Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Spica
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác - Xuất Bản] Nghìn Lẻ Một Đêm | Nhiều Tác Giả

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:40:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

BA TU SĨ KHỔ HẠNH CON VUA VÀ BA THIẾU PHỤ THÀNH BAGDAD


“- Tâu hoàng thượng, dưới triều quốc vương Hồi giáo Haroun Iraschid, ở Bagdad có một người làm nghề khuân vác dù là một nghề hạ tiện và nhọc nhằn nhưng vẫn tỏ ra là một người thông minh và vui tính. Một buổi sáng, cũng như thường ngày, với một cái sọt to cạnh mình, đứng tại một nơi công cộng, anh chờ xem có ai cần tới công việc của mình không. Chợt có một thiếu phụ trẻ thân hình thon thả, mặt che mạng đi tới và nhẹ nhàng bảo anh: “Nghe đây, anh phu khuân vác, nhắc cái sọt lên và đi theo tôi”. Anh khuân vác, rất vui thích với những lời nói dịu dàng êm ái đó, vội đưa chiếc sọt lên đầu vừa đi theo người thiếu phụ vừa khẽ nói: “Ôi ngày may mắn! Ôi ngày tốt lành!”.

Đầu tiên người thiếu phụ dừng lại trước một cái cửa khép kín, giơ tay gõ. Một tín đồ Kitô giáo, đạo mạo với bộ râu dài trắng xoá ra mở cửa. Thiếu phụ đặt ít tiền vào tay ông ta, không nói một lời. Nhưng ông già biết là nàng muốn gì, đi vào và chỉ một lát sau mang ra một bình lớn rượu. “Cầm lấy cái bình này - Thiếu phụ bảo người khuân vác và đặt vào sọt của anh”. Anh làm theo và nàng tiếp tục bước đi. Anh khuân vác bám sau và lại thốt lên: “Ôi, ngày diễm phúc! Ôi ngày vui vẻ bất ngờ!". Người thiếu phụ dừng lại trước sạp hàng hoa quả. Nàng chọn mua đủ các loại táo, đào, mận, mộc qua, chanh, cam, sim, hoa huệ, hoa nhài cùng nhiều loại hoa và rau thơm. Nàng bảo người phu là cho tất cả vào sọt và tiếp tục đi theo nàng. Đi qua trước quầy thịt lợn, nàng bảo cân cho hai mươi nhăm livres loại thịt ngon nhất. Và anh khuân vác lại cho vào trong sọt, theo lệnh nàng. Vào một cửa hàng khác nàng mua nụ phong điểu, rau mùi, dưa chuột và nhiều rau xanh khác, tất cả đều ngâm dấm.

Đến một cửa hiệu khác, nàng mua nào là lạc, hạnh nhân, hạt dẻ, ba đậu, hạnh đào và nhiều loại quả tương tự. Lại ở một cửa hiệu khác nữa nàng mua đủ các loại mứt hạnh đào. Anh phu khuân vác bỏ tất cả các thứ đó vào sọt, thấy đã đầy tràn bèn nói với thiếu phụ: “Thưa bà, đáng lẽ bà phải báo trước là mua rất nhiều thứ thì tôi sẽ mang theo một con ngựa hay đúng hơn là một con lạc đà để thồ. Nếu bà mà còn mua nữa thì tôi xin chịu chẳng mang nổi đâu”. Thiếu phụ bật cười vì câu đùa đó, vẫn bảo anh khuân vác đội sọt đi theo.

Nàng vào một cửa hiệu bán gia vị mua đủ loại nước thơm, đinh hương, nhục đậu khấu, hạt tiêu, gừng, một miếng long diên hương lớn và nhiều loại hương liệu thực phẩm Ấn Độ khác... làm cho cái sọt của anh khuân vác đầy tràn. Thiếu phụ vẫn bảo anh đi theo.

Họ đi cho tới lúc đến trước một toà nhà lộng lẫy mà mặt tiền trang trí những cột trụ thật đẹp và cánh cửa thì khảm ngà voi. Họ dừng lại. Thiếu phụ gõ nhẹ cửa...”.

Tới chỗ này, Scheherazade nhận thấy trời đã hửng sáng liền thôi không nói nữa.

- Chị ơi, thú thực là câu chuyện mới bắt đầu đã thấy thật là hấp dẫn - Dinarzade nói - Em tin là hoàng thượng chắc là chẳng bỏ qua cái thú được nghe đoạn tiếp.

Đúng là Schahriar không những chẳng ra lệnh xử hoàng hậu mà còn nóng lòng chờ đêm sau để xem cái gì sẽ xảy ra trong toà nhà lộng lẫy mà nàng đã miêu tả.


o O o


Dinarzade thức giấc trước khi trời sáng nói với hoàng hậu: “Chị của em, nếu chị đã thức, em xin chị hãy kể tiếp chuyện chị đã bắt đầu hôm qua đi?”.

Scheherazade liền kể tiếp như sau:

“Trong khi người thiếu phụ trẻ và anh khuân vác chờ cửa mở, anh này suy nghĩ miên man. Anh lấy làm ngạc nhiên. Một người phụ nữ chững chạc như anh thấy đó mà lại làm nghề tiếp phẩm? Chắc chắn chẳng phải là một nô lệ, với dáng dấp quí phái như vậy thì phải là một người tự do, một người có địa vị xã hội. Anh đã định hỏi han để vấn đề được sáng tỏ, nhưng giữa lúc đó thì một thiếu phụ khác ra mở cửa, và thiếu phụ này cũng có một sắc đẹp rực rỡ khiến anh sững người suýt nữa làm đổ cả chiếc sọt chứa đầy vật dụng bên trong. Anh chưa từng bao giờ thấy một sắc đẹp nào có thể so sánh với người đứng trước mặt anh.

Thiếu phụ dẫn anh đi theo nhận thấy sự bối rối diễn ra trong óc anh và biết rõ nguyên nhân vì đâu, nàng lấy làm thích thú quan sát vẻ bần thần của người khuân vác đến nỗi không thấy là cửa đã mở.

- Kìa, vào đi chứ? - Thiếu phụ ra mở cửa bảo - Em còn chờ gì đấy? Em không thấy là người đàn ông tội nghiệp đang bị gò lưng vì cái sọt nặng sao?

Khi nàng cùng người khuân vác đi vào, người thiếu phụ ra đóng cửa lại và cả ba người sau khi đi qua một tiền sảnh đẹp thì vào một cái sân rất rộng xung quanh có hành lang, ăn thông vào các căn phòng to rộng ngang nhau vô cùng tráng lệ.

Cuối sân kê một chiếc sập to đẹp với một chiếc ngai hổ phách đặt chính giữa, có bốn cây cột bằng gỗ lim đỡ, các cây cột này đều khảm kim cương và ngọc trai cỡ to và phủ sa tanh đỏ thêu rua chỉ vàng rất công phu. Giữa sân, là một bể lớn xây bằng đá cẩm thạch trắng, chứa nước trong veo được nhả ra tràn trề từ mõm một con sư tử bằng đồng mạ vàng. Anh chàng khuân vác, dù phải gò lưng mang vác cũng không khỏi trầm trồ về vẻ sang trọng mỹ lệ và sạch sẽ khắp mọi nơi trong toà nhà này. Nhưng hiện tượng đặc biệt thu hút sự chú ý của anh ta là người thiếu phụ thứ ba đang ngồi trên chiếc ngai, so với thiếu phụ thứ hai thì còn lộng lẫy hơn nhiều. Nàng bước xuống khi vừa thấy hai thiếu phụ kia trở vào. Nhìn vào cung cách cử chỉ của họ, anh ta đoán bà chủ hẳn phải là người thiếu phụ thứ ba này, và anh ta đã không nhầm. Thiếu phụ này tên là Zobéide; thiếu phụ ra mở cửa là Safie và Amine là tên thiếu phụ vừa đi mua hàng về.

Zobéide nói với hai thiếu phụ khi bước tới gần họ:

- Các em này, các em không thấy là cái anh chàng tốt bụng này đang sụn lưng dưới cái sọt đầy các thứ này ư? Các em còn chờ gì nữa mà không đỡ cho anh ta?

Nghe vậy, Amine và Safie mỗi người đỡ lấy một bên quai của chiếc sọt, cả Zobéide cũng đặt tay vào, và cả ba người đặt nhẹ chiếc sọt xuống đất. Họ bắt đầu rỡ các thứ ở bên trong ra. Xong việc, nàng Amine duyên dáng rút tiền ra trả công cho anh khuân vác...”.

Ánh sáng bình minh, tới chỗ này, bắt Scheherazade phải ngừng lời, làm cho không những Dinarlade mà cả Schahriar cũng cảm thấy hẫng hụt. Hoàng đế đành phải để lại đêm sau nghe tiếp.


o O o


Đêm hôm sau, nôn nóng muốn được nghe đoạn tiếp theo của câu chuyện đã bắt đầu kể, Dinarzade thức giấc và nói với hoàng hậu:

- Nhân danh Thượng đế, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị kể cho em nghe chuyện ba thiếu phụ trẻ đẹp, xem họ đã làm gì với tất cả những thứ mà Amine đã mua về.

- Rồi em sẽ biết thôi - Scheherazade bảo em - Nếu em chăm chú nghe chị kể.

Và nàng tiếp tục kể câu chuyện như sau:

“Anh chàng khuân vác, rất hài lòng với khoản tiền được trả công, đáng lẽ vác sọt ra về thì lại ra vẻ tần ngần khó xử: cảm thấy như ngoài ý muốn của mình, anh ta định xin được ở lại để chiêm ngưỡng các vẻ đẹp hiếm có và theo anh thì cũng đều duyên dáng như nhau. Vì Amine cũng đã bỏ mạng che mặt xuống và anh thấy nàng cũng xinh đẹp chẳng kém gì hai thiếu phụ kia. Điều làm cho anh ta không sao hiểu được là chẳng nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông nào trong toà nhà này. Hơn nữa phần lớn những thức ăn anh mang về như quả khô và các loại bánh mứt chỉ phù hợp với những người thích nhậu nhẹt và giải trí vui nhộn.

Zobéide lúc đầu, tưởng là anh chàng khuân vác còn đứng lại để nghỉ xả hơi, nhưng thấy anh ta ở lại quá lâu nên cất tiếng hỏi:

- Anh còn chờ gì nữa thế? Anh chẳng đã được trả đủ tiền rồi sao? Em này - Nàng bảo Amine - Em hãy cho thêm anh ta chút gì nữa đi để anh ta được hài lòng.

- Thưa bà - Anh khuân vác nói - Không phải cái đó giữ tôi lại đâu, vì tiền công như thế là quá xứng đáng rồi. Tôi biết là mình không được lịch sự cho lắm khi cứ ở lại quá mức cần thiết nhưng tôi mong các bà vui lòng miễn thứ nếu thấy sự ngạc nhiên của tôi là không thấy một người nam giới nào ở cùng với ba vị đều có một sắc đẹp lạ thường. Một tập thể toàn đàn bà không có đàn ông thật ra là một điều cũng tẻ nhạt chẳng khác gì một tập thể toàn đàn ông không có đàn bà.

Anh ta thêm vào câu nói trên bằng nhiều chi tiết vui vui nữa để chứng minh cho những lời đã nói. Anh ta cũng không quên là dẫn ra câu người ta thường nói ở Bagdad: “Ăn không ngon nếu không đủ bốn người”, và anh ta đi đến kết luận là ở đây mới chỉ có ba người, các bà cần phải có một người thứ tư nữa thì bữa ăn mới thật là thú vị.

Các thiếu phụ bật cười vì lý luận của anh chàng khuân vác. Rồi Zobéide nghiêm giọng bảo anh ta:

- Anh bạn! Anh đã quá tò mò đấy. Nhưng, mặc dù tôi chẳng muốn nhiều lời làm gì, tôi cũng cần cho anh biết là ba chị em chúng tôi làm việc của mình một cách kín đáo, không ai có thể biết được. Chúng tôi có lý do quan trọng không thể để lộ cho những kẻ thóc mách biết chuyện riêng. Một tác giả có tiếng mà chúng tôi đã đọc sách của ông nói như thế này: “Hãy giữ lấy bí mật của riêng mình và chớ để lộ ra với bất cứ ai. Kẻ nào để lộ thì chẳng còn làm chủ được bí mật ấy nữa. Nếu chính bụng ngươi còn không giữ nổi bí mật của mình thì bụng của người mà ngươi tin cậy trao cho bí mật đó làm sao giữ nổi?”.

- Thưa các bà - Anh chàng khuân vác lại nói - Chỉ với vẻ ngoài của các bà, ngay lúc đầu tiên tiếp xúc tôi đã biết là những con người cao quý hiếm có và thấy là đã không nhầm. Dù là số mệnh không cho tôi đủ giàu có để tự nâng cao mình lên làm một nghề trên cái nghề hiện nay, tôi cũng không ngừng trau giồi kiến thức bằng cách đọc các sách về khoa học, về lịch sử và xin các bà cho phép được nói là tôi cũng đã được đọc ở một tác giả một câu châm ngôn mà luôn luôn tôi thực hành một cách thường xuyên. Đó là câu: “Chúng ta chỉ giấu những điều bí mật đối với những kẻ có tiếng là thóc mách chuyên lợi dụng lòng tin của chúng ta; nhưng chúng ta chẳng bao giờ ngần ngại bộc lộ với những người khôn ngoan, thận trọng, vì chúng ta biết chắc chắn là họ sẽ biết cách giữ kín trong lòng”. Điều bí mật để ở trong tôi cũng sẽ được tuyệt đối an toàn chẳng khác gì để trong một căn phòng cửa khoá hai lần mà chìa khoá đã bị mất vậy”.

Zobéiđe biết là anh chàng khuân vác này cũng khá thông minh, nhưng cho là anh ta muốn ở lại để dự bữa tiệc mà họ sắp tổ chức, nàng mỉm cườí bảo: “Anh biết là chúng ta sắp ăn tiệc và anh cũng đã rõ là chúng ta đã phải tiêu một khoản tiền lớn, vậy thì có công bằng không, nếu anh cũng muốn tham dự mà không đóng góp gì?”. Cô nàng xinh đẹp Safie cũng hùa vào cùng chị: “Anh bạn ơi - Nàng bảo anh khuân vác - Anh không nghe thiên hạ thường nói: nếu anh mang đến cái gì đó, anh sẽ là người ở lại với chúng tôi; nếu anh chẳng mang đến cái gì cả thì nên tay không mà rút đi thôi”.

Anh chàng khuân vác, mặc dù là một tay bẻm mép, nhưng có lẽ cũng phải sượng sùng rút lui nếu Amine không mạnh dạn đứng về phía anh nói với Zobéide và Safie: “Các chị thân yêu, em xin các chị cho phép anh ta được ở lại cùng chị em mình: chắc chắn anh ta sẽ làm cho chúng ta vui, các chị thấy đấy anh ta có đầy đủ khả năng như thế. Em đoán chắc với các chị là nếu không có sự sốt sắng, sự mau lẹ và lòng can đảm đi theo em của anh ta thì em không sao có thể mua đủ được bằng ấy thứ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy. Thêm nữa, nếu em kể lại cho các chị nghe tất cả những lời lẽ ngọt ngào lịch sự anh ta nói với em dọc đường thì chắc các chị sẽ không lấy làm ngạc nhiên về sự che chở của em đối với anh ta".

Nghe những lời Amine vừa thốt ra, anh chàng khuân vác vui mừng khôn xiết, quì ngay xuống hôn mặt đất, chỗ bàn chân của người đẹp rồi vừa đứng lên vừa nói: “Thưa bà yêu kính, hôm nay bà đã mở đầu hạnh phúc cho tôi, bà lại làm cho nó tăng lên bội phần bằng một hành động thật là hào hiệp. Tôi không sao nói hết được lòng biết ơn của mình. Ngoài ra, thưa các bà - Anh ta nói với cả ba người - Vì các bà đã cho tôi một vinh dự lớn, xin đừng cho là tôi quá lạm dụng, tôi tự cho mình là một người xứng đáng với vinh dự đó; Không, tôi luôn luôn coi mình là một nô lệ hèn của các quí bà”. Nói xong, anh ta đưa trao trả lại khoản tiền công đã nhận, nhưng nàng Zobéide nghiêm trang bảo anh ta giữ lại, nàng nói: “Tất cả những gì một khi đã ra khỏi bàn tay chúng ta để thưởng cho những người có công giúp đỡ, thì không bao giờ trở về nữa...”.

Mặt trời ló rạng đúng vào quãng này bắt nàng Scheherazade phải ngừng lời.

Dinarzade hết sức chú ý nghe, rất tức bực. Nhưng dịu xuống ngay khi hoàng đế, cũng tò mò muốn biết cái gì đã xảy ra giữa ba thiếu phụ xinh đẹp và anh chàng khuân vác, bảo dành lại đoạn tiếp cho đêm hôm sau và đứng lên đi làm công việc thường ngày.


o O o


Dinarzade hôm sau, không bỏ lỡ việc đánh thức hoàng hậu vào giờ thường lệ và bảo nàng:

- Chị thân yêu của em, để chờ trời sáng cũng sắp sửa rồi, chị hãy kể tiếp câu chuyện ly kỳ chị kể dở đêm qua đi?

Scheheralade cất tiếng và tâu với hoàng đế:

- Tâu hoàng thượng được người cho phép, thiếp xin thoả mãn trí tò mò của cô em thiếp - Rồi nàng kể tiếp chuyện ba tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi như sau: “ Vậy là Zobéíde không muốn lấy lại tiền công của anh chàng khuân vác, nhưng nàng bảo:

- Này anh bạn, đồng ý để anh bạn được ở lại vui cùng chúng ta, nhưng ta cảnh báo anh không phải chỉ với điều kiện buộc anh phải giữ bí mật thôi là đủ, mà chúng ta còn muốn anh phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui định về phép lịch sự và tính trung thực nữa.

Trong lúc đó, nàng Amine xinh đẹp cởi bỏ bộ áo đi phố ra, giắt áo dài bên trong vào thắt lưng cho gọn ghẽ và bắt tay vào dọn bàn ăn. Nhiều thức ăn được bày ra và nàng đặt lên tủ nhiều chai rượu và những chiếc chén bằng vàng. Sau đó, các thiếu phụ ngồi vào bàn và cho anh chàng khuân vác ngồi bên cạnh mình. Anh này thấy hài lòng không sao tả được vì thấy được ngồi cùng bàn với ba người phụ nữ xinh đẹp tuyệt vời.

Sau mấy miếng ăn khai vị, Amine ngồi cạnh tủ, cầm lấy một chai rượu, một chiếc chén, rót rượu uống trước theo phong tục những người Ả Rập. Nàng rót tiếp đưa cho các chị lần lượt uống rồi rót lần thứ tư cũng vào chiếc chén đó, nàng đưa cho anh chàng khuân vác. Anh này đón lấy chiếc chén, hôn bàn tay Amine, và trước khi uống, hát một bài mà nghĩa của một số câu đại ý là: Như làn gió cuốn theo nó mùi hương của những chốn thơm tho, nó đi qua cũng như chén rượu anh ta sắp uống, từ bàn tay nàng đưa sẽ đượm một hương vị ngọt ngào hơn hẳn hương vị tự nhiên của nó. Câu hát đó làm các nàng vui thích và cũng cất tiếng hát theo. Mọi người đều rất vui trong bữa ăn được kéo dài khá lâu và được chêm thêm vào nhiều trò chơi thú vị.

Ngày sắp hết, Safie thay cho cả ba chị em bảo anh chàng khuân vác:

- Thôi, anh hãy dậy và đi đi, đã đến lúc anh phải ra về rồi đó.

Anh khuân vác chẳng muốn rời đi chút nào, nói:

- Ô hay! Các bà muốn ra lệnh cho tôi đi đâu khi tôi đang trong tình trạng như thế này? Tôi đã say mềm vì nhìn các bà và uống rượu của các bà. Tôi sẽ chẳng bao giờ tìm thấy đường về nhà cả đâu. Hãy cho tôi ở lại một đêm cho tỉnh táo hẳn, ngủ ở đâu cũng được nhưng cũng phải có thời gian lâu lâu một chút thì tôi mới có thể trở lại tình trạng như lúc mới tới đây. Với tất cả những điều kiện đó, tôi vẫn còn nghi là vẫn còn để lại đây cái phần ưu tú nhất của mình.

Amine lại một lần nữa bênh vực anh khuân vác:

- Các chị ạ - Nàng nói - Anh ta nói đúng. Em tán thành lời đề nghị của anh ta. Anh chàng này đã làm cho chúng ta thật vui vẻ. Nếu các chị tin em hay đúng hơn là các chị yêu em như em thường tin chắc như thế, chúng ta hãy giữ anh ta lại đêm nay ở đây với chúng ta.

- Em à - Zobéide nói - Chúng ta chẳng thể nào khước từ được lời cầu xin của em. Anh khuân vác - Nàng nói tiếp với anh chàng này - Chúng ta vui lòng chấp nhận yêu cầu của anh một lần nữa, nhưng phải có thêm điều kiện mới. Dù chúng ta làm gì có liên quan tới chúng ta hoặc tới bất kỳ ai khác, bất kỳ việc gì khác trước mặt anh, anh cũng không được mở miệng hỏi chúng ta lý do vì sao, bởi vì đặt câu hỏi với chúng ta về những việc chẳng có liên quan gì tới anh, anh sẽ có thể phải nghe những điều chẳng làm anh thích thú. Hãy thận trọng, chớ nên quá tò mò muốn đi sâu vào nguyên nhân những việc chúng ta làm.

- Thưa bà - Anh chàng khuân vác nói - Tôi xin hứa là sẽ tuân theo thật nghiêm và chính xác điều kiện đó, để bà sẽ không phải phiền lòng trách cứ và sẽ không bao giờ phải phạt tôi về tội bép xép: cái lưỡi tôi, trường hợp này, sẽ nằm yên bất động và đôi mắt tôi sẽ như một tấm gương nó chẳng chứa lại bất cứ một vật nào nó phản chiếu.

- Để cho anh thấy - Zobéide lại nói với vẻ thật nghiêm trang - Điều mà ta đòi hỏi ở anh không phải là chúng ta mới đặt ra. Anh hãy đứng lên và tới đọc những gì đã viết bên trên cánh cửa này ở phía trong.

Anh khuân vác đi tới tận chỗ cánh cửa và đọc dòng chữ được viết to mạ vàng: “Kẻ nào nói những điều chẳng có liên quan gì tới mình sẽ được nghe những điều chẳng hay ho gì”.

Anh ta trở lại chỗ ba thiếu phụ, nói:

- Thưa các bà, tôi xin thề là các bà sẽ chẳng bao giờ nghe thấy tôi nói những điều không có liên quan tới mình và đó lại là những điều các bà quan tâm.

Thoả thuận xong, Amine bày bữa ăn tối, và sau khi đã đốt rất nhiều nến tẩm trầm hương và xạ hương toả ra một mùi thơm dễ chịu, chiếu sáng rực rỡ khắp gian phòng, nàng ngồi vào bàn cùng với các chị và anh chàng khuân vác. Họ lại bắt đầu ăn, uống, hát và ngâm thơ. Các thiếu phụ lấy làm thích thú chuốc rượu cho anh ta thật say dưới cớ là uống chúc sức khoẻ của tất cả. Lời lời tốt đẹp được phát ra không chút kiêng dè. Tất cả đều đang hoan hỉ trong niềm vui ít có thì bỗng nghe tiếng gõ cửa...”.

Scheherazade tới đây phải ngừng lại vì thấy trời đã sáng.

Hoàng đế, không chút nghi ngờ là đoạn tiếp sau của câu chuyện này chẳng phải là không đáng nghe, vì thế ông quyết chờ đến hôm sau và đứng lên.


o O o


Cuối đêm hôm sau, Dinarzade gọi hoàng hậu:

- Nhân danh Thượng đế, nếu chị không còn ngủ nữa thì kể tiếp cho em nghe chuyện về ba thiếu phụ xinh đẹp. Em nóng lòng muốn biết là ai đã gõ cửa nhà các bà đó.

- Em sẽ biết ngay đây - Scheherazade nói - Chị có thể đoán chắc với em là những gì mà chị sẽ kể sau đây chẳng đến nỗi không xứng với sự chú ý của hoàng thượng, lãnh chúa của chị.

“ Nghe tiếng gõ cửa - Nàng kể tiếp - Cả ba thiếu phụ lập tức đều đứng lên đi ra mở cửa. Nhưng Safie, việc này đã quen, nhanh chân hơn; hai người kia thấy bị vượt trước nên dừng lại đợi Safie trở lại cho biết là ai lại có thể có công việc gì mà tới muộn như vậy. Safie trở lại báo tin:

- Các chị ạ, có cơ hội tất để qua một phần đêm thật vui vẻ và nếu các chị cũng cùng một ý nghĩ như em thì chúng ta chớ nên bỏ qua. Lúc này ở trước cổng nhà ta có ba tu sĩ khổ hạnh Hồi giáo, em cho là thế căn cứ vào y phục của họ. Nhưng có một chi tiết chắc làm cho các chị kinh ngạc: cả ba người đều chột mắt bên phải và đầu tóc cũng như râu ria, lông mày đều cạo nhẵn thín. Họ nói là họ mới đặt chân hôm nay đến Bagdad là lần đầu, và vì trời đã về đêm, họ chẳng biết trọ nơi đâu nên gõ cửa hú họa nhà ta. Họ xin chúng ta, vì lòng kính yêu Thượng đế, mở rộng tấm lòng chìa tay ra tiếp họ, cho họ ngủ qua đêm dù phải ở trong chuồng ngựa. Họ đều trẻ và khoẻ mạnh có vẻ còn khá thông minh nữa, nhưng em không sao nhịn được cười khi nhìn khuôn mặt ngộ nghĩnh và cùng một kiểu của họ.

Nói tôi đây, Safie dừng lại và bật cười lên khanh khách làm cho hai thiếu phụ kia và cả anh chàng khuân vác cũng không nhịn được cười.

- Chị cả và em ơi - Safie nói tiếp - Nên cho họ vào thôi chị và em ạ. Với những con người mà em vừa tả đó thì không có lý gì mà chúng ta lại không được kết thúc một buổi tối vui vẻ gấp bội lúc bắt đầu. Họ sẽ làm cho chúng ta hết sức thích thú mà chẳng bị làm phiền gì đáng kể. Họ chỉ yêu cầu được nghỉ lại mỗi đêm nay và sẽ ra đi từ tờ mờ sáng.

Zobéiđe và Amine rất ngần ngại, thấy khó có thể chấp nhận được ý muốn của Safie và lý do vì sao thì chính Safie cũng đã rõ. Nhưng thấy cô này tỏ ý rất tha thiết muốn được sự đồng tình nên hai người chẳng nỡ khước từ.

- Thôi được - Zobéide bảo nàng - Cho họ vào đi. Nhưng em đừng quên bảo họ chớ nên mở miệng hỏi han về chuyện gì không liên quan tới mình và cho họ đọc câu đã viết trên cánh cửa.

Được lời, Safie vui mừng đi ra mở cửa và trở vào ngay, theo sau là ba tu sĩ Hồi giáo.

Ba tu sĩ đi vào, cúi người trịnh trọng vái chào các nàng lúc đó đã đứng dậy đón khách, chào mừng và tỏ vẻ hân hạnh được giúp họ đỡ nhọc mệt sau cuộc đi dài. Cuối cùng các nàng mời cả ba người ngồi xuống cạnh mình. Sự lộng lẫy của căn phòng và vẻ lịch sự ôn tồn của các thiếu phụ làm cho ba chàng tu sĩ thầm khâm phục các nữ chủ nhân xinh đẹp. Nhưng trước khi đặt mình ngồi xuống ghế, vô tình liếc nhìn anh khuân vác, ăn vận gần giống những tu sĩ khác dòng tu với họ, râu và lông mày không cạo như họ, một trong ba người bảo:

- Hình như đây là một trong những đồng đạo Arập phái chống đối của chúng ta.

Anh khuân vác đôi mắt đang lim dim và hơi men còn đang bốc trong đầu, nghe nói vậy lấy làm bất bình, chẳng thèm đứng lên, kiêu hãnh nhìn ba tu sĩ và nói:

- Này, các bạn hãy ngồi xuống và chớ nên xen vào những chuyện không đâu. Các bạn chưa đọc câu viết trên cánh cửa hay sao? Không nên bắt mọi người sống theo cách của mình. Nhập gia phải tuỳ tục chứ.

- Này anh bạn - Người tu sĩ đã có lời nhận xét lúc đầu nói - Xin đừng vội nóng. Chúng tôi lấy làm tiếc đã có phần nào thiếu sót đối với anh. Ngược lại, lúc này chúng tôi sẵn sàng nghe những lời chỉ bảo của anh đây.

Cuộc cãi vã đáng lẽ còn kéo dài, nhưng các thiếu phụ đã xen vào và khéo léo dàn hoà.

Khi những tu sĩ đã ngồi vào bàn, các nàng tiếp thức ăn cho họ và cô nàng Safie đặc biệt vui vẻ rót rượu chuốc..”.

Tới đây, Scheherazade ngừng lại vì thấy trời vừa sáng. Hoàng đế cũng đứng lên đi thiết triều thầm nhủ sẽ nghe tiếp vào hôm sau vì ông rất muốn biết vì sao các tu sĩ này lại chột mắt mà cả ba cùng chột một bên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:42:51 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 7
-------------------------------------------

Một giờ trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc nói với hoàng hậu:

- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị kể cho em nghe chuyện gì sẽ xảy ra giữa ba thiếu phụ và ba người tu sĩ đạo Hồi.

- Xin rất vui lòng - Scheherazade nói.

Và nàng kể tiếp chuyện đêm trước:

“ Sau khi đã ăn uống thoả thuê, ba tu sĩ tỏ ý muốn giúp vui cho bữa tiệc bằng cách hoà nhạc nếu các nàng có sẵn nhạc cụ và vui lòng cho người mang ra. Ba thiếu phụ vui vẻ nhận lời. Cô nàng Safie xinh đẹp đứng lên đi tìm nhạc cụ và một lúc sau đem tới một chiếc sáo địa phương, một chiếc khác kiểu sáo Ba Tư và một chiếc trống xứ Basque. Mỗi tu sĩ chọn lấy một thứ trong tay người đẹp và cả ba bắt đầu chơi một điệu nhạc. Các thiếu phụ đều biết lời của khúc nhạc này, một điệu rất vui, đã hoà vào lời ca của họ. Nhưng đôi lúc họ lại phá lên cười vì lời của ca khúc rất nhộn.

Cuộc vui đang ở phút cao trào và mọi người đang hân hoan cực độ thì lại nghe tiếng gõ cửa. Safle ngừng hát ra xem có chuyện gì. Nhưng, tâu hoàng thượng, trước hết cần phải nói để Người rõ vì sao mà có người lại gõ cửa nhà ba thiếu phụ giữa đêm rất khuya như vậy. Nguyên do là vì hoàng đế Haroun Alraschid có thói quen là hay vi hành trong đêm khuya để tự mình xem xét tình hình trật tự trị an trong kinh thành ra sao, có xảy ra tình trạng gì lộn xộn không.

Đêm hôm đó, hoàng đế ra đi từ chập tối, có Giafar, vị tể tướng và Mesrour, tổng thái giám của hoàng cung đi hộ giá. Cả ba người đều cải trang thành những thương nhân. Khi qua đường phố có dinh cơ của ba thiếu phụ, vị quốc vương này nghe thấy tiếng đàn, tiếng hát và những tràng cười ròn rã, bèn bảo tể tướng:

- Này, nhà ngươi hãy gõ cửa cái nhà đang làm ầm ĩ lên đó xem nào. Ta muốn vào xem cho biết nguyên nhân.

Vị tể tướng ra sức trình bày đó là các thiếu phụ bày tiệc vui tối đó và hẳn là men rượu đang bốc lên đầu họ, nên chớ có dại mà vào để hứng lấy những lời chẳng đẹp đẽ gì vả lại cũng chưa đến giờ cấm, chẳng nên phá rối cuộc vui của họ. Nhưng hoàng đế Haroun Alraschid vẫn bảo:

- Mặc kệ, đến gõ cửa đi! Ta ra lệnh cho khanh đấy.

Thế là, cực chẳng đã, tể tướng Giafar phải đến gõ cửa nhà các thiếu phụ, tuân lệnh nhà vua không muốn để lộ hình tích. Safie ra mở cửa và viên tể tướng, dưới ánh sáng cây nến nàng cầm tay trông thấy một phụ nữ đẹp tuyệt trần. Ông đóng rất tốt vai trò của mình, cúi đầu thật thấp và lễ phép nói:

- Thưa bà, ba người chúng tôi là thương nhân ở Moussoul(1) đến đây đã được mươi hôm với rất nhiều hàng hoá đắt tiền gửi trong kho một trang trại, nơi chúng tôi tạm trú. Hôm nay chúng tôi được một bạn buôn mời tới thăm nhà và chúng tôi được thết đãi một bữa no say. Ông ta lại cho gọi một tốp vũ nữ tới nhảy múa, đàn hát tưng bừng. Đêm đã khuya và đoàn người quá vui làm huyên náo phố phường nên lính tuần tra đi qua bắt mở cửa. Một số người bị bắt giữ, còn chúng tôi, may mắn đã trèo qua được bức tường thấp và trốn thoát. Nhưng - Tể tướng nói tiếp - Vì chúng tôi là những người xa lạ lại đang còn say rượu, loạng choạng sợ đụng toán lính tuần tra khác hoặc chính toán vừa rồi trước khi về đến trang trại cách đây khá xa. Vả lại nếu có về tối thì cũng vô ích vì cổng đóng, chỉ sáng ngày ra mới mở dù bất cứ có sự biến gì. Vì vậy, thưa bà, đi qua đây và nghe thấy tiếng đàn hát, chúng tôi đoán là cuộc vui chưa giải tán, nên đánh bạo gõ cửa xin nghỉ nhờ lại đêm nay. Nếu các vị thấy chúng tôi xứng đáng để được phép tham gia vào cuộc vui thì chúng tôi xin cố gắng với khả năng có thể để bù vào quãng thời gian bị gián đoạn vì chúng tôi. Nếu không thể được thì chỉ xin cho tạm trú dưới mái hiên nhà ngoài cho đỡ sương gió qua đêm thôi cũng được.

Trong lúc Giafar nói, thì nàng Safie xinh đẹp có thời gian để ngắm nhìn viên tể tướng và hai người đi cùng mà ông ta nói cũng là thương nhân như ông ta. Nhìn mặt mũi dáng điệu đoán chẳng phải là những người tầm thường, Safle nói với họ mình không phải là bà chủ, chịu khó chờ một chút, nàng sẽ trở lại cho họ biết ý kiến trả lời về yêu cầu của họ.

Safie trở vào trình bày với Zobéide và Amine. Họ lưỡng lự một lúc không biết giải quyết ra sao. Nhưng các nàng vốn là những người tốt bụng và cũng đã cho ba người tu sĩ ở lại rồi. Vì vậy họ quyết định để cho ba thương nhân vào nhà...”.

Scheherazađe định nói tiếp, nhưng thấy trời đã hửng sáng nên dừng lại.

Số nhân vật mới mà hoàng hậu vừa đưa vào câu chuyện đã khơi gợi trí tò mò của Schahriar làm cho ông trong tâm trạng chờ đợi một sự cố bất ngờ nào đó xảy ra, vị quốc vương này trong lòng háo hức đành để lui lại đêm sau.


o O o


Dinarzade, cũng tò mò như hoàng đế muốn biết cái gì sẽ xảy ra khi vị quốc vương đó vào nhà ba thiếu phụ, đã không quên đánh thức hoàng hậu dậy rất sớm.

- Nếu chị không còn ngủ nữa - Nàng bảo chị - Thì em xin chị hãy kể tiếp chuyện những tu sĩ đi.

Thế là Scheherazade, được phép của hoàng đế, kể tiếp như thế này:

“ - Nhà vua, tể tướng của ông và viên tổng thái giám, được nàng Safie xinh đẹp đưa vào, cúi đầu chào các thiếu phụ và các tu sĩ rất lịch sự. Các thiếu phụ cũng tiếp đón họ như thế và Zobéiđe coi như chị cả nghiêm trang thích hợp với vị trí của mình bảo họ:

- Xin chúc mừng các vị, nhưng trước hết, nếu không lấy làm phiền thì chúng tôi xin có một yêu cầu.

- Yêu cầu gì vậy, thưa bà? - Nhà vua hỏi - Liệu ai mà có thể chối từ một điều gì với những phu nhân xinh đẹp như các bà chăng?

- Chỉ nên dùng mắt nhìn mà nên để cho lưỡi nghỉ, chớ nên hỏi gì về những cái mà các vị nhìn thấy, đừng dò hỏi nguyên nhân và không bép xép những điều chẳng liên quan gì tới mình kẻo lại phải nghe những lời nghịch nhĩ.

- Chúng tôi sẽ tuân theo, thưa bà. Chúng tôi chẳng phải là quan toà cũng chẳng phải là những người tò mò hay bép xép. Chỉ chú ý tới gì có liên quan tới mình cũng là quá đủ rồi, còn công đâu mà xen vào những chuyện của người khác.

Tể tướng dứt lời, mọi người vui vẻ ngồi xuống, nối lại cuộc chuyện trò và lại bắt đầu chuốc rượu những người khách mới.

Trong lúc tể tướng Giafar hỏi han các thiếu phụ, hoàng đế không ngừng thầm phục sắc đẹp lạ thường, vẻ duyên dáng và trí thông minh của họ. Mặt khác, ông cũng vô cùng kinh ngạc là sao các tu sĩ, cả ba người đều chột mắt phải. Ông rất muốn được biết nguyên nhân của sự khác thường này nhưng điều kiện mà người ta đã đưa ra cho ông và cả bọn làm ông dừng lại. Cùng với những suy nghĩ đó, rồi nhìn những đồ đạc sang trọng, sự sắp xếp trật tự hài hoà và sự sạch sẽ cực kỳ của toà nhà, ông không khỏi không nghi hoặc là ở đây chắc hẳn có chuyện bùa phép gì chăng. Cuộc chuyện trò bàn sang những trò giải trí và các cách du hí làm vui, các tu sĩ đứng lên và nhảy theo điệu riêng của họ được các nàng tán thưởng nhiệt liệt và tranh thủ được sự quý trọng của hoàng đế và những người cùng đi. Khi các tu sĩ kết thúc điệu nhảy, Zobéiđo đứng lên, nắm lấy tay Amine bảo:

- Đứng dậy em, chắc hẳn mọi người đây không chê cười là chúng mình không chịu sự gò bó nào cả. Và sự có mặt của tất cả các vị đây cũng không phải là sự cản trở công việc mà chúng mình vẫn làm.

Amine, hiểu ý của chị muốn nói gì bèn đứng lên thu dọn bát đĩa, chai lọ, tách chén, dẹp cái bàn và các nhạc cụ mà các tu sĩ vừa chơi lại.

Safie cũng chẳng đứng không. Nàng quét nhà, sắp đặt lại trật tự tất cả các đồ đạc để lộn xộn, gạt bấc các cây nến, cho thêm trầm và long điên vào lò. Xong việc, nàng đề nghị ba tu sĩ ngồi vào tràng kỷ kê ở một bên và nhà vua cùng với người của mình ngồi trên chiếc tràng kỷ khác phía bên kia.

Còn về người khuân vác, nàng bảo:

- Anh đứng dậy đi, và giúp chúng tôi một trong việc sắp làm đây. Một người đàn ông như anh mà chúng tôi coi như người trong nhà, chẳng nên ngồi ì ra như thế.

Anh khuân vác hơi quá chén một chút, nhanh nhẹn đứng bật dậy, và sau khi đắt vạt áo dài vào thắt lưng:

- Tôi đã sẵn sàng - Anh nói - Có việc gì vậy?

- Tốt lắm - Safie bảo - Chờ một chút rồi anh sẽ rõ, anh sẽ không phải khoanh tay lâu đâu.

Một lát sau, Amine đi ra với một chiếc ghế ngồi đem đặt giữa phòng. Rồi nàng đi đến trước một cánh cửa phòng, giơ tay mở và ra hiệu bảo anh khuân vác tới gần.

- Đến đây - Nàng nói - Và giúp tôi.

Anh nghe theo, đi vào cùng với nàng và lát sau đi ra tay dắt hai con chó cái đen bằng một cái xích gắn vào cổ dề mỗi con. Hai con chó trông có vẻ đã bị đánh nhiều bằng roi. Anh khuân vác dắt hai con vật ra giữa phòng.

Nàng Zobéide đang ngồi giữa các tu sĩ và nhà vua liền đứng dậy đi tới chỗ anh khuân vác:

- Nào - Nàng thở dài nói - Chúng ta hãy làm bổn phận.

Nàng vén áo lên tận khuỷu tay và cầm lấy chiếc roi Safie đưa, bảo anh khuân vác:

- Anh hãy trao một con cho Amine, còn con kia thì dắt tới đây cho ta.

Anh khuân vác nghe theo và khi tới gần Zobéide thì con chó anh dắt theo bắt đầu rên lên ư ử, ngẩng đầu nhìn Zobéide với vẻ van xin. Nhưng Zobéide thản nhiên làm như không nhìn thấy cái vẻ tội nghiệp và tiếng kêu rên của con chó cái, giơ tay quật mạnh chiếc roi vào người nó cho đến lúc không còn hơi sức nữa mới ném roi xuống đất.

Rồi nắm lấy cái xích trong tay anh khuân vác, nâng hai chân trước của con chó lên, người và vật nhìn vào mặt nhau buồn rầu, cảm động và cả hai cùng khóc. Cuối cùng Zobéide rút khăn tay ra, lau nước mắt cho con chó, hôn nó và trao cái xích cho người khuân vác:

- Anh dắt nó đi, trả về chỗ cũ và đưa con kia tới đây cho ta.

Anh chàng khuân vác đắt con chó vừa bị đánh đưa vào buồng trong, lúc quay về nắm lấy xích con chó thứ hai từ tay Ámine và đưa đến cho Zobéide đang đứng đợl.

- Hãy giữ nó như con lúc nãy - Nàng bảo anh khuân vác.

Rồi cầm lại chiếc roi, nàng quật xuống người nó như con đầu tiên. Rồi lại khóc cùng với nó, lau nước mắt cho nó và trao trả cho anh khuân vác. Lần này thì tự tay Amine dắt con chó cái thứ hai này vào buồng trong.

Ba người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi, nhà vua và hai người của mình vô cùng ngạc nhiên trước cảnh đó. Họ không sao hiểu được vì cớ gì mà Zobéide sau khi đánh đập dữ dội hai con chó cái, theo đạo Hồi thì đó là những con vật bẩn thỉu, rồi sau đó lại khóc với chúng, lau nước mắt và hôn chúng nữa. Họ thì thầm trao đổi với nhau. Nhất là nhà vua, nôn nóng hơn cả muốn biết ngay nguyên do của một hành động cực kỳ khác lạ đó, không ngừng ra hiệu cho tể tướng hỏi cho biết sự thể. Nhưng tể tướng ngoảnh đầu sang phía khác cho đến lúc thấy nhà vua vẫn tiếp tục ra hiệu thật thúc bách, ông đành cũng phải ra hiệu trả lời là lúc này chưa thoả mãn tính hiếu kỳ của nhà vua được.

Zobéide ngồi nguyên tại chỗ một hồi lâu ở giữa phòng như để lấy lại sức sau khi đã cật lực quất roi hai con chó mực cái.

- Chị thân yêu của em - Nàng Safie xinh đẹp bảo chị - Chị hãy vui lòng trở về chỗ cũ, để đến lượt em làm nhiệm vụ chứ.

- Được - Zobéide đáp.

Rồi nàng đến ngồi trên sập. Bên phải nàng là nhà vua, tể tướng Giafar và tổng thái giám Mesruur; bên trái là ba tu sĩ và anh khuân vác...”.

Đến đây, nàng Scheherazade nói:

- Tâu hoàng thượng, những gì mà Người vừa nghe chắc là thấy kỳ lạ, nhưng đoạn tiếp của câu chuyện còn kỳ lạ hơn nhiều. Thiếp chắc là Người muốn nghe tiếp vào đêm mai nếu Người cho phép thiếp kể nốt câu chuyện đó.

Hoàng đế thuận ý, đứng dậy vì trời đã sáng.


o O o


Dinarzade vừa thức giấc đã vội kêu chị:

- Chị ơi, nếu chị không ngủ nữa thì kể nốt cho em câu chuyện rất hay ngày hôm qua đi.

Hoàng hậu nhớ tới đoạn đang kể dở đêm hôm trước, hướng tới hoàng đế kể tiếp như sau:

“- Tâu hoàng thượng, sau khi Zobéide trở về chỗ ngồi, tất cả mọi người cùng im lặng một lát. Cuối cùng Safle đang ngồi trên chiếc ghế đặt ở giữa phòng, nói với Amine:

- Em thân yêu của chị, em hãy đứng lên, em biết là chị muốn nói gì rồi đấy.

Amine đứng lên bước tới một buồng khác với buồng nhất hai con chó mực cái. Nàng ta trở vào tay cầm một cái túi bọc xa tanh vàng thêu kim tuyến và lót lụa xanh. Nàng đi tới gần Safie và mở chiếc túi, lấy ra một cây đàn trao cho chị. Safie cầm lấy và sau khi so dây, nàng bắt đầu gảy, theo điệu đàn, nàng hát theo một khúc hát nói lên những nỗi dằn vặt vì xa vắng có sức truyền cảm đến mức hoàng đế và cả mọi người đều nghe một cách say sưa. Nàng vừa đàn vừa hát thật say đắm kèm theo tay múa uyển chuyển theo nhịp điệu. Xong bài ca nàng bảo Amine: “Này em, chị mệt rồi, lạc cả giọng em hãy thay chị đàn hát hầu các vị đây" - "Vâng, em rất vui lòng", Amine đáp, bước đến gần Safie nhận chiếc đàn từ tay chị và làm nhiệm vụ thay thế chị.

Amine dạo thử đàn rồi bắt đầu vừa gảy vừa hát lâu cũng như chị về cùng một chủ đề nhưng hăng hái hơn và nàng rất xúc động hay đúng hơn là thấm ý nghĩa của lời ca thật sâu sắc nên biểu diễn xong thì kiệt sức.

Zobéide muốn tỏ rõ sự hài lòng của mình, bảo em:

- Em ạ, em đã làm nên điều kỳ diệu. Mọi người đều thấy rõ là em đau chính nỗi đau của mình nên đã diễn tả thật sống động.

Amine chẳng có thời gian để đáp lại tấm lòng trung thực đó. Nàng cảm thấy ngực mình ngạt thở đến mức chỉ muốn phanh vạt áo ra cho thoáng khí nhưng bằng cử chỉ này nàng đã để lộ ra mảng ngực và một bầu vú không phải trắng trẻo mịn màng mà một thiếu phụ xinh đẹp như Amine phải có, trái lại ngực nàng dọc ngang đầy những vết sẹo làm cho mọi người kinh hãi. Phanh áo ra cho thoáng mát như vậy nhưng cũng không làm nàng tỉnh táo mà vẫn bị ngất xỉu...”.

- Nhưng, tâu bệ hạ, thiếp không để ý là trời đã sáng rồi đó.

Nàng Scheherazade ngừng lời và hoàng đế đứng lên. Ông vua này đang lưỡng lự, chưa biết quyết định ra sao. Vì hiếu kỳ, ông còn muốn nghe nốt đoạn chót câu chuyện đầy những tình tiết bất ngờ lý thú.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:43:32 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 7
------------------------------------------

Dinarzade, theo thói quen, nói với hoàng hậu:

- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin hãy kể nốt chuyện các thiếu phụ và những tu sĩ Hồi giáo đi chị.

Scheherazade tiếp tục kể như sau:

“- Trong lúc Zobéide và Safie chạy đến cứu trợ cô em thì một trong các tu sĩ cất tiếng phàn nàn: “Chúng ta thà nằm ở ngoài trời còn hơn là vào đây để phải nhìn thấy những cảnh này”. Quốc vương nghe thấy, bước lại gần y và các tu sĩ khác hỏi: “Tất cả những cái đó là thế nào vậy?”. Người tu sĩ vừa phàn nàn đáp: “Thưa ngài, chúng tôi cũng chẳng biết gì hơn các ngài" - "Sao? - Nhà vua nói - Các anh không phải là người nhà này ư? Và các anh cũng không thể cho chúng ta biết chút gì về hai con chó mực cái bị hành hạ tàn tệ và cái bà bị ngất xỉu kia ư?" - "Thưa ngài - Cả ba tu sĩ đồng thanh - Chúng tôi chỉ mới tới cái dinh thự này lần đầu tiên trong đời, và tới trước ngài chỉ mới một lát”.

Điều này càng làm tăng thêm sự kinh ngạc của nhà vua.

- Có thể - Nhà vua phán đoán - Còn người kia, cùng ngồi với các anh đó, có nắm biết được điều gì chăng?

Một tu sĩ ra hiệu cho anh khuân vác tới gần và hỏi anh ta có biết vì sao mà hai con chó mực cái bị đánh rơi và vì sao mà bộ ngực nàng Amine lại héo hon và đầy sẹo như vậy.

- Thưa ngài - Anh khuân vác đáp - Tôi thề trước Trời đất thánh thần là nếu các ngài không biết một chút gì cả về cảnh tượng này, thì tôi cũng vậy. Đúng là tôi cư trú tại kinh thành này nhưng hôm nay là lần đầu tiên tôi vào ngôi nhà này và nếu các ngài ngạc nhiên thấy tôi tại đây thì tôi cũng ngạc nhiên không kém là được thấy mình nhập bọn với các ngài. Điều làm tôi ngạc nhiên gấp bội là không thấy một người đàn ông ở cùng với các bà đây.

Hoàng đế với những người cùng đi và các tu sĩ cứ đinh ninh anh khuân vác là người nhà các thiếu phụ nên hy vọng có thể qua anh ta biết những điều cần hiểu rõ, nhưng bị thất vọng. Vị hoàng đế quyết bằng giá nào cũng phải được thoả mãn tính hiếu kỳ của mình, nói với mọi người:

- Các anh hãy nghe đây, chúng ta ở đây có tất cả là bảy người đàn ông và chỉ phải đối phó với ba người phụ nữ, tại sao chúng ta lại không buộc họ phải làm sáng tỏ những điều chúng ta cần biết. Nếu họ không vui lòng đáp ứng thì chúng ta có cách ép họ nói ra bằng được?

Tể tướng Giafar không đồng tình với ý kiến trên và nêu lên hậu quả của việc làm cho hoàng đế nghe. Ông lựa cách nói như một thương nhân nói với người cùng nghề:

- Thưa ngài - Ông nói - Xin ngài hãy nghĩ xem, chúng ta cần phải bảo toàn danh dự. Chúng ta đều biết là với điều kiện như thế nào mà các bà này đồng ý tiếp chúng ta tại nhà và chúng ta đã chấp nhận. Người ta sẽ nói gì nếu bị phản lại lời cam kết? Lại càng đáng trách hơn nếu vì thế mà xảy ra điều gì tai hại. Không có vẻ gì là các bà này đòi hỏi chúng ta lời hứa đó để được thấy sự hối hận nếu chúng ta bội ước.

Đến đây, tể tướng kéo hoàng đế ra xa một chút và nói thật khẽ: “Tâu hoàng đế, chẳng mấy chốc nữa là qua đêm, xin Người hãy kiên nhẫn một chút. Thần sẽ cho bắt các bà này vào sáng mai, dẫn họ tới trước ngai vàng, và Người sẽ biết về họ tất cả những gì muốn biết”.

Mặc dù lời khuyên đó vô cùng phải lẽ, hoàng đế vẫn bác bỏ, bắt tể tướng im lặng, bảo ông là muốn được sáng tỏ sự việc ngay bây giờ.

Chỉ còn vấn đề ai sẽ là người phát ngôn. Hoàng đế cố ép các tu sĩ lên tiếng trước, nhưng họ đều cáo lỗi. Cuối cùng, họ nhất trí là anh khuân vác làm việc đó. Anh này đang chuẩn bị nêu lên câu hỏi tai hại này thì Zobéide sau khi đã cứu chữa cho Amine hồi tỉnh, bước lại gần họ. Vì nghe thấy họ bàn bạc to tiếng và sôi nổi, nàng hỏi:

- Các ngài bàn việc gì đó? Các ngài có điều gì phản đối?

Anh khuân vác tức thì lên tiếng:

- Thưa bà, các ngài đây muốn được bà vui lòng cho biết là tại sao sau khi hành hạ hai con chó mực cái, bà lại cùng khóc với chúng, và vì sao mà bà bị ngất đi đó lại có bộ ngực đầy vết sẹo. Đó là, thưa bà điều mà tôi được họ uỷ cho để hỏi bà.

Zobéide nghe thấy vậy, bằng dáng vẻ kiêu hãnh ngoảnh sang phía hoàng đế, và cả bọn người đi theo cùng các tu sĩ khổ hạnh, lạnh lùng hỏi:

- Thưa các ngài, có đúng là các ngài đã uỷ cho hắn ta đặt câu hỏi thế ra với tôi không?

Tất cả đều trả lời là đúng như thế trừ tể tướng Giafar không nói gì. Nghe lời xác nhận đó, nàng nói với họ bằng một giọng thể hiện rõ sự bất bình vì thấy bị xúc phạm:

- Trước khi đồng ý tiếp các ngài theo yêu cầu của các ngài, và để đề phòng mọi điều có thể làm chúng tôi không được đẹp lòng đối với các ngài vì chúng tôi chỉ toàn là đàn bà con gái. Vì vậy điều kiện đã được đặt ra là các ngài không được xì xào gì về những sự việc không liên quan gì tới mình, sợ rằng sẽ phải nghe những lời không vừa ý. Sau khi được nghênh tiếp và chiêu đãi lịch sự nhất theo khả năng của chúng tôi, thế mà các ngài lại làm sai lời đã hứa. Cái đó một phần cũng là lỗi ở chúng tôi là đã quá dễ dãi. Nhưng về phần các ngài thì không sao tha thứ được. Cách xử sự của các ngài thật không đứng đắn chút nào.

Nói xong nàng dậm mạnh chân và vỗ tay ba lần rồi kêu to:

- Hãy mau lại đây! Mau lên!

Ngay tức thì một cánh cửa mở toang ra và bảy tên nô lệ da đen to khoẻ bước vào, kiếm cầm tay, mỗi tên tóm lấy một vị khách, đẩy ngã lăn xuống đất, kéo xềnh xệch ra giữa gian phòng, chuẩn bị chặt đầu cả bọn bảy người.
Cũng dễ hiểu là hoàng đế kinh hoàng tới mức nào. Ông hối hận, nhưng đã quá muộn, là đã không nghe theo lời khuyên của tể tướng. Trong khi nhà vua đáng thương, Giafar, Mesrour, anh khuân vác và các tu sĩ sắp phải trả giá bằng cả cuộc sống vì tính tò mò đáng trách của họ thì một trong những tên nô lệ cất tiếng hỏi Zobéide và các cô em:

- Thưa các bà chủ cao cả, quyền uy và đáng kính, phải chăng các bà lệnh cho chúng con phải chặt đầu họ?

- Hãy khoan! - Zobéide đáp - Trước hết, ta còn phải hỏi chúng đã.

- Thưa bà - Anh khuân vác run rẩy lắp bắp – Nhân danh Thượng đế, xin đừng bắt tôi phải chết vì tội của người khác. Tôi vô tội, chính họ mới là thủ phạm. Than ôi! - Anh ta khóc và nói tiếp - Chúng ta đã vui vẻ biết bao! Chính các tu sĩ chột này là nguyên nhân của tai hoạ, không có thành phố nào mà không chịu cảnh đổ nát điêu tàn trước những con người bất thành nhân dạng ấy. Thưa bà, tôi xin bà chớ nên nhầm lẫn người đầu với kẻ cuối và nên nghĩ là tha thứ cho một người khốn khổ như tôi, chẳng biết trông cậy vào ai thì thật đẹp hơn là dùng quyền uy để hành hạ và làm vật hi sinh cho sự giận dữ của mình.

Zobéide, mặc dù tức giận cũng không nén được cười thầm trước những lời kêu van của gã khuân vác. Nhưng không dừng lại trước hắn, nàng hỏi lại những người khác lần thứ hai:

- Hãy trả lời và cho tôi biết các người là ai. Các người chỉ còn sống được trong chốc lát mà thôi. Tôi không thể tin được các ông là những người đứng đắn cũng chẳng phải là những người có chức có quyền hoặc những người danh giá trong đất nước các ông, cho dù đó là nước nào. Bởi vì nếu đúng là như vậy thì các ông đã biết tự kiềm chế và tôn trọng chúng tôi hơn.

Hoàng đế, bản chất nôn nóng, thấy đau khổ nhiều hơn những người khác vì thấy sự sống chết của mình phụ thuộc vào sự ra lệnh của một phụ nữ bị xúc phạm và giận dữ một cách chính đáng; nhưng ông bắt đầu cảm thấy một tia hy vọng khi nàng tỏ ra muốn biết thân thế từng người trước khi ra lệnh giết. Ông tin là nàng sẽ không cho giết khi biết được địa vị của mình. Vì vậy ông nói khẽ với tể tướng sát cạnh mình là tuyên bố ngay cho nàng ta rõ mình là ai. Nhưng tể tướng khôn ngoan và thận trọng muốn cứu vớt danh dự của chủ mình và không muốn cho lan truyền điều sỉ nhục lớn mà nhà vua chuốc lấy, nên chỉ đáp: “Chúng tôi phải chịu những gì đáng phải chịu", chứ không tuân lệnh của hoàng đế muốn nói nhưng Zobéide đã hỏi sang các tu sĩ khổ hạnh. Khi nhìn thấy cả ba người cùng bị chột mắt, nàng hỏi có phải anh em không. Một người trả lời thay cho cả ba: “Không, thưa bà, chúng tôi không phải anh em cùng huyết thống mà chỉ là đồng đạo tức là cùng tuân theo một nếp sống như nhau" - "Anh - Nàng hỏi riêng một người - Anh có phải là bị chột bẩm sinh không?" - "Không, thưa bà - Anh này đáp - Tôi bị chột vì một sự cố rất kỳ lạ mà nếu được ghi chép lại thì cũng là chuyện bổ ích. Sau tai hoạ đó, tôi cạo râu và lông mày và trở thành tu sĩ khổ hạnh như y phục tôi đang mang đây”.

Zobéide cũng hỏi hai tu sĩ kia như thế và họ cũng trả lời như người thứ nhất. Nhưng một người nói thêm: “Để bà hiểu, thưa bà, chúng tôi không phải là những người dân thường và để bà có một chút gì xem trọng xin nói để bà rõ cả ba chúng tôi đều là con vua. Dù là chúng tôi mới chỉ biết nhau buổi chiều hôm nay nhưng cũng đã giới thiệu cho nhau biết thân thế mình và chúng tôi có thể đoán chắc với bà là các phụ vương của chúng tôi đều là những ông vua có danh tiếng trong thiên hạ”.

Nghe những lời như vậy, Zobéide cũng nguôi nguôi cơn giận một chút, bảo bọn nô lệ:

- Hãy cho họ tự do đôi chút, nhưng các ngươi vẫn phải ở tại đây. Người nào kể cho chúng ta nghe rõ lai lịch của mình và nguyên nhân vì sao lại tới đây thì ta không xử tệ và sẽ cho họ muốn đi đâu thì đi. Nhưng chúng ta sẽ không tha những ai khước từ không muốn làm theo điều chúng ta yêu cầu...”.

Đến đây Scheherazade ngừng nói và sự im lặng đó cùng với ánh sáng bình minh hé rọi làm cho Schahriar hiểu là đã đến lúc ông phải đứng dậy. Vị hoàng đế này thầm hẹn là ngày mai sẽ nghe tiếp câu chuyện của Scheherazade vì ông rất muốn biết ba người tu sĩ là những nhân vật như thế nào.


o O o


Dinarzade cực kỳ thích thú vì những câu chuyện kể của hoàng hậu, đánh thức nàng vào lúc đêm gần tàn hôm sau:

- Chị thân yêu của em - Nàng nói với hoàng hậu Scheherazade - Nếu chị không còn muốn ngủ nữa thì chị hãy kể tiếp câu chuyện rất hay về các tu sĩ đi.

Scheherazade xin ý kiến hoàng đế và khi đã được chuẩn y, nàng kể tiếp:

“- Tâu hoàng thượng, ba người tu sĩ, vị quốc vương, viên quan tể tướng Giafar, thái giám Mesrour và gã khuân vác đều ngồi trên một tấm thảm ở giữa phòng đối diện với ba người đàn bà đẹp chễm chệ ngồi trên sập và phía sau là các nô lệ da đen sẵn sàng thi hành lệnh của các cô chủ chúng.

Anh chàng khuân vác hiểu là chỉ cần kể chuyện thực tỉ mỉ về mình là có thể tự giải thoát được nguy cơ lớn đang đe doạ tính mệnh, nên đã lên tiếng trước tiên:

- Thưa bà, bà đã biết rõ thân thế của tôi và nguyên nhân nào đã dẫn tôi tới quý xá. Như vậy câu chuyện về tôi chẳng mấy chốc mà kết thúc thôi. Quý bà em của bà sáng nay mướn tôi ở chỗ tập trung những người lao động, làm một người khuân vác. Tôi đã theo bà ấy đến một cửa hàng rượu, một cửa hàng rau quả rồi tới một cửa hàng khô bán các loại hạnh nhân, hạnh đào, hạt dẻ và nhiều loại quả khác. Sau lại tới một cửa hàng bán gia vị và các loại mứt kẹo. Từ cửa hàng này, sọt chứa đã đầy lắc, tôi phải gắng hết sức mình mới đội được về tới dinh thự của các bà và được các bà có lòng tốt cho ở lại từ lúc đó tới bây giờ. Đó là một ân huệ mà suốt đời tôi sẽ không quên. Chuyện của tôi vẻn vẹn chỉ có thế”.

Khi anh khuân vác nói xong, Zobéide hài lòng bảo gã:

- Thôi bây giờ thì đi đi, chạy đi! Đừng để chúng ta trông thấy anh nữa.

- Thưa bà - Gã khuân vác lại nói - Xin bà cho phép tôi được ở lại. Thật là không công bằng sau khi đã làm cho mọi người thích thú được nghe chuyện của tôi, tôi lại không có cái thú được nghe chuyện của mọi người.

Nói xong, anh ta ngồi ghé vào một góc sập, vui mừng thấy thoát một hiểm hoạ đã làm cho mình vô cùng nao núng. Sau gã, một trong ba tu sĩ cất tiếng nói với Zobéide mà anh coi như là người chủ trong ba thiếu phụ và là người ra lệnh cho anh ta phải kể chuyện mình. Anh ta bắt đầu kể như sau:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:44:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

CHUYỆN KỂ CỦA TU SĨ KHỔ HẠNH THỨ NHẤT, CON VUA


- Thưa bà, để cho bà hiểu vì sao tôi lại mất con mắt bên phải và nguyên nhân buộc tôi mang áo thầy tu, xin thưa với bà tôi là hoàng tử con vua. Vua cha tôi có một người em trai cũng ở ngôi vua như ông tại một nước láng giềng. Người em này có hai con, một hoàng tử và một công chúa và hoàng tử thì gần như đồng niên với tôi.
Khi tôi đã hoàn thành tất cả những nhiệm vụ được trao, phụ vương cha tôi thường cho tôi được hưởng một thứ tự do thuần khiết và thích đáng. Đều đều hàng năm tôi được đi thăm quốc vương chú tôi và tôi ở lại đó một hoặc hai tháng. Sau đó tôi lại về sống gần phụ vương cha tôi. Những cuộc đi trên đã tạo điều kiện cho hoàng tử em họ tôi và tôi một tình thân thật đậm đà và đặc biệt sâu sắc. Lần gặp nhau vừa rồi, hoàng tử em tiếp tôi với những biểu hiện thân tình chưa từng thấy. Và một hôm để chiêu đãi tôi, chú ta đã chuẩn bị thật là kỳ công. Chúng tôi ngồi vào bàn ăn đã lâu và sau khi cả hai cùng no nê thoả mãn, hoàng tử bảo tôi:

- Anh ạ, anh không thể đoán được là em đã bận tâm về việc gì từ cuộc đến thăm của anh lần trước đâu. Đã được một năm kể từ ngày anh trở về bên bác, em đã thuê rất nhiều thợ làm việc để thực hiện một ý đồ mà em đã nghiền ngẫm. Em đã cho xây xong một dinh thự và bây giờ đã có thể ở được. Chắc là anh sẽ rất thích được tới xem. Nhưng trước hết anh phải hứa với em là tuyệt đối giữ bí mật và phải một dạ trung thành. Đó là hai điều em đòi hỏi ở anh.

Tình bạn thân thiết và tình ruột thịt gia đình giữa chúng tôi không cho phép tôi từ khước một điều gì, vì vậy tôi không chút ngần ngại thề như ý em tôi muốn và em tôi liền bảo:

- Anh hãy chờ em tại đây, một lát nữa em sẽ quay lại.

Đúng vậy, chỉ một lát sau em tôi trở về và đi cùng một thiếu nữ rất xinh đẹp, quần áo sang trọng. Em chẳng nói cho tôi biết nàng là ai và tôi thấy cũng chẳng nên tò mò làm gì. Chúng tôi lại ngồi vào bàn tiệc cùng người thiếu nữ đó một lát, nói chuyện về nhiều vấn đề và uống chúc mừng sức khoẻ lẫn nhau. Sau đó hoàng tử bảo tôi: “Anh họ ạ, chúng ta không có nhiều thời gian đâu. Anh hãy giúp em đưa phu nhân này tới phía đó, ở cái chỗ mà anh sẽ nhìn thấy một ngôi mộ có vòm mới xây. Anh sẽ nhận biết dễ dàng. Cửa hầm mộ đã mở sẵn, hai người cùng vào trong đó và chờ em. Em sẽ tới ngay thôi”.

Trung thành với lời hứa, tôi chẳng muốn tìm hiểu gì hơn, giơ tay cho nàng và theo những chỉ dẫn của hoàng tử em họ, tôi dẫn nàng đi dưới ánh trăng. Vừa tới chỗ ngôi mộ, chúng tôi đã nhìn thấy hoàng tử đi phía sau chúng tôi, mang theo cái bình chứa đầy nước, một cái cuốc và một túi nhỏ đựng vôi vữa.

Hoàng tử dùng cuốc phá dở nấm mồ trống không, bê lần lượt các tảng đá xếp vào một góc. Rồi chú ấy đào đất sâu xuống và tôi thấy hiện ra một cái nắp dưới đáy huyệt mộ. Hoàng tử lật cái nắp đậy lên và tôi nhìn thấy ở phía dưới, đầu một cầu thang xoáy trôn ốc. Thế rồi ông em họ tôi nói với thiếu nữ :

- Đó là lối để đi tới chỗ mà tôi đã nói.

Người thiếu nữ bèn đi tới gần và đưa chân bước xuống, hoàng tử em tôi đi theo, nhưng trước khi cũng bước xuống bèn quay lại nói với tôi: “Anh họ của em, em rất biết ơn sự giúp đỡ của anh. Xin cảm ơn và vĩnh biệt anh" – "Em họ thân mến của anh - Tôi kêu lên - Thế này là nghĩa làm sao?" - "Thế là đủ rồi anh ạ - Chú em tôi đáp - Anh có thể trở lại con đường anh vừa đi tới đây”.

Scheherazade kể đến đây thì trời vừa sáng, nàng chẳng thể vượt điều đã qui định. Hoàng đế cũng đứng lên, trong lòng băn khoăn về ý đồ của người hoàng tử và vị phu nhân dường như muốn tự chôn sống mình. Ông đành nóng lòng chờ đến đêm hôm sau để được sáng tỏ chuyện đó.


o O o


- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa - Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng - Em xin chị kể tiếp chuyện người tu sĩ thứ nhất cho em nghe đi.

Schahrlar cũng tỏ ý với hoàng hậu là ông rất muốn nghe hoàng hậu kể tiếp chuyện đó. Scheherazade kể tiếp như sau:

“- Người tu sĩ nói với Zobéide:

- Tôi không thể moi gì được thêm ở hoàng tử em họ tôi nên buộc phải chia tay với y. Khi trở về hoàng cung, của quốc vương chú tôi, chất men rượu bốc lên đầu nhưng tôi cũng về được tới phòng riêng nằm ngủ như chết. Hôm sau thức dậy, nghĩ lại những gì đã xảy ra đêm trước, và sau khi nhớ lại tất cả những chi tiết của một sự kiện thật là kỳ lạ, tôi ngỡ đó là một giấc mộng. Đinh ninh với ý nghĩ đó, tôi cho người đi tìm hiểu xem hoàng tử em họ tôi có ở nhà không. Nhưng khi người ta cho biết là y không ngủ ở nhà và cũng không biết y ra sao trong lúc này. Mọi người đều lấy làm lo lắng, tôi thấy rõ là chuyện kỳ lạ về ngôi mộ là hoàn toàn có thật. Tôi rất buồn và tránh mặt tất cả, tôi bí mật một mình đi tới nghĩa địa mà ở đó có vô vàn những nấm mồ giống như nấm mồ tôi đã thấy hôm qua. Suốt một ngày tôi xem xét hết cái này đến cái khác nhưng không sao nhận biết được ngôi mộ nào là cái tôi đã thấy. Liên tiếp bốn ngày tôi tìm tòi một cách vô ích.

Cũng cần biết thêm là suất thời gian đó quốc vương chú tôi đi vắng. Nhiều ngày liền, ông mải đi vào cuộc săn thú rừng. Chờ đợi lâu tôi rất sốt ruột nên sau khi nhờ các quan trong triều cáo lỗi hộ khi Người trở về và tôi rời hoàng cung của ông để về với triều đình của phụ vương cha tôi mà tôi không quen sống xa quá lâu. Những đại thần của triều đình chú tôi rất lo lắng về việc hoàng tử em họ tôi mất tích. Nhưng trung thành với lời thề là giữ bí mật cho y, tôi không dám cho họ rõ những gì tôi biết về hoàng tử.

Tôi về tới kinh đô nơi cha tôi trị vì. Trái với lệ thường, tôi thấy trước cổng hoàng cung rất nhiều lính vệ binh và tôi bị bao vây ngay lúc mới bước vào. Hỏi lý do, viên sĩ quan cận vệ cho tôi biết là quân đội đã suy tôn viên tể tướng lên nối ngôi thay cha tôi đã mất và tôi bị bắt làm tù binh theo lệnh của quốc vương mới. Bọn vệ binh bắt trói tôi và đưa đến trước tên bạo chúa. Bà thử xem, thưa bà, sự kinh ngạc và nỗi đau của tôi lớn đến mức nào.

Tên tể tướng phản động này đã mời mối hận thù với tôi đã rất lâu rồi. Và nguyên nhân là đây: Trong tuổi ấu niên, tôi rất thích bắn cung. Một hôm tôi cầm một cây cung đứng trên sân thượng cung điện tập bắn. Có một con chim đậu phía trước, tôi nhằm bắn nhưng trượt và chẳng may mũi tên bay lạc cắm vào mắt viên tể tướng lúc đó đang đứng hóng mát trên sân thượng nhà ông và làm ông ta nổ một mắt. Khi biết tin tai hoạ đó, tôi cho người đến tạ lỗi và tự mình cũng đến tạ lỗi với ông. Nhưng ông vẫn mang lòng hận thù và chỉ chờ dịp để trả hận. Khi thấy tôi đã ở trong tay, hắn nhảy xổ vào tôi như một thằng điên, chọc thẳng ngón tay vào mắt phải tôi và móc ra. Đó, tôi bị chột mắt là vì thế.

Nhưng kẻ tiếm quyền không ngừng tính độc ác của hắn tại đó. Hắn cho giam tôi trong một chiếc hòm và ra lệnh cho đao phủ cứ thế mang tôi ra xa kinh thành, để cho lũ ác điểu rỉa thịt sau khi đã chặt đầu tôi. Tên đao phủ cùng với một tên nữa cưỡi ngựa, mang theo cái hòm, dừng lại trên cánh đồng vắng để thi hành mệnh lệnh. Tôi khóc lóc van xin khiến chúng mủi lòng.

Tên đao phủ bảo tôi:

- Đi đi, đi ra mau khỏi vương quốc và đừng trở về nữa vì anh sẽ chết và tôi cũng bị chết lây đó.

Tôi cảm ơn tên đao phủ và khi chỉ còn lại một mình tôi tự an ủi dù bị mất một con mắt nhưng đã tránh được tai hoạ mất đi cả cuộc sống.

Với tình trạng như thế nên tôi chẳng đi được bao ngã quãng đường dài. Ban ngày tôi ẩn mình vào những nơi hẻo lánh kín đáo, tôi chỉ đi hoàn toàn vào ban đêm, gắng hết sức mình càng đi được mau càng tốt. Cuối cùng tôi tới được vương quốc của chú và đi thẳng vào kinh đô.
Tôi kể cho chú tôi nghe với tất cả chi tiết nguyên nhân khốc liệt của sự trở về và tình trạng bi thảm lúc này mà chú tôi thấy.

- Than ôi! - Ông thốt kêu lên - Mất một đứa con thế chưa đủ sao! Mà ta lại còn phải hay tin cái chết của một người anh trai vô cùng thân thiết, lại còn phải nhìn thấy tình trạng thảm thương của cháu ta thế này.

Chú tôi tỏ ra vô cùng lo lắng về việc chẳng được có một tí tin tức nào về hoàng tử con trai ông dù đã cho đi lùng tìm ráo riết. Người cha khốn khổ này khóc ròng khi than thở cùng tôi và tỏ vẻ vô cùng đau khổ làm tôi không sao đừng được mà phải kể lại cho ông nghe tất cả những gì tôi biết mặc dù tôi đã phát lời thề với hoàng tử em họ tôi.

Nhà vua lắng nghe tôi nói có vẻ như được an ủi phần nào. Khi tôi dứt lời, ông nhìn tôi hỏi:

- Cháu của chú, chuyện cháu vừa kể đưa lại cho chú một đôi chút hy vọng. Chú biết là con chú đã cho xây nhà mồ đó và chú biết nó ở chỗ nào. Với trí nhớ của cháu, ta tin là có thể tìm thấy. Nhưng vì nó đã bí mật xây và còn đòi hỏi ở cháu phải giữ kín, ta thấy là nên tránh chuyện ồn ào: chỉ hai chú cháu ta đi tìm thôi.

Còn một lý do nữa mà chú tôi không nói ra là không muốn cho tất cả mọi người biết chuyện. Lý do này rất quan trọng mà chúng ta sẽ thấy rõ ở đoạn tiếp lời thuật lại của tôi.

Hai chú cháu cùng cải trang và ra khỏi hoàng thành bằng cửa khu vườn mở ra phía cánh đồng. Chúng tôi may mắn tìm ngay ra được cái cần tìm. Tôi vô cùng sung sướng nhận ra cái nhà mồ mà mấy hôm trước đã mất bao công tìm kiếm vô ích. Chúng tôi bước vào và tìm ra được cái cửa sắt chặn lối xuống cầu thang. Mất rất nhiều công sức với cái cửa này vì hoàng tử em tôi đã trát kỹ phía trong bằng túi vữa chú ta mang theo. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi cũng nâng lên được.
Quốc vương chú tôi bước xuống trước. Tôi theo sau và chúng tôi phải đi xuống khoảng năm chục bậc thang. Khi đã xuống tới chân cầu thang, chúng tôi thấy mình đang ở trong một tiền phòng đầy khói và bốc lên mùi hôi hám. Khói làm cho ánh sáng toả ra từ một cái đèn chùm rất đẹp bị mờ hẳn đi.

Từ gian phòng này chúng tôi bước sang một gian phòng khác to rộng có những cột lớn và được nhiều chùm đèn chiếu sáng. Giữa phòng là một thùng lớn chứa nước và bên cạnh xếp nhiều loại thức ăn. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên vì chẳng nhìn thấy một người nào. Trước mặt chúng tôi kê một cái sập khá cao có bậc để trèo lên và trên sập là một chiếc giường rộng có diềm che kín. Nhà vua đặt chân vào bậc trèo lên, mở diềm che và nhìn thấy hoàng tử con trai ông và người thiếu nữ nằm cạnh nhau nhưng thân thể cả hai đều bị đốt cháy đen như thể có ai ném họ vào một lò lửa lớn rồi lôi ra kịp trước khi bị thiêu cháy hoàn toàn thành than.

Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trước cảnh tượng làm mọi người kinh hoàng đó thì nhà vua chú tôi, đáng lẽ phải rất đau buồn thấy con trai mình trong tình trạng thê thảm như vậy thì ông lại nhổ vào mặt con và phẫn nộ kêu lên: “Đó là sự trừng phạt trên thế gian này nhưng ở thế giới bên kia thì sự trừng phạt sẽ còn kéo dài vĩnh viễn”. Chưa bằng lòng với lời xỉ vả đó, ông còn tháo giày ra cầm tay đập mạnh vào mặt hoàng tử, con trai ông”.

- Nhưng, tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Trời đã lại sáng rồi, thiếp tiếc là Người chẳng còn được thư thả để nghe thiếp kể tiếp nữa.

Vì câu chuyện về tu sĩ thứ nhất chưa kể xong và thật lạ lùng với hoàng đế nên ông quyết định nghe kể tiếp vào đêm sau và đứng lên.


o O o


Hôm sau Dinarzade thức giấc sớm hơn mọi khi. Nàng gọi chị Scheherazade và bảo:

- Hoàng hậu tốt bụng của em ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ nhất cho em nghe đi. Em sốt ruột muốn biết đoạn kết ra sao.

- Vậy thì thế này nhé - Scheherazade bảo - Em thấy là tu sĩ thứ nhất đang tiếp tục kể chuyện của mình với nàng Zobéide. Anh ta nói:

"- Tôi không sao tả được, thưa bà, sự ngạc nhiên của mình khi thấy quốc vương chú tôi lại hành hạ hoàng tử con mình đã chết rồi như thế. Tôi nói với ông:

- Tâu bệ hạ, dù sự tang tóc này có làm cho cháu đau đớn tới mức nào thì cháu cũng cố nén lại để xin chú cho biết hoàng tử em họ cháu đã phạm tội gì để Người phải đối xử như thế với thi hài của em.

- Cháu của ta! - Nhà vua đáp - Ta có thể nói là con trai ta không xứng đáng được mang tên gọi đó. Nó yêu em gái nó từ khi còn nhỏ và em gái nó cũng yêu nó như vậy. Ta không phản đối cái tình cảm đó bởi vì ta không lường trước được điều xấu có thể xảy ra. Ai mà có thể dự kiến được cái đó? Tình cảm âu yếm đó tăng lên theo tuổi và tiến tới điểm mà bác lo là sẽ gây hậu quả không hay. Ta tìm cách ngăn ngừa trong phạm vi quyền lực của mình. Không những ta kéo riêng con trai mình ra một chỗ để răn đe, vạch cho nó thấy rõ sự kinh tởm của mối tình say đắm mà nó sa vào và sự nhục nhã mãi mãi của cả một dòng tộc nếu nó cứ nhắm mắt lao theo những tình cảm tội lỗi. Ta còn răn đe con gái ta cũng những điều như thế và bắt nó cấm cung để không còn liên hệ được với anh trai nó nữa. Nhưng con bé khốn kiếp đã ăn phải bả độc rồi nên tất cả những cấm đoán vì lo xa chúng rơi vào sự loạn luân bất chính chỉ càng làm cho nó như bị kích thích thêm mà thôi. Con trai chú, chắc là em gái nó đối với nó vẫn như trước đây, mượn cớ xây lăng mộ, nó chuẩn bị chỗ ở dưới đất này với hy vọng có ngày nào đó tạo cơ hội để bắt cóc đối tượng yêu đương của nó rồi mang tới đây. Nó đã chọn ngày chú đi vắng để xông vào nơi giam giữ em gái nó, phá cửa đưa em gái ra. Đó là điều mà danh dự không cho phép chú công bố. Sau hành động đáng phải lên án như thế, nó cùng với em gái đến ẩn náu tại đây. Cháu xem đấy, chúng đã chuẩn bị đủ các loại thức ăn để cùng nhau tận hưởng lâu lâu mối tình đáng khinh bỉ mà mọi người đều ghê tởm. Nhưng Thượng đế chẳng bỏ qua hành động bỉ ổi này và Người đã trừng phạt đích đáng cả hai đứa.

Nói dứt câu trên, ông bật khóc nức nở và tôi cũng hoà nước mắt cùng ông.

Một thời gian sau, ông để mắt tới tôi, ông ôm hôn tôi và nói:

- Cháu yêu quí, ta đã mất đứa con chẳng ra gì, nhưng lại sung sướng thấy ở cháu một con người xứng đáng để thay thế nó.

Những suy nghĩ mà chú tôi gợi lại về cái kết thúc bi thảm của hoàng tử và công chúa, hai con của Người đã khiến cả chú tôi và tôi không cầm được nước mắt.

Chúng tôi trèo lên cũng bằng các bậc thang đó và rời khỏi cái chốn chết chóc ấy. Chúng tôi hạ cái cánh cửa sắt xuống và đắp đất dày lên trên, cố gắng che giấu đi cái hậu quả khủng khiếp của cơn thịnh nộ mà Thượng đế đã ra tay.

Chúng tôi trở lại hoàng cung mà không một ai biết đã vắng mặt. Chưa được bao lâu thì nghe thấy tiếng kèn, trống, thanh la những khí cụ chiến tranh khác nổi lên vang dậy. Một đám bụi khổng lồ dày đặc bốc lên làm không gian mờ mịt đã cho chúng tôi biết có gì xảy ra. Một đạo quân đông đảo đang tiến tới gần. Đó cũng chính là tên tể tướng đã cướp ngôi vua của cha tôi, bây giờ lại muốn chiếm cả đất nước của chú tôi với một lực lượng quân sĩ đông vô kể.

Vị quốc vương này lúc đó chỉ có một đội quân cận vệ bình thường không thể cự địch với kẻ thù hùng hậu. Chúng tấn công đô thành và vì các cổng thành đều bỏ ngỏ không đề kháng, nên chúng dễ dàng làm chủ. Cũng chẳng khó khăn gì mà chúng tiến vào tới tận cung điện của chú tôi. Ông ra sức kháng cự nhưng đã bị chúng giết sau khi bắt chúng phải trả giá đắt cho mạng sống của mình. Về phần mình, tôi cũng chiến đấu được một thời gian nhưng xét thấy một mình chẳng địch nổi được số đông nên tìm cách rút lui. May mắn cho tôi là đã dựa được vào các ngóc ngách thoát được ra ngoài vòng vây tìm đến nhà một vị võ quan mà lòng trung thành đã được thử thách, nhờ cứu giúp.

Ê chề đau khổ và bị số phận đầy đoạ, tôi phải nhờ đến một mẹo, nó là phương sách cuối cùng để bảo toàn tính mệnh. Tôi cạo nhẵn râu ria và cả lông mày, mặc áo tu sĩ khổ hạnh, đi ra khỏi kinh thành chẳng thu hút sự chú ý của ai. Nhờ đó, tôi đã dễ dàng đi ra khỏi đất nước của quốc vương chú tôi, bằng những con đường đi vắng vẻ hẻo lánh. Tôi tránh không đi qua các thành phố, cho đến khi tới được bờ cõi của đức thống lĩnh các tín đồ, hoàng đế vinh quang và danh tiếng Haroun Alraschid, tôi mới hết sợ. Thế là tôi tự hỏi phải làm gì lúc này, tôi quyết định là phải đi tới Bagdad, quỳ xuống chân vị hoàng đế vĩ đại mà ai cũng ca ngợi đức tính khoan dung độ lượng. Tôi tự nhủ: "Ta sẽ làm cho Người xúc động bằng câu chuyện kỳ lạ của ta, Người sẽ rủ lòng thương một hoàng tử tội nghiệp và ta sẽ chẳng uổng công cầu xin sự trợ giúp của Người”.

Rồi, sau một cuộc đi dài nhiều tháng trời, hôm nay tôi đã tới trước cổng kinh thành này. Lúc tôi vào thành thì trời đã về chiều. Dừng lại một lát cho tĩnh trí và để xem phải đi về hướng nào thì tu sĩ này, người ngồi cạnh tôi đây đi tới cũng như một du khách. Anh ta chào tôi, tôi chào lại và hỏi: “Có vẻ bạn cũng là khách lạ như tôi?”. Anh ta đáp là tôi đã không lầm. Trong khi anh ta trả lời tôi như thế thì người tu sĩ thứ ba mà các vị thấy đây, chợt đi tới. Anh ta chào chúng tôi và cho biết anh ta cũng là khách lạ và là lần đầu đến Bagdad. Vì là đồng đạo, nên chúng tôi đi cùng với nhau và quyết định không rời nhau nữa. Tuy nhiên, đêm đã khuya, chúng tôi chẳng biết tìm đâu ra nơi trọ ở một thành phố chưa tới lần nào, hoàn toàn lạ lẫm. Nhưng số phận may mắn đã đưa chúng tôi đến trước cửa dinh thự của các bà và mạnh bạo gõ cửa. Các bà đón tiếp chúng tôi với tấm lòng nhân hậu và hào phóng khiến chúng tôi vô cùng biết ơn. Đó, thưa bà - Anh ta nói thêm - Đó là toàn bộ câu chuyện mà bà ra lệnh cho tôi kể hầu bà để rõ tại sao mà tôi chột mắt phải, vì sao râu tóc, lông mày tôi cạo nhẵn và tại sao lúc này tôi lại ở tại nhà quý bà.

- Đủ rồi - Zobéide nói - Chúng tôi rất hài lòng. Ngài hãy đi đi! Đi đâu tuỳ ý.

Chàng tu sĩ xin lỗi và xin được ở lại để có được cái thích thú là được nghe chuyện của hai người đồng đạo mà anh không thể, như anh nói, bỏ lại đột nhiên như vậy, và còn cả chuyện của ba vị khác nữa cùng trong nhóm người có mặt hôm nay".

- Tâu bệ hạ - Đến đây, Scheherazade nói - Trời sáng rồi, thiếp chẳng kể tiếp được sang chuyện của người tu sĩ thứ hai. Nhưng nếu Người muốn nghe vào đêm mai thì Người sẽ thấy chẳng kém hứng thú như chuyện của tu sĩ thứ nhất. Hoàng đế bằng lòng và đứng lên để đi tới phòng thiết triều.


o O o


Dinarzade chắc chắn là chuyện của người tu sĩ thứ hai cũng sẽ hay chẳng kém chuyện người tu sĩ đầu nên không quên gọi hoàng hậu trước khi trời sáng:

- Chị ơi, nếu chị đã thức thì xin chị hãy bắt đầu kể chuyện mà chị đã hứa hôm qua đi.

Scheherazade hướng về hoàng đế và nói thế này:

“- Tâu bệ hạ, chuyện người tu sĩ thứ nhất làm cả bọn thích thú về tính chất kỳ lạ của nó, đặc biệt là đối với vị hoàng đế. Sự có mặt của những nô lệ, kiếm lăm lăm trong tay cũng không ngăn được ông rỉ tai viên tể tướng: “Từ khi lớn lên, ta đã được nghe nhiều chuyện, nhưng không có chuyện nào từa tựa như chuyện của tu sĩ này”. Trong lúc hoàng đế nói như thế thì người tu sĩ thứ hai cất tiếng nói với Zobéide.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:46:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

CHUYỆN KỂ CỦA NGƯỜI TU SĨ KHỔ HẠNH THỨ HAI, CON VUA

“Thưa bà - Anh nói - Tuân theo lệnh của bà và để cho bà rõ vì nguyên cớ lạ lùng nào mà tôi lại bị chột mắt phải, tôi phải kể lại toàn bộ câu chuyện của đời tôi. Tôi chỉ vừa qua tuổi ấu thơ mà phụ vương cha tôi, xin bà biết cho, tôi vốn là một hoàng tử, nhận thấy tôi khá thông minh nên chẳng hề tiếc công sức để giáo dục rèn luyện tôi. Tất cả những người thông thạo trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật trong toàn đất nước đều được triệu đến để huấn luyện cho tôi.

Chưa thật đọc thông viết thạo mà tôi đã thuộc lòng toàn bộ kinh Coran, cuốn sách tuyệt diệu chứa đựng các cơ sở nền tảng giáo huấn và quy tắc của tôn giáo chúng ta. Và để được giáo dục thật sâu sắc, tôi đọc những tác phẩm của các tác giả được hoan nghênh nhất đã làm sáng tỏ thêm thánh kinh bằng những lời bình luận của họ. Thêm vào việc đọc đó, tôi học hỏi tất cả những lời truyền miệng của đấng tiên tri của chúng ta do những vĩ nhân cùng thời đại thu lượm được. Tất cả những gì liên quan tới đạo giáo của chúng ta, tôi đều để công nghiên cứu: tôi đặc biệt đi sâu vào môn lịch sử, văn học nghệ thuật, đọc thơ và làm thơ. Tôi say mê môn địa lý, khoa biên niên sử, khoa ngôn ngữ học tuy nhiên cũng không lơ là xem nhẹ những bài tập võ nghệ mà một hoàng tử cần phải hiểu biết. Nhưng một môn mà tôi vô cùng yêu thích do đó mà đạt được thành công hơn cả là hoàn thiện các từ ngữ của tiếng Ả Rập chúng ta. Tôi đạt nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này nên đã vượt tất cả những văn nhân bậc thầy trong toàn vương quốc đã từng gặt hái được danh tiếng lẫy lừng.

Sự nổi tiếng mang lại cho tôi nhiều vinh dự hơn cả phần tôi xứng đáng được hưởng. Sự nổi tiếng đó không những được truyền bá ở trong nước mà lan sang tới cả triều đình Ấn Độ mà vị hoàng đế hùng mạnh ở đây, muốn được tận mắt mình thấy, đã cử một sứ thần với nhiều tặng vật quí tới yết kiến phụ vương cha tôi để xin phép cho tôi được đi tới triều đình của người. Phụ vương tôi rất hài lòng với sứ bộ này vì nhiều lẽ. Ông thấy rằng không gì phù hợp hơn một hoàng tử ở tuổi tôi là được đi du ngoạn tới các triều đình nước ngoài, hơn nữa ông cũng rất mong muốn gây dựng tình hữu nghị với hoàng đế Ấn Độ. Như vậy là tôi đi cùng với sứ thần nhưng với rất ít hành lý vì đường xa và trên đường đi còn có nhiều khó khăn trở ngại.

Đã một tháng rong ruổi, rồi một hôm chúng tôi chợt phát hiện thấy đằng xa một đám mây bụi lớn và dưới đám bụi đó là năm mươi kỵ sĩ vũ trang đầy mình. Đó là những tên cướp đang phi ngựa nước đại nhằm phía chúng tôi đi tới...”.

Scheherazade kể tới đây, thấy trời hé sáng liền báo cho hoàng đế hay. Ông bèn đứng lên. Nhưng vì muốn biết những gì sẽ xảy ra giữa năm mươi tên cướp và sứ thần Ấn Độ, vị hoàng đế này đành phải kiên nhẫn chờ đến đêm sau.


o O o


Hầu như trời đã sáng khi Dinarzade thức giấc vào hôm sau.

- Chị thân yêu của em - Nàng gọi hoàng hậu - Nếu chị không ngủ nữa thì kể nốt cho em nghe chuyện của tu sĩ thứ hai đi.

Scheherazade kể tiếp như sau:

“Thưa bà - Tu sĩ nói tiếp với Zobéide - Vì chúng tôi chỉ có mười con ngựa chở hành lý và những tặng vật của cha tôi để dâng lên hoàng đế Ấn Độ, và chúng tôi lại có rất ít người, vậy nên bọn cướp kia chẳng ngần ngại gì mà không xông đến. Không thể lấy sức mà đối phó với chúng được, chúng tôi bảo chúng, đây là đoàn sứ bộ của hoàng đế Ấn Độ, hy vọng vì kính nể Người mà chúng để chúng tôi yên. Nhưng bọn cướp đáp lại một cách hỗn xược: “Vì sao các ngươi lại muốn chúng ta kính trọng hoảng đế chủ ngươi? Chúng ta chẳng phải thần dân của ông ta và cũng chẳng trú ngự trên đất đai của ông ta kia mà”. Nói xong chúng bao vây và tấn công chúng tôi. Tôi chống cự lại hết sức mình, nhưng cảm thấy đã bị thương và nhìn thấy sứ thần, người của ông và của tôi đều đã bị đánh ngã lăn xuống đất, tôi lợi dụng sức tàn của con ngựa cũng đã bị thương nặng, nhảy lên và phóng ra xa bọn chúng. Tôi thúc ngựa chạy bừa chừng nào nó còn mang nổi tôi, nhưng bất thần nó khuỵu xuống, chết thẳng cẳng vì quá sức và vì mất máu nhiều. Tôi rút chân ra khỏi bàn đạp mau chóng và không thấy tên cướp nào đuổi theo, chắc là chúng còn chúi đầu vào các thứ cướp được để chia chác”.

Kể tới đây, Scheherazade thấy trời đã sáng, buộc phải dừng lại.

- Ôi! Chị của em - Dinarzade nói - Chị không còn thời gian để kể tiếp nữa rồi. Chán quá đi mất.

- Nếu hôm nay em không lười mà ngủ quên thì chị đã kể được nhiều hơn rồi - Hoàng hậu bảo.

- Vậy thì, đêm mai em sẽ dậy sớm hơn - Dinarzade nói - Mong là chị sẽ đền bù lại để thoả mãn hiếu kỳ của hoàng đế mà vì em Người đã chịu thiệt thòi.

Schahriar không nói gì và đứng lên đi làm nhiệm vụ hàng ngày của mình.


o O o


Dinarzade không quên gọi hoàng hậu sớm hơn hôm trước.

- Chị thân yêu - Nàng nói - Nếu chị đã thức thì xin chị kể tiếp chuyện về tu sĩ thứ hai đi chị.

- Chị đồng ý - Scheherazade đáp, và ngay lúc đó nàng kể tiếp như sau:

“- Thế là, thưa bà - Tu sĩ nói - Đơn độc, bị thương, không được ai cứu giúp, trong một xứ sở xa lạ, tôi không dám trở lại đi trên đường cái sợ là lại rơi vào tay bọn cướp. Sau khi băng bó vết thương cũng không nặng lắm, tôi bước đi cho đến chiều tối tới chân một quả núi. Tôi thấy ở sườn núi có một cửa hang. Tôi vào trong hang và qua đêm ở đó một cách yên tĩnh sau khi đã ăn một vài trái cây hái trên dọc đường đi.

Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo tôi vẫn đi vì chưa thấy chỗ nào thuận lợi có thể dừng chân. Sau một tháng ròng đi như thế tôi tới một thành phố lớn rất đông dân có nhiều con sông chảy qua. Ở đây như suốt năm tháng là mùa xuân bất tận.

Cảnh tượng êm đềm bày ra trước mắt khiến tôi thấy vui vui tạm quên đi nỗi buồn da diết khi thấy thân phận mình nên nông nỗi ấy.

Mặt mũi chân tay tôi sạm đen vì nắng gió, giày dép rách nát, quần áo lươm tươm.

Tôi vào trong thành phố để dò hỏi xem đây là đâu. Tôi hỏi một người thợ may trong cửa hàng của anh ta. Thấy tôi còn trẻ và dáng điệu có cái gì đó khác người thường, anh ta cho tôi ngồi xuống bên cạnh và hỏi tôi là ai, từ đâu đến và có việc gì mà tới đây. Tôi chẳng giấu giếm tất cả những gì xảy ra với tôi và cũng nói thật thân thế của mình.

Người thợ may chăm chú nghe nhưng khi tôi nói xong thì không những ông ta chẳng có một lời an ủi mà còn làm cho tôi phiền não hơn: “Hãy giữ mồm giữ miệng - Ông ta bảo tôi - Chớ có tâm sự với bất cứ ai những gì mà cậu vừa tâm sự với tôi vì quốc vương trị vì ở đây vốn là kẻ thù lớn nhất của quốc vương cha cậu. Ông ta chắc sẽ làm nhục cậu nếu được biết là cậu tới thành phố này".

Tôi không nghi ngờ về sự thành thật của người thợ may khi ông ta nói tên vị quốc vương. Nhưng vì mối hiềm thù giữa vua cha và ông ta chẳng liên quan gì tới cảnh ngộ của tôi nên tốt hơn là tôi không nói gì về chuyện đó.
Tôi cảm ơn bác thợ may đã có lời khuyên và tôi nói bác biết là sẽ triệt để nghe theo và sẽ không bao giờ quên niềm vui được gặp bác. Vì bác thấy tôi đang có vẻ đói nên mang các thức ăn ra cho tôi và còn cho tôi ngủ lại, tôi đã nhận lời.

Sau đó ít ngày, thấy là tôi đã lấy lại được sức khoẻ bị suy sụp trong một chuyến đi dài mệt nhọc và gian khổ và biết là phần lớn các ông hoàng theo đạo Hồi thường có một nghề hoặc am hiểu một nghệ thuật nào đó để phòng những lúc gặp vận chẳng may thì đem ra sử dụng nếu cần. Bác hỏi tôi là còn biết nghề gì kiếm sống để không phải nhờ vả ai không. Tôi đáp là có thạo môn nọ môn kia, là một nhà ngữ pháp, một nhà thơ v.v... Và nhất là viết chữ rất đẹp.

- Với tất cả những gì mà cậu vừa nói - Bác bảo - Cậu sẽ chẳng làm gì được để có một mẩu bánh đâu. Ở đây chẳng có gì là vô tích sự hơn những hiểu biết các loại đó. Nếu nghe lời khuyên của tôi - Bác nói thêm - Thì cậu sẽ kiếm một chiếc áo cộc và, trông cậu có vẻ khoẻ mạnh tráng kiện, cậu sẽ vào rừng gần đây kiếm củi đốt đem ra chợ bán, tôi chắc chắn là cậu sẽ sống chẳng phải nhờ vả ai cả. Với cách này, cậu có thể chờ thời cơ thuận lợi, trời đẹp sẽ xua tan đám mây mù đã làm hạnh phúc cuộc đời cậu u ám, buộc cậu phải giấu diếm dòng dõi của mình. Tôi sẽ lo kiếm cho cậu một sợi dây thừng và một chiếc rìu bổ củi.

Lo vì sợ bị nhận ra và nhu cầu sống khiến tôi chẳng dám ngần ngại mặc dù nghề kiếm củi đi bán quả là hèn kém và nặng nhọc.

Ngày tiếp sau đó, bác thợ may mua cho tôi một cái rìu và một sợi dây thừng cùng với một chiếc áo cộc và gửi gắm tôi cho những người dân nghèo cũng sống bằng nghề kiếm củi. Bác đề nghị với họ là cho tôi đi theo. Họ đưa tôi vào rừng và ngay ngày đầu tiên, tôi đã đội đầu mang về một bó củi lớn đem bán được nửa đồng tiền vàng của nước này dù rằng rừng không xa, củi gỗ đáng lẽ chẳng lấy gì làm đắt ở thành phố này, nhưng ít người chịu vào rừng kiếm. Trong một thời gian ngắn tôi đã kiếm được khá nhiều tiền, thừa để trả nợ bác thợ may đã ứng trước cho tôi.

Đã được hơn một năm sống như thế thì một ngày kia tôi đi sâu vào rừng hơn mọi ngày, tới một nơi phong cảnh thật đẹp, tôi bắt đầu chặt cành lấy củi. Lúc bứt lên một chùm rễ cây, tôi nhìn thấy một cái vòng sắt gắn vào một cái nắp cũng bằng sắt. Tôi gạt hết đất đá phủ bên trên nắm lấv cái vòng kéo nắp đậy lên thì thấy một đầu cầu thang, tôi tò mò vác rìu bước xuống.

Tới chân cầu thang, tôi thấy mình đang đứng trước một lâu đài to rộng, ánh sáng chiếu rọi chẳng khác gì trên mặt đất ở chỗ quang đãng nhất làm tôi choáng ngợp. Tôi bước đi trên một hành lang có những cây cột bằng đá hoa vân, chân và đỉnh cột là vàng khối. Nhưng bỗng phía trước tôi có một người đang đi tới, một phụ nữ dáng dấp quý phái có một sắc đẹp phi thường, đẹp đến nỗi tôi chẳng còn thiết gì nhìn ngắm các vật khác xung quanh mà chỉ còn dán mắt nhìn nàng thôi”.

Đến đây Scheherazade ngừng kể vì thấy trời vừa rạng.

- Chị thân yêu của em - Dinarzade nói - Xin thú thực với chị là em vô cùng thoả mãn về những gì chị kể hôm nay, em tưởng tượng là những gì chị sẽ kể tiếp cũng sẽ kỳ lạ chàng kém.

- Em không nhầm đâu - Hoàng hậu đáp - Vì đoạn tiếp theo về chuyện người tu sĩ thứ hai đáng để thu hút sự chú ý của hoàng đế, lãnh chúa của chị, hơn cả những gì mà Người đã nghe tới lúc này.

- Ta chưa hẳn tin là như vậy - Schahriar nói và đứng lên - Nhưng chúng ta sẽ xem xét cái đó vào đêm mai.


o O o


Dinarzade đêm nay lại thức giấc rất sớm:

- Nếu chị không ngủ nữa, chị của em ơi - Nàng gọi chị - Em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra trong cái lâu đài dưới mặt đất đó giữa người phụ nữ và vị hoàng tử.

- Em sẽ được nghe ngay bây giờ đây - Scheherazade nói - Em nghe nhé:

“Người tu sĩ thứ hai - Nàng nói - Kể tiếp câu chuyện: Để tránh cho người phụ nữ xinh đẹp đó khỏi mất công đi tới chỗ mình, tôi vội vàng đi tới trước nàng và trong lúc tôi cúi thấp người xuống chào thì nàng hỏi: “Chàng là ai? Là người hay thần thánh?”.

- Tôi là người, thưa bà - Tôi ngẩng đầu lên đáp - Tôi chẳng có quan hệ gì với các vị thần thánh cả.

- Làm sao mà chàng đến được nơi đây? - Nàng lại hỏi kèm theo một tiếng thở dài - Đã hai mươi lăm năm nay tôi ở đây và suốt thời gian dài đó tôi chẳng nhìn thấy ai khác ngoài chàng hôm nay.

Sắc đẹp tuyệt vời của nàng trước mắt tôi với sự dịu dàng và vẻ trung hậu nàng đón tiếp đã làm tôi mạnh dạn để nói với nàng rằng: “Thưa bà, trước khi tôi có vinh dự được giải đáp mối băn khoăn của bà, xin bà cho phép được bộc bạch là tôi vô cùng vui thích vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này. Nó cho tôi cơ hội để tự an ủi về nỗi đau buồn đang mang nặng, và có thể đó cũng là cơ hội để làm cho bà được vui vẻ hơn trong chuỗi ngày hiện tại”.

Tôi thành thật kể cho nàng nghe do một tai nạn không ngờ như thế nào mà một hoàng tử con vua trong tình trạng như nàng đang nhìn thấy và tình cờ ra sao mà tôi khám phá ra cái nhà ngục tráng lệ nhưng buồn chán đang giam hãm nàng.

- Than ôi! Thưa hoàng tử - Nàng nói và lại thở dài - Chàng rất có lý để thấy cái nhà ngục sang trọng và rất tráng lệ xa hoa này chỉ là nơi trú ngụ vô cùng tẻ nhạt chán chường. Khi đã trái với ý muốn của mình thì những nơi ở dù có tiện nghi hoa lệ tới đâu cũng chẳng làm cho người ta thích thú. Chẳng có lẽ là chàng chưa bao giờ nghe nói đến tên vua Epitimarus, nhà vua vĩ đại đảo Gỗ Mun ư? Có tên như thế vì đảo này mọc đầy loại gỗ quí đó. Thiếp là công chúa, con gái của Người. Vua cha chọn phò mã là một hoàng tử, anh họ thiếp; nhưng trong đêm tân hôn đầu tiên, giữa lúc triều đình và cả kinh thành của quốc đảo Gỗ Mun tưng bừng mở hội, khi thiếp chưa kịp trao thân cho chồng thì một hung thần tới bắt cóc thiếp đi. Lúc đó thiếp ngất xỉu, hoàn toàn bất tỉnh nhân sự và khi tỉnh lại thì thấy mình ở trong lâu đài này. Một thời gian dài, thiếp không sao mà nguôi được, nhưng thời gian và nhu cầu bắt buộc thiếp cũng phải quen dần và cam chịu chung sống với lão hung thần. Đã hai mươi lăm năm, như đã nói với chàng, thiếp sống ở đây và có thể nói là tất cả những gì phục vụ cho đời sống đều rất đầy đủ, tất cả những gì có thể làm thoả mãn một công chúa chỉ ưa thích điểm trang và ăn diện.

- Cứ cách mười ngày - Công chúa nói tiếp - Là lão hung thần lại tới ngủ lại một đêm. Lão không ngủ luôn tại đây và lời thanh minh của lão là người vợ lão lấy trước đây sẽ nổi cơn ghen nếu biết lão không trung thành với mụ. Tuy nhiên, nếu thiếp cần đến lão thì bất cứ ngày hay đêm, thiếp chỉ cần sờ tay vào lá bùa treo ở trước cửa buồng của thiếp thì lão sẽ xuất hiện ngay. Lão tới đây tính đến ngày hôm nay thì bốn ngày đã qua, như vậy thiếp chỉ còn chờ trong vòng sáu ngày nữa. Vì vậy chàng có thể ở lại đây năm ngày để làm bạn với thiếp nếu chàng muốn và thiếp sẽ hậu đãi chàng đúng với danh vị và phẩm giá của chàng.

Tôi tự cho mình quá hạnh phúc nhận được một sự ưu đãi đặc biệt như vậy, từ chối sao tiện. Nàng công chúa đưa tôi vào phòng tắm sang trọng chưa từng thấy và khi bước ra, thay thế cho bộ quần áo của mình, tôi thấy bộ khác rất đẹp và lịch sự, chắc là để mặc vào cho xứng đáng với nàng hơn.

Chúng tôi ngồi lên một chiếc sập trải thảm đẹp bên cạnh là những chiếc gối để tựa bọc gấm Ấn Độ. Một lát sau, nàng cho đưa lên mặt chiếc bàn những đĩa thức ăn ngon. Chúng tôi cùng ăn và qua nốt ngày hôm đó thật là vui vẻ thích thú và đêm đó nàng tiếp tôi trên giường nàng.

Ngày hôm sau, nàng tìm đủ mọi cách làm cho tôi vui. Trong bữa ăn, nàng lấy ra một chai rượu lâu năm, loại ngon nhất ít người có và muốn cùng tôi chén tạc chén thù. Lúc choáng váng hơi men vì chất rượu dịu êm đó, tôi bảo nàng:

- Công chúa xinh đẹp ơi! Đã rất lâu rồi nàng coi như bị chôn sống. Nàng hãy theo tôi, lên mặt đất hưởng thụ ánh sáng thật của ban ngày mà nàng đã bị tước bỏ mất bao năm tháng. Hãy bỏ lại đây cái ánh sáng giả dối hàng ngày nàng tắm gội.

- Thưa hoàng tử - Nàng cười đáp lại lời tôi - Xin đừng nói vậy. Thiếp coi thường cái ánh sáng đẹp nhất trần gian ấy miễn là cứ mười ngày thì chàng cho thiếp chín và ngày thứ mười nhường cho lão hung thần.

- Thưa công chúa - Tôi nói - Tôi thấy rõ là vì sợ lão hung thần mà nàng nói thế thôi. Còn tôi, tôi chẳng coi hắn là gì cả đâu, tôi sẽ xé vụn cái bùa ấy cùng những chữ loằng ngoằng viết trên đó ra từng mảnh nhỏ cho coi. Mặc hắn tới, tôi chờ hắn đấy. Cho dù hắn dũng mãnh ghê gớm tới đâu tôi sẽ cho hắn biết sức mạnh của cánh tay này. Tôi thề là sẽ tận diệt tất cả hung thần trên thế gian này và hắn sẽ là kẻ đầu tiên.

Nàng công chúa, biết trước hậu quả, khuyên tôi là chớ có động tới cái bùa. Nàng nói: “Nếu chàng làm thế thì đó là mang lại cái chết cho cả chàng và thiếp. Thiếp biết rõ lũ hung thần hơn chàng mà”.

Hơi men bốc lên làm tôi chẳng còn phân biệt được lời lẽ đúng đắn của công chúa. Tồi giơ chân dẫm lên lá bùa và xé nó ra nhiều mảnh”.

Kể đến đây, Scheherazade thấy trời sáng, ngừng nói và hoàng đế thì đứng lên. Nhưng ông chẳng chút nghi ngờ là lá bùa bị xé vụn nhừ thế sẽ chẳng khỏi gây ra chuyện nghiêm trọng nào đó. Ông quyết định phải nghe tiếp câu chuyện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:47:29 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 9
-----------------------------------------

Một tiếng trước khi trời sáng, Dinarzade thức giấc nói với hoàng hậu:

- Chị của em, nếu chị không ngủ, em xin chị cho biết những gì đã xảy ra trong cái lâu đài dưới mặt đất đó, sau khi hoàng tử đã xé vụn lá bùa.

- Chị sẽ nói cho em rõ ngay giờ đây.

Rồi lập tức nàng tiếp tục câu chuyện dưới nhân vật người tu sĩ thứ hai:

“- Chiếc bùa vừa bị xé nát thì cả lâu đài rung chuyển như sắp đổ sụp với những tiếng sấm sét và chớp loé sáng từng đợt trong cái lâu đài tối om om. Tiếng động khủng khiếp đó làm giã một phần hơi men, tôi tỉnh lại nhưng đã quá muộn, chẳng cứu vãn nổi lỗi lầm của mình nữa. Tôi kêu lên:

- Công chúa! Thế là cái gì vậy?

Nàng hốt hoảng, chẳng nghĩ gì đến tai hoạ bản thân, trả lời tôi:

- Hỡi ôi! Chàng hãy trốn mau đi, không thì chết mất!

Tôi làm theo lời nàng, nhưng vì quá sợ hãi mà tôi bỏ lại cái rìu và đôi dép. Vừa đi tới các bậc thang mà từ đó tôi đã xuống thì cái lâu đài ma mở toang ra lấy lối cho lão hung thần đi vào. Hắn giận dữ hỏi công chúa:

- Có việc gì xảy ra mà gọi ta tới?

- Một cơn đau tim - Công chúa đáp - Buộc thiếp phải đi tìm cái chai mà ngài trông thấy đó. Thiếp uống hai ba ngụm rồi đem cất đi nhưng không may bị trượt chân ngã làm rách lá bùa. Có thế thôi chứ chẳng có gì xảy ra cả.

Nghe nàng nói vậy, hung thần giận dữ bảo:

- Cô là một con khốn kiếp, con dối trá, cái rìu và đôi dép kia, tại sao lại ở đây?

- Bây giờ thiếp mới trông thấy đấy - Công chúa nói - Có lẽ ngài tới đây mãnh liệt quá nên đã cuốn theo chúng từ một nơi nào đi qua và mang vào đây mà không để ý chăng?

Lão hung thần chỉ đáp lại bằng những lời chửi rủa và bằng đòn đánh mà tôi nghe rõ mồn một. Không đủ can đảm để nghe những tiếng than khóc thảm thiết của công chúa bị hành hạ dã man, tôi cởi bộ áo quần nàng đã đưa tôi thay, mặc lại bộ áo quần của mình mà tôi đã để ở chân cầu thang ngày hôm trước lúc ra khỏi phòng tắm. Tôi trèo lên cầu thang, lên lại mặt đất, trong lòng đau xót và thương cảm nàng công chúa đã vì lầm lỗi của tôi mà phải hứng lấy tai hoạ. Tôi tự biến mình thành một kẻ sát nhân và một kẻ vong ân bội nghĩa nhất trần đời vì đã hy sinh một công chúa xinh đẹp nhất thế gian cho sự dã man hung ác của một tên hung thần đang cơn giận dữ.

“Đúng là nàng bị giam cầm suốt hai mươi lăm năm - Tôi nhủ thầm - Nhưng ngoài việc mất tự do ra thì nàng chẳng còn phải ước mong gì để được sung sướng. Sự tức giận của tôi đã kết thúc hạnh phúc của nàng và giao phó nàng vào tay một con quỉ tàn ác. Tôi hạ cái cửa nắp xuống, lấp đất và trở về thành phố với một bó củi đội trên đầu mà chẳng rõ tôi làm thế nào mà kiếm được trong lúc đang bối lối hoang mang cực độ.

Bác thợ may chủ nhà thấy tôi trở về, vui mừng khôn xiết: “Cậu đi biệt đâu - Bác bảo tôi - làm tôi rất lo lắng sợ nhân thân của cậu bị lộ. Tôi chẳng biết làm gì và sợ là một kẻ nào đó nhận ra cậu. Cám ơn Trời, Phật đã đưa cậu trở về”. Tôi cảm ơn sự quan tâm và tình thân ái của bác nhưng không cho bác biết những gì đã xảy ra với tôi, kể cả vì sao tôi trở về mà không có rìu và dép. Tôi lui vào phòng riêng, hàng ngàn lần tự trách là đã vô cùng dại dột. Không có gì có thể so sánh được hạnh phúc của công chúa và mình nếu mình tự kiềm chế không đụng tới cái bùa ma đó.

Trong lúc tôi đang thả mình vào những ý nghĩ não ruột đó thì bác thợ may đi vào và bảo tôi: “Có một ông già tôi không quen vừa đến, mang theo cái rìu và đôi dép của cậu mà ông ta bảo thấy ở dọc đường. Ông ta hỏi những người cùng đi rừng với cậu và biết cậu ở đây. Ra gặp ông ta đi, ông ấy muốn tự tay mình trao trả cậu những vật đó".

Nghe vậy, tôi biến sắc và toàn thân run lẩy bẩy. Bác thợ may hỏi tôi vì sao, thì gạch lát sàn buồng bỗng nứt ra thành một khe hở. Ông già, không chờ được, hiện ra, trong tay cầm cái rìu và đôi dép. Đó là lão hung thần, tên bắt cóc nàng công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun, cải trang như thế, sau khi đã hành hạ công chúa cực kỳ man rợ.

- Ta là thần linh - Hắn bảo chúng tôi - Cháu ngoại Eblis, chúa tể các thần. Có phải đây là cái rìu của ngươi? - Hắn hỏi tôi - Và đây nữa có phải đôi dép của ngươi?".

Scheherazade kể tới đây, thấy trời hửng sáng nên ngừng lời. Hoàng đế thấy chuyện của tu sĩ thứ hai quá hay nên chẳng nỡ không muốn nghe tiếp. Vì vậy ông đứng lên thầm nghĩ: sẽ biết tiếp đó ra sao vào đêm mai vậy.


o O o


Đêm hôm sau, Dinarzade kêu hoàng hậu:

- Chị thân yêu của em, xin chị kể xem lão hung thần đó làm gì hoàng tử đi.

- Chị kể ngay đây và trí tò mò của em sẽ được thoả mãn - Scheherazade đáp rồi kể tiếp chuyện chàng tu sĩ thứ hai như sau:

“Tu sĩ tiếp tục kể cho nàng Zobéide nghe: “Thưa bà - Anh ta nói - Lão hung thần hỏi tôi như vậy và chẳng cho tôi thời gian để trả lời hắn, mà thực ra thì tôi cũng chẳng nói nên lời, cái bộ mặt kinh tởm của hắn đã làm tôi hết hồn. Hắn ôm ngang người tôi, kéo lê tôi ra khỏi buồng và nhảy vút lên cao, lôi tôi đến tận trời xanh mạnh và nhanh như chớp. Tôi thấy bị đưa lên thật cao và kéo đi thật mau nên chẳng mấy chốc đã tới nơi. Hắn nắm chặt tôi nhào mạnh xuống đất, hắn dậm chân, mặt đất mở ra và hắn thụt xuống, tức thì tôi thấy mình đứng trước nàng công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun trong lâu đài ma. Nhưng, than ôi! Cảnh tượng trước mắt như một vật nhọn đâm thẳng vào tim tôi. Nàng trần truồng nằm đó, mình đầy máu dở sống dở chết, nước mắt chan hoà chảy ướt nhoè đôi má.

- Quân xảo quyệt! - Hung thần chỉ vào tôi bảo nàng - Có phải đây là nhân tình của mi không?

Nàng đưa mắt sầu thảm nhìn tôi và buồn rầu đáp:

- Tôi không biết người này là ai, chỉ lúc này đây tôi mới trông thấy anh ta.

- Sao? - Lão hung thần bảo - Nó là nguyên nhân khiến cho mi phải thế này mà mi còn dám nói là không hề biết nó sao?

- Nếu tôi không biết anh ta - Công chúa lại nói – Mà ông lại muốn tôi nói dối bảo là có biết để làm hại anh ta sao?

- Vậy thì - Lão hung thần rút kiếm đưa vào tay công chúa - Nếu mi chưa thấy nó bao giờ thì cầm lấy thanh kiếm này chặt đầu nó cho ta xem.

- Than ôi! - Công chúa nói - Làm sao mà tôi làm được cái việc mà ngài bắt buộc tôi được đây? Sức chịu tôi đã cạn kiệt chẳng giơ nổi cánh tay, và nếu có còn sức chăng nữa thì liệu tôi có gan giết một con người mà tôi không biết là ai, một con người vô tội không?

- Lời chối từ đó - Hung thần bảo công chúa - Làm ta thấy rõ tất cả tội của mi.

Rồi, quay sang tôi lão hỏi:

- Còn mày, mày có biết con này không?

Tôi sẽ trở thành một tên bội nghĩa đốn mạt nhất nếu tôi không trung thành với nàng cũng như nàng đã trung thành với tôi và đó cũng là nguyên nhân sự bất hạnh của nàng. Vì thế, tôi trả lời lão hung thần:

- Làm sao mà tôi biết bà ấy được khi đây là lần đầu tôi nhìn thấy?

- Nếu đúng như vậy - Lão hung thần nói - Thì mi cầm lấy kiếm này và chặt đầu nó cho ta. Chịu làm thế thì ta sẽ thả cho mi tự do, ta sẽ tin là mi mới nhìn thấy nó mỗi một lần này như mi nói.

- Xin rất vui lòng - Tôi bảo hắn và cầm lấy thanh kiếm từ tay hắn...”.

- Nhưng tâu Bệ hạ - Scheherazade đến đây thôi không kể tiếp nữa - Trời sáng rồi, thiếp chẳng muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn của Người.

- Đó thật là những chi tiết kỳ lạ - Hoàng đế thầm nhủ - Để ngày mai xem là tay hoàng tử này có nảy tính hung ác tuân theo lão hung thần hay không?


o O o


Đêm sắp tàn, Dinarzade gọi hoàng hậu bảo:

- Chị của em, nếu chị không ngủ, xin nói tiếp chuyện hôm qua còn bỏ dở cho em nghe đi?

- Chị cũng muốn thế - Scheherazade nói - Em sẽ biết là tu sĩ thứ hai kể tiểp thế này:

“Thưa bà, xin bà đừng tin là tôi tiến đến gần công chúa xinh đẹp quốc đảo Gỗ Mun để thực hiện mệnh lệnh dã man của lão hung thần. Tôi chỉ muốn biểu lộ bằng cử chỉ, trong khả năng có thể, tỏ cho nàng hiểu là nếu nàng đã dũng cảm hi sinh tính mệnh vì tình yêu đối với tôi thì tôi há lại không dám xả thân mình vì tình yêu đối với nàng hay sao. Công chúa hiểu ý đồ của tôi. Mặc dầu đau đớn và sầu thảm, nàng nhìn tôi với ánh mắt biết ơn và như muốn nói là nàng vui lòng chết và lấy làm hài lòng thấy là tôi cũng muốn chết vì nàng. Và, tôi lùi lại một bước, vứt thanh kiếm xuống đất bảo lão hung thần:

- Tôi sẽ bị đời đời nguyền rủa trước tất cả thiên hạ nếu tôi đã hèn hạ giết hại một người mà tôi chưa hề quen biết, đó là chưa nói tới bà đây người mà tôi đang nhìn thấy trong tình trạng như lúc này; đang sắp trút linh hồn. Ngươi muốn làm gì ta thì làm vì ta đang ở trong tay ngươi, nhưng ta không thể làm theo cái lệnh tàn ác dã man của ngươi được.

- Ta đã biết rõ - Lão hung thần nói - Là chúng mày thách thức ta, nhục mạ sự ghen tuông của ta. Nhưng với cách mà ta sẽ xử sự, cả hai chúng mày sẽ biết ta có thể làm được những gì.

Nói xong câu đe doạ này, con quỷ cầm lấy thanh kiếm giơ lên và chặt đứt một bàn tay công chúa. Nàng chỉ kịp đưa bàn tay kia làm hiệu cho tôi như một lời chào vĩnh biệt vì máu nàng đã mất trước cộng với lúc này chỉ còn cho phép nàng sống một vài khoảnh khắc nữa thôi sau sự hung bạo cuối cùng này mà cảnh tượng trông thấy làm tôi ngất lịm.

Khi tỉnh lại, tôi than phiền với lão hung thần sao lại để tôi phải mòn mỏi đợi chờ cái chết:

- Đâm đi? Chém đi! - Tôi bảo hắn - Ta sẵn sàng đợi một nhát kiếm. Ta chờ đợi ở ngươi như chờ một ân huệ lớn mà ngươi có thể làm cho ta.

Nhưng thay vì việc làm cho tôi chết, hắn bảo:

- Đó, những thần linh đã xử sự với những người đàn bà bị nghi là bội phản như thế đó. Nó đã tiếp mi tại đây, nếu mà ta bắt được quả tang thì ta sẽ giết chết mi ngay lúc ấy. Nhưng ta sẽ tạm bằng lòng cho mi biến thành chó, thành khỉ, thành lừa, thành sư tử hoặc thành chim. Mi hãy chọn một trong những con vật đó, ta muốn để cho mi được tuỳ ý thích.

Những lời nói của con quái vật này cho tôi một chút hy vọng là có thể làm cho nó đổi ý. Tôi bảo nó:

- Hỡi thần linh! Hãy nguôi cơn giận. Nếu ngài không nỡ lấy đi mạng sống của tôi thì hãy để tôi sống một cách tử tế. Tôi sẽ luôn nhớ tới sự khoan hồng của ngài nếu ngài thứ lỗi cho tôi cũng như một con người tốt bụng nhất trần gian này đã tha thứ cho một trong những người láng giềng đã ghét cay ghét đắng anh ta.

Lão hung thần hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra giữa hai người láng giềng đó và nói là hắn sẽ có đủ đức kiên nhẫn để nghe câu chuyện ấy. Thế là tôi đã kể cho hắn nghe. Thưa bà, tôi tin là bà sẽ không phật ý nếu tôi cũng thuật lại câu chuyện đó hầu bà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:50:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

CHUYỆN KỂ VỀ KẺ HAY GANH GHÉT VÀ NGƯỜI BỊ GANH GHÉT

Trong một thành phố khá rộng lớn, hai người đàn ông sống ở hai ngôi nhà kề bên nhau. Một người ghét người kia thậm tệ đến nỗi người bị ghen ghét quyết định đổi chỗ ở, đi xa hẳn nơi khác vì tin chắc là chỉ riêng việc ở tách xa nhau ra thôi cũng đỡ chuốc sự thù ghét của người hàng xóm. Vì mặc dù đã giúp đỡ anh ta nhiều việc tốt mà ông vẫn không làm giảm được sự ghét ghen của anh ta. Thế là ông bán rẻ bán tháo ngôi nhà đang ở và với một chút vốn liếng nhỏ bé ông ta rút vào thành phố của một xứ sở không xa đấy lắm. Ông ta mua một khoảng đất nhỏ cách xa thành phố độ nửa dặm đường. Ở đó có một căn nhà khá tiện nghi, một mảnh vườn đẹp và một cái sân rộng trong đó có một cái giếng cạn đã lâu ngày không dùng tới.

Con người tốt bụng đó sau khi đã đến nơi ở mới, đã mặc áo thầy tu để sống một cuộc đời ẩn dật. Ông ta còn cho xây nhiều phòng tu trong nhà và chẳng bao lâu sau tổ chức thành một cộng đồng tu sĩ. Đức độ của ông chẳng bao lâu đã vang xa, thu hút khá đông người mộ đạo, cả dân thường và cả các quan chức thành phố. Mọi người đều kính trọng và rất yêu mến ông. Từ nơi rất xa cũng có người tới xin ông cầu nguyện cho và tất cả những người được gặp ông khi trở về đều ban bố lại những lời ban phước mà họ tin là đã nhận được từ đấng tối cao qua ông làm trung gian.

Danh tiếng của ông lan truyền về tới thành phố cũ mà từ đó ông đã ra đi. Kẻ ghen ghét ông càng buồn rầu tức tối đến mức bỏ cả nhà cửa, bỏ cả công việc, quyết tâm tìm cách giết hại ông bằng được. Với mục đích đó, y tìm đến tu viện mới của các tu sĩ mà viện trưởng là láng giềng của y trước đây. Viện trưởng tiếp y rất thân tình. Kẻ ghen ghét nói là y cố tình tới để thông báo cho ông biết một việc quan trọng mà cần phải trao đổi riêng. Y nói thêm:

- Để cho không ai nghe được câu chuyện riêng đó, tôi đề nghị chúng ta cùng đi dạo trong sân, và vì trời cũng đã tối, ông nên cho các tu sĩ về các phòng tu của họ.

Viện trưởng làm theo lời y.

Khi kẻ hay ghen ghét thấy chỉ còn mình với người láng giềng tốt bụng này, y bắt đầu nói hết chuyện nọ sang chuyện kia và đi sát cạnh nhau trong sân, cho đến lúc đi gần tới bờ giếng, y đẩy mạnh ông ta ngã xuống đấy, chẳng có người nào chứng kiến hành động tội ác đó. Xong việc, y mau chóng rời đi, qua cổng tu viện không có người nào nhìn thấy và trở về nhà, rất hài lòng về chuyến đi và chắc mẩm là đối tượng mà y ghen ghét chẳng còn có ở trên đời nữa. Nhưng y đã nhầm to”.

Scheherazade không thể nói tiếp được nữa vì bình minh đã ló rạng. Hoàng đế rất bất bình vì tính cách gian ác quỉ quái của kê hay ganh ghét.

- Ta rất mong - Ông nhủ thầm - Là không có gì xấu xảy ra cho người tu sĩ tốt bụng đó. Hy vọng là ta sẽ thấy vào đêm mai là trời không bỏ ông ta trong trường hợp đó.



o O o


- Chị ơi, nếu chị không ngủ - Dinarzade thức giấc gọi chị - Thì xin chị cho em biết là ông tu sĩ tốt bụng đó có được an toàn ra khỏi cái giếng đó không.

- Được an toàn em ạ - Scheherazade đáp - Và người tu sĩ đạo Hồi thứ hai tiếp tục chuyện của anh ta: “Cái giếng cổ rất sâu đó - Anh nói - Vốn là chỗ ở của các vị thần tiên, vừa đúng lúc để các vị cứu được tu viện trưởng. Các vị đã đỡ lấy ông, nhẹ nhàng đặt xuống đáy giếng không làm ông xây xát tí nào. Ông thấy rõ ràng có một điều gì khác lạ xảy ra trong cái rơi ngã mà ông chắc chắn là sẽ mất mạng đó. Nhưng ông chẳng nhìn thấy gì và cũng chẳng cảm thấy gì cả. Rồi ông bỗng nghe thấy một tiếng nói: “Các bạn có biết người mà chúng ta vừa đón đỡ đó là ai không?”. Nhiều tiếng khác đáp là không biết ai cả. Tiếng nói đầu tiên bảo: “Tôi sẽ nói cho các bạn rõ. Người này, với một tấm lòng nhân hậu nhất thế gian, đã rời thành phố đang sinh sống để tới đây ở với mong muốn là sửa chữa cho một trong các láng giềng của ông ta khỏi cái tật xấu là ganh ghét hận thù ông. Ở đây, ông được toàn thể mọi người kính trọng làm cho kẻ ganh ghét tức tối, không chịu nổi y liền tìm đến tận đây để tìm cách mưu hại ông. Y đã thực hiện ý đồ và nếu không có chúng ta cứu giúp thì ông đã bị hại rồi. Danh tiếng của ông lừng vang khiến cho hoàng đế đang ngự ở thành phố bên cạnh đây, ngày mai sẽ tới đây thăm để nhờ ông cầu nguyện cho công chúa”.

Một tiếng nói khác cất lên hỏi vì sao mà công chúa lại phải nhờ cậy đến tu sĩ cầu nguyện cho. Tiếng nói đầu tiên lại đáp: “Thế ra các bạn không biết là công chúa bị thần Maimoun, con trai thần Đimdim, phải lòng nàng và ám nàng ư? Tôi biết rõ là ông tu viện trưởng nhân hậu này có thể chữa khỏi cho công chúa. Công việc thật dễ dàng, tôi sẽ nói các bạn nghe. Số là trong tu viện của ông có một con mèo đen, chót đuôi nó có một chấm trắng. Chỉ cần nhổ bảy chiếc lông trong cái chấm trắng đó, đốt và xông khói lên đầu công chúa. Ngay tức thì nàng sẽ khỏi bệnh, tiễu trừ được sự ám ảnh của Mamoun, con trai Đimdim và không bao giờ tên này còn dám lăm le đến gần công chúa lần thứ hai nữa.

Trưởng các tu sĩ nghe không thiếu một lời nào trong cuộc trao đổi của các vị thần và các tiên. Họ hoàn toàn im lặng suốt đêm đó sau khi đã thốt lên những câu nói trên. Ngày hôm sau, trời rạng sáng tới lúc ông phân biệt rõ mọi vật thấy là cái giếng có nhiều chỗ lở lói, ông đã tìm cách trèo lên không mất công nhiều.

Các tu sĩ đang toả đi tìm, rất sung sướng thấy ông trở về. Bằng một vài câu vắn tắt ông kể cho họ nghe âm mưu độc ác của người khách mà ông tiếp đón thân tình hôm trước rồi lui vào phòng riêng. Chú mèo đen mà ông nghe thấy đêm qua trong cuộc trao đổi giữa các thần và tiên nhắc đến đã tới với ông để được vuốt ve như mọi khi. Ông bèn nhổ bảy sợi lông ở cái chấm trắng chót đuôi con mèo và để riêng ra một nơi phòng khi dùng đến.

Mặt trời lên cao chưa được bao lâu thì hoàng đế chẳng muốn đà đận chút nào trong việc chữa mau cho công chúa dứt bệnh, tới trước cổng tu viện. Ông lệnh cho đám cận vệ dừng lại ở đó rồi cùng với các cận thần tuỳ giá bước vào. Các tu sĩ kính trọng nghênh đón nhà vua.
Hoàng đế kéo ông trưởng các tu sĩ ra chỗ riêng bảo:

- Ông tu viện trưởng, chắc ông đã rõ vì sao trẫm tới đây chứ?

- Tâu bệ hạ - Người trưởng tu sĩ từ tốn đáp - Nếu thần không nhầm thì bệnh trạng của công chúa đã đưa đến cho thần vinh dự lớn này mà thần thật chưa xứng đáng.

- Đúng như vậy đó - Hoàng đế nói - Ông sẽ làm cho ta như được phục sinh nếu những lời cầu nguyện của ông làm cho con gái ta lành bệnh.

- Tâu bệ hạ - Con người nhân hậu nói - Nếu Người vui lòng rước công chúa tới đây, mong rằng với sự cứu giúp và ân sủng của Thượng đế, công chúa hoàn toàn sẽ khỏi bệnh trở về.

Nhà vua, hết sức hân hoan, lập tức cho tìm công chúa và chẳng bao lâu nàng xuất hiện với đông đảo mệnh phụ và các thị nữ hộ giá, mặt che mạng để không ai nhìn thấy. Tu viện trưởng cho đặt một bếp lò trên đầu công chúa và chỉ vừa đưa bảy sợi lông, mà ông vừa cho mang lại, vào đám than hồng trong bếp lò, con quái Maimoun, con trai của Đimdim đã thét to lên một tiếng, chẳng ai nhìn thấy hình bóng hắn, chạy biến đi thoát khỏi người công chúa.

Trước tiên nàng đặt tay lên mạng che mặt vén lên hỏi: “Ta ở đâu thế này? Ai đã đưa ta đến đây?”.

Nghe công chúa hỏi, hoàng đế không sao giấu được niềm vui dâng trào, ôm lấy con gái và hôn lên đôi mắt nàng. Ông cũng hôn bàn tay tu viện trưởng và bảo các cận thần tuỳ giá: “Các ngươi hãy nói đi. Phần thưởng như thế nào cho xứng đáng với người đã chữa khỏi bệnh cho con gái ta đây?”. Tất cả các cận thần đều đáp người đó đáng được kết hôn cùng công chúa. “Đó là điều mà ta đã nghĩ - Nhà vua nói - Và ngay từ lúc này, ta nhận người này làm phò mã”.

Một thời gian ngắn sau, tể tướng tạ thế. Hoàng đế bổ nhiệm tu viện trưởng vào chỗ đó. Rồi hoàng đế cũng thăng hà mà không có hoàng tử để nối ngôi. Những chức sắc tôn giáo cùng quân đội họp lại nhất trí tôn phò mã kiêm tân tể tướng lên nối ngôi vua".

Trời sáng buộc Scheherazade ngừng lời. Schahriar thấy viên tu viện trưởng lên ngôi vua là xứng đáng nhưng ông còn băn khoăn vì thấy cái tên hay ganh ghét đó chưa chết vì tức bực sầu não. Ông đứng lên thầm nhủ đêm hôm sau sẽ rõ chuyện này.



o O o


Dinarzade khi tới giờ như thường lệ nói với hoàng hậu như thế này:

- Chị thân yêu của em ơi! Nếu chị không ngủ thì xin kể nốt cho em nghe chuyện kẻ hay ganh ghét và người bị ganh ghét đi?

- Chị xin vui lòng – Scheherazade đáp - Sau đây là những gì mà người tu sĩ thứ hai kể tiếp:

"Người tu sĩ tốt bụng - Anh ta kể - Như vậy là lên ngôi báu của bố vợ. Một hôm, cùng với cả triều đình ngự giá, ông nhìn thấy người hay ganh ghét đi lẫn trong đám đông trên đường đi. Ông gọi một viên quan cận thần tới gần khẽ bảo: “Nhà ngươi hãy đi đến chỗ người kia và dẫn đến đây cho ta. Đừng làm cho ông ta sợ hãi". Viên quan này tuân lệnh và khi con người hay ganh ghét đó đứng trước mặt nhà vua, nhà vua bảo:

- Anh bạn, gặp anh, ta rất vui - Rồi lệnh cho một viên quan - Hãy đếm ngay cho ông ta một ngàn đồng tiền vàng trong ngân khố hoàng gia. Thêm vào đó là hai mươi kiện hàng loại quý hiếm trong kho tàng của ta đem tặng và cho một đội bảo vệ đầy đủ áp tải đến tận nhà ông ta.

Sau khi trao cho viên quan sứ mệnh đó, nhà vua chào từ giã người hay ganh ghét rồi tiếp tục cuộc ngự giá".

Khi kể hết câu chuyện này cho tên hung thần đã giết hại công chúa quốc đảo Gỗ Mun nghe rồi tôi liên hệ và bảo hắn:

- Hỡi thần linh! Ngài thấy đấy. Ông vua hiền đức này không những là quên đi chuyện cái người hay ganh ghét này đã suýt giết chết ông mà lại còn hậu đãi thật là hào phóng như tôi vừa kể với ngài đó.

Rồi tôi trổ tài hùng biện thuyết phục hắn nên làm theo gương tốt đẹp đó mà buông tha cho tôi. Nhưng hắn vẫn chẳng xiêu lòng. Hắn bảo tôi:

- Tất cả những gì ta có thể làm cho mi là để cho mi sống, nhưng chớ vội mừng là ta sẽ để cho mi an toàn nguyên vẹn. Cần phải cho mi biết ta có thể làm gì với pháp thuật của ta.

Nói đoạn hắn tóm lấy tôi, bay vút qua mái lâu đài dưới đất lúc đó mở rộng cho hắn qua, đưa tôi lên tít trên cao, trông xuống dưới chỉ thấy toàn là mây trắng. Từ trên độ cao đó, hắn lao xuống mặt đất nhanh như chớp, đặt chân lên đỉnh một quả núi.

Ở đó, hắn vơ một nắm đất đưa lên gần miệng đọc hay đúng hơn là lẩm bẩm câu gì đó tôi không hiểu rồi ném vào tôi và hô to: “Biến, biến mau thành khỉ!”. Rồi hắn mất tăm, tôi còn lại một mình, thành khỉ, lòng đau đớn vô hạn trong một đất nước xa lạ, không rõ là gần hay xa vương quốc của nhà vua cha tôi.

Tôi xuống núi, đi vào một xứ sở đất đai bằng phẳng, tới địa đầu mất vừa tròn một tháng và cũng là đến được bờ biển. Bể yên sóng lặng, ngoài xa cách khoảng nửa dặm đất liền tôi nhìn thấy một hạm tàu. Để không bỏ lỡ một cơ hội tốt hiếm có, tôi bẻ một cành cây lớn, kéo xuống biển, cưỡi lên trên, hai tay hai cành nhỏ làm bơi chèo.
Cứ thế tôi bơi đến chiếc tàu. Khi đã khá gần mọi người có thể nhận ra tôi thì cả hành khách và thuỷ thủ tập trung trên mạn tàu đều tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Tất cả đổ dồn lại nhìn tôi đầy khâm phục. Lúc đó tôi đã tới sát mạn tàu và nắm lấy một sợi dây thừng, tôi leo lên sàn tàu. Nhưng vì không nói được nên tôi hết sức lúng túng. Tuy nhiên, hiểm nguy lúc này làm sao mà so sánh được với khi tôi còn ở trong tay lão hung thần.

Những thương gia trên tàu vốn mê tín và thận trọng quá đáng cho là tôi sẽ mang tai hoạ đến cho họ nếu để tôi trên tàu. Vì thế nên một người bảo: “Tôi sẽ đập cho nó một vồ”. Một người khác: “Tôi muốn bắn một mũi tên xuyên qua người nó”. Lại một người khác nữa: “Phải ném nó xuống biển thôi!”. Chắc chắn là một người nào đó sẽ thực hiện điều y nói nếu tôi không vội nép vào bên cạnh thuyền trưởng, không quỳ xuống chân ông ta. Tôi nắm lấy áo ông với dáng điệu van xin làm ông ta có vẻ xúc động, lại thấy nước mắt tôi ròng ròng chảy, ông ôm lấy tôi che chở, vuốt ve và đe doạ kẻ nào cố ý hại tôi thì sẽ phải hối hận. Về phía mình, dù không nói được, tôi cố gắng làm mọi cử chỉ biểu hiện lòng biết ơn.

Sau đợt biển lặng, gió nổi lên tuy không mạnh nhưng kéo dài. Suốt năm chục ngày gió thổi một chiều và chúng tôi bình yên cặp bến một thành phố tráng lệ rất đông dân cư và buôn bán sầm uất. Chúng tôi thả neo ở đây. Thành phố này càng thêm quan trọng vì đó là kinh đô của một quốc gia hùng mạnh.

Hạm tàu của chúng tôi mau chóng bị vô số những tàu nhỏ vây quanh, chở đầy người tới để hoặc là đón mừng bạn trở về, hoặc hỏi han xem có những gì hay lạ ở các xứ sở đã qua, hoặc chỉ đơn thuần là tò mò muốn tham quan một hạm tàu lớn từ xa tới.

Trong số những người đó, có vài vị quan của triều đình nhân danh nhà vua muốn trao đổi với các thương gia trên tàu. Các thương gia tới trình diện và một vị quan nói với họ: “Hoàng đế của chúng tôi giao cho chúng tôi nhiệm vụ hoan hỉ chào đón các vị tới vương quốc và có yêu cầu là mọi người viết cho vài dòng chữ vào cuộn giấy này.

Để các vị hiểu ý của hoàng thượng, tôi xin nói thêm là vị tể tướng của chúng tôi là một vị quan vừa có năng lực điều hành công việc vừa có chữ viết đẹp một cách hoàn hảo. Nhưng chẳng may ngài đã tạ thế cách đây ít hôm. Hoàng đế rất mực buồn rầu và không sao có thể quên được những nét chữ của tể tướng. Người đã long trọng thề là sẽ chỉ trao quyền tể tướng cho người nào viết được chữ đẹp như tể tướng đã quá cố. Rất nhiều người đã tới để dâng chữ viết của mình nhưng cho đến nay chưa chọn được ai trong toàn quốc gia rộng lớn này xứng đáng giữ cương vị tể tướng”.

Các thương gia trên tàu, những người nào tự xét thấy là có thể nhòm ngó được địa vị cao sang đó, đều lần lượt viết lên cuộn giấy những gì họ muốn nói. Khi họ viết xong, tôi tiến đến, cầm lấy cuộn giấy trong tay người đang giữ. Tất cả mọi người, đặc biệt là những thương gia vừa trình bày chữ viết của mình tưởng là tôi muốn xé hoặc ném cuộn giấy xuống biển, nên thét lên nhưng họ yên tâm ngay khi thấy tôi cầm cuộn giấy một cách thận trọng và tỏ ý đến lượt mình cũng muốn viết. Từ lo ngại họ chuyển sang khâm phục. Tuy nhiên vì họ chưa bao giờ trông thấy một con khỉ biết viết và không tin là tôi có thể khéo léo hơn những con khỉ khác nên họ muốn giằng lại cuộn giấy trong tay tôi. Nhưng thuyền trưởng lại một lần nữa bênh vực. Ông bảo: “Để yên cho nó viết xem nào. Nếu nó chỉ biết bôi bẩn ra giấy thôi thì tôi hứa là sẽ trừng phạt nó ngay tức thì. Nếu, trái lại, nó viết đẹp như tôi hằng tin tưởng vì trong đời tôi chưa từng thấy một chú khỉ nào thông minh và tháo vát cũng như am hiểu việc đời như nó, tôi tuyên bố là sẽ nhận nó làm con nuôi. Tôi cũng đã có một đứa con trai nhưng nói thực không được thông minh bằng nó”.

Thấy không còn ai phản đối nữa, tôi cầm lấy bút và chỉ buông xuống sau khi đã viết đủ sáu loại chữ thông dụng của người Ả Rập. Mỗi loại chữ viết thử đó là một bài thơ hai câu hoặc bốn câu ngẫu hứng ca ngợi hoàng đế. Chữ viết của tôi không những làm lu mờ chữ viết của tất cả các thương gia mà tôi còn có thể nói là đẹp nhất từ trước đến nay ở cái quốc gia này. Khi tôi viết xong, các vị quan cầm lấy cuộn giấy đem về dâng lên hoàng đế”.

Scheherazade kể đến đây chợt thấy trời đã rạng sáng, nàng nói với Schahriar:

- Nếu còn thời gian thì thiếp sẽ kể cho hoàng thượng nghe những chi tiết còn kỳ là hơn những gì vừa kể.

Hoàng đế, tự nhủ là sẽ phải nghe câu chuyện này đến đầu đến đũa nên đứng lên chẳng nói năng gì.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:52:10 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 10
--------------------------------------------

Đêm hôm sau, Dinarzade thức giấc trước lúc trời sáng gọi hoàng hậu dậy và nói:

- Chị của em, nếu chị không còn ngủ nữa thì chị cho em biết về số phận của chú khỉ ra sao. Em nghĩ là hoàng đế, lãnh chúa của chúng mình cũng muốn nghe tiếp chuyện đó như em.

- Lãnh chúa của chúng ta và em sẽ được thoả mãn ngay đây - Scheherazade nói - Và để vào ngay câu chuyện, người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi thứ hai tiếp tục câu chuyện của anh ta như sau:

“- Quốc vương chẳng để ý gì đến những chữ viết khác mà chỉ chăm chú ngắm nhìn chữ viết của tôi đã làm cho ông đặc biệt hài lòng. Ông bảo viên quan cận thần:

- Hãy vào chuồng ngựa của ta, chọn một con đẹp nhất, thắng yên cương thật sang và lấy ra đây một chiếc áo gấm quý đem mặc cho người có sáu loại chữ viết này, bảo người đó lên ngựa và dẫn về đây cho ta.

Nghe nhà vua ra lệnh như thế, các quan đều bật cười. Tức giận về sự táo gan mạn thượng của họ, nhà vua vừa định ra tay trừng phạt thì họ vội tâu:

- Xin hoàng thượng tha tội cho chúng thần. Những chữ viết này không phải là do một con người mà lại là của một chú khỉ.

- Các ngươi nói sao? - Quốc vương kêu lên - Những nét chữ như rồng bay phượng múa này lại không phải là từ bàn tay một con người ư?

- Tâu bệ hạ, không phải là từ bàn tay của người - Một trong các vị quan nói - Thần xin khẳng định với bệ hạ đúng là từ tay một chú khỉ. Chính nó đã tự tay viết trước mặt chúng thần.

Vị quốc vương này thấy sự việc thật quá lạ lùng nên muốn được tự mình mục kích. Ông bảo các quan:

- Hãy làm theo lệnh ta. Đưa ngay chú khỉ hiếm có ấy về đây.

Các đại thần trở lại hạm tàu đưa lệnh của nhà vua tới thuyền trưởng. Ông này lập tức tuân lệnh. Thế là họ khoác vào người tôi chiếc áo gấm lộng lẫy, dắt tôi lên đất liền, đặt tôi lên mình ngựa. Nhà vua cùng với cả triều thần đông đảo còn đang chờ tiếp đón tôi tại cung điện của Người.

Cuộc đi bắt đầu. Hải cảng, các đường phố, các công trường, các cửa sổ, các sân thượng lâu đài và nhà cửa đều chật ních người dù già trẻ trai gái... từ khắp mọi nơi trong thành phố kéo tới để nhìn xem tôi vì nghe được tin đồn bay đi rất nhanh là quốc vương vừa chọn một con khỉ làm tể tướng. Sau khi hiến cho đám dân chúng hò hét vang trời này một cảnh tượng chưa từng thấy bao giờ, tôi đã tới hoàng cung.

Tôi thấy vị quốc vương này chễm chệ trên ngai giữa những ông quan đại thần của triều đình. Tôi vái ngài ba lần, và lần thứ ba, tôi quỳ xuống hôn mặt đất trước mặt ông. Rồi sau đó tôi ngồi bệt xuống đất theo kiểu ngồi của loài khỉ. Cả cử toạ đều tỏ vẻ khâm phục không hiểu vì sao mà một chú khỉ lại am hiểu lễ tiết đối với một quốc vương như vậy và hoàng đế lại càng ngạc nhiên hơn ai hết. Cuộc triều kiến đáng lẽ sẽ được trọn vẹn hơn nếu kèm với cử chỉ tôi còn sử dụng được cả ngôn ngữ của mình nhưng loài khỉ thì có bao giờ nói được và ưu thế đã được làm con người của tôi cũng chẳng cho tôi được cái ơn huệ đó.

Hoàng đế truyền cho bãi triều và ở lại cùng ông chỉ còn viên tổng thái giám, một nô lệ nhỏ rất trẻ và tôi. Ông chuyển từ điện thiết triều sang hậu cung và truyền dọn ăn. Ngồi vào bàn, ông ra hiệu cho tôi tới gần và bảo cùng ngồi ăn với ông. Để tỏ lòng tôn kính, tôi hôn mặt đất, đứng dậy và ngồi vào bàn ăn. Tôi ăn rất lễ phép, khiêm tốn và dè dặt.

Trước khi người ta thu dọn bàn ăn đi, tôi chợt trông thấy một cái bàn viết, tôi ra hiệu bảo mang lại và tôi cầm bút viết những câu thơ ca ngợi hoàng đế lên một quả đào to và đưa dâng Người. Ông đọc và càng ngạc nhiên vô cùng. Bàn ăn dọn đi rồi, một thức uống đặc biệt được đưa tới, nhà vua đưa tôi một cốc. Tôi uống và lại viết lên thành chiếc cốc những vần thơ mới nói lên tình trạng tôi lúc đó vì đã trải qua biết bao nỗi khổ đau. Hoàng đế cũng lại đọc và nói: “Một con người có được khả năng tới mức này thì có thể vượt lên trên cả những vĩ nhân lớn nhất”.

Vị quốc vương này cho đem bàn cờ tới và ra hiệu hỏi tôi có biết chơi không và có muốn chơi với ông không. Tôi hôn mặt đất và đặt tay lên đầu để nói là tôi sẵn sàng nhận cái vinh dự đó. Ông thắng tôi ván đầu, nhưng tôi thắng lại ván thứ hai và thắng luôn ván thứ ba. Nhận thấy ông có vẻ khó chịu, tôi liền ứng tác một bài thơ tứ tuyệt đưa ông đọc để ông xuôi xuôi. Trong bài thơ đó, tôi tả hai đội quân hùng mạnh giao chiến rất hăng với nhau cả ngày, nhưng đến chiều tối thì giảng hoà và cùng nhau qua đêm một cách yên tĩnh ngay trên bãi chiến trường.

Quốc vương đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về trí thông minh và sự khéo léo của một con khỉ và ông chẳng muốn một mình chứng kiến tất cả sự kỳ diệu ấy. Ông có một cô con gái có tên Diễm Kiều, một công chúa sắc nước hương trời. Ông bảo tổng thái giám có mặt tại đó và là thầy học của công chúa: "Nhà ngươi về đưa học trò của ngươi tới đây, ta muốn nó chia sẻ cùng ta sự vui thích này”.

Viên tổng thái giám tuân lệnh và chẳng mấy chốc đưa công chúa tới. Nàng để hở mặt, nhưng mới bước vào phòng nàng vội vàng đưa tay kéo mạng che xuống, nói với nhà vua:

- Tâu phụ vương, Người đã quên rồi ư? Con vô cùng ngạc nhiên là Người lại để con xuất hiện trước mặt một người đàn ông.

- Con bảo sao - Hoàng đế đáp - Con không nghĩ là chính con đã nhầm rồi sao? Ở đây chỉ có một tiểu nô lệ, tổng thái giám thầy dạy con và cha. Chúng ta đều được tự do nhìn thấy mặt con kìa mà. Thế mà con đã hạ mạng che xuống và kết tội cha là đã cho vời con tới đây.

- Tâu phụ vương - Công chúa nói - Rồi Người sẽ thấy con không nhầm. Con khỉ kia dù là mang hình dáng khỉ, nhưng đó lại là một hoàng tử trẻ, con trai một quốc vương hùng mạnh. Chàng bị phù phép yêu ma nên biến thành khỉ mà thôi. Một hung thần, cháu ngoại nữ thần Eblis đã làm cho chàng như thế sau khi đã giết hại một cách dã man công chúa đảo Gỗ Mun, con gái quốc vương Epitimarus.

Hoàng đế nghe con gái nói, kinh ngạc ngoảnh về phía tôi, không ra hiệu nữa mà hỏi tôi là điều công chúa vừa nói có đúng như vậy không. Vì không nói được nên tôi đặt tay lên đầu để tỏ là công chúa đã nói thật.

- Con gái của cha - Hoàng đế hỏi con - Làm sao mà con biết được là vị hoàng tử này bị phép yêu làm cho biến thành khỉ?

- Tâu phụ vương - Công chúa Diễm Kiều nói - Người có nhớ rằng khi con trở thành thiếu nữ, thì có một bà già chăm sóc con. Đó là một pháp sư rất giỏi. Bà ấy đã truyền cho con sáu mươi phép biến hoá. Vì thế chỉ một chớp mắt là con có thể chuyển dịch kinh đô của cha ra giữa đại dương, phía bên kia rặng Caucase. Với bản lĩnh đó con có thể biết tất cả những người bị phù phép mà chỉ cần thoáng trông thôi, con biết họ là ai và bị kẻ nào phù phép. Vì vậy xin phụ vương cũng đừng lấy làm lạ là con đã phát hiện ngay ra vị hoàng tử qua cái lốt khỉ mà không sao có thể trình diện phụ vương với con người thực của mình.

- Con gái của cha - Hoàng đế bảo - Thật không ngờ là con lại tài giỏi thế.

- Tâu phụ vương, đó là những điều bí hiểm cũng cần phải biết, nhưng hình như con đã quá khoe khoang rồi đấy.

- Nếu vậy - Hoàng đế nói - Thì con cũng rất có thể giải bùa ma cho hoàng tử chứ?

- Dạ, thưa phụ vương, con có thể trả lại cho chàng hình hài trước đây.

- Con hãy trả lại cho anh ta hình hài ban đầu đi. Con không biết là cha sẽ vui thích tới mức nào, vì cha muốn phong cho anh ta làm tể tướng đầu triều và sẽ cưới con, làm con rể cha, phò mã của vương quốc.

- Tâu phụ vương, con xin tuân lệnh".

Scheherazade kể đến câu cuối này thì trời vừa sáng nên đành bỏ dở câu chuyện về người tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi thứ hai. Schahriar, nhận định là đoạn tiếp theo có thể sẽ chẳng kém phần hấp dẫn như đoạn vừa nghe nên quyết định sẽ nghe tiếp vào hôm sau.



o O o


Dinariade như thường lệ gọi hoàng hậu và bảo:

- Chị của em, nếu không còn ngủ nữa thì xin chị cho biết công chúa Diễm Kiều làm cách nào mà tu sĩ thứ hai trở về được hình thể cũ.

- Rồi em sẽ biết thôi mà - Scheherazade đáp - Tu sĩ khổ hạnh thứ hai tiếp tục câu chuyện về mình như sau:

“- Công chúa Diễm Kiều đi về phòng riêng lấy ra một thanh đao mà ở lưỡi đao có khắc những chữ Do Thái cổ. Nàng đưa chúng tôi: hoàng đế, viên tổng thái giám, chú nhỏ nô lệ và tôi tới một khoảng sân kín trong hoàng cung và để chúng tôi đứng quanh sân, còn nàng thì tiến ra giữa sân vạch một vòng tròn to và vẽ vào đấy nhiều chữ Ả Rập cổ và những chữ khác mà người ta gọi là chữ của Cléopatre.

Khi đã làm xong việc chuẩn bị cho cái vòng tròn vừa ý mình rồi, nàng đứng dừng lại chính giữa vòng, niệm chú và đọc kinh Coran. Không gian dần dần tối sầm lại, dường như bộ máy tạo hoá sắp đi đến chỗ tan tành. Chúng tôi sợ hãi tột độ và càng hoảng hốt khi thấy hung thần, cháu ngoại Eblis xuất hiện, dưới hình dáng của một con sư tử khổng lồ.

Ngay lúc công chúa nhìn thấy con quái vật, nàng quát:

- Giống chó kia, đáng lẽ phải quỳ mọp trước mặt ta thì mi lại muốn hù doạ ta bằng cái lốt con vật gớm ghiếc ấy chăng?

- Thế còn mi - Con sư tử rống lên - Mi không sợ làm trái lời cam kết mà chúng ta đã long trọng thề là sẽ không ai làm hại ai sao?

- A! Quân chết tiệt - Công chúa phản bác - Chính ta, ta phải hỏi mi cái đó mới đúng chứ.

- Mi sẽ phải - Con sư tử đột ngột cắt ngang - Trả giá cho việc đã làm phiền ta phải tới đây.

Nói xong, con sư tử há rộng mõm tiến lại phía công chúa như muốn nuốt sống nàng, nhưng đã đề phòng từ trước, nàng nhảy lùi về phía sau và kịp thời nhổ một sợi tóc, niệm chú biến thành một lưỡi gươm sắc bén và bằng một nhát chém vào giữa sống lưng chặt con sư tử ra làm hai.
Hai nửa con sư tử biến mất chỉ còn lại cái đầu biến thành một con bọ cạp. Ngay tức thì, công chúa hoá thành một con rắn xông vào đánh bọ cạp. Thấy yếu thế, bọ cạp biến thành con đại bàng bay đi. Con rắn cuộn mình lại cũng biến thành một con đại bàng đen to khoẻ hơn bay đuổi theo. Cả hai con chim đều bay khuất tầm mắt của chúng tôi.

Một lát sau, mặt đất bỗng nhiên nứt ra trước mặt chúng tôi và một con mèo đen đốm trắng chồi lên, lông lá dựng ngược và gào lên thật man rợ. Một con sói đen cũng xuất hiện xông vào con mèo. Mèo vội vã biến thành một con sâu, thấy một quả lựu rụng bên cạnh một mương nước hẹp nhưng khá sâu bèn đục nhanh một lỗ và chui vào. Quả lựu tức thì to phình lên bằng một quả bí đỏ bay lên nóc hành lang lăn mấy vòng rồi rơi bịch xuống sàn vỡ tan tành.

Con sói lúc đó biến thành một con gà trống, nhảy vội đến mổ ăn những hạt lựu hết hạt này đến hạt kia. Khi không thấy còn hạt nào nữa, nó chạy đến chỗ chúng tôi, giương đôi cánh ra vỗ như vẻ hỏi chúng tôi xem còn hạt nào không.

Còn một hạt lăn lóc bên bờ mương, nó quay lại chạy đến chưa kịp mổ thì cái hạt đó lăn xuống mương nước và biến ngay thành một con cá nhỏ...”.

- Nhưng, tâu bệ hạ - Scheherazade nói - Kìa trời đã sáng mất rồi. Thiếp có thể đoán chắc là nếu ánh bình minh chưa lên thì Người sẽ rất vui thích khi nghe thiếp kể đoạn tiếp sau đó.

Nói xong, nàng im lặng. Hoàng đế đứng lên trong tâm trí tràn đầy những chi tiết thú vị của câu chuyện. Ông có một ý muốn mãnh liệt và nôn nóng cực kỳ là muốn nghe nốt câu chuyện kỳ thú này.



o O o


Dinarzade, hôm sau, không sợ làm gián đoạn giấc ngủ của hoàng hậu, bảo nàng:

- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị tiếp tục câu chuyện vô cùng kỳ thú bỏ dở hôm qua đang đến cái đoạn biến hoá hết cái nọ đến cái kia rồi.

Scheherazade nhớ lại trong trí xem đã kể tới đâu rồi nói với hoàng đế.

- Tâu chúa thượng, người tu sĩ thứ hai đã kể tiếp câu chuyện của anh ta như thế này:

“Con gà trống nhảy xuống mương nước và biến thành một con cá chày bơi đuổi theo con cá nhỏ. Cả hai quần nhau ở dưới nước đến hai tiếng đồng hồ và tất cả chúng tôi đều không hiểu rõ kết cục ra sao thì bỗng nghe thấy những tiếng kêu khủng khiếp làm chúng tôi run bắn cả người. Một lát sau, chúng tôi nhìn thấy tên hung thần và cả công chúa lửa cháy đầy mình. Họ nhả lửa từ miệng ra đốt cháy lẫn nhau và khi cả hai sáp gần lại thì lửa cháy càng dữ dội. Từng bụm khói dày và lửa bốc lên rất cao. Chúng tôi sợ rất có thể lửa sẽ làm cháy rụi cả hoàng cung, nhưng chúng tôi rụng rời khi tên hung thần rời xa công chúa, tiến về phía chúng tôi và há miệng phun từng khối lửa vào cả bọn. Nếu không có công chúa chạy đến kịp thời đánh đuổi hắn thì chúng tôi chắc hẳn chẳng còn ai sống sót. Thế nhưng, dù công chúa có đến cứu nhanh tới đâu thì hoàng đế cũng đã bị cháy râu và bỏng mặt, viên tổng thái giám bị chết ngạt và cháy thành than ngay tức thì. Còn tôi thì bị một tia lửa tạt ngay trúng mắt bên phải và thành chột.

Giữa lúc đó thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu to:

- Chiến thắng! Chiến thắng! - Và nhìn thấy công chúa đã trở về nguyên dạng, còn tên hung thần thì chỉ còn là một đống tro dưới chân nàng.

Công chúa đi tới gần chúng tôi và không để mất thời gian bảo tên tiểu nô lệ vẫn nguyên lành đi lấy một chén nước trong sạch. Nàng cầm lấy, đưa lên gần miệng đọc vài câu thần chú rồi vừa rảy lên người tôi vừa nói:

- Nếu người bị phù phép mà hoá khỉ, thì hãy thay hình đổi dạng trở về thành người như cũ.

Nàng vừa dứt lời thì tôi trở lại nguyên hình như trước khi bị phù phép, duy chỉ thiếu một con mắt.

Tôi sửa sang tư thế để tạ ơn công chúa, nhưng nàng chẳng để tôi có thời gian làm việc đó nữa. Nàng quay lại nói với hoàng đế cha nàng:

- Tâu phụ vương, con đã thắng lão hung thần như Người đã thấy đó. Nhưng thắng bằng một giá đắt. Con chẳng còn sống được mấy chốc nữa đâu và cha cũng chẳng còn được thấy con vui duyên cùng chàng hoàng tử mà cha đã dự định. Lửa đã thấu vào người con trong cuộc chiến đấu vừa rồi và từ từ đốt cháy cơ thể con. Tai hoạ này sẽ không xảy ra nếu con nhìn thấy ngay hạt lựu còn sót lại để mổ như những hạt khác khi con biến thành gà trống. Tên hung thần đã chui vào hạt này như một nơi trú ẩn cuối cùng để chống lại con. Sai sót này làm cho con phải cầu cứu tới lửa mà cha đã thấy con chiến đấu như thế nào giữa trời và đất trước mặt cha. Mặc dầu tên hung thần bản lĩnh cũng thật cao cường nhưng con vẫn mạnh hơn đã thắng nó và thiêu nó thành than. Nhưng con cũng chẳng tránh khỏi được cái chết đang tới gần".

Scheherazade kể tới đây thì dừng lại và nói với hoàng đế:

- Tâu hoàng thượng, trời đã rạng báo cho thiếp là hãy ngừng lời. Nếu Người còn vui lòng để thiếp được sống đến ngày mai thì Người sẽ nghe thiếp kể đoạn cuối câu chuyện này.

Schahriar bằng lòng và đứng lên như thường lệ để đi làm công việc của triều đình.



o O o


Trước khi trời sáng ít lâu, Dinarzade thức giấc gọi hoàng hậu năn nỉ:

- Chị thân yêu của em, nếu chị không còn muốn ngủ nữa thì xin chị hãy kể nốt cho em nghe chuyện của chàng tu sĩ thứ hai đi.

Scheherazade tức thì cất tiếng và kể tiếp câu chuyện như sau:

“Tu sĩ khổ hạnh vẫn tiếp tục kể chuyện mình cho Zobéide nghe, ông ta nói với nàng:

- Thưa bà, hoàng đế lặng nghe công chúa Diễm Kiều kể chuyện chiến đấu của nàng và khi nàng nói xong, ông nói với con gái bằng một giọng đau đớn và xúc động:

- Con gái của ta, con thấy rõ tình cảnh của cha đây. Không hiểu vì sao mà ta lại còn sống! Tổng thái giám, thầy của con thì đã chết, hoàng tử mà con vừa giải thoát bùa phép cho thì đã mất một con mắt.

Ông không nói thêm được nữa vì nước mắt, những tiếng nức nở làm ông nghẹn ngào. Chúng tôi cực kỳ xúc động về nỗi buồn khổ của ông, công chúa và tôi cũng khóc ròng cùng hoàng đế.

Trong lúc mọi người đang vô cùng buồn khổ thì bỗng công chúa kêu to: “Tôi cháy đây này! Tôi cháy đây này!”. Nàng cảm thấy ngọn lửa âm ỉ trong người đã bùng lên toàn thân, làm nàng không ngừng kêu: “Tôi cháy đây!” và cái chết cuối cùng đã chấm dứt sự đau đớn không sao chịu nổi của nàng. Ngọn lửa thật kỳ lạ, chỉ một lát cả cơ thể nàng chỉ còn là một đống tro tàn như lão hung thần vậy.

Thưa bà, tôi không sao nói được trước cảnh tượng đó tôi đã xúc động tới mức nào. Thà là suốt đời tôi là kiếp khỉ hoặc kiếp chó còn hơn là thấy ân nhân của mình chết một cách thê thảm như vậy. Về phía hoàng đế, đau khổ ngoài sức tưởng tượng, vừa kêu la thảm thiết vừa lấy tay đấm mạnh vào đầu vào ngực cho tới lúc suy sụp trong thất vọng, ông ngất xỉu làm tôi lo Người có thể thăng hà.

Nghe những tiếng than khóc kêu la của hoàng đế, những thái giám và các đại thần kéo tới và mất rất nhiều công sức để làm cho Người hồi tỉnh. Hoàng đế và tôi không phải mất công nhiều để giải thích cho họ hiểu nỗi đau lòng của mình. Hai đống tro của công chúa và của lão hung thần đã làm cho họ biết hết những gì xảy ra. Hoàng đế không còn sức đứng lên nữa mà phải dựa vào các thái giám để trở về hậu cung.

Khi tiếng đồn về sự kiện vô cùng bi thảm đó được lan truyền trong hoàng cung và cả kinh thành, toàn thể thần dân đều thương tiếc cho công chúa Diễm Kiều gặp nỗi bất hạnh và thông cảm với nỗi đau buồn của quốc vương. Cả nước để tang trong bảy ngày và tổ chức nhiều buổi tế lễ long trọng. Tro của lão hung thần bị tung theo gió, còn tro của công chúa Diễm Kiều được thu vào một chiếc bình rất đẹp đặt trong một lăng nguy nga xây ngay tại nơi công chúa tử nạn.

Nỗi đau của hoàng đế bị mất con gái yêu đã làm cho Người ốm liệt giường suốt một tháng trời. Chưa được bình phục hẳn, Người đã cho gọi tôi tới và bảo:

- Hoàng tử, hãy nghe lệnh của ta đây. Nếu không tuân theo thì khó toàn tính mệnh đó.

Tôi hứa với Người là nhất nhất sẽ vâng lời. Và Người tiếp tục nói:

- Từ trước tới nay ta luôn sống trong hạnh phúc toàn vẹn, chưa bao giờ bị bất cứ một tai hoạ nào khuấy động. Nhưng nhà ngươi đến thì hạnh phúc mà ta vui hưởng bị tan vỡ: con gái ta chết, ông thầy của nó cũng không còn và chỉ nhờ có một phép màu nào đó mà ta còn sống. Vậy đúng nhà ngươi là nguyên nhân của tất cả những bất hạnh đó mà ta không sao nguôi được. Vì vậy nhà ngươi hãy nên lặng lẽ rời khỏi nơi này, và đi ngay cho khuất mắt ta. Nếu nhà ngươi còn ở lại đây lâu hơn thì ta sẽ không sống nổi vì chắc chắn là sự có mặt của nhà ngươi sẽ chỉ mang lại bất hạnh mà thôi. Đó là tất cả những gì ta muốn nói. Đi đi! Và chớ có bao giờ xuất hiện trên đất nước của ta. Không có một sự trọng thị nào có thể ngăn ta làm cho nhà ngươi phải hối tiếc.

Tôi muốn phân trần đôi câu, nhưng quốc vương đã chặn họng tôi lại bằng những lời lẽ chứa đầy căm giận nên tôi bắt buộc phải ra đi, đi xa vương quốc của Người.

Bị mọi người ghét bỏ, xua đuổi và bỏ rơi, không rõ rồi đây mình sẽ ra sao. Trước khi rời khỏi thành phố, tôi vào một nhà tắm, thuê cạo râu, tóc và lông mày, mặc vào một bộ y phục tu sĩ khổ hạnh. Tôi vừa bước đi vừa khóc, khóc cho sự khổ ải truân chuyên của tôi thì ít, nhưng khóc nhiều cho cái chết của những nàng công chúa Kiều Diễm mà tôi gây nên. Tôi đi qua nhiều xứ sở không để cho ai nhận được mặt, cuối cùng tôi quyết định tới thành phố Bagdad với hy vọng là được yết kiến đức thống lĩnh các tín đồ và gợi lên lòng thương cảm của Người đối với một câu chuyện quá đỗi lạ kỳ. Tôi mới tới đây chiều hôm nay và người đầu tiên tôi gặp là người tu sĩ đồng đạo vừa kể chuyện của mình trước tôi. Bà đã biết rõ đoạn còn lại, thưa bà, và vì sao tôi lại có vinh dự có mặt tại quý xá.

Khi tu sĩ khổ hạnh thứ hai kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh:

- Tốt lắm, anh hãy đi đi, rút khỏi đây và đi đâu tuỳ thích, tôi cho phép đấy.

Nhưng đáng lẽ phải đi ra khỏi nhà, anh nằn nì xin thiếu phụ cho được ở lại như tu sĩ thứ nhất, và anh ta đến ngồi cạnh anh này...”.

- Nhưng, tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Kể đến đây thì trời sáng đã bắt thiếp phải ngừng. Thiếp mạo muội dám chắc là dù câu chuyện của tu sĩ thứ hai có hay tới đâu, thì câu chuyện của tu sĩ thứ ba cũng chẳng kém. Rồi hoàng thượng sẽ so sánh nếu Người kiên nhẫn chờ nghe.

Hoàng đế tò mò muốn biết là câu chuyện sắp kể có thực sự hay như câu chuyện vừa kể không, nên ông đứng lên và quyết định kéo dài thêm sự sống của Scheherazade dù là thời hạn ông cho đã quá nhiều ngày rồi.



o O o


Tàn đêm sau, Dinarzade nói với hoàng hậu:

- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì em xin, để chờ trời sáng cũng chẳng còn mấy chốc nữa, kể cho em nghe một câu chuyện nào đó trong những chuyện hay mà chị biết.

- Ta rất muốn nghe - Schahriar cũng bảo - Chuyện của tu sĩ thứ ba.

- Tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Thiếp xin tuân lệnh.

"- Người tu sĩ thứ ba - Nàng nói thêm - Thấy là đến lượt mình kể chuyện, bèn hướng về Zobéide bắt đầu câu chuyện của mình như sau:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:53:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11

CHUYỆN KỂ CỦA TU SĨ KHỔ HẠNH THỨ BA, CON VUA

“Thưa quý bà rất đáng kính, câu chuyện tôi kể đây hoàn toàn khác với những câu chuyện bà đã nghe. Hai hoàng tử kể chuyện trước tôi đều mỗi người mất một con mắt đơn thuần do hậu quả của số mệnh, còn tôi bị chột thì lại do chính lỗi lầm của mình, tự mình gây nên tội, tự mình rước vạ vào thân như chuyện tôi kể hầu bà nghe sau đây:

“Tôi tên là Agib, con một quốc vương tên là Cassib. Sau khi phụ vương băng hà, tôi lên nối ngôi và vẫn đóng đô tại nơi cha tôi đã trị vì. Kinh thành này toạ lạc trên bờ biển, có một hải cảng vào loại đẹp nhất và an toàn nhất. Nó còn có một công xưởng khá lớn đủ khả năng cung cấp thiết bị cho một trăm năm mươi chiến hạm luôn luôn sẵn sàng phục vụ khi cần thiết. Ngoài ra còn trang bị cho năm chục thương thuyền vận tải hàng hoá và cũng từng ấy những du thuyền nhỏ nhẹ để đi dạo và vui chơi trên mặt nước. Vương quốc tôi còn có nhiều thành phố tráng lệ với vô vàn hải đảo lớn, hầu hết đều nằm trong tầm nhìn của kinh đô.

Đầu tiên, tôi đi thăm các tỉnh. Sau đó tôi cho vũ trang hạm đội và đi tuần du các đảo để động viên các thần dân của mình hăng hái làm tròn trách nhlệm. Trở về một thời gian, tôi lại đi tuần du và những chuyến đi về ấy đã ho tôi hiểu biết về nghề hàng hải và thấy yêu thích nó. Vì vậy tôi quyết định làm một chuyến đi thám hiểm xa ngoài những hòn đảo của mình. Để thực hiện dự định đó tôi cho chuẩn bị mười chiếc tàu rồi giương buồm khởi hành.

Bốn mươi ngày đầu thuận buồm xuôi gió nhưng đến đêm thứ bốn mươi mốt thì bị ngược gió dữ dội và một cơn bão mạnh tưởng chừng muốn nhận chìm cả đoàn thuyền chúng tôi. Tuy nhiên, lúc trời hửng sáng thì cũng là lúc gió cũng dịu dần, mây tan và trời đẹp. Chúng tôi ghé vào một hòn đảo, đừng lại hai ngày để nghỉ ngơi lấy lại sức. Rồi lại tiếp tục ra khơi. Sau mười hôm lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi hy vọng nhìn thấy đất liền vì cơn bão vừa qua đã làm tôi thay đổi ý định ra lệnh cho quay trở về. Tôi chợt nhận thấy là người hoa tiêu bị lạc phương hướng không biết là tàu mình hiện đang ở đâu. Tôi ra lệnh cho một thuỷ thủ leo lên đỉnh cột buồm cao nhất để thăm đò thì gã báo cho biết là về phía phải và bên trái xa tít tận chân trời chỉ thấy mênh mông trời và biển. Nhưng về phía trước mặt, phía mũi con tàu thấy có một mảng đen lớn.
Nghe thấy vậy, người hoa tiêu mặt biến sắc, một tay dứt khăn trên đầu ném xuống sàn tàu, tay kia tự tát vào mặt mình và kêu to:

- Ôi! Bệ hạ, chúng ta nguy mất rồi! Không một ai trong chúng ta thoát khỏi hiểm nguy này. Với tất cả kinh nghiệm của mình, tôi không sao có thể bảo đảm cho chúng ta thoát hiểm được.

Nói xong hắn nức nở khóc như một người biết chắc mình không sao tránh khỏi chết. Sự tuyệt vọng cả y gieo hoang mang cho toàn thể mọi người trên tàu. Tôi hỏi vì lý do gì mà y lại tuyệt vọng tới vậy.

- Than ôi! Tâu bệ hạ - Hắn đáp- Cơn bão đã đánh lạc hướng chúng ta quá xa cho nên chỉ đến trưa ngày mal thôi là chúng ta sẽ tới gần cái mảng đen đó chẳng có gì khác là một quả núi màu đen, là một mỏ nam châm ngay lúc này đang hút đoàn tàu chúng ta vì những chiếc đinh và sắt thép cấu tạo con tàu. Ngày mai khi chúng ta tôi gần nữa thì sức hút nam châm càng mạnh, mạnh đến nỗi là tất cả nhũng chiếc đinh ở sườn tàu sẽ như bị rút ra bay đến dính vào quả núi. Các tàu của chúng ta sẽ bị vỡ tan và đắm ngay tại chỗ. Sườn phơi ra phía biển của quả núi này dính vô vàn nhũng chiếc đinh sắt của không biết bao nhiêu tàu bè mà nó làm cho đắm. Do đó mà lực hút của quả núi này mỗi ngày lại mạnh hơn lên. Núi này người hoa tiêu nói tiếp - vô cùng hiểm trở. Trên đỉnh núi có một cái vòm bằng đồng nguyên chất, những cột chơng cũng.bằng đồng. Trên đỉnh vòm nhô lên một con ngựa đúc đồng nguyên khối, cưỡi trên lưng ngựa là một kỵ sĩ, ngực che một tấm chì trên đó có khắc hình bùa phép. Theo truyền thuyết, tâu bệ hạ, thì bức tượng này là nguyên nhân chính của sự đắm chìm không biết bao nhiêu tàu bè và bao nhiêu con người đã tử nạn ở chốn này. Và tai hoạ vẫn còn cứ kéo dài cho tới khi nào lật đổ được pho tượng đó.
Người hoa tiêu kể xong lại khóc và tất cả đoàn thuỷ thủ cũng sụt sùi khóc theo. Bản thân tôi, tôi không tin là mình tới ngày tận số. Tuy vậy, mỗi người đều cùng lo cho mình cách riêng để tự bảo vệ. Và trong cái tình thế chưa biết ngã ngũ ra sao họ đi chúc lẫn cho nhau, cho những ai may mắn sống sót.

Sáng hôm sau chúng tôi nhìn thấy rõ quả núi đen và với những điều đã nghe biết, chúng tôi càng thấy nó thật rùng rợn. Đến buổi trưa, quả núi đã xích lại khá gần và đúng như lời người hoa tiêu đã báo trước, chúng tôi nhìn thấy những chiếc đinh và tất cả những thứ gì bằng sắt đều nhất loạt rời tàu, bay vèo vèo về phía quả núi. Lực hút của nam châm cực mạnh đã làm cho những thứ bằng sắt này đập mạnh vào sườn núi tạo thành một thứ âm thanh thật ghê rợn. Những con tàu toác ra và chìm nghỉm xuống đáy biển rất sâu. Tất cả đoàn tuỳ tùng của tôi đều chết đuối. Nhưng Thượng đế đã rủ lòng thương cho tôi bám được vào một tấm ván, và gió đẩy giạt tới chân quả núi đen. Tôi không bị thương và may mắn cho tôi là đã cập bờ vào một nơi có những bậc trèo lên đến tận đỉnh núi”.

Scheherazađe muốn kể tiếp câu chuyện, nhưng trời sáng đã khiến nàng im lặng. Hoàng đế thấy quả là hoàng hậu không đánh lừa mình vì phần mở đầu thật là hấp dẫn. Vì vậy chúng ta cũng sẽ chắng ngạc nhiên chút nào là ông chưa ra lệnh đưa hoàng hậu ra hành quyết ngày hôm đó.

***


- Nhân danh Thượng đế - Gầ n sáng hôm sau Dinarzade kêu chị - Nếu chị của em không còn ngủ nữa thì xin chị kể tlếp chuyện tu si thứ ba đi?

- Em thân yêu - Scheherazade đáp - Vị hoàng tử này đã kể tiếp chuyện của mình như sau:

“Nhìn thấy những bậc đá đó, tôi đã tạ ơn Thượng đế hết lời và vừa trèo lên vừa niệm tên thánh của Người vì nhìn sang phải, sang trái đều không có chỗ nào đặt chân. Đường đi lên hẹp, dốc đứng và khúc khuỷu đến mức tôi nghĩ chỉ cần một cơn gió không mạnh lắm cũng đủ gạt tôi ngã lăn tòm xuống biển. Nhưng cuối cùng tôi đã an toàn trèo lên được tới đỉnh núi. Tôi đi vào đưới cái vòm bằng đồng và quì xuống hôn mặt đất tạ ơn Thượng đế đã ra tay phù trợ.

Tôi qua đêm dưới cái vòm đó. Trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy một lão trượng đáng kính hiện ra trước mắt bảo tôi:

- Con hãy nghe đây, Agib! Khi ngủ dậy, con hãy đào đất ngay chỗ chân con đó. Con sẽ thấy một cái cung bằng đồng và ba mũi tên bằng chì được chế tạo ra dưới những chòm sao tất để giải thoát cho loài người khỏi bao nhiêu tai ách luôn đe doạ họ. Con hãy lần lượt bắn ba mũi tên này vào pho tượng. Người kị sĩ sẽ ngã nhào xuống biển và con ngựa thì đổ về phía con. Con sẽ chôn con ngựa xuống chỗ con đã đào được cung tên. Làm xong việc này mặt biển sẽ dâng lên ngang với đỉnh núi, tới tận chân vòm. Khi nước dâng tới đó, con sẽ thấy một chiếc xuồng nhỏ chỉ có một người chèo tới bằng mỗi tay một bơi chèo. Người này cũng bằng đồng nhưng khác với người kị sĩ mà con đã bắn nhào. Con lên xuồng và để cho y chèo đi, nhớ không được đọc đến tên Thượng đế. Trong mười ngày y sẽ lái xuồng cho con đi sang một biển khác và từ chỗ này con có thể tìm được đường về vương quốc của con an toàn miễn là, như ta đã đặn, trong suốt cuộc hành trình, tuyệt đối không được nhắc đến tên Thượng đế.

Đó là tất cả những điều ông cụ đó bảo và dặn dò tôi. Thức giấc, tôi thấy như nhẹ cả người, và ngay lập tức làm theo lời đã được dặn trong mộng. Tôi đào đất, lượm lên cây cung và ba mũi tên. Giương cung bắn vào tượng kị sĩ đồng, đến phát thứ ba thì nó nhào xuống biển, còn con rlgựa thì lăn kềnh xuống cạnh tôi. Tôi chôn nó vào cái hố cung tên và thấy mặt nước biển từ từ dâng lên. Khi mực nước ngang với chiều cao ngọn núi và tràn tới chân vòm thì tôi nhìn thấy phía xa một chiếc xuồng lao đến phía mình. Tôi cảm tạ Thượng đế thấy mọi cái đều xảy ra trình tự đúng như trong glấc mộng. Cuối cùng chiếc xuồng cập bờ và tôi nhìn thấy người lái bằng đồng như cụ già đã tả. Tôi trèo lên xuồng và nhớ đinh ninh là không được kêu tên Thượng đế, tôi cũng chẳng nói câu nào, im lặng ngồi xuống và người lái bằng đồng bắt đầu chèo đưa chiếc xuồng ra xa quả núi. Nó chèo liên tục đến ngày thứ chín thì tôi trông thấy những hòn đảo quen thuộc làm cho tôi vui mừng thấy sắp thoát hiểm nghèo. Mừng vui quá độ đã làm tôi quên phắt điều cấm kỵ. Tôi kêu lên: Tạ ơn Thượng đế? Vinh quang thuộc về Người!
Chưa dứt lời thì chiếc xuồng chìm nghỉm luôn xuống sâu cùng với người lái bằng đồng, còn tôi thì chới với trên mặt nước. Tôi bơi bơi cho tới cuối ngày, nhằm hướng đất liền mà tôi thấy gần nhất. Một đêm tối mù tối mịt nối tiếp và, tôi chẳng rõ lúc này ở vào chỗ nào mà cứ bơi bừa. Sức yếu dần, tôi bắt đầu thất vọng thấy mình khó thoát chết thì gió bỗng nổi mạnh, một làn sóng cao như một ngọn núi hất tôi lên một bãi cát rồi rút đi và để tôi nằm lại đó. Tôi vội vàng nhổm đậy chạy nhanh vào phía đất ìiền sợ một làn sóng khác lại chồm tới mang tôi đi. Việc làm đầu tiên là cởi áo quần ra, vắt khô nước rồi trải ra phơí trên mặt cát hãy còn hơi nóng của ban ngày.

Ngày hôm sau, mặt trờĩ chẳng mấy chốc đã làm nốt việc hong khô kiệt tất cả áo quẩn của tôi. Tôi mặc vào và đi tìm hiểu xem hiện nay mình ở đâu. Mới đi được một quãng đùờng thì đã hiểu la mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ rất trù phú, mọc rất nhều cây ăn quả. Nhưng đồng thời tôi cũng nhận thấy là nó ở rất xa đất liền, điều này ]àm giảm đi nhiều niềm vui là được thoát chết trôi trên biển. Dù sao tôi cũng phó mặc số mệnh mình cho - Thượng đế định đoạt tuỳ ý muốn của Người. Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy một con tàu nhỏ từ đất liền đi ra, giương hết buồm và mũi tàu hướng về hòn đảo tôi đang đứng.

Không còn nghi ngờ gì là nó sẽ cập vào hòn đảo này. Chưa rõ hành khách trên tàu là bạn hay thù, nên tôi thấy là chưa nên xuất đầu lộ diện. Trèo lên một cây cao, cành lá rậm rạp, ở đó tôi có thể quan sát thấy những gì trên tàu. Con tàu tới đỗ trong eo nhỏ và có độ mười tên nô lệ bước xuống mang theo một cái xẻng và những dụng cụ đào đất khác. Chúng đi tới giữa đảo và tôi nhìn thấy chúng dừng lại đào sới một lát. Nhìn hành động của chúng hình như chúng lật lên một cái cửa nắp. Rồi chúng quay lại nơi tàu đỗ khiêng xuống nhiều đồ đạc rồi thụt xuống. Tôi hiểu ra là ở chỗ đó có một hầm ngầm. Tôi nhìn thấy chúng đi một lần nữa về tàu và một lát sau xuống cùng với một ông già, ông này dắt theo một thiếu niên khoảng mười bốn, mười lăm tuổi rất đẹp trai. Tất cả đều thụt xuống hầm chỗ cái cửa nắp đã mở và khi lên họ hạ cửa nắp xuống, đắp đất lên rồi đi về phía cái eo nhỏ, nơi tàu thả neo, tôi nhận thấy là không có cậu thanh niên trong bọn họ. Từ đó tôi kết luận là chàng trai này đã ở lại dưới hầm ngầm, điều làm tôi hết sức kinh ngạc.

Ông già và các nô lệ bước lên tàu và giương buồm đi theo hướng về đất liền. Khi con tàu đã đi khuất, tôi từ trên cây leo xuống và lập tức đi tới chỗ họ vừa

đào bới. Đến lượt tôi cũng vục tay bới đất cho tới lúc đụng vào một tấm đá vuông khoảng hai ba bộ, tôi lật lên và thấy nó che lấp lối xuống của một cầu thang cũng bằng đá. Tôi bước vào bậc thang đi xuống và thấy mình đang ở một gian phòng rộng trong đó có một thảm chùi chân và một chiếc sập trên trải một tấm thảm khác và những gối tựa bọc vải đẹp. Chàng trai ngồi trên sập tay cầm chiếc quạt. Tôi nhận thấy tất cả những thứ đó dưới ánh sáng của hai cây nến và bên cạnh chàng trai còn có nhiều trái cây và những bình hoa.

Chàng trai giật mình hoảng hốt khi nhìn thấy tôi. Nhưng để cho chàng ta yên tâm, tôi vừa đi vào vừa nói:

Dù cậu là ai chăng nữa thì cũng xin đừng sợ. Một ông vua và một hoàng tử như tôi đây không thể có bất cứ một sự xúc phạm nào đối với cậu. Trái lại, số phận may mắn của cậu đã khiến tôi có mặt tại đây để đưa cậu ra khỏi nấm mồ này vì hình như người ta đã đem chôn sống cậu vì những lý do gì tôi không rõ. Nhưng điều làm tôi băn khoăn và thấy khó lòng chấp nhận được (vì tôi đã được mục kích tất cả những gì xảy ra từ lúc có người tới đảo này) là dường như cậu đã để cho họ chôn sống cậu tại đây mà không có sự chống đối nào...”.

Scheherazade kể tới đây thì ngừng lại và hoàng đế thì đứng lên băn khoăn không biết vì sao mà chàng thiếu niên này lại bị bỏ đưới hầm trên một hòn đảo hoang. Ông nhủ thầm sẽ nghe tiếp đêm sau cho rõ.

***


Dinarzade, khi thấy tới giờ, bèn gọi hoàng hậu:

- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.

Scheherazade không để em phải nhắc lại, kể tiếp như sau:

“Chàng thiếu niên - Tu sĩ thứ ba tiếp - nghe nói vậy thì yên tâm và tươi cười mời tôi ngồi xuống cạnh mình. Chàng ta nói ngay.

- Thưa hoàng tử, tôi sẽ nói để ngài rõ, ngài sẽ phải lấy làm ngạc nhiên về sự đặc biệt khác thường của nó. Nguyên cha tôi là một nhà buôn vàng ngọc trở nên rất giàu có nhờ vào sức lao động và tháo vát khéo tay trong nghề nghiệp. Người có nhiều nô lệ, và những người giúp việc thường có những chuyến đi biển trên những chiếc tàu của cha tôi để giữ mối liên lạc với nhiều triều đình mà cha tôi cung cấp những đồ châu báu mà họ cần.

Kết hôn đã lâu mà chưa có con, một lần trong giấc mộng người được biết là sẽ có một con trai nhưng người con này đoản mệnh nên khi thức giấc người vô cùng buồn bã. Ít ngày sau đó, mẹ tôi báo cho người biết là bà đã có mang vào thời gian mà cảm thấy cái thai đậu lại rơi đúng vào ngày ông nằm mộng. Sau chín tháng bà sinh ra tôi, cả nhà hết sức vui mừng hoan hỉ.
Cha tôi có mặt trong ngày tôi ra đời, đã đi xem bói chiêm tinh. Các ông thầy bảo: “Con trai ông sống khoẻ mạnh đến tuổi mười lăm, nhưng tới lúc đó sẽ gặp tai hoạ khó lòng thoát khỏi. Qua được nạn này thì sẽ thọ lâu. Cũng vào lúc đó - Các thầy nói thêm - tượng kị sĩ bằng đồng trên đỉnh núi nam châm sẽ bị hoàng tử Agib, con quốc vương Cassib, bắn nhào xuống biển và các vì sao chỉ rõ là năm chục ngày sau đó, con trai ông bị hoàng tử Agib giết chết.

Vì lời tiên đoán đó phù hợp với giấc mộng của cha tơi nên ông vô cùng buồn bã. Dù vậy ông vẫn không hề lơ là trong việc giáo dục tôi cho đến nay, năm tôi tròn mười lăm tuổi. Hôm qua người được biết là kị sĩ bằng đồng đã bị hoàng tử Agib bắn nhào xuống biển đã được mười ngày. Tin ấy làm người rơi không biết bao nhiêu nước mắt và hoảng hốt đến mức mọi người không còn ai nhận ra ông nữa.

Dựa trên những lời tiên đoán của các thầy chiêm tinh ông tìm cách đánh lừa ngôi sao bản mệnh của tôi để giữ lấy mạng sống cho tôi. Ông đã đề phòng cho xây dựng nơi ở này rất lâu rồi để làm chỗ cho tôi ẩn nấp trong khoảng thời gian năm mươi ngày kể từ khi pho tượng trên núi nam châm bị lật đổ. Cũng vì vậy khl biết tin pho tượng đó bị lật đổ đã được mười ngày thì ông vội vàng mang tôi tôi đẩy cho xuống hầm kín ẩn náu và hẹn là trong bốn chục ngày nữa ông sẽ đến đón tôi về. Còn về phần tôi – Chàng trai nói thêm - tôi tràn đầy hy vọng và không tin là hoàng tử Agib lại tới cái đảo hoang này tìm tôi trong hầm kín. Đó, đó là tất cả câu chuyện tôi muốn nói cùng ngài.

Trong khi người con trai nhà buôn châu ngọc kể chuyện về mình, tôi giễu thầm các nhà chiêm tinh đã có những lời tiên đoán vô cùng lạc lõng. Vì vậy nghe xong câu chuyện tôi sôi nôi bảo cậu ta: “chàng trai thân mến, hãy tin vào lượng khoan hồng của Thượng đế và chẳng nên sợ hãi gì hết. Hãy coi như đây là một món nợ phải trả và kể từ lúc này cậu đã trang trải xong. Tôi lấy làm hài lòng, là sau khi làm đắm xuồng đã tới đây để bảo vệ cậu chống lại những kẻ muốn làm hại tới cuộc sống của cậu. Tôi sẽ không bỏ cậu trong suốt thời gian bấn chục ngày còn lại mà những lời đoán bậy của các tay chiêm tinh làm cho cậu lo lắng. Trong thời gian đó tôi sẽ giúp cậu tất cả những việc gì tôi có thể làm. Sau đó, tôi sẽ lợi dụng thời cơ để trở về đất liền, cùng lên tàu với cậu với sự đồng ý của than phụ cậu và cậu. Và khi về ,tới vương quốc của tôi, tôi sẽ không quên ơn và sẽ cố gắng thể hiện sự biết ơn của tôi thật xứng đáng.

Những lời nói của tôi làm cho cậu ta yên tâm và tin cậy. Tôi tránh không nói mình chính là Agib làm cho cậu ta sợ hãi và để cho cậu ta không nghi ngờ bất cứ một điều gì nên tôi còn rất thận trọng trong lời nói và cử chỉ. Chuyện trò với nhau về nhiều vấn đề mãi tới khuya, tôi nhận thấy chàng trai này thật thông minh. Chúng tôi cùng ăn với nhau những thức ăn đã được đự trữ trong hầm. Thức ăn nhiều không những đùng thừa trong suốt bốn chục ngày mà ngoài tôi là khách ra còn có thể ehu cấp cho nhiều người khác nữa. Sau bữa ăn, chúng tôi tiếp tục chuyện trò một lát nữa rồi mới đi ngủ.

Sáng hôm sau, thức đậy, tới mang đến một chậu nước cho cậu ta rửa mặt rồi tôi sửa soạn nấu nướng và đến bữa thì dọn ra cùng ăn. Sau bữa ăn, tôi bày ra một trò chơi gì đấy không những để chơi trong ngày mà còn cả cho những ngày tiếp sau nữa. Bữa chiều tôi cũng làm như thế. Chúng tôi ăn, chuyện trò rồi đi ngủ cũng như ngày hôm trước.

Thời gian đã làm cho chúng tôi mỗi lúc lại thân nhau hơn. Tôi nhận thấy là cậu ta rất quí mến tôi và về phía tôi, một tình cảm đặc biệt đã khiến tôi coi cậu ta như một người ruột thịt. Tôi thường nghĩ thầm trong bụng: bọn thầy bói bảo với cha cậu ta là con ông sẽ bị giết bởi bàn tay của tôi thì đúng là bọn lừa bịp. Không sao có thể xảy ra chuyện tôi lại phạm vào một hành động tội ác như vậy được. Cuối cùng, thưa bà, chúng tôi đã qua được ba mươi chín ngày êm đềm vui vẻ nhất thế gian ở cái hầm dưới mặt đất đó.

Rồi đến ngày cuối cùng, ngày thứ bốn mươi. Buổi sáng, khi thức đậy, chàng trai trẻ dạt dào một niềm vui không ngăn lại được, nói với tôi: Hoàng tử ơi Ngày thứ bốn mươi tới đây rồi, thế mà tôi chẳng sao cả, tôi không chết. Vô cùng biết ơn Thượng đế và tình bạn tất của ngài. Cha tôi cũng sẽ chẳng bao giờ quên ơn ngài và người sẽ tạo đầy đủ các phương tiện và những tiện nghi cần thiết để giúp ngài trở về quê hương. Trong lúc chờ đợi - Cậu ta nói thêm - Xin ngài làm ơn đưa cho tôi một thùng nước nóng để tôi tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đẹp để tiếp đón cha tôi cho thật đàng hoàng.

Tôi đặt thùng nước trên lò lửa và khi đã đủ độ nóng ấm, tôi trút vào bồn tắm. Chàng trai bước vào, tôi kỳ cọ cho cậu ta. Bước ra khỏi bồn tắm, cậu ta tới nằm nghỉ trên giường mà tôi đã sửa soạn sẵn, tôi đắp mền cho cậu. Nằm và ngủ được một lát, cậu ta bảo tôi: “Hoàng tử ơi, xin làm ơn đem đến cho tôi một quả đưa cùng với đường để tôi ăn cho người tỉnh táo”.
Trong rất nhiều quả đưa còn lại, tôi chọn quả ngon nhất để vào một cái đĩa. Vì nhìn quanh không thấy con dao nào để bổ đưa, tôi hỏi chàng trai là có biết đao để ở đâu không. “Có một con dao nhọn - Chàng ta bảo tôi - ở cái hố tường trên đầu tôi đây này!. Đúng vậy, tôi đã trông thấy con dao nhọn đó nhưng quá hấp tấp để với lấy và khi đã cầm trong tay rồi, chân tôi lại bị vướng trong cái chăn đắp nên đã ngã xuống người cậu ta và mũi dao nhọn đâm vào ngực trúng tim chàng trai làm cậu ta chết ngay.

Trước cảnh tượng đó, tôi kêu rú lên. Tôi đấm mạnh vào đầu, vào mặt, vào ngực mình, tôi xé quần xé áo và lăn lộn dưới đất, đau khổ và hối tiếc không biết ngần nào.

- Chao ôi! - Tôi kêu lên - Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi là thoát ra ngoài vòng nguy hiểm. Để chống lại, cậu ta đã tìm nơi ẩn lánh và trong lúc ta cũng nghĩ là tai nạn đã qua rồi thế mà... bây gịờ ta lạị trở thành kẻ sát nhân và làm cho lời tiên tri đó trở thành hiệu nghiệm. Nhưng, hỡi đấng tối cao - Tôi giơ hai tay và ngửa mặt lên trời nói thêm - Nếu tôi đúng là thủ phạm giết chàng trai này, thì xin đừng để cho tôi sống nữa.

Scheherazade bắt buộc phải ngừng câu chuyện bi thảm này lại vì thấy trời đã hé sáng. Hoàng đế các xứ Ấn Độ rất xúc động và băn khoăn là sau những chuyện đó thì người tu sĩ ra sao. Ông chưa hạ lệnh cho hành quyết hoàng hậu Scheherazade ngày hôm đó vì chỉ duy có nàng mới giải được cho ông nỗi thắc mắc này.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 30-9-2011 21:57:44 | Chỉ xem của tác giả
Nghìn lẻ một đêm - Chương 11
----------------------------------------

Dinarzade, như thường lệ, đánh thức hoàng hậu:

- Nếu chị không ngủ, em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra sau cái chết của chàng thiếu niên ấy.

Scheherazade tức thì kể tiếp như sau:

“Thưa bà - Tu sĩ thứ ba nói với zobéide - Sau bất hạnh xảy ra, tôi sẵn sàng đợi cái chết đến không mảy may sợ hãi. Nhưng điều xấu cũng như điều tất không phải là chúng ta cứ cầu xin là được.

Tuy vậy, lắng sâu suy nghĩ thấy là những giọt nước mắt cũng như nỗi đau lòng cũng không thể làm sống lại chàng trai này và rồi đây hết bốn chục ngày rất có thể tôi bị người cha bắt gặp thì cũng thật lôi thôi nên tôi đi ra khỏi hầm và trèo lên các bậc thang. Tôi hạ tấm đá to chặn lối vào và lấp đất.

Vừa xong, tôi hướng tầm mắt về phía đất liền thì đã trông thấy con tàu đang đi tới để đón chàng trai trẻ. Suy nghĩ xem phải làm gì đây, tôi tự nhủ: “Nếu tôi ra mắt, ông già nhất định sẽ cho bắt giữ và rất có thể bọn nô lệ sẽ giết tôi khi ông trông thấy tình trạng của con trai do chính tôi gây ra. Dù tôi có ra sức biện bạch thế nào chăng nữa thì ông cũng sẽ không tin là tôi vô tội. Tốt hơn hết là mình nên tránh mặt đi còn hơn là đưa thân ra hứng chịu lấy cơn thịnh nộ của ông ta.

Gần cái hầm đó có một cây to mà cành lá rậm rạp có thể che cho tôi được. Tôi trèo lên và chỉ vừa kịp tìm được một chỗ kín đáo thì tôi đã thấy con tàu đó cập vào chỗ đã neo đậu lần đầu.

Ống già cùng đám nô lệ xuống ngay tàu và bước tới phía hầm ngầm với vẻ mặt đượm nhiều niềm hy vọng, nhưng khi thấy mặt đất vừa bị đào xới, họ biến sắc, nhất là ông già. Họ dựng tấm đá lên và bước xuống các bậc thang. Họ cất tiếng gọi tên chàng thiếu niên, không có tiếng đáp. Họ sợ hãi bội phần, họ tìm kiếm và cuối cùng thấy cậu ta nằm thẳng trên giường, với con dao nhọn cắm giữa tim vì tôi đã không có can đảm rút nó ra. Nhìn thấy vậy, họ rú lên đau đớn. Tiếng rú của họ cũng làm lòng tôi quặn thắt. Ông già ngã xuống ngất lịm. Bọn đầy tớ khiêng ông lên khỏi hầm cho thoáng khí và đặt ngay dưới gốc cây trên đó tôi đang nm thở cố thu mình lại. Nhưng dù được chăm sóc tận tình, người cha khốn khổ này vẫn bằn bặt mê man làm cho bọn đầy tớ tưởng ông khó lòng qua khỏi.

Nhưng rồi cuối cùng ông cũng tỉnh lại sau cơn ngất lịm khá lâu. Rồi bọn nô lệ mang thi hài của con trai ông đã được mặc vào những tấm áo quần đẹp nhất. Và sau khi đào xong hố, họ đã từ từ trịnh trọng đặt cậu thiếu niên xuống đó. Ông già, được hai tên đầy tớ đỡ hai bên, mặt chan hoà nước mắt, là người đầu tiên ném một nắm đất xuống huyệt mộ, sau đó bọn đầy tớ đã san lấp đất đầy hố.

Xong việc chôn cất, tất cả những đồ đạc, lương thực đưới hầm đều được lấy lên đưa tất cả lên tàu. Ông già không còn đủ sức bước đi nữa, được đặt nằm lên cáng rồi tất cả lên tàu kéo buồm rời đảo trở về đất liền. Chỉ một thoáng sau, con tàu đã xa khỏi tầm mắt tôi”.

Ánh sáng ban ngày đã chiếu vào phòng ngự của Hoàng đế đất nước Ấn Độ buộc Scheherazade ngừng lời. Schahriar cũng đứng lên như mọi khi và cũng vẫn cùng một lý do như đêm trước, ông vẫn để hoàng hậu còn được sống và ở lại cùng với Dinarzade.

***


Hôm sau trước khi trời sáng, Dinarzade bảo chị:

- Chị yêu quí của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em nghe nốt chuyện của tu sĩ khổ hạnh thứ ba đi .

- Thế này em nhé - Scheherazade nói - Em vẫn phải nhớ là vị hoàng tử này vẫn đang kể cho Zobéide và cả các bạn của ành ta nghe chuyện mình. Anh ta kể tiếp như sau:

“Sau khi con tàu mang ông già và bọn đầy tớ của ông đi khuất, còn một mình tôi trên hòn đảo. Đêm, tôi ngủ trong hầm vẫn để ngỏ và ban ngày tôi đi dạo quanh hòn đảo và khi mỏi chân thì tìm chỗ thuận tiện để nghỉ ngơi cho đỡ mệt.

Tôi kéo dài cuộc sống buồn nản như thế khoảng một tháng trời. Vào những ngày cuối, tôi thấy là nước biển rút đi khá nhiều và hòn đảo thì lớn ra hơn trước, đường như đất liền tiến lại gần. Quả thật là mặt biển xuống thấp đến mức chỉ còn một quãng ngắn ngập nước ngăn cách giữa tôi và đất liền. Tôi lội qua, nước biển chỉ tới ngang bắp chân. Tôi bước đi thật lâu trên cát đến mệt lử người. Cuối cùng tôi đặt bước trên một vùng đất rắn chắc hơn và thấy mình đã rất xa biển. Bỗng nhìn thấy phía trước mặt một đám lửa lớn làm tôi hết sức vui mừng. Mình sẽ gặp một ai đó - tôi nhủ thầm - vì không thể là tự nhiên lại có đám lửa đó. Nhưng đi tới gần thì mới vỡ lẽ ra là cái đám màu đỏ mà tôi ngỡ là lửa thì lại là một toà lâu đài bằng đồng đỏ mà ánh sáng mặt trời chiếu vào làm cho ai từ đằng xa nhìn dễ bị nhầm là một đám cháy.

Tôi dừng lại và ngồi xuống bên cạnh toà lâu đài đó chẳng phải là vì muốn ngắm nhìn một kiến trúc tuyệt vời mà chỉ vì muốn ngồi nghỉ để lấy lại sức vì đã quá mệt nhọc, rã rời cả chân tay. Chưa kịp suy nghĩ gì về toà lâu đài mỹ lệ này thì tôi chợt nhìn thấy mười thanh niên chững chạc đường như đi đạo về. Nhưng điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là tất cả đều chột bên mắt phảl. Họ đi theo một ông già cao to có dáng điệu đáng kính.

“Tôi hết sức kinh ngạc sao lại gặp một lúc nhiều người chột đến thế mà lại cùng chột một bên mắt như nhau. Trong lúc tôi đoán già đoán non xem vì sao lại như vậy thì họ đi đến gần và tỏ ra mừng rỡ được thấy tôi. Sau những lời thăm hỏi chúc tụng đầu tiên, họ hỏi tôi vì sao lại đến đây. Tôi trả lời là câu chuyện của tôi khá dài và nếu họ chịu khó ngồi xuống thì sẽ kể cho nghe. Họ cùng ngồi xuống và tôi kể tất cả chuyện của tôi từ lúc tôi rời khỏi vương quốc cho tới lúc này. Câu chuyện làm họ ngạc nhiên hết sức.

Sau khi câu chuyện kết thúc, những nhà quí phái trẻ này mời tôi cùng vào lâu đài với họ. Tôi nhận lời. Chúng tôi đi qua rất nhiều phòng: phòng ngoài, phòng đợi, phòng trong, văn phòng... tất cả đều được bầy biện những đồ đạc lịch sự và rất sạch sẽ. Cuối cùng chúng tôi đi vào một phòng khách lớn trong đó kê theo vòng tròn mười chiếc bệ nhỏ màu xanh vừa dùng để ngồi, để nằm nghỉ ngơi ban ngày vừa để ngủ vào ban đêm. Ở giữa cái vòng tròn đó là một chiếc bệ thứ mười một cùng màu nhưng kê thấp hơn trên đó ông già mà tôi đã nhắc đến ngồi chễm chệ, còn mười người trẻ tuổi llgồi trên mười chiếc bệ kia.
Vì mỗi chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một người nên một chàng trẻ tuổi bảo tôi: - Bạn hãy ngồi vào tấm thảm ở giữa kia và không được hỏi han bất cứ điều gì liên quan tới chúng tôi, cả nguyên nhân vì sao chúng tôi đều bị chột bên mắt phải. Bạn hãy bằng lòng chỉ nhìn xem thôi và chớ nên để trí tò mò của mình đi quá xa.

Ông già không ngồi lâu. Ông đứng đậy và đi ra ngoài. Một lát sau, trở vào mang theo bữa ăn tối cho mười chàng trẻ tuổi, mỗi người đều ăn riêng phần của mình. Tôi cũng được chia một phần và ăn một mình như những người khác. Và cuối bữa thì cũng ông già đó đưa cho mỗi người một chén rượu.

Câu chuyện của tôi đối với họ kỳ lạ đến mức họ bắt tôi kể lại từ đầu bữa ăn và sau đó bàn luận rôm rả cho tới khuya. Một trong các chàng trai cho mọi người biết là đêm đã khuya và bảo ông già:

- Ông thấy đó, đã đến giờ đi ngủ thế mà ông chẳng đưa cho chúng tôi những gì cần thiết để chúng tôi làm tròn nhiệm vụ.
Nghe nói thế, ông già đứng lên và đi vào một căn buồng, đội trên đầu lần lượt mười chiếc chậu, cái nào cũng phủ vải xanh, mang ra đặt trước mặt mỗi chàng cùng một cây đuốc.

Họ mở nắp chậu trong đó có tro, than bột và nhọ nồi. Họ trộn lẫn ba thứ đó với nhau rồi bắt đầu chà sát và bôi lên mặt trông lem luốc đến phát khiếp lên. Sau khi bôi đen mặt mũi như thế rồi, họ cất tiếng khóc dùng tay đấm vào đầu vào ngực và không ngừng kêu: “Đây là kết quả của sự lười nhác và truỵ lạc của chúng ta?”.

Họ cứ làm như thế hầu như hết cả đêm. Rồi cuối cùng họ cũng dừng lại và ông già mang nước sạch đến cho họ rửa mặt mũi chân tay. Họ cũng cởi bỏ cả quần áo đã đen bẩn, mặc quần áo khác. Trông họ lúc này lại như trước chứ không phải là họ vừa làm những việc kỳ cục mà tôi đã được chứng kiến.

Thưa bà, xin bà hãy xét xem sự bực bội của tôi suốt thời gian đó. Hàng ngàn lân tôi đã toan phá vỡ sự câm nín mà những chàng trai đã áp đặt cho mình để hởi cho ra lẽ. Và tôi không sao mà nhắm mắt được trong quãng đêm còn lại.

Ngày hôm sau, mọi người thức dậy, ra ngoài hít thở không khí, tôi bảo họ:

- Thưa các ngài, tôi xin nói với các ngài là tôi phản bác luật lệ mà các ngài đề ra cho tôi chiều hôm qua. Tôi không sao mà tuân theo được. Các ngài đều là người khôn ngoan và thông minh rất mực, tôi biết rõ như vậy. Thế nhưng tôi lại thấy các ngài có những hành động mà ngoài những kẻ mất trí ra thì không ai làm như vậy. Dù cho tai hoạ nào đến với tôi chăng nữa cũng không ngăn được tôi hỏi các ngài vì sao lại tự mình bôi lem mặt mũi bằng tro, than và nhọ nồi.

Rồi vì sao mà tất cả các ngài đều chỉ còn một con mắt. Tất là phải có một nguyên nhân đặc biệt nào đó chứ. Vì vậy tôi xin các ngài hãy thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi, cho tôi được rõ mọi sự.

Trước những van nài khẩn thiết như thế, họ chẳng nói chẳng rằng, quá lắm họ chỉ bảo đó là những cái chẳng liên quan gì tới tôi cả, tôi có biết cũng chẳng có lợi ích gì vậy thì cứ nên ở yên thôi.

Ban ngày chúng tôi trao đổi chuyện nọ chuyện kia chẳng đâu vào đâu cả nhưng khi tối đến, sau khi ăn uống riêng rẽ, ông già lại mang những chiếc chậu màu xanh ra, các chàng trai lại tự bôi lên mặt mũi mình cho đen đủi nhem nhuốc, rồi khóc lóc, rồi tự đấm vào mình rồi kêu lên: “Đây là kết quả của sự lười nhác và sự ăn chơi trác táng của chúng ta?”. Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo họ cũng vẫn làm như thế.

Cuối cùng không sao ngăn nổi trí tò mò, tôi nghiêm chỉnh đề nghị họ hoặc là nói rõ cho tôi biết hoặc là chỉ đường cho tôi trở về cố hương vì tôi không thể ở lâu hơn với họ nữa khi mà đêm nào cũng phải chứng kiến cái cảnh tượng hết sức kỳ lạ mà không hiểu rõ nguyên nhân vì sao lại thế.

Một trong các chàng trai thay mặt cho cả bọn bảo tôi:

- Xin đừng ngạc nhiên về thái độ của chúng tôi đối với ngài, nếu cho đến lúc này chúng tôi không chịu nhượng bộ với những lời cầu xin năn nỉ của ngài. Đó chẳng qua đơn thuần chỉ vì tình bạn đối với ngài mà thôi. Chúng tôi muốn tránh cho ngài cái tình trạng đáng buồn như chúng tôi mà ngài đã thấy. Nếu ngài thật muốn giống như số phận khốn khổ như chúng tôi thì cứ nói, chúng tôi sẽ đáp ứng yêu cầu của ngài.

Tôi bảo họ là tôi sẵn sàng hứng chịu mọi hậu quả.

- Một lần nữa - Vẫn chàng đó bảo - Chúng tôi khuyên ngài là nên kiềm chế bớt tính tò mò của ngài lại. Nó sẽ làm cho ngài mất đi con mắt phải đó. - Cũng chẳng sao – Tôi nói - Tôi xin tuyên bố với các ngài là nếu tai hoạ đó xảy ra cho tôi, các ngài sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm và đó là đo chính tôi gây nên.

Chàng này còn cho tôi biết là khi tôi đã bị mất một mắt thì sẽ không còn được ở cùng với họ giả dụ là tôi có ý định đó vì số lượng đã đủ không thể thêm nữa. Tôi bảo họ là được ở cùng với họ đối với tôi là một điều mong ước, nhưng nếu cần thiết thì tôi cũng sẵn sàng phục tùng vì với bất cứ giá nào, tôi cũng mong họ đáp ứng cho điều tôi đòi hỏi.

Mười chàng trai thấy quyết định của tôi là dứt khoát liền bắt một con cừu giết chết, lột da, đưa cho tôi con dao mà họ đã dùng và bảo tôi:

Ngài hãy cầm lấy con đao này, nó sẽ giúp ích cho ngài trong trường hợp mà chúng tôi sẽ nói cho ngài biết sau. Bây giờ ngài hãy nằm vào trong tấm da cừu này để chúng tôi khâu kín lại. Rồi chúng tôi sẽ rút đi để lại mình ngài ở đây. Lúc đó một con chim to lớn khác thường mà người ta gọi là đại bàng sẽ xuất hiện trong không trung. Nó tưởng ngài là một con cừu sẽ đâm bổ xuống cắp lấy ngài và bay lên tận chín tầng mây. Nhưng xin chớ sợ, nó sẽ lại sà xuống mặt đất và đặt ngài xuống đỉnh một ngọn núi. Khi chạm đất, ngài hãy dùng con dao này rạch tấm da cừu mà chui ra. Con đại bàng trông thấy ngài sẽ hoảng sợ và bay đi mất, để ngài được tự do. Chớ có dừng lại đó mà phải đi, đi cho tới lúc đặt chân trước một lâu đài đồ sộ bao bọc bằng toàn những tấm vàng, những viên ngọc bích khổng lồ và nhiều thứ đá quí nguyên chất khác. Ngài tới cửa lâu đài và bước vào trong vì cửa luôn luôn để ngỏ. Tất cả chúng tôi ở đây cũng đều đã ở lâu đài đó. Tôi sẽ không nói với ngài là chúng tôi đã trông thấy gì và những gì đã xảy ra với chúng tôi tại đó. Ngài sẽ tự tìm hiểu lấy. Điều mà chúng tôi có thể nói với ngài là chúng tôi mỗi người đã phải trả giá bằng con mắt phải của mình, và cái hình phạt mà ngài đã chứng kiến là một việc bắt buộc phải làm vì chúng tôi đã ở cái lâu đài đó. Chuyện riêng của mỗi người chúng tôi chứa đầy những chi tiết phiêu lưu kỳ lạ mà người ta có thể viết nên một cuốn sách dày, nhưng lúc này chúng tôi không thể nói gì với ngài nhiều hơn”.

Kể đến đây, Scheherazade ngừng lời và nói với Hoàng đế đất nước Ấn Độ:

- Vì em gái thiếp hôm nay đánh thức thiếp dậy sớm hơn mọi khi, kể dài sợ phiền thánh thượng, nhưng kìa trời đã sáng đúng lúc buộc thiếp phải ngừng. Tính hiếu kỳ của hoàng đế Schahriar đã thắng lời thề độc của chính ông.

***

Dinarzade đêm nay không dậy sớm như đêm trước. Tuy vậy nàng vẫn gọi chị trước trời sáng:

- Nếu chị không ngủ nữa thì chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.

Scheherazade kể tiếp như sau : vẫn là người tu sĩ khổ hạnh nói với Zobéide:

- Thưa bà, một trong mười chàng trai chột mắt đã nói như thế với tôi mà tôi vừa kể bà nghe. Thế là tôi chui vào tấm da cừu, cầm theo con dao họ đã đưa. Và sau khi họ đã khâu kín tấm da có tôi ở bên trong, họ để tôi nằm lạĩ đó và rút về phòng khách. Con đại bàng lớn mà họ nói trước, chẳng lâu la gì đã bay tới, sà thẳng vào tôi, dùng móng quắp tội lên như quắp một con cừu và mang lên đỉnh một qua núi.

Khi cảm thấy mình đã nảm trên mặt đất, tôi không quên dùng con dao rạch tấm đa, chui la trước mặt con đại bàng khi nhìn thấy tôi nó vội vàng vỗ cánh bay đi mất. Con đại bàng này là một con chim có bộ lông trắng to lớn khủng khiếp. Cứ sức ấy thì nó có thể tha như chơi một con voi ở dưới đồng bằng đưa lên núi cao để xả thịt.

Nóng lòng muốn đi ngay tới lâu đài, không để mất thì giờ, tôi rảo bước và chỉ trong nửa ngày đã tới. Tôi có thể nói là dưới mắt tôi, toà lâu đài này còn lộng lẫy hơn nhiều như đã nghe tả.

Cổng mở, tôi đi vào một cái sân vuông rất rộng xung quanh có chín mươi chín cửa ra vào bằng gỗ đàn hương và trầm hương và một cửa bằng vàng không kể những cửa dẫn vào các cầu thang tráng lệ đưa lên những căn buồng phía trên và còn nhiều cánh cửa khác nữa mà tôi không nhìn thấy. Một trăm cửa ra vào mà tôi nói ở trên mở thong ra các khu vườn hoặc những kho tàng chứa đầy của cải hoặc các nơi san sát những thứ đồ lạ mắt.

Nhìn thấy trước mặt có một cánh cửa mở, tôi đi vào. Đó là một phòng khách rộng đã ngồi sẵn ở trong đó bốn lnươi thiếu phụ với sắc đẹp lộng lẫy mà ngay cả sự tưởng tượng cũng khó vượt qua. Họ ăn vận thật sang trọng. Vừa nhìn thấy tôi bước vào, họ đều nhất loạt đứng dậy và chẳng đợi tôi chào hỏi chúc tụng, họ tỏ về hất sức mừng rỡ, bảo tôi:

- Chàng trai tôn quí, xin chúc mừng, xin chúc mừng! Và một thiếu phụ thay mặt cho tất cả nói:

- Đã lâu rồi, chúng em chờ đợi một chàng trai hào hoa như chàng. Dáng điệu của chàng đã nói cho chúng em thấy là chàng có đầy đủ những đức tính mà chúng em mong ước và chúng em hy vọng rằng chàng không cho sự có mặt của chúng em là khó chịu và chẳng xứng với chàng.

Sau rất nhiều lần thoái thác, tôi đành phải ngồi vào chỗ bị ép buộc, chỗ cao hơn một chút so với chỗ ngồi của họ. Khi tôi tỏ ra vẻ miễn cưỡng thì họ bảo:

Đấy chính là chỗ của chàng, lúc này chàng là lãnh chúa, là ông chủ, là quan toà của chúng em. Và chúng em là nô lệ của chàng, sẵn sàng tuân theo những gì chàng ra lệnh.

Không có gì trên đời này, thưa bà, làm cho tôi ngạc nhiên hơn là thái độ nhiệt tình và hăng hái của những thiếu phụ xinh đẹp này, sẵn sàng phục vụ, đáp ứng tất cả những gì tôi yêu cầu. Một nàng đem nước nóng đến rửa chân cho tôi. Một nàng khác đội nước thơm lên hai bàn tay tôi. Các nàng này đem tới cho tôi quần áo mới để tôi thay, các nàng kia cho tôi ăn lót dạ, và các nàng còn lại thì tiến đến cốc cầm tay sẵn sàng rót cho tôi một thứ rượu tuyệt ngon. Tất cả công việc này được tiến hành nhịp nhàng, với một trật tự phối hợp một cách khéo léo và với phong cách làm tôi say mê. Tôi uống, tôi ăn... Sau đó tất cả xúm quanh tôi, đòi tôi,thuật lại chuyến đi của mình. Tôi kể chi tiết tất cả những việc xảy ra cho họ nghe và câu chuyện kéo đài mãi tới chập tối”.

Scheherazade ngừng lại ở đoạn này. Em nàng hỏi vì sao. Thế em không thấy trời sáng rồi ư, hoàng hậu đáp. Tại sao không gọi chị dậy sớm hơn? Hoàng đế đoán là người tu sĩ đến lâu đài có bốn chục thiếu phụ tuyệt đẹp như vậy chắc là hứa hẹn sẽ có nhiều chuyện xảy ra đáng được chú ý. Ông chẳng muốn tự tước cái thú được nghe tiếp của mình nên lại lui ngày xử hoàng hậu thêm nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách