Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Truyện Cổ Grim | Grim

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:12:01 | Chỉ xem của tác giả
Bảy con quạ

Ngày xưa, có một người sinh được bảy con trai, nhưng không có con gái, cầu mãi cũng chẳng được. Mãi về sau, vợ có mang, bác ta chứa chan hy vọng; quả nhiên đứa con ra đời là con gái. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng đứa con gái lại bé quá.

Vì thấy con yếu ớt, bố mẹ định làm phép rửa tội gấp cho con. Bố vội sai đứa con trai chạy ra suối lấy nước. Sáu đứa kia cũng đi theo. Bảy đứa tranh nhau múc nước, cái bình lăn xuống nước. Chúng không biết làm thế nào, không đứa nào dám về nhà. Thấy con mãi không về, bố sột ruột, nói:

- Mấy thằng ranh lại mải chơi quên múc nước rồi.

Bố sợ con gái nhỡ chết không được chịu phép rửa tội, phát cáu, rủa con:

- Ước gì cả bảy thằng hóa ra quạ tất.

Vừa nói buông lời thì nghe thấy tiếng vỗ cánh trên đầu và bảy con quạ đen như than bay liệng. Bố đã trót rủa rồi, hối lại không kịp nữa.

Hai vợ chồng buồn vì mất bảy đứa con trai, nhưng được an ủi vì thấy đứa con gái quí mỗi
ngày một khỏe lên và đẹp ra. Mãi sau cô nghe thấy láng giềng xì xào rằng cô đẹp thật, nhưng vì cô mà bảy anh cô phải khổ, thì cô mới biết rằng cô có anh. Cô buồn rầu, hỏi bố mẹ xem là mình có anh không và các anh nay ra sao. Bố mẹ không thể giấu con được nữa, nói tránh ra rằng đó là lòng trời, và cô sinh ra chẳng có tội gì.

Nhưng cô em hàng ngày vẫn bị lương tâm cắn rứt và quyết tâm giải thoát cho các anh khỏi bị phù phép. Cô bứt rứt lắm, trốn nhà ra đi khắp nơi mong tìm ra tung tích các anh để giải thoát các anh bằng mọi cách. Cô chỉ mang theo một chiếc nhẫn nhỏ là vật kỷ niệm của bố mẹ, một cái bánh mì để ăn, một bình nước nhỏ để uống và một chiếc ghế con để ngồi cho đỡ mỏi.

Cô đi mãi đi mãi, đi đến tận cùng thế giới. Cô đi tới mặt trời, nhưng mặt trời nóng quá. Cô vội rời mặt trời và chạy đến mặt trăng, nhưng mặt trăng lạnh lẽo quá. Cô vội quay gót, đi tới các vì sao. Các vì sao tiếp cô niềm nở, vì sao nào cũng ngồi trên một cái ghế con. Sao Mai đứng dậy, cho cô một cái xương nhỏ và bảo cô:

- Không có cái xương nhỏ này thì con không thể mở được núi thủy tinh là chỗ ở của các anh con.

Cô bé cầm lấy cái xương, lấy khăn bọc cẩn thận, rồi đi mãi, đến núi thủy tinh. Cửa núi đóng. Cô cởi khăn tay ra để lấy cái xương, nhưng không thấy nữa. Thế là cô đã đánh mất món quà của vì sao tốt bụng. Làm thế nào bây giờ? Cô muốn cứu các anh mà chìa khóa núi lại mất rồi. Cô bèn rút dao ra, cắt mẩu ngón tay đút vào lỗ khóa. Cô bước vào, thấy một người lùn đi ra, hỏi:

- Con đến tìm gì ở đây?

- Con tìm các anh con là bảy con quạ.

- Bây giờ các ông quạ đi vắng, nhưng nếu con muốn chờ các ông về thì con vào đây.

Người lùn sắp bữa ăn tối cho bảy ông quạ vào bảy cái đĩa nhỏ và bảy cái cốc nhỏ. Cô bé ăn ở mỗi đĩa một miếng và uống ở mỗi cốc một hớp. Cô thả cái nhẫn mang theo vào cốc cuối cùng. Chợt cô nghe thấy trên không có tiềng vỗ cánh. Người lùn liền nói:

- Các ông quạ đã về đó.

Các ông quạ về thật. Mỗi ông đi tìm cốc đĩa của mình để ăn uống. Hết ông nọ đến ông kia hỏi:

- Ai đã ăn ở đĩa của tôi? Ai đã uống cốc của tôi? Nhất định có người đụng đến cốc này.

Khi con quạ thứ bảy uống hết cốc, thì nó thấy cái nhẫn. Nó nhìn chằm chằm và nhận ra cái nhẫn của bố mẹ, bèn nói:

- Cầu Chúa cho em chúng ta ở đây thì chúng ta được giải thoát.

Quạ vừa nói xong, cô bé đang đứng nghe sau cửa liền bước vào. Tức thì đàn quạ hóa ra người. Anh em ôm chặt lấy nhau hôn nhau mãi, rồi vui vẻ cùng nhau lên đường về nhà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:12:33 | Chỉ xem của tác giả
Nước trường sinh

Xưa có một ông vua ốm thập tử nhất sinh, ai cũng cho là không thể sống được nữa. Ba con trai thấy vậy, buồn lắm.

Một hôm, ba người đang đứng trong vườn khóc, thì thấy một ông cụ hiện đến hỏi vì sao mà buồn. Ba người thưa với cụ rằng vua cha ốm nặng thuốc nào cũng không chữa khỏi, thế nào cũng chết. Cụ nói:

- Lão biết một thứ nước trường sinh. Nếu nhà vua được nước ấy mà uống thì sẽ khỏi. Nhưng thứ nước ấy khó tìm lắm.

Người con cả nói:

- Nhất định tôi đi tìm cho bằng được.

Hoàng tử bèn đến xin phép vua đi tìm nước trường sinh, vì chỉ có nước ấy mới chữa được vua khỏi. Vua phán:

- Ta thà chết còn hơn để con phải nguy hiểm!

Nhưng Hoàng tử nằn nì mãi, vua cha cũng phải chấp thuận. Chàng nghĩ bụng: "Nếu ta lấy được nước này về, cha ta sẽ yêu ta nhất và sẽ nhường ngôi cho ta". Thế là chàng lên đường.

Chàng ruổi ngựa đi mãi và gặp một người lùn. Người đó hỏi chàng đi đâu mà vội thế. Chàng xẵng giọng đáp:

- Đồ lùn ngu xuẩn không việc gì đến mày!

Rồi chàng lại đi.

Ngươi lùn tức giận, phù phép hại chàng. Chàng đi vào khe núi rất hẹp, càng tiến sâu núi càng xiết chặt, không đi được nữa. Quay ngựa cũng không được, xuống yên cũng không xong, chàng đành ngồi nguyên chỗ. Ở nhà, vua cha mong đợi mãi mà không thấy con trở về.

Hoàng tử thứ hai lại tâu vua:

- Thưa cha, cha để con đi tìm nước trường sinh.

Chàng nghĩ bụng anh chết rồi thì bây giờ ngôi báu sẽ về mình. Trước vua không cho, nhưng sau cũng đành phải chiều ý con. Chàng cũng đi theo con đường của anh và cũng gặp người lùn. Người ấy cũng giữ chàng lại và hỏi chàng đi đâu mà vội vã thế? Chàng đáp:

- Đồ lùn oát con, không việc gì đến mày!

Rồi chàng đi thẳng, không ngoảnh cổ lại.

Người lùn cũng lại phù phép hại chàng. Cũng như anh, chàng lại đi vào khe núi, không tiến thoái được nữa. Đó là hình phạt đối với kẻ kiêu ngạo.

Thấy hai anh không về, Hoàng tử thứ ba cũng lại xin phép vua cha đi tìm nước trường sinh. Cuối cùng, vua cha đành để cho đi. Chàng cũng gặp người lùn và khi người ấy hỏi chàng đi đâu mà vội vã thế, thì chàng dừng ngựa lại, ôn tồn đáp:

- Cha tôi hấp hối, tôi đi tìm nước trường sinh.

Người lùn hỏi:

- Chàng có biết ở đâu không?

- Thưa không ạ.

- Vì chàng cư xử lễ độ, không kiêu căng như hai anh chàng nên ta mách chàng tìm nước trường sinh. Trong sân một tòa lâu đài bị phù phép, có một cái giếng phun nước trường sinh. Ta sẽ cho chàng một que sắt và hai cái bánh để giúp chàng vào. Chàng lấy que sắt đập ba cái vào cửa sắt thì cửa sẽ mở tung ra. Ở trong có hai con sư tử há mồm đứng rình. Chàng vứt cho mỗi con một cái bánh thì nó yên. Rồi mau mau đi lấy nước trường sinh trước khi chuông đánh
mười hai tiếng, vì nếu không thì cửa sập lại, chàng sẽ bị giam ở trong.

Hoàng tử cám ơn người lùn, lĩnh que và bánh rồi lên đường. Chàng đến nơi và thấy mọi việc xảy ra đúng như lời người lùn đã bảo. Chàng lấy que sắt đập ba cái thì cửa mở tung và sau khi ném bánh cho sư tử ăn, chàng vào lâu đài.

Chàng vào một phòng lớn trang hoàng rực rỡ, có những vị hoàng tử bị phù phép đang ngồi. Chàng tháo nhẫn đeo ở ngón tay các vị ấy và lấy một chiếc bánh và một thanh kiếm ở đó.
Trong một phòng khác, chàng gặp một nàng công chúa đẹp tuyệt vời. Khi trông thấy chàng, nàng mừng rỡ hôn chàng và bảo chàng biết rằng chàng đã giải thoát cho nàng khỏi phù phép.
Nàng hẹn chàng một năm nữa sẽ đến gặp nàng, bấy giờ sẽ làm lễ cưới, và nàng sẽ dâng ngôi cho chàng. Nàng trỏ cho chàng chỗ có nước trường sinh và khuyên chàng lấy cho mau trước khi nghe thấy chuông đánh mười hai tiếng.

Chàng đi nữa thì đến một phòng có một chiếc giường rất đẹp, mới trải khăn. Chàng đã mệt nhoài, nên muốn nghỉ một lúc. Chàng nằm xuống rồi ngủ mất. Chàng tỉnh dậy thì đồng hồ đánh mười một giờ ba khắc. Chàng vùng dậy, chạy đến giếng. Ở đó có một cái bình, chàng lấy cốc múc nước rồi vội vã ra về. Khi chàng đến cửa thì nghe thấy mười hai tiếng chuông, rồi cửa sập mạnh đến nỗi chàng mất một miếng gót chân.

Nhưng chàng đã lấy được nước thần rồi nên mừng lắm lên đường về. Chàng lại qua chỗ người lùn. Thấy chàng mang thanh kiếm và chiếc bánh, người ấy nói: “Chàng đã lấy được những bảo bối rất quí: kiếm có thể phá tan nhiều đạo quân, còn bánh thì ăn không bao giờ hết”.

Nhưng Hoàng tử muốn các anh cùng về để trông thấy mặt cha, bèn nói:

- Bác lùn thân mến ơi, bác có biết bây giờ hai anh tôi ở đâu không? Hai anh tôi đi tìm nước trường sinh trước tôi mà chưa thấy về.

Người lùn nói:

- Ấy chỉ vì họ kiêu ngạo nên ta phù phép khiến họ bị kẹp giữa hai quả núi đấy.

Hoàng tử van lạy mãi, người ấy mới chịu tha cho hai anh, nhưng người ấy dặn chàng:

- Chàng phải đề phòng cẩn thận, họ xấu bụng lắm đấy.

Chàng gặp hai anh, vui mừng khôn xiết, kể cho hai anh biết chuyện mình tìm thấy nước trường sinh, lấy được một cốc đầy, giải thoát cho một nàng công chúa xinh đẹp; nàng sẽ đợi chàng một năm để cưới và dâng chàng ngôi báu.

Ba anh em cùng đi, đường về qua một nước đang bị cảnh chiến tranh đói kém. Vua nước đó cho là nhân dân cùng khổ thế thì phen này đến mất hết cơ đồ sự nghiệp. Hoàng tử đến yết kiến ông vua ấy, cho mượn chiếc bánh để toàn dân ăn no, thanh kiếm để dẹp tan quân giăc, nhân dân yên hưởng thái bình. Sau đó Hoàng tử lấy lại chiếc bánh và thanh kiếm,
rồi ba anh em lại lên đường. Ba anh em đi qua hai nước nữa cũng bị cảnh chiến tranh và
nạn đói. Hoàng tử cho vua các nước ấy mượn chiếc bánh và thanh kiếm, thế là cứu được ba nước.

Sau đó, ba anh em lên thuyền vượt biển về nước. Trong khi đi, hai ngươi anh bàn nhau: "Thằng út nó lấy được nước trường sinh về chứ không phải bọn ta. Cha sẽ cho nó nối ngôi,
còn chúng mình thì mất phần". Hai tên sinh lòng đố kỵ bàn mưu hãm hại em. Chúng chờ cho em ngủ thật say, rót nước trường sinh ở bình của em ra, đổ nước bể thay vào.

Tới nhà, Hoàng tử út vội lấy bình nước dâng cha uống cho khỏi bệnh. Vua vừa uống vài ngụm nước bể mặn chát thì bệnh lại tăng lên. Vua đang rền rĩ, thì hai con lớn đến tố cáo vu cho em mưu đầu độc cha. Chúng nói là chúng đã lấy được nước trường sinh thật mang về đưa cha. Cha vừa uống nước đó thì thấy khỏi bệnh ngay và lại khỏe như thời còn trẻ. Hai anh chế nhạo em:

- Chính mày đi lấy nước trường sinh về. Mày có công, còn chúng tao được hưởng. Lẽ ra mày phải khôn ngoan tỉnh táo hơn: khi qua bể, mày ngủ say, chúng tao lấy trộm của mày đấy. Sang năm, một trong chúng tao sẽ đến tìm công chúa đẹp kia. Nhưng mày khôn hồn thì đừng có nói lộ ra; cha chẳng tin mày đâu. Nếu mày hở ra một câu thì mày sẽ toi mạng. Muốn sống thì phải câm mồm.

Vua ngỡ là chính con út hại mình, nên tức giận, họp triều định quyết định xử bắn con một cách bí mật. Một thị vệ được phái đi săn cùng hoàng tử. Hoàng tử không nghi ngờ gì cả. Khi chỉ còn hai người trong rừng, Hoàng tử thấy y có vẻ buồn rầu, bèn hỏi:

- Sao ngươi có vẻ buồn thế?

- Kẻ bầy tôi không thể nói được.

- Ngươi cứ việc nói, ta lượng thứ cho.

- Trời ơi, hoàng thượng truyền cho kẻ hạ thần bắn Hoàng tử đấy.

Hoàng tử sợ hãi nói:

- Ngươi hãy để ta sống. Ngươi hãy mặc áo bào của ta để ta mặc áo của ngươi.

- Vâng, vâng, kẻ hạ thần không nỡ bắn hoàng tử.

Hai người đổi áo cho nhau. Người thị vệ về nhà, còn Hoàng tử trốn vào rừng.

Một thời gian sau, có ba xe tải nặng vàng ngọc đến cung vua tạ ơn hoàng tử thứ ba đã giúp ba ông vua thanh kiếm để dẹp giặc và chiếc bánh để cứu nhân dân khỏi chết đói.
Vua cha nghĩ: "Có lẽ con ta không có tội tình gì", rồi bảo quần thần:

- Ước gì con ta còn sống! Ta tiếc rằng đã sai giết nó.

Người thị vệ thưa:

- Tâu hoàng thượng, Hoàng tử còn sống. Kẻ hạ thần đã không đang tâm giết hoàng tử.

Rồi y kể đầu đuôi câu chuyện cho vua nghe. Lòng vua nhẹ hẳn đi. Ngài cho loan báo khắp các nước cho phép con về và hứa sẽ tha tội cho.

Trong khi đó công chúa đã sai làm trước cung điện của nàng một con đường lát vàng sáng nhoáng. Nàng dặn quần thần rằng ai cưỡi ngựa đi thẳng vào con đường ở giữa thì đúng là chồng thật, cứ để người ấy vào. Còn người nào đi bên cạnh mà vào thì không phải là người chồng thật, đừng cho vào.

Thời gian một năm sắp qua, Hoàng tử anh cả vội vã lên đường để đến nhận là mình đã cứu công chúa, hòng lấy công chúa và lên ngôi vua. Y ruổi ngựa đi. Tới trước cung điện, y thấy con đường lát vàng đẹp đẽ, nghĩ thầm: "Giẫm lên đó thì tiếc quá". Y bèn tránh cho
ngựa đi sang mé bên phải. Nhưng khi y đến cổng thì quân hầu bảo y không phải là người chồng mà công chúa chờ đợi, và không cho vào.

Liền ngay đó, Hoàng tử thứ hai đến. Ngựa vừa đặt chân lên con đường vàng thì y nghĩ là không nên làm hỏng con đường đẹp thế. Y cho ngựa đi sang bên trái. Khi y đến cổng, quân hầu bảo y không phải là người chồng mà công chúa chờ đợi, xin mời quay về ngay.

Thời gian một năm qua, Hoàng tử thứ ba ra khỏi rừng để đi tìm người yêu, mong tìm nguồn an ủi bên nàng. Chàng ra đi chỉ nghĩ đến nàng, tới gần cung điện mà cũng không để ý đến con đường lát vàng. Vì vậy chàng cho ngựa đi ngay giữa đường, tới cổng thì cửa mở toang.

Công chúa mừng rỡ đón chàng, nhận chàng là ân nhân và là chủ đất nước.

Lễ cưới linh đình. Sau đó, nàng báo cho chàng biết là vua cha đang gọi chàng về tha tội cho chàng. Chàng về cung, dự định sẽ tâu để vua biết là hai anh đã lừa chàng thế nào. Tuy vậy, chàng vẫn giữ kín chuyện.

Vua cha muốn làm tội hai người anh, nhưng họ đã xuống tàu vượt bể, không bao giờ về nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:13:04 | Chỉ xem của tác giả
Chim ưng thần

Ngày xưa có một ông vua trị vì vào thời nào, tên là gì, tôi không nhớ rõ nữa. Vua không có con trai, chỉ có độc một cô con gái, luôn luôn đau ốm, không thầy thuốc nào chữa khỏi được. Vua được nghe lời tiên tri là công chúa ăn táo có thể khỏi được. Vua liền cho báo trong khắp nước là kẻ nào dâng công chúa táo ăn và khỏi bệnh thì sẽ được lấy nàng và lên ngôi vua.

Một bác nông dân có ba con trai cũng được tin ấy. Bác liền bảo người con đầu:

- Con hãy lên buồng kho, lấy một giỏ đầy táo ngon đỏ ối mà mang đến triều đình. Có thể công chúa ăn táo và khỏi bệnh, con được lấy nàng rồi lên ngôi vua.

Chàng trai làm như vậy và lên đường ra đi.

Chàng đi được vài giờ thì gặp một người nhỏ bé, tóc hoa râm, hỏi chàng mang gì trong giỏ. Chàng Unrich – tên chàng là Unrich - đáp:

- Tôi mang chân ếch.

Người nhỏ bé liền bảo:

- Ừ được, cứ như thế!

Rồi Unrich lại đi, đi mãi đến cung điện, báo là chàng mang táo đến, công chúa ăn vào sẽ khỏi bệnh. Vua nghe nói mừng lắm, cho đòi Unrich vào. Nhưng trời ơi! chàng mở giỏ ra thì chẳng thấy táo mà chỉ thấy chân ếch hãy còn ngọ ngoậy. Vua nổi giận đuổi chàng về. Chàng về nhà kể lại cho bố nghe đầu đuôi câu chuyện. Bố liền sai con thứ hai tên là Damuen đi, nhưng sự việc xảy ra cũng đúng như với Unrich. Chàng cũng lại gặp một người nhỏ bé, tóc hoa râm, hỏi chàng mang gì trong giỏ, Damuen đáp:

- Tôi mang lông lợn.

Người nhỏ bé tóc hoa râm đáp:

- Ừ được, cứ như thế!

Chàng đến cung điện, bảo là chàng mang táo đến, công chúa ăn vào sẽ khỏi bệnh. Người ta không để chàng vào và bảo là đã có một tên vào đây giễu cợt họ. Damuen kêu nài mãi, quả quyết là mình có thứ táo ấy, phải để cho chàng vào. Sau cùng người ta cũng tin chàng, dẫn chàng vào chầu vua. Nhưng khi chàng mở giỏ ra thì chỉ có lông lợn. Vua tức giận vô cùng, sai đuổi Damuen ra. Chàng về nhà kể lại cho bố nghe đầu đuôi câu chuyện. Người con út ở nhà chỉ gọi là thằng Ngốc Hanxơ liền hỏi bố là mình mang táo đi có được không. Bố bảo:

- Ừ, thứ mày mới thật là đúng nhỉ! Đến mấy đứa tinh khôn còn chẳng làm nên trò trống gì thì mày làm gì được?

Người con út không chịu nói:

- Ấy bố ơi! Con cũng muốn đi!

Người bố liền bảo:

- Cút đi, mày phải đợi đến lúc nào tinh khôn hơn đã.

Rồi bác quay lưng đi. Nhưng người con kéo áo bố nói:

- Ấy bố ơi! Con cũng muốn đi!

Người bố đáp bằng một giọng cáu kỉnh:

- Ừ, thôi được, mày đi đi, chắc là mày lại trở về mà thôi.

Cậu út mừng quá, nhảy lên. Bố lại bảo:

- Chà, mày như thằng điên, mỗi ngày một ngốc thêm.

Hanxơ cũng chẳng động lòng, vẫn mừng mừng rỡ.

Lúc ấy trời đã tối, chàng nghĩ bụng đợi đến sáng mai, không đến cung điện ngay hôm nay. Đến đêm chàng nằm trên giường không ngủ được. Tuy không ngủ được ngay, chàng cũng mơ tới cô thiếu nữ xinh đẹp, nhưng tòa lâu đài, vàng bạc và nhiều thứ khác nữa.

Sáng hôm sau, chàng lên đường và gặp ngay người bé nhỏ, lẻo khoẻo, mặc quần áo xám trắng, hỏi chàng mang gì trong giỏ. Hanxơ đáp là chàng có táo, công chúa ăn vào sẽ khỏi. Người nhỏ bé liền đáp:

- Ừ, cứ như thế!

Nhưng ở cung điện người ta nhất định không cho Hanxơ vào vì đã có hai tên đến xưng là mang táo lại thì một đứa mang chân ếch, còn một đứa mang lông lợn. Nhưng Hanxơ van xin mãi, nói là quả thật chàng không mang đến chân ếch, mà mang đến táo ngon nhất nước. Chàng ăn nói đứng đắn, lính cánh cổng cho là chàng không nói dối, bèn để cho chàng vào. Mà họ làm vậy là đúng, vì khi chàng mở giỏ trước mặt vua thì táo vàng hiện ra. Vua mừng rỡ, cho mang đến công chúa ngay và đợi người đến báo tin kết quả ra sao. Chỉ một lát sau, có người mang tin lại. Nhưng kìa, ai kia kìa? Chính là công chúa. Nàng vừa ăn táo thì khỏi bệnh liền, nhảy ở giường xuống. Không ai tả được hết nỗi vui mừng của nhà vua.

Nhưng giờ vua lại không muốn gả công chúa cho Hanxơ. Vua bảo chàng trước hết phải đóng một chiếc thuyền, đi trên cạn nhanh hơn cả đi dưới nước. Hanxơ nhận điều kiện ấy, về nhà kể lại sự việc xảy ra. Bố liền bảo Unrich vào rừng đóng một chiếc thuyền như vậy. Chàng làm việc rất cần cù, vừa làm vừa huýt sáo. Đến giữa trưa, trời đứng bóng, có một người bé nhỏ tóc hoa râm đến hỏi chàng làm gì. Unrich đáp:

- Tôi làm bay thợ nề.

Người bé nhỏ tóc hoa râm bảo:

- Ừ được, cứ như thế!

Đến tối, Unrich tưởng là mình đã đóng xong chiếc thuyền nào ngờ lúc ngồi vào chỉ toàn bay thợ nề. Hôm sau Damuen vào rừng. Nhưng sự việc xảy ra cũng y như đối với Unrich.

Đến ngày thứ ba, chàng Ngốc Hanxơ đi vào rừng. Chàng làm thật chăm chỉ, cả khu rừng vang tiếng đập chan chát, chàng vừa làm vừa hát và huýt sáo vui vẻ. Đến giữa trưa, lúc trời nóng bức nhất, người nhỏ bé lại đến hỏi chàng làm gì. Chàng đáp là chàng đang đóng một chiếc thuyền đi trên cạn nhanh hơn cả đi dưới nước, làm xong sẽ cưới công chúa làm vợ. Người nhỏ bé bảo:

- Ừ, cứ như thế!

Chiều tối, khi mặt trời lặn, chàng Hanxơ đã làm xong chiếc thuyền, mái chèo và các bộ phận khác. Chàng ngồi vào thuyền chèo đến kinh thành. Chiếc thuyền đi nhanh như gió.

Vua thấy chiếc thuyền từ đằng xa, nhưng vẫn không muốn gả con gái cho Hanxơ. Vua lại bảo chàng phải chăn một trăm con thỏ từ sớm tinh mơ đến tối mịt, nếu có một con trốn thì không được lấy công chúa. Chú Hanxơ vui lòng nhận lời và ngay hôm sau, cùng cả đàn thỏ vào bãi hoang. Chàng chăm chú canh không để con nào trốn cả.

Một vài giờ trôi qua, một con hầu ở cung điện đến bảo chàng Hanxơ phải đưa ngay một con thỏ vì có khách. Chàng Hanxơ nhận ngay ra mưu kế, chàng từ chối không chịu đưa thỏ, bảo là vua có thể đợi đến mai hãy mời khách món thỏ hồ tiêu. Con hầu không chịu thôi, quay ra khóc lóc. Chàng Hanxơ liền bảo là nếu công chúa thân chinh lại, chàng sẽ đưa cho một con thỏ. Con hầu về cung điện báo, công chúa thân chinh lại.

Trong khi ấy người bé nhỏ lại đến gặp Hanxơ, hỏi chàng đang làm gì. Chàng đáp là chàng đang phải chăn một trăm con thỏ, không để con nào trốn mất, làm được sẽ lấy công chúa và làm vua. Người bé nhỏ bảo:

- Được! Đây có cái còi, có con nào chạy trốn, cứ thổi còi thì nó lộn lại.

Khi công chúa đến, Hanxơ đặt một con thỏ vào tạp dề của nàng. Vua ngạc nhiên khi thấy Hanxơ đã chăn nổi một trăm con thỏ, không con nào trốn khỏi. Nhưng vua nhất định không chịu gả con gái cho Hanxơ, bắt chàng phải mang đến dâng vua một cái lông đuôi chim ưng thần đao.

Chú Hanxơ lên đường rảo bước. Đến tối, chàng đến một tòa lâu đài. Chàng xin ngủ lại, vì thời
ấy chưa có quán trọ. Ông chủ lâu đài vui vẻ nhận lời và hỏi chàng đi đâu. Chàng Hanxơ đáp:

- Tôi đến chỗ chim ưng thần.

- À, đến chỗ chim ưng thần à! Người ta kể lại là chim ấy biết tất cả mọi việc. Tôi mất chiếc chìa khóa hộp tiền bằng sắt. Chàng làm ơn hỏi hộ cho tôi chìa khóa ở đâu nhé!

Chàng Hanxơ đáp:

- Được, chắc chắn tôi sẽ làm.

Sáng hôm sau, chàng lại lên đường đi tới một tòa lâu đài khác, chàng ngủ lại ở đấy. Khi người ở lâu đài biết là chàng định đi đến chỗ chim ưng thần, họ nói là có cô con gái bị bệnh, chữa đủ mọi cách mà không khỏi, họ nhờ chàng làm ơn hỏi hộ chim ưng xem phải làm gì để chữa cô khỏi. Chú Hanxơ nhận làm việc ấy rồi lại lên đường đi.

Chàng đi tới một con sông, không có đò ngang chỉ có một người to lớn chuyển mọi người qua. Người ấy hỏi Hanxơ đi đâu, chàng đáp:

- Đến chỗ chim ưng thần.

Hắn dặn:

- Nếu chàng có gặp chim, nhờ hỏi hộ tôi tại sao tôi cứ phải chuyển tất cả mọi người qua sông.

Chàng Hanxơ đáp:

- Chà được thôi. Tôi nhất định phải làm.

Hắn đặt chàng lên vai đưa chàng qua.

Chàng Hanxơ đi mãi đến nhà chim ưng thần, nhưng nó đi vắng, chỉ có vợ ở nhà. Vợ chim hỏi chàng muốn gì. Chàng kể lại hết đầu đuôi: Chàng muốn có một chiếc lông đuôi chim ưng thần; ở lâu đài nọ, người ta đánh mất chiếc chìa khóa hộp tiền mới, chàng định hỏi chim ưng thần chìa khóa ở đâu, ở lâu đài khác, có cô gái bị bệnh, chàng muốn biết cái gì chữa cô khỏi được; gần đó, có con sông và một người phải đưa người qua, chàng cũng muốn biết tại sao hắn phải đưa mọi người sang.

Vợ chim ưng thần bảo:

- Này, anh bạn ơi, không ai nói chuyện với chim ưng thần được đâu. Nó ăn thịt tất cả mọi người. Nhưng nếu anh muốn thì anh cứ chui vào nằm dưới giường nó. Đến đêm khi nó ngủ say, anh có thể vươn tay ra mà giật lấy chiếc lông đuôi. Còn những điều anh muốn biết thì để tôi sẽ hỏi cho.

Chàng Hanxơ đồng ý, chui vào nằm dưới giường. Đến tối, chim ưng thần về. Nó vào đến buồng thì bảo vợ ngay:

- Mình này, ta ngửi thấy mùi thịt người.

Vợ đáp:

- Đúng đấy. Hôm nay có một người đến, nhưng nó đi rồi.

Rồi vợ chim ưng thần không nói gì nữa.

Giữa đêm, chim ưng thần đang ngáy o o thì chàng Hanxơ đưa tay ra giật một chiếc lông đuôi. Chim ưng thần giật mình bảo:

- Mình này, ta ngửi thấy mùi thịt người. Mà hình như có kẻ giật lông đuôi ta.

Vợ chim ưng liền bảo:

- Đúng là mình mê ngủ rồi. Tôi đã bảo mình là hôm nay có một người đến, nhưng nó đi rồi. Thôi thì hắn kể đủ thứ. Nào là một tòa lâu đài nọ, người ta đánh mất hộp tiền mới, không tìm thấy nữa.

Chim ưng thần nói:

- Thật là đồ ngu. Chìa khóa ở trong cái nhà kho để củi, dưới một đống củi sau cửa ấy.

- Hắn lại còn bảo là ở lâu đài khác, có đứa con gái bị bệnh, không biết cách nào chữa được.

Chim ưng thần nói:

- Thật là ngu. Dưới cầu thang trong hầm có một con cóc lấy tóc của cô ấy làm tổ. Nếu cô ấy lấy lại được tóc thì khỏi bệnh.

- Rồi hắn lại bảo là ở một nơi có con sông, và một người phải mang tất cả mọi người qua.

Chim ưng thần nói:

- Chà, thằng ngu! Hắn chỉ việc đặt một người xuống giữa dòng thì tự khắc không phải mang ai qua nữa.

Sáng sớm, chim ưng thần lại ra đi. Chàng Hanxơ chui ở gầm giường ra, cầm một chiếc lông đẹp. Chàng lại nghe thấy hết cả mọi điều chim nói về chiếc chìa khóa, cô con gái và người đàn ông. Vợ chim ưng thần kể lại tất cả cho chàng nghe lần nữa để chàng khỏi quên.

Sau đó, chàng lên đường về nhà. Trước tiên, chàng đến chỗ người ở bên sông. Hắn hỏi ngay chàng chim bảo gì. Chàng bảo hắn mang chàng qua đã rồi sẽ nói. Hắn mang chàng qua sông. Chàng liền bảo hắn chỉ việc đặt một người xuống giữa dòng, thì tự khắc không còn phải mang ai qua nữa. Hắn mừng rỡ lắm, bảo Hanxơ muốn mang chàng qua sông rồi lại mang về để tỏ lòng biết ơn. Chàng từ chối, bảo là không muốn phiền hắn, chàng đã hài lòng rồi.

Rồi chàng lại đi.

Chàng đi đến lâu đài có cô con gái ốm. Chàng cõng cô trên vai, vì cô không đi được, và mang cô xuống cầu thang dưới hầm. Chàng lấy cái tổ cóc ở dưới bậc cuối đặt vào tay cô; cô nhảy từ trên vai chàng xuống, chạy lên thang trước chàng và khỏi hẳn. Bố mẹ cô mừng lắm, cho chàng Hanxơ vàng bạc, chàng muốn gì cho nấy.

Đến lâu đài sau, chàng đi ngay vào nhà kho để củi, tìm thấy dưới đống củi sau cửa đúng ngay chiếc chìa khóa vàng và mang lên cho chúa lâu đài. Ông ta mừng rỡ vô cùng, thưởng cho Hanxơ nhiều vàng trong hộp, lại cho thêm đủ thứ, như bò sữa, cừu, dê.

Chàng Hanxơ đến chỗ nhà vua với tất cả những thứ ấy nào là tiền, là vàng, là bạc, nào là bò, là cừu, là dê. Vua hỏi chàng lấy ở đâu ra tất cả của cải ấy. Chàng cho biết là chim ưng thần bảo ai muốn lấy bao nhiêu cũng cho. Vua nghĩ bụng, mình cũng cần đến, bèn lên đường đi đến chỗ chim ưng thần. Nhưng khi vừa đến bến sông, thì vua đúng là người đầu tiên đến từ khi Hanxơ đi qua. Người ấy đặt vua xuống giữa dòng rồi đi mất. Vua bị chết đuối.

Chàng Hanxơ cưới công chúa và lên ngôi vua.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:13:39 | Chỉ xem của tác giả
Bạch Tuyết và Hồng Hoa

Ngày xưa có một người đàn bà góa sống cô quạnh trong một túp lều gianh. Trước cửa là một cái vườn có hai cây hoa hồng, một cây ra hoa đỏ, một cây ra hoa trắng. Bà có hai cô con gái, trông đẹp như hai cây hồng. Vì vậy bà đặt tên hai con là Bạch Tuyết và Hồng Hoa.

Hai cô bé rất ngoan ngoãn, hay làm, trần gian thực hiếm có. Bạch Tuyết dịu dàng, thùy mị hơn Hồng Hoa. Hồng Hoa hay chạy nhảy ngoài đồng, hái hoa, bắt bướm. Còn Bạch Tuyết thì luôn ở nhà với mẹ, hoặc giúp việc nội trợ, hoặc đọc sách cho mẹ nghe. Hai chị em yêu nhau lắm, đi đâu cũng dắt tay nhau. Khi Bạch Tuyết nói:

- Chị em chúng ta không rời nhau...

Thì Hồng Hoa nói tiếp:

- ...suốt đời.

Bà mẹ lại nói thêm:

- Hai chị em có gì cũng phải chia nhau nhé.

Hai chị em thường vào rừng hái quả dại. Thú rừng thân mật đến hai chị em, không đụng chạm đến hai em. Thỏ ăn lá trong lòng bàn tay hai em. Hoẵng gặm cỏ bên cạnh hai em. Hươu nhảy nhót gần hai em. Chim trên cành hót vui tai hai em. Hai em không bao giờ bị nạn. Khi nào nhỡ muộn không về được, thì hai em nằm sát nhau trên thảm rêu, ngủ lại trong rừng đến sáng, mẹ biết vậy nên cũng chẳng lo ngại gì.

Bạch Tuyết và Hồng Hoa quét tước nhà cửa sạch sẽ lắm, nhìn vào thật thích mắt. Mùa hè thì Hồng Hoa làm công việc nội trợ, sáng nào cũng đặt trước giường mẹ một bó hoa trong đó có một bông hoa hồng trắng và một bông hoa hồng đỏ hái ở hai cây hồng của nhà. Mùa đông thì Bạch Tuyết đốt lửa và móc nồi lên bếp lửa. Nồi bằng đồng đánh sáng nhoáng như vàng. Tối đến, khi tuyết xuống, thì mẹ lại bảo:

- Bạch Tuyết ơi, con ra cài then cửa lại.

Rồi ba mẹ con ngồi bên lửa. Mẹ đeo kính, lấy quyển sách to ra đọc. Hai con vừa xe chỉ vừa nghe. Một chú cừu con nằm bên, đằng sau có một con chim gáy đậu, đầu rúc vào cánh. Một buổi tối, mẹ con đang quây quần êm ái như thế, thì có tiếng gõ cửa. Mẹ bảo:

- Hồng Hoa, con chạy mau ra mở cửa, chắc có khách bộ hành tìm chỗ trú đêm đấy.

Hồng Hoa ra mở cửa, tưởng là thấy một người nghèo khổ. Nhưng không, một con gấu thò đầu to kệch và đen xì vào. Em hét lên một tiếng, lùi lại. Đồng thời cừu con kêu be be, chim gáy vỗ
cánh và Bạch Tuyết trốn vào sau giường mẹ. Gấu nói:

- Đừng sợ, tôi không làm gì đâu, tôi rét cóng, chỉ muốn sưởi nhờ một tí thôi.

Bà mẹ bảo gấu:

- Tội nghiệp, lại gần lửa mà sưởi, cẩn thận kéo cháy lông nhé.

Rồi bà gọi con:

- Bạch Tuyết, Hồng Hoa lại đây, gấu không làm gì các con đâu, nó không có ý xấu đâu.

Hai em chạy lại, rồi dần dần cừu con và chim gáy hết sợ cũng đến. Gấu nói:

- Các em rũ tuyết ở lưng xuống hộ tôi.

Hai em đi lấy chổi quét lông cho gấu. Gấu nằm gần lửa, kêu gừ gừ ra vẻ khoái lắm. Chẳng mấy chốc hai em hết sợ, bắt đầu đùa nghịch với người khách ngờ nghệch.

Hai em giật giật lông gấu, để chân lên lưng gấu, lăn gấu xuống đất, hoặc lấy cành cây quật gấu; hễ gấu gừ gừ, hai em lại cười khanh khách. Gấu cứ để hai em nghịch, nhưng khi hai em nghịch quá thì gấu bảo:

- Bạch Tuyết, Hồng Hoa để cho anh sống với. Hai em đừng đánh chết người yêu của hai em nhé.

Khi cả nhà đi ngủ, bà mẹ bảo gấu:

- Gấu cứ nằm bên lửa mà sưởi cho ấm kẻo ở ngoài lạnh giá. Trời vừa tảng sáng thì hai em mở cửa cho gấu ra, gấu đạp tuyết vào rừng.

Từ đó, tối nào đúng giờ ấy gấu cũng đến nhà nằm bên bếp lửa và để cho trẻ tha hồ trêu mình. Cả nhà thân với gấu, chờ cho con vật lông đen đến rồi mới cài then cửa.

Mùa xuân trở lại, cây cỏ xanh tươi. Một hôm gấu bảo Bạch Tuyết:

- Bây giờ anh phải đi. Mùa hè này anh không thể đến đây được, em ạ.

Bạch Tuyết hỏi:

- Anh đi đâu, anh gấu thân yêu?

- Anh phải vào rừng giữ của kẻo những thằng lùn tai ác ăn trộm mất. Mùa đông, khi đất có băng phủ, thì bọn lùn phải chịu ở dưới đất, không nhoi lên được, nhưng nay mặt trời sưởi mềm đất, thì chúng lại nhoi lên tìm cách ăn trộm của anh; cái gì đã vào tay chúng, chúng cất vào sào huyệt của chúng thì khó lòng mà lấy lại được.

Bạch Tuyết buồn rầu vì phải từ giã gấu. Lúc em mở then cửa cho gấu ra, gấu vướng phải móc cửa, hơi trầy da. Em nhìn thấy hình như có vàng sáng nhoáng dưới da gấu nhưng em không chắc lắm. Gấu rảo bước rồi khuất bóng sau rừng.

Cách đấy ít lâu, mẹ sai hai con gái vào rừng kiếm củi. Hai em trông thấy một cái cây to ai đã hạ xuống và có vật gì nhảy nhót hết chỗ này đến chỗ kia trong đám cỏ gần gốc cây. Hai em lại gần, nhận ra một thằng lùn, mặt già khọm, bộ râu bạc dài vướng vào keo cây, nhảy nhót như một chó con bị xích, không sao thoát được. Nó quắc đôi mắt đỏ ngầu nhìn hai em, thét rằng:

- Sao chúng bay cứ đứng đực đấy ra mà nhìn, không đến cứu tao?

Hồng Hoa hỏi:

- Bác đã làm gì đến nỗi thế?

Thằng lùn đáp:

- Đồ ngu, mày lại còn thóc mách, tao muốn bổ cây này lấy củi nhỏ đun bếp. Tao không dùng củi to, củi to làm cháy mất món ăn. Chúng tao ăn nhỏ nhẻ chứ đâu có ngốn như đồ tham ăn tục uống chúng mày. Tao đã chêm nêm được rồi, nhưng không ngờ nêm trơn quá, thình lình tuột ra mất. Gỗ ập lại nhanh như chớp, tao không kịp rút chòm râu bạc đẹp đẽ ra, nên tao bị giam ở đây. Thế mà chúng bay còn cười, đồ nhãi còn hơi sữa, đồ ngu ngốc không biết xấu mặt.

Hai em cố hết sức giúp thằng lùn nhưng không thể gỡ râu nó ra được. Hồng Hoa nói:

- Để tôi đi gọi người đến.

Thằng lùn hộc lên:

- Đồ điên! Ai cần? Có hai chúng mày đã là quá lắm rồi. Chúng bay không nghĩ ra cách gì khác nữa à?

Bạch Tuyết nói:

- Bác đừng sốt ruột, tôi sẽ có cách cứu bác.

Rồi em lấy kéo nhỏ ở túi ra, cắt ngọn râu thằng lùn. Được thoát nạn, nó đi lấy một cái bị đầy vàng ở đám rễ cây và càu nhàu:

- Đồ mất dạy! Chúng bay cắt mất một mẩu râu đẹp của ông. Quỉ sứ sẽ làm tội chúng mày.

Rồi nó đeo bị vàng lên vai, đi thẳng, không thèm nhìn hai em.

Sau đó ít lâu, Bạch Tuyết và Hồng Hoa đi câu cá ăn. Khi đến gần bờ suối, hai em trông thấy cái gì như một con châu chấu to đang muốn nhảy nhót như muốn đâm xuống nước. Hai em chạy lại thì nhận ra thằng lùn trước. Hồng Hoa hỏi:

- Bác làm sao đây? Bác muốn nhảy xuống suối à?

Thằng lùn gào lên:

- Tao đâu có ngu thế. Mày mở mắt ra mà trông, con cá khốn nạn này nó muốn lôi tao xuống sông đấy.

Nguyên thằng lùn đang ngồi câu cá, bỗng không may bị gió cuốn râu mắc vào dây câu. Một con cá to cắn câu, thằng lùn yếu sức không lôi nổi con cá lên, con cá khỏe hơn kéo thằng lùn xuống. Nó bám lấy cỏ lấy sậy, nhưng không ăn thua. Lúc nó sắp bị cá lôi xuống thì hai em đến kịp, giữ được nó lại. Hai em gỡ cho râu nó, nhưng không ăn thua, vì râu cuốn chặt vào dây câu. Chỉ còn cách là lấy kéo cắt một đoạn râu nữa. Thằng lùn thấy thế kêu om lên:

- Đồ ranh con! Chúng bay làm nhơ nhuốc mặt người ta thế à! Ở đằng kia, chúng bay đã cắt râu tao, bây giờ chúng bay lại cắt đoạn râu đẹp nhất của tao, làm tao không dám để anh em trông thấy mặt nữa. Tao cầu cho chúng bay phải chạy cho đến mòn gót giầy.

Rồi nó đi lấy túi ngọc trai để trong đám sậy và không nói thêm nửa lời, lẩn sau một hòn đá.

Cách đó ít lâu, mẹ sai hai con gái ra tỉnh mua kim chỉ và băng. Con đường qua một bãi hoang rải rác có những tảng đá to. Hai cô bé thấy một con chim to liệng trên đầu mình hồi lâu, rồi xà xuống bên một tảng đá. Tức thì có tiếng kêu oe óe thảm thiết. Hai cô chạy đến thì sợ quá vì thấy con phượng hoàng đã quặp chặt lấy thằng lùn mà hai cô đã nhẵn mặt. Chim định tha nó đi. Hai cô bé níu chặt lấy thằng lùn, co kéo mãi làm cho con chim phải buông mồi ra. Nhưng khi hết sợ thì thằng lùn lại nhè mồm ra mắng hai em:

- Đồ chúng bay vụng quá, không biết nhẹ tay hơn một chút. Kéo mạnh quá làm cho chiếc áo mỏng của người ta rách tan tành như thế này à.

Rồi nó cắp túi ngọc của nó, len lỏi qua đá vào hang. Hai em đã quen với thói bạc bẽo của nó rồi nên không để ý, lên đường ra tỉnh mua bán.

Lúc trở về, hai em lại qua bãi hoang, thì bắt gặp thằng lùn đang đổ những viên ngọc ra một chỗ đất sạch, vì nó không ngờ có người đi qua đó muộn thế. Dưới ánh nắng chiều hôm, ngọc lóng lánh muôn sắc. Hai em đứng lại xem. Thằng lùn mắng:

- Chúng bay đứng đực ra đấy làm gì?

Mặt nó vốn bềnh bệch nay đỏ lên vì tức giận. Nó toan chửi rủa nữa thì bỗng có tiếng gầm gừ kinh hồn, rồi một con gấu đen ở rừng đi ra. Thằng lùn hoảng hồn chồm dậy, định trốn về hang, nhưng không kịp vì gấu đã tới ngay bên. Nó sợ quá van lạy gấu:

- Lạy ngài, xin ngài tha cho con, con sẽ biếu tất cả châu báu của con là những viên ngọc đẹp kia. Xin ngài để cho con sống, ngài ăn thịt kẻ nhỏ bé gầy gò như con thật chẳng bõ dính mồm. Ngài xơi thịt hai con ranh kia thì hơn: thịt chúng mềm như thịt cun cút vậy.

Nhưng gấu không biết nghe, tát cho thằng quái gian ác một cái chết tươi. Hai cô bé chạy trốn, nhưng gấu bảo:

- Bạch Tuyết, Hông Hoa ơi, đừng sợ, chờ anh đi cùng với.

Hai em nhận ra tiếng gấu bèn đứng lại. Khi gấu đến gần hai em thì bộ lông gấu bỗng rơi xuống, gấu biến thành một chàng thanh niên đẹp trai mặc áo toàn vàng. Chàng nói:

- Anh là hoàng tử. Thằng lùn kia đã lấy của cải của anh, rồi phù phép cho anh hóa ra gấu, phải lang thang trong rừng cho đến khi nó chết mới được giải thoát. Thế là ác giả ác báo.

Bạch Tuyết lấy Hoàng tử và Hồng Hoa lấy em hoàng tử. Rồi bốn người chia nhau của cải thu thập được ở trong hang thằng lùn. Bà mẹ già sống lâu, yên vui gần con cái. Bà đem hai cây hồng, trồng trước cửa sổ. Năm nào, hai cây cũng ra hoa trắng, hoa đỏ rất đẹp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:14:21 | Chỉ xem của tác giả
Đôi ủng da trâu

Một người lính đã chẳng sợ gì thì cũng chẳng bận tâm đến việc gì cả. Xưa có một người lính như vậy bị thải hồi. Bác ta không học được nghề gì nên không kiếm tiền được, đành đi lang thang ăn xin thiên hạ. Trên vai bác khoác chiếc áo đi mưa, chân bác đi đôi giầy ủng kỵ mã bằng da trâu, tất cả của cải chỉ còn lại có thế.

Một hôm, bác cứ đi thẳng cánh đồng, đi miết chẳng để ý gì đến đường đất, đi mãi đến một khu rừng. Bác không biết mình ở đâu, chỉ thấy có một người đang ngồi trên một gốc cây đã đẵn. Người ấy ăn mặc sang trọng, mặc bộ đồ đi săn màu xanh. Bác chìa tay ra bắt, ngồi xuống cỏ bên người ấy và duỗi chân ra. Bác bảo người đi săn:

- Tôi thấy đôi giầy ủng của ông quả là đẹp, đánh bóng nhoáng. Nhưng ông phải đi đây đi đó nhiều như tôi thì chẳng được mấy của nả. Ông cứ xem ủng của tôi bằng da trâu, ròng rã lâu rồi mà chỗ nào cũng đi qua được đấy.

Một lúc sau, bác lính đứng dậy bảo:

- Tôi không ở lâu hơn được nữa, cái đói nó thúc tôi đi. Này ông anh có đôi giầy ủng bóng ơi, đường này đi đâu ấy nhỉ?

Người đi săn đáp:

- Chính tôi cũng không biết bác ạ. Tôi lạc trong rừng.

Bác lính nói:

- Thì ra anh cũng như tôi. Những người cùng cảnh ngộ thường hay kết bạn với nhau. Thôi ta ở sát cánh với nhau, cùng nhau đi mãi cho đến đêm.

Bác lính lại nói:

- Ta không ra khỏi rừng được, nhưng tôi thấy ở đằng xa có ánh đèn le lói, có thể tìm cái gì ăn được đấy.

Họ tìm ra một chiếc nhà bằng đá. Gõ cửa thì có một bà già ra mở. Bác lính bảo:

- Chúng tôi tìm chỗ ngủ đêm, muốn kiếm chút gì ăn cho đỡ đói, vì bụng đã lép kẹp như chiếc bị nát.

Bà già đáp:

- Các bác không ở đây được đâu. Đây là nhà bọn cướp, khôn hồn thì các bác cao chạy xa bay trước khi chúng về, kẻo chúng mà thấy thì đi đời.

Bác lính đáp:

- Thì cũng đến thế mà thôi. Đã hai hôm nay, chưa được miếng nào, bị giết ở đây hay chết đói trong rừng thì cũng như nhau. Thôi tôi cứ vào.

Người đi săn không muốn theo vào nhưng bác lính cứ cầm tay kéo vào.

- Anh bạn nối khố ơi. Cứ vào đây, chắc đâu đã toi mạng ngay.

Bà già thương hại dặn họ:

- Các bác hãy chui vào sau lò. Nếu bọn chúng ăn còn gì thừa, thì khi chúng ngủ, ta sẽ tuồn vào cho.

Họ vừa chui vào ngồi một xó, thì có mười hai tên cướp ầm ầm bước vào. chúng ngồi vào bàn có thức ăn đã dọn sẵn và ăn một cách bỉ ổi. Bà già bưng một miếng thịt quay kếch xù vào, bọn cướp ăn rất ngon lành. Mùi món ăn thơm nức mũi, bác lính bảo người đi săn:

- Tôi không nhịn được nữa đâu, tôi ra ngồi bên cùng ăn đây.

Người đi săn giữ tay bác lính lại:

- Bác làm thế là chết cả nút đấy.

Nhưng người lính bắt đầu ho lớn tiếng. Bọn cướp nghe thấy quẳng cả dao và đĩa đi, nhảy xổ đến tìm thấy hai người ở sau lò. Chúng kêu lên:

- Ha ha! Ra hai ngài ngồi ở trong xó này. Các ngài định kiếm chác gì ở đây? Các ngài được cử đến đây do thám phải không? Được, đợi đấy, để bọn tớ cho các ngài học bay ở một cành cây khô nhé.

Bác lính nói:

- Ấy, lịch sự một tí nào. Tớ đói lắm, cho tớ ăn đã, rồi sau các cậu muốn làm gì tớ thì làm.

Bọn cướp ngạc nhiên. Tên đầu sỏ bảo:

- Ồ, tao thấy mày không sợ. Được lắm. Cho mày ăn, nhưng sau thì mày phải chết đấy!

Bác lính nói:

- Rồi đâu sẽ có đó!

Rồi bác ngồi vào bàn, đưa tay cắt thịt quay một cách gan dạ. Bác gọi người đi săn:

- Nào ông anh giầy ủng bóng, lại đây chén đi kẻo rồi sẽ đói như tôi. Ở nhà không có được món thịt quay ngon như ở đây đâu.

Nhưng người đi săn không chịu ăn. Bọn cướp ngạc nhiên nhìn người lính bảo:

- Tên này thật là không biết làm khách tí nào.

Sau đó bác nói:

- Ăn thì quả là ngon đấy, giờ lấy cho tớ cái gì uống cho ngon.

Tên đầu sỏ, đương lúc cao hứng, cũng đồng ý, gọi bà già:

- Mụ xuống cầm lấy lên đây một chai rượu vào loại ngon nhất.

Bác lính mở nút chai đánh bốp, rồi mang chai lại bảo người đi săn:

- Này ông anh ơi chú ý nhé, rồi ông anh sẽ còn kinh ngạc nữa. Giờ đây tôi xin nâng cốc, chúc sức khỏe tất cả mọi người.

Nói rồi, bác vung chai trên đầu bọn cướp mà hét:

- Chúng bay sẽ sống hết, nhưng mồm há hốc ra, tay phải giơ lên không.

Rồi bác tu một hơi ra trò. Bác nói chưa dứt lời thì cả bọn cướp ngồi đờ ra như tượng đá,
mồm há hốc, tay phải giơ lên không. Người đi săn bảo bác lính:

- Rõ rồi, đúng là anh còn nhiều thuật lạ. nhưng thôi ta về nhà đi.

- Ấy ấy. Ông bạn nối khố của tôi ơi, làm gì mà đi sớm quá thế.

Ta đã đánh bại được kẻ thù rồi thì cũng phải vơ vét một chuyến đã chứ. Bạn chúng ngồi đực ra kia, mồm há hốc vì kinh ngạc. Nhưng chúng không dám nhúc nhích cho đến khi tôi cho phép. Ta lại đây đánh chén đi.

Bà già lại phải đi lấy một chai rượu loại ngon nhất nữa. Bác lính đánh chén đủ no đến ba ngày rồi mới chịu đứng dậy. Mãi đến lúc trời sáng, bác mới nói:

- Giờ đã đến lúc ta nhổ trại. Bà già phải chỉ đường gần nhất ra tỉnh để ta đi cho chóng.

Khi hai người ra đến tỉnh, bác lính đi gặp bạn đồng đội cũ bảo:

- Tôi tìm thấy trong rừng một ổ toàn đồ chết treo. Ta hãy đến quét sạch nó đi!

Bác lính đi đầu, dẫn họ và bảo người đi săn:

- Anh phải trở lại xem khi bọn mình tóm cẳng chúng rồi, chúng sẽ đú đởn như thế nào.

Bác bố trí cho cả bọn đứng quanh lũ cướp rồi bác cầm chai rượu uống một hơi, vung chai trên đầu chúng, kêu:

- Tất cả chúng bay phải sống!

Ngay lúc đó, chúng lại cử động, nhưng chúng bị quật xuống, chân tay bị trói lại. Rồi bác lính bảo ném chúng như ném bị lên một chiếc xe.

- Hãy chở chúng đến nhà tù ngay đi.

Người đi săn gọi riêng một người trong bọn ra và giao làm một việc. Bác lính bảo:

- Này ông anh giầy ủng bóng, chúng ta may mắn đã tóm gọn được bọn cướp và ăn uống thỏa thuê. Giờ ta lại cứ bình tĩnh mà đóng cái vai trò lính bị tụt hậu, lẽo đẽo theo sau.

Gần đến tỉnh, bác thấy cổng thành người xúm đông chen chúc nhau, tiếng reo vui mừng, người ta vung vẩy cành lá xanh. Bác lại thấy cả đội quân cận vệ tiến đến. Bác ngạc nhiên lắm, hỏi người đi săn:

- Thế là nghĩa lý gì?

Người kia đáp:

- Thế anh không biết là vua đi xa nước đã lâu, ngày hôm nay trở về, nên thiên hạ đi đón à?

Bác lính hỏi:

- Thế vua đâu mà tôi không thấy!

Người đi săn đáp:

- Vua đây. Ta là vua ta đã cho báo tin trước là ta về.

Người ấy hé mở áo đi săn ra, để lộ áo bào nhà vua. Bác lính sợ hãi quỳ xuống xin tha tội vì trước đây bác không biết là vua nên đã đối xử như kẻ ngang hàng và xưng hô như vậy.
Nhưng vua chìa tay ra bắt tay bác bảo:

- Ngươi là một người lính can trường đã cứu sống ta. Ngươi sẽ không phải chịu cơ cực nữa, ta nhất định chăm sóc ngươi, khi nào ngươi thèm ăn một bữa thịt quay như ở nhà bọn cướp thì cứ việc đến bếp hoàng gia. Còn khi nào người muốn nâng cốc chúc ai, thì phải đợi ta cho phép đã.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:15:12 | Chỉ xem của tác giả
Anh chàng đánh trống

Một buổi tối, chàng đánh trống trẻ tuổi đi một mình giữa cánh đồng. Tới bên một cái hồ, anh thấy trên bờ ba chiếc áo trắng của ai vứt đó. Anh khen: "Vải đẹp quá!". Rồi nhét luôn một chiếc vào túi. Về nhà, anh cũng quên khuấy mất câu chuyện nhặt được của rơi. Anh lên giường nằm, sắp ngủ chợt nghe như có tiếng người gọi tên mình. Anh lắng nghe thì quả có tiếng gọi rất khẽ: "Anh đánh trống ơi, anh đánh trống ơi, dậy đi thôi". Đêm tối quá, anh không nhìn thấy rõ người nhưng anh thấy rõ một cái bóng cứ lơ lửng trước giường anh nằm.

Anh hỏi:

- Mày muốn gì?

Tiếng người đáp:

- Trả lại cho tôi cái áo, cái áo anh đã lấy của tôi ở bờ hồ tối nay ấy.

Anh đánh trống nói:

- Được, ta sẽ trả, song mày phải cho ta biết mày là ai đã.

"Trời!", tiếng người đáp. "Tôi là con gái một ông vua hùng cường. Chẳng may tôi sa vào tay một mụ phù thủy và bị nó đầy lên ngọn núi Thủy tinh. Ngày nào ba chị em tôi cũng xuống hồ tắm. Hôm nay vì mất áo, tôi không về được nữa. Các chị đã bay đi cả rồi, riêng tôi phải ở lại. Tôi van anh, anh hãy trả lại áo cho tôi".

Anh đánh trống nói: "Cứ yên chí, cô bé đáng thương ơi, tôi sẵn lòng trả lại áo cho cô".

Anh rút túi lấy áo trả lại cho người đứng trong bóng tối. Người con gái vội cầm lấy định đi ngay. Anh gọi cô ta lại:

- Hãy khoan đã, may ra tôi có thể giúp cô chăng?

- Muốn giúp tôi thì chỉ có cách là anh lên ngọn núi Thủy tinh mà cứu tôi thoát khỏi phép thuật của mụ phù thủy. Nhưng anh lên núi làm sao nổi, dù anh có lọt vào sát tới chân núi, anh vẫn không thể lên được.

Anh đánh trống nói:

- Tôi thương cô và tôi không sợ gì hết. Nhưng tôi không biết đường đi.

Người con gái đáp:

- Đường đi qua một khu rừng lớn. Trong rừng có bọn khổng lồ ăn thịt người, tôi chỉ được phép nói với anh thế thôi. Nói xong cô gái biến mất.

Sớm hôm sau, trời vừa rạng sáng, anh đánh trống lên đường, đeo trống đi thẳng vào rừng không chút sợ hãi. Đi được một lát mà vẫn chưa thấy tên khổng lồ nào, anh nghĩ bụng: "Phải đánh thức cái bọn ngủ trưa này dậy". Anh bèn xoay trống ra phía trước, khua vang một hồi, khiến chim chóc trên cây đều xao xác bay đi.

Chỉ một lát sau, thấy một tên khổng lồ nằm ngủ trong bụi cỏ nhỏm dậy. Hắn đứng cao lênh khênh như một cây thông. Hắn thét:

- Thằng nhóc kia, mày làm gì mà khua ầm lên, làm mất giấc ngủ ngon.

Anh đáp:

- Ta đánh trống để chỉ đường cho hàng vạn người còn đi sau ta và sắp kéo cả đến đây bây giờ.

Tên khổng lồ nói:

- Ui chao, tao sẽ giẫm chết bọn mày như giẫm chết đàn kiến ấy.

Anh đánh trống tiếp lời:

- Mày tưởng mày chống cự nổi họ à? Mày cúi xuống định chộp một người thì người đó lập tức nhảy đi và ẩn nấp ngay. Nhưng đợi lúc mày đi nằm, ngủ lại rồi, từ khắp các bờ bụi, họ mới kéo ra và trèo lên người mày. Người nào cũng có một cây búa sắt giấu trong thắt lưng, họ sẽ đập vỡ sọ mày ra.

Tên khổng lồ thấy ngài ngại. Hắn nghĩ bụng: “Mình mà dây với lũ ranh ma này, kéo lại bị hại. Sói và gấu, ta bóp cổ chết tươi ngay, nhưng cái đám sâu đất này thì khó chơi đây”.

Hắn nói:

- Nghe này, thằng nhóc, mày hãy cút đi, ta hứa từ nay về sau không đụng đến mày và đồng bọn của mày. Và nếu như mày muốn gì nữa thì cứ nói, ta sẵn sàng làm mày vui lòng.

Anh đánh trống nói:

- Chân mày dài, mày có thể chạy nhanh hơn tao, mày hãy đem ta lên ngọn núi Thủy tinh. Ta sẽ ra hiệu cho người của ta rút đi thì mày được yên ổn.

Tên khổng lồ nói:

- Lại đây, giống sâu bọ kia, leo lên vai ta mà ngồi, ta sẽ đem mày lên đó.

Tên khổng lồ nhấc anh lên. Ngồi yên trên đó rồi, anh lại bắt đầu khua trống rộn lên một hồi. Tên khổng lồ nghĩ bụng: "Có lẽ nó đang làm hiệu cho bọn kia rút".

Đi được một quãng thì gặp một tên khổng lồ nữa. Hắn nhấc luôn anh đánh trống khỏi vai tên kia và mắc anh vào một khuy áo. Anh đánh trống vội bám vào cái khuy, to bằng cái chậu sành ngồi chắc ở đó, ngó nhìn xung quanh, có vẻ rất thích thú. Lại gặp một tên thứ ba, tên này lôi anh ra khỏi cái lỗ khuy áo và giắt anh lên vành mũ của hắn. Anh đánh trống ngồi rập rình trên đó, nhìn qua các ngọn cây, thấy tít tắp phía xa xanh biếc có một trái núi. Anh nghĩ bụng: “Chắc là ngọn núi Thủy tinh”. Mà cũng đúng thế thật. Tên khổng lồ chỉ đi có vài bước nữa là tới sát bên chân núi, hắn đặt anh xuống đất. Anh đánh trống đòi hắn đưa luôn anh lên đỉnh núi, song hắn lắc đầu nói lẩm bẩm câu gì trong miệng rồi quay vào rừng.

Trước mặt anh chàng đánh trống đáng thương là một trái núi cao ngất, đến bằng ba trái núi thường xếp chồng lên nhau. Sườn núi láng như gương, không còn biết trèo lên bằng cách nào cho được. Anh cố trèo lên nhưng vô hiệu, lần nào cũng bị tuột. Anh nghĩ bụng: “Ước gì lúc này mình là chim”. Nhưng ước suông nào được ích gì, cánh vẫn không thấy mọc. Giữa lúc anh đứng ngây ra chưa biết làm gì bỗng cách đấy không xa lắm có hai người đang cãi nhau rất
hăng. Anh đi lại phía họ thì thấy họ đang tranh nhau một cái yên ngựa vứt trên mặt đất, người nào cũng muốn lấy cái yên đó.

Anh nói:

- Các anh mới ngốc làm sao, ngựa chẳng có, giành giật nhau cái yên để làm gì?

Một người đáp:

- Tranh nhau cái yên đó là có lý do, ai ngồi lên yên muốn đi đâu cũng được. Dù muốn đến tận cùng thế giới thì cũng chỉ nói một câu là sẽ tới ngay trong nháy mắt. Yên vốn là của chung chúng tôi, bữa nay đến lượt tôi cưỡi song gã nay lại không chịu.

Anh đánh trống nói:

- Được để tôi phân xử cho.

Anh đi một quãng và cắm một cái gậy trắng xuống đất. Đoạn anh quay lại bảo:

- Giờ hai người cứ nhằm cái đích kia mà chạy, ai đến trước thì người đó sẽ được ngồi trước.

Hai người thì nhau chạy, song họ mới chạy được vài bước thì anh đánh trống đã nhảy tót lên yên ngựa. Anh ước được lên ngọn núi Thủy tinh, tức thì chưa kịp trở bàn tay, anh đã ở trên đó rồi.

Trên núi có một chỗ đất bằng. Ở đó có một ngôi nhà xây bằng đá đã cũ. Trước cửa có một cái ao cá lớn, phía sau là rừng rậm. Anh chẳng thấy người nào, vật nào cả. Khung cảnh yên lặng, chỉ có tiếng gió thổi vi vu trên ngọn cây và mây lững lờ trôi qua sát ngay trên đầu. Anh bước tới gõ cửa. Gõ đến lần thứ ba thì thấy một mụ già ra mở cửa. Mặt mụ đen xạm, đôi mắt đỏ ngầu. Mụ mang một cặp kính trên cái sống mũi dài thườn thượt, ngó anh trừng trừng và hỏi anh muốn gì. Anh đáp:

- Cho tôi vào ăn và ngủ nhờ

Mụ già nói:

- Được, nếu người chịu làm cho ta ba việc.

Anh đáp:

- Được thôi, tôi chẳng ngại việc gì hết, dù là việc nặng nhọc. Mụ già cho anh vào, cho anh ăn và tối hôm đó xếp cho anh một cái giường rất êm.

Sớm hôm sau, đợi anh đã ngủ no mắt rồi, mụ mới rút từng ngón tay khẳng khiu của mụ ra một cái đê khâu đưa cho anh và bảo:

- Giờ ngươi đi làm đi, ngươi hãy cầm lấy cái đê này tát cạn ao trước nhà cho ta, hẹn đến tối phải xong, và cá dưới nước đã bắt hết lên phải xếp theo từng giống cá và tùy theo cỡ lớn nhỏ.

Anh đánh trống nói:

- Thật là một việc hiếm có.

Nhưng anh vẫn cứ ra ao và bắt đầu tát nước. Anh tát suốt sáng, nhưng với một đê khâu bé tẹo, sao tát cạn nổi một lượng nước lớn như vậy, dù có dài đến ngàn năm đi nữa?

Đến giữa trưa, anh tự nhủ:

- Thế là toi công, làm cũng như không làm.

Anh dừng tay rồi xuống. Vừa khi ấy, một người con gái từ trong nhà đi ra, xách một làn thức ăn đưa cho anh và hỏi:

- Anh ngồi thừ ra đấy trông buồn quá, có điều gì thế?

Anh ngước nhìn thấy người con gái thật là tuyệt đẹp. Anh nói:

- Chà, mới việc thứ nhất đã làm chưa xong, không biết rồi những việc khác sẽ ra thế nào? Tôi đi tìm một nàng công chúa ở đâu trong này song không thấy, tôi muốn đi nữa đây.

Người con gái bảo :

- Cứ ở đây, tôi sẽ giúp anh làm việc khó khăn này. Anh mệt rồi, hãy tạm ngả đầu vào lòng tôi đây mà ngủ. Lúc nào anh trở dậy, việc cũng sẽ vừa xong.

Anh đánh trống không đợi mời đến lần thứ hai. Anh nhắm mắt thì người con gái xoay chiếc nhẫn thầm nói:

- Nước lên đi, cá ra đi.

Tức thì nước lên hơi như sương trắng và cùng mây trôi đi. Cá quẫy lên, nhảy cả lên bờ nằm cạnh nhau xếp theo loại và theo cỡ lớn nhỏ. Đến khi tỉnh dậy, anh đánh trống ngạc nhiên thấy mọi việc đã đâu vào đấy. Nhưng người con gái bảo:

- Có một con cá không nằm cùng với đồng loại của nó, mà lại nằm riêng một mình. Chiều tối, mụ già đến, thấy mọi việc đã xong như ý mụ muốn, thế nào mụ cũng hỏi: "Tại sao có một con cá này?". Khi ấy anh hãy ném ngay con cá vào mặt mụ mà nói: "Để phần mày đấy, con mụ phù thủy già ạ".

Chiều tối, mụ già đến. Mụ vừa dứt lời hỏi, anh đánh trống ném ngay con cá vào mặt mụ. Mụ cứ lờ đi như không có việc gì xảy ra, chẳng nói một câu, nhưng mụ nhìn anh một cách rất nham hiểm.

Sớm hôm sau, mụ bảo:

- Việc hôm qua dễ quá, ta phải giao cho mày một việc nặng hơn. Bữa nay, mày phá cho cả khu rừng ngoài kia, phải bổ cây thành củi, bổ xong phải xếp thành từ thước một và cũng hạn cho đến chiều tối phải xong.

Mụ đưa cho anh một cây rìu, một con dao rựa với hai con nêm. Nhưng lưỡi rìu lại bằng chì, con dao với nêm đều bằng sắt tây. Anh vừa bắt tay vào việc, rìu đã bị quằn lưỡi, rựa và nêm đều bẹp rúm. Anh không còn biết xoay xở ra sao. Nhưng đến trưa, người con gái hôm trước lại đem thức ăn tới cho anh. Cô an ủi anh:

- Anh ngả đầu vào lòng tôi mà ngủ đi, khi nào anh tỉnh dậy, mọi việc sẽ xong cả.

Người con gái lại xoay chiếc nhẫn thần. Trong nháy mắt cả rừng chuyển mình răng rắc, rồi sập xuống, từng cây gỗ cứ tự tách ra thành củi, rồi những thanh củi nhỏ lại tự xếp thành từng thước. Dường như có những người khổng lồ vô hình nào đã làm việc đó. Lúc anh thức giấc, người con gái bảo:

- Anh thấy không, gỗ đã được bổ và xếp thành đống rồi. Chỉ còn mỗi một cành. Chiều nay mụ già có tới hỏi sao còn sót thì anh lấy cành cây quật cho mụ một cái mà bảo: "Để phần cho mày đó, mụ phù thủy ạ".

Mụ già đến, mụ nói:

- Thấy không, việc thật là quá dễ. Nhưng còn cái cành kia để cho ai đó?

Anh đáp:

- Để cho mày đó, mụ phù thủy ạ.

Rồi anh quất cho mụ một roi. Nhưng mụ vẫn cứ lờ đi như không có gì xẩy ra. Mụ chỉ cười mỉa mai và bảo:

- Sớm mai mày phải đem hết gỗ chất lại thành một đống, nhóm lửa đốt đi cho ta.

Trời vừa sáng thì anh thức giấc và bắt đầu di chuyển gỗ. Nhưng chỉ có một mình anh thì làm sao chuyển nổi được cả một rừng gỗ. Công việc cứ ì ạch mãi. Nhưng người con gái không bỏ anh trong lúc khó khăn. Buổi trưa, cô đem thức ăn đến cho anh. Ăn xong, anh lại ngả đầu vào lòng cô mà ngủ. Lúc anh tỉnh dậy thì cả đống gỗ đã đỏ rực lửa, ngọn lửa liếm đến tận trời xanh. Người con gái nói:

- Anh ạ, lát nữa con mụ đến, thế nào nó cũng sẽ bắt anh làm nhiều thứ, nó bảo gì anh cứ nhận, đừng sợ, nó không làm gì được anh đâu. Anh mà sợ thì lửa sẽ bắt vào người anh và thiêu anh ra tro tức khắc. Cuối cùng, khi anh đã làm xong mọi việc rồi, anh hãy ôm luôn cả con mụ quẳng nó vào đống lửa.

Người con gái đi được một lúc thì mụ già rón rén tới. Mụ kêu:

- Chà, rét quá, nhưng đống lửa cháy to cũng làm ấm được nắm xương già; ta thấy dễ chịu quá. Nhưng còn khúc gỗ không cháy kia kìa, mày hãy khuân ra đây cho ta. Mày làm xong được nốt việc này, ta cho mày tự do muốn đi đâu thì đi. Cứ nhanh nhẹn mà bước vào đi.

Anh đánh trống không nghĩ ngợi lâu, nhảy luôn vào giữa đống lửa, nhưng lửa không đụng gì đến anh, cũng không thiêu mất một sợi tóc của anh. Anh khuân khúc gỗ ra, đặt xuống. Khúc gỗ vừa chạm mặt đất thì biến thành người con gái đẹp đã từng giúp anh qua bao khó khăn. Thấy quần áo óng ánh như vàng của nàng anh nhận ngay ra đó là công chúa. Nhưng mụ già vẫn cười rất thâm độc. Mụ bảo:

- Mày tưởng con bé ấy đã ở trong tay mày rồi sao? Chưa đâu!

Mụ vừa định chạy đến chỗ người con gái để lôi cô ta đi thì mụ bị anh dang hai tay ôm lại, nâng bổng lên và ném vào giữa đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Lửa cuốn lấy mụ, dường như lửa cũng lấy làm mừng được kết liễu cuộc đời một mụ phù thủy.

Công chúa ngước nhìn anh đánh trống, thấy anh đẹp trai, lại nhớ đến anh đã không tiếc cả tính mạng để cứu mình, nàng bèn đưa tay cho anh và bảo:

- Chàng đã dám làm tất cả vì thiếp, thì thiếp cũng sẽ sẵn sàng làm tất cả vì chàng. Chỉ cần chàng hứa chung thủy, thiếp sẽ xin lấy chàng. Của cải không thiếu, riêng số của mụ phù thủy thu gom tại đây, cũng thừa đủ đối với chúng ta.

Công chúa dẫn anh vào trong nhà, hòm, rương đều đầy ắp của. Hai người không lấy vàng, không lấy bạc mà chỉ lấy châu báu. Họ không muốn ở trên núi Thủy tinh lâu nữa. Anh bảo công chúa:

- Nàng hãy ngồi ghé vào bên yên, chúng ta sẽ bay xuống như chim.

Nàng đáp:

- Thiếp không ưa cái yên ngựa cũ kỹ đó, thiếp chỉ cần xoay chiếc nhẫn thần này của thiếp thì đôi ta ở nhà rồi.

Anh đánh trống nói:

- Tốt thôi, thế thì nàng hãy ước cho chúng ta đến trước cổng thành.

Trong nháy mắt, hai người đã ở đó. Anh đánh trống bảo:

- Anh muốn về qua nhà cho cha mẹ biết tin đã. Nàng cứ đợi anh ở cánh đồng này, anh sẽ trở lại ngay.

Công chúa đáp:

- Trời ơi, thiếp xin chàng, chàng hãy lưu ý, về nhà chàng chớ có hôn cha mẹ chàng lên má bên phải; nếu không chàng sẽ quên hết mọi việc còn thiếp sẽ cứ phải bơ vơ chờ mãi ở cánh đồng này.

- Ta quên nàng sao được.

Anh nắm tay nàng hứa sẽ trở lại ngay tức khắc. Lúc anh về tới nhà, không người nào biết anh và anh đã thay đổi quá nhiều. Ba ngày trên núi Thủy tinh dài bằng ba năm. Anh phải tự giới thiệu, khi đó bố mẹ mới sung sướng ôm chầm lấy anh. Quá xúc động anh quên bẵng mất lời người con gái đã dặn, hôn luôn bố mẹ vào cả hai bên má. Sau khi anh hôn lên má bên phải bố
anh và mẹ anh thì anh không còn nhớ gì đến nàng công chúa nữa. Anh dốc túi lấy ra một nắm những hạt ngọc lớn nhất, để lên mặt bàn. Bố mẹ không biết dùng của cải đó vào việc gì. Ông cụ bèn làm một tòa lâu đài thật lộng lẫy; chung quanh nhà nào vườn, nào rừng, nào đồng cỏ, như dinh cơ của một ông hoàng vậy. Lúc đã xây nhà xong, bà cụ bảo:

- Mẹ đã kiếm cho con được một người con gái rồi đấy, ba hôm nữa sẽ làm lễ cưới.

Bố mẹ anh muốn sao, anh cũng bằng lòng hết. Còn nàng công chúa đáng thương kia vẫn đứng đợi ngoài ở ngoài cổng thành. Mãi đến tối, nàng mới tự nhủ: “Chắc là chàng đã hôn lên má bên phải của cha mẹ chàng nên đã quên ta mất rồi”. Trong dạ rất buồn nàng bèn ước được một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh trong rừng, nàng không muốn trở về triều đình vua cha nữa. Chiều
nào, nàng cũng vào thành, đi qua trước cửa nhà chàng. Đôi khi chàng cũng có trông thấy nàng nhưng không nhận ra được là ai. Sau nàng thấy thiên hạ bàn tán: “Mai sẽ làm lễ cưới anh ta đấy”, nàng tự nhủ: “Mình cứ cố xem, biết đâu không chiếm lại được trái tim chàng”.

Đợi tới ngày thứ nhất của lễ cưới, nàng xoay chiếc nhẫn và ước: "Một chiếc áo sáng như mặt trời". Tức thì cái áo hiện ngay ra trước mặt nàng, rực rỡ lạ thường, như dệt toàn bằng ánh nắng vậy. Khi khách khứa đã đến đông đủ cả, nàng mới bước vào trong phòng. Anh rất ngạc nhiên về tấm áo đẹp, nhất là cô dâu. Xưa nay cô dâu vốn chỉ mê quần áo đẹp, vội tiến lại tiến về phía người khách lạ, hỏi xem khác có muốn bán áo chăng.

Công chúa đáp:

- Tôi không lấy tiền, chỉ cần đêm tân hôn cho phép tôi đứng ngay tại trước phòng chú rể ngủ, tôi sẽ cho không chiếc áo.

Cô dâu thích áo quá đồng ý ngay, nhưng sau đó cô đã tinh khôn trộn ngay ít thuốc ngủ vào cốc rượu của chú rể, làm chú rể ngủ li bì. Đợi lúc đâu đấy yên tĩnh cả, công chúa mới đến ngồi trước cửa phòng ngủ, khẽ mở cánh cửa gọi vọng vào trong:

- Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!

Nhưng nào có ích gì, anh đánh trống vẫn không tỉnh giấc. Rạng hôm sau, công chúa đành bỏ đi, không được gì cả. Tối thứ hai, nàng công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: "Một chiếc áo bằng bạc như ánh trăng". Thấy nàng mặc chiếc áo thanh lịch như ánh trăng đi vào đám lễ, cô dâu lại nổi lòng tham và lại đồng ý cho nàng đứng một đêm nữa trước cửa phòng ngủ để đổi lấy chiếc áo. Đợi đến đêm khuya thanh vắng nàng lại gọi:

- Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!

Nhưng nàng không thể đánh thức được chàng đánh trống đã uống thuốc ngủ. Sớm hôm sau, công chúa lại đành trở về ngôi nhà nhỏ trong rừng, lòng buồn vô hạn. Có người ở trong nhà nghe được tiếng than của nàng đêm trước đã kể lại cho chú rể nghe. Họ cũng nói cho chàng rõ là vì chàng đã uống phải thuốc ngủ trong rượu nên không thể nghe thấy được những lời than đó.

Tối ngày thứ ba, công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: "Một chiếc áo lấp lánh như sao". Thấy nàng mặc chiếc áo đó vào dự lễ, hai chiếc áo trước đã đẹp mà còn thua xa, cô dâu rất tức tối. Cô ta tự nhủ: "Ta phải lấy chiếc áo ấy và nhất định ta sẽ lấy được".

Cũng như hai lần trước công chúa lại đổi chiếc áo để được phép qua một đêm ở trước cửa phòng chú rể. Nhưng lần này chú rể không uống cốc rượu đưa trước khi đi ngủ anh để rượu ra mé sau giường nằm. Và đến lúc trong nhà đã yên tĩnh đâu đấy cả, anh nghe có tiếng có tiếng người dịu dàng gọi anh:

- Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!

Anh chợt nhớ lại tất cả mọi chuyện. Anh kêu lên:

- Trời! Sao ta lại có thể ăn ở bội bạc như thế nhỉ? Nhưng lỗi chính là ở cái hôn, cái hôn giữa lúc bối rối ta đã đặt lên má bên phải của cha mẹ ta, nó đã làm cho ta u mê đi.

Anh vùng dậy, dắt tay công chúa dẫn đến trước giường nằm của bố mẹ. Anh nói:

- Đây mới là cô dâu thật, nếu như con lấy người kia thì con sẽ có lỗi vô cùng.

Bố mẹ anh nghe rõ đầu đuôi câu chuyện cũng bằng lòng. Tức thì trong phòng lớn đèn nến lại được thắp sáng trưng, tiếng kèn lại vang lên, bè bạn, họ hàng được mời ngay trở lại, đám cưới thật được tổ chức trong bầu không khí vui vẻ, tưng bừng. Cô dâu kia được giữ lại mấy chiếc áo đẹp coi như của bồi thường và cô ta cũng hài lòng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:16:02 | Chỉ xem của tác giả
Vợ chồng người đánh cá

Ngày xưa có hai vợ chồng người đánh cá ở một túp lều cũ kỹ sát ven biển. Hôm nào người chồng cũng đi câu cá suốt ngày. Một hôm bác buông câu ngồi hết giờ này đến giờ khác, nhìn mặt nước trong veo mà chẳng được con cá nào. Thình lình lưỡi câu chìm sâu xuống tận đáy biển. Người ấy giật lên thì được một con cá đìa to. Cá nói:

- Ông đánh cá ơi, tôi van ông, xin ông để tôi sống, tôi không phải là cá đâu, mà là Hoàng tử bị phù phép đấy. Thịt tôi ăn cũng chẳng ngon lành gì. Xin ông thả tôi xuống nước cho tôi bơi đi.

Người câu cá đáp:

- Chú không cần phải nói nhiều. Cá biết nói thì ta sẵn lòng thả cho đi ngay.

Bác thả cá xuống nước, cá lặn xuống tận đáy bể, để lại sau một vệt máu dài. Người câu cá trở về túp lều cũ kỹ. Vợ hỏi:

- Thầy nó ơi, hôm nay không câu được gì ư?

- Không, tôi bắt được một con cá đìa, nhưng nó nói rằng nó là một Hoàng tử bị người ta phù phép nên tôi lại thả nó xuống.

- Thế thầy nó không xin gì ư?

- Không biết xin cái gì!

- Hừ! Cứ ở mãi một túp lều cũ tồi tàn, hôi hám thì khổ quá. Lẽ ra thầy nó xin nó một chiếc nhà gianh nhỏ mới phải. Thầy nó hãy chạy ngay đi gọi cá mà xin lấy một chiếc nhà gianh nhỏ, chắc thế nào cũng được.

- Chà! Quay lại làm quái gì?

- Úi chà! Bắt được nó mà thả nó ra, thì nhất định nó phải cho. Thầy nó cứ đi ngay đi.

Người đánh cá ngần ngại nhưng lại chẳng muốn trái ý vợ. Lúc bác tới bể thì thấy nước đục, vừa xanh, vừa vàng. Bác lại gần mặt nước, gọi:

- Cá đìa yêu quý của tôi ơi, Indêbin vợ tôi nó mong ước một điều.

Cá bơi lên ngay hỏi:

- Điều ước gì đó?

- À, lúc nãy tôi bắt được chú, vợ tôi nó trách tôi sao không xin gì chú. Nay nó không muốn ở túp lều cũ kỹ nữa, nó muốn có nhà gianh.

- Ông cứ về đi, vợ ông có nhà gianh rồi đấy.

Người đánh cá về thì không thấy vợ ở túp lều nữa mà đang ngồi ở ghế dài trước cửa một ngôi nhà gianh xinh xinh. Vợ nắm lấy tay chồng nói:

- Mình vào mà xem, bây giờ hơn trước nhiều rồi đấy chứ!

Hai vợ chồng cùng vào trong nhà thì thấy có phòng đợi, phòng khách, buồng ngủ kê hai giường cho hai vợ chồng. Lại có buồng ăn và nhà bếp đầy đủ nồi niêu xanh chảo bằng đồng bằng thiếc, sáng choang. Sau nhà có một cái sân con, gà vịt chạy tung tăng và một mảnh vườn nhỏ trồng rau và cây ăn quả. Vợ nói:

- Mình xem, thích đấy nhỉ?

- Ừ thích thật đấy, chúng ta ở đây sung sướng lắm rồi.

- Để xem sao đã.

Hai vợ chồng ăn xong đi ngủ. Ở nhà gianh được mươi mười lăm ngày, người vợ nói:

- Này mình ơi, thật ra thì nhà, sân và vườn hẹp quá! Cá có thể cho ta nhà rộng hơn. Tôi thích lâu đài to xây bằng đá kia. Mình đi xin cá nhé.

Chồng nói:

- Chà! Nhà ở thế này là vừa lắm rồi, cần quái gì ở lâu đài.

- Thì mình cứ xin đi, thế nào cá cũng cho.

- Thôi, mình ạ, cá vừa mới cho nhà này, tôi chẳng đi nữa sợ quấy rầy cá.

- Thì cứ đi đi nào, chắc cá sẽ vui lòng cho.

Người đánh cá thấy phiền quá không muốn xin, nghĩ bụng: “Thật quả không biết điều chút nào”. Nhưng rồi bác vẫn cứ đi.

Khi đến bờ biển, bác thấy nước màu tím, xanh thẫm, xám, gợn sóng, nước không xanh và vàng như lần trước, nhưng cũng chưa đến nỗi động bể. Bác gọi cá và bảo:

- Cá ơi cá, Indebin vợ tôi nó ước mong một điều.

Cá hiện lên hỏi:

- Điều gì thế bác?

Người đánh cá nói, có ý hơi ngượng:

- Nhà tôi muốn có lâu đài bằng đá.

- Bác cứ về đi, bác gái đang đợi bác ở cửa đấy.

Người đánh cá trở về, tưởng lại thấy nhà gianh như cũ. Nhưng không, nhà gianh đã biến thành một tòa lâu đài bằng đá. Vợ bác đang đứng trên bậc thềm cao, sắp sửa quay gót đi vào. Vợ nắm tay chồng, nói:

- Mình vào với tôi.

Hai vợ chồng cùng vào. Trong lâu đài có phòng đợi rộng thênh thang lát bằng đá cẩm thạch, gia nhân đi lại mở cửa nhộn nhịp. Tường treo rèm rực rỡ. Phòng nào cũng bày bàn ghế bằng vàng, trần có treo đèn pha lê, nền giải thảm. Bàn nào cũng bày la liệt những món ăn ngon cùng rượu quý. Đằng sau lâu đài có sân rộng, chuồng ngựa, chuồng bò và những cỗ xe lộng lẫy, còn có cả một khu vườn lớn trồng đủ thứ hoa thơm cỏ lạ và cây ăn quả. Thêm vào đó
lại có một cánh rừng nhỏ dài nửa dặm, đủ các loài vật như hươu nai, thỏ.

Người vợ hỏi:

- Thế nào, thầy nó, đẹp quá nhỉ!

Chồng nói:

- Đẹp lắm! Giá cứ được như thế này mãi! Bây giờ được ở lâu đài thì mãn nguyện rồi chứ.

Vợ nói:

- Để rồi xem sao. Ta hãy đi ngủ cái đã.

Rồi hai vợ chồng bèn đi ngủ. Hôm sau, vợ tỉnh giấc trước. Trời đã sáng bạch. Nằm trên
giường, bác nhìn thấy phong cảnh ruộng đồng đẹp vô cùng. Chồng vươn vai tỉnh dậy. Vợ lấy khuỷu tay hích chồng bảo:

- Mình ơi, dậy ra cửa sổ mà trông. Ước gì ta được làm vua cả miền này! Mình hãy đi tìm cá, xin cá cho làm vua đi.

- Làm vua làm gì, tôi không thích đâu.

- Nếu thầy nó chẳng muốn làm vua thì mặc thầy nó, tôi làm nữ vương vậy. Thầy nó cứ đi tìm cá xin cho tôi làm nữ vương đi.

- Úi chà! Sao nhà nó lại muốn làm nữ vương? Tôi chẳng dám xin đâu.

- Sao lại không! Thầy nó đi ngay đi, tôi muốn làm nữ vương cơ.

Người chồng thấy vợ muốn làm nữ vương buồn lắm, tự nghĩ: “Như thế thật quả là không được đúng”. Bác trù tính không muốn đi, nhưng rồi nể vợ lại đi. Ra đến biển, bác thấy nước xám đen, sôi sục và thối hoăng. Bác gọi cá bảo:

- Cá ơi cá, Indêben vợ tôi nó ước mong một điều.

- Điều gì?

- Trời ơi! Nó muốn làm nữ vương!

- Bác cứ về đi, bác gái thành nữ vương rồi.

Về đến nhà, bác thấy lâu đài đồ sộ, trang hoàng rực rỡ, có lính gác cổng, có quân đánh trống thổi kèn. Vào trong nhà thấy tuyền là đá cẩm thạch và vàng, thảm nhung, rương vàng. Cửa điện rộng mở, tất cả triều đình đều có mặt. Vợ bác ngồi trên ngai vàng, đầu đội mũ miện vàng, tay cầm hốt vàng dát ngọc, mỗi bên có sáu cung nữ sắp hàng đứng hầu, người nọ thấy hơn người kia một đầu. Bác lại gần nói:

- Ai chà! Nhà đã thành nữ vương rồi đó à?

- Phải, bây giờ tôi đã là nữ vương.

Bác đứng ngắm vợ hồi lâu rồi bảo:

- Này, nhà làm nữ vương thì thỏa thích lắm rồi. Bây giờ hẳn chẳng còn gì mong ước nữa nhỉ.

Vợ bứt rứt trả lời:

- Không phải thế đâu, tôi chán ngấy rồi. Thầy nó hãy đi tìm cá, xin cho tôi làm nữ hoàng.

- Chà chà! Sao nhà nó lại muốn làm nữ hoàng?

- Thầy nó cứ nói với cá cho tôi làm nữ hoàng đi.

- Nhà này, tôi không dám xin thế, cá chẳng cho đâu. Làm nữ hoàng trị vì cả một nước lớn. Cá không thể cho nhà làm nữ hoàng được đâu, chắc chắn là không được đâu.

- Hừ! Tôi làm nữ vương, thầy nó chẳng qua chỉ là anh chồng tôi thôi. Nhà có đi ngay không? Nhà đi ngay đi! Cá đã có thể làm cho nữ vương thì cá có thể cho làm nữ hoàng được. Tôi muốn làm nữ hoàng cơ mà. Thầy nó phải đi ngay.

Thế là chồng đành phải đi. Bác vừa đi vừa lo ngay ngáy, nghĩ bụng: “Thật quả là không biết điều. Thật là quá đáng. Cá cũng đến phát chán”.

Khi đến bờ biển, bác thấy nước đen ngòm, nổi bọt lên sùng sục, sóng gió ầm ầm. Bác rét run, gọi cá đến bảo:

- Cá ơi cá, Indêben vợ tôi nó ước mong một điều.

- Lại điều gì nữa?

- Trời ơi, nó muốn làm nữ hoàng.

- Bác cứ về đi, bác gái thành nữ hoàng rồi đấy.

Người đánh cá quay gót trở về. Khi tới nhà thì thấy toàn bộ lâu đài làm bằng đá cẩm thạch bóng lộn, lại có cả tượng bằng đá trắng, đồ trang trí bằng vàng. Trước cổng có lính thổi kèn đáng trống. Các bậc công hầu đứng chầu nhộn nhịp bên trong. Họ mở cổng cho bác vào, cửa bằng vàng nguyên chất. Bác thấy vợ ngự trên ngai đúc bằng vàng cao hai thước, đầu đội mũ miện vàng cao hơn ba tấc, nạm ngọc và kim cương, một tay cầm quả cầu tượng trưng ngôi nữ
hoàng. Hai lính ngự lâm sắp thành hai hàng, từ người khổng lồ cao hai trượng đến người lùn xíu vừa bằng ngón tay út. Trước mặt vợ bác, một đám đông vua chúa đứng hầu. Bác tiến vào giữa đám người đó và bảo vợ:

- Này nhà, bây giờ nhà đã là nữ hoàng rồi nhỉ?

- Phải tôi là nữ hoàng rồi.

Bác đứng ngắm vợ hồi lâu rồi nói:

- Này nhà làm nữ hoàng thích lắm nhỉ.

Vợ nói:

- Thầy nó làm gì mà cứ đứng đực ra đấy? Nay tôi đã được làm nữ hoàng rồi, nhưng tôi lại muốn làm Giáo hoàng kia. Thầy nó đi tìm cá đi.

- Chết rồi, nhà đòi thế không được đâu. Khắp thế giới công giáo chỉ có một vị giáo hoàng thôi, cá không làm được việc ấy đâu.

- Tôi muốn làm Giáo hoàng, thầy nó đi ngay đi. Tôi muốn là Giáo Hoàng ngay ngày hôm nay.

- Nhà ạ, tôi chẳng dám xin đâu, không thể được đâu! Như thế quá đáng, cá không thể cho nhà làm Giáo Hoàng đâu.

- Gớm, nói lôi thôi mãi. Cá cho tôi làm nữ hoàng được thì cũng cho tôi làm Giáo Hoàng được chứ! Thầy nó đi ngay đi. Tôi là nữ hoàng còn thầy nó là chồng tôi thôi. Thầy nó có chịu đi hay không thì bảo?

Bác trai sợ phải ra đi, bụng phân vân, người run cầm cập, chân đi lẩy bẩy. Gió thổi ào ào, mây đen phủ kín khiến bầu trời tối xám. Lá cây rào rào, sóng vỗ vào bờ ầm ầm. Đằng xa, những con tàu bị sóng đánh ngả nghiêng phải bắn súng báo động. Giữa trời còn có một điểm xanh. Nhưng chung quanh mây đã kéo kín đặc, báo hiệu một trận bão to. Bác lại gần mặt nước, khiếp sợ nói:

- Cá ơi! Tôi đã hết sức can ngăn mà Indêben vợ tôi nó vẫn ước mong một điều.

- Điều gì thế bác?

- Trời ơi, nó muốn làm Giáo hoàng.

- Bác cứ về đi, bác gái làm Giáo hoàng rồi đấy.

Bác về tới nhà thì thấy một nhà thờ rộng mông mênh, chung quanh san sát những lâu đài. Bác phải rẽ đám đông mới vào được. Ở trong thắp hàng trăm nghìn đèn nến sáng trưng. Vợ bác phủ vàng từ đầu đến chân, ngự trên ngai vàng cao hơn ngai vàng trước nhiều, đầu đội ba cái mũ miện bằng vàng, chung quanh có đông đảo giáo sĩ. Hai bên có hai hàng nến, cây lớn nhất to và cao như ngọn tháp lớn, cây bé nhất chỉ bằng cây đền nhà bếp, các vua chúa thì quỳ xuống hôn giầy bác gái. Bác ngắm vợ rồi nói:

- Thế là nhà trở thành Giáo hoàng rồi nhỉ?

- Phải tôi đã là Giáo Hoàng rồi.

Bác đứng ngẩn ra ngắm vợ y như nhìn mặt trời. Một lát sau bác nói:

- Nhà là Giáo hoàng thì thích lắm nhỉ!

Vợ ngồi im như khúc gỗ, chẳng đáp. Bác lại nói tiếp:

- Nhà này, bây giờ đã được làm Giáo hoàng thì chắc mãn nguyện rồi, không còn gì hơn nữa mà mong.

- Để xem sao đã.

Rồi vợ chồng đi ngủ. Nhưng vợ không sao ngủ được vì lòng tham chưa thỏa cứ nghĩ mãi xem có làm gì hơn được nữa không. Chồng đi cả ngày mệt, ngủ một mạch đến sáng. Còn vợ thì suốt đêm trằn trọc không sao ngủ nhắm mắt, tưởng đến cách làm to hơn nữa mà nghĩ không ra. Trời rạng đông, bác ngồi nhổm dậy trông ra ngoài. Thấy ánh nắng chiếu qua cửa sổ, bác nghĩ " Ước gì mình sai khiến được mặt trời, mặt trăng mọc". Bác bèn lấy khuỷu tay hích vào chồng mà nói:

- Thầy nó ơi, dậy đi tìm cá, bảo cá tôi muốn được y như chúa trời.

Chồng còn đang ngái ngủ nghe vợ nói, giật mình ngã xuống đất. Bác ngỡ là nghe lầm, dụi mắt, hỏi:

- Nhà vừa nói gì thế?

- Thầy nó ạ, nếu tôi không sai được mặt trời mặt trăng mọc, và nếu tôi thấy mặt trời mặt trăng mọc mà không theo lệnh tôi thì tôi không chịu được đâu. Nếu chính tôi không làm cho mặt trời mặt trăng mọc thì tôi sẽ không lúc nào yên đâu.

Vợ nhìn chồng với một con mắt dữ tợn, khiến chồng lạnh toát xương sống và nói:

- Thầy nó đi ngay đi, tôi muốn làm Chúa trời.

Chồng quỳ trước mặt vợ, can:

- Nhà ạ, cá không thể làm việc đó đâu. Cá có thể làm cho nhà làm nữ hoàng, làm Giáo hoàng là cùng. Tôi van nhà, nhà nên biết điều, cứ làm Giáo hoàng thôi.

Bác gái khùng lên, xõa tóc tung ra, xé áo, đạp chồng thét lên:

- Tôi không chịu nổi nữa, thầy nó phải đi ngay đi!

Chồng vội mặc quần áo, chạy ra đi, như người mất trí. Bão ầm ầm, bác đi không vững bước. Nhà cửa cây cối rung động, núi chuyển đá lăn xuống bể. Trời đen tối như mực, sấm vang chớp nhoáng, bể nổi sóng đen kịt và cao như gác chuông nhà thờ, như núi, trắng xóa bọt bể. Bác kêu lên mà cũng không thể nghe thấy tiếng gọi của mình.

- Cá ơi cá, tôi đã ngăn mãi mà Indêben vợ tôi nói cứ ước mong một điều.

- Điều gì?

- Nó muốn làm Chúa trời.

- Bác về đi sẽ thấy bác gái lại ở túp lều như xưa.

Thế là từ đó hai vợ chồng lại cứ túp lều cũ mãi cho đến ngày nay.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:16:41 | Chỉ xem của tác giả
Đóa hồng

Ngày xưa có một ông vua và một bà hoàng hậu ngày nào cũng nói: "Ước gì mình có đứa con!" mà mãi vẫn không có. Một hôm hoàng hậu đang tắm thì có con ếch ở dưới nước nhảy lên nói:

- Điều bà mong ước bấy lâu sẽ thành sự thực. Hết năm nay bà sẽ sinh con gái.

Lời ếch tiên tri quả đúng thật. Hoàng hậu sinh con gái đẹp tuyệt trần. Vua thích lắm, mở hội lớn ăn mừng. Vua mời họ hàng thân thuộc, bạn bè, lại mời cả các bà mụ đến để họ tận tâm chăm sóc, thương yêu con mình.

Trong nước có mười ba bà mụ. Nhưng vua chỉ có mười hai cái đĩa vàng để mời ăn, do đó mời thiếu một bà. Hội hè linh đình. Lúc tiệc sắp tàn, các bà mụ niệm chú mừng đứa bé những điều kỳ lạ: bà đầu chúc đức hạnh, bà thứ hai chúc sắc đẹp, bà thứ ba của cải... cứ như vậy chúc tất cả các điều có thể mơ ước được ở trần gian. Mười một bà vừa dứt lời chúc tụng thì bỗng bà mụ thứ mười ba bước vào. Bà muốn trả thù vì không được mời dự tiệc. Bà xăm xăm bước thẳng vào chẳng thèm nhìn ai, chào ai. Bà hét lên:

- Công chúa đến năm mười lăm tuổi sẽ bị mũi quay sợi đâm phải mà chết.

Rồi bà chẳng nói thêm nửa lời, bỏ đi. Mọi người chưa hết kinh ngạc thì bà thứ mười hai bước lên. Bà tuy chưa niệm chú chúc tụng nhưng cũng không giải được lời chú độc, mà chỉ làm nhẹ đi được thôi. Bà nói:

- Công chúa sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc dài trăm năm thôi.

Vua muốn tránh cho con khỏi bị nạn ra lệnh cấm kéo sợi trong cả nước. Tất cả những lời chúc của các bà mụ đều thành sự thực: công chúa đẹp, đức hạnh, nhã nhặn, thông minh, ai thấy cũng phải yêu.

Năm ấy, công chúa vừa đúng mười lăm tuổi. Một hôm, vua và hoàng hậu đi vắng, nàng ở nhà một mình. Nàng đi khắp cung điện để xem tất cả các buồng, thích đâu tạt vào đó. Sau cùng nàng tới một lầu cao. Nàng trèo lên chiếc thang xoáy ốc chật hẹp, tới một cửa nhỏ. Ổ khóa có cắm một chiếc chìa đã gỉ, nàng cầm chìa quay thì cửa mở tung ra. Trong buồng có một bà già ngồi trên tấm ghế nhỏ đang chăm chú kéo sợi. Nàng nói:

- Chào bà. Bà làm gì đấy?

Bà lão gật gù đáp:

- Bà kéo sợi đay.

- Cái gì nhảy nhanh như cắt thế kia hở bà?

Nàng cầm lấy xa định kéo sợi. Vừa sờ đến thì lời chú thực hiện, nàng bị mũi quay đâm vào tay.
Nàng ngãä ngay xuống giường và ngủ mê mệt. Tất cả cung điện đều ngủ. Vua và hoàng hậu vừa về, mới bước chân vào buồng đã nhắm mắt ngủ. Cả triều đình cũng lăn ra ngủ. Ngựa trong chuồng, chó ngoài sân, bồ câu trên mái nhà, ruồi trên tường, đều ngủ. Cả ngọn lửa đang chập chờn trên bếp cũng ngủ yên. Thịt quay cũng ngừng xèo xèo. Bác đầu bếp thấy chú phụ bếp đãng trí đang kéo tóc chú cũng buông ra ngủ. Gió lặng yên trên cây trước lâu đài, không
một chiếc lá nào rung. Bụi gai mọc quanh mỗi ngày một rậm, phủ kín cả lâu đài, trong miền ấy, nhân dân truyền tụng là có Đóa Hồng xinh đẹp đương ngủ triền miên. Người ta gọi công chúa là Đóa Hồng. Thỉnh thoảng các Hoàng tử nghe kể chuyện định chui qua bụi vào lâu đài
nhưng không nổi vì bụi gai như có tay, nắm chặt họ lại khiến họ bị mắc nghẽn.

Năm tháng trôi qua đã nhiều. Một hôm lại có một Hoàng tử tới nước này. Chàng nghe một ông lão kể lại là trong tòa lâu đài sau bụi gai có nàng công chúa tên là Đóa Hồng ngủ triền miên đã được trăm năm. Vua, hoàng hậu và cả triều đình cũng đều ngủ cả. Ông lão còn bảo là theo lời tổ phụ để lại thì đã có nhiều Hoàng tử tìm cách chui qua bụi rậm nhưng bị mắc lại ở đấy. Chàng liền bảo:

- Tôi không sợ, tôi muốn chui vào tìm nàng Đóa Hồng xinh đẹp.

Ông lão hết sức can ngăn, chàng nhất định không nghe. Thời hạn trăm năm đã qua. Đã đến lúc Đóa Hồng tỉnh giấc. Hoàng tử đến gần bụi gai thì chỉ thấy toàn những đóa hoa to tươi
đẹp tự động giãn lối để chàng khỏi bị thương. Chàng đi rồi thì bụi cây khép lại. Ở sân lâu đài, chàng thấy ngựa và những con chó lốm đốm đang nằm ngủ. Chim bồ câu rũ đầu vào cánh đậu trên mái nhà. Chàng vào cung thì thấy ruồi bậu trên tường ngủ, bác đầu bếp còn giơ tay như định tóm lấy chú phụ bếp. Còn cô hầu gái thì đương ngồi làm lông con gà đen. Chàng đi vào cung điện chính thì thấy cả triều đình đều ngủ. Chàng lại tiếp tục đi. Im lặng như tờ. Có thể
nghe thấy hơi thở của chàng. Sau chàng tới một tòa lầu, mở cửa vào một phòng nhỏ là nơi Đóa Hồng đang ngủ. Nàng nằm trông đẹp lộng lẫy. Chàng không rời mắt ra được, quì xuống hôn.

Chàng vừa đụng môi thì Đóa Hồng mở mắt, nhìn chàng trìu mến. Hai người dắt nhau xuống lầu. Vua, rồi hoàng hậu và cả triều đình đều tỉnh dậy, giương mắt nhìn nhau. Ngựa ngoài sân đứng lên quẫy mình; chó săn nhảy lên ngoe nguẩy đuôi; bồ câu trên mái nhà vươn cổ ngóc đầu nhìn quanh rồi bay qua cánh đồng; ruồi bậu trên tường lại tiếp tục bò; lửa trong bếp bùng lên, chập chờn và đun thức ăn, thịt quay lại xèo xèo, bác đầu bếp tát chú phụ bếp một cái bạt
tai làm hắn kêu lên, các cô hầu làm nốt lông gà.

Lễ cưới của Hoàng tử và nàng Đóa Hồng được tổ chức linh đình. Hai vợ chồng sống suốt đời sung sướng. Nàng công chúa được Hoàng Tử đánh thức sau giấc ngủ một trăm năm. Lời nguyền độc ác của bà mụ thứ mười ba bị hóa giải, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:21:21 | Chỉ xem của tác giả
Con ngỗng vàng

Xưa có một người có ba con. Con thứ ba tên là chàng Ngốc thường bị khinh rẻ chế giễu và làm việc gì cũng bị gạt ra. Một hôm, con cả muốn vào rừng đốn củi. Trước khi anh ta đi, người mẹ cho anh ta một chiếc bánh trứng ngon lành và một chai rượu vang để mang theo ăn uống. Anh vào rừng gặp một ông lão nhỏ bé, tóc hoa râm, chào anh và nói:

- Cho lão xin miếng bánh ở trong bị anh và một ngụm rượu vang. Lão vừa đói vừa khát đây.

Anh chàng khôn ngoan đáp:

- Nếu tôi cho lão bánh và rượu thì tôi chẳng còn gì! Thôi lão xéo đi!

Rồi anh để kệ ông lão ở đấy mà đi. Anh đẵn cây được một lát thì trượt tay, rìu chém vào cánh tay, phải về nhà băng bó. Tai nạn ấy chính do ông lão bé nhỏ gây ra. Sau đó, người con thứ hai đi rừng. Người mẹ cũng cho một chiếc bánh trứng và một chai rượu vang y như với con cả. Ông lão bé nhỏ cũng đến xin anh miếng bánh và ngụm rượu. Người con thứ hai cũng rất khôn:

- Tôi cho lão cái gì là tôi thiệt cái ấy. Thôi lão xéo đi!

Rồi anh để kệ ông lão ở đấy mà đi. Anh cũng bị trừng phạt ngay: anh mới chặt cây được vài nhát thì chặt ngay vào chân, phải lê về nhà.

Chàng Ngốc liền nói:

- Thưa bố, bố để cho con đi đốn củi một lần.

Bố đáp:

- Thôi! Hai anh mày bị thương. Mày đốn củi thế nào được!

Chàng Ngốc xin mãi, cuối cùng bố đành bảo:

- Thôi thì mày cứ đi đi. Có vấp thì mới sáng mắt ra.

Mẹ cho một chiếc bánh luộc ủ tro và một chai bia chua. Anh vào rừng thì cũng gặp một ông lão bé nhỏ tóc hoa râm, chào anh rồi bảo:

- Cho lão xin một miếng bánh và một ngụm rượu, lão vừa đói vừa khát đây.

Chàng Ngốc đáp:

- Cháu chỉ có bánh ủ tro và bia chua thôi. Nếu cụ thấy tạm được, thì ông cháu ta ngồi xuống cùng đánh chén.

Họ ngồi xuống. Chàng Ngốc rút bánh ủ tro ra thì thấy đó là một chiếc bánh trứng ngon lành; bia chua đã biến thành rượu vang ngon. Ăn uống xong, ông lão bảo:

- Cháu tốt bụng, sẵn sàng chia của mình cho người khác. Để lão ban phúc cho. Chỗ kia có cây cổ thụ, cháu đẵn xuống sẽ thấy trong đám rễ cây có của quí.

Nói xong ông lão từ biệt lên đường.

Chàng Ngốc đi đẵn cây. Hạ cây xuống thì thấy trong đám rễ có một con ngỗng lông bằng vàng thật. Anh nhấc ngỗng lên ẵm vào một quán trọ để ngủ đêm. Chủ quán có ba con gái. Ba cô thấy ngỗng, tò mò không biết là chim gì mà lạ thế, chỉ muốn lấy một chiếc lông của nó. Cô cả nghĩ cách nhổ trộm một chiếc. Khi chàng Ngốc vừa ra, chị nắm ngay lấy cánh ngỗng. Nhưng tay bị dính chặt vào đó, không rút ra được. Một lát sau, cô thứ hai đến cũng chỉ chăm chăm muốn lấy một chiếc lông vàng. Cô vừa đụng đến cô chị thì bị dính ngay vào chị. Cô thứ ba cũng tới cũng định tâm lấy lông. Hai cô chị kêu lên:

- Ối trời ơi là trời, tránh ra, tránh ra!

Cô út chẳng hiểu tại sao lại phải tránh ra, nghĩ bụng các chị làm thì mình cũng làm được, liền nhảy lại. Cô vừa đụng tới các chị thì cũng bị dính vào. Cả ba cô suốt đêm phải ở liền với ngỗng. Sáng hôm sau, chàng ngốc mang ngỗng ra đi, cũng chẳng để ý đến ba cô dính vào ngỗng. Các cô đành lẽo đẽo theo sau, rẽ sang phải sang trái tùy theo bước của anh. Giữa đồng, cha xứ gặp cả đoàn người bèn nói:

- Đồ gái quạ mổ, không biết xấu hổ à? Cứ bám lấy giai ra đồng như vậy coi có được không?

Cha liền nắm tay cô út kéo lại; cha vừa đụng đến thì chính cha cũng bị dính vào và cũng phải lẽo đẽo đi theo. Một lúc sau, người giữ đồ thánh thấy cha xứ lẽo đẽo theo ba cô, ngạc nhiên quá hỏi:

- Thưa cha, cha đi đâu mà vội vàng thế? Cha nhớ là hôm nay còn phải làm lễ rửa tội cho một đứa trẻ nữa cơ đấy.

Ông ta chạy theo nắm áo cha thì cũng bị dính vào. Năm người đang bước thấp bước cao như vậy thì gặp hai bác nông dân vác cuốc ở đồng về. Cha xứ gọi họ, nhờ gỡ hộ mình và người giữ đồ thánh ra. Hai bác vừa sờ đến thì bị dính vào nốt. Như vậy là bảy người đi theo chàng Ngốc ôm ngỗng.

Anh đi tới kinh kỳ. Nhà vua có một cô gái nghiêm nghị, không ai làm cô cười được. Vua phán là ai làm cho cô cười thì được lấy cô. Chàng Ngốc nghe thấy nói vậy, liền vác ngỗng và cả bảy người theo đuôi đến trước công chúa. Nàng thấy bảy người lếch thếch theo nhau, liền cười sằng sặc, không kìm lại được nữa. Chàng Ngốc liền đòi lấy nàng. Vua không thích chàng rể này, viện cớ nọ cớ kia để từ chối, ra điều kiện cho anh phải tìm ra người uống hết được một hầm rượu vang thì mới cho lấy. Chàng Ngốc nghĩ đến ông lão nhỏ bé, có thể giúp được mình,
liền vào rừng tìm. Tới chỗ cây bị đẵn, anh thấy có một người ngồi, mặt buồn rười rượi. Anh hỏi y sao lại buồn bao thế. Y đáp:

- Tôi khát quá, uống bao nhiêu cũng không đỡ khát. Tôi không chịu được nước lã. Quả là tôi đã uống cạn một thùng rượu, nhưng chẳng qua mới như muối bỏ bể.

Chàng Ngốc nói:

- Thế để tôi giúp anh. Anh chỉ việc đi với tôi là tha hồ uống.

Anh dẫn người ấy đến hầm rượu nhà vua. Y nhảy xổ vào những thùng rượu to, uống mãi, uống mãi đến căng cả bụng. Chưa hết một ngày, anh đã uống sạch cả hầm rượu.

Chàng Ngốc lại đòi lấy công chúa. Nhưng vua bực lắm, không muốn để một tên vớ vẩn mà mọi người gọi là Ngốc lấy con gái mình. Vua lại ra những điều kiện mới: anh ta phải tìm cho ra được một người ăn nổi một núi bánh. Chàng Ngốc chẳng suy nghĩ gì lâu la, lại đi ngay vào rừng. Vẫn ở chỗ cũ có một người mặt mũi thiểu não, thắt chặt bụng bằng dây da và nói:

- Tôi đã ăn cả một lò bánh, nhưng không ăn thua gì. Tôi háu đói quá. Bụng vẫn lép kẹp, phải thắt lại kẻo chết đói mất.

Chàng Ngốc thấy vậy cả mừng bảo:

- Thôi đi đi, đi với tôi thì tha hồ no nê.

Anh dẫn người ấy vào triều. Vua cho tập trung bột mì cả nước lại rồi sai nướng một núi bánh khổng lồ. Người ở rừng chỉ ăn một ngày hết sạch cả núi bánh.

Lần thứ ba, chàng Ngốc lại đòi lấy công chúa. Vua tìm cách thoái thác, đòi có một chiếc tàu đi được cả ở trên cạn lẫn dưới nước. Vua nói:

- Nếu tàu ấy cặp bến thì lập tức ngươi được lấy con gái ta.

Chàng Ngốc đi thẳng vào rừng. Ông lão được anh cho bánh vẫn ngồi đó, bảo anh:

- Chính lão đã uống và ăn hộ cho anh. Để lão cho anh chiếc tàu. Gì lão cũng làm, vì anh đã cư xử với lão tử tế.

Lão bèn cho anh một chiếc tàu đi được cả trên cạn lẫn dưới nước. Vua thấy không còn cách gì giữ con gái được nữa đành cho tổ chức đám cưới. Sau khi vua mất, chàng Ngốc lên ngôi. Vợ chồng sống hưởng hạnh phúc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 19-9-2011 11:04:33 | Chỉ xem của tác giả
siwang gửi lúc 18-9-2011 20:43
Hai anh em

Xưa có hai anh em, anh thì giàu mà em thì nghèo. Người anh giàu có làm ngh ...


Hai anh em (tiếp và hết)

Chàng gọi sư tử vào và bảo: "Chú sư tử, chú vốn thích rượu. Chú hãy vào lấy thứ rượu nho của vua về cho ta". Sư tử đi ra đường, ai thấy nó cũng chạy; tới chỗ chòi gác. Lính canh định cản đường nó, nó rống lên một tiếng, mọi thứ đã bị bắn tung đi hết. Sư tử đến trước phòng vua, quất đuôi lên cửa. Công chúa ra, thoạt thấy nó rất kinh khủng, nhưng rồi nàng nhận ra nó nhờ có cái chìa khóa vàng buộc ở cổ nó. Nàng gọi nó vào phòng, hỏi: "Sư tử thân yêu ơi, sư tử muốn gì?".
Sư tử đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Tôi vào xin thứ rượu nho mà vua vẫn uống". Công chúa vội cho gọi người hầu rượu, sai đem thứ rượu nho vua vẫn uống ra cho sư tử. Sư tử nói: "Để tôi đi xem có đúng thứ ấy không!".
Nó liền đi theo người hầu rượu. Xuống dưới hầm, người này định lấy thứ rượu thường của bọn người hầu vẫn uống. Sư tử bảo:
"Khoan, đợi ta nếm xem đã!". Nó tự rót lấy nửa bình, tu một hơi cạn ráo. Nó bảo: "Không phải thứ này". Người hầu rượu liếc trộm nó rồi ra chỗ thùng rượu khác, định lấy thứ rượu vẫn dành cho quan nguyên soái. Sư tử lại bảo: "Khoan để ta nếm xem đã!". Nó tự rót nửa bình nữa, tu cạn: "Có khá hơn nhưng vẫn chưa phải".
Người hầu rượu phát cáu mới nói: "Cái đồ súc vật, ngu độn còn biết gì về rượu!". Tức thì gã bị sư tử vả ngay cho một cái vào sau gáy ngã phục xuống bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại rồi, gã không dám nói gì nữa, cứ lẳng lặng đưa sư tử đến bên một cái hầm đặc biệt nhỏ nhắn. Trong đó là rượu của vua. Xưa nay ngoài vua ra không ai được uống.
Sư tử lại rót lấy nửa bình nếm trước. Xong nó bảo: "Có thể đúng đấy". Nó sai gã kia rót ra sáu chai đầy, rồi cùng đi lên. Lúc ra tới bên ngoài, nó thấy chuyếnh choáng hơi say. Gã kia đem rượu ra đến tận cửa cho nó. Nó ngoạm giỏ rượu vào mồm tha về cho chủ.
Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa ông chủ, bánh, thịt, rau, đồ ngọt, rượu nho của vua đã có đủ cả, giờ ta mới cùng mấy con vật thưởng thức đây".
Chàng ngồi vào ăn uống, lại chia cả cho thỏ, cáo, sói, gấu, sư tử cùng ăn và uống. Chàng thấy công chúa vẫn yêu mình nên vui lắm. Ăn xong, chàng bảo: "Này ông chủ, tôi đã ăn uống như vua rồi, giờ tôi muốn vào triều để xin lấy công chúa đây!". Chủ quán hỏi: "Xin
thế nào được! Công chúa đã có nơi có chốn rồi, mà hôm nay là ngày cưới kia mà".
Chàng bèn rút túi ra lấy cái khăn tay mà công chúa đã cho chàng ở trên núi rồng khi trước, trong khăn tay vẫn gói bảy cái lưỡi của con quái. Chàng nói: "Ta đã có vật này trong tay, nó sẽ giúp ta làm việc ấy". Chủ quán xem cái khăn rồi bảo: "Tin gì thì tin chứ điều đó tôi không thể tin được. Tôi sẵn lòng xin cuộc cả nhà cửa, sân vườn đây!". Chàng thợ săn lại lấy ra một cái túi trong đó có nghìn đồng vàng, đặt lên bàn rồi nói: "Ta cũng xin cuộc số vàng này".
Ở bàn ăn trong cung, vua hỏi công chúa: "Mấy con thú cứ đi ra đi vào trong cung, chúng đến chỗ con có việc gì thế?". Nàng đáp: "Con chẳng dám tâu trình đâu, xin cha cứ cho người đi gọi chủ nhân của nó tới đây, cha sẽ rõ".
Vua sai kẻ hầu đến quán trọ mời người lạ mặt. Kẻ hầu đến, đúng như chàng thợ săn đã đánh cuộc với chủ quán. Chàng bảo:
"Ông thấy chưa, ông chủ, vua sai kẻ hầu đi mời tôi đó, nhưng tôi chẳng đi như thế này đâu".
Chàng lại bảo người hầu: "Ngươi về tâu vua xin hãy gởi hoàng bào cho ta, xin hãy cấp cho ta một cỗ xe sáu ngựa với một số quân hầu".
Vua được tin báo, hỏi công chúa: "Làm sao bây giờ?". Công chúa đáp: "Xin cứ triệu và cấp mọi thứ như chàng đòi, sẽ không uổng đâu". Vua bèn sai đem áo hoàng bào với một cỗ xe sáu ngựa cấp cho chàng, lại cấp cho một số người để hầu hạ chàng. Chàng thợ săn thấy đoàn người kéo đến, bảo chủ quán : "Thấy chưa, ông chủ, thế là tôi đã được triệu, đúng như tôi đòi đấy nhé". Chàng mặc áo hoàng bào, cầm theo chiếc khăn gói lưỡi rồng rồi lên xe vào chầu.
Vua thấy chàng đã đến, hỏi con gái: "Ta tiếp hắn thế nào đây?".
Nàng đáp: "Xin Người cứ ra đón, sẽ không uổng đâu".
Vua bèn đón chàng, đưa chàng vào, mấy con vật cũng đi theo sau. Vua chỉ cho chàng ngồi cạnh mình với công chúa. Còn tên nguyên soái ngồi ghế chú rể ở phía bên kia, nhưng gã không nhận ra được chàng.
Vừa khi đó, bảy chiếc đầu rồng được đem bày. Vua phán: "Bữa nay, ta gả con gái cho quan nguyên soái là để thưởng cái công đã chém được bảy chiếc đầu này".
Chàng thợ săn liền đứng lên, ra mở từng đầu một hỏi: "Thế bảy cái lưỡi rồng đâu?". Tên nguyên soái sợ tái mặt. Không biết trả lời ra sao, sau cùng gã nói liều: "Rồng không có lưỡi".
Chàng thợ săn bảo: "Chỉ những đứa gian trá mới không có lưỡi, còn lưỡi rồng chính là vật chứng của người thắng trận". Chàng cởi chiếc khăn ra, bảy cái lưỡi vẫn nguyên đó. Chàng lắp từng cái một vào từng đầu rồng, quả nhiên đều khớp hết. Sau đó chàng lại đưa
cho công chúa xem chiếc khăn thêu tên nàng và hỏi nàng đã cho ai chiếc khăn này. Công chúa đáp: "Cho người đã chém chết con rồng". Chàng lại gọi từng con vật lại, tháo lấy mấy sợi dây buộc ở cổ chúng rồi tháo cả cái khóa vàng ở cổ sư tử, đưa cho công chúa và hỏi của ai. Nàng đáp: "Mấy sợi dây buộc cổ và cái khóa vàng này đều là của thiếp, thiếp chia cho mấy con vật để thưởng chúng đã góp công giết rồng".
Khi ấy chàng thợ săn mới nói: "Thừa lúc thần đánh rồng xong, mệt mỏi ngủ mất, tên nguyên soái kia đã đi đến chặt đầu thần. Sau đó, gã đưa công chúa đi và mạo nhận là chính gã đã chém rồng.Mấy cái lưỡi, chiếc khăn tay với mấy sợi dây buộc cổ đây chứng minh là gã nói dối".
Chàng lại kể tiếp chuyện mấy con vật đã đi kiếm rễ cây thần về cứu chàng như thế nào, một năm qua chàng đã đi phiêu dạt những đâu, rồi cuối cùng lại quay trở về đúng nơi đây, nhờ chủ quán trọ nói cho nghe mà biết được mưu gian của tên nguyên soái.
Vua bèn hỏi công chúa: "Có đúng người này đã chém rồng không?"
Nàng đáp: "Tâu, đúng thế, giờ con mới dám nói ra cái tội của tên nguyên soái. Con không nói thì chuyện cũng lộ rồi. Nó đã bức con phải hứa giữ kín. Mà con xin để một năm lẻ một ngày sau hãy làm lễ cưới, chính cũng vì chuyện ấy".
Vua cho triệu mười hai mưu sĩ đến để luận tội tên nguyên soái. Các mưu sĩ khép hắn vào án tử hình. Xử tội hắn xong, vua cho chàng thợ săn lấy công chúa, lại phong chàng làm phó vương trong cả nước. Đám cưới được tổ chức rất trọng thể. Phó vương cho người đi triệu bố đẻ và bố nuôi mình, tặng hai người rất nhiều châu báu. Chàng cũng không quên người chủ quán trọ. Chàng cho triệu người ấy vào, bảo: "Thấy không, ông chủ, tôi đã lấy công chúa rồi, nhà cửa sân vườn nhà ông giờ là của tôi".
Chủ quán thưa: "Thưa như vậy là đúng lý".
Nhưng vị phó vương đã bảo: "Thôi để ta khoan hồng cho: nhà cửa sân vườn ông cứ giữ, còn nghìn vàng nọ ta tặng thêm cho ông đó". Còn người bác nghe chuyện, sợ chàng hỏi tội trốn đi mất.
Phó vương với công chúa từ đó sống rất vui vẻ và hạnh phúc. Chàng đi săn luôn, vì đó là sở thích của chàng và mấy con vật trung thành thường đi theo chủ. Gần đó có một khu rừng. Người ra đồn trong rừng có quỷ và ít ai vào rừng mà lại ra được. Vị phó vương trẻ tuổi rất muốn đi vào đó săn. Chàng cứ nài mãi, cuối cùng ông vua già phải bằng lòng cho chàng đi. Chàng lên ngựa, đem theo một đoàn tùy tùng rất đông. Vào đến cửa rừng thấy con hươu cái lông trắng như tuyết. Chàng bảo những người theo hầu: "Các người hãy chờ ta ở đây, ta muốn đi săn con thú đẹp đẽ kia". Chàng thúc ngựa đuổi theo hươu vào rừng, chỉ có mấy con vật theo chàng thôi.
Đoàn người đứng lại đợi cho đến chiều, không thấy chàng ra. Họ đành quay ngựa về báo với công chúa: "Phó vương đuổi theo một con hươu trắng vào khu rừng thiêng rồi không thấy trở ra".
Công chúa lo cho chồng vô cùng. Trong lúc ấy, chàng vẫn mãi đuổi con thú mà không sao theo kịp nó được. Cứ đúng lúc chàng thấy vừa tầm bắn thì nó lại nhảy xa hơn và cứ thế sau rồi nó biến đâu mất.
Lúc này chàng mới thấy mình đã vào quá sâu trong rừng. Chàng đưa tù và lên rúc một hồi, không thấy trả lời vì không ai nghe được tiếng tù và của chàng. Tối đến, thấy rõ mình không kịp về nữa, chàng xuống ngựa, bên một gốc cây đốt lửa định bụng sẽ ngủ đêm tại đó.
Chàng vừa ngồi xuống bên đống lửa, mấy con vật cũng nằm quanh đó, chợt nghe văng vẳng như có tiếng người. Chàng nhìn quanh nhưng chẳng thấy gì. Lúc sau lại thấy có tiếng rên ở trên cao. Chàng nhìn lên thấy một mụ già ngồi vắt vẻo trên cây, đang rên rỉ: "Hu, hu, hu, rét quá!". Chàng bảo mụ: "Rét thì xuống đây mà sưởi".
Nhưng mụ ta đáp: "Chịu thôi, lũ súc vật của người sẽ cắn ta mất".
Chàng lại bảo: "Chúng không làm gì mẹ đâu, mẹ ơi, cứ xuống đây".
Mụ già ấy chính là một mụ phù thủy. Mụ bảo: "Để ta ném cây gậy xuống. Người cứ lấy cây gậy đập lên lưng chúng là chúng sẽ không làm gì ta nữa đâu". Nói rồi mụ ném xuống một cái gậy nhỏ.
Chàng lấy gậy đập lên lưng mấy con vật. Tức thì chúng nằm yên và bị hóa đá ngay tức khắc. Không phải lo về mấy con vật nữa, mụ phù thủy mới nhảy xuống, lấy cây gậy đập nốt vào người chàng, biến chàng thành đá. Xong mụ rú lên cười, lôi chàng và mấy con vật xuống một cái hố, trong lòng hố có nhiều tảng đá loại ấy rồi.
Công chúa ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, càng lo sợ. Vừa khi ấy, người anh lúc chia tay đi về hướng đông, nay cũng tới xứ này. Chàng đi tìm việc làm chẳng được, cứ lang thang đây đó, dạy mấy con vật nhảy múa làm trò vui. Một ngày kia, chàng muốn về thăm gốc cây, chỗ hai người đã cắm lưỡi dao lúc chia tay để xem em mình ra sao.
Trở về đó, chàng thấy bên mặt dao của em đã bị rỉ mất một nửa, chỉ còn một nửa vẫn sáng. Chàng lo quá, thầm nghĩ: "Chắc em ta gặp nạn lớn rồi, nhưng may ra còn cứu được, vì nửa dao kia vẫn sáng. Chàng vội dẫn súc vật đi về hướng tây. Lúc tới cổng thành, lính canh hỏi có cần phải vào tin cho hoàng hậu biết không: từ mấy hôm nay, hoàng hậu rất lo vì sự vắng mặt của phó vương, người chỉ sợ phó vương đã gặp họa trong rừng mất rồi.
Lính canh tưởng chàng chính là vị phó vương trẻ tuổi, vì nom chàng giống em như hệt, lại cũng có một đàn súc vật đi theo. Khi ấy chàng biết tên lính đã nhầm mình với em mình, bèn tự nghĩ thầm:
"Tốt nhất là ta hãy nhận đi, sẽ càng dễ cứu em hơn". Chàng liền để tên lính đưa mình vào trong cung và được đón tiếp rất vui vẻ. Công chúa cũng tưởng đó là chồng mình nên hỏi: "Tại sao chàng vắng nhà lâu thế?". Chàng đáp: "Ta bị lạc vào rừng, mãi mới tìm được lối ra". Tối đến chàng nằm trên giường em, để một thanh kiếm hai lưỡi chắn giữa mình và công chúa. Công chúa chẳng hiểu thế nào, nhưng không dám hỏi.
Chàng ở lại vài ngày, thăm dò mọi tin tức về khu rừng thiêng nọ, rồi chàng bảo: "Ta phải đến đó săn lần nữa". Vua và công chúa muốn can ngăn mà không được. Chàng dẫn một đoàn tùy tùng rất đông lên đường. Vào đến rừng, chàng cũng gặp đúng mọi sự như em mình trước đó. Chàng thấy một con hươu trắng, bèn bảo những người đi theo: "Hãy đợi ta ở đây, ta muốn săn con thú kia". Chàng thúc ngựa vào rừng, mấy con vật chạy theo sau chàng. Nhưng chàng không tài nào đuổi kịp được con hươu. Vào đã sâu quá, tối đến chàng phải ngủ lại trong đó. Vừa khi đốt được đống lửa, chàng nghe trên đầu có tiếng rên: "Hu, hu, hu, rét quá!". Chàng nhìn lên thấy mụ phù thủy ngồi trên cây. Chàng bảo: "Nếu rét, thì xuống đây mà sưởi mẹ ạ". Mụ đáp: "Chịu thôi, lũ súc vật của người sẽ cắn ta mất". Nhưng chàng lại bảo: "Chúng không làm gì mẹ đâu". Mụ bèn gọi xuống: "Ta sẽ ném cho người một cái gậy, người lấy gậy ấy mà đập chúng thì chúng sẽ không làm gì ta nữa".
Chàng thợ săn nghe thấy thế không tin mụ già nữa. Chàng bảo: "Ta sẽ không đánh mấy con vật của ta đâu, mụ hãy xuống đi, bằng không ta sẽ lôi mụ xuống". Mụ bèn hét lên: "Mày muốn gì nào? Mày làm gì được ta?". Nhưng chàng đáp: "Mụ không xuống thì ta sẽ bắn mụ ngã xuống". Mụ bảo: "Mày cứ việc bắn, ta không sợ gì mấy viên đạn của mày". Chàng giơ súng bắn, nhưng vì đạn chì nên không thể xuyên vào người mụ, Mụ cười sằng sặc và hét: "Mày không tài nào bắn trúng được ta đâu!". Chàng thợ săn đã biết, chàng vội rứt ba cái cúc bạc trên áo nạp luôn vào nòng súng. Vì như thế, tà thuật của mụ không linh thiêng nữa, nên khi chàng bấm cò thì nó hét lên lộn nhào ngay xuống đất. Chàng dẫm một chân lên người nó, bảo: "Con mụ phù thủy già, nếu mày không chịu thú em ta hiện ở đâu thì ta sẽ sách mày quăng luôn vào đống lửa".
Mụ sợ quá, xin tha và nói: "Chàng cùng mấy con vật đã bị hóa đá ở dưới một cái hố". Chàng liền bắt mụ dẫn tới đó, đe mụ và bảo: "Con khỉ độc già kia, giờ mày phải làm cho em ta và mọi vật ở dưới này sống lại. Bằng không ta sẽ ném mày vào lửa".
Mụ vội lấy gậy khẽ động vào các tảng đá, tức thì em chàng với mấy con vật đều sống lại, cả nhiều người khác nữa, lái buôn, thợ thủ công, mục đồng. Mọi người đứng dậy, cảm ơn cứu mạng, rồi kéo nhau về. Hai anh em gặp nhau, ôm hôn, vui mừng khôn kể. Hai người túm lấy mụ phù thủy, trói mụ lại vứt vào lửa. Sau khi mụ chết thiêu rồi, khu rừng tự nó cũng biến đổi, trở nên quang đãng sáng sủa hơn, có thể thấy được cung điện chỉ các đó ba giờ đường bộ.
Hai anh em cùng về. Dọc đường, hai người kể cho nhau nghe chuyện mình. Khi người em báo tin là chàng được thay vua trị vì cả nước thì anh bảo: "Điều ấy anh đã biết. Lúc anh vào thành, người ta cứ tưởng anh là chú nên đã dành cho anh mọi thứ nghi lễ của các bậc vua chúa. Ngay công chúa cũng tưởng anh là chồng nên anh đã phải ăn cùng bàn, nằm cùng giường với nàng".
Em nghe tới đó nổi ghen, điên tiết rút kiếm chém một nhát đứt lìa đầu anh. Đến lúc thấy anh nằm chết đó, máu tuôn chảy thì anh hối hận vô cùng. Chàng kêu lên: "Anh ta đã cứu ta mà giờ ta nỡ hại người", rồi khóc lóc thảm thiết. Thỏ chạy lại xin cho đi lấy rễ cây trường sinh. Nó đi rồi về còn vừa kịp: người chết sống lại và không biết gì về vết thương trên mình cả.
Hai người lại đi tiếp. Em bảo: "Nom anh giống em như hệt. Anh cũng mặc áo hoàng bào như em, đằng sau cũng có mấy con vật kéo theo. Ta thử vào hai cổng khác nhau rồi từ hai phía cùng đi vào chỗ vua ngự xem thế nào?".
Hai người tách ra. Sau đó vua thấy cùng một lúc lính canh ở hai cổng khác nhau cùng báo là phó vương dẫn mấy con vật đi săn về.
Vua phán: "Sao lại thế được, hai cổng thành cách nhau có đến một giờ đường bộ kia mà?". Trong khi ấy, hai anh em từ hai phía khác nhau đã cùng vào tới trước sân lâu đài và đang cùng bước lên. Vua hỏi công chúa: "Con bảo người nào là chồng con? Hai người giống hệt nhau, ta không phân biệt được". Công chúa sợ lắm, chẳng biết nói sao. Sau nàng chợt nhớ đến sợi dây vàng đã cho lũ súc vật để buộc cổ. Nàng tìm một lúc thấy ngay chiếc khóa vàng ở cổ một con sư tử. Nàng mừng quá, reo lên: "Người có con sư tử này đi theo mới thật là chồng con". Phó vương cười bảo: "Đúng, đúng vậy đó".
Mấy người cùng ngồi vào bàn ăn uống rất vui vẻ. Tối hôm ấy, lúc phó vương vào giường nằm, công chúa mới bảo:
"Tại sao mấy đêm trước, đêm nào chàng cũng đặt thanh kiếm hai lưỡi giữa giường, thiếp cứ nghĩ là chàng có ý định chém chết thiếp".
Khi ấy phó vương mới rõ hết tấm lòng của anh mình. Chân lý luôn thuộc về những con người trung hậu, dũng cảm. Những thế lực đen tối luôn bị chặn đứng trước những con người trung hậu, dũng cảm đó.


___________Hết truyện hai anh em____________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách