|
Ngay khi chúng tôi gia nhập vòng tròn, người phụ trách huấn luyện, một phụ nữ cao ráo, rắn rỏi có tên Atale bước lên phía trước và bắt đầu giải thích chế độ luyện tập. Các chuyên gia thuộc các lớp kỹ năng khác nhau sẽ đứng ở các khu riêng của mình. Chúng tôi được tự do đến những lớp tự chọn khác nhau, tùy theo sự chỉ đạo của người hướng dẫn. Chúng tôi không được phép tham gia bất cứ bài tập chiến đấu nào với một đấu thủ khác. Sẽ có người hỗ trợ nếu chúng tôi cần người đấu tập cùng.
Khi Atala bắt đầu đọc danh sách các lớp kỹ năng, tôi không thể không đưa mắt nhìn quanh những đấu thủ khác. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được tụ họp lại, ở đây, trong những bộ quần áo đơn giản. Tim tôi thót lại. Hầu hết bọn con trai và hơn nửa bọn con gái to lớn hơn tôi, mặc dù nhiều đứa cũng chưa từng được ăn uống đầy đủ. Bạn có thể thấy sự suy dinh dưỡng thể hiện qua xương xẩu, da dẻ, hay cặp mắt trũng sâu của chúng. Có thể là bề ngoài tôi nhỏ người hơn, nhưng nguồn thức ăn kiếm được ở nhà đã giúp tôi có chút lợi thế. Tôi đứng thẳng người, và dù gầy gò, trông tôi vẫn khỏe mạnh. Thịt và rau quả kiếm được trong rừng cùng với việc săn lượm hàng ngày đã giúp tôi có được vóc dáng chắc nịch hơn hầu hết những đứa bên cạnh.
Bọn trẻ đến từ những quận giàu có là ngoại lệ. Chúng là những đứa xung phong đến Đấu trường, những đứa được nuôi ăn và huấn luyện từ bé cho Đấu trường này. Đó thường là bọn đến từ Quận 1, 2 hay 4. Trên nguyên tắc, việc huấn luyện đấu thủ trước khi đến Capitol là trái với điều lệ, nhưng điều đó vẫn diễn ra hàng năm. Ở Quận 12, chúng tôi gọi chúng là những Vật tế Nhà nghề, hay đơn giản là bọn Nhà nghề. Và người thắng cuộc thường là một trong số chúng.
Lợi thế nho nhỏ của tôi trước khi vào Trung tâm Huấn luyện, màn xuất hiện bốc lửa vào tối qua, có vẻ đã mất đi khi trực tiếp gặp những đấu thủ của mình. Chúng ghen tị với hai đứa tôi không phải vì bản thân chúng tôi có gì thú vị, mà bởi những gì các nhà tạo mẫu đã làm. Giờ đây tôi chỉ thấy trong mắt bọn Đấu thủ Nhà nghề ánh lên sự coi thường. Mỗi đứa phải nặng hơn tôi từ hai mươi đến bốn mươi cân. Chúng tỏ ra ngạo mạn và hiếu chiến. Khi Atala nói xong, bọn chúng đến thẳng những thứ vũ khí trông đáng sợ nhất trong phòng tập và sử dụng chúng một cách dễ dàng.
Khi tôi đang nghĩ mình thật may mắn vì là một tay chạy có hạng thì Peeta huýt vào tay làm tôi giật mình. Cậu đang ở bên cạnh tôi như mệnh lệnh của Haymitch. Trông cậu khá điềm tĩnh. “Cậu muốn bắt đầu từ đâu?”
Tôi nhìn bọn Nhà nghề đang phô diễn; rõ ràng chúng muốn cả sàn tập khiếp sợ. Rồi tôi nhìn những đứa khác, những đứa thiếu ăn, thiếu khả năng, đang run rẩy tập bài học đầu tiên của chúng với con dao hay cái rìu.
“Chúng ta tập thắt nút thử xem,” tôi nói.
“Ở ngay đây thôi,” Peeta nói. Chúng tôi đi đến một lớp vắng tanh, người huấn luyện tỏ vẻ hài lòng khi có người đến học. Có vẻ lớp học thắt nút không phải là điểm nóng cho Đấu trường. Khi thấy tôi biết chút ít về đặt bẫy, ông tachi3 cho chúng tôi một cách đặt bẫy đơn giản nhưng hiệu nghiệm khiến đối thủ bị treo một chân lủng lẳng trên cây. Chúng tôi tập trung kỹ năng đó trong một giờ cho đến khi cả hai đều thành thạo. Rồi bọn tôi sang lớp học ngụy trang. Peeta tỏ ra thực sự thích thú với nơi này. Cậu trét một mớ những bùn, đất sét và ruột trái dâu lên khắp làn da nhợt nhạt của mình, cài thêm những dây nho và lá cây để ngụy trang. Người đứng lớp ngụy trang chỉ dẫn chúng tôi một cách không thể nhiệt tình hơn.
“Tớ học từ cách làm bánh,” Peeta thú nhận.
“Bánh ư?” tôi hỏi. Tôi đang để tâm vào một thằng Quận 2 vừa phóng một ngọn lao xuyên qua tâm hình nộm từ năm mươi mét. “Bánh nào cơ?”
“Ở nhà. Những chiếc bánh đông lạnh ấy, cho tiệm bánh mì,” cậu nói.
Peeta muốn nói đến những chiếc bánh được bày bên cửa sổ. Những chiếc bánh thơm ngon được trang trí hoa hòe và hình thù đẹp mắt bằng kem. Người ta mua chúng làm qua sinh nhật và mừng năm mới. Lúc ở quảng trường, Prim luôn kéo tôi lại để cùng trầm trồ nhìn chúng, mặc dù hai chị em chưa bao giờ có đủ tiền mua. Tôi khó mà không nghe theo con bé, bởi chẳng mấy khi mà tìm thấy điều gì đẹp đẽ ở Quận 12 này.
Tôi nhìn kỹ hơn vào hình thù trên cánh tay Peeta. Những vệt sáng tối đan xen giống như ánh sáng đang rọi qua những kẽ lá rừng. Tôi tự hỏi làm sao cậu lại biết làm vậy, vì tôi cứ ngỡ Peeta chưa bao giờ thoát khỏi vòng kèm cặp của cha mẹ. Chỉ cần nhìn cây táo già xơ xác sau vườn nhà là biết được điều đó ư? Dường như toàn bộ những điều ấy – kỹ năng của cậu ấy, những chiếc bánh đắt đỏ, lời khen ngợi từ chuyên gia hóa trang – đang làm tôi khó chịu.
“Khá đấy. Sao cậu không thử làm đông lạnh ai đó đến chết,” tôi nói.
“Đừng chủ quan. Cậu sẽ không lường trước điều gì ở đấu trường đâu. Giả sử người đó là một chiếc bánh bự tổ chảng…” Peeta bắt đầu cù nhây.
“Chúng ta đi tiếp thôi,” tôi ngắt lời.
Và ba ngày tiếp theo trôi qua khi Peeta và tôi lặng lẽ đi từ lớp này đến lớp học khác. Chúng tôi nhặt nhạnh được vài kỹ năng đáng giá, từ đánh lửa đến phóng dao và làm nơi ẩn náu. Mặc dù Haymitch yêu cầu chúng tôi không được thể hiện mình, Peeta vẫn nổi trội trong các bài đối kháng, còn tôi vượt qua trong nháy mắt bài kiểm tra về những loại cây cỏ ăn được. Dù vậy, chúng tôi tránh vào khu vực bắn cung và nâng tạ, để dành chúng trong buổi gặp riêng.
Ngay ngày đầu tiên Ban Giám khảo đã có mặt từ sớm. Khoảng hai mươi người cả đàn ông và đàn bà mặc áo choàng màu tím than. Họ ngồi trên một bệ cao xung quanh nhà tập luyện, thỉnh thoảng qua lại quan sát chúng tôi, hí hoáy viết những ghi chú, có lúc thì ngồi ăn trên một bàn tiệc dài tít tắp được phục vụ riêng, không để ý đến số đông chúng tôi. Nhưng họ có để mắt đến hai đấu thủ Quận 12. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp ai đó dán mắt vào mình. Họ cũng hỏi ý kiến của những huấn luyện viên trong lúc chúng tôi ăn. Khi trở lại nơi tập, chúng tôi thấy họ đang đứng cùng nhau.
Bữa sáng và bữa tối được phục vụ tại tầng của mỗi người, còn đến bữa trưa hai mươi bốn người chúng tôi sẽ đến một phòng ăn bên ngoài nhà tập luyện. Thức ăn được sắp vào những xe đẩy ở xung quanh phòng, ai tự phục vụ người nấy. Lũ Nhà nghề thường tụ tập huyên náo quanh một chiếc bàn, như thể muốn chứng tỏ sự vượt trội của mình, như thể muốn nói chúng tôi không sợ một ai và không thèm để mắt tới những người còn lại. Phần nhiều những vật tế khác ngồi một mình như cừu lạc. Không ai nói lời nào với chúng tôi, Peeta và tôi ngồi ăn cùng nhau, và từ khi Haymitch dặn chúng tôi phải làm thế, hai đứa cố gắng nói chuyện thân mật suốt bữa ăn.
Tìm được đề tài để nói cũng không dễ. Nói chuyện về gia đình thì buồn lắm. Nói về hiện tại cũng không dễ chịu gì. Một hôm, Peeta đổ rồ bánh mì và chỉ cho tôi thấy người ta đã cẩn thận thu gom từng lại bánh mì của từng quận, cùng với thứ bánh mì thô của Capitol như thế nào. Ổ bánh hình con cá có màu xanh rong biển là của Quận 4. Ổ bánh hình trăng lưỡi liềm lấm tấm hạt là của Quận 11. Dù được làm từ cùng một nguyên liệu, nó trông vẫn thu hút hơn nhiều so với những chiếc bích quy thô kệch vẫn thường thấy ở quận chúng tôi.
“Và cậu hiểu rồi đấy,” Peeta nói, xúc bánh mì lại vào rổ.
“Cậu rõ là biết nhiều thứ,” tôi nói.
“Chỉ về bánh mì thôi,” cậu nói. “OK, bây giờ hãy cười như thể tớ vừa nói chuyện gì vui nhộn nhé.”
|
|