|
Ngoài việc là loài chim ngộ nghĩnh, có vẻ chúng còn là một cái tát vào mặt đám người Capitol. Trong cuộc nổi loạn, Capitol đã tạo ra một loạt những con vật biến đổi gien như một thứ vũ khí. Người ta gọi chung chúng là mút-tai-to (muttations, một loài thú hư cấu), hay gọi ngắn gọn là baon5 mút (mutts, viết gọn của muttations). Trong số đó có một loài đặc biệt là con chim húng nhây (jabberjay, một loài chim hư cấu), có khả năng ghi nhớ và lặp lại toàn bộ cuộc đối thoại của con người. Chúng là loài chim đưa tin, chỉ có giống đực, được thả đến những vùng mà kẻ thù của Capitol đang ẩn náu. Sau khi những con chim này thu được tiếng, chúng bay trở lại trung tâm để được ghi âm lại. Phải một thời gian sau người ta mới nhận ra điều gì đang thực sự diễn ra ở các quận, và phiến quân đã truyền tin bí mật như thế nào. Và tất nhiên, những gì phiến quân dành cho Capitol chỉ là nói gạt, và người ta lấy chuyện này ra làm trò đùa. Kết quả, những trung tâm đó bị đóng cửa và loài chim này bị bỏ rơi cho đến chết ở nơi hoang vu.
Nhưng chúng không chết. Thay vào đó, loài húng-nhây này kết bạn với chim nhại (mockingbirds, một loài chim biết nhại tiếng người) mái, sinh ra một loài mới có thể nhại cả tiếng chim hót lẫn tiếng người. Chúng mất đi khả năng phát âm từng từ nhưng vẫn có thể nhại các giọng khác nhau của con người, từ giọng cao thánh thót của trẻ con đến giọng trầm của đàn ông. Chúng còn có thể hát lại những bài hát. Không chỉ một vài nốt mà là cả bài với những đoạn điệp khúc, nếu bạn đủ kiên nhẫn hát cho chúng nghe và chúng thích giọng hát của bạn.
Cha tôi đặc biệt thích loài chim húng nhại ấy. Khi chúng tôi đi săn, ông thường huýt gió hoặc hát cho chúng nghe những bài dài để rồi sau khi ngưng một lúc, chúng luôn hót đáp lại. Không phải ai cũng nhận được sự ưu ái đó. Bất cứ khi nào cha tôi hát, tất cả chim ở đó đều im bặt và lắng nghe. Giọng ông thật ngọt ngào, cao vút, trong veo đầy sức sống khiến người ta cảm thấy xốn xang khôn tả. Sau khi cha mất, tôi chưa bao giờ thử tập hát lại. Tuy nhiên, loài chim này vẫn mang lại cho tôi chút gì đó an ủi. Nó như mang theo sợi dây liên lạc giữa cha và tôi, bảo vệ tôi. Tôi cài chiếc ghim vào áo, và trên nền vải xanh đậm, con chim trông như đang bay qua lùm cây.
Effie Trinket đến đưa tôi đi ăn khuya. Tôi đi theo bà qua một hành lang hẹp trên toa tàu lắc lư, vào phòng ăn với những bức tường ốp sáng sủa. Bàn ăn bày bát dĩa bóng loáng. Peeta Mellart ngồi đợi chúng tôi đến, chiếc ghế bên cạnh không ai ngồi.
“Ông Haymitch đâu rồi nhỉ?” Effie Trinket hào hứng hỏi.
“Lần cuối cùng cháu thấy, ông ấy nói định chợp mắt một lát,” Peeta nói.
“Ừ, đúng là một ngày mệt đứ đừ,” Effie Trinket nói. Tôi nghĩ bà đang nhẹ người bởi sự vắng mặt của Haymitch, mà cũng đúng thôi.
Mọi người ăn vào bữa khuya. Xúp cà rốt sền sệt, xa lát, sườn cừu và khoai tây chiên, pho mát và trái cây, thêm một chiếc bánh sô cô la. Suốt bữa, Effie Trinket luôn miệng nhắc chúng tôi cứ từ từ thôi, bởi thức ăn sẽ còn ra nhiều nữa. Nhưng tôi ngấu nghiến thật lực bởi chưa bao giờ được thưởng thức những món thế này, quá nhiều và quá ngon, và bởi dường như điều tốt nhất tôi có thể làm từ giờ tới khi bước vào Cuộc đấu là tăng thêm vài cân.
“Ít nhất hai đứa cũng phải tỏ ra đúng mực một chút,” Effie nói khi chúng tôi ăn xong bữa chính. “Cặp đấu năm ngoái ăn hùng hục như hai hổ đói. Thật không thể nào chịu được.”
Đến từ khu Vỉa than, hai đứa trẻ được chọn năm ngoái chưa một ngày nào trong đời có được bữa ăn no. Khi có đồ ăn, trong đầu chúng chỉ nghĩ đến việc đánh chén. Peeta là con trai chủ tiệm bánh. Tôi và Prim thì đã được mẹ dạy ăn uống phải từ tốn, vậy nên tôi còn biết dùng cả dao và nĩa nữa. Nhưng do thậm ghét câu xét nét của Effie Trinket, tôi cố ý ăn bốc cho đến khi bữa ăn kết thúc. Rồi tôi lau tay vào khăn trải bàn. Thấy thế, bà mím chặt môi.
Cuối bữa, tôi cố gắng ngăn cơn buồn nôn. Tôi ngó qua Peeta, thấy cậu cũng đang ngồi xả hơi. Chưa đứa nào được ăn một bữa no nê thế này. Nhưng vì đã từng chịu đựng được món ăn tự chế của bà Greasy Sea gồm thịt chuột, lòng heo và vỏ cây – đặc sản của mùa đông – lần này tôi quyết tâm kìm lại.
Chúng tôi sang một gian phòng khác để xem tổng hợp buổi chiêu quân trên khắp Panem. Họ sắp xếp các buổi chiêu quân xen kẽ trong ngày để một người có thể xem trực tiếp ở các quận khác, nhưng thật ra chỉ có người ở Capitol mới xem được vì không ai trong số họ phải tham dự các cuộc chiêu quân.
Chúng tôi xem lần lượt ở các quận khác, cũng những cái tên được xướng lên, cũng những người tình nguyện bước lên phía trước nhưng thường thì không. Chúng tôi nhìn mặt những người sẽ là đối thủ của mình. Một số làm tôi ấn tượng. Một gã khổng lồ nhào lên tình nguyện ở Quận 2. Một con bé có khuôn mặt hồ ly và mái tóc đỏ mượt đến từ Quận 5. Thằng bé có chân bị tật ở Quận 10. Ám ảnh tôi nhất là con bé mười hai tuổi ở Quận 11. Con bé có làn da và đôi mắt màu nâu thẫm, nhưng hơn cả là vóc dáng và điệu bộ của nó rất giống Prim.
Cuối cùng, họ chiếu Quận 12. Prim được gọi tên, tôi xung phong làm người tình nguyện. Không thể không nhận ra sự tuyệt vọng trong giọng nói của tôi khi đẩy Prim ra đằng sau, như thể tôi sợ không ai nghe thấy và họ sẽ mang Prim đi mất. Nhưng tất nhiên là họ nghe. Tôi thấy Gale kéo nó ra khỏi tôi và nhìn tôi bước lên sân khấu.
Đám người bình luận trên truyền hình không biết phải nói gì khi đám đông từ chối hoan hô. Họ chào mừng bằng im lặng. Một người nói rằng tuy Quận 12 luôn kém hơn một chút, nhưng cái thông lệ địa phương này thật đáng mến. Oạch một cái, Haymitch ngã khỏi sân khấu và khán giả xuýt xoa một cách mỉa mai. Tên Peeta được bốc, và cậu lặng lẽ tiến lên chỗ của mình. Chúng tôi bắt tay. Họ lại cắt đến đoạn hát quốc ca, Chương trình kết thúc.
Effie Trinket rất bực mình về mái tóc giả của bà. “Người hướng dẫn (Mentor, tức là người thầy, người kèm cặp, ở đây chúng tôi dịch là người hướng dẫn. Từ này dùng dể ám chỉ Haymitch trong suốt câu chuyện.) của các cháu còn phải học nhiều về cách xuất hiện đấy. Học nhiều về cách ứng xử khi lên truyền hình.”
Peeta bật cười. “Ông ta say mà,” Peeta nói. “Năm nào ông ta cũng say.”
“Hàng ngày ấy chứ,” tôi thêm vào. Tôi cũng không thể không cười được. Effie Trinket làm như thể chỉ cần vài lời khuyên nho nhỏ của bà là có thể sửa được mớ hành động lỗ mãng của Haymitch không bằng.
“Vậy à,” Effie Trinket rít lên. “Làm thế nào hai đứa lại thấy chuyện này đáng cười được. Các cháu nên biết người hướng dẫn soi đường chỉ lối cho các cháu đến Đấu trường. Là người khuyên răn các cháu, kêu gọi nhà tài trợ và chuyển quà tài trợ đến các cháu. Haymitch có thể quyết định sự sống và cái chết của các cháu.”
Ngay sau đó Haymitch lảo đảo bước vào phòng. “Tôi bỏ lỡ bữa ăn khuya rồi à?” ông ta khề khà. Rồi ông ta nôn lên khắp tấm thảm đắt tiền và ngã xuống đống bầy nhầy.
“Cứ cười tiếp đi!” Effie Trinket nói. Bà nhảy qua bãi mửa với đôi giày nhọn hoắt và bước ra khỏi phòng.
|
|