái mà ông đưa lên giữ những trọng trách trong triều đình. Tể tướng của hoàng đế là một người sắc sảo, khôn ngoan, thận trọng, thông thạo thư pháp và tất cả các môn khoa học. Vị trọng thần này có hai con trai khôi ngô tuấn tú và đều có nhiều nét giống cha. Người anh tên là Schemseddin Mohammed và người em là Noureddin Ali. Đặc biệt người, em có nhiều đức tính mà bao người thèm muốn. Tể tướng, cha của hai chàng đã mất, nhà vua mời cả hai anh em về triều và phong cho cả hai chức vị tể tướng thường.

- Ta vô cùng thương cảm - Người bảo hai người - Về sự mất mát mà các con đang phải chịu đựng. Ta cũng thương tiếc cha con không kém gì các con. Để thể hiện tình cảm đó, và ta biết là các con luôn sống bên nhau đoàn kết yêu thương nhau nên ta phong cho các con cũng một tước vị. Các con hãy noi theo gương sáng của cha các con.

Hai tể tướng mới cảm tạ tấm lòng nhân ái 1của hoàng đế, trở về nhà, chăm nom phần mộ của cha. Một tháng sau, họ xuất hành lần đầu, và tham dự triều chính lần thứ nhất, và từ đó trở đi họ đều đều có mặt trong những buổi thiết triều. Mỗi lần hoàng đế đi săn, một trong hai anh em được đi hộ giá, và lần lượt thay phiên nhau để hưởng vinh dự đó.

Một hôm, sau bữa cơm chiều, hai anh em trò chuyện bàn bạc với nhau nhiều vấn đề linh tinh. Đó là trước cái buổi mà người anh được cùng hoàng đế đi săn. Chàng trai trẻ bảo em:

Em này, cả hai chúng ta đều chưa thành hôn và chúng ta sống cùng nhau thật là hoà thuận, anh chợt có một ý: chúng ta hãy cùng cưới một ngày, lấy hai chị em mà chúng ta sẽ chọn lựa trong một gia đình nào đó phù hợp với chúng ta. Em nghĩ sao về cái ý tưởng đó?

- Em thấy - Noureddin Ali đáp - Thật rất xứng vớI tình thân đã gắn bó chúng ta. Anh ạ, không gì hay hơn ý tưởng đó. Về phần em, em sẵn sàng tuân theo anh.

- Ồ, chưa phải là tất cả đâu – Schemseđdin Mohammed nói tiếp - Trí tưởng tượng còn đi xa hơn kla: giả dụ là những người vợ của chúng ta đều mang thai ngay trong đêm đầu tiên của ngày cưới và sau đó các nàng cùng lâm bồn một ngày, vợ em sinh con trai và vợ anh sinh con gái thì khi chúng đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ cho chúng thành vợ thành chồng.

- Ôl? Cái đó thì - Noureddin Ali kêu lên - Phải thú thực là dự kiến đó thật tuyệt vời? Cuộc hôn nhân đó làm anh em ta càng thêm gắn bó mật thiết, em hết sức tán thành. Nhưng, anh ơi - Chàng nói thêm - Nếu trường hợp có cuộc hôn nhân đó, thì anh có định là con trai em phải có một khoản hồi môn cho con gái anh không?

- Cái đó là tất nhiên rồi - Người anh nói - Anh chắc chắn là, ngoài những thủ tục thường tình của việc lập giá thú thì chú chắc là không quên trao cho đúng tên nó ít nhất là ba nghìn đồng sequin, ba mảnh đất màu mỡ kèm với ba nô lệ.

- Em làm sao mà đồng ý như vậy được . Người em phản bác - Phải chăng chúng ta chẳng phải là anh em ruột thịt và là bạn đồng liêu, cùng một chức sắc như nhau? Vả lại cả anh và em, phải chăng chúng ta không biết thế nào là sai, thế nào là đúng? Con trai bao giờ cũng phải quý hơn con gái chứ? Chính anh phải chi một khoản hồi môn lớn cho con gái mình mới đúng chứ? Cứ như em thấy thì anh là một con người chuyên lợi dụng trên lưng vốn người khác.

Dù là Noureddin Ali vừa nói vừa cười, nhưng ngườI anh, có tính cố chấp, coi như bị xúc phạm:

- Thật bất hạnh cho con trai chú - Người anh giận dữ nói. Chú lại dám đánh giá nó cao hơn con gái tôi ư? Tôi thật ngạc nhiên là chú dám bạo gan cho là con trai chú xứng với con gái tôi đấy. Phải nói là chú mất trí mới dám sánh ngang với tôi mà nói chúng ta là đồng liêu. Hãy nghe đây, quân bạo phổi, sau lời lẽ hỗn xược đó, tôi chẳng bao giờ gả con gái tôi cho con trai chú, dù chú có cho nó bao nhiêu của cải đi nữa.

Cuộc cãi vã đáng buồn cười này xảy ra giữa hai anh em về cuộc hôn nhân của hai đứa con chưa sinh đã đưa sự việc đi xa hơn. Schemseddin Mohammed tức giận đến mức đe doạ:

- Nếu ngày mai không phải đi theo hộ giá hoàng đế thì tôi đã cho chú biết tay. Nhưng khi trở về tôi sẽ cho chú biết một người em mà ăn nói láo xược vớI anh mình như chú đó thì sẽ phải ra sao.

Nói xong, anh ta rút về phòng riêng, và người em cũng về phòng mình.

Schemseddin Mohammed sáng hôm sau dậy sớm vào hoàng cung và từ đó đi ra cùng hoàng đế theo đường phía trên thành Caire, hướng Kim tự tháp. Còn Nouređdin Ali trằn trọc cả đêm không ngủ và sau khi cân nhắc kỹ thấy khó có thể sống lâu dài cùng người anh đã đối xử với mình quá hách dịch, cao ngạo. Chàng phác trong đầu một quyết định, cho sửa soạn một con la khoẻ mạnh, mang theo tiền, đồ châu ngọc quý và một ít lương thực và sau khi bảo người nhà là đi du lich khoảng vài ba ngày và muốn đi một mình thôi. Thế là chàng lên đường.

Khi đã ở bên ngoài thành Caire, chàng đi xuyên qua sa mạc tới vùng Arabie. Nhưng con la của chàng đã gục chết giũa đường, chàng bắt buộc phải đi bộ. May thay, có một người làm nhiệm vụ giao thông liên lạc đi Balsora cho đi cùng, được ngồi trên ngựa phía sau anh ta. Tới Balsora, cám ơn người bạn tốt bụng, Noureddin Ali xuống ngựa rồl đi dọc theo các phố tìm chỗ nghỉ chân. Giữa lúc đó, chàng trông thấy một quan chức cùng với đoàn tuỳ tùng rất đông đi tới. Dân chúng hai bên đường đều tỏ vẻ cung kính, dạt ra hai bên cho đoàn người đi qua. Noureddin cũng dừng lại như mọi người và biết đó là tể tướng của quốc vương Balsora đi thị sát trong thành phố để, với sự có mặt của mình, động viên dân chúng giữ gìn trật tự an ninh.

Vị đại thần này, vô tình liếc mắt nhìn chàng trai thấy khuôn mặt chàng thật dễ coi, ông ta nhìn chàng đầy thiện cảm. Và vì ông đi thị sát gần chàng, thấy là người vận y phục đi đường nên dừng lại hỏi chàng là ai và từ đâu đến.

- Thứa ngài - Noureddin Ali đáp- Tôi là người đất nước Ai-cập, sinh tại Caire, xa rời xứ sở vì có chuyện xích mích với một người trong dòng họ. Tôi đã quyết định là sẽ đi chu du khắp thiên hạ và thà chết ở đâu đó còn hơn là phải trở về.

Tể tướng là một ông già đáng kính, nghe chàng thanh niên nói thế, bảo chàng:

Con trai của ta ạ. Con hãy nên gạt bỏ cái ý định đó đi. Ở thế gian này chỉ toàn là khổ ải mà thôi và con có biết là sẽ có bao nhiêu nỗi nhọc nhằn mà con sẽ phải hứng chịu khi đi lang thang như thế không? Thôi, con hãy đi theo ta, có thể ta sẽ làm cho con quên di cái nguyên nhân đã buộc eon phải rời bỏ quê hương.

Noureddin Ali đi theo tể tướng Balsora, ông này, qua chuyện trò thấy chàng trai có nhiều đức tính thật tốt đẹp nên đã đem lòng yêu mến. Một hôm, trong đàm đạo riêng, ông bảo chàng:

Con trai ơi, như con thấy đấy, ta đã quá già rồi, chắc chả còn sống được bao lâu nữa. Trời cho ta một người con gái duy nhất mà sắc đẹp của nó cũng chẳng kém vẻ khôi ngô của con. Con ta lúc này đang ở tuổi gả chồng. Rất nhiều các đại thần trong triều này đã ngấp nghé hỏi cho con trai họ, nhung ta chưa đồng ý nhận lờI với ai cả. Còn với con, ta yêu quý con và thật xứng đáng để kết thân hơn tất cả bao đám khác, nên ta sẵn sàng nhận con là con rể của ta. Nếu con vui vẻ nhận lời thì ta sẽ tâu với hoàng đế để Người biết rõ và ta sẽ xin vớI Người cho con được nối nghiệp ta làm tể tướng ở vương quốc Balsora này. Đồng thời, vì tuổi già của ta cần có sự nghỉ ngơi an dưỡng, nên không những ta để lại cho con toàn bộ tài sản mà cả quyền hạn trong việc cai trị và xử lý các công vụ của vương quốc.

Vị tể tướng Balsora đầy lòng khoan dung nhân hậu chưa dứt lời thì Noureddin Ali đã vội sụp quỳ xuống bên chân ông, tỏ vẻ mừng vui và hàm ân sâu sắc, sẵn sàng làm tất cả những gì để làm cho vị tể tướng già nua tuổi tác này đặc biệt hài lòng. Thế là ông cho triệu tập tất cả những quan chức chủ yếu trong dinh tể tướng lại, ra lệnh cho họ trang hoàng gian đại sảnh và làm đại tiệc. Rồi ông đưa giấy mời tới tất cả các đại thần trong triều và các thân hào trong thành phố hạ cố tới dinh. Khi đã tề tựu đông đủ và vì ông đã biết rõ nhân thân của Noureddin Ali nên thấy tới lúc này là phù hợp để cho mọi người rõ sự việc, để khỏi có sự phật lòng của những người trước đây ông đã từ chối việc kết thân. Ông nói với tất cả:

- Thưa các ngài, tôi lấy làm sung sướng và hài lòng được nói với các ngài một việc mà tôi đã giữ kín đến tận hôm nay. Tôi có một người em trai là tể tướng của đất nước Ai-cập cũng như tôi có vinh hạnh được làm tể tướng vương quốc này. Chú em của tôi chỉ có một con trai và không muốn thành hôn tại triều đình Ai-cập và chú ấy gửi cháu đến chỗ tôi cưới con gái tôi để hai ngành họ càng thêm mật thiết. Người con trai, con của chú em, cháu của tôi mà tôi nhận làm con rể là chàng trai mà các ngài thấy đây, tôi xin trân trọng giới thiệu với các quý ngài. Tôi mong là các ngài rủ lòng thương cháu và vui lòng dự tiệc cưới của các cháu mà tôi đã quyết định tổ chức hôm nay.

Không một ai trong số các quan chức thấy việc chọn cháu ruột của mình làm con rể so với các đám khác muốn dạm hỏi là không chính đáng nên tất cả đều đồng thanh chúc mừng cuộc hôn nhân này. Họ đều vui lòng đứng ra làm chứng cho hôn lễ và chúc cho tể tướng được Thượng đế phù hộ cho trường thọ để được nhìn thấy kết quả của cuộc hôn phối đẹp đẽ và hạnh phúc này .

Đến đây, Scheherazade thấy trời hửng sáng nên ngừng lại và kể tiếp vào đêm sau:

***

- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện đang bỏ dở cho hoàng đế nghe:

“ Các quan chức tập hợp tại dinh tể tướng Balsora tỏ vẻ hết sức vui mừng về cuộc hôn nhân của con gái ông với Noureddin Ali. Tất cả, sau đó, ngồi vào bàn, ăn uống, chuyện trò rất lâu. Xong bữa, họ dùng đến các thứ mứt và hoa quả mà theo tục lệ mỗi người đều được lấy phần ít nhiều tuỳ thích để mang về nhà. Các pháp quan đi vào với giấy tờ giá thú trong tay. Các nhà chức trách chính yếu lần lượt ký vào rồi sau đó tất cả đều bái biệt ra về.

Khi chỉ còn người trong nhà, tể tướng trao trách nhiệm cho những gia nhân đã được chỉ định, đưa chú rể đi tắm rửa, ở đó Noureddin Ali được thay toàn bộ áo quần mới sạch đẹp cùng với nhiều thứ cần dùng khác. Chàng trở lại gặp tể tướng trong bộ y phục sang trọng thơm tho làm cho ông bố vợ hết sức vui vẻ khi nhìn thấy khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của chàng rể mới. Ông bảo chàng ngồi xuống cạnh mình rồi bảo:

- Con đã cho ta biết con là ai, địa vị của con ở triều đình Ai Cập; con cũng đã nói cho ta biết vì mâu thuẫn vớI anh ruột mình mà con phải rời xa đất nước, ta xin con hãy tâm sự với ta trọn vẹn cho ta biết nguyên nhân mà anh em con cãi lộn. Bây giờ con hãy hoàn toàn tin tưởng và đừng nên giấu ta điều gì hết.

Noureddin Ali kể lại cho ông nghe tất cả chi tiết của sự bất đồng giữa hai anh em. Ngài tể tướng không sao nhịn được cười khi nghe xong câu chuyện.

- Đó thật là - Ông nói - một chuyện kỳ lạ nhất trên đời này! Có thể thế được không hả con, là cuộc tranh cãi đi đến quyết liệt chỉ vì một cuộc hôn nhân tưởng tượng? Ta thấy bất bình là con bất hoà với anh con chỉ vì một chuyện ba láp không đâu vào đâu cả. Tuy nhiên ta cũng thấy là anh con có chỗ sai là đã quá tự ái không cho là con chỉ nói đùa vui mà gán cho con tội hỗn xược. Mặt khác ta cũng phải cảm tạ ông trời là cũng vì có sự bất đồng giữa hai anh em mà ta được một người con rể như con. Nhưng mà - Ông già nói tiếp - đêm đã khuya rồI đấy con nên đi nghỉ thôi. Đi đi, con trai ta, vợ con đang chờ con đấy. Ngày mai ta sẽ đưa con đến bệ kiến hoàng đế Ta tin rằng Người sẽ tiếp con một cách mà cả hai ta đều thấy hài lòng.

Noureddin Ali tạm biệt bố vợ để về phòng riêng với vợ. Có một điều đặc biệt - Tể tướng Giafar nói tiếp - là , cũng vào ngày cuộc hôn lễ của Noureddin Ali diễn ra ở Balsora thì Schemseddin Mohammed, người anh đang đi săn với hoàng đế Ai Cập và chỉ trở về sau một tháng vì nhà vua quá say mê với cuộc săn nên cũng vắng mặt trong triều suốt thời gian đó. Khi trở về chàng đến ngay nhà Noureddin Ali và rất ngạc nhiên khi biết em chàng lấy cớ là đi du lịch vài ba ngày, cưỡi một con la đi trùng với ngày đi săn của hoàng đế, và từ ngày đó biệt tăm. Chàng cũng không ngờ là những lời nói quá cay nghiệt của mình lại là nguyên nhân làm cho em chàng xa lánh. Chàng phái một giao liên qua Damas và tới tận Alep, nhưng lúc này Noureddin đang ở Balsora thì làm sao mà tìm được. Khi người giao liên thất bại trở về, Schemseddin Mohammed dự định phái hắn đi tiếp tìm ở những nơi khác nhưng trong lúc chờ đợi, chàng quyết định hãy cưới vợ đã. Chàng lấy con gái của một trong các trọng thần uy danh nhất thành phố Caire và tổ chức cùng một ngày với người em lấy con gái tể tướng Balsora.

Nhưng chưa phải đã hết – Giafar kể tiếp - Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, đây là chuyện còn lạ hơn: Chín tháng sau, vợ Schemseddin Mohammed đẻ con gái ở Caire và cũng cùng ngày đó vợ Noureddin cho ra đời ở Balsora một đứa con trai đặt tên là Bedreddin Hassan. Tể tướng Balsora tổ chức ăn mừng linh đình đón cậu cháu ngoại. Rồi, để tỏ lòng mến yêu chàng rể quí, ông vào cung bệ kiến hoàng đế, thiết tha cầu xin Người gia ân mưa móc cho Noureddin Ali được nối nghiệp mình để ông nói - trước khi nhắm mắt ông được thấy con rể là tể tướng thay chỗ của mình.

Hoàng đế đã lấy làm hài lòng hôm thấy chàng tôi bệ kiến sau hôn ìễ, sau đó lại được nghe nhiều lời tốt đẹp về chàng nên đã chuẩn y lời cầu xin của vị trọng thần với tất cả sự tán thưởng đáng mong ước. Nhà vua cho chàng mặc ngay triều phục tể tướng trước mặt Người.

Sự hân hoan của ông bố vợ càng được nhân lên bội phần khi ngày hôm sau ông thấy chàng rể của ông chủ toạ một cuộc họp thay ông và điều hành tất cả sự vụ của một tể tướng. Noureddin Ali thông thạo công việc như tất cả cuộc đời của chàng đã từng làm chức trách đó. Sau này chàng tiếp tục về sau này, tham dự các cuộc họp mà vì tật bệnh của tuổi già không cho phép bố vợ tới được. Vị tể tướng già nhân hậu này qua đời bốn năm sau ngày cưới con gái, mãn nguyện là có người nối dõi làm vẻ vang cho cả dòng họ.

Noureddin Ali đã tổ chức tang lễ cho bố vợ thật trang trọng với tất cả tình thương yêu và lòng tri ân sâu sắc. Chẳng mấy chốc mà cậu con trai Bedreddin Hassan được tròn bảy tuổi. Chàng trao con vào bàn tay dạy đỗ của một ông thầy đức hạnh giỏi giang cho cậu con vào khuôn phép xứng đáng với dòng dõi xuất thân của mình. Chàng đã thấy trong đứa bé này một trí thông minh lanh lợi sắc sảo có thể tiếp thu được tất cả những điều dạy bảo”.

Scheherazade định kể tiếp nhưng thấy trời đã hửng sáng, nàng bèn dừng lại. Đêm sau, nàng kể tiếp, với hoàng đế quốc gia Ấn Độ như sau:

***

- Tâu bệ hạ, - tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện cho vị hoàng đế nghe:

Hai năm sau - Ông nói - Bebreddine Hassan được ông thầy dạy cho đọc thạo, đã thuộc lòng quyển kinh Coran. Noureddin Ali, cha cậu, mời những ông thầy khác huấn luyện cho cậu cho đến năm mười hai tuổi thì Bebreddine Hassan đã học hết chữ của các thầy. Lúc này khuôn mặt của cậu đã định hình khiến cho người nào nhìn thấy đều đem lòng ái mộ và khâm phục.

Mãi tới lúc này, Noureddin Ali chỉ nghĩ một điều là động viên cho con dùi mài kinh sử chứ chưa cho xuất đầu lộ diện ngoài xã hội. Ông đưa cậu tới cung điện là để cho cậu có vinh dự được bái kiến hoàng đế mà ông đã được Người chiếu cố có phần ưu ái. Những bậc đại quan gặp cậu trên đường phố đều rất ngưỡng mộ vẻ đẹp trai của cậu thường thốt lên lời kinh ngạc và chúc tụng cậu hết lời.

Vì cha cậu có dự định là bồi dưỡng cho cậu có đầy đủ năng lực để một ngày kia sẽ thay thế ông, nên không ngẩn ngại bắt cậu đi sâu vào những sự vụ thật khó để cậu làm quen sớm với những công vụ nặng nề. Ông không nề hà bất cứ một việc gì để có thể làm cho cậu con trai vô cùng yêu quí của mình tiến bộ mau chóng và khi ông bắt đầu được hưởng thành quả của bao công lao khó nhọc thì bất ngờ ông bị bạo bệnh và cảm thấy là cái ngày gần đất xa trời của ông chẳng còn bao lâu nữa. Vì vậy, cũng chẳng còn gì phải ân hận, ông quyết định phải xa rời cõi thế như một tín đồ Hồi giáo thực thụ. Trong cái thời khắc quí báu này ông không quên con trai Bebreddin yêu quí của mình. Ông cho gọi chàng đến và dặn dò:

- Con của cha? Con thấy rõ là ở thế gian này chặng ai tránh khỏi cái chết. Chỉ có thế giới bên kia, nơi mà cha sắp đi sang, là vĩnh cửu. Ngay từ bây giờ con phải bắt đầu đặt mình vào việc dàn xếp như cha lúc này. Con hãy sửa soạn để bước qua đoạn đường này trong lòng không chút nuối tiếc và lương tâm yên ổn vì đã làm tròn trách nhiệm của một tín đồ Hồi giáo cũng như một công đân hoàn toàn lương thiện. Về mặt tôn giáo, qua các thầy và các sách vở, con đã được hiểu biết đầy đủ, về đạo làm người, để làm một con người chính trực. Cha sẽ cho con biết một số lời răn dạy mà con nên cố gắng mang ra thực hành. Vì điều tối cần thiết là tự mình phải biết mình và con sẽ chẳng làm được điều đó khi chưa biết rõ cha là ai thì đây cha sẽ cho con biết.

“Cha được sinh ra ở Ai Cập - Ông nói tiếp . Cha của cha tức là ông nội con là tể tướng của hoàng đế vương quốc. Bản thân cha cũng có vinh dự là một trong những tể tướng của đấng quốc vương này cùng với người anh, bác của con mà cha chắc là còn sống và có tên là Schemseddin Mohammed. Cha buộc phải chia tay với bác của con và tới vương quốc này mà ở đây cha đã đạt tới cương vị mà cha còn giữ đến bây giờ. Nhưng con sẽ nắm được rõ hơn tất cả những sự kiện này trong một quyển vở mà cha sẽ trao cho con đây. Đồng thời, Noureddin Ali lấy quyển vở tự tay ông viết mà ông luôn mang theo bên người đưa cho Bebreddin Hassan:

- Con hãy cầm lấy - Ông bảo con - Và những lúc rỗI rãi con hãy đem ra đọc, con sẽ thấy trong đó, bao sự kiện khác, ngoài ngày cha thành hôn và ngày con ra đời. Đó là những cảnh ngộ nó có thể giúp ích cho con sau này nên con cần luôn trân trọng giữ gìn.

Bebreddin Hassan, vô cùng xúc động thấy cha ở trạng thái yếu mệt, mủi lòng vì những lời khuyên nhủ, cầm lấy quyển vở mà nước mắt chan hoà. Chàng hứa vớI cha là luôn luôn ghi nhớ những lời dạy bảo.

Giữa lúc đó, Noureddin Ali bị một cơn suy nhược đã tưởng ông sắp thở hơi thở cuối cùng. Nhưng rồi ông lại hồi lại và nhẹ nhàng bảo con:

- Con của cha? - Ông nói - Phương châm cuộc sống thứ nhất mà cha truyền đạt cho con là không được nhẹ dạ cả tin. Để cỏ một cuộc sống vững chắc bảo đảm, hãy đặt niềm tin hoàn toàn vào bản thân mình và tránh mọi sự liên hệ dễ dãi.

Phương châm thứ hai là không được sử dụng bạo lực với bất kỳ ai vì trong trường hợp này, tất cả mọi người sẽ nổi dậy chống lại con. Con phải coi thiên hạ như một ngườI chủ nợ mà con phải luôn ôn nhã, thông cảm và độ lượng. Phương châm thứ ba là không mở miệng trước những lời nhục mạ. Có một câu phương ngôn hay cần nhớ là:

Người ta sẽ thoát hiểm khi biết giữ im lặng . Đặc biệt là trong hoàn cảnh này con phải đem ra thực hành. Chắc con cũng đã biết là về chủ đề này một trong số nhà thơ của chúng ta đã nói: sự im lặng là một thứ trang sức và bảo vệ sinh mệnh, chớ nên như một cơn mưa giông phá hoại tất cả khi mở miệng. Người ta không bao giờ phải hối hận khi im lặng, ngược lại luôn phải buồn phiền tức giận vì đã phát ngôn thiếu suy nghĩ chín chắn.

Phương châm thứ tư là không uống rượu. Rượu là nguyên nhân của mọi thói xấu.

Phương châm thứ năm là tiết kiệm tiền của. Nếu con không hoang phí, nó sẽ tránh cho con mọi sự khó khăn. Tuy nhiên cũng chớ nên quá bủn xỉn keo kiệt. Chi tiêu phù hợp và đúng lúc, ngang bằng với khả năng của mình, con sẽ có nhiều bạn thân, nhưng nếu ngược lại con giàu có nứt đố đổ vách nhưng tiêu sài hoang phí, ném tiền qua cửa sổ thì mọi người sẽ xa lánh và bỏ rơi con đó.

Noureddin Ali đến tận phút cuối cùng của cuộc sống, không ngừng khuyên con những điều hay điều tốt. Khi ông nhắm mắt xuôi tay, đám tang của ông thật trang trọng và đông đúc....

Scheherazade kể đến đây thì trời hửng sáng. Nàng ngừng nói và dành đoạn tiếp vào đêm sau.

***

Hoàng hậu vương quốc Ấn Độ được cô em Dinarzade đánh thức đúng giờ thường lệ, nàng cất tiếng và nói với Schahriar:
Tâu hoàng thượng, vị hoàng đế này say sưa nghe tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện:

Thế là Noureddin Ali được an táng trọng thể phù hợp với cương vị của ông. Bebreddin Hassan của Balsora, người ta gọi thế vì chàng được sinh ra ở thành phố này, đau thương vô hạn vì đã mất một người cha thân yêu. Theo tục lệ thì cứ tang trong một tháng nhưng chàng đã ở tại nhà khóc than suốt hai tháng liền chẳng đi đến đâu và cũng chẳng tới triều để làm nhiệm vụ bầy tôi đối với quốc vương Balsora. Nhà vua rất bất bình về sụ trễ nải của chàng và coi đó là biểu hiện của sự coi thường triều đình và cả bản thân ông nên không nén khỏi tức giận. Trong cơn giận dữ lôi đình, nhà vua cho gọi tể tướng đầu triều mới tới, vì ông đã chọn người thay khi hay tin Noureddin Ali mất, ra lệnh cho ông này tới nhà cố tể tướng tịch biên toàn bộ gia sản, đất đai, đồ đạc... không để lại cho Hassan một chút gì mà còn ra lệnh bắt giữ cả chàng nữa.

Ngài tể tướng mới cùng với rất đông quân cận vệ hoàng cung, các pháp quan và các quan chức khác rầm rộ kéo đi thực hành sứ mệnh. May thay, một trong những nô lệ của Bebreddin Hassan tình cờ có mặt trong đám đông nghe thấy được ý đồ của tể tướng đã chạy nhanh đến trước và báo tin đó với chủ. Y thấy Hassan ngồi dưới tiền đình ngôi rthà, buồn rầu ảo não nhớ thương cha. Y chạy vào thở hổn hển ôm lấy chân chàng và sau khi đặt môi hôn vào gấu áo chàng, y bảo:

- Ngài hãy trốn ngay đi! Phải trốn nhanh!

- Có chuyện gì vậy? - Hassan ngẩng đầu lên hỏi - Ngươi đem tới cho ta tin gì nào?

- Thưa ngài - Y đáp - không nên để mất thì giờ nữa. Hoàng đế đang trong cơn thịnh nộ khủng khiếp đối với ngài và cho người tới tịch biên toàn bộ những gì ngài đang có và còn bắt giữ ngài nữa.

Lời mách bảo của tên nô lệ trung thành và rất yêu quí chủ đã khiến chàng hết sức sững sờ.

- Thế ta không thể - Chàng nói - có chút thời gian nào để vào nhà cầm theo một ít tiền và vài thứ đồ châu ngọc nữa ư? .
Không thể được, thưa ngài - Người nô lệ nói - viên tể tướng sẽ có mặt tại đây trong một lát nữa thôi. Ngài hãy đi ngay, trốn mau đi.

Bebreddin Hassan vội vã đứng lên, xỏ chân vào đôi dép, lật một vạt áo lên che đầu và mặt rồi lẩn nhanh ra bên ngoài không cần biết phải đi về hướng nào để thoát khỏi mối hiểm nguy đang đe doạ. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là mau chóng thoát ra khỏi thành phố. Chàng chạy một mạch tới nghia trang công cộng và vì đêm đã tới gần, chàng quyết định là sẽ trú thân ở nhà mồ của cha qua đêm. Đó là một công trình kiến trúc vẻ ngoài đồ sộ có mái vòm mà Noureddin Ali hồi sinh thời đã cho xây dựng. Nhưng giữa đường đi tới nhà mồ, chàng gặp một người Do Thái rất giàu có làm nghề buôn bán và cho vay lãi. Ông ta từ một nơi có công việc cần giải quyết và lúc này đang trên đường trở về thành phố.

Người Do Thái này nhận ra Bebreddin, dừng bước và chào chàng rất lễ độ..”

Đến đây, trời vừa sáng, Scheherallade dừng lại và kể tiếp vào đêm sau:

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:17:59 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 16
---------------------------------------------

- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị hoàng đế đó rất chăm chú nghe tể tướng Glafar kể tiếp như sau:

Người Do Thái có tên là Isaac, sau khi chào Bebreddin Hassan và hôn tay chàng, nói:

- Thưa ngài, xin mạo muội được hỏi ngài còn đi đâu vào giờ này, hình như lại đi một mình và tâm trạng khá xúc động? Có việc gì đã làm ngài buồn phiền chăng? Phải - Bebreddin đáp - Vừa rồi trong giấc ngủ ta thấy cha ta hiện về. Người nhìn ta trừng trừng, có vẻ đang rất giận dữ vì điều gì đó. Ta giật mình thức dậy rất lo sợ, nên vội chạy tới đây để cầu nguyện trên nấm mồ của ngưòi.

- Thưa ngài - Người Do Thái không biết lý do vì sao Hassan rời thành phố nói tiếp - Ngài cố tể tướng và cũng là lãnh chúa trong tâm tưởng của tôi, đã chất đầy hàng hoá lên rất nhiều con tàu hiện nay đang còn ở ngoài khơi. Những tàu hàng hoá này đều thuộc quyền sở hữu của ngài. Vì vậy xin ngài cho phép tôi được độc quyền thầu lại. Tôi có đủ tiền để mua lại tất cả số hàng đó. Nếu ngài đồng ý thì tôi sẽ nhận chuyến tàu đầu tiên sắp cập bến an toàn và sẽ đưa ngay ngài khoản một ngàn đồng sequin. Tiền tôi có mang theo đây và sẵn sàng ứng trước.

Bebreddin Hassan, trong tình trạng lúc đó, bị đuổi khỏi nhà, bị lột tất cả những gì có ở trên đời, nhìn nhận đề xuất của người Do Thái như là một ân huệ của trời. Chàng đã nhận lời với sự mừng vui hiếm có.

- Thưa ngài - Người Do Thái hỏi chàng - Vậy là ngài đồng ý để cho tôi chuyến hàng thứ nhất trên, một trong những tàu của ngài sắp cập bến với giá một nghìn đồng sequin chứ?

Vâng, tôi bán cho ông chuyến hàng đó với giá một nghìn đồng sequin - Bebreddin Hassan đáp - Đó là một vấn đề đã thoả thuận.

Tức thì, nhà buôn Do Thái đặt vào tay chàng một túi tiền một nghìn đồng sequin và đề nghị chàng đếm lại. Nhưng Bebreddin nói không cần vì tin vào sự trung thực của ông ta.

- Nếu vậy thì - Nhà buôn Do Thái nói - Xin ngài viết cho một chữ về việc mua bán vừa xong của chúng ta.

Nói đoạn ông ta rút từ thắt lưng ra một cái bàn viết, một que tre đã vót để làm cây viết, đưa cho chàng một mẩu giấy lấy trong cái cặp giấy viết thư và trong khi ông ta cầm lọ mực, Bebreddin viết những chữ sau vào mẩu giấy:

“Giấy chứng nhận: Bebreddin Hassan ở Balsora đã bán cho nhà buôn Do Thái Isaac cả lô hàng trên con tàu thứ nhất cập bến này lấy khoản tiền một nghìn đồng sequin đã nhận đủ - Ký tên: Bebreddin Hassan ở Balsora .

Viết xong chàng trao cho người Do Thái, ông này kẹp vào cặp giấy và xin cáo lui. Trong khi Isaac đi theo con đường dẫn vào thành phố thì Bebreddin Hassan tiếp tục đi tới phần mộ cha là Noureddin Ali. Tới nơi, chàng quỳ xuống mặt gục sát đất, mắt đẫm lệ, miệng than nỗi khổ của mình:

- Than ôi! - Chàng rên rỉ - Bebreddin bất hạnh, mày sẽ ra sao đây? Mày tìm đâu ra một chỗ ẩn thân để tránh tên vua bất minh đang ngược đãi hành hạ mày? PhảI chăng sầu não vì mất một người cha yêu quí thế là chưa đủ sao? Phải chăng số mệnh còn bắt ta phải chịu một tai hoạ mới sau buồn đau nuối tiếc này?

Chàng trầm ngâm rất lâu trong trạng thái này. Nhưng cuối cùng chàng đứng lên tựa đầu mình vào bia mộ cha cảm nỗi đau lại dội lên cuồn cuộn mạnh hơn trước..Chàng không ngừng thở dài kêu than cho tới khi kiệt sức rồi rời đầu mình khỏi tấm bia chàng nằm duỗi dài trên vỉa hè và lim đi.

Tâm hồn phiêu diêu được một lát thì một vị thần linh thường tới ẩn trong nghĩa trang này vào ban ngày, đêm đêm thường bay đi thăm thú các nơi theo thói quen, bất ngờ ngài nhìn thấy một chàng trai trong hầm mộ của Nouređdin Ali, bèn bước vào. Vì chàng trai nằm ngửa nên vị thần sửng sốt, mắt hoa lên vì vẻ khôi ngô tuấn tú của chàng....

Mặt trời nhô lên không cho phép Scheherazade kể tiếp câu chuyện trong đêm nay. Nhưng đêm sau, vào giờ thường lệ, nàng tiếp tục kể:

***

“- Khi vị thần đó - Tể tướng Giafar nói tiếp chăm chú nhìn ngắm Bebreddin Hassan, và tự bảo: Cứ nhìn vào cái vẻ đẹp của sinh linh này, thì có thể đây là một thiên thần của địa đàng mà Thượng đế phái xuống để làm cho cả thế gian này bốc lửa vì nó.

Cuối cùng, sau khi đã nhìn kỹ, vị thần bay lên rất cao trong không trung, tình cờ gặp một tiên nữ. Cả hai chào nhau, rồi vị thần nói: Xin bà vui lòng cùng tôi đỗ xuơng nghĩa trang, nơi tôi trú ngụ, tôi sẽ chỉ cho bà xem một vẻ đẹp hiếm có mà chắc bà sẽ phải tấm tắc khâm phục cũng như tôi vậy .

Bà tiên đồng ý và chỉ một thoáng, họ đã ở bên trong hầm mộ.

- Thế nào, thưa bà - Vị thần chỉ vào Bebreddin Hassan - Bà đã bao giờ thấy một thanh niên khôi ngô tuấn tú và đẹp hơn người này chưa?

Bà tiên chú ý ngắm nhìn Bebreddin rồi quay sang vị thần linh:

- Tôi thú thực - Bà nói - là nó thật đẹp. Nhưng tôi cũng thấy vừa rồi ở Calre, cái này còn tuyệt diệu hơn, nếu ông muốn nghe tôi sẽ kể cho nghe. Nếu vậy thì bà làm tôi thật thích thú đấy.

- Nhưng xin ông hãy biết cho rằng tôi chỉ thấy, từ xa thôi nhé. Chắc ông đã rõ là hoàng đế Ai Cập có một tể tướng tên là Schemseddin Mohammed, ông này có một người con gái khoảng hai mươi xuân. Đó là một cô gái đẹp nhất và hoàn hảo nhất mà chưa từng có một người nào nghe nói. Hoàng đế nghe tiếng đồn về cô gái, cho triệu tể tướng cha cô tới và bảo ông:

- Ta nghe nói nhà ngươi có một người con gái đến tuổi lấy chồng, ta muốn cưới cô đó, liệu nhà ngươi có đồng ý gả cho ta không?

Tể tướng bất ngờ về lời cầu hôn đó, bối rối một chút, nhưng không bị loá mắt. Nếu phải là những ai đó khác thì đã mừng rơn mà vội vã nhận lời, nhưng ông thì lại trả lờI rất ôn tồn nhưng kiên quyết:

Tâu bệ hạ, tôi tự xét là không xứng đáng được bệ hạ chiếu cố, và xin Người rộng lượng tha thứ cho nếu tôi không thể làm vui lòng Người được. Chắc bệ hạ cũng đã biết tôi có một em trai là Noureddin Ali cũng như tôi, có vinh dự được là một trong các tể tướng của Người. Anh em chúng tôi đã có sự xích mích và đó là nguyên nhân về sự bất ngờ mất tích của chú ấy và từ đó tôi chẳng được có tin tức gì cách đây bốn hôm, tôi có nghe thấy tin là chú ấy đã mất ở Balsora trên cương vị là tể tướng của vương quốc đất nước đó. Em tôi để lại một con trai. Trước đây chúng tôi đã cùng nhau cam kết là sẽ gả con cho nhau. Tôi chắc là em tôi chết trong ý muốn là tỉến hành cuộc hôn nhân đó. Vì vậy về phía mình, tôi muốn giữ trọn lời hứa và thiết tha xin hoàng thượng cho phép làm việc đó. Triều đình ta có rất nhiều các đại thần cũng có con gái như tôi và NgườI chẳng thiếu nơi để gia ân mưa móc.

Hoàng đế Ai Cập tức gịận đến cùng cực tể tướng Schemseddin Mohammed... . Scheherazade ngừng lời vì ánh sáng ban mai đã lấp ló sau mành. Đêm hôm sau, nàng lại tiếp ngọn nguồn câu chuyện, nói với hoàng đế Ấn Độ, vẫn là lời của tể tướng Giafar kể với hoàng đế Haroun Alraschid.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 22:20:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17

CHÀNG BEDREDDIN


Hoàng đế Ai Cập, bị bẽ mặt vì sự từ chối và sự táo bạo cả gan của Schemseddin Mohammed, không sao kìm nén được giận dữ, bảo viên tể tướng của mình:

- Có phải nhà ngươi đáp lại lượng cả của ta đã hạ mình đến mức kết thân với ngươi như thế không? Ta sẽ phải báo thù về việc nhà ngươi đã dám so sánh ta với một kẻ khác và ta nguyền cho con gái nhà ngươi chỉ có thằng chồng không ngoài một tên nô lệ xấu xí nhất trong tất cả nô lệ của ta.

Nói xong, hoàng đế tàn nhẫn đuổi tể tướng ra ngoài. Ông này đi về nhà đầy vẻ sượng sùng và thấy vô cùng khổ nhục.
Cũng ngay hôm đó, nhà vua cho gọi một trong những tên giám mã của mình tới. Tên này gù cả lưng, cả ngực và xấu tới mức ma chê quỉ hờn. Sau khi lệnh cho Schemseddin Mohammed phải chấp nhận cho con gái mình kết hôn với tên nô lệ ghê tởm này, hoàng đế cho lập tờ giá thú và bắt mọi người ký kết trước mặt mình. Tất cả công việc sửa soạn cho đám cưới kỳ cục này đã hoàn tất nhanh chóng. Trong lúc tôi nói đây thì tất cả các nô lệ của các quan chức trong triều đình Ai Cập đều tề tựu trước cửa một nhà tắm, mỗi đứa một ngọn đuốc cầm trong tay. Chúng chờ cho đến lúc tên giám mã gù tắm rửa xong, đi ra thì đưa rước đến nhà cô dâu. Ở đó nàng cũng đã trang điểm xong xuôi. Trong lúc mà tôi rời thành Caire, thì những thị nữ đã tập trung lại, chuẩn bị đưa cô dâu, với tất cả những đồ trang trí cho đêm tân hôn, tới phòng mà ở đó nàng phải đợi tiếp đón thằng gù. Tôi đã nhìn thấy nàng và cam đoan với ông là không ai được trông thấy nàng mà không bị hút hồn.
Khi bà tiên ngừng lời, vị thần linh bảo:

- Dù bà có ca ngợi thế nào chăng nữa thì tôi cũng không tin là nhan sắc của cô gái đó lại có thể vượt được vẻ đẹp khả ái của chàng trai này.

- Tôi chẳng muốn cãi nhau với ông làm gì - Bà tiên bảo - Nhưng tôi cũng phải công nhận là anh ta xứng đáng được kết hôn với cô gái duyên dáng mà người ta ép gả cho anh gù đấy. Tôi thấy là chúng ta sẽ làm được một việc rất hay, rất xứng đáng với chúng ta là, chống lại sự bất công của hoàng đế Ai Cập. Chúng ta cho chàng trai này thế chỗ của tên nô lệ kia.

- Bà nói phải đấy - Vị thần hào hứng nói - Bà có biết không, tôi rất tán thành cái ý kiến chợt nảy ra đó của bà. Tôi đồng ý việc làm chệch hướng sự trả thù của hoàng đế Ai Cập đi, an ủi một người cha sầu khổ, trả về cho con gái ông ta cái hạnh phúc đang tưởng là sự bất hạnh. Tôi có đầy đủ khả năng để thực hiện kế hoạch này và tin rằng bà cũng không chút nào tiếc sức. Tôi xin nhận việc chuyển cậu ta về thành Caire mà không làm cho thức giấc, còn bà muốn để cậu ta ở đâu tuỳ ý khi chúng ta bắt đầu thi hành công việc.

Sau khi tiên nữ và thần linh bàn bạc xong tất cả những gì cần làm, vị thần linh nhẹ nhàng xốc Bebređdin, bay vút lên tầng không nhanh như gió và đặt chàng nằm trước cửa một công sở, bên cạnh nhà tắm mà thằng gù sắp đi ra với cả một tốp đông nô lệ đang đứng đợi.

Bebreddin Hassan lúc này thức giấc, vô cùng ngạc nhiên là thấy mình ở giữa một thành phố xa lạ. Chàng muốn kêu lên để hỏi xem mình ở đâu, nhưng vị thần đập khẽ lên vai chàng và bảo không được lên tiếng. Rồi ông đưa cho chàng một cây đuốc và bảo:

- Hãy xen vào đám đông mà anh trông thấy túm tụm ở trước cửa nhà tắm kia và cùng đi với họ cho tới lúc vào một phòng mà ở đó đang tổ chức hôn lễ. Chú rể là một người gù mà anh dễ dàng nhận thấy. Anh hãy đứng vào bên phải y và đi vào phòng, từ lúc này anh phải luôn thò tay vào túi tiền đầy đồng sequin ở trước ngực đó phân phát cho những nhạc công, những vũ nữ và vũ công đang dạo nhạc và nhảy múa. Khi đã vào hẳn trong phòng, chớ quên phân phát tiền cho cả các nữ nô lệ đang xúm quanh cô dâu khi họ đến gần anh. Hãy làm tất cả những gì ta bảo với sự nhanh trí lanh lẹ tháo vát của mình, chớ tỏ ra ngạc nhiên về bất cứ cái gì, không sợ bất cứ ai, vì anh đang được một sức mạnh siêu nhiên hỗ trợ.

Chàng thanh niên Bebreddin, nhẩm thuộc lòng tất cả những gì phải làm rồi tiến lại gần cửa nhà tắm. Việc đầu tiên là châm đuốc vào cây đuốc đang cháy của một tên nô lệ, rồi đứng lẫn vào bọn chúng làm như mình thuộc về một lãnh chúa nào đó ở thành Caire, bước đi cùng với chúng theo sau anh gù vừa ra khỏi nhà tắm trèo lên lưng một con ngựa trong chuồng ngựa của hoàng đế.

Ánh sáng ngày đã bừng lên làm Scheherazade lặng im và đêm sau nàng lại kể tiếp:

***

Tâu hoàng thượng - Nàng nói - Tể tướng Giafar vẫn kể tiếp câu chuyện đó với hoàng đế Haroun Alraschld.

Bebreddin đi bên cạnh những nhạc công, vũ công và vũ nữ ngay phía trước anh chàng gù, thỉnh thoảng lại thò tay vào túi lấy ra hàng nắm đồng sequin phân phát cho họ. Vì anh làm cái việc hào phóng này với thái độ thật nhũn nhặn và dáng điệu vui tươi nên tất cả mọi ngườI nhận quà đều liếc nhìn anh và khi thấy rõ mặt thì không muốn rời mắt nhìn nơi khác nữa vì họ thấy anh thật điển trai ít có.

Đã tới cổng dinh tể tướng Schemseddin Mohammed, bác ruột của Bebreddin Hassan. Ông này chắc không sao ngờ được là cháu mình lại ở đây, gần ông như vậy. Những lính cận vệ, để ngăn cản tình trạng lộn xộn có thể xảy ra, đã chặn tất cả những nô lệ tay cầm đuốc lại không cho vào trong. Chúng đẩy cả Bebreddin Hassan lùi lại. Nhưng những nhạc công đã bước chân qua bậc cửa đang mở dừng lại phản đối. Họ bảo họ sẽ không đi vào nếu không để cho chàng trai này vào cùng với họ. Họ bảo:

- Chàng trai này không phải cùng trong bọn nô lệ, cứ nhìn anh ta thì biết. Chắc đó là một người khách lạ trẻ tuổi, tò mò muốn biết ở thành phố đám cưới được tổ chức ra sao mà thôi.

Vừa nói họ vừa kéo anh đứng vào giữa và cùng đi vào chẳng thèm đếm xỉa đến bọn lính. Họ giật lấy cây đuốc của anh đưa cho một người đầu tiên vừa từ trong nhà đi ra và sau khi đưa anh vào phòng, họ đặt anh đứng vào bên tay phải anh chàng gù đang ngồi trên một cái ngai được trang trí rất đẹp bên cạnh chiếc ngai của cô dâu con gái tể tướng.

Cô dâu được trang sức lộng lẫy nhưng mặt buồn rười rượi, một nỗi buồn chết chóc mà người ta không khó đoán ra được nguyên nhân khi nhìn thấy bên cạnh nàng một người chồng rất dị dạng, khó có thể nói đến chuyện yêu đương. Hai chiếc ngai của đôi vợ chồng khập khiễng này đặt chính giữa một chiếc sập to. Các bà mệnh phụ của triều đình và của thành phố ngồi hai bên, thấp hơn tuỳ theo thứ bậc, tất cả đều ăn vận sang trọng và lộng lẫy trông vô cùng ngoạn mục. Mỗi bà cầm trong tay một cây nến to đang cháy sáng.

Khi họ nhìn thấy Bebreddin Hassan bước vào, tất cả đều thì thào thán phục, nhìn ngắm vóc dáng thân hình chàng, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của chàng không rời mắt. Khi chàng đặt mình ngồi xuống, thì không phải là một người mà hầu như tất cả lần lượt bỏ chỗ ngồi tới gần chàng để nhìn và khi trở về lại chỗ ngồi, không mấy ai là không thấy lòng mình có chút nào rung động. Sự cách biệt khác nhau giữa Bebreddin Hassan và tên giám mã gù có bộ mặt tởm lợm đã gây nên tiếng xì xào trong đám đông:

- Chính là chàng thanh niên đẹp trai này mới đáng là chú rể chứ chẳng phải là cái anh chàng gù bẩn thỉu kia.

- Các bà không dừng lại ở đó mà còn cất tiếng làu bàu chê trách hoàng đế đã dựa vào quyền uy tuyệt đối để làm cuộc hôn phối quái gở giữa cái xấu và cái đẹp này. Họ còn mỉa mai xỉ vả nhiếc móc anh chàng gù làm cho gã hoang mang bối rối khiến cử toạ rất thích thú hò hét đôi khi làm đứt quãng cả giai điệu nhạc đang tấu trong phòng cưới. Cuối cùng, những nhạc công bắt đầu lại bản hợp xướng và những thị nữ chuyên việc thay đổi y phục cho cô dâu đến gần nàng .

Đến đây Scheherazade dừng lại vì thấy trời đã sáng. Đêm sau, nàng tiếp tục câu chuyện đã bề dở đêm hôm trước.

***

Tâu hoàng thượng - Scheherazade nói với hoàng đế Ấn Độ - Chắc là bệ hạ không quên là tể tướng Giafar vẫn đang kể chuyện hầu hoàng đế Haroun Alraschid:

Cứ mỗi một lần - Ông nói tiếp - cô dâu thay đổi y phục, nàng lại rời chỗ ngồi, theo sau là các thị nữ, đi qua mặt anh chàng gù mà chẳng thèm nhìn nó mà lại tới trước mặt Bedreddin Hassan để cho anh nhìn những đồ trang sức mới. Thế là Bedreddin Hassan, nhớ lời dặn dò của vị thần, không quên cho tay vào tui tiền, móc ra hết nắm này đến nắm khác những đồng sequin phân phát cho các thị nữ tuỳ tùng cô dâu. Anh cũng không quên những nhạc công và vũ công, ném rào rào cho họ. Thật là thích thú nhìn thấy họ xô đẩy nhau để cúi xuống nhặt những đồng tiền lăn lóc trên sàn nhà. Họ nhìn anh vẻ cảm ơn và làm dấu hiệu là họ muốn cô dâu trẻ kia thuộc về anh chứ không phải thuộc về anh chàng gù kia. Những bà mệnh phụ và các thị nữ xung quanh cô dâu cũng nói ra miệng với anh như vậy chẳng cần biết là gã gù kia có nghe được hay không. Và họ còn làm hàng ngàn trò nghịch ngợm chế giễu, làm cả cử toạ vui thích.

Khi lễ thay y phục nhiều lần đã kết thúc, những nhạc công ngừng chơi và vừa lút ra ngoài vừa ra hiệu cho Bedreddin Hassan cứ ở lại. Các bà cũng làm vậy và rút ra sau họ với tất cả những người không phải là người trong nhà. Cô dâu đi vào một căn buồng, có các thị nữ theo vào để hầu nàng cởi bỏ y phục. Lúc đó ở lại trong phòng chỉ còn người giám mã gù, Bedreddin Hassan và một vài đầy tớ. Anh chàng gù, vô cùng tức giận Bedreddin đã ám y suốt buổi, lườm chàng nói:

- Và còn mày, còn chờ gì nữa? Vì sao mày không rút đi như những người khác? Cút đi!

Bedreddin thấy chẳng có một cớ gì để ở lại đó, nên thấy thật lúng túng cũng vội bước ra. Nhưng chưa ra khỏi tiền sảnh thì cả vị thần và bà tiên ở đâu nhô ra chặn chàng lại:

- Này, anh đi đâu vậy? - Vị thần hỏi - Hãy ở lại? Tên gù không còn ở trong phòng nữa đâu, nó đã ra ngoài vì có việc gì đó. Anh hãy trở lại và lẻn vào buồng cô dâu. Khi chỉ còn anh và nàng, anh hãy mạnh dạn nói anh mới là chồng của nàng, chẳng qua đức vua đưa tên gù ra chỉ để làm trò vui mà thôi. Và để cho tên này nguôi nguôi đi, anh bảo sửa soạn cho nó một đĩa kem thật ngon trong chuồng ngựa ấy. Sau đó hãy nói với nàng tất cả những gì phù hợp đến trong đầu anh để trấn an nàng. Làm tất cả những cái đó đối với anh hiện nay chẳng có gì là khó, còn nàng thì sẽ vui thích vì đã bị lừa một cách thật dễ chịu. Tuy vậy chúng ta sẽ phải lệnh cho tên gù không được vào ngăn trở anh qua đêm với nàng vì đó là vợ anh chứ không phải là vợ hắn.

Trong khi vị thần khuyến khích động viên Bedreddin và dạy cho chàng phải làm gì, anh chàng gù đúng là đã ra khỏi phòng cưới. Vì vị thần linh đã vào, biến thành một con mèo đen gào lên thật khủng khiếp. Gã gù vỗ tay xuỵt đuổi, nhưng con mèo không những không chạy đi mà còn đứng dựng lên mắt toé tia lửa đỏ ngang nhiên nhìn gã và lại còn gào to hơn trước đồng thời phình to lên bằng con lừa con. Gã gù kinh hoàng kêu cứu nhưng sợ quá hàm cứng lại chỉ há mồm mà không ra tiếng. Không để cho y hoàn hồn, vị thần hoá thành một con trâu mộng và dưới lất con vật đó, nói thành tiếng: Tên gù đê mạt kia? làm cho y càng kinh hoảng bội phần. Gã nằm lăn xuống sàn, đưa vạt áo lên che đầu che mặt để khỏi phải trông thấy con vật ghê gớm đó. Gã cất tiếng run run:

- Bẩm đại vương, chúa tể của loài trâu, ngài muốn gì ở tôi?

- Vô phúc cho mi- Vị thần bảo- Mi dám bạo gan cưới người tình của ta ư?

- Ôi! Bẩm đại vương - Gã gù vội thưa - Cầu xin ngài đại xá; chẳng qua là vì tôi quá ngu dốt cho nên mới phạm tội với ngài. Tôi đâu có biết là người phụ nữ này lại có nhân tình là một ngài trâu. Xin ngài cứ ra lệnh, tôi thề là sẵn sàng tuân phục ngài.

- Mi sẽ phải chết - Vị thần nói - Nếu mi ra khỏi đây hoặc mi không câm miệng cho đến khi mặt trời lên. Nếu mi mở miệng nói ra chỉ một tiếng thôi ta sẽ đập nát đầu mi. Sáng ra, ta sẽ cho phép mi rời khỏi nhà này, nhưng phải chạy đi thật mau không được ngoái đầu lại, nếu mi còn cả gan quay lại thì sẽ mất mạng đó .

Nói xong câu cuối này, vị thần hiện thành người, nắm lấy hai bàn chân gã gù, dựng ngược y lên, đầu chạm đất, để người sát dính vào tường.

- Nếu mi nhúc nhích - Ông nói thêm - trước khi mặt trời lên, như ta đã nói, ta sẽ tóm lấy cẳng mi, quật mi vào tường này cho đầu mi vỡ thành nghìn mảnh.

Ta quay lại với Bedreddin Hassan, chàng được vị thần khuyến khích động viên và được sự có mặt của bà tiên khích lệ, chàng trở lại phòng cưới và lẻn vào buồng cô dâu, ngồi chờ thắng lợi của kế hoạch. Một lát sau cô dâu đi vào do một bà già vẻ phúc hậu dắt tay đưa dẫn. Bà dừng lại trước cửa buồng, khuyến khích người chồng làm tất nhiệm vụ của mình, chẳng nhìn xem đó là gã gù hay một người nào khác. Rồi sau đó bà khép cửa lại và nhẹ nhàng rút lui.

Người vợ trẻ cực kỳ kinh ngạc chờ nhìn thấy gã gù thì lại là Bedreddin Hassan đi tới ra mắt nàng với cử chỉ duyên dáng lịch thiệp nhất trần đời.

- Ồ này, anh bạn! - Nàng hỏi chàng - Giờ này mà anh hãy còn ở đây kia à? Chắc hẳn anh là bạn của chồng tôi.

- Không phải đâu, thưa tiểu thư- Bedreddin đáp – Tôi là người khác hẳn với gã gù mạt hạng kia.

- Nhưng - Nàng nói - Nói vậy chẳng phải là anh đã bêu xấu chồng tôi ư?

- Hắn, chồng nàng! Thưa tiểu thư, nàng lại có thể đinh ninh như thế sao? Chớ có lầm lẫn nữa. Nhan sắc tuyệt vời không thể đem hi sinh cho một kẻ đáng khinh bỉ nhất trần đời như thế được. Chính tôi đây, thưa tlểu thư, là người hạnh phúc được dành chó nhan sắc đó. Đức hoàng đế đã muốn gây một trận cười vui với tể tướng cha nàng nên đã dàn dựng ra màn kịch này.

Chính Người đã chọn tôi là người chồng đích thực của nàng. Nàng chắc là đã nhận thấy các bà mệnh phụ, các nhạc công, vũ nữ, các thị nữ và tất cả gia nhân của nàng đều vô cùng thích thú tham dự vào vở hài kịch này. Chúng tôi đã tống cổ gã gù đi và lúc này hắn đang nhồm nhoàm đĩa mứt kem ngon lành trong chuồng ngựa và nàng có thể chắc chắn là hắn chẳng còn bao giờ xuất hiện trước đôi mắt đẹp của nàng nữa.

Nghe thấy thế, con gái tể tướng, như dở sống dở chết khi bước vào phòng hôn phối, lúc này rạng rỡ mặt mày, vẻ vui tươi đột khởi càng làm cho sắc đẹp lộng lẫy thêm khiến Bedreddin sững sờ say đắm.

- Thật thiếp không chờ đợi - Nàng nói - một sự bất ngờ vô cùng dễ chịu như thế này. Thế mà thiếp đã cho mình sẽ bị đầy đoạ suốt đời. Hạnh phúc của thiếp lại càng được tăng lên gấp bội khi thiếp được có chàng, một người vô cùng xứng đáng với tâm tình trìu mến của thiếp.

Nói xong, nàng tự mình cởi bỏ y phục và lên giường nằm. Về phía Bedreddin Hassan, sung sướng thấy mình được sở hữu một con người biết bao duyên dáng yêu kiều, cũng nhanh chóng trút bỏ áo quần. Chàng vắt chúng lên thành ghế, trùm lên trên túi tiền mà người Do thái trao cho, hầu như hãy còn đầy dù đã nhiều lần móc ra để phân phát cho những người có mặt trong hôn lễ. Chàng cũng bỏ cả khăn đội đầu để đội chiếc mũ ngủ mà người ta đã chuẩn bị cho gã gù. Chàng lên giường chỉ với một áo lót và chiếc quần đùi”. Bình minh buộc Scheherazade ngừng kể. Đêm sau, được đánh thức vào giờ thường ìệ, nàng nhớ lại đoạn bỏ dở đêm trước rồi tiếp tục kể....
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách