Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: thaonguyen1501
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử

[Lấy địa chỉ]
71#
 Tác giả| Đăng lúc 27-4-2016 10:47:46 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 3
Trăng lạnh


Sau tiết sương giáng, bầu không khí bắt đầu trở nên lành lạnh, đặc biệt là vào lúc sáng sớm và sau buổi chiều, khi ra ngoài đã cần mặc áo gấm độn bông mỏng. Mỗi trận mưa thu lại mang tới một phần lạnh lẽo, lúc này trời đã vào độ cuối thu.

Giữa mùa thu đã tiêu điều như thế, lại kèm theo những cơn mưa rả rích, thời gian cứ lặng lẽ trôi trong những chuỗi ngày âm u dài dằng dặc.

Hôm ấy, mưa vừa tạnh và trời vừa hửng nắng, vầng thái dương rọi xuống những tia sáng lờ mờ, giống như những phiến lá vàng khô, không ngừng đậu xuống thân thể người ta. Thấy tôi tỏ vẻ lánh đời như vậy, My Trang thường tới khuyên nhủ tôi vài câu, còn tôi chỉ dùng sự im lặng để trả lời. Hôm nay, My Trang đến cung của tôi, không nói hai lời, kéo tay tôi rời đi. Tỷ ấy bước rất nhanh, kéo tôi đi như bay trên con đường lát đá trong vĩnh hạng, từng làn gió nhẹ thổi tới khiến vạt áo choàng khe khẽ tung bay, giống như một bàn tay trẻ con nghịch ngợm đang táy máy.

Tôi không biết My Trang định đưa tôi đến nơi nào, đường rất dài, đi bao lâu rồi mà vẫn chưa tới nơi tỷ ấy muốn tới. Tôi để ý quan sát cảnh vật xung quanh, thấy dường như mình đã từng đi qua nơi này từ thuở nào xa xôi lắm, tỉ mỉ ngẫm lại, bất giác hít vào một hơi khí lạnh. Con đường này chính là đường đi tới lãnh cung Khứ Cẩm. Mấy năm trước, khi ở lãnh cung, tôi đã hạ lệnh giết chết nữ tử đầu tiên uy hiếp tới tính mạng của mình trong chốn hậu cung. Đó là lần đầu tiên tôi cố ý giết người, dẫn tới việc rất nhiều đêm sau đó tôi thường mơ thấy cảnh Dự thị bị thắt cổ đến chết, khiến tôi đến tận bây giờ vẫm còn thầm kinh sợ.

Phải đi rất lâu mới tới được lãnh cung. Đẩy cửa ra, vô số hạt bụi nhỏ ập thẳng vào mặt chúng tôi, tất cả như đang nhe nanh múa vuốt dưới ánh dương lờ mờ. Trong mắt tôi, bọn chúng giống như oán khí mà vô vàn nữ tử trong chốn lãnh cung này tích lũy đã lâu, chẳng khác gì một chốn vực thẳm đen ngòm sâu không thấy đáy, khiến người ta không rét mà run. Ở nơi này, ánh dương trở nên yếu ớt đến thảm thương, dưới mái nhà cũ kĩ tí tách nhỏ xuống những giọt nước mưa còn đọng lại, trong bầu không khí thoang thoảng một thứ mùi ẩm mốc và hôi thối không cách nào có thể xua tan.

Những nữ tử từng xinh đẹp như hoa kia người thì khóc lóc, người thì kêu gào, lại có người đờ đẫn nằm cuộn tròn trên mặt đất nửa tỉnh nửa mê, thậm chí có người còn nhảy nhót cười vang như kẻ điên cuồng, còn phần lớn mọi người vẫn ham mê ánh dương đã lâu không xuất hiện, chọn nơi gần ánh nắng nhất để hưởng thụ chút ấm áp hiếm hoi này.

Bọn họ chẳng thèm để tâm đến việc tôi và My Trang tới đây, gần như là lờ chúng tôi đi, coi như không thấy. Đám cung nữ và thái giám già trông coi lãnh cung căn bản chẳng có ý muốn chăm sóc những nữ nhân bị các đời hoàng đế vứt bỏ này, hằng ngày chỉ phân phát cho bọn họ một chút thức ăn mốc meo để bọn họ có thể sống tiếp, đôi lúc thấy bọn họ quá ồn ào, bọn chúng còn thẳng tay vung roi, vung gậy đánh cho họ yên tĩnh trở lại. Mà việc những con người này làm nhiều nhất chính là chờ đến khi những nữ nhân kia không chịu nổi sự giày vò mà tự sát sẽ mặt mày hờ hững mang xác bọn họ tới bãi tha ma ở ngoài thành để hỏa thiêu.

Đa phần mọi người đều phơi mình dưới ánh thái dương. Tôi vô ý ngoảnh đầu qua, nhìn thấy ở một góc khuất nắng chỉ có hai nữ tử một ngồi một nằm trên đống rơm ẩm ướt, sau nhiều ngày mưa dầm, chỗ rơm đó đã mục nát, đen thui. Hai nữ tử kia đều áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù, bẩn thỉu. Bên cạnh nữ tử đang ngồi có một đĩa xương cá còn đọng lại một chút nước canh, lũ ruồi nhặng không ngừng bay vo ve xung quanh. Trước mặt nàng ta là một chiếc gương bị mẻ mất một góc, nàng ta dùng chút bột mì ít ỏi cẩn thận đắp lên mặt và cổ, như thể đó là một loại phấn son thượng hạng. Sau khi đắp lên mặt, hai tay nàng ta lại lần mò một lúc trong đống rơm ẩm, lấy ra một cây gậy gỗ nhỏ từng bị lửa đốt, một đầu của cây gậy đã cháy thành than đen thui, đó chính là thứ bảo bối mà nàng ta chuẩn bị dùng để vẽ lông mày.

My Trang ghé vào tai tôi, thấp giọng nói: “Muội thử đoán xem nàng ta là ai?” Khuôn mặt của nữ tử kia vì lớp bột mì trắng bợt và đôi lông mày dài đen thui mà trở nên vô cùng rùng rợn, tôi lắc đầu, quả thực không thể nhận ra nàng ta là ai.

Nữ tử kia chăm chú vẽ lông mày cho mình, miệng làu bàu không ngớt: “Trong cuộc tuyển tú năm đó, bản cung chính là người đẹp nhất, Hoàng thượng vừa ngó qua đã để ý ngay đến bản cung, không chút nghĩ ngợi giữ thẻ của bản cung lại. Trong khắp hậu cung, dung mạo của bản cung chỉ thua kém Hoa Phi nương nương một chút xíu thôi. Khi đó Hoàng thượng thích bản cung lắm…” Nàng ta cười khúc khích, nói: “Có một đêm Hoàng thượng từng sủng hạnh bản cung tới ba lần, còn tặng chữ ‘Lệ’ cho bản cung làm phong hiệu, không phải cố ý nói rằng bản cung rất xinh đẹp sao?” Dường như nàng ta đang đắm chìm trong hồi ức, giọng nói toát lên vẻ mừng vui và kiêu hãnh, hoàn toàn quên mất cảnh ngộ của mình bây giờ. Nàng ta vẽ lông mày xong liền hưng phấn đẩy mạnh nữ tử đang nằm bên cạnh, liến thoắng hỏi: “Bản cung trang điểm xong rồi, nhìn có đẹp không?”

Nữ tử đó buồn bực trở mình, chẳng buồn nhìn nàng ta lấy một cái, nói với giọng khó chịu: “Đẹp, đẹp lắm! Suốt ngày làu bàu mấy chuyện cũ rích, bà đây nghe đến phát chán rồi!” Nói đoạn, chẳng thèm để ý đến sự có mặt của những người khác, cô nàng thản nhiên cởi những món đồ cũ kĩ, bẩn thỉu trên người mình ra, để lộ đôi bầu ngực khô quắt, xệ xuống, bám đầy những vết bẩn. Một bàn tay của nàng ta ung dung lần mò khắp người để gãi ngứa, bàn tay còn lại thì vừa nhanh vừa chuẩn chụp lấy những con rận trong quần áo, sau đó thản nhiên bỏ vào miệng, “rộp” một tiếng, nhai ngon lành, khuôn mặt đầy vẻ hưởng thụ. Cảm giác ghê tởm trào lên trong lồng ngực tôi, phải khó khăn lắm tôi mới không để mình nôn mửa ngay tại chỗ.

Nữ tử vẽ lông mày kia không chút tức giận vì kiểu trả lời qua quýt của đối phương, lại tiếp tục trang điểm, miệng nói: “Chỉ cần bản cung mỗi ngày đều trang điểm thật đẹp, Hoàng thượng nhất định sẽ còn thích bản cung.” Vừa nói nàng ta vừa dùng mũi bàn chân đá nhẹ nữ tử bên cạnh. “Sao ngươi không đi phơi nắng, trên người toàn là mùi ẩm mốc thôi!”

Nữ tử đang nằm cất giọng thô lỗ: “Khốn kiếp, ánh nắng sẽ làm hỏng mất làn da của ta. Sao ngươi không chịu đi đi?”

Nữ tử vẽ lông mày kia cười khanh khách, nói: “Bản cung là Lệ Quý tần đẹp nhất trong cung cơ mà, sao có thể để ánh nắng chiếu vào người được.” Nàng ta nở một nụ cười kỳ dị. “Hoàng thượng thích làn da trắng nõn này của bản cung lắm đấy!”

Tôi nghe vậy thì cả kinh, không ngờ nữ tử kia lại là Lệ Quý tần! Đưa mắt nhìn qua phía My Trang, không ngờ tỷ ấy lại chẳng có chút biểu cảm nào, vẫn thờ ơ đứng nhìn.

Nữ tử kia cười rất vui vẻ. Nhưng vừa cười, que gỗ trong tay vừa rơi xuống bên cạnh chân tôi. Nàng ta phát hiện mình đã đánh mất bảo bối liền xoay người lại tìm, đột nhiên nhìn thấy tôi, bất giác ngây người. Khuôn mặt nàng ta như được phủ một lớp bột mì rất dày, trắng bệch như ma quỷ, tôi không thể nhìn ra lúc này nàng ta đang có vẻ mặt thế nào. Trong mắt tràn đầy những tia sợ hãi và chấn động, nàng ta vội vàng đứng dậy, phủ phục xuống bên cạnh chân tôi mà cất tiếng gào khóc liên hồi: “Uyển nghi tiểu chủ, ngày đó là bản cung, không, là ta hồ đồ… Không, không, kì thực không biết gì nhiều đâu, tất cả đều do Hoa Phi đứng sau xúi bẩy!”Nàng ta ra sức van nài: “Uyển nghi hãy cầu xin Hoàng thượng giúp ta đi, ta tình nguyện làm nô tỳ, làm trâu, làm ngựa hầu hạ tiểu chủ, ta không muốn ở lại cái nơi quỷ quái này thêm nữa đâu.”

Nàng ta vẫn gọi tôi là “Uyển nghi”, Uyển nghi, đó là chuyện từ bao lâu trước đây rồi? Nàng ta vẫn luôn bị giam giữ trong lãnh cung, cách biệt với thế giới bên ngoài, do đó không hề biết rằng tôi đã không còn là uyển nghi nữa, cũng giống như việc tôi không biết đến cảnh ngộ thê thảm của nàng ta trong lãnh cung này. Có lẽ ngày đó khi vào cung trong phong cảnh phong quang vô hạn, nàng ta không hề biết rằng về sau mình sẽ rơi vào cảnh ngộ thế này.

Nữ tử bên cạnh hoàn toàn chẳng thèm để tâm tới sự van nài của nàng ta và sự tồn tại của tôi, chỉ thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn tôi một cái rồi sau đó lại cúi xuống, lạnh lùng ăn những con rận ngon lành của mình. Nước mắt tuôn xuống lớp bột mỳ dày cộp trên mặt Lệ Quý tần, tạo thành những đường rãnh sâu, để lộ làn da nhăn nheo và héo quắt của nàng ta. Thực ra, nàng ta chỉ lớn hơn tôi bốn, năm tuổi, bây giờ mới khoảng chừng hăm mốt, hăm hai, đang vào độ nhan sắc mặn mà. Nàng ta đã từng có lúc là mỹ nhân với nhan sắc chỉ kém Hoa Phi trong chốn hậu cung, được bậc đế vương ban biết bao nhiêu mưa móc.

Sự van nài của nàng ta như những lưỡi dao đâm vào trái tim tôi. Tôi không muốn nghe tiếp, không muốn nhìn thêm, dùng sức gạt tay Lệ Quý tần rồi chạy vội ra ngoài.

Bầu không khí bên ngoài lãnh cung lúc này mang một sự tươi mới đến khó tả, tôi cố kìm nén cảm giác buồn nôn đang cuộn trào trong dạ dày, cảm thấy mình vừa thức tỉnh khỏi một cơn ác mộng. Đây là một cảnh tưởng mà tôi chưa từng được chứng kiến ở chốn hậu cung, nó khiến tôi vừa sợ hãi lại vừa chán ghét.

My Trang đuổi theo, vỗ nhẹ vào lưng tôi, ôn tồn nói: “Muội vẫn ổn chứ?”

Tôi khẽ gật đầu. “Tỷ tỷ đưa muội đến lãnh cung không phải chỉ là để muội xem cảnh ngộ của Lệ Quý tần đấy chứ?”

My Trang khẽ mỉm cười. “Muội có để ý thấy nữ tử bên cạnh Lệ Quý tần không?”

Tôi hơi cau mày, không nói gì. My Trang biết tôi ghê tởm cảnh tượng buồn nôn đó, bèn chậm rãi nói: “Nàng ta là Phương Tần bên cạnh Hoàng thượng trước đây.”

Cái tên này tôi chưa từng nghe nói. Từ sau khi tiên Hoàng hậu qua đời, Huyền Lăng từng sủng ái rất nhiều người, mà tần vốn không phải địa vị quá cao, dù là trong hậu cung bây giờ cũng có bốn vị tần là Đỗ Điềm Tần, Lưu Thận Tần, Uông Mục Tần, Triệu Vận Tần. Phương Tần là ai tôi quả thực không biết.

My Trang nhìn tôi bằng ánh mắt đầy ý vị, lát sau mới chậm rãi nói: “Phương Tần nhập cung sớm hơn chúng ta ba năm, ban đầu được phong làm tài nhân, rồi lần lượt trở thành quý nhân, lương đễ, sau khi được sủng hạnh nửa năm thì có thai, được tiến phong Phương Tần, cũng có một thời gian rất mực phong quang. Tiếc rằng nàng ta trượt chân sẩy thai, lại vì thương tâm quá độ mà mất lòng Hoàng thượng, về sau, do cất lời oán thán vu cáo Hoa Phi giết hại đứa con trong bụng mình nên bị đày vào lãnh cung.”

Tôi chăm chú nhìn nàng ta, khẽ nói: “Tỷ tỷ sợ muội giẫm vào vết xe đổ của nàng ta sao?”

My Trang nói: “Nàng ta có thật sự vu cáo Hoa Phi hay không thì không hay biết, nhưng Hoàng thượng đã tin là nàng ta vu cáo. Tục ngữ có câu ‘gặp mặt là có thêm ba phần tình cảm’, Phương Tần một mực chìm đắm trong nỗi đau mất con của mình mà không để ý gì tới Hoàng thượng, vậy nên đến cơ hội gặp mặt biện bạch cũng không có, e là dù có bị oan thì cũng chỉ có chấp nhận mà thôi.” My Trang nói xong, chợt chỉ ngón tay về phía lãnh cung, hai chiếc vòng vàng trên cổ tay va vào nhau phát ra những tiếng “leng keng” trong trẻo, nhưng trong giọng nói của tỷ ấy lại mang đầy nỗi đau với mấy phần sắc bén: “Đây chính là bài học nhãn tiền! Nếu muội cứ mãi ủ dột thế này, tình cảnh của hai người bọn họ bây giờ chính là kết cục của muội ngày sau!”

Tôi im lặng, làn gió tiêu điều rít mạnh thổi qua tai, những chiếc lá khô héo vàng queo bị gió cuốn lên, xoay tròn mấy vòng giữa không trung đầy bụi bặm. Trên bãi đất trống rộng lớn trước lãnh cung có mấy con quạ đen đang nghỉ chân, chúng lẳng lặng đứng rỉa bộ lông trên người mình, thỉnh thoảng lại kêu “kéc” một tiếng khản đặc, quả thực là ngợp nỗi thê lương.

Tôi khẽ hỏi: “Sao tỷ tỷ lại phát hiện ra Lệ Quý tần và Phương Tần trong chốn lãnh cung này?”

Thần sắc My Trang đột nhiên trở nên lạnh lẽo, trong mắt thoáng qua một tia căm hận hết sức rõ ràng: “Việc của Phương Tần, ta chẳng qua ngẫu nhiên biết được, còn về Lệ Quý tần… Trong việc đẩy ta xuống nước ngày đó, ả cũng có phần. Chỉ cần nhìn thấy ả, ta sẽ lập tức nhớ lại việc Mộ Dung tiện nhân đó được nếm thử cảm giác sống không bằng chết trong chốn lãnh cung.”

Cái sự yêu và hận của My Trang xưa nay luôn rõ ràng hơn tôi rất nhiều.

Tôi đưa tay nhẹ nhàng phủi đi mấy hạt bụi vương trên vai My Trang, nói: “Ngay từ nhỏ, tỷ tỷ đã biết mình muốn thứ gì, nếu một lòng muốn có thì nhất định sẽ giành được.” Thoáng dừng lại, tôi nhìn My Trang, nói tiếp: “Thứ lỗi cho muội nhiều lời, hiện giờ đối với tỷ mà nói, Hoàng thượng có cũng được mà không có cũng chẳng sao… Điều này quá nửa là vì bản thân tỷ tỷ không muốn nhận sự ân sủng nữa, đúng không?”

My Trang nghiêm túc nhìn tôi. “Điều duy nhất mà lòng ta nghĩ tới bây giờ là làm thế nào để giết được con tiện nhân đó. Sự ân sủng của Hoàng thượng cố nhiên quan trọng, nhưng không hề vững chãi, chẳng lẽ ta có thể dựa vào người để báo thù sao?”

Tôi im lặng trong giây lát, đoạn đưa tay ra, nói: “Trời lạnh rồi, chúng ta về thôi!”

Có lẽ vì mang đầy tâm sự trong lòng nên trên con đường dài dằng dặc ấy, chúng tôi đi rất chậm. My Trang không nói thêm lời nào nữa, có điều suốt dọc đường, tỷ ấy đều nắm chặt bàn tay tôi, dùng sự ấm áp nơi lòng bàn tay mình để sưởi ấm cho trái tim đang chìm trong băng giá của tôi.

Đi tới cửa ngách của Thượng Lâm uyển, My Trang nói: “Ta về cung trước đây, muội… hãy suy nghĩ cho cẩn thận!”

Tôi khẽ gật đầu, lựa con đường gần nhất đi qua vĩnh hạng về cung của mình. Giữa độ thu đông, gió lùa trong vĩnh hạng trở nên vô cùng lạnh lẽo, tràn ngập nơi nơi, không đâu là không có. Phần cổ của chiếc áo choàng gấm bị gió thổi dán sát vào mặt tôi, che mất một phần tầm nhìn.

Từ chỗ ngã rẽ trước mặt chợt có một người đi ra, tôi không kịp né tránh, va luôn vào người đó. Chỉ nghe “úi chao” một tiếng, tôi ngẩng lên nhìn, thấy chính là Lục Chiêu nghi, chủ nhân của Điềm Tần cung.

Lục Chiêu nghi vốn là phi tử nhập cung khi Huyền Lăng vừa kế vị, xét về cấp bậc, tuy chỉ cao hơn tôi một mức nhưng lại đứng đầu Cửu tần, địa vị trong cung hơn xa tôi. Tôi vội đứng qua một bên thỉnh an cáo lỗi. Lục Chiêu nghi đã thất sủng nhiều năm, ở trong cung vẫn luôn an phận thủ thường, gặp chuyện thường né tránh, rất ít khi gây điều thị phi. Cô ta thấy mình va phải người khác thì thoạt tiên lộ ra thần sắc bất an, vốn không định nói gì nhiều, nhưng sau khi nhìn rõ là tôi thì vẻ mặt đột nhiên thay đổi hẳn, xuất hiện mấy tia giận giữ và uy nghiêm.

Tôi biết là không hay, cũng không muốn sinh chuyện vào lúc này, thế là lại càng tỏ ra nhún nhường cung kính. Nhưng cơn giận của Lục Chiêu nghi không hề vì thế mà tan đi, cô ta nói: “Sao Hoàn Quý tần đi đường mà không có quy củ gì thế, mới mấy tháng không gặp Hoàng thượng mà đã quên hết lễ tiết trong cung rồi sao?”

Tôi vội nói: “Là muội không tốt, va phải Lục tỷ tỷ.”

Bên cạnh cô ta chợt vang lên một tiếng cười ngạo mạn, tôi không cần nhìn cũng biết đó là Tần Phương nghi. Tần Phương nghi là em họ xa của Lục Chiêu nghi, lòng dạ rất nhỏ mọn, nhất định cô ta đã coi việc tranh chấp với tôi ở ngoài điện của Hoàng hậu lần trước là một mâu thuẫn vô cùng lớn. Nhìn thấy cô ta cũng ở đây, tôi biết thế nào cô ta cũng không bỏ lỡ thời cơ để trả thù mình, e rằng việc hôm nay phiền phức rồi đây!

Quả nhiên Tần Phương nghi chỉ làm bộ làm tịch hành lễ một cách hời hợt, đoạn che miệng cười khẽ, kéo dài giọng nói: “Tần thiếp còn tưởng là ai, thì ra là Quý Tần nương nương trước đây được Hoàng thượng yêu thích nhất. Chẳng trách, chẳng trách, quý nhân đi đường nào biết để ý đến ai…”

Cô ta cố ý nhấn mạnh vào hai từ “trước đây”, giễu cợt rằng bây giờ tôi đã bị thất sủng. Lần này là tôi vô ý va vào Lục Chiêu nghi, thành ra không thể không nín nhịn. “Xin Lục tỷ tỷ thứ lỗi!”

Lục Chiêu nghi còn chưa kịp mở miệng, Tần Phương nghi đã làm ra vẻ kỳ quái nhìn tôi một lượt từ trên xuống dưới, nói: “Úi chà! Quý Tần nương nương đang gọi vị tỷ tỷ nào thế, Chiêu nghi biểu tỷ chỉ có một muội muội là tần thiếp đây thôi, từ lúc nào mà nương nương cũng chen vào vậy?” Tôi thầm tức giận, dù bây giờ tôi đang thất thế nhưng hà cớ gì cô phải áp bức quá đáng như vậy, nhớ lúc xưa, khi tôi còn đắc sủng, cũng chưa từng bới móc cô chút nào, sao bây giờ tôi vừa thất sủng, cô đã chạy tới gây gổ với tôi? Thế nhưng đang có Lục Chiêu nghi ở đây nên tôi đành phải kìm nén cơn giận dữ trong lòng.

Tần Phương nghi thấy tôi không đáp trả thì lại càng đắc ý, nói tiếp: “Chẳng phải Quý Tần nương nương luôn rất chú ý tới tôn ti quy củ sao, sao bây giờ gặp biểu tỷ của tần thiếp lại không gọi một tiếng ‘nương nương’, cũng không tự xưng là ‘tần thiếp’ thế?”

Tôi hơi ngước mắt lên, nhìn thẳng vào khuôn mặt đầy đắc ý của cô ta. Lục Chiêu nghi lúc này chỉ trầm mặt xuống, không nói một lời. Ba người bọn tôi suy cho cùng đều là những nữ tử không còn được Hoàng thượng sủng ái, cùng chung cảnh ngộ bất hạnh, hà tất phải cố tình làm khó nhau như thế?

Tần Phương nghi tất nhiên không nghĩ được nhiều như vậy, hôm nay cô ta có biểu tỷ chống lưng, lại là tôi đuối lý trước, đương nhiên đây là cơ hội ngàn năm hiếm gặp, sao chịu tùy tiện bỏ qua.

Thế là tôi bèn nghiêm túc hành lễ, hướng về phía Lục Chiêu nghi, nói: “Thần thiếp thất lễ, mong Chiêu nghi nương nương thứ tội!”

Lục Chiêu nghi khẽ gật đầu coi như tha thứ. “Thôi, ngươi đi đi!”

Tôi đang định đứng dậy, Tần Phương nghi đã vội vàng nói: “Biểu tỷ, là cô ta vô lý trước, sao có thể để cô ta đi dễ dàng như vậy được?”

Lục Chiêu nghi thoáng chút kinh ngạc, nhìn Tần Phương nghi, nói: “Thôi, bản cung làm gì có tâm tư mà dây dưa với cô ta ở nơi gió lạnh rít gào này, cứ để cô ta đi đi.”

Tần Phương nghi mím môi, nôn nóng nói: “Biểu tỷ đúng là hồ đồ rồi! Hiện giờ Mộ Dung Phi không được Hoàng thượng sủng ái, Kính Phi là hạng tầm thường, Đoan Phi thì như một thùng thuốc, bên dưới ba người đó, tỷ chính là người tôn quý nhất. Nếu bây giờ biểu tỷ lấy danh người đứng đầu Cửu tần để lập uy, sau này trong hậu cung còn ai dám không nhớ đến vị Chiêu nghi nương nương tỷ chứ?” Cô ta khẽ mỉm cười, ghé đến gần Lục Chiêu nghi, nói: “Trước đây, Hoàng thượng rất thích bộ dạng mạnh mẽ, quyết đoán của Mộ Dung Phi, nói không chừng biểu tỷ lập uy như vậy Hoàng thượng sẽ lại thích tỷ đấy!” Rồi cô ta lại hậm hực bổ sung thêm một câu: “Biểu tỷ, khi cô ta đắc sủng, Hoàng thượng đã ghẻ lạnh chúng ta thế nào chứ!”

Lục Chiêu nghi hiển nhiên đã bị lời của Tần Phương nghi làm cho kích động, trên mặt thoáng lộ vẻ vui mừng, ngay sau đó lại trở nên lạnh lùng, băng giá, nói: “Biểu muội quả nhiên thông minh.”

Tôi nghe vậy liền cười gượng, Huyền Lăng thích Mộ Dung Phi chưa chắc đã là vì tính tình quyết đoán của nàng ta. Lục Chiêu nghi không có thân thế và dung mạo như Mộ Dung Phi, vậy mà lại muốn học theo lối hành xử của Mộ Dung Phi, đúng là ngu xuẩn và nực cười tột độ.

Lục Chiêu nghi điệu bộ nghiêm chỉnh, đầy vẻ uy phong. “Ngươi hãy quỳ ở chỗ gió lùa này mà suy nghĩ về lỗi lầm của mình cho bổn cung.” Rồi cô ta ngoảnh đầu lại, gọi một cung nữ tới: “Yến Nhi, trông chừng cô ta cho bổn cung, chờ cô ta quỳ đủ nửa canh giờ mới cho phép đứng dậy!”

Nửa canh giờ! Lại là quỳ nửa canh giờ! Trong lòng tôi sau nháy mắt đã trào dâng muôn vàn nỗi giận dữ và căm hận, cô ta thật sự coi mình như Tích Hoa phu nhân ngày đó sao?

Lục Chiêu nghi tha thướt rời đi, Tần Phương nghi đi theo được hai bước, chợt quay đầu lại, nói: “Bây giờ Quý tần nương nương không mang thai, dù có quỳ lâu chắc cũng không thể xảy ra vấn đề gì được.” Lời của cô ta chẳng khác nào một cây kim đâm thẳng vào trái tim tôi, khiến tôi đột nhiên nhớ tới nỗi đớn đau khó tả trong Mật Tú cung hôm đó, sắc mặt lập tức trở nên cứng đờ. Tần Phương nghi nói xong liền khẽ cất tiếng cười, làm hành động khiến tôi vừa chấn động vừa căm hận tới tột cùng. Cô ta hơi hé môi, “phì” một tiếng, nhổ một bãi nước bọt lên mặt tôi.

Nhục nhã ê chề! Tôi lập tức nhắm chặt hai mắt, vội ngoảnh mặt qua một bên nhưng vẫn không thể tránh được bãi nước bọt nhục nhã ấy, bị nó rơi vào bên tai. Cô ta bật cười vui vẻ, cười một cách đắc ý vô cùng, vừa cười vừa nói: “Quý tần nương nương đừng tức giận nhé, tần thiếp chỉ vâng lệnh Chiêu nghi nương nương giáo huấn nương nương thôi, bãi nước bọt này mong nương nương nhận cho.”

Tôi lạnh lùng ngoảnh mặt lại, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt mang theo nét cười của cô ta. Cho dù là với Lệ Quý tần khi trước, tôi cũng không cảm thấy căm ghét như vậy. Cô ta bị ánh mắt của tôi làm cho chấn động, không khỏi có chút sợ hãi, nhất thời ngây người, nhưng rất nhanh đã lại khom lưng cười giễu. “Nương nương đừng trừng mắt nhìn tần thiếp như thế mà! Chẳng lẽ… cô nghĩ cô vẫn là Hoàn Quý tần trước đây sao?”

Cô ta cười vang rồi rời đi, tiếng cười lanh lảnh giữa tiếng gió lùa trong vĩnh hạng, nghe chói tai vô cùng. Trong làn gió, bãi nước bọt ấm nóng rất nhanh đã lạnh đi, từ từ chảy xuống, dần bị gió thổi khô, cái cảm giác ấy khiến làn da bên tai tôi trở nên cứng đờ, tê dại. Thỉnh thoảng lại có vài ba cung nhân hạ đẳng đi qua, nhìn lướt qua tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, tò mò và khinh miệt.

Cung nữ Yến Nhi trông coi tôi có chút thấp thỏm, bất an, thấp giọng nói: “Nương nương, hay là người đứng dậy đi, nô tỳ sẽ không nói cho ai biết đâu.” Tôi lắc đầu, cũng không đưa tay lau bãi nước bọt bên tai, chỉ lặng lẽ quỳ trong gió, giữ nguyên bờ lưng thẳng tắp, trong đầu là một sự bình tĩnh đến mức gần như tàn khốc.

Phải, tôi là một nữ tử không có con cái, cũng chẳng được phu quân thương yêu. Tôi là một nữ tử trong chốn thâm cung, một nữ tử đã mất đi sự sủng ái của kẻ quân vương. Tôi chẳng có gì hết, thứ duy nhất còn lại chỉ là hơi thở ấm nóng trong lồng ngực và một cái đầu tỉnh táo, không có ai để nương tựa giữa chốn hậu cung mà ai cũng nơm nớp lo sợ, ai cũng sống hôm nay không biết đến ngày mai, ai cũng chỉ biết nịnh nọt người trên, ức hiếp kẻ dưới này.

Vì tôi không có sự sủng ái của kẻ quân vương, vì trên người kẻ quân vương mà tôi còn mong có được tình yêu mơ mộng từ thời thiếu nữ, vì trái tim tôi vẫn quá mềm yếu và không đủ sự đề phòng, vì tôi ngây thơ và non nớt, do đó tôi mới không thể trả thù cho đứa con và tỷ muội của mình; do đó tôi bị đè nén, thậm chí bị một nữ tử có địa vị thấp hơn tôi nhổ nước bọt vào mặt làm nhục; do đó cảnh ngộ của tôi chỉ còn cách lãnh cung có vài bước chân nữa thôi.

Đủ rồi, đã đủ lắm rồi! Tôi không thể để mình bị người ta giẫm xuống tận đáy vực sâu; cảnh tượng ở lãnh cung khiến tôi nhìn mà kinh sợ và sự thê lương, bi thảm của Phương Tần càng không thể trở thành tương lai của tôi.

Tôi dần dời ánh mắt đi hướng khác, dừng lại tại cung điện của Mộ Dung Phi ở đằng xa. Ả ta vẫn sống, sống rất tốt, nói không chừng một ngày nào đó sẽ lại trở mình và nhận được sự sủng ái. Đứa con của tôi không thể chết đi một cách oan ức như vậy được. Lãnh cung cũng không thể trở thành nơi Chân Hoàn tôi chết già. Cho dù tôi có chết thì cũng phải nhìn những kẻ tôi căm hận chết trước tôi, lấy đó mà bái tế đứa con và người tỷ muội vô tội đã qua đời quá sớm của tôi.

Nửa canh giờ trôi qua, tôi cố gắng đứng dậy bằng đôi chân đã quỳ đến mỏi nhừ, chỉnh sửa lại quần áo. Yến Nhi đỡ lấy tôi, thấp giọng áy náy nói: “Nương nương đã phải chịu khổ rồi, nương nương nhà nô tỳ thường ngày không như vậy đâu.”

Khuôn mặt vẫn giữ vẻ bình tĩnh, tôi nhìn người cung nữ có tuổi tác xấp xỉ với mình, hờ hững cười, nói: “Ngươi sẽ được báo đáp vì lòng tốt của ngươi hôm nay.” Yến Nhi không hiểu, trên mặt chỉ có vẻ bất an và lúng túng của một thiếu nữ ngây thơ.

Tôi một mình rời đi.

Sự thương tâm và buồn bã của tôi kéo dài đến bây giờ là đã đủ rồi. Chân Hoàn vì nín nhịn mà quỳ xuống trước mặt Lục Chiêu nghi kia đã chết, người đứng lên bây giờ là một Chân Hoàn khác.

Tôi sẽ không vì sự bội bạc của nam nhân mà khóc lóc nữa, cũng sẽ không vì sự vỡ vụn của tình yêu trong mộng mà thương tâm nữa, càng không bao giờ nín nhịn trước những kẻ mà tôi căm hận. Tôi của bây giờ đã thích ứng hơn với cuộc sống trong chốn hậu cung lạnh lùng mà tàn khốc này.

Bãi nước bọt bên tai tôi không lau đi, cứ để mặc cho nó chảy tiếp. Nó sẽ giúp tôi mãi khắc ghi cảm giác nhục nhã này và những con người kia sẽ phải trả một cái giá nặng nề cho cảm giác hả dạ sinh ra khi làm nhục tôi.

Về đến cung điện của mình, tôi bảo Cận Tịch dọn đồ ra khỏi điện chính của Đường Lê cung, quét dọn Ẩm Lục hiên bên cạnh làm nơi cư trú tạm thời.

Hoán Bích khuyên tôi: “Ẩm Lục hiên vừa nhỏ hẹp âm u lạnh lẽo, để hóng mát trong dịp hè là tốt nhất, bây giờ mà dọn vào đó ở e là không hợp thời lắm!”

Tôi dùng một miếng vải bông mềm, cẩn thận lau từng sợi dây của cây đàn Trường tương tư, đoạn khẽ mỉm cười, nói: “Ta vốn là một con người không hợp thời mà!” Hoán Bích không nói gì, cũng không dám khuyên thêm.

Mấy ngày nay, tôi sai Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử giúp tôi đi bắt bướm, giống động vật mà vào mùa này rất ít xuất hiện. Bọn họ hơi kinh ngạc về quyết định này của tôi, bèn nói: “Nương nương, bây giờ là mùa thu, làm sao có bướm được.”

Tôi khom người trước chiếc bàn trang điểm, cẩn thận vẽ đôi hàng lông mày hình núi xa. Tôi của bây giờ đã không được dùng những thứ đồ vẽ lông mày quý giá như Loa tử đại nữa, mà lông mày hình núi xa chính là kiểu mày năm ngoái Huyền Lăng đã tự tay vẽ cho tôi, thực chứa chan tình ý đến nhường nào. Kỳ thực, tôi chẳng thích lắm, lông mày của tôi thích hợp với kiểu mày lá liễu hơn. Nhưng hôm nay, từng nét bút của tôi đều hết sức nắn nót và cẩn thận, tôi vẫn cần nương nhờ vào sự sủng ái của y, đúng không nào? Tôi thầm tự giễu. Nếu không có tình yêu, vậy tôi cần có thật nhiều sự sủng ái, nhiều đến mức đủ để tôi có thể sống một cách thoải mái trong chốn hậu cung này.

Uể oải vứt cây bút vẽ lông mày qua một bên, tôi chẳng buồn ngoảnh đầu, nói với bọn họ: “Bây giờ bướm cũng là một thứ không hợp thời đúng không? Nhưng ta nhất định muốn có, hơn nữa còn phải thật đẹp.” Bọn họ đương nhiên sẽ không làm trái ý tôi, dù rằng yêu cầu này của tôi có vẻ không hợp tình hợp lý lắm, như thể đó chỉ là hứng thú nhất thời thôi vậy!

Tôi khẽ mỉm cười, hãy để con người không hợp thời tôi đây diễn một vở kịch không hợp thời đi.

Ngoảnh đầu lại, bên ngoài chốn rèm vàng lầu ngọc, nơi chân trời, một vầng trăng lưỡi liềm lạnh lẽo treo cao.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

72#
 Tác giả| Đăng lúc 29-4-2016 10:52:37 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 4
Điệp hạnh [1]


[1] Tương truyền Đường Huyền Tông thường cho các nữ tử trong chốn hậu cung của mình cài hoa trước cửa, bản thân thì thả một con bướm ra rồi đi theo, con bướm đậu lại ở cửa phòng ai thì ông ta sẽ vào nghỉ đêm ở chỗ đó, việc này được gọi là điệp hạnh – ND.

Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử dốc hết sức lực mới bắt được hai mươi mấy con bướm ít ỏi trong thời điểm mùa đông lạnh lẽo sắp đến này, đó đều là những con bướm có màu sắc vô cùng bắt mắt, con thì hồng phấn, con thì tím nhạt, con thì xanh biếc, con thì vàng cam. Tôi tất nhiên rất hài lòng, nói: “Trời lạnh rồi, hai ngày tới phủ Nội vụ sẽ đưa sang đây số than cần dùng trong mùa đông. Ngươi đi nói với Khương Trung Mẫn, tất cả những thứ tơ lụa vải vóc chúng ta đều không cần, đổi hết thành than và chậu đựng than, bảo y đưa tới đây thêm một ít hoa thủy tiên và hoa mai nữa.”

May mà dạo trước tôi đã đề bạt Khương Trung Mẫn ở phủ Nội vụ, do đó tuy bây giờ hoàng ân bạc bẽo, chẳng được sủng ái nhưng không tới mức như lúc mới vào cung, bị người ta cắt xén tiêu chuẩn đáng được nhận, đến nỗi nếu không nhờ có My Trang tiếp tế thì e là phải dùng loại than đen nhiều khói hết sức khó chịu. Khương Trung Mẫn cũng là loại người biết báo ơn, trong cung của tôi cần thứ gì, chỉ cần y làm chủ được thì đều cho người đưa tới.

Tôi sai Tiểu Doãn Tử đi làm việc rồi lại dặn dò Cận Tịch: “Oánh Tâm điện bây giờ đang bỏ trống, ngươi hãy mang chỗ bướm bắt được tới thả hết vào những chiếc lồng lưu ly trong noãn các mà nuôi, nhớ phải sử dụng nhiều than cho noãn các một chút, nhất định phải khiến nơi đó ấm áp như mùa xuân. Mỗi ngày ba lần ngươi nhớ tự mình đưa hoa tươi vào trong noãn các cho lũ bướm ăn phấn hoa.” Dặn dò xong xuôi, tôi lại bổ sung một câu: “Ngươi nhất định phải tự mình làm đấy, để người khác làm, ta không yên tâm.”

Cận Tịch thấy tôi tỏ ra nghiêm túc như thế, lại được tôi giao cho nhiệm vụ quan trọng, tuy không hiểu rõ dụng ý của tôi nhưng nhất định sẽ dốc sức tận tâm chăm sóc lũ bướm kia.

Có một hôm My Trang đến chơi, thấy tôi đang hào hứng sai người may áo mới cho mình, trên khuôn mặt không kìm được lộ ra nét tươi cười. Bởi từ sau cơn bệnh lần trước, tôi chẳng còn tâm trạng động tới son phấn nữa, cả ngày đều để mặt mộc không trang điểm, tất cả những thứ quần áo màu mè và đồ trang sức châu ngọc đều được bỏ hết vào trong tủ. Dù gì cũng không còn người nào ngắm nhìn để tôi phải cất công trang điểm, tôi ăn mặc như vậy coi như là để tang cho đứa bé đã qua đời khi còn ở trong bụng mình, tỏ chút lòng thành của một người làm mẹ. My Trang mỉm cười, cất giọng thăm dò: “Có phải đã suy nghĩ thông suốt rồi không?”

Tôi cầm miếng gấm Vân Nhạn màu lục nhạt ướm thử lên người, khẽ mỉm cười, nói: “Đa tạ tỷ tỷ dạy dỗ, muội của hôm nay đã khác hẳn khi xưa rồi!” Hai mắt My Trang sáng rực nhìn tôi, cười tủm tỉm. “Nếu đã có lòng này, vậy việc không thể chậm trễ được nữa.”

Tôi xắn tay áo lên, đích thân cầm kéo cắt phần lưng áo cho chiếc áo mới của mình, cúi đầu, nói: “Tỷ tỷ đừng nôn nóng, thời gian còn dài mà.”

Tôi không hề rảnh rỗi, soi mình vào trong gương, tôi phát hiện sự u uất và cơn đau bệnh bấy lâu khiến tôi gầy rộc đi, như biến hẳn thành con người khác. Khi thay quần áo trước lúc lên giường đi ngủ, tôi ngước mắt nhìn xương quai xanh của mình trong gương. Tôi gần như có chút kinh hãi, trong lòng tràn đầy cảm giác khó tin, lại đưa tay phải lên, chiếc vòng bạc cơ hồ có thể tuột xuống tận khuỷu tay rồi. Trước đây, chiếc vòng bạc này rất nhỏ nhắn và hợp với tôi, độ vài tháng trước, khe hở giữa nó và cổ tay tôi chỉ đủ để nhét một chiếc khăn tay, vậy mà bây giờ lại biến thành thế này. Đã rất lâu rồi tôi không để ý tới bản thân, không ngờ mình lại gầy đến mức này, tựa như một bông hoa đầu cành đang run rẩy giữa làn gió thu, xơ xác thân cò. Tuy đã gầy đi, vẻ mặt cũng tiều tụy nhưng làn da tôi lại thấp thoáng ánh lên màu xanh ngọc, có chút trong suốt, chỉ là không được mịn màng bóng loáng như ngọc, tựa như bị phủ lên một lớp bụi. Cằm tôi càng trở nên nhọn hơn, đôi mắt trong veo đầy thần thái ngày xưa nay dường như chỉ còn lại chút tro tàn sau khi rực cháy, mất hẳn vẻ thông minh, lanh lợi. Tôi của bây giờ dù có bằng lòng xuất hiện trước mặt Huyền Lăng chẳng qua cũng chỉ nhận được một chút thương hại của y, mà gặp nhiều rồi thậm chí sẽ còn khiến y chán ghét, cho nên quyết không thể nôn nóng được.

Tôi tìm lại phương thuốc làm đẹp mà khi tôi mang thai, Ôn Thực Sơ đã đưa cho tôi, sau đó liền tới Thái y viện lựa chọn loại ích mẫu thảo to và lớn nhất, được hái vào đúng dịp Đoan Ngọ, hơn nữa bên trên còn phải sạch sẽ không được dính bùn đất. Sau khi phơi nắng cho khô hẳn, Ôn Thực Sơ đích thân mài chúng thành bột và sàng lọc kỹ càng, lại cho thêm một lượng nước và bột mì vừa phải, nặn thành từng viên rồi phơi khô. Sau đó, y lại chọn dùng một loại lò được làm bằng đất sét có ba tầng, tầng dưới cùng trải than, tầng giữa để những viên thuốc đã được phơi khô, tầng trên cùng lại trải thêm một lớp than nữa, kế đó thì châm lửa. Sau khi giữ cho ngọn lửa thật lớn trong gần nửa canh giờ, y liền đổi sang dùng lửa nhỏ liu riu, sau chừng một ngày một đêm thì lấy những viên thuốc đó ra để cho chúng nguội hẳn, mà chỉ có những viên thuốc thật trắng và mịn mới được coi là thượng phẩm. Sau đó, những viên thuốc lại được bỏ vào bát sứ, dùng chày ngọc giã thành bột, sau khi sàng lại giã tiếp, làm cho nó càng mịn càng tốt, cuối cùng thì đựng vào một loại bình sứ thượng hạng, lúc nào cần sẽ lấy ra dùng.

Quá trình chế tạo loại thuốc này vô cùng phức tạp, chỉ cần có một chút sơ suất là thuốc sẽ mất đi hiệu lực. Ích mẫu thảo nhất định phải chọn loại được hái vào tết Đoan Ngọ, mà phải là còn nguyên cây, không được dính chút bùn đất nào, nếu không sẽ hoàn toàn không có hiệu quả; khi đun cũng phải chú ý không được để cho sức lửa quá mạnh, bằng không viên thuốc sẽ biến thành màu vàng hoặc thậm chí là màu đen, gần như không có công hiệu gì; quá trình giã cũng không thể sơ suất, tốt nhất là dùng chày ngọc, kế đến là chày sừng hươu, vì ngọc và sừng hươu đều có công dụng bảo vệ làn da, loại bỏ nếp nhăn và sẹo, trong quá trình giã có thể hòa vào thuốc một cách tự nhiên, vừa hay có tác dụng phụ trợ. Mà loại thuốc này sau khi được mài thành bột mịn, cứ mỗi sáu mươi tiền lại phải cho thêm sáu tiền hoạt thạch, sáu tiền son phấn rồi trộn đều, sáng tối mỗi ngày dùng một lượng vừa phải để lau rửa mặt và hai tay, giúp điều trị da sạm, xóa nếp nhăn và vết nứt nẻ, khiến làn da sáng mịn như ngọc. Sau khi điều chế thuốc xong, nhìn thấy gương mặt tươi tắn của tôi, Ôn Thực Sơ khá tự đắc nói: “Tương truyền phương thuốc này là do Nữ hoàng Võ Tắc Thiên thời Đường sáng tạo ra, có tên là Thần Tiên Ngọc Nữ phấn, Nữ hoàng nhờ có nó mà khi tám mươi tuổi nhìn vẫn chỉ như mười tám, đôi mươi.”

Lời này nghe có vẻ hơi khoa trương, hơn nữa việc từng được Nữ hoàng Võ Tắc Thiên sử dụng cũng chỉ là truyền thuyết, nhưng quả thực sau khi dùng, khuôn mặt tôi đã trắng mịn hơn rất nhiều.

Có một lần My Trang đến thăm tôi, vừa khéo nhìn thấy Ôn Thực Sơ đang dốc lòng dốc sức chế thuốc cho tôi, bèn ngồi xuống một bên, lặng lẽ quan sát. Tôi nói với tỷ ấy: “Thứ Thần Tiên Ngọc Nữ phấn này rất hiệu nghiệm, muội đang định sai người đem tặng tỷ tỷ một ít.”

My Trang có vẻ dửng dưng, dường như đêm qua ngủ không được ngon lắm. “Không cần đâu. Vật này sẽ giúp ích rất nhiều cho tương lai của muội, còn ta có vẻ đẹp tự nhiên, không cần trang điểm gì thêm.” Tỷ ấy đột nhiên tươi cười rạng rỡ nói: “Huống chi, ta có trang điểm đẹp đẽ thì cũng để ai xem đây?”

Lời của My Trang hơi giống với vẻ giận dỗi ai đó, tính cách của tỷ ấy càng ngày càng trở nên quỷ quái, có lúc tôi không hiểu nổi tỷ ấy đang nghĩ gì, mà tỷ ấy cũng không chịu nói với tôi. Có lần tôi tình cờ tới cung của tỷ ấy, nhìn thấy tỷ ấy đang nằm ngủ, mơ gì đó mà đôi hàng mày nhíu chặt, trên má còn vương đầy nước mắt.

Không biết tại sao, tôi lại ghi nhớ câu nói đó vào lòng. Nụ cười của tỷ ấy thật rạng rỡ biết bao, nhưng giọng nói lại tràn đầy nỗi buồn thương, thất vọng, như là tự hỏi, lại như là hỏi tôi: “Huống chi, ta có trang điểm đẹp đẽ thì cũng để ai xem đây?”

Cận Tịch lấy bột trân châu hòa với hoa ngọc trâm, hấp chín rồi lại trộn với nước sương để đắp mặt cho tôi. Tôi đột nhiên nhớ tới câu nói đó của My Trang, tâm trạng bỗng trở nên phiền muộn. Tự đáy lòng tôi hiểu rằng Huyền Lăng không phải là “người trong mộng” của tôi, mà “nữ tử làm đẹp vì người mình yêu”, y đã lạnh lùng, tuyệt tình như vậy, lẽ nào còn là vì “người mình yêu” nữa? Tôi phí công phí sức trang điểm cho mình thêm đẹp thì có ý nghĩa gì?

Huống chi, biết rõ thứ y xem trọng là sắc đẹp bên ngoài nên tôi chỉ có thể dùng sắc đẹp để thu hút y mà thôi, thật là thê lương biết chừng nào!

Trong lúc tâm tư tôi đang thổn thức, bên ngoài chợt vang lên tiếng bước chân dồn dập. Tôi đưa mắt nhìn Tiểu Doãn Tử, hắn lập tức hiểu ý, chạy ra ngoài một lúc rồi quay về bẩm báo: “Ôi, nô tài còn tưởng là có chuyện gì quan trọng… Thì ra mấy ngày trước, An Tiểu viện nói là nhớ tới việc theo di nương trồng dâu nuôi tằm hồi nhỏ, Hoàng thượng bèn sai người xuống miền Nam lấy lá dâu tươi về cho Tiểu viện chủ, nghe nói do dùng khoái mã đi suốt ngày đêm nên khi về đến nơi, lá dâu còn chưa khô cơ đấy!”

Lưu Chu mau miệng nói chen vào: “Hoàng thượng bây giờ sủng ái An Tiểu viện quá đi!”

Hoán Bích hơi cau mày, thoáng liếc nhìn qua phía tôi rồi thấp giọng nói: “Tình hình bây giờ bỗng khiến nô tỳ nhớ tới câu chuyện Đường Minh Hoàng sai người mang vải về cho Dương Quý Phi.”

Tôi mỉm cười lơ đễnh, chẳng buồn để tâm xem Huyền Lăng sủng ái Lăng Dung thế nào, cứ nghĩ mãi về mấy câu thơ trong Kinh Thi: Thuở chưa rụng cây dâu lả lướt, lá trên cành trơn mướt mỹ miều. Cưu ơi ta bảo mấy điều, trái dâu chớ có ăn nhiều mà say. Gái kia hỡi nghe đây ta dặn, chớ mê trai lòng nặng tình duyên. Trai mà mê gái đảo điên, cũng còn giải thoát cho yên mọi bề. Gái theo trai lòng mê đắm đuối, không thể nào còn lối thoát đâu [2].

[2] Trích Kinh Thi – Quốc Phong – Vệ Phong – Manh, dịch thơ: Tạ Quang Phát. Phiên âm Hán Việt: Tang chi vị lạc, kỳ diệp ốc nhược. Vu ta cưu hề, vô thực tang thậm. Vu ta nữ hề, bất khả thuyết dã – ND.

Tôi khẽ thở dài một tiếng, lời của tiền nhân thì ra cũng có nguồn gốc từ những cơn cảm khái như thế, phải là một kinh nghiệm đau thương đến nhường nào mới có thể khiến nữ tử ấy nói ra câu “chớ mê trai lòng nặng tình duyên” kia đây? Tình yêu của một nam tử bình dân mà còn chẳng thể dựa vào, huống chi là kẻ quân vương. Tôi bật cười ngơ ngẩn, những chuyện quá khứ kia chỉ là một chút ngây thơ đến khờ dại của tôi mà thôi! Tất cả đều đã kết thúc rồi!

Thế là tôi lại tiếp tục phấn chấn tinh thần, bảo nhà bếp hầm một nồi gà ác với táo đỏ để bồi bổ thân thể.

May mà tôi còn trẻ, lại mang lòng quyết chí tự cường, do đó thân thể hồi phục rất nhanh. Có điều, đến khi dung mạo tôi trở lại như xưa thì cũng đã là tiết lập đông rồi.

Nghe nói mấy ngày trước, Mộ Dung Phi đã lại một lần nữa dâng biểu thỉnh tội, ngôn từ khẩn thiết, Huyền Lăng xem xong thì khá chấn động, có điều tạm thời chưa tỏ ý kiến gì. Tôi thầm lo lắng, quyền thế của Nhữ Nam Vương dường như có dấu hiệu phục hồi trở lại, nếu cứ tiếp tục thế này, chưa biết chừng Mộ Dung Thế Lan sẽ có ngày được trở về bên kẻ quân vương, như thế thì thực không hay chút nào.

Tôi ngẩng đầu nhìn sắc trời u ám bên ngoài, hít một hơi thật sâu, cố gắng kìm nén trái tim đang hoảng loạn của mình. Mọi việc đều đã đầy đủ, chỉ thiếu một trận tuyết lớn mà thôi.

Đưa mắt liếc xéo qua bên cạnh, tôi nhìn thấy bên trong chiếc gương đồng u ám mà lạnh lẽo kia, trong đôi mắt long lanh như nước của tôi đã xuất hiện một tia sắc bén trước giờ chưa từng có.

Ngày ấy rất nhanh đã tới. Đó là ngày Mười hai tháng Mười hai, tuyết lớn vừa dừng. Suốt ba ngày ba đêm trời đổ tuyết lớn, khắp hoàng cung ngập tràn trong một màu trắng thuần khiết, mênh mang. Huyền Lăng và các phi tần đang uống rượu ngắm tuyết trong Thượng Lâm uyển, tôi sớm lấy cớ thân thể không khỏe để không phải đi.

Chiếc áo mới của tôi được may bằng gấm Vân Nhạn, mang màu lục nhạt cực kỳ thanh tao và lạnh lẽo, như được nhuộm bằng nước sương. Tôi cố ý chọn thứ màu này, lại may vừa người theo kiểu dáng đơn giản nhất, làm tôn lên vóc người gầy guộc của tôi bây giờ. Trên chiếc áo ấy có thêu hoa mai và hoa thủy tiên, hai loại hoa cánh trắng nhụy vàng, kích thước và màu sắc đều giống hệt hoa thật. Rồi tôi lại cho hấp hoa thật để xông hơi vào chiếc áo đó suốt một đêm, sau đó mới khoác lên người, lúc này tôi dường như đã trở thành một bông hoa thực sự.

Tôi vẽ cho mình đôi hàng mày hình núi xa mà y ưa thích, lại quét một lớp phấn hồng mỏng lên mặt và phủ thêm phấn trắng bên ngoài, chính là lối trang điểm Phi hà trang thanh nhã, vừa hay có thể điểm xuyến cho nỗi ưu sầu dịu nhẹ của tôi, vô cùng động lòng người.

Thế rồi tôi rời cung, mang theo tâm ý quyết liệt, vừa có bi vừa có sầu. Thế nhưng đi được nửa đường, tôi cảm thấy những sự sầu bi ấy đều không cần thiết, một khi đã quyết ý muốn làm, hà tất phải mang theo tâm trạng mà ước thúc bản thân.

Lần này, tôi quay trở lại chốn xưa, thứ nhất là để tiện hành sự, mà quan trọng hơn là khi trùng phùng tại nơi lần đầu gặp nhau, trái tim y sẽ càng dễ xao động.

Tôi đi vào Ỷ Mai viên, khung cảnh rất tĩnh lặng, bàn chân bước đi trên mặt tuyết phát ra những tiếng “lộp bộp” nhẹ nhàng, khiến trái tim tôi thầm căng thẳng.

Sự lạnh lẽo của không khí khiến những ký ức trong đầu tôi trở nên rõ ràng mà sâu sắc, cảnh cũ như vẫn đâu đây, mai đỏ phả hương khoe nhụy, nở rộ như làn ráng chiều. Tôi hít sâu một hơi, dường như ngay đến sự ngọt ngào và giá lạnh trong không khí cũng mang mùi vị của ngày xưa, chưa từng thay đổi. Tôi nhẹ nhàng cất bước, rất nhanh đã tìm được gốc mai mà mình từng treo bức hình nhỏ để cầu phúc năm xưa, đoạn bật cười ngơ ngẩn. Dường như đó là đêm Giao thừa ngay đêm đầu tiên tôi vào cung, cũng vào một ngày tuyết rơi giá lạnh thế này, trong Ỷ Mai viên tăm tối, lần đầu tiên tôi nói chuyện với y qua những bóng mai trùng trùng. Sự đeo bám của vận mệnh khiến người ta không thể nào trốn tránh, dù có Dư Canh y mận chết thay đào, nhưng đến cuối cùng tôi vẫn không thoát được.

Ba tâm nguyện mà tôi thầm ước ngày đó vẫn còn khắc trong lòng, bao nhiêu năm nay, thứ mà tôi mong cầu cũng chỉ có thế này thôi: Thứ nhất mong cha mẹ an khang, huynh muội yên bình; thứ hai mong có thể sống yên ổn trong cung suốt đời suốt kiếp; thứ ba “mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau”.

Tôi đã từng hết sức “mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau”, nhưng sau khi “nghe lòng chàng hai ý” lại vẫn chẳng thể “nên đành đoạn tình này [3]”… Kỳ thực tỉ mỉ ngẫm lại tôi chưa thực sự yêu cầu Huyền Lăng phải “một lòng”, y là bậc đế vương, sao tôi có thể không hiểu cảnh ngộ của y, chỉ là nơi đáy lòng dẫu sao cũng có một chút mong chờ, rằng giữa ba ngàn giai lệ chốn hậu cung, tôi có được địa vị hơi đặc biệt một chút trong lòng y. Ấy thực là một mong ước nhỏ nhoi biết mấy, nhưng giờ đây rốt cuộc đã trở thành hoa trong gương, trăng dưới nước, si tâm vọng tưởng. Còn sự yên ổn, nó cũng ngắn ngủi và hư ảo như tình yêu trong chốn hậu cung này. Tôi không còn con đường nào khác để đi, cũng không có cách nào khác, chỉ có thể dùng tâm cơ, chỉ có thể tranh đấu, tranh đấu không ngừng, vậy mới có thể đổi lại sự bình yên trong khoảnh khắc. Mà đó không chỉ là sự bình yên của tôi, còn là sự bình yên của phụ mẫu và huynh muội. Huống chi kẻ thù của tôi vẫn còn sống trên đời, tôi không thể để đứa con còn chưa ra đời của mình chết một cách oan ức như vậy được!

[3] Trích từ Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân, dịch thơ Điệp Luyến Hoa, toàn bài: Trắng như tuyết trên núi, sáng tựa trăng giữa mây. Nghe lòng chàng hai ý, nên đành đoạn tình này. Hôm nay chén sum họp, đầu song tiễn sớm mai. Lững thững theo dòng nước, nước mãi chảy đông tây. Buồn đau lại buồn đau, vợ chồng chẳng nên than. Mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau. Chiếc cần sao lay động, đuôi cá sao cong cong. Nam nhi trọng ý khí, sao tiền bạc thay lòng – ND.

Lòng tôi sáng trong như mặt nước, hít sâu một hơi, chỉ đợi Huyền Lăng tới đây.

Khí trời dần trở lạnh, bộ quần áo mỏng manh trên người không đủ để giữ ấm, chân tay tôi đều lạnh giá, dòng không khí chui vào mũi phải qua một lát mới cảm thấy ấm.

Tôi không sợ lạnh, tôi đã từng thấy qua sự bi thảm ở lãnh cung, từng gánh chịu nỗi nhục bị nhổ nước bọt vào mặt, không thứ gì có thể khiến tôi sợ được nữa.

Phía đằng xa sau lưng vang lên tiếng bước chân giẫm trên tuyết, tôi biết là y đã tới, không chỉ có y, e là các phi tần, cung nhân tham gia bữa tiệc ngắm tuyết hôm nay đều đã đến. Lý Trường làm rất tốt, rốt cuộc đã đưa được Huyền Lăng tới, thực không uổng công tôi trước đây từng ngầm hậu đãi y.

Tiểu Liên Tử chờ phía sau vườn mai sớm đã nghe thấy động tĩnh mà mở chiếc lồng lưu ly nuôi bướm ra, chỉ sau khoảnh khắc đã thấy có cánh bướm run rẩy bay lại. Tôi lựa đúng lúc này mở chiếc lò sưởi cầm tay giấu trong áo choàng ra, hơi nóng lập tức lan tỏa, làm hương hoa trên áo tôi càng thêm nồng. Lũ bướm lần theo ngọn nguồn của hơi nóng, chậm rãi bay về phía tôi.

Tiếng bước chân càng lúc càng gần, tôi chắp hai tay lại, cất giọng chậm rãi mà dịu dàng, nói từng từ: “Tín nữ hậu cung Chân thị, vô tài vô đức không giữ được thai rồng để hầu hạ đấng quân vương, lòng thầm áy náy không có mặt mũi nào diện thánh, tại nơi đây thành tâm cầu chúc Hoàng thượng được trời cao phù hộ, phúc thọ dài lâu, muôn sự yên bình. Nếu được như ước nguyện, tín nữ nguyện cả đời ăn chay, một lòng bái phật, không còn được nhận thêm chút ân sủng nào.”

Tôi không biết cảnh tượng mình được những cánh bướm diễm lệ vờn quanh giữa trời tuyết lạnh băng này bắt mắt đến chừng nào, nhưng lại biết rõ trong tình cảnh kỳ dị như vậy, những lời mình nói ra lại càng dễ khắc sâu vào lòng y.

Huống chi giữa cảnh mai đỏ, tuyết trắng này, tôi lại mặc một bộ đồ màu xanh riêng biệt.

Khi cầu khấn những lời này, tôi chẳng hề thành tâm, chỉ cố gắng dùng nốt chút tình ý còn sót lại với y mà nói ra từng từ, ít nhiều cũng có chút thật dạ.

Cảnh vật chìm vào tĩnh lặng, dường như trong Ỷ Mai viên chẳng có bóng người nào, giữa trời đất chỉ có những bông mai đỏ rực, tự nở tự rơi.

Tim tôi đập thình thịch, biết rõ y đang ở sau lưng, mùi long diên hương đã lâu không ngửi thấy vương vất bay vào mũi, chỉ cần ngoảnh đầu lại là sẽ nhìn thấy y.

Một tiếng thở dài vang lên, kế đó là một giọng nói vô cùng quen thuộc: “Hoàn Hoàn… Là nàng sao?”

Cách xưng hô quen thuộc và thân mật biết chừng nào, khiến người ta chỉ cần không chú ý một chút thôi là sẽ ngỡ rằng mình vẫn ở ngày xưa, đang được sủng ái ở chốn Tiêu phòng. Cổ họng tôi có chút nghẹn ngào, cánh mũi hơi run rẩy như bị thứ gì đó chặn lại, một tiếng khóc mà bản thân cũng khó kìm nén bật ra. Tôi vẫn quay lưng về phía y, nói bằng giọng rất nhỏ: “Thần thiếp thất đức, không có mặt mũi nào diện thánh.”

Tiếng xì xào kinh ngạc của các phi tần đã khó có thể che giấu được nữa, y chạy đến bên tôi, ôm lấy tôi từ sau lưng. “Hoàn Hoàn, sao nàng không chịu nhìn trẫm lấy một lần, lẽ nào nàng không muốn gặp trẫm nữa sao?”

Tôi hơi giãy dụa, trong mắt đã rưng rưng ánh lệ. “Hoàng thượng đừng lại đây… Tất của thần thiếp ướt rồi…” Đây chính là câu trả lời của tôi với y trong Ỷ Mai viên năm xưa, bây giờ được nói ra lần nữa đã không còn cái tâm thái e thẹn của người thiếu nữ, tôi chẳng qua chỉ đang một lòng muốn đưa y vào tròng mà thôi.

Thân thể tôi bị y xoay ngược lại, những giọt nước mắt đã đậu trên bờ mi, chực rơi xuống bất cứ lúc nào. Tôi đã từng đứng trước gương nghiên cứu rất nhiều lần và có thể khẳng định đây chính là bộ dạng khiến người ta thương xót nhất.

Tôi vội vã cúi đầu rồi không chịu ngẩng lên. Y nắm lấy bàn tay tôi, cất giọng xót xa. “Bàn tay sao mà lạnh thế này, cẩn thận kẻo lại đổ bệnh.”

Tôi khẽ nói: “Thần thiếp chỉ một lòng muốn cầu phúc cho Hoàng thượng… Khiến Hoàng thượng phải lo lắng là lỗi của thần thiếp, thần thiếp xin cáo lui.” Tôi xoay người định đi nhưng lại bị y kéo vào lòng. Y vừa kéo, những cánh bướm sớm đã đông cứng bám trên người tôi lần lượt rơi xuống đất, các phi tần cung nhân xung quanh không kìm được kêu lên những tiếng kinh ngạc. Huyền Lăng vừa ngạc nhiên vừa tò mò, tỏ vẻ thích thú nói: “Hoàn Hoàn, vào lúc này mà không ngờ còn có bướm, hóa ra bướm cũng xiêu lòng vì nàng!”

Tôi thoáng lộ ra một tia bất ngờ và ngơ ngẩn, dịu dàng thưa: “Thần thiếp thực không hề hay biết…” Vừa nói hai hàm răng tôi vừa va lập cập vì lạnh, làn gió thổi tới cuốn góc áo của tôi lên tựa như cánh bướm tung bay, trong màu lục nhạt cao quý lộ ra thân hình mảnh khảnh, thật đáng thương vô cùng.

Chiếc áo choàng viền vàng may bằng da rái cá của y rộng rãi mà ấm áp, nhẹ nhàng cuộn tôi vào trong, mùi long diên hương quen thuộc lởn vởn quanh mặt rồi ập vào trong mũi. Cánh tay y hơi dùng sức khiến tôi không cách nào trốn chạy. Y khẽ gọi tôi: “Hoàn Hoàn, nếu vì cầu phúc cho trẫm mà nàng cảm lạnh, há lại chẳng khiến trẫm càng thêm đau lòng.” Y vùi đầu vào áo tôi mà hít hà một chặp, bất giác ngạc nhiên rồi cười, nói: “Người nàng thơm quá, chẳng trách giữa mùa đông mà có thể thu hút được nhiều cánh bướm tới đây như vậy, ngay đến trẫm cũng say đắm rồi!”

Giọng nói của tôi hết sức nhẹ nhàng và hiền dịu: “Thần thiếp ngày đêm cầu phúc cho Hoàng thượng nên phải tắm rửa xông hương thường xuyên, không dám sơ suất chút nào.”

Y bất giác rung động, cái ôm này cũng chứa chan ý vị. Hoàng Hậu mỉm cười, nói: “Vậy thì tốt quá. Hoàn Quý tần sau khi sẩy thai, thân thể vẫn luôn không được khỏe, khiến bản cung lo lắng mất mấy tháng trời.”

Lăng Dung bước ra khỏi đám đông, cất giọng nhu mì: “Thần thiếp ngày đêm cầu chúc cho Hoàng thượng và tỷ tỷ, mong Hoàng thượng và tỷ tỷ có thể hòa hảo như xưa, không còn hiềm khích, nay quả nhiên đã được như ước nguyện.”

Huyền Lăng cười tủm tỉm nhìn tôi, dường như có nhìn thế nào cũng không đủ, miệng nói: “Trẫm và ái khanh từng có hiềm khích sao?”

Tôi nở một nụ cười thản nhiên mà quyến rũ, dịu dàng thưa: “Chưa từng có. Là thần thiếp bị bệnh, không tiện hầu hạ Hoàng thượng mà thôi.”

Sắc mặt Lăng Dung thoáng lộ vẻ lúng túng nhưng rất nhanh đã cười, nói: “Quả đúng là thế, thần thiếp nhất thời vui mừng nên hồ đồ, nói ra những lời bậy bạ.”

Huyền Lăng hết sức vui vẻ. Tôi tựa đầu vào vai y, chú ý quan sát vẻ mặt của những người sau lưng y, nơi đáy lòng không kìm được cảm thán vì sự đời nóng lạnh. Bây giờ tôi sắp được sủng ái trở lại, sắc mặt mọi người trong hậu cung khi nhìn tôi không còn băng giá nữa, ai cũng tươi cười, sắc mặt ấm áp như làn gió xuân.

Thế nhưng khi ánh mắt lướt tới chỗ cuối cùng của đám đông, tôi không khỏi hơi ngẩn ra. Huyền Thanh đứng sau mọi người, ánh mắt tràn đầy vẻ thấu hiểu, trong sự dịu dàng xen lẫn một tia xót thương, cứ dừng lại mãi trên người tôi.

Sau khi dùng bữa với Huyền Lăng xong, tôi lại cùng y đi xem ca múa. Hiển nhiên lúc này, sự chú ý của Huyền Lăng không hề đặt tại giọng ca trong trẻo, cao vút của Lăng Dung và những kỹ xảo khéo léo của các nghệ nhân, mà luôn nhìn về phía tôi lúc này đang ngồi cạnh Kính Phi.

Kính Phi mỉm cười, thấp giọng nói với tôi: “Hoàng thượng vẫn luôn nhìn muội đấy!”

Tôi cũng cười, nói: “Sao tỷ tỷ biết Hoàng thượng không phải đang nhìn tỷ?”

Kính Phi cười một tiếng. “Hôm nay muội đột nhiên xuất hiện ở Ỷ Mai viên, thực ra trong lòng mọi người đều biết rõ Hoàng thượng sẽ không chịu xa lánh muội nữa.” Nàng ta dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Chỉ là kẻ làm tỷ tỷ ta đây rất tò mò, tại sao lũ bướm lại đậu trên người muội vậy? Lẽ nào thực sự như lời người ta nói, muội biết làm ảo thuật?”

Tôi bật cười. “Tỷ tỷ thật biết nói đùa, chẳng qua đây chỉ là chuyện nhỏ mà thôi!”

Kính Phi nói: “Vừa rồi ta nghe nói đám Tần Phương nghi nói là muội cố ý làm vậy đấy!”

Tôi chẳng hề để tâm, chỉ cười nhạt, nói: “Vậy sao?”

Kính Phi cũng khẽ cười, tay trái lén chỉ về phía ghế trên. “Người ngoài nói thế nào không quan trọng, chỉ cần Hoàng thượng cho rằng muội muội có lòng với người là được rồi!” Nàng ta hơi cụp mắt xuống, nói tiếp: “Kỳ thực Hoàng thượng vẫn rất để tâm tới muội đấy!”

Tôi ngước mắt lên, thấy Huyền Lăng đang vẫy tay nói với mình: “Tới ngồi bên cạnh trẫm đi!”

Tôi cung kính đứng dậy thưa: “Hoàng hậu nương nương là người đứng đầu hậu cung, lý ra nên ngồi cạnh Hoàng thượng, thần thiếp không dám vượt lễ.”

Y hết cách. Khó khăn lắm mới đợi được đến lúc bữa tiệc kết thúc, y đương nhiên muốn nghỉ lại trong cung của tôi nhưng tôi lại mềm mỏng nói: “Không phải thần thiếp không muốn hầu hạ Hoàng thượng, chỉ là bây giờ cơn phong hàn còn chưa khỏi hẳn, không tiện bầu bạn bên Hoàng thượng, xin Hoàng thượng lượng thứ.” Nói rồi tôi cười dịu dàng một tiếng, tiếp: “Chi bằng Hoàng thượng hãy đến cung của Tào Tiệp dư nghỉ ngơi đi, chắc Ôn Nghi công chúa cũng rất muốn gặp mặt phụ hoàng đấy!”

Lời còn chưa dứt, Tào Tiệp dư đã nhìn qua phía tôi vẻ đầy ngạc nhiên, rồi rất nhanh đã thu lại thần sắc, chỉ mỉm cười dịu dàng. Mộ Dung Phi thất sủng, Tào Cầm Mặc tất nhiên cũng bị liên lụy, lại thêm việc Lăng Dung đang được sủng ái, nghe nói Huyền Lăng đã rất lâu chưa tới cung của nàng ta rồi. Huyền Lăng không cự được lời thỉnh cầu mềm mỏng của tôi, liền dẫn Tào Tiệp dư rời đi.

Hoán Bích không hiểu ý đồ của tôi, thấp giọng nôn nóng nói: “Nương nương…” Tôi đưa tay ý bảo không cần nói nhiều, đi một mạch về cung.

Lúc về đến cung đã là đêm khuya, tôi vừa mới ăn cháo tổ yến nhưng lại không hề cảm thấy buồn ngủ. Tinh Thanh nói: “Nương nương hôm nay mệt nhọc, chi bằng hãy nghỉ ngơi sớm một chút.”

Tôi xua tay nói: “Không cần!” Nói đoạn lại mỉm cười. “Chỉ sợ còn chưa thể ngủ yên được.” Vừa khéo lúc ấy Tiểu Doãn Tử mặt mày mừng rỡ chạy vào, hưng phấn nói: “Nương nương, Hoàng thượng tới rồi!”

Tôi hờ hững “ừm” một tiếng, tiện miệng nói: “Đóng cửa Ẩm Lục hiên lại đi!”

Tiểu Doãn Tử lộ vẻ không thể tin nổi, ngỡ rằng mình đã nghe nhầm, vội vàng hỏi lại: “Nương nương nói gì cơ?”

Tôi đáp: “Đóng cửa lại, không cần mời Hoàng thượng vào.” Tôi thấy hắn do dự không dám đi, bèn bảo: “Ngươi cứ yên tâm làm theo lời ta là được, nói với Hoàng thượng là ta đã ngủ rồi!”

Tới lúc ấy, Tiểu Doãn Tử mới chịu rời đi. Một lát sau, tôi nghe thấy có người gõ cửa, chờ một chút rồi mới nói: “Ai vậy?”

Bên ngoài Ẩm Lục hiên, giọng nói của Huyền Lăng vang lên: “Hoàn Hoàn, nàng ngủ chưa vậy?”

Tôi cố ý tỏ ra bất ngờ: “Không phải Hoàng thượng đang ở chỗ Tào Tiệp dư sao? Sao lúc này còn tới đây vậy? Thần thiếp ngủ được một lúc rồi!” Vừa nói còn vừa giả bộ ho mấy tiếng.

Trong giọng nói của y đã mang theo chút nôn nóng: “Hoàn Hoàn, nàng vẫn khỏe chứ, trẫm phải vào xem nàng thế nào mới yên tâm được.”

Tôi vội nói: “Chính vì thần thiếp nhiễm phong hàn chưa khỏi hẳn nên mới không thể ra ngoài nghênh giá, cũng không thể bầu bạn bên Hoàng thượng. Nếu lúc này Hoàng thượng vào đây, lỡ như tấm thân ngàn vàng có bề gì thì thần thiếp thực không gánh nổi tội trạng. Xin Hoàng thượng hãy suy nghĩ cho thần thiếp.”

Y hết cách, đành thỏa hiệp: “Vậy thế này đi Hoàn Hoàn, nàng để trẫm nhìn qua một chút thôi được không, chỉ nhìn một chút thôi, nàng phải bình yên thì trẫm mới yên tâm được.”

Y đội sương đội gió đến đây vào lúc nửa đêm, hiển nhiên là cũng có chút thành ý. Nhưng tôi sao chịu, bèn nghiêm túc từ chối: “Sáng mai Hoàng thượng còn phải lên triều sớm, thực không tiện ngủ muộn. Thần thiếp bây giờ đã đi nghỉ rồi, nếu trở dậy sẽ chỉ khiến bệnh tình thêm nặng, không thể sớm ngày hầu hạ Hoàng thượng, xin Hoàng thượng lượng thứ.”

Nghe tôi thoái thác như vậy, Huyền Lăng tất nhiên không tiện nói gì, đành hậm hực quay về.

Lưu Chu nôn nóng hỏi: “Khó khăn lắm Hoàng thượng mới tới đây, sao nương nương lại không chịu gặp thế?”

Tôi mỉm cười, thay quần áo, nói: “Nếu ngày mai người lại đến, ta vẫn sẽ không gặp.”

Trong bữa tiệc tối hôm sau, tôi vẫn chỉ ngồi phía dưới, cách Huyền Lăng khá xa, giữ một cự ly vừa phải với y, thỉnh thoảng cũng có vài câu nói cười. Quả nhiên đêm đến y lại tới nhưng tôi vẫn đóng cửa không gặp, chỉ một mực khuyên y hãy tới chỗ của phi tần khác mà nghỉ ngơi. Nhưng y không chịu, thậm chí còn có chút giận dữ. Mọi người đều lo lắng không thôi, sợ rằng tôi cứ cự tuyệt như vậy sẽ khiến y tức giận, nói không chừng còn trách phạt tôi. Nhưng đêm đó, sau khi không gặp được tôi, Huyền Lăng cũng không đến chỗ phi tần nào khác mà một mình ngủ trong Nghi Nguyên điện.

Cứ như vậy đến ngày thứ ba tôi mới chịu gặp y qua khe cửa trong chốc lát. Giữa ánh nến lờ mờ, kỳ thực chẳng thể nhìn rõ được gì, nhưng rõ ràng y rất vui vẻ.

Ngày thứ năm, tôi giữ Huyền Lăng lại uống một chén trà rồi tiễn khách.

Ngày thứ tám, tôi đàn cho y nghe một khúc nhạc rồi tiễn khách.

Ngày thứ mười hai, tôi nắm tay y trò chuyện một phen rồi tiễn khách.

Tôi mãi vẫn chưa chịu dọn về ở trong Oánh Tâm điện, chỉ tiếp đãi Huyền Lăng một thời gian ngắn trong Ẩm Lục hiên chật hẹp. Còn Huyền Lăng đêm đêm đều không nghỉ lại chỗ tôi, nhưng trong những cuộc bàn luận tò mò của mọi người, sự sủng ái mà y dành cho tôi ngày một tăng thêm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

73#
 Tác giả| Đăng lúc 29-4-2016 11:47:23 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 5 (1)
Vinh hoa


Tất cả những tâm tư ấy chẳng qua bắt nguồn từ mấy lời lúc lâm chung của Lý phu nhân, vị hoàng hậu có nhan sắc khuynh quốc khuynh thành được Vũ Đế rất mực sủng ái. Khi bà sắp qua đời, Vũ Đế muốn gặp bà lần cuối, nhưng bà lại dùng khăn che mặt, đến lúc chết cũng không gặp lại lần nào. Chỉ bởi vì nhan sắc suy tàn làm tình yêu nhạt phai, ấy là cơn ác mộng vĩnh viễn của tất cả nữ tử chốn hậu cung, chỉ có thứ gì mãi mãi mất đi thì mới trở nên đẹp đẽ trong ký ức.

Vào đến tay tôi thì điều này thoáng chút thay đổi, trở thành thứ gì càng khó có được mới lại càng đáng quý. Thế nên tôi mới dốc hết tâm tư ngày ngày cự tuyệt một cách mềm mỏng, tất cả chỉ bởi vì năm chữ “muốn bắt thì phải thả” mà thôi. Cái gọi là “muốn bắt thì phải thả”, mục đích cuối cùng là nằm ở chữ “bắt” kia, còn “thả” chẳng qua chỉ là thủ đoạn, do đó, công phu khi “thả” phải làm cho tốt, không được quá chừng mực. Còn “bắt” lại càng phải bắt một cách khéo léo, nếu không mọi công sức trước đó coi như hỏng cả. Giống như việc đan mạng nhện, càng rộng lớn thì đến lúc cuối cùng càng phải thu về cẩn thận, vậy mới có thể đạt được mục đích bản thân mong muốn.

Rốt cuộc đã hơn nửa tháng trôi qua, trong đêm Giao thừa, vì phải chuẩn bị cho buổi lễ bái tế và cuộc họp mặt toàn cung ngày hôm sau nên y tất nhiên không thể tới. Đợi sau khi buổi lễ bái tế sáng mùng Một kết thúc, y lập tức đến Ẩm Lục hiên tìm tôi.

Ánh dương hôm nay rất đẹp, chiếu vào những bông tuyết đọng dưới đất phản chiếu vô vàn tia sáng rực rỡ, long lanh. Dưới sự đan xen của ánh dương và ánh tuyết, khung cảnh trong Ẩm Lục hiên trở nên sáng tỏ hơn nhiều. Lúc này, tôi đang ngồi tựa người bên cửa sổ thêu một chiếc túi thơm, trên người mặc một chiếc áo gấm màu tím nhạt với những đường hoa văn chìm hình dải trân châu, nhìn từ xa thì thấy như chỉ có một màu tím; phía bên dưới là chiếc váy dài xếp nếp có nền màu trắng, được tô điểm bằng những bông hoa nhỏ màu vàng đầy nét tươi vui. Vì sợ màu sắc quá tẻ nhạt, tôi còn khoác thêm một chiếc áo choàng màu đỏ tía lên người, trên mặt chỉ tô điểm son phấn rất nhạt, lại cài một cây trâm có tua làm bằng ngọc tím và được khảm minh châu lên búi tóc, thành ra vừa có vẻ tùy ý như ở nhà, lại vừa có sự trang trọng khi đãi khách, trong sự tinh tế lại mang theo nét điềm đạm, ngay đến nét cười trên mặt cũng yên ả mà rạng rỡ, khiến người ta chỉ nhìn thấy sự mềm mại chứ không có nét sắc bén nào.

Sau khi bước vào, y liền đứng một bên, không nói năng gì. Tôi biết là y đã tới nhưng lại giả bộ như không biết, chỉ chú tâm thêu chiếc túi thơm trong tay. Lát sau, y khẽ ho một tiếng, tới lúc này tôi mới chịu đứng dậy nghênh tiếp, trên mặt lộ ra ba phần vui mừng, “Hoàng thượng tới rồi!” Ngay sau đó liền hờn trách: “Người tới mà sao không chịu nói một tiếng, làm thần thiếp thất lễ quá!”

Y mỉm cười. “Đang độ tháng Giêng, chúng ta còn câu nệ lễ tiết làm gì? Trẫm thấy nàng cúi đầu chăm chú như thế, do đó mới không nỡ gọi nàng.”

Tôi sai Cận Tịch rót trà dâng lên, đoạn cười, nói: “Thần thiếp bây giờ đang rảnh rỗi nên mới làm mấy thứ nho nhỏ này để giết thời gian thôi. Hoàng thượng từ đâu tới đây vậy?”

“Ta vừa ở chỗ Hoàng hậu, vừa khéo An Tiểu viện cũng có mặt thế là liền trò chuyện vài câu, sau đó thì tới đây luôn.” Rồi y lại nói tiếp: “Nàng thêu cái gì vậy?”

Tôi nở nụ cười tươi tắn, cầm chiếc túi thơm lại, nói: “Vốn định thêu một chiếc túi thơm tặng Hoàng thượng, tiếc rằng thần thiếp làm chậm quá, chỉ thêu được con rồng ở bên trên thôi, còn chưa nghĩ ra xem nên thêu áng mây màu gì.”

Y nói: “Màu gì cũng được, tâm ý của nàng mới là thứ đáng quý nhất.”

Tôi nghiêng đầu, nói: “Mỗi đường kim sợi chỉ trên người Hoàng thượng đều không thể sơ suất, huống chi đúng như lời Hoàng thượng nói, chiếc túi thơm này là tâm ý của thần thiếp, thế nên thần thiếp lại càng không mong muốn nó có chút bất ổn nào.”

Y nghe vậy liền bật cười vui vẻ, tập trung suy nghĩ một lát rồi dừng mắt trên chiếc áo của tôi, mỉm cười, nói: “Màu tím nhạt trên áo nàng đẹp lắm, thêu thành đám mây lành cũng hợp với màu sắc của rồng vàng.”

Tôi khẽ “vâng” một tiếng, cất giọng giòn tan: “Tử khí đông lai, rồng vàng uốn lượn, quả là một điềm rất lành.”

Trong lúc trò chuyện nhẹ nhàng, bàn tay tôi lướt đi như bay trên chiếc túi thơm, chẳng mấy chốc đã thêu xong. Huyền Lăng tấm tắc khen ngợi một hồi, nhưng lại không nhận lấy ngay mà gỡ viên minh châu trên cây trâm cài đầu của tôi ra, bỏ vào bên trong đó, nói: “Viên minh châu này nàng ngày ngày mang trên đầu, sau này trẫm sẽ ngày ngày mang túi thơm bên cạnh, một khắc không rời, vậy được không?”

Tôi khẽ phỉ phui một tiếng, mặt đỏ bừng, không để ý đến y nữa.

Huyền Lăng tỉ mỉ ngó khắp xung quanh Ẩm Lục hiên, sau đó nói: “Trẫm ngồi ở chỗ này của nàng cũng được một lúc rồi, căn phòng này đốt ba, bốn chậu than mà cũng không được ấm áp như gian chính điện trước đó… Trẫm đang muốn hỏi nàng, sao không ở trong Oánh Tâm điện nữa?”

Tôi hơi cúi đầu, khẽ thưa: “Thần thiếp thích sự thanh tịnh của Ẩm Lục hiên.”

Y khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Đêm đó trẫm đánh cờ với nàng, thấy phía sau Ẩm Lục hiên là một mảng rừng trúc, lúc nào cũng có tiếng trúc bị tuyết đè gãy hoặc là tiếng gió thổi lá trúc lào xào, sao có thể nói là thanh tịnh được? Như thế đêm nàng ngủ không yên, lỡ bệnh phong hàn thêm nặng thì phải làm thế nào?”

Mắt tôi rơm rớm lệ nhưng vẫn gắng gượng nói: “Thần thiếp… Thần thiếp không thể giữ được thai rồng, thực không có mặt mũi nào gặp lại Hoàng thượng nữa. Oánh Tâm điện là nơi mà Hoàng thượng từng sống chung với thần thiếp, bây giờ thần thiếp thất đức, sao còn dám ở lại đó nữa. Thần thiếp tình nguyện ở lại nơi Ẩm Lục hiên rét lạnh, ngày ngày tĩnh tâm cầu phúc cho Hoàng thượng, mong Hoàng thượng có thể rộng bề con cái.” Dứt lời, lòng tôi cũng có chút xao động. Khi nói mấy câu này, tôi kỳ thực cũng chẳng phải thật tâm thật ý lắm, nhưng hai chữ “con cái” kia khiến tôi nhớ đến đứa con còn chưa ra đời của mình và những ngày tháng thê lương đau khổ sau khi mất con.

Thấy dáng vẻ tôi như vậy, y tất nhiên hết sức động lòng, đôi tay vuốt nhẹ bờ vai tôi. “Hoàn Hoàn, nàng tự làm khổ mình như vậy, há lại chẳng khiến trẫm đau lòng hơn sao?” Thần sắc y có chút thẫn thờ và đau khổ. “Bởi vì không có trẫm nên nàng không muốn sống một mình trong tòa cung điện đã từng sống chung với trẫm, Hoàn Hoàn, tâm ý của nàng với trẫm nhìn khắp chốn hậu cung này cũng không ai so được.” Y giúp tôi lau đi vệt nước mắt trên gò má, dịu dàng nói: “Trẫm đã về đây rồi, sẽ lại bầu bạn với nàng trong Oánh Tâm điện, được không? Giống như trước đây vậy.”

Y cố ý nhấn mạnh hai chữ “trước đây”, tôi ngẩng lên, khẽ gật đầu với khuôn mặt chan hòa nước mắt và nụ cười, nơi đáy lòng thì lại đầy nỗi bi thương. Cho dù y vẫn là y của trước đây, cung điện vẫn là cung điện của trước đây nhưng trái tim tôi sớm đã không thể trở lại giống như trước đây được nữa rồi.

Đêm ấy, tôi không mềm mỏng mời y rời đi nữa. Sự nhiệt tình và mong đợi mà y tích lũy đã lâu bùng phát một cách mạnh mẽ, y của lúc này có sự nôn nóng và kích động của một chàng thiếu niên. Còn tôi thì chỉ lặng lẽ chịu đựng, chịu đựng sự mơn trớn như sóng triều cùng với những hành động nóng bỏng như lửa đốt của y.

Khi tỉnh dậy thì đã là đêm khuya. Giờ Tý vừa qua, cảnh và người đều tịch mịch.

Trong Oánh Tâm điện, rèm vàng màn đỏ giăng đầy, nguyên một vẻ xa hoa diễm lệ như ngày trước. Bên dưới ô cửa sổ đằng tây vẫn là một đôi nến đỏ, tỏa ra những tia sáng dìu dịu như ánh trăng. Đế nến được làm bằng đồng đỏ đặc chế, điêu khắc thành hình thanh loan bay lượn, do ngọn nến thắp đã lâu nên sáp nến chảy đầy xuống dưới, phủ lên đế nến một lớp màu đỏ vô cùng bắt mắt. Bên ngoài cửa sổ, đến một ngọn gió hiu hiu cũng chẳng có, đất trời chìm trong tĩnh lặng, chỉ có thể nghe thấy tuyết tan tí tách chảy xuống, trong trẻo mà nhẹ nhàng.

Bầu không khí trong điện ấm áp đến nỗi khiến người ta đổ mồ hôi. Tôi nằm lặng lẽ trên chiếc giường rộng lớn, y ngủ rất say, hai tay ôm chặt lấy tôi, khiến tôi không thể động đậy. Cơ bắp trên cánh tay y dán sát vào làn da lõa lồ trước ngực tôi, vì mồ hôi còn chưa khô nên mang tới cảm giác nhơm nhớp và ẩm ướt, khiến nơi đáy lòng tôi trào lên cảm giác lờm lợm.

Dục vọng hoàn toàn là của y, cơn hoan hảo như dòng nước chảy qua người, cả tinh thần và thể xác tôi đều mỏi mệt. Vừa rồi khi y tiến vào cơ thể tôi, tôi rõ ràng cảm nhận được một sự xa lạ và khô khan, hoàn toàn khác hẳn với độ trước. Bờ môi của y khô khốc mà nóng bỏng, hôn lên người tôi một cách dồn dập, thân thể cũng có chút nôn nóng, cứ thế tùy tiện tiến vào, khiến tôi có cảm giác đau đớn.

Ngoài mặt tôi vẫn mỉm cười nhưng trái tim thì đã bay đến tận nơi đâu.

Không biết thân xác và trái tim của nữ tử có đi liền với nhau hay không? Trái tim đã xa cách rồi, thân thể cũng trở thành một bình chứa trống rỗng, chỉ biết ngẩn ngơ chịu đựng sự nhiệt tình nóng bỏng của y, khó mà sinh ra chút mừng vui nào tự đáy lòng, như thể bản thân là một người ngoài cuộc. Tôi cứ mỉm cười mà chịu đựng như thế, chẳng hề giao hòa, cũng chẳng hề vui vẻ.

Bức màn màu đỏ tươi trước mắt rủ xuống như chiếc cánh khổng lồ, tôi bỗng dưng nhớ ra, trong đêm ngày mùng Một thế này, ngay đến ánh trăng cũng gần như không thể nhìn thấy. Gió rì rào, tuyết mông lung, giữa trời đất này, tất cả mọi thứ đều bị bao trùm trong băng tuyết.

Cuộc đời tôi, có lẽ chỉ có thể thế này mà thôi!

Trong bữa tiệc ngày mùng Hai, tôi đã tha thướt ngồi bên phải Huyền Lăng, vừa uống rượu vừa nói cười vui vẻ. Mọi người đều biết đêm qua, Huyền Lăng đã ở lại trong cung của tôi, mãi tới giờ Ngọ mới cùng tôi tới dự tiệc. Kể từ giờ, tôi đã không còn là Hoàn Quý tần bị thất sủng khi xưa. Ngồi ở vị trí tôn quý bên trái vẫn là Hoàng hậu dáng vẻ đoan trang, Kính Phi Và Mộ Dung Phi chia ra ngồi ở đầu hai bên phải trái, kế đến là người đứng đầu Cửu tần Lục Chiêu nghi và Lý Tu dung xếp ngay dưới cô ta. Vì hôm nay là tiệc gia đình để mừng sự đoàn tụ trong cung, do đó chỉ cần là người có địa vị, bất kể đang đắc sủng hay thất sủng đều có mặt đầy đủ. Trong tòa cung điện to lớn đầy ắp phi tần, tiếng nói cười lả lướt không ngớt vang lên. Tôi mỉm cười ngồi bên cạnh Huyền Lăng, nhìn những mỹ nhân yêu kiều phía dưới, đột nhiên cảm thấy chuyện đời thật khó đoán vô chừng, vừa mới mùa xuân năm trước, tôi còn được sủng ái tột cùng, nổi bật giữa chốn hoàng cung, nhưng cơn mưa mùa hạ đã mang đi mất đứa con của tôi, còn mang tới cho tôi nỗi thất vọng chán chường, giữa mùa thu dài lạnh lẽo, người trong khắp chốn cung đình đều cho rằng tôi đã hoàn toàn thất sủng, thậm chí ngay đến một ả cung tần địa vị thấp kém hơn tôi cũng dám làm nhục tôi, nhưng khi mùa đông đầy tuyết còn chưa trôi qua, tôi đã lại trở về ngồi bên cạnh Huyền Lăng, tươi cười rạng rỡ như trước.

Lâu ngày không gặp Mộ Dung Phi, sắc mặt ả đã trầm lắng không ít. Nghe nói ả từng rất nhiều lần dâng biểu lên Huyền Lăng biện bạch về tội lỗi của mình, ngôn từ vô cùng khẩn thiết. Huyền Lăng xem xong thì thở dài không thôi nhưng lại không hạ chiếu tha tội.

Ả không khỏi có chút sầu muộn nhưng vẫn ngồi thẳng tắp ở đó trong bộ đồ xa hoa quý phái, khí thế ngạo nghễ và vẻ đẹp diễm lệ chưa từng mất đi nửa phần. Điều này cũng khó trách, cha anh của ả hiện giờ vẫn đang nắm quyền lớn trong triều, sau lưng gia tộc của ả còn là Nhữ Nam Vương thanh danh hiển hách. Huyền Lăng tuy vẫn chưa khoan thứ cho ả nhưng cũng không hề phạt nặng, qua đó đủ thấy ả không phải là không còn cơ hội.

Tôi ngẩng đầu uống cạn ly rượu nho trong tay, dòng dịch thể mát lạnh chảy qua cổ họng ấm áp mang tới cho tôi cảm giác băng giá mà tỉnh táo. Sau việc mất con, tôi đã hiểu được một điều, ngày nào Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung còn chưa đổ, bất kể Mộ Dung Thế Lan có phạm phải tội lỗi tày đình trong cung, Huyền Lăng cũng không thể và không dám giết ả để trút giận.

Tôi thoáng đưa mắt liếc nhìn Huyền Lăng, khi mà vương quyền lớn hơn hoàng quyền, y thân là quân vương một nước, nhất định đang phải cố sức kìm nén cơn phẫn nộ.

Tôi nhanh chóng ngoảnh đầu đi, ánh mắt liếc qua Hoàng hậu rồi lướt xuống dưới. Kính Phi xưa nay vẫn luôn cùng phe với tôi, tôi đắc sủng trở lại, nàng ta hẳn nhiên vui mừng, hai bên có thể giúp đỡ lẫn nhau; My Trang thì tất nhiên lại càng thật lòng mừng thay cho tôi. Lăng Dung một mực giữ vẻ điềm đạm nhún nhường, trên khuôn mặt mang nụ cười e thẹn. Nàng ta kéo tay tôi, đôi mắt trong veo tràn ngập vẻ vô tội. “Tỷ tỷ rốt cuộc đã khổ tận cam lai rồi, làm muội lo lắng quá đi mất!”

Tôi tươi cười, ung dung đáp lại: “An muội muội nặng lời rồi!” Nặng lời ở nỗi khổ của tôi hay là sự lo lắng của nàng ta, trong lòng tôi tất nhiên hiểu rõ. Nụ cười của nàng ta có chút gượng gạo nhưng dáng vẻ thì vẫn kính cẩn, nhún nhường.

Những lời nghe được sau Nghi Nguyên điện ngày đó hệt như một khúc xương mắc trong cổ họng, cái ý lấy lùi làm tiến đó, không phải là tôi không hiểu, cho dù nàng ta muốn tự bảo vệ mình, muốn củng cố sự sủng ái thì tôi và nàng ta, tự đáy lòng cũng trở nên xa lạ. Sự đời nóng lạnh, có ở lâu mới thấy được lòng người. Tất nhiên, có thể thấy được tới đâu thì không phải là điều mà tôi và nàng ta có thể dự liệu.

Khi ánh mắt tôi tiếp xúc với Lục Chiêu nghi, cô ta tỏ ra rất mất tự nhiên, vội vàng né tránh. Tôi thản nhiên nở một nụ cười mỉm, Tần Phương nghi lại càng căng thẳng không yên, tựa như đang ngồi trên thảm đinh vậy. Tôi mỉm cười, thu hết vẻ mất tự nhiên của cô ta vào nơi đáy mắt, không hề có ý nói với Huyền Lăng việc cô ả làm nhục tôi. Cô ả không biết sẽ bị tôi trả thù thế nào sau khi đắc thế trở lại, thành ra càng thêm bất an. Tôi không để tâm đến điều này, chỉ nhìn bộ dạng sợ hãi của cô ta mà nở một nụ cười hết sức rạng rỡ và thân thiện. Còn cô ta thì một mực cúi đầu thật thấp, e là không dám nhìn tôi thêm lần nào nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

74#
 Tác giả| Đăng lúc 29-4-2016 11:50:00 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 5 (2)
Vinh hoa


Mấy ngày sau, sau khi thỉnh an ở cung của Hoàng hậu, tôi đi qua Thượng Lâm uyển để trở lại Đường Lê cung. Vì trời nhiều tuyết, đường trơn nên tôi không ngồi kiệu, chỉ ôm một chiếc lò sưởi cầm tay, cùng Cận Tịch bước đi chậm rãi. Giữa thế giới băng tuyết lạnh giá của mùa đông mà trong Thượng Lâm uyển không hề hoang vu, vắng vẻ, ngoài những gốc mai đỏ, mai trắng, lạp mai điểm xuyết cho khu vườn ra, các cung nhân khéo tay còn dùng những dải lụa màu sắc sặc sỡ chế thành hoa và lá dán vào những cành cây khô, khiến cảnh sắc nơi đây giống như mùa xuân vậy.

Tôi bước đi được mấy bước liền rẽ vào Tuế Hàn các bên đường để ngắm cảnh tuyết trên hồ Thái Dịch. Đây là con đường mà Tần Phương nghi và Tào Tiệp dư nhất định phải đi qua sau khi từ cung của Hoàng hậu trở về cung của mình.

Quả nhiên hai người bọn họ lần lượt ngồi kiệu đi ngang qua, thấy tôi ở bên đường thì không thể không dừng lại, bước tới vấn an.

Tuế Hàn các ba mặt có cửa sổ, một mặt là cửa chính, bên trên là nóc để che chắn gió tuyết. Có điều không gian bên trong khá nhỏ hẹp, tôi và Cận Tịch đứng bên trong, lại có thêm hai người Tần, Tào đi vào, thành ra có chút chật chội.

Cung nhân của bọn họ đều ở bên ngoài các, Cận Tịch cầm một chiếc đệm lông ngỗng tới mời tôi ngồi xuống, tôi lại lệnh cho hai người bọn họ cùng ngồi. Tôi cúi đầu dùng hộ giáp khều nhẹ nắp của chiếc lò sưởi cầm tay để nó hé ra một chút, bên trong lò đang đốt một quả thông, trong không gian nhỏ hẹp lập tức lan tỏa mùi thơm thanh nhã.

Tào Tiệp dư dáng vẻ ung dung, chuyện trò với tôi về những việc thường ngày, còn Tần Phương nghi thì lại tỏ ra thấp thỏm không yên. Tôi cố ý không để ý đến cô ả, nói với Tào Tiệp dư: “Quãng thời gian trước, bản cung bị bệnh, đã lâu không gặp hai vị tỷ tỷ, chi bằng hôm nay chúng ta hãy cùng nhau thưởng tuyết được không?”

Tào Tiệp dư mỉm cười, nói: “Ta vốn định quay về chơi với công chúa, nhưng đã lâu rồi không gặp nương nương, đúng là nên ở đây chuyện trò một lát.”

Tần Phương nghi hết cách, đành nói: “Nương nương có lệnh, tần thiếp không dám không theo.”

Tôi hơi nhếch khóe môi, cười, nói: “Nghe câu này cứ như là bổn cung miễn cưỡng ngươi vậy.” Cô ả cả kinh, định cất tiếng biện bạch nhưng tôi đã nói trước: “Kỳ thực các tỷ muội chúng ta nên gặp gỡ nhau nhiều, dù chỉ nói chuyện phiếm đôi câu thôi cũng tốt, đợi khi tình cảm sâu sắc rồi, hiềm khích tự nhiên sẽ không còn nữa.”

Tào Tiệp dư thoáng nghi hoặc nhưng cũng không hỏi nhiều, Tần Phương nghi thì chỉ biết vâng vâng dạ dạ.

Từ trong các đi ra, chỉ thấy toàn bộ hậu cung đều ngợp trong màu trắng mênh mang của tuyết, khiến tùng xanh càng thêm xanh, mai đỏ càng thêm đỏ, màu sắc bắt mắt vô cùng.

Tôi đưa mắt nhìn màu trắng khắp vườn, chậm rãi nói: “Trong thời tiết này, bản cung bỗng nhớ tới một câu chuyện của mùa đông.”

Tào Tiệp dư thưa: “Nương nương học rộng biết nhiều, tần thiếp xin được lắng nghe.”

Tôi nói: “Hình như đó là câu chuyện về ‘con người lợn’ thì phải, bối cảnh cũng là một mùa đông như thế này.”

Nụ cười của Tào Tiệp dư đông cứng lại, có chút mất tự nhiên, cô ta hiển nhiên cũng biết tới câu chuyện này. Tần Phương nghi thì ngẩn ra, cô ả vốn xuất thân từ một gia đình quan lại địa phương chuyên quản về lương thực, học hành không nhiều, hơn nữa chỉ ưa ca kịch, không thích sách sử, tất nhiên là không biết.

Tôi mỉm cười, nói: “Làm gì có cái gọi là học rộng biết nhiều, kỳ thực bản cung cũng không nhớ rõ lắm, chi bằng để Cận Tịch lấy sách ra đọc cho các tỷ muội chúng ta cùng nghe.”

Tôi bảo Cận Tịch lấy cuốn Sử ký ra, chọn một đoạn trong thiên Lữ Hậu bản kỷ cho nàng ta đọc. Nàng ta ăn nói lưu loát, từng câu từng chữ đọc lên đều nhẹ nhàng, dễ nghe: “Lữ Thái hậu là vợ của Cao Tổ từ lúc còn hàn vi, sinh Hiếu Huệ Đế, con gái là Lỗ Nguyên Công chúa. Khi Cao Tổ làm Hán Vương, lấy Thích Cơ, người Định Đào, rất yêu quý, sinh Triệu Ẩn Vương, tên là Như Ý. Hiếu Huệ là người nhân từ, yếu đuối, Cao Tổ cho là không giống mình, thường muốn phế truất để lập Như Ý là con của Thích Cơ vì ‘Như Ý giống ta’. Thích Cơ được Cao Tổ yêu, thường đi theo nhà vua đến phía đông cửa ải, ngày đêm khóc lóc muốn lập con của mình làm Thái tử. Lữ Hậu tuổi cao thường ở nhà, ít khi gặp mặt nhà vua, cho nên càng bị bỏ rơi. Như Ý được lập làm Triệu Vương, đã mấy lần suýt thay Thái tử. Nhờ có các quan đại thần can ngăn và nhờ có mưu kế của Lưu Hầu cho nên Thái tử mới không bị truất… Lữ Hậu hết sức oán giận Thích phu nhân và người con của phu nhân là Triệu Vương, bèn sai giam Thích phu nhân ở Vĩnh Hạng cung và mời Triệu Vương đến… Thái hậu bèn chặt chân tay của Thích phu nhân, móc mắt đốt tai, cho uống thuốc thành câm, cho ở trong nhà tiêu gọi đó là ‘con người lợn [1]’.”

[1] Trích bản dịch Sử ký của Phan Ngọc, NXB Văn hóa thông tin, 2003 - ND.

Tần Phương nghi nghe đoạn đầu thì vẫn còn bình thản, nhưng sau đó, sắc mặt dần trắng bệch, thân thể cũng không kìm được mà hơi run rẩy. Tôi chăm chú nhìn thần sắc cô ả, chậm rãi giải thích như không có chuyện gì xảy ra: “Thời Hán Cao Tổ, Lưu Bang sủng ái Thích phu nhân, ghẻ lạnh Hoàng hậu Lữ thị. Thích phu nhân nhiều lần tranh sủng, bất chấp tôn ti coi thường Hoàng hậu, lại muốn đưa con trai mình là Như Ý lên thay Thái Tử Lưu Doanh vốn là do Lữ Hậu sinh ra. Mang mối thù sâu tranh chồng đoạt vị như vậy, Lữ Hậu tất nhiên ôm hận trong lòng. Sau khi Cao Tổ qua đời, Lữ Hậu căm hận Thích Cơ và Triệu Vương Như Ý tột độ, trước tiên giam cầm Thích Cơ, phạt bà ta mặc đồ tù, ngày ngày giã gạo trong Vĩnh Hạng cung. Thích phu nhân được Cao Tổ rất mực sủng ái, nào đã từng phải chịu khổ như vậy, bèn ngày ngày hát: ‘Con làm Vương, mẹ ở tù, cả ngày giã gạo đến đêm, chẳng biết khi nào thì chết! Con hỡi con, cách nhau ba ngàn dặm, ai giúp ta gửi lời này tới con?’.” Tôi nói tới đây thì thoáng dừng lại, cười bảo: “Thích phu nhân đúng là ngu xuẩn, việc tới nước này, mẹ góa con côi tựa như cánh bèo trôi không nơi nương tựa, vậy mà bà ta còn hát như vậy, mong được đứa con ít tuổi của mình che chở, đâu hay rằng đã hại con mình.” Kế đó lại kể tiếp: “Lữ Hậu bèn sai sứ giả gọi Triệu Vương Như Ý từ Hàm Đan về kinh thành, dù Lưu Doanh hết sức bảo vệ người em khác mẹ ấy nhưng kết quả y vẫn bị Lữ Hậu hạ độc giết chết. Còn với Thích Cơ mà bản thân coi như cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt, Lữ Hậu cho người chặt hết tay chân của bà ta, lại móc mắt đốt tai, cho uống thuốc thành câm, bỏ vào nhà tiêu cho giãy giụa rên rỉ, gọi là ‘con người lợn’, thê thảm vô cùng. Thích phu nhân vốn là một mỹ nhân mà lại rơi vào cảnh ngộ như vậy, thực đáng tiếc lắm thay!”

Tôi khẽ cười yểu điệu, nói với Tần Phương nghi: “Tuy Lữ Hậu thủ đoạn tàn khốc nhưng Thích phu nhân vọng tưởng dựa vào cái thế nhất thời để tranh ngôi đoạt sủng, làm nhục bề trên, thực là mình làm mình chịu, bị như vậy cũng là đáng đời. Mà qua đó cũng có thể thấy Lữ Hậu thân là nữ tử nhớ thù sâu đến thế nào. Phương nghi, ngươi nói xem có đúng không?”

Cô ả nghe đến si ngốc, đột nhiên thấy tôi hỏi vậy thì hai tay run lẩy bẩy, thân thể không kìm được trở nên mềm nhũn, ngã lăn ra đất. Tôi ra hiệu bảo Cận Tịch tới đỡ ả ngồi trở lại ghế. Tào Tiệp dư ở bên cạnh nói: “Đang yên đang lành nghe kể chuyện, Tần tỷ tỷ làm sao vậy?”

Tôi cũng nói: “Chính thế đấy, Phương nghi đâu phải loại người vô tri phạm thượng như vậy, đang yên đang lành cả nghĩ làm gì.” Nụ cười của tôi lại càng dịu dàng hơn. “Vừa rồi bản cung giải thích bừa bãi một phen, e là đã khiến Phương nghi càng khó hiểu, chi bằng hãy để Cận Tịch đọc lại một lần nữa nhé! Áng văn thiên cổ này của Tư Mã Thiên có thể nói từng lời đều là châu ngọc, đừng nên bỏ lỡ mà uổng phí.” Tuy tôi nói bằng khẩu khí thương lượng nhưng cái ý ra lệnh thì lại rất rõ ràng.

Tần Phương nghi được đỡ ngồi trở lại trên ghế, thân thể không ngừng run lẩy bẩy. Trong các nhất thời chỉ còn tiếng hít thở dồn dập của ả, mà sắc mặt ả lúc này đã trắng bệch như một tờ giấy Tuyên Thành thượng hạng.

Giọng đọc của Cận Tịch du dương trầm bổng, cao thấp nhịp nhàng, khi đọc đến chỗ đáng sợ còn có chút khàn khàn u ám, như thể tấn thảm kịch “con người lợn” đang hiện sờ sờ trước mặt người ta, rùng rợn tới tột cùng. Mới nghe được mấy câu, Tần Phương nghi đã hoảng hốt van nài: “Nương nương xin thứ tội! Tần thiếp biết sai rồi, Tần thiếp không dám nữa đâu!”

Tôi hờ hững nói: “Chuyện này đúng là kỳ lạ, Tần Phương nghi xưa nay luôn đường hoàng, ngay thẳng, nào đã từng có tội gì. Hơn nữa, bản cung chẳng qua chỉ bảo Cận Tịch đọc truyện cho chúng ta nghe thôi mà.” Tôi tiện tay hái bông hoa lụa đính trên cây trâm cài đầu xuống, ánh mắt hờ hững liếc nhìn cô ả, nhưng bàn tay lại tùy ý xé tan bông hoa đó ra. Tiếng xé lụa “loẹt xoẹt” vang lên không ngớt, giữa bầu không khí tịch mịch, thực chói tai vô cùng.

Khuôn mặt tràn ngập vẻ hoảng sợ, cô ả nhìn tôi, nói: “Tần thiếp… Tần thiếp chỉ nghe theo sự sai khiến của Lục Chiêu nghi mà thôi! Nương nương…”

Tôi cười tủm tỉm, chẳng buồn ngẩng lên, chỉ nói: “Vậy sao? Bất kể chuyện là như thế nào, cứ để sau này hãy nói, bây giờ bản cung chỉ muốn nghe câu chuyện về ‘con người lợn’ kia thôi. Có điều, tuy Tư Mã Thiên vung bút như thần nhưng bản cung vẫn chưa hình dung ra được một ‘con người lợn’ thật sự là như thế nào, trong lòng rất đỗi tò mò.”

Tôi cố ý nhấn mạnh mấy từ “con người lợn”, mắt nhìn chằm chằm vào mặt Tần Phương nghi khiến ả sợ đến nỗi thân thể trở nên mềm nhũn, phải tựa vào một cây cột trong các mới có thể ngồi vững. Tôi mặc kệ ả, đưa mắt cho Cận Tịch đọc tiếp. Mới đọc đến lần thứ hai, chợt nghe một tiếng “a” thảm thiết vang lên, thì ra Tần Phương nghi đã ngất lịm, nằm gục ra đất.

Tôi hờ hững liếc nhìn ả, nói: “Thì ra lá gan chỉ nhỏ như vậy, bản cung cứ ngỡ cô ta to gan lớn mật đến thế nào cơ, hóa ra chỉ là thứ đồ ăn hại miệng hùm gan sứa!” Tôi dùng khăn lụa khẽ lau chỗ phấn hai bên cánh mũi, lại tiện tay vứt bông hoa đã bị xé nát trong tay lên người cô ả, thản nhiên cất tiếng: “Tần Phương nghi thân thể không được khỏe bị ngất rồi, mau khiêng cô ta về đi!”

Đám cung nhân đều đứng chờ bên ngoài các, nghe thấy tiếng gọi thì không biết đã xảy ra chuyện gì, vội vàng chạy vào, đưa Tần Phương nghi rời đi. Cận Tịch cũng thừa dịp ấy cáo từ ra ngoài.

Tào Tiệp dư thấy mọi người đều đã rời đi, chỉ còn lại tôi và nàng ta, bèn nở nụ cười đầy ý vị. “Giết gà răn khỉ… Gà đã giết xong rồi, nương nương định nói gì với một người vừa đứng bên cạnh theo dõi cả quá trình như tần thiếp đây?”

Tôi hơi nhếch khóe môi. “Nói chuyện với một người thông minh như Tào tỷ tỷ đúng là dễ chịu thật, chẳng phí sức chút nào!”

Nàng ta vẫn giữ sắc mặt bình thản, điềm nhiên nói: “Nương nương không phải là người thủ đoạn tàn độc, Tần thị đã đắc tội với nương nương, nương nương hoàn toàn có thể đưa thị đến Bạo thất để trừng trị, hà tất phải rắc rối thế này? Chẳng qua là muốn dọa nạt tần thiếp mà thôi. Nương nương có lời gì xin cứ nói thẳng.”

Tôi đưa tay chỉnh lại nút thắt như ý trên chiếc áo khoác của mình, mỉm cười, nói: “Tào tỷ tỷ lòng dạ quanh co, xưa nay luôn thích vòng vo tam quốc, hôm nay đột nhiên lại nói năng thẳng thắn như vậy, thật khiến bản cung cảm thấy có chút không quen.” Tôi thoáng dừng lại. “Quãng thời gian trước, bản cung bị nhiễm phong hàn, mỗi ngày đều đề nghị Hoàng thượng tới cung của Tào tỷ tỷ, Tào tỷ tỷ cảm thấy thế nào?”

Nàng ta nói: “Thịnh tình của nương nương tần thiếp xin ghi khắc. Có điều, Hoàng thượng tuy thân thể ở chỗ tần thiếp nhưng trái tim thì lại luôn ở cung của nương nương, thường xuyên bần thần, ngơ ngẩn.”

Tôi nói: “Tào tỷ tỷ thông minh sáng dạ, tất nhiên biết rõ Hoàng thượng có tới cung của tỷ hay không đều phải xem bản cung khuyên nhủ thế nào. Kỳ thực Tào tỷ tỷ cũng chẳng cần quá để tâm xem trong lòng Hoàng thượng nghĩ gì, tục ngữ có câu ‘gặp mặt là có thêm ba phần tình cảm’, chỉ cần Hoàng thượng thường xuyên ngồi ở chỗ tỷ, với sự thông minh của tỷ, Hoàng thượng tự nhiên sẽ càng vừa ý tỷ hơn.” Tôi thoáng suy nghĩ rồi lại nói tiếp: “Vì chuyện của Mộ Dung Phi mà Tào tỷ tỷ đã bị liên lụy rất nhiều, còn khiến Ôn Nghi công chúa bị ghẻ lạnh. Hoàng thượng trước đó dường như đã có tới nửa năm không đến cung của tỷ rồi. Kỳ thực tỷ tỷ phải chịu chút ấm ức cũng không sao nhưng công chúa thì khác, nếu từ nhỏ đã không được phụ hoàng sủng ái, lớn lên rồi biết phải làm sao đây?”

Tào Tiệp dư biến hẳn sắc mặt, nói: “Tần thiếp ngày đó tầm nhìn hạn hẹp, không biết nên chọn cành mà đậu như giống chim khôn, thế nên mới có kết cục như bây giờ, thực chẳng dám oán trách ai.”

Tôi khẽ cười, nói: “Tỷ tỷ chớ nên tự than trách mình như vậy, tiền đồ của công chúa còn phải trông chờ vào tỷ tỷ đấy. Trước đây, tỷ tỷ lựa chọn đi theo Mộ Dung nương nương cũng không phải là tầm nhìn hạn hẹp, ngày đó để có thể theo đuôi cô ta chắc cũng không dễ dàng đúng không? Nhưng bây giờ, tỷ tỷ vẫn bị mọi người trong cung coi là thuộc phe Mộ Dung, phải làm sao mới tốt đây? Có điều vẫn còn may, Hoàng thượng là người niệm tình cũ, không phải cũng chẳng làm gì Mộ Dung nương nương đó sao?”

Tào Tiệp dư hai mắt trong veo, nhìn tôi hồi lâu rồi mới nói: “Trong lòng nương nương chắc hiểu rõ hơn ai hết, Mộ Dung nương nương sớm muộn gì cũng sẽ suy bại, chẳng qua là vấn đề thời cơ mà thôi. Tần thiếp cũng đang rất sầu muộn về tương lai của mình, chỉ mong đừng bị liên lụy gì.”

Tôi tỏ vẻ thấu hiểu: “Mộ Dung nương nương tính tình nóng nảy, bộp chộp, thời gian Tào tỷ tỷ đi theo cô ta chắc cũng chẳng dễ chịu lắm. Ngày đó, trong sự việc bột sắn, tỷ tỷ biết rõ là bản cung bị oan, tất nhiên cũng biết ai đã lợi dụng công chúa để sinh sự… Đáng thương thay cho công chúa, mới chừng đó tuổi mà đã phải chịu nỗi khổ như vậy, thực khiến người ta đau lòng…” Lòng tôi hơi mềm lại. “Là một người mẹ mà phải nhìn đứa con của mình chịu khổ như thế, chắc hẳn lại càng khó chịu hơn, đúng không?”

Hàng lông mày hơn máy động, Tào Tiệp dư đột nhiên biến sắc, khi ngẩng lên, trong mắt đã thấy có ánh lệ. “Nhưng nếu không có sự giúp đỡ của Mộ Dung Phi, năm đó tần thiếp sao còn tính mạng để sinh công chúa được.”

Tôi khẽ gật đầu, lại nói tiếp: “Mộ Dung Phi tất nhiên có ơn với tỷ, nhưng việc về sau thế nào thì chúng ta đều rõ, nàng ta đã lợi dụng đứa con ruột thịt của tỷ để tranh sủng, thậm chí còn mang công chúa theo bên mình, không cho người mẹ thân sinh của công chúa là tỷ tỷ chăm sóc… Kỳ thực tỷ tỷ đa mưu túc trí, hoàn toàn chẳng kém gì Mộ Dung Phi, đi theo nàng ta chẳng qua là muốn tự bảo vệ mình mà thôi.”

Nàng ta thở dài than: “Chỉ đáng tiếc…”

Tôi lại nói tiếp: “Tào tỷ tỷ là người thông minh rất mực, hiểu thấu sự đời. Do đó, ngay từ sớm đã biết rằng Mộ Dung Phi không phải chỗ dựa đáng tin, cũng từng ngầm giúp đỡ bản cung chút ít. Ngày đó, Mộ Dung Phi hạ lệnh lục soát Tồn Cúc đường, nếu tỷ tỷ chịu đứng ra ngăn cản, bản cung cũng không thể bày kế khiến nàng ta thất sủng được; mà trong việc Thuần muội muội sẩy chân ngã xuống nước, cũng là tỷ tỷ đã có lời nhắc nhở bản cung… Bản cung không phải người không biết cảm ân.”

Nàng ta nói: “Tần thiếp khi đó chỉ có thể nghe theo mệnh lệnh, đâu có sức phản kháng Mộ Dung nương nương. Có điều, Thuần Tần thì đã không thể cứu được nữa rồi.”

Tôi đang muốn tìm lời giải thích cho nỗi nghi vấn tồn tại đã lâu trong lòng, bèn hỏi: “Ngày đó, rốt cuộc tại sao Thuần Tần lại sẩy chân?” Nàng ta có vẻ muốn nói lại thôi, tôi thầm nôn nóng nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra bình thản. “Nếu tỷ tỷ không muốn thì không nói cũng chẳng sao.”

Sau khi thoáng do dự, nàng ta nói: “Mộ Dung Phi thấy Thuần Tần tuổi còn trẻ mà đã được sủng ái, lại là người cùng phe với nương nương, do đó mới muốn cắt bỏ vây cánh của nương nương!”

“Cớ gì mà nàng ta nôn nóng như vậy? Lẽ nào không sợ Hoàng thượng truy cứu?”

“Mộ Dung Phi xưa nay vốn chẳng coi ai ra gì, dù có giết chết một vài phi tần thì cũng có sao, hơn nữa, một cái chết như vậy căn bản chẳng để lại chút dấu tích!” Nàng ta dừng lại một chút, đưa mắt nhìn thần sắc của tôi, dè dặt nói: “Kỳ thực hôm đó Thuần Tần đi nhặt diều, vô tình nhìn thấy Mộ Dung Phi ngầm qua lại với người của Nhữ Nam Vương, do đó Mộ Dung Phi mới nóng lòng diệt khẩu.”

Tôi hít một hơi khí lạnh, kinh hãi đến nỗi đôi hoa tai rung rinh qua lại một hồi. Mộ Dung Phi có Nhữ Nam Vương chống lưng là việc mà mọi người đều biết, nhưng không ngờ bọn họ còn ngầm liên hệ với nhau trong cung, mà kết giao với ngoại thần không phải là một tội danh nhỏ.

Tào Tiệp dư nhìn thấy tôi đang ngơ ngẩn, bèn thử thăm dò: “Nương nương?”

Tôi tỉnh táo trở lại, mỉm cười bình thản, nói: “Ngày trước Tào tỷ tỷ vì lập trường mà bất đắc dĩ phải đối nghịch với bản cung, chuyện này hoàn toàn có thể tha thứ. Tào tỷ tỷ sinh được công chúa, công lao không nhỏ, nói thế nào thì cũng nên ngồi ngang hàng với Hân Quý tần. Nhưng ở bên cạnh Mộ Dung Phi nhiều năm như vậy, ngay đến một Lệ Quý tần không biết nặng nhẹ, không có con cái, tỷ tỷ cũng không so được, thật khiến người ta tiếc nuối.” Tôi dừng một chút rồi nói tiếp: “Bây giờ dù Mộ Dung Phi có chịu giúp tỷ tỷ cũng chẳng còn sức mà làm, Tào tỷ tỷ chẳng lẽ thực sự cam chịu như vậy sao? Huống chi địa vị của mẹ ruột cũng có ảnh hưởng lớn đến tiền đồ của con cái đấy!” Nói xong, tôi ngoảnh đầu ngắm cảnh tuyết, để nàng ta từ từ suy nghĩ.

Lát sau, Tào Tiệp dư trịnh trọng khom người, cất giọng rành rọt nói: “Tần thiếp nguyện làm trâu làm ngựa dốc sức vì nương nương, chỉ mong nương nương có thể bảo vệ mẹ con tần thiếp, tần thiếp cảm kích vô cùng.”

Tôi nở nụ cười mỉm, thu phục được cái túi khôn hiểu rõ mọi chuyện về Mộ Dung Thế Lan này, tôi đã có đủ lòng tin chắc chắn, bèn đích thân đỡ nàng ta dậy. “Kỳ thực bản cung sớm đã có lòng tán thưởng Tào tỷ tỷ rồi, hôm nay được gần gũi tất nhiên vô cùng mừng rỡ. Chi bằng bây giờ chúng ta hãy về cung của bản cung, cùng nhau chuyện trò thỏa thích một phen?”

Tào Tiệp dư thở phào một hơi, mặt đầy nét tươi cười. “Nương nương có tấm thịnh tình, tần thiếp mong còn chẳng được.”

Tôi hờ hững quay đầu, tiết trời bên ngoài Tuế Hàn các vẫn còn rét, nhưng cũng là thời điểm ý xuân sắp tràn về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

75#
 Tác giả| Đăng lúc 4-5-2016 11:52:01 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 6 (1)
Triều chính


Sau khi tỉnh lại, Tần Phương nghi đã phát điên, cả ngày nói năng bừa bãi, nấp trên giường không dám bước chân ra khỏi cửa. Huyền Lăng sớm đã không thích cô ả, thấy cô ả làm ồn như vậy, bèn nhốt lại không cho phép ra ngoài, chỉ mời thái y đến chữa trị. Nhưng cô ả là một phi tần đã thất sủng, lại phát điên như vậy, thái y cũng không tận tâm tận sức, mỗi ngày chỉ đến cho có lệ rồi rời đi luôn.

Tôi thường xuyên đứng trong cung của mình nhìn về phía nơi ở của Tần Phương nghi phía đằng xa, hồi tưởng lại cảnh tượng bị làm nhục ngày đó, cảm giác bãi nước bọt dính trên má khô dần giữa làn gió lạnh chưa từng giảm bớt chút nào, lại thêm những thảm trạng từng thấy trong lãnh cung, tất cả đều ghi khắc trong đầu tôi, kết hợp với nỗi đau mất con và lòng muốn báo thù, ngưng kết thành một vết thương khắc cốt ghi tâm trong ký ức.

Nếu không có sự chà đạp nhẫn tâm của Tần Phương nghi, nếu không có cảnh ngộ thê thảm của Phương Tần trong lãnh cung, tôi sao có thể phấn chấn trở lại nhanh như vậy được. Xét từ một khía cạnh nào đó, chính bọn họ đã tạo nên tôi của ngày hôm nay.

Thế là tôi bèn dặn dò Cận Tịch chuyển lời đến lãnh cung, bảo đám cung nhân già ở đó đặc biệt chiếu cố cho Phương Tần, đưa nàng ta đến một nơi sạch sẽ một chút, mọi chi phí về ăn mặc đều do cung của tôi cung ứng. Với Phương Tần, tôi không chỉ có cảm giác đồng bệnh tương liên mà còn coi nàng ta như vết xe đổ để mà nhìn vào. Nếu ngày đó, tôi cứ một mực suy sụp, vậy thì tôi sẽ là Phương Tần thứ hai trong chốn hậu cung này, chỉ có thể ở trong lãnh cung chờ chết mà thôi, cũng chẳng được người nào thương hại lấy nửa phần. Đồng thời tôi cũng cho người đối tốt với Tần Phương nghi về vấn đề ăn uống, ngủ nghỉ, chỉ không cho phép chữa khỏi bệnh điên của cô ả.

Cận Tịch rất ngạc nhiên vì sự chiếu cố đặc biệt của tôi với Phương Tần trong lãnh cung. Tôi cầm một quả quất lên ăn, sắc mặt bình tĩnh như nước, nói: “Cứ nghĩ đến nàng ta là ta lại kinh hãi, nếu ngày đó ta không cẩn thận, cứ để mặc mình đắm chìm trong suy sụp, e rằng người sau này sẽ phải ở cùng nàng ta trong lãnh cung chính là ta.”

Cận Tịch thoáng im lặng, lát sau mới hỏi: “Không biết Tần Phương nghi đã đắc tội lớn thế nào với nương nương mà lại sợ đến phát điên như vậy?”

Tôi cười lạnh, nói: “Ả sợ ta học theo Lữ Hậu biến ả thành ‘con người lợn’, nhưng ta cũng không ngờ ả lại sợ đến vậy. Nếu sớm biết có ngày hôm nay, chắc ả rất hối hận vì lần đó đã đối xử với ta như thế.”

Cận Tịch mỉm cười, nói: “Tần Phương nghi bây giờ đã thành ra như vậy rồi, e là có muốn hối hận cũng chẳng được.”

Tôi đang trò chuyện với Cận Tịch, Bội Nhi liền vén rèm đi vào, nói: “Bên ngoài có Lục Chiêu nghi tới, đang nôn nóng cầu kiến nương nương.” Vừa nói lại vừa tò mò lẩm bẩm: “Vị Lục Chiêu nghi này trước giờ chưa từng qua lại với chúng ta, hôm nay đang yên đang lành sao lại tới đây nhỉ, là vì người biểu muội Tần Phương nghi đã phát điên kia sao?”

Tôi ôm chiếc lò sưởi cầm tay, nói: “Đêm khuya gió lạnh, cô ta tự lo cho mình còn chẳng xong, đâu còn tâm sức mà để ý đến biểu muội nữa. Ngươi biết không, mấy ngày qua biểu muội của cô ta phát điên, cô ta chưa từng dám đến thăm lần nào.” Tôi thở dài, nói: “Cái gọi là thói đời nóng lạnh chính là như vậy đấy, việc có liên quan đến bản thân mình thì ngay đến tỷ muội cũng có thể vứt qua một bên.”

Tôi xoay người quay về noãn các nghỉ ngơi, đồng thời nói với Bội Nhi: “Bản cung không rảnh để gặp cô ta, ngươi cứ đi nói với cô ta, cô ta sẽ không bị liên lụy vì biểu muội của mình, nhưng bản cung cũng không muốn gặp cô ta nữa, càng không muốn khi gặp mặt còn phải coi cô ta là bề trên… Cô ta tự khắc hiểu rõ phải làm thế nào.”

Cận Tịch nhìn tôi dặn dò Bội Nhi, lại nhìn Bội Nhi ra ngoài, rồi mới nói: “Lối hành xử của nương nương hình như hơi khác với trước kia rồi!” Nàng ta hơi cúi đầu. “Nếu là trước đây, nương nương sẽ chẳng thèm ứng phó với loại người như Lục Chiêu nghi.”

Phía trước điện, một gốc mai lục ngạc đang nở hoa rực rỡ, những bông hoa như những ngôi sao nhỏ khiến sắc biếc thêm nồng. Giữa trời đông phủ tuyết, gốc cây đó tạo nên một mảng màu xanh, hết sức bắt mắt. Tôi gác chân lên chiếc lồng sưởi nạm vàng, tựa người vào tấm đệm mềm sau lưng, chậm rãi cất tiếng: “Có nhân ắt có quả, trước đây chính vì ta tốt tính quá, chỗ nào cũng nhường bọn họ, do đó khi ta vừa thất thế, bất cứ kẻ nào cũng dám nhảy lên đầu ta. Hôm nay ta giết một dọa trăm, nhắc nhở những con người đó, rằng bản cung không phải loại dễ ức hiếp.”

Cận Tịch dè dặt nói: “Nương nương trước đây quả thực quá nhân từ nhưng nương nương của hôm nay dường như hơi mang phong cách của Hoa Phi nương nương ngày trước.”

Trong cung, thị nữ nhiều không kể xiết nhưng dám nói chuyện với tôi như vậy thì chỉ có một mình Cận Tịch. Tôi cũng không giận, còn giải thích: “Hoa Phi một mực giữ dằn tàn độc, khiến người ta sợ mà tránh xa, đây không phải là việc tốt. Nhưng dùng thủ đoạn đó để đối phó với những kẻ mang dị tâm trong chốn hậu cung thì lại khá ư hữu dụng, Hoa Phi có thể cai quản hậu cung nhiều năm như vậy cũng không phải không có tài cán gì, ta không thể vì căm hận ả mà coi nhẹ tài năng của ả. Bây giờ ta vùng dậy, có một số việc không thể không tàn độc, mà lối hành xử của Hoa Phi, ta cũng nên chọn lấy điểm tinh hoa mà dùng.” Tôi khẽ buông tiếng thở dài. “Ngày trước người ta là dao thớt, ta là cá thịt, còn hôm nay, vị trí ấy cũng nên thay đổi rồi!”

Cận Tịch tới lúc này mới nở nụ cười nhẹ nhõm. “Nương nương tính toán như vậy thì nô tỳ cũng yên tâm rồi, chỉ mong nương nương vạn sự đều thuận lợi, không còn phải chịu khổ nữa.”

Lục Chiêu nghi quả nhiên hành động rất mau lẹ, ngay ngày hôm sau đã dâng tấu lên Hoàng đế và Hoàng hậu, nói rằng mình vào cung đã lâu mà không sinh nở gì, lại ưa thói xa hoa, dùng nhiều vàng ngọc, làm hư hao quốc khố, thẹn không dám ở lại ngôi đứng đầu Cửu tần, xin tự từ bỏ vị trí người đứng đầu một cung, giáng xuống làm thuận nghi đứng chót trong Ngũ nghi tòng tứ phẩm, dọn đến ở cùng với Tần Phương nghi.

Huyền Lăng có lẽ sớm đã quên mất Lục Chiêu nghi là ai, đương nhiên chẳng có dị nghị gì. Hoàng hậu tuy có chút hoài nghi nhưng do Lục Chiêu nghi vô cùng cương quyết nên cũng đành chiều theo ý cô ta.

Tôi nghe tin này xong thì chỉ cười hờ hững. “Cũng coi như cô ta biết điều, ta những tưởng cô ta sẽ chỉ tự xin giáng xuống làm tiệp dư thôi cơ.”

Đương nhiên, tôi vẫn còn nhớ tới tiểu cung nữ Yến Nhi hiền lành, chân chất bên cạnh cô ta. Trong phen sỉ nhục ngày hôm đó, Yến Nhi là người duy nhất dành cho tôi sự thông cảm, dù rằng tôi căn bản không cần đến. Đối với một cung nữ nhỏ bé như Yến Nhi, đi theo Lục Thuận nghi dọn đến nơi ở mới thật không tốt chút nào, mà một chút lòng thương cảm nàng ta thể hiện ra kia cũng đủ khiến tôi cảm kích, vì thế tôi bèn bảo Khương Trung Mẫn sắp xếp cho nàng ta đến làm việc ở chỗ Hân Quý tần. Hân Quý tần tính tình thẳng thắn, xưa nay vẫn luôn đối xử tốt với các cung nhân, như thế, Yến Nhi cũng coi như có được một nơi chốn tốt.

Hiện giờ, bên dưới Hoàng hậu chỉ còn có Kính Phi, Đoan Phi và Mộ Dung Phi. Đoan Phi và Mộ Dung Phi gần như đã lánh đời, chỉ còn Kính Phi vẫn thường đứng ra quản việc. Trong Cửu tần thì chỉ còn lại một mình Lý Tu dung u uất không đắc chí, kế đến chính là tôi và Hân Quý tần. Địa vị của tôi trong cung đã ngày một vững chắc.

Khi tôi đang làm mưa làm gió, đắc chí tột bậc ở chốn hậu cung, nơi tiền triều đã dần không còn yên bình nữa.

Nguyên nhân cũng chỉ vì một chuyện hoàn toàn có thể hóa giải. Ba ngày trước trong buổi triều sớm, Nhữ Nam Vương Huyền Tế không chỉ đến muộn mà còn mặc giáp trụ lên điện. Đây là một việc rất không hợp lễ nghi, triều đường không phải sa trường, hắn cũng không phải bậc đại tướng vừa đánh thắng trận, với thân phận thân vương mà lại đi mặc giáp trụ, còn thong dong đến trễ, chẳng qua chỉ muốn diễu võ dương oai mà thôi. Huyền Lăng còn chưa nói gì, Ngự sử Trương Nhữ Lâm đã đứng ra tố cáo Nhữ Nam Vương tội đại bất kính.

Nhữ Nam Vương là kẻ đứng đầu các võ tướng trong triều, xưa nay vốn chẳng coi đám văn thần nho sinh chỉ biết múa bút mở miệng nói về Khổng Mạnh ra gì, do đó hai phe văn võ trong triều cơ hồ như nước và lửa, hết sức thù địch nhau. Mà ngự sử vốn có trách nhiệm giám sát lễ nghi quốc gia, trên can gián lỗi lầm của quân vương, dưới trách cứ sai sót của quần thần, lấy việc nói thẳng làm tôn chỉ, xưa nay luôn được mọi người trọng vọng.

Nhữ Nam Vương tính tính cuồng ngạo, há lại để một viên quan ngự sử ngũ phẩm nhỏ nhoi vào trong mắt, tuy không phát tác ngay nhưng trên đường về phủ sau khi tan triều đã chặn Trương Nhữ Lâm lại, vung quyền mà đấm khiến Trương Nhữ Lâm ngất lịm ngay tại chỗ.

Chuyện này vừa truyền ra ngoài liền giống như tảng đá lớn rơi xuống mặt hồ, nhất thời các văn nhân sỹ tử đồng loạt dâng thư yêu cầu nghiêm trị Nhữ Nam Vương để chấn hưng pháp kỷ triều đình, còn Nhữ Nam Vương thì kiên quyết không nhận sai, thậm chí còn cáo bệnh không lên triều.

Nhữ Nam Vương quyền lực to lớn, thanh thế ngày một mạnh khiến Huyền Lăng lo lắng vô cùng, mà chuyện này càng làm tăng thêm sự đối lập giữa hai phe quan viên văn võ, một khi xử lý không tốt sẽ khiến triều đình lâm vào cơn nguy khốn. Vì nguyên cớ này, Huyền Lăng đã ở trong ngự thư phòng suốt một ngày không ra.

Việc có liên quan tới Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung, tôi không khỏi có chút lo lắng, liền sai Lưu Chu chuẩn bị cháo tổ yến làm đồ ăn đêm, sau đó cùng tới Nghi Nguyên điện.

Các đại thần dâng tấu đều đã cáo lui, Huyền Lăng một mình ngồi tựa trên chiếc ghế lớn điêu khắc hình rồng cuộn, ngửa đầu nhắm mắt ngưng thần. Tôi một mình lặng lẽ bước vào, lấy bát cháo tổ yến ra. Y nghe thấy tiếng động liền khẽ mở mắt, nhìn thấy tôi liền cười nụ cười mỏi mệt, nói: “Hoàn Hoàn, nàng tới rồi!”

Tôi cười dịu dàng, nói: “Mong là thần thiếp không làm phiền Hoàng thượng.”

Y lắc đầu, nói: “Chuyện mấy ngày hôm nay chắc nàng cũng nghe nói tới rồi chứ?”

Tôi khẽ gật đầu. “Dạ. Chuyện này sớm đã lan truyền khắp nơi, thần thiếp tuy ở hậu cung nhưng cũng biết được phần nào. Có điều, việc triều chính dù rắc rối nhưng Hoàng thượng cũng phải chú ý giữ gìn long thể.” Tôi đưa bát cháo tổ yến tới trước mặt y, cười nói: “Cháo tổ yến này là do thần thiếp tự mình hầm đấy, Hoàng thượng đã nghị sự với các vị đại nhân suốt một thời gian dài, giờ hãy ăn một chút cho mát họng nhé?”

Y nghe vậy liền mỉm cười, đón lấy bát cháo, múc một thìa lên ăn. “Ngọt quá!”

Tôi hơi cau mày, cũng múc một thìa lên ăn thử, đoạn nghi hoặc nói: “Đâu có ngọt lắm. Hoàng thượng không thích ăn đồ quá ngọt, thần thiếp đâu dám bỏ quá nhiều đường.”

Hàng lông mày dãn hẳn ra, y đưa tay tới, cười nói: “Trẫm không nói cháo tổ yến ngọt, vị ngọt chính là tâm ý của nàng khi đích thân hầm cháo tổ yến cho trẫm.” Y lật bàn tay tôi lại, ngắm nghía một hồi. “Lần này không bị bỏng chứ?” Trái tim tôi hơi xao động, lại nghe y nói tiếp: “Còn nhớ lần đầu tiên hầm cháo tổ yến cho trẫm, nàng còn không cẩn thận làm tay bị bỏng.”

Tôi thầm xúc động, chuyện đã qua từ lâu lắm rồi mà không ngờ y còn nhớ rõ như thế. Cảnh tượng trước mắt bỗng trở nên mờ ảo, ánh nến soi rọi khắp căn phòng, tựa như ánh trăng ngày Mười bảy, Mười tám. Sự ấm áp tỏa ra từ lò sưởi cùng mùi long diên hương ngọt ngào lan tỏa trong không khí, khung cảnh ngợp giữa sự sáng tỏ và tịch mịch. Tâm trạng dần trở nên nặng nề, tôi khẽ nói: “Thần thiếp sao có thể không cẩn thận như thế được, lần đó chẳng qua là vì nôn nóng mà thôi!”

Trong lúc trò chuyện, y đã húp sạch bát cháo tổ yến, nói: “Chuyện Nhữ Nam Vương đánh quan ngự sử nàng đã biết rồi, vậy… nàng cảm thấy trẫm nên xử trí thế nào đây, liệu có cần dựa theo luật pháp mà trách phạt Nhữ Nam Vương một phen?”

Trong lòng tôi trào dâng muôn vàn suy nghĩ, bất giác có chút hỗn loạn, chỉ cần tôi bảo y dựa theo luật pháp mà xử trí Nhữ Nam Vương là được rồi sao, lẽ nào đây là bước đầu tiên trong việc báo thù? Sau thoáng trầm tư, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại, nói: “Hoàng thượng thân là vua một nước, đương nhiên làm việc gì cũng phải dựa theo pháp luật, nhưng… không thể trách phạt Nhữ Nam Vương được.”

Y hơi nheo mắt chăm chú nhìn tôi, khẽ “ồ” một tiếng khá bất ngờ. “Trẫm cứ ngỡ nàng sẽ đề nghị trẫm trách phạt Nhữ Nam Vương cơ đấy, nàng thử nói nguyên do trẫm nghe xem.”

Tôi mỉm cười nhìn y. “Hoàng thượng không trách thần thiếp tùy tiện bàn đến việc triều chính chứ?”

Y nói: “Không sao, trẫm sẽ coi như nghe nàng nói chuyện phiếm, tuyệt đối không trách tội.”

Tôi cố gắng điều chỉnh lại hơi thở có chút dồn dập của mình, đứng bên cạnh y, chậm rãi nói: “Thần thiếp sẽ không vì tư tâm mà đề nghị Hoàng thượng trách phạt Nhữ Nam Vương. Hiện giờ điều quan trọng nhất là xoa dịu lòng người, hóa giải sự mâu thuẫn giữa các đại thần văn võ. Hai hổ giao tranh, ắt có một bên bị thương, mà bất kể bên nào bị thương thì rốt cuộc cũng sẽ làm ảnh hưởng tới gốc rễ của đất nước. Hiện giờ nếu xử phạt Nhữ Nam Vương, ắt sẽ khiến các võ tướng trong triều bất mãn, mà võ tướng… chính là những con người nắm binh quyền trong tay.”

Huyền Lăng đưa tay phải lên chống cằm, lẳng lặng suy nghĩ. Tôi lại nói tiếp: “Hoàng thượng kỳ thực không cần xử phạt Vương gia để dẹp yên chuyện này, nếu làm như thế chẳng qua là được lòng anh rể mà mất lòng chị dâu, rốt cuộc vẫn có chút thiếu công bằng. Các văn thần náo loạn chẳng qua là muốn có một câu trả lời, Hoàng thượng chỉ cần cho bọn họ một câu trả lời là được rồi, tốt nhất là bảo Vương gia đến tận nơi nhận lỗi.”

Huyền Lăng thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, kế đó bèn xua tay cười gượng, nói: “Nàng muốn bắt Nhữ Nam Vương đến tận nơi nhận lỗi ư? Y xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, bảo y làm thế thà giết y đi còn hơn.”

Tôi mím môi cười. “Chưa chắc đã vậy đâu!” Tôi xoay người đi tới sau lưng y, vuốt nhẹ ống tay áo của mình một chút, dịu dàng nói tiếp: “Vương gia đã từng chinh chiến nơi sa trường, vì nước giết địch, có thể coi là một anh hùng. Mà anh hùng thì khó qua cửa ải nào nhất đây?”

Y vỗ tay cười rộ. “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân! Nàng đúng là tinh ranh, không ngờ lại nghĩ ra được chiêu này!”

“Hoàng thượng cũng biết anh hùng khó qua ải mỹ nhân cơ đấy!” Tôi cười, nói: “Thần thiếp nào biết tới việc quốc gia đại sự gì, chẳng qua từng nghe nói về mấy chuyện vặt vãnh trong nhà giữa phụ nữ với nhau. Vương gia sợ vợ như sợ cọp, tất nhiên là vợ bảo gì nghe nấy, nếu để Nhữ Nam Vương phi đi khuyên nhủ thì sẽ chẳng gặp phải khó khăn gì nữa. Thần thiếp từng có duyên gặp mặt Nhữ Nam Vương phi, biết nàng ta không phải loại người ngu muội, không biết lý lẽ.”

Y ngẫm lại thấy cũng có lý nhưng rất nhanh đã thu lại nụ cười, nói: “Vậy ai có thể đi khuyên Nhữ Nam Vương phi được đây?” Tuy y đang hỏi nhưng ánh mắt đã dừng lại trên người tôi.

Y đương nhiên muốn để tôi đi, mà bất kể là ai mở miệng đề nghị thì kết quả cũng như nhau cả, chi bằng tôi nói ra trước còn hơn, làm như vậy, thứ nhất thể hiện rằng tôi hiểu được tâm ý của y, thứ hai chứng tỏ tôi còn có thể phân ưu cho y. Thế là tôi bèn nói: “Nếu Hoàng thượng không chê thần thiếp bất tài, thần thiếp xin được nhận trách nhiệm này.”

Y quả nhiên tươi cười rạng rỡ, dang tay ôm tôi vào lòng, dịu dàng nói: “Trong chốn hậu cung này, chỉ có Hoàn Hoàn nàng là có thể phân ưu giải nạn cho trẫm thôi. Đám đại thần kia nhận bổng lộc của trẫm nhưng làm ồn suốt hồi lâu mà chỉ nói ra được mấy chủ ý đại loại là phạt hay không phạt, đúng là vô dụng quá chừng!”

Tôi cất tiếng, mang theo bảy phần tươi cười, ba phần hờn dỗi: “Thần thiếp chỉ là một nữ nhân nhỏ bé trong chốn hậu cung, sao có chủ ý riêng của mình được, chẳng qua vô ý đoán bừa, may mắn trúng vào tâm ý của Hoàng thượng mà thôi. Những vị đại thần kia vốn chỉ quen với những luân lý trong sách vở, còn thần thiếp lại hiểu lòng Hoàng thượng, cho nên tâm ý của Hoàng thượng, thần thiếp tất nhiên có thể đoán được đôi phần, còn các vị đại thần kia thì chịu thua hết. Thần thiếp nghĩ bụng, Hoàng thượng là người muốn triều đình yên ổn nhất, sao có thể vì văn thần mà trách cứ võ tướng hoặc là dung túng võ tướng mà đè nén văn thần được.”

Huyền Lăng thở dài, than: “Hoàn Hoàn, quả nhiên chỉ có nàng hiểu lòng trẫm.” Rồi y chợt cau mày. “Nhưng sớm muộn gì cũng phải giải quyết Nhữ Nam Vương, nếu không trong triều sẽ toàn là vây cánh của y, chẳng còn chút chính khí nào nữa, giang sơn của trẫm cũng không bền vững được.”

Quả nhiên y cũng có suy nghĩ này. Trong lòng trào dâng một tia hy vọng, tôi khẽ nói: “Hoàng thượng đã có lòng này, thực là cái phúc cho dân chúng và xã tắc. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để trừ bỏ Nhữ Nam Vương.”

Y chăm chú nhìn tôi, trong mắt ánh lên một tia phó thác. “Hoàn Hoàn, trẫm quyết định đợi sau khi việc này kết thúc sẽ đưa huynh trưởng của nàng vào làm quan trong Binh bộ, nắm binh quyền của thị vệ Vũ Lâm quân bên cạnh trẫm.” Trái tim tôi đập thình thịch một chặp. Trao binh quyền của Vũ Lâm quân cho ca ca tôi, vậy tức là có ý làm giảm bớt uy thế của Nhữ Nam Vương rồi. Huyền Lăng nghiêm túc nói: “Chỉ một mình huynh trưởng của nàng thì chưa đủ, những tướng lĩnh có tài mà không đi lại gần gũi Nhữ Nam Vương trẫm đều sẽ đề bạt. Có điều, không thể làm quá sớm mà rút dây động rừng, còn phải vỗ về an ủi, do đó không thể nôn nóng được.”

Quả thế, nếu rút dây động rừng thì tất cả công sức trước đó đều coi như uổng phí. Tôi tập trung suy nghĩ, hồi lâu sau mới nói: “Nhữ Nam Vương và Vương phi đều đã có thân phận cao quý tột bậc nhưng tấm lòng cha mẹ nào cũng vậy, xem ra chỉ có thể sử ra chút công phu với con cái của bọn họ mà thôi.”

Trong mắt lóe lên một tia sáng rực rỡ, Huyền Lăng mừng rỡ, nói: “Không sai, Vương phi của y sinh được một trai một gái, con gái là Khánh Thành Quận chúa, năm nay vừa tròn mười hai tuổi, trẫm có ý phá lệ phong cho làm công chúa; sau đó lại phong cho con trai của Nhữ Nam Vương làm thế tử, được quyền thừa kế nghiệp cha.”

Tôi gật đầu mỉm cười, nói: “Hoàng thượng anh minh, chủ ý này rất ổn. Nhưng thần thiếp nghĩ không nên chỉ phong làm công chúa, còn cần thay đổi phong hiệu, như hai chữ ‘Cung Định’ chẳng hạn, có thể nhắc nhở phụ vương của cô bé phải ‘cung kính an định’. Tất nhiên, Hoàng thượng cũng muốn không phải động can qua mà hóa giải được mối tai họa ngầm giữa hai huynh đệ, nhưng còn phải xem Vương gia có chịu nhận thiên ân hay không. Hơn nữa, còn nên đưa Cung Định Công chúa vào nuôi dưỡng trong cung, để Thái hậu đích thân chăm sóc… Tương lai lỡ như có điều gì bất trắc thì cũng tạm thời uy hiếp được Nhữ Nam Vương.”

Y thoáng trầm tư, đoạn mừng rỡ nói: “Hay lắm, trẫm nghe lời nàng, sẽ cho người đi soạn ý chỉ ngay.” Y nói xong, bất giác lộ vẻ nhẹ nhõm, đưa tay bế thốc tôi lên, mở cửa đi tới căn phòng phía đông, lại ghé sát sau tai tôi, cười nói: “Vừa rồi nàng mới nói anh hùng khó qua ải mỹ nhân…”

Tôi cười khẽ, lại đẩy nhẹ y một cái. “Hoàng thượng cứ trêu thần thiếp, thần thiếp đâu phải mỹ nhân gì cho cam.” Ngoài miệng thì nói như vậy nhưng trong lòng tôi lại suy nghĩ xem nên tìm cớ gì để thoái thác y. Đêm qua vừa mới hoan hảo với y xong, tôi cũng nên có một vài ngày không gần gũi với y, nếu không sẽ rất dễ khiến y sinh cảm giác nhàm chán.

Đúng lúc y sắp bước vào phòng, Lý Trường bỗng mặt mày nôn nóng rảo bước đi theo bên cạnh, khẽ cất tiếng nhắc nhở: “Hoàng thượng, Hoàng thượng, đêm nay người đã chọn An Tiểu viện thị tẩm rồi!” Y thoáng chút do dự. “Mới rồi bên Tiểu viện đã mấy lần cho người sang đây hỏi thăm.”

Tôi thầm cười lạnh, xem ra Lăng Dung cũng nôn nóng rồi đây. Huyền Lăng chỉ “ồ” một tiếng, dường như giật mình nhớ ra, suy nghĩ một chút bèn nói: “Vậy ngươi đi nói với nàng ta, bảo nàng ta đêm nay không cần qua đây nữa, cứ ở trong cung của mình mà nghỉ ngơi sớm một chút.”

Trong khoảnh khắc mà y suy nghĩ đó, tôi đã nhẹ nhàng giãy ra khỏi lòng y, chỉnh lại cây trâm cài tóc đã gần rớt xuống, nói: “An muội muội mới được Hoàng thượng sủng hạnh không lâu, chính là lúc cần được yêu thương thật nhiều, sao có thể để muội ấy uổng công chờ đợi được? Thần thiếp nên cáo lui thì hơn.” Nói rồi liền xoay người định đi.

Huyền Lăng kéo tay áo tôi lại. “Nàng đừng đi vội.” Đoạn y nghiêm túc quay sang dặn dò Lý Trường hãy đi từ chối Lăng Dung. Tôi lật tay lại, nắm lấy tay áo y, cười dịu dàng, nói: “Không biết bây giờ An muội muội đang ở trong cung mong chờ ý chỉ của Hoàng thượng đến thế nào, Hoàng thượng là bậc cửu ngũ chí tôn, nhất ngôn cửu đỉnh, không thể thất hứa được.”

Y thoáng nghĩ ngợi, cuối cùng cười, nói: “Nhưng trẫm muốn cùng nàng…”

Tôi mỉm cười, kiên trì nói: “Chỉ cần Hoàng thượng nghĩ tới thần thiếp là được rồi, thần thiếp sao có thể tranh giành sự sủng ái với An muội muội chứ!” Y hết cách trước sự kiên trì và thoái thác của tôi, bèn mỉm cười đồng ý, đưa mắt tiễn tôi rời đi.

Trời đêm rất lạnh, giữa mùa đông sau tết Nguyên Tiêu, những bông tuyết to như lông ngỗng vẫn rơi lả tả, trong kiệu có đặt chiếc lò sưởi nạm bạc, hết sức ấm áp. Mấy thái giám khiêng kiệu bước đi trên nền tuyết làm phát ra những tiếng “lộp bộp lộp bộp” nhẹ nhàng, chợt nghe gần đó có tiếng người trò chuyện khe khẽ.

Tôi vén rèm lên, chiếc xe loan chở Lăng Dung đi về phía phòng đông của Nghi Nguyên điện vừa khéo đi ngang qua, người đánh xe cầm trong tay một chiếc đèn lồng đỏ lớn, không ngừng đưa qua đưa lại giữa không trung, bánh xe lăn lộc cộc trên đường, chiếc đèn lưu ly treo trước xe liên tục va đập với gió tuyết, làm phát ra những âm thanh tinh tang vui tai, vang xa theo làn gió.

Tôi buông rèm kiệu xuống, ngồi im lặng. Ai thị tẩm không quan trọng, điều quan trọng là tôi có nắm được trái tim của Huyền Lăng hay không. Cuộc gặp gỡ với Hạ Phi mấy ngày tới mới thực sự là điểm mấu chốt. Lúc này nhất định không được để Nhữ Nam Vương có cơ hội phản kích, nếu không người phải chết không chỉ là tôi và Huyền Lăng mà còn muôn vạn chúng sinh nữa. Không còn tính mạng, nói gì đến việc báo thù và yên thân? Tôi nhất định phải mưu tính cẩn thận.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

76#
 Tác giả| Đăng lúc 4-5-2016 11:53:33 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 6 (2)
Triều chính


Hôm vào cung, Nhữ Nam Vương phi Hạ thị tới chỗ Hoàng hậu thỉnh an trước tiên, nhìn thấy tôi mỉm cười ngồi ngay bên dưới Hoàng hậu thì có chút ngạc nhiên, nhưng rất nhanh đã thản nhiên cười, nói: “Nương nương lành hẳn bệnh rồi sao? Thiếp thân chúc mừng nương nương.”

Tôi cười nhã nhặn, đáp: “Hôm Nguyên Tiêu đó nhìn thấy Vương phi theo đoàn Mệnh phụ cung đình vào cung chúc mừng, ta vốn rất muốn trò chuyện với Vương phi vài câu, chỉ đáng tiếc lại đang có việc cần làm, thành ra lỡ mất cơ hội.”

Hạ Phi cười, nói: “Nương nương thân phận tôn quý, thiếp thân sao dám tùy tiện tới làm phiền nương nương.”

Tôi khẽ cười. “Theo lẽ cương thường thì là như vậy nhưng xét về bối phận trong nhà, bản cung còn phải gọi Vương phi một tiếng ‘tam tẩu’ nữa đấy. Huống chi bây giờ đều là người một nhà, chúng ta vốn nên gần gũi nhau mới phải.”

Hạ Phi nói với Hoàng hậu: “Hoàng hậu nương nương hôm nay khí sắc tốt quá!”

Hoàng hậu đưa tay xoa má, thoáng nét tươi cười. “Vương phi đúng là biết nói chuyện, bản cung thì thấy sau khi sinh được Thế tử, tinh thần Vương phi lại càng tốt hơn đấy.”

Hạ Phi có chút bất ngờ. “Thế tử? Hoàng hậu đang đùa thiếp thân sao? Dư Bạc năm nay mới sáu tuổi, sao đã là Thế tử được?”

Hoàng hậu mặt mày tươi tỉnh, nói: “Vậy mới thể hiện được ân sủng của Hoàng thượng chứ! Trong thế hệ con cháu bây giờ, Hoàng thượng thích Bạc Nhi nhất, Bạc Nhi tuy còn nhỏ tuổi nhưng lại thông minh, lanh lợi, do đó Hoàng thượng mới muốn phong nó làm Nhữ Nam vương thế tử thật sớm để tiện bề dạy bảo, ngày sau còn giống như phụ vương của nó, giúp Hoàng thượng an bang định quốc, mở mang cơ nghiệp.” Nói đoạn, nàng ta liền đưa mắt nhìn tôi, cười khẽ.

Người làm cha mẹ đa phần đều hơi thiên vị con út, Hạ Phi cũng không phải ngoại lệ. Nàng ta vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, nét rạng rỡ trên mặt không sao kìm nén được, vội vàng đứng dậy tạ ơn. Hoàng hậu mỉm cười, nói tiếp: “Không chỉ có vậy đâu, ý của Hoàng thượng là việc tốt thành đôi, người còn muốn phá lệ phong Khánh Thành Quận chúa làm công chúa nữa, ngay đến phong hiệu cũng đã nghĩ sẵn rồi, là ‘Cung Định’, sau này Cung Định Công chúa sẽ được Thái hậu đích thân nuôi dưỡng.”

Hạ Phi vốn rất vui mừng nhưng nghe nói phải giao con cho Thái hậu nuôi dưỡng thì sắc mặt biến đổi hẳn, vội vàng nói: “Đa tạ thánh ân của Hoàng thượng, nhưng con gái thiếp thân Vãn Y năm nay mới mười hai tuổi, rất không hiểu chuyện, nếu được phong làm công chúa giao cho Thái hậu nuôi dưỡng, chỉ sợ sẽ quấy nhiễu Thái hậu, mong Hoàng thượng hãy thu hồi lại thánh lệnh thì hơn.”

Sự thoái thác của Hạ Phi vốn đã nằm trong ý liệu, Hoàng hậu đưa mắt nhìn tôi, tôi bèn mỉm cười, khẽ nói: “Hoàng thượng hiện giờ con cái không nhiều, trong cung chỉ có hai vị công chúa là Thục Hòa và Ôn Nghi, đều còn nhỏ tuổi. Khánh Thành Quận chúa của Vương phi có thể vào cung cho Thái hậu nuôi dưỡng là một chuyện mừng, Đại Chu ta từ khi thành lập đến nay, nghe nói chỉ có Thánh tổ khai quốc là từng phong con gái của thân vương làm công chúa, mà đó còn là trong dịp công chúa sắp thành hôn, sắc phong một phần còn là do nể mặt nhà chồng. Người được sắc phong khi còn nhỏ tuổi như Khánh Thành Quận chúa thật đúng là lần đầu tiên đấy!”

Hạ Phi thoáng trầm ngâm, đang định nói gì đó thì Hoàng hậu đã đứng dậy, nói: “Bản cung hơi mệt rồi, Vương phi xin hãy về đi. Thánh chỉ của Hoàng thượng tối nay sẽ tới Vương phủ.”

Hoàng hậu cười tủm tỉm rời đi, tôi cũng cáo từ về cung, nhưng tôi cố ý đi thật chậm, bước đi tha thướt. Chỗ Hoàng hậu hiện đã không thể nói gì thêm được, Hạ Phi ắt sẽ đến xin tôi khuyên Huyền Lăng giúp.

Quả nhiên còn chưa ra khỏi cửa điện, Hạ Phi đã bước tới, nói: “Sắc trời còn sớm, thiếp thân muốn tới cung của nương nương ngồi một lát, không biết nương nương có hoan nghênh không?”

Tôi mỉm cười, nói: “Vương phi thực khách sáo quá, ta còn mong Vương phi không mời mà tự đến ấy chứ, chúng ta cũng đâu còn xa lạ gì.”

Cùng trở về Oánh Tâm điện, Hạ Phi ngó quanh bốn phía một chút rồi gật đầu cười, nói: “Quả nhiên đã khác hẳn rồi, không còn giống với ngày đó nữa.”

Tôi sai người dâng trà lên, tươi cười rạng rỡ nói: “Trà này tên gọi ‘Tuyết Đính Hàm Thúy’, vừa được đưa tới từ một nơi cách đây năm trăm dặm, Vương phi nếm thử xem có vừa miệng không.”

Hạ Phi nhấp một ngụm trà, không hề để lộ nửa phần ưa thích, sắc mặt vẫn bình thản như thường, chỉ nói: “Cũng được. Hiện giờ nương nương đang được ân sủng, tất nhiên mọi thứ đều là tốt nhất.”

Tôi ngồi xuống, đối diện với nàng ta, nhìn thấy thần sắc nàng ta thì trong lòng đã có chủ trương, bèn cười, nói: “Hôm nay Vương phi cũng có việc mừng thành đôi mà.”

Hạ Phi nghe vậy, sắc mặt liền trở nên ảm đạm. “Mẹ con thiếp thân sắp phải cốt nhục rời xa, sao lại nói là việc mừng được? Lệnh vua không thể trái, thiếp thân chỉ mong nương nương có thể đi khuyên Hoàng thượng, thành toàn cho mẹ con thiếp thân.” Nàng ta thấy tôi có vẻ trầm ngâm, bèn nói tiếp: “Nếu thật sự không được, thiếp thân đành xin Vương gia đi nói với Hoàng thượng giúp thôi.”

Tôi vốn biết chuyện này chẳng dễ dàng gì, do đó mới nhờ Hoàng hậu mở miệng giúp, sau đó thì đến lượt tôi dùng lời khuyên nhủ. Chứ nếu như tôi mà truyền ý chỉ của Huyền Lăng, sau đó lại đứng ra khuyên nhủ, Hạ Phi nhất định sẽ chẳng nghe được lời nào. Mà lỡ như Hạ Phi không chịu, Nhữ Nam Vương ắt cũng sẽ không chịu, như thế, sách lược trước tiên vỗ về để chờ ngày tiêu diệt cũng không thể thực hiện tiếp được.

Tôi không trả lời nàng ta việc vừa rồi mà chỉ tay lên cây xà ngang trong cung điện, nói: “Tính cả hôm nay, bản cung và Vương phi cũng mới gặp nhau có ba lần, nhưng trong lòng đã coi Vương phi như người ruột thịt chí thân. Nhớ lúc xưa bản cung sẩy thai, bị mọi người ghẻ lạnh, sống trong cảnh thê lương tiêu điều, chỉ duy có Vương phi là không tị hiềm mà tới thăm bản cung, còn tặng nhân sâm cho bản cung bồi bổ thân thể, việc ấy bản cung vẫn luôn ghi khắc trong lòng, chỉ mong có dịp nào đó có thể báo đáp tình nghĩa của Vương phi.”

Những lời này rất dễ làm người ta xúc động, nàng ta vội gật đầu, nói: “Không ngờ nương nương là quý nhân mà còn nhớ được việc này.”

Tôi nói: “Đây là lẽ đương nhiên, con người ta ân oán rạch ròi, lẽ nào lại quên được chứ. Bây giờ chính là lúc bản cung báo đáp Vương phi.”

Hạ Phi tỏ ra vui mừng, nói: “Nương nương chịu đi cầu xin Hoàng thượng giúp thiếp thân sao?”

Tôi khẽ lắc đầu. “Bản cung cũng chỉ suy nghĩ cho Vương phi thôi, mong Vương phi hãy tuân theo thánh chỉ, để Thái hậu nuôi dưỡng công chúa.”

Hạ Phi hơi cau mày, trong giọng nói đã thấp thoáng nét giận. “Lời này là ý làm sao?”

Tôi bình tĩnh nói: “Vương phi đã làm mẹ, làm vợ người ta, tất nhiên lúc nào cũng phải suy nghĩ cho chồng cho con, đặt bọn họ lên trên hết. Vương phi thấy bản cung nói có đúng không?”

Nàng ta gật đầu. “Làm mẹ, làm vợ người ta quả là không dễ dàng gì, huống chi còn là người trong tông thất hoàng gia.”

Tôi ngồi đối diện với nàng ta, chăm chú nhìn nàng ta, nói: “Mấy ngày trước, Vương gia ra tay đánh quan ngự sử, Vương phi có nghe nói chứ? Việc này khiến không ít người căm phẫn đấy. Triều ta xưa nay luôn xem trọng cả văn lẫn võ, lại đặc biệt trọng thị chức ngự sử, bọn họ thậm chí còn có thể trực tiếp cất lời can gián Hoàng thượng. Vương gia làm như vậy quả là không thỏa đáng chút nào.”

Hạ Phi khẽ thở dài một tiếng, chỉ nói: “Tính Vương gia đúng là hơi nóng nảy, thiếp thân cũng đã khuyên mấy lần rồi. Có điều lần này vị ngự sử kia cũng hơi hồ đồ, không nể mặt Vương gia mà cất lời chỉ trích trước đám đông. Hoàng thượng với Vương gia là anh em ruột cơ mà.”

Tôi mỉm cười khuyên nhủ: “Chính vì là anh em ruột nên Hoàng thượng cũng rất muốn bảo vệ Vương gia, nhưng cũng phải xoa dịu lòng căm phẫn của mọi người, bởi dù gì thì Vương gia cũng là người ra tay trước, Hoàng thượng không thể một mực bảo vệ Vương gia được. Huống chi nếu thiên vị quá, Vương gia ắt sẽ bị người ta nói ra nói vào, không có lợi cho thanh danh của Vương gia.”

Thấy nàng ta có chút xao động, tôi vội tranh thủ cất tiếng khuyên: “Vậy nên Hoàng thượng vừa phải giữ gìn thể diện của hoàng gia, vừa phải cho các văn nhân trong thiên hạ một câu trả lời, hy vọng Vương gia có thể đến tận nơi xin lỗi Trương Nhữ Lâm, như thế một là giữ được phong độ cho Vương gia, hai là thể hiện rằng Vương gia không hề xem nhẹ văn nhân thiên hạ, việc này cũng coi như được giải quyết.”

Hạ Phi vội vàng xua tay, nói: “Không được, không được, với tính của Vương gia xưa nay, chỉ có người khác cầu xin ông ấy, làm gì có chuyện ông ấy đi xin lỗi ai bao giờ.”

Tôi nói: “Vương phi thân là người làm vợ, tất nhiên phải suy nghĩ cho Vương gia. Đám văn nhân đó vốn rất ưa múa mồm động bút, một đời thanh danh của Vương gia rất có thể vì bọn họ mà phải lưu tiếng xấu ngàn năm. Hơn nữa, Liêm Pha đeo roi nhận lỗi với Lạn Tương Như là một giai thoại đến nay vẫn còn lưu truyền, Vương phi thường xem kịch chắc chắn có biết.” Tôi thấy nàng ta khá động lòng, lại nói thêm: “Nam nhân vốn hay lỗ mãng, khi làm việc thường chẳng để ý tới trước sau, do đó, đám nữ nhân chúng ta mới cần đứng phía sau để nhắc nhở, như vậy bọn họ cũng có thể yên tâm hơn nhiều. Nếu Vương phi suy nghĩ cho Vương gia, nhất định phải cố gắng khuyên nhủ Vương gia mới được.”

Hà Phi chậm rãi gật đầu, mím môi nói: “Nhưng cũng không thể để Vương gia phải chịu ấm ức được, Vương gia xưa nay chẳng chịu phục ai đâu.”

Tôi tự tay đưa hai miếng bánh điểm tâm cho Hạ Phi, ân cần nói: “Đúng thế! Hoàng thượng cũng có suy nghĩ này, Vương gia là thần tử có công lao to lớn, lại là anh ruột của ngài, quyết không thể chịu ấm ức được. Do đó, ngài mới quyết định phong Bạc Nhi làm thế tử, phong Vãn Y làm Cung Định Công chúa, như thế Vương gia cũng được nở mày nở mặt.”

“Nhưng nếu phong làm công chúa rồi lại phải ở trong cung, thiếp thân là người làm mẹ…”

Tôi vội vàng vỗ về: “Hai vị Công chúa Thục Hòa và Ôn Nghi đều còn nhỏ, không thể bầu bạn bên Thái hậu được, khi Thái hậu bị bệnh rất thích có đứa bé nào hiểu chuyện bầu bạn kề bên. Hoàng hậu và bản cung tuy cũng muốn ngày ngày ở bên Thái hậu nhưng dù sao cũng chẳng còn đáng yêu mấy nữa. Hoàng thượng thì bận rộn việc nước, không thể lúc nào cũng tới thăm Thái hậu, Công chúa nếu có thể thay Hoàng thượng và Hoàng hậu hầu hạ Thái hậu, ấy thật là một việc hiếu tột cùng, rất mát mặt Vương gia.” Tôi lại bổ sung thêm: “Hoàng thượng tuy rằng có ý bảo vệ Vương gia nhưng dù sao Vương gia cũng ra tay đánh người trước, làm Trương Nhữ Lâm đến giờ vẫn phải nằm bẹp trên giường, do đó, nói gì thì nói Hoàng thượng cũng có chút tức giận. Hơn nữa, Vương gia tính tình thẳng thắn, khó tránh khỏi bị người ta oán trách gièm pha, nếu có công chúa thường xuyên ở trước mặt Hoàng thượng khuyên nhủ vài câu, há lại chẳng tốt hơn sao? Bản cung cũng sẽ nói với Hoàng thượng, để Vương phi có thể vào cung bất cứ lúc nào, như thế Vương phi hễ nhớ Công chúa là có thể tới gặp được ngay, Vương phi thấy thế nào?”

Sau một hồi khuyên nhủ, Hạ Phi rốt cuộc cũng đồng ý đi khuyên Nhữ Nam Vương, cũng chịu để cho con gái vào cung.

Ba ngày sau, Nhữ Nam Vương đích thân tới tận nơi xin lỗi Trương Nhữ Lâm, tuy chỉ là làm qua loa cho xong chuyện nhưng sự việc rốt cuộc cũng lắng xuống. Còn Khánh Thành Quận chúa cũng đã được định ngày để sắc phong làm công chúa, sau đó sẽ vào cung hầu hạ Thái hậu.

Đêm ấy, Huyền Lăng ở chỗ tôi, khi nhắc đến việc này thì tỏ ra vô cùng hào hứng, nói: “Trẫm vốn cũng đổ mồ hôi lạnh thay cho nàng đấy, chỉ lo nàng ta không chịu, như thế, một phen tâm tư này coi như uổng phí. Không ngờ mọi việc lại thuận lợi như vậy, Hoàn Hoàn, nàng đã giúp được trẫm một việc lớn rồi!”

Tôi cười, đáp: “Hoàng thượng không cần khen thần thiếp đâu, phân ưu cho Hoàng thượng vốn là việc nên làm mà. Huống chi việc trong triều thần thiếp không hiểu nên không giúp gì được, chỉ có thể góp chút sức mọn vào mấy chuyện vặt vãnh giữa phụ nữ với nhau thôi.”

Tôi tươi cười rạng rỡ, rót cho y một ly trà Tuyết Đính Hàm Thúy, hương trà thơm dịu lan tỏa bốn phía. Y nhấp một ngụm, tấm tắc khen: “Quả nhiên là trà ngon.” Rồi y nắm tay tôi, cười nói: “Trẫm biết nàng thích thứ trà này nên mới đặc biệt chọn loại ngon nhất cho nàng, nàng vừa ý chứ?”

Tôi mỉm cười, ngồi lên đùi y, nhìn ly trà xanh biếc như phỉ thúy, khẽ nói: “Đương nhiên thần thiếp rất thích. Hôm nay Nhữ Nam Vương phi đến đây, thần thiếp cũng pha loại trà này khoản đãi, tiếc rằng Vương phi có vẻ không thích lắm, e là không hợp khẩu vị. Thần thiếp cứ ngỡ việc sẽ chẳng thành, may mà Vương phi không để bụng, nếu không thần thiếp thực khó mà chối bỏ trách nhiệm.”

Huyền Lăng vốn đang mỉm cười lắng nghe, sau khi nghe xong, thần sắc lại trở nên ảm đạm.

Bên ngoài có cống phẩm gì dâng lên, chỉ cần trong cung có, Nhữ Nam vương phủ ắt sẽ có, thậm chí còn tốt hơn. Điều này Huyền Lăng không phải là không biết.

Sự chán ghét và kiêng kỵ của y, vì thế lại tăng lên một phần.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

77#
 Tác giả| Đăng lúc 4-5-2016 13:47:46 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 7
Hoa đào nở rộ


Việc Nhữ Nam Vương đánh quan ngự sử rốt cuộc đã lắng xuống, nhưng ở Đại Châu, nơi mà ngự sử rất được trọng vọng, mối thù này dù gì cũng đã kết thành. Tuy hắn đã đi xin lỗi qua loa nhưng vì hai chữ qua loa này mà đám quan văn vẫn thầm căm phẫn không thôi. Nhữ Nam Vương tất nhiên sẽ không để ý tới, mà cũng chẳng thèm để ý tới thì đúng hơn. Việc sắc phong Thế tử và tiến phong Công chúa đều được tiến hành vô cùng rầm rộ, thể hiện rõ sự xa hoa náo nhiệt tới tột cùng. Khâm Nhân Thái phi nhìn không thuận mắt, từng lén phàn nàn: “Cho dù là khi công chúa gả chồng, e rằng cảnh tượng cũng không được náo nhiệt như vậy, việc này đúng là vượt lễ quá chừng.” Còn Huyền Lăng ngoài miệng tuy không nói gì nhưng trong lòng hắn cũng rất bất mãn với việc gia phong bất đắc dĩ này.

Tôi chẳng làm gì hết, cũng không nói nhiều, chỉ thản nhiên khoanh tay đứng nhìn. Huyền Lăng hiện đã coi Nhữ Nam Vương Huyền Tế như cái gai trong mắt, muốn trừ bỏ cho mau, tôi hà tất phải phí sức đi xúi bẩy kích động làm gì, cứ lựa lúc góp đôi lời là được.

Nhữ Nam Vương gặp việc mừng như vậy, tất nhiên đắc chí vô cùng, gần như quên hết tất thảy. Trong lúc hắn lơi lỏng sự đề phòng, Huyền Lăng liền mượn cớ binh sĩ gác đêm trong mùa đông ở Tử Áo Thành thường xuyên lười biếng ngủ gật hoặc tụ tập đánh bạc, liền cho huynh trưởng của tôi nắm quyền của đội thị vệ Vũ Lâm quân bên cạnh Hoàng đế, giữa mùa đông lạnh thường xuyên phải canh gác nơi cung cấm cùng với binh sĩ. Trong mắt người ngoài, đây kỳ thực là một công việc vất vả mà chẳng được lợi lộc gì.

Tuyết đông vừa lạnh, ánh dương mỏng manh chiếu xuống, rồi cứ thế dần tới mùa xuân. Dường như chỉ sau một trận mưa xuân rả rích, trong Thượng Lâm uyển lập tức xuất hiện cảnh liễu biếc đào hồng, ong bướm bắt đầu bay lượn khắp chốn hậu cung. Ngày tháng trong cung cứ thế chậm rãi trôi đi như dòng nước, chẳng nảy lên dù một gợn sóng nhỏ nào. Hoàng hậu chủ trì mọi việc lớn nhỏ trong hậu cung, Mộ Dung Phi ngoài những dịp lễ lớn đều không bước chân ra khỏi cửa, còn tôi thì cố gắng hết sức đóng vai một sủng phi, cùng các phi tần trong hậu cung chia sẻ sự sủng ái và mưa móc của Huyền Lăng.

Nếu chỉ nhìn vào số lần thị tẩm được ghi chép trong Đồng sử, tôi không phải là người đắc sủng nhất. Sự dịu dàng và khiêm nhường của Lăng Dung dường như được lòng Huyền Lăng hơn, giọng ca cao vút của nàng ta cũng trở thành nét điểm xuyết đẹp nhất cho sắc xuân vô tận giữa buổi đêm trong chốn hậu cung này. Còn tôi, chỉ dành nhiều thời gian ở lại trong ngự thư phòng, khi Huyền Lăng mỏi mệt vì việc nước thì lựa dịp nói chuyện phiếm với y vài câu, giúp y xoa dịu nỗi lòng.

Nhiều lúc, Huyền Lăng thích tôi và Lăng Dung cùng ở bên bầu bạn với y, tôi lặng lẽ xem sách hoặc tập viết chữ theo mẫu; Lăng Dung thì dịu dàng trò chuyện, thỉnh thoảng lại thấp giọng ngâm nga vài câu hát, hầu hạ bên cạnh y.

Khi ở cạnh nhau, tôi rất ít khi nói chuyện với Lăng Dung, có lẽ tự đáy lòng vẫn còn rất để bụng những lời ngẫu nhiên nghe thấy đó. Còn nàng ta cũng luôn ngập ngừng muốn nói lại thôi, thỉnh thoảng lén nhìn tôi một cái, rồi không làm gì khác.

Trong gian phòng nhỏ giữa độ tháng Ba, mấy nhành liễu mềm mại lay động trước cửa sổ, thỉnh thoảng lại có cánh bướm màu hồng phấn bay qua, ánh nắng chiếu xuống mang theo vẻ điềm đạm mà thanh bình. Tôi khẽ cười tủm tỉm, cẩn thận cho một ít mật ong vào ly trà của Huyền Lăng, dùng thìa bạc khuấy nhẹ.

Lăng Dung ngồi bên dưới ô cửa sổ phía bắc, cúi đầu thêu một chiếc túi thơm bằng gấm, thỉnh thoảng lại ríu rít trò chuyện với Huyền Lăng vài câu. Bầu không khí trong noãn các rất tịch mịch, có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng chim én hót véo von bên ngoài và tiếng Huyền Lăng lật sách loạt soạt. Lăng Dung đổ bóng xuống mặt sàn, cái cổ hơi cúi xuống tạo thành một đường cong tuyệt đẹp, kết hợp với những bông bích đào tràn đầy sức sống bên ngoài cửa sổ liền trở nên có phần yếu ớt, nhưng chính điều này lại càng tôn lên giọng nói mềm yếu và uyển chuyển của nàng ta, ngay đến chiếc áo gấm màu xanh lam trên người nàng ta cũng toát ra một sự quyến rũ khó tả.

Một lát sau, Lăng Dung đứng dậy, mỉm cười e thẹn, nói: “Thần thiếp vừa thêu xong một chiếc túi thơm tặng Hoàng thượng, Hoàng thượng xem thử xem có thích không?”

Huyền Lăng vốn đang tựa người vào ghế đọc cuốn Xuân thu, nghe vậy liền ngẩng đầu nhìn chiếc túi thơm thêu hình bích đào và hỷ thước trong tay nàng ta, nói: “Mấy ngày trước Hoàn Hoàn đã thêu cho trẫm một chiếc túi thơm rồi, trẫm vẫn đang đeo trên người đây, có thêm chiếc nữa thành ra lại thừa thãi.” Vừa nói y vừa hơi ngước mắt lên, nở một nụ cười với tôi.

Tôi tập trung khuấy ly trà trong tay, đồng thời liếc mắt nhìn y cười khẽ, có điều y tỏ ra gần gũi như vậy bỗng khiến tôi cảm thấy có chút không quen. Nhìn sang bên cạnh, tôi để ý thấy ánh mắt Lăng Dung có chút ngẩn ngơ, trong lòng tất nhiên hiểu rõ, kỹ thuật thêu của nàng ta kỳ thực tinh xảo hơn tôi. Sau khi trở lại bầu bạn bên cạnh Huyền Lăng, tôi rất nhanh đã phát hiện những thứ đồ trang sức nhỏ mà Huyền Lăng đeo trên người đều có nguồn gốc từ bàn tay Lăng Dung, qua đó đủ thấy dạo trước Lăng Dung đã được sủng ái đến mức nào.

Thế nhưng sau khi nhìn thấy thần sắc vừa ân cần lại vừa thoáng chút thất vọng của nàng ta, Huyền Lăng liền cười, nói: “Có điều cái này trẫm cũng rất thích, hãy bảo Phương Nhược mang đến đặt ở tẩm cung của trẫm đi.”

Lăng Dung mỉm cười dịu dàng, nói: “Thần thiếp tay chân vụng về, Hoàng thượng không chê tâm ý của thần thiếp là thần thiếp đã hài lòng lắm rồi.” Ánh mắt Lăng Dung dừng lại trên chiếc túi thơm thêu hình rồng vàng mây tím mà Huyền Lăng đeo bên hông, chính là chiếc mà tôi thêu, trong mắt lộ vẻ tán thán, nói: “Tay nghề của Hoàn Hoàn tỷ tỷ thật giỏi, rất hợp với khí độ của Hoàng thượng, không như chiếc mà thần thiếp thêu, có phần tủn mủn quá, mong Hoàng thượng thứ tội.” Nói xong liền định cúi xuống hành lễ.

Huyền Lăng vội vàng đưa tay đỡ lấy nàng ta, mỉm cười, ôn tồn nói: “Thế này đâu có gì gọi là tủn mủn, trẫm hiểu tâm ý của nàng, sao có thể trách tội được.”

“Tỷ tỷ!” Lăng Dung ngoảnh lại gọi tôi, thần sắc dịu dàng, điềm tĩnh. “Tài thêu của tỷ tỷ đúng là ngày một giỏi, có điều nếu thêu một chiếc túi thơm hình uyên ương để biểu đạt tình ý thì chắc càng tốt hơn, Hoàng thượng nhất định sẽ rất thích.”

Tôi bưng ly trà lên, tha thướt đi tới đứng bên cạnh Huyền Lăng, mỉm cười nhìn y chăm chú, nói: “Uyên ương cố nhiên là tốt, nhưng Hoàng thượng phải ngày đêm mang theo nó đi lại khắp nơi, như vậy không khỏi có phần quá nhi nữ tình trường, chẳng như đeo loại hình rồng, có thể trổ rõ thiên uy. Còn về túi thơm hình uyên ương…” Tôi nở nụ cười ngọt ngào, cất giọng tinh nghịch: “Thần thiếp thêu thêm một chiếc nữa để Tứ lang đặt dưới gối được chăng?”

Đã lâu rồi tôi chưa gọi y là “Tứ lang”, lối xưng hô này buột ra khỏi miệng một cách hết sức tự nhiên, sự thân mật bên trong lời nói lại càng không có chút gì che đậy. Nét cười và sự mừng rỡ trên mặt y càng thêm nồng, không kìm được chăm chú nhìn tôi, trong mắt đầy vẻ dịu dàng.

Trong lòng tôi cũng trào dâng một tia kinh hãi, lối xưng hô này biểu trưng cho tình ý nồng nàn ngày xưa, giờ vô tình thốt ra như vậy, ngay đến bản thân tôi cũng thấy bất ngờ. Lẽ nào từ tận đáy lòng tôi, tia tình cảm khó nói với y kia vẫn chưa từng đứt đoạn? Tuy vừa bất ngờ vừa kinh ngạc nhưng khi ngoảnh đầu nhìn y, trên mặt tôi vẫn là một nét vừa mừng vừa thẹn. Bất giác, hai gò má tôi nóng bừng, như được nhuộm màu đỏ của hoa đào.

Lăng Dung thấy tôi và Huyền Lăng có thần sắc như vậy, không khỏi hơi ngơ ngẩn, nhưng rất nhanh đã đưa khăn lên che miệng, cười khúc khích, nói: “Hoàng thượng và Hoàn tỷ tỷ ân ái như vậy, thực đúng là một giai thoại.” Nàng ta nhìn tôi chăm chú, trong mắt thấp thoáng một nét âu sầu và buồn bã vô cùng thành khẩn, nói: “Hoàn tỷ tỷ đúng là tốt phúc, người ngoài có cầu cũng chẳng được.”

Nghe nàng ta nói vậy, tôi bất giác có chút sững sờ. Cùng Huyền Lăng như vậy chính là ân ái và tốt phúc sao? Vậy thì trong cái sự ân ái này, tôi và y mang theo được bao phần tình si, bao phần thật ý đây? Chẳng qua chỉ suy nghĩ vu vơ trong khoảnh khắc, tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, đẩy nhẹ cánh tay Huyền Lăng, cười nói: “Hoàng thượng mau đi khuyên giải đi, An muội muội hình như đang ghen kìa.”

Hai má Lăng Dung đỏ bừng, giậm chân, hờn dỗi nói: “Hoàn tỷ tỷ lại trêu muội rồi, muội sao có thể ghen với tỷ và Hoàng thượng được cơ chứ, không để ý tới hai người nữa.”

Huyền Lăng chỉ mỉm cười vui vẻ, thấy nàng ta nói như vậy bèn kéo tay nàng ta lại, nói: “Thôi, thôi! Dung Nhi tính nhún nhường hay thẹn, dù có ghen thì cũng ghen một cách đáng yêu, không làm người ta khó chịu chút nào đâu.”

Thấy y nói năng thú vị như vậy, tôi và Lăng Dung đều không kìm được bật cười. Trong lúc trò chuyện, mọi mối hiềm khích và không vui đều tạm thời gạt sang một bên.

Trung tuần tháng Ba, Huyền Lăng có ý đưa huynh trưởng của tôi vào Bộ binh. Sau mấy lần bàn bạc trong buổi triều sớm, tuy Nhữ Nam Vương có chút không vui, phe phái Mộ Dung cũng cực lực phản đối, thế nhưng dưới sự kiên trì của Huyền Lăng, ca ca tôi vẫn được trao chức chính ngũ phẩm Đốc cấp sự trung, kiêm Phụng Quốc tướng quân.

Chức Đốc cấp sự trung tuy rằng phẩm cấp không cao nhưng quyền lợi trong tay lại khá lớn, nhiệm vụ mà Hoàng đế giao cho các nha phủ làm cứ mỗi năm ngày lại giao cho Lục bộ kiểm tra một lần, nếu có chỗ nào dây dưa hoặc làm việc không hết mình, Đốc cấp sự trung của Lục bộ đều có thể bẩm báo với Hoàng thượng, còn có thể tham gia vào việc điều động quan viên và nghị sự với Hoàng đế. Do đó, sau khi ca ca tôi vào làm quan trong Bộ binh, Nhữ Nam Vương nhất định sẽ sinh lòng đề phòng.

Vì chuyện này mà tôi hết sức lo lắng cho ca ca, Bộ binh gần như là nằm trong tầm mắt của Nhữ Nam Vương, có quá nửa người là tâm phúc của hắn, Huyền Lăng làm vậy rõ ràng là có ý đưa ca ca vào trong hang hổ, chỉ sơ sẩy một chút thôi, e rằng tính mạng mất đi thế nào cũng không biết. Huống chi ca ca còn có trách nhiệm giám sát mọi hành động của Nhữ Nam Vương, trong khi đó, ngay từ đầu huynh ấy đã bị bọn họ đề phòng, sao mà thăm dò ra chuyện bí mật gì được, kết quả cuối cùng rất có thể là chẳng được việc gì, mà nếu không may, thậm chí sẽ còn rút dây động rừng.

Sau khi vào Bộ binh, hàng ngày ca ca đều tỏ ta hết sức dè dặt, chỉ làm những việc trong phận sự của mình. Nhưng Nhữ Nam Vương và ba cha con nhà Mộ Dung đều ở trong Bộ binh, Mộ Dung Thế Lan lại là tử địch của tôi trong hậu cung, bọn họ sao dám sơ sẩy để ca ca có cơ hội lợi dụng. Ca ca và tôi một người sống trong cung, một người ở ngoài cung, nhưng đều bó tay hết cách, vô kế khả thi.

Mà nếu ca ca không thể thành công, cái ngôi hoàng đế mà Huyền Lăng đang ngồi có thể bị Nhữ Nam Vương chiếm đoạt bất cứ lúc nào. Giang sơn tuy không đổi họ nhưng Nhữ Nam Vương lòng dạ hẹp hòi, tính tình hiếu chiến, lại ham việc lớn công to, nếu để hắn nắm thiên hạ, lê dân trăm họ nhất định sẽ phải khổ vì chinh chiến, chẳng có ngày nào được bình yên, thời thịnh thế được khai sáng trong tay tiên hoàng cũng sẽ vì thế mà tan vỡ.

Vì chuyện này, tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều, không biết nên làm thế nào mới có thể khiến Nhữ Nam Vương buông bỏ lòng đề phòng với ca ca.

Chính vào lúc ấy, trong nhà tôi truyền tới tin mừng, tẩu tẩu Tiết thị của tôi đã có thai. Chuyện này bất kể với gia tộc hay với cha mẹ tôi đều là một chuyện đáng mừng, thế là tôi vội sai người đi mời tẩu tẩu chọn ngày vào cung gặp mặt.

Hôm nay, tẩu tẩu tôi vào cung bái kiến.

Vừa gặp mặt, tôi đã không kìm được lộ rõ nét mừng, vội vàng ngăn cản tẩu tẩu hành lễ, lại mỉm cười, tự tay tới đỡ nàng ta. “Tẩu tẩu bây giờ đang mang giọt máu của nhà họ Chân trong mình, muội không thể nhận lễ của tẩu tẩu được.”

Tẩu tẩu mặt phấn hồng hào, ngợp đầy một nét thẹn thùng và thỏa mãn. Ngồi xuống tấm đệm mềm, cái bụng của tẩu tẩu thoáng nhô lên, thân hình hơi nghiêng về phía trước, thể hiện tư thế bảo vệ đứa bé trong bụng một cách hết sức tự nhiên.

Tư thế này quen thuộc biết bao, khiến trái tim tôi đau nhói, khơi dậy nỗi chua xót ẩn sâu trong trái tim tôi. Mới một năm trước, cũng trong dịp sắc xuân ngợp đầy như bây giờ, tôi mang theo sự vui mừng và kiêu ngạo của người lần đầu làm mẹ, cũng bảo vệ đứa bé trong bụng bằng một tư thế giống hệt như tẩu tẩu bây giờ, hy vọng sinh mệnh nhỏ bé ấy có thể từ từ lớn lên.

Tôi không thể để nỗi thương tâm của mình làm ảnh hưởng đến tâm trạng của tẩu tẩu, bèn miễn cưỡng thu nỗi thương cảm lại, cười nói: “Nhìn thân hình tẩu tẩu thì chắc đã có thai ba tháng rồi!”

Hai gò má và vầng trán thoáng chút đỏ ửng, tẩu tẩu cúi đầu mân mê mép áo, cười nói: “Nương nương nhìn chuẩn lắm, quả đúng là đã được ba tháng rồi!” Dừng lại một chút, tẩu tẩu tỏ vẻ bất an, nói: “Có điều mẹ nói bụng ta hơi tròn, có khả năng là con gái.”

Tôi vội khuyên nhủ: “Tẩu tẩu không cần lo lắng, tạm chưa xét tới việc con gái thân thiết với cha mẹ hơn, cho dù cái thai đầu tiên là con gái thì cũng sẽ là trước nở hoa sau kết quả, cái thai thứ hai, thứ ba sau này nhất định sẽ là con trai, chỉ sợ đến lúc ấy, tẩu tẩu còn chê bai con trai phiền phức ấy chứ!” Nói rồi ngay bản thân tôi cũng không kìm được bật cười trước.

Trên mặt tỷ tỷ lộ rõ nét lo âu vì việc sinh con dạy cái. “Nếu cứ sinh con gái mãi, không biết có khiến phu quân tức giận không đây?”

Tôi rất không tán đồng, cười nói: “Ca ca của muội không phải loại người như vậy đâu. Dù cha mẹ đều hy vọng có cháu trai bế nhưng cháu gái cũng không có gì là không tốt. Thời Hán Vũ Đế, Hoàng hậu là bà Vệ Tử Phu, mọi người trong thiên hạ cất lời ca rằng ‘sinh con trai chớ vội vui, sinh con gái chớ vội buồn, lẽ nào chẳng thấy Vệ Tử Phu’, từ đó có thể thấy rằng nếu sinh được một cô con gái tốt, so với sinh ra một vạn đứa con trai bình thường thì còn tốt hơn nhiều.”

Tẩu tẩu nghe thế liền thoáng vui mừng rồi lại thẹn thùng nói: “Ta thì không sao, chỉ mong phu quân bất kể đứa bé là trai hay gái đều hết lòng yêu thương nó.”

Tôi thở dài than: “Nữ tử trong cung ai cũng mong có thể sinh được một đứa con trai để nương tựa cả đời, sau khi già rồi còn có cơ may trở thành Thái hậu. Nhưng như Cẩn Phi vì có con trai mà chết, còn chẳng bằng sinh được con gái như Hân Quý tần và Tào Tiệp dư. Còn như muội bây giờ, ngay đến một cô con gái cũng chẳng có, những vinh hoa phú quý trong mắt người ngoài chẳng qua chỉ như một cụm bèo không rễ mà thôi!”

Tẩu tẩu thấy tôi nói lời thương cảm, vội vàng an ủi: “Nương nương còn trẻ, ngày tháng còn dài, có sự sủng ái của Hoàng thượng, lo gì không có con cơ chứ? Nương nương cứ yên tâm.”

Tôi khẽ gật đầu rồi nói: “Vậy tẩu tẩu cũng nhớ phải yên tâm mới được!”

Ngoài miệng tuy nói như vậy nhưng hàng lông mày đang nhíu chặt của tẩu tẩu vẫn chưa dãn ra, cuối cùng cũng ngập ngừng nói ra mối tâm sự trong lòng: “Chỉ là nếu ta mãi vẫn không có con, chẳng biết cha mẹ có nạp thiếp cho phu quân không.” Thoáng do dự, nàng ta lại nói tiếp: “Thời gian gần đây, phu quân cứ buồn bực không vui, ta cũng không dám tùy tiện nói chuyện này với chàng.”

Lời của tẩu tẩu vốn là nỗi lo lắng trong lòng, còn đối với tôi, sau bao ngày trầm ngâm suy nghĩ mà chẳng ra được sách lược gì, những lời này như đã vạch ra một con đường sáng. Thế là tôi vội nói với tẩu tẩu: “Ca ca là người rất trọng tình trọng nghĩa, dù có thật sự nạp thiếp để sinh con đẻ cái thì địa vị chính thê của tẩu cũng không thể bị lung lay, tẩu bất tất phải lo lắng làm gì. Nếu như sau này có điều hiềm khích, muội nhất định sẽ làm chủ cho tẩu tẩu.”

Tẩu tẩu vui mừng ra mặt, ngay sau đó lại thẹn thùng nói: “Ta cũng không phải loại người chỉ biết ghen tuông, không hiểu lý lẽ nhưng thân là nữ tử, có ai không mong phu quân chỉ yêu một mình mình, không đưa thêm nữ nhân khác về nhà.”

Câu nói ấy như lưỡi dao cứa mạnh vào trái tim tôi, nhưng đối với tôi mà nói, suy nghĩ này giữ lại cũng chỉ làm bản thân thêm phiền muộn, hà tất phải tự giày vò mình, thế là bèn gượng cười một tiếng, nói tiếp: “Tẩu tẩu có biết ca ca buồn bực chuyện gì không?”

Tẩu tẩu suy nghĩ một chút rồi đáp: “Chắc là vì việc ở Bộ binh, lần này được Hoàng thượng cất nhắc, phu quân hình như chẳng mấy dễ chịu. Có điều ta chỉ là phụ nữ, chẳng thể giúp được gì.”

Tôi khẽ mỉm cười, ra lệnh cho Cận Tịch đóng cửa phòng lại rồi mới nói: “Ca ca quả thực không vui vì chuyện ở Bộ binh, nhưng không phải là vì được Hoàng thượng thăng chức, mà vì lo lắng bản thân không thể hoàn thành ý chỉ của Hoàng thượng. Kỳ thực, tẩu tẩu hà tất phải tự xem nhẹ bản thân, chỉ cần tẩu tẩu có lòng, nhất định sẽ trợ giúp ca ca làm nên một phen sự nghiệp.”

Tẩu tẩu nghe thấy lời này, trên mặt lập tức lộ rõ vẻ mừng rỡ, nghiêm túc nói: “Chỉ cần có thể phân ưu giúp phu quân, dù phải tan xương nát thịt ta cũng nguyện lòng.”

Nhìn thấy tình ý sâu nặng mà tẩu tẩu dành cho ca ca, tôi không khỏi vô cùng cảm phục, bèn nắm chặt tay tẩu tẩu, nói: “Có được người dâu hiền, đảm đang như tẩu tẩu, ấy thực là cái phúc của nhà họ Chân. Ca ca cưới được tẩu về là vận may cả đời khó kiếm của huynh ấy, sao có thể để tẩu tan xương nát thịt được. Tẩu chỉ cần làm thế này thôi…” Sau đó, tôi bèn ghé sát tai tẩu tẩu, thấp giọng dặn dò.

Tẩu tẩu thoạt tiên còn có chút do dự nhưng nghe đến hết thì đã rạng rỡ, tươi cười, gật đầu lia lịa, nói: “Việc này thì có khó gì, ta nhất định sẽ dốc sức hoàn thành.”

Tôi cười, nói: “Quả thực là không khó, chỉ cần tỏ ra chân thành một chút là được. Việc này xin làm phiền tẩu tẩu, muội có lời cảm tạ trước tại đây.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

78#
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2016 15:48:48 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 8
Ngọc Ách


Đợi sau khi tẩu tẩu cáo từ rời đi, tôi đã có kế hoạch hoàn chỉnh trong lòng, hưng phấn ngồi kiệu đến Nghi Nguyên điện. Tâm trạng đang rất tốt, nhìn cảnh vật trên đường, tôi bỗng thấy ngập tràn sắc xuân, một vẻ đẹp động lòng người.

Thế nhưng vừa mới xuống kiệu tôi đã thấy Lý Trường vội vã chạy tới, đích thân dìu tôi bước lên bậc thềm, nói: “May mà có nương nương tới! Hoàng thượng đang nổi nóng đấy, đuổi hết bọn nô tài ra ngoài. Xin nương nương hãy vào khuyên Hoàng thượng mấy lời đi, bọn nô tài biết ơn hết mực.” Tôi thấy hắn tỏ vẻ lo âu, khác hẳn với thường ngày, bèn nhủ thầm, Lý Trường theo hầu hạ Huyền Lăng nhiều năm, chuyện lớn chuyện nhỏ trong cung đều từng thấy cả, cũng coi như có tác phong khá điềm tĩnh, bây giờ tỏ ra hoang mang như vậy nhất định là đã xảy ra chuyện lớn rồi.

Thế là tôi bèn ôn tồn nói: “Bản cung tuy không rõ đã xảy ra chuyện gì nhưng nhất định sẽ đi khuyên Hoàng thượng. Lý công công yên tâm!” Rồi lại hạ giọng: “Chỉ là không biết đã xảy ra chuyện gì mà lại khiến Hoàng thượng giận dữ như vậy?”

Lý Trường làm bộ cúi xuống nhìn bậc thềm, đáp với giọng rất khẽ: “Hình như là vì một bản tấu chương của Nhữ Nam Vương.”

Tôi nghe vậy, trái tim chợt căng cứng, bước chân cũng hơi đờ ra, cơ hồ ngỡ rằng ca ca đã xảy ra chuyện. Thế nhưng tôi rất nhanh đã nghĩ lại, nếu ca ca xảy ra chuyện, Huyền Lăng nhất định sẽ cho người đi vỗ về Nhữ Nam Vương và điều động binh mã đề phòng tình huống bất trắc, đâu còn thời gian rảnh để nổi nóng trong thư phòng. Nghĩ vậy, tôi cũng yên tâm hơn đôi chút, lại hỏi thêm: “Ngươi có biết trong bản tấu chương đó viết những gì không?”

Lý Trường thoáng tỏ vẻ khó xử, cuối cùng vẫn đáp: “Hình như là một đạo tấu chương xin phong thưởng.”

Tôi hơi cau mày, lòng đầy ác cảm, gã Nhữ Nam Vương này đúng là quá tham lam, tháng trước con trai và con gái hắn vừa được phong làm Thế tử và Công chúa, vinh dự đã đạt tới tột cùng, thế mà thoắt cái đã lại muốn xin phong thưởng thêm, thật chẳng rõ là có yêu cầu gì nữa đây?

Thế nhưng ngẫm kỹ lại, tôi thấy hình như có sự khác thường, nếu Huyền Lăng không muốn ban phong thì hoàn toàn có thể trả tấu chương về, tặng thêm ít lụa là vàng ngọc là được, huống chi y xưa nay vốn chẳng phải là người tính tình bộp chộp, nóng nảy.

Đang nghĩ ngợi, trong điện chợt vang lên một tiếng “xoảng” thật lớn, kế đó là tiếng những mảnh vỡ lăn trên mặt đất. Hồi lâu sau, bầu không khí trong điện chìm vào sự tĩnh lặng đáng sợ tột cùng.

Tôi và Lý Trường đưa mắt nhìn nhau, trong lòng cảm thấy vô cùng nghi hoặc, không biết Huyền Lăng nổi giận như vậy rốt cuộc là vì chuyện gì. Lý Trường lộ rõ nét âu lo, thấp giọng nói: “Bây giờ e là chỉ có nương nương đi vào thì mới có thể khuyên giải được vài câu.”

Tôi gật đầu, đưa tay khẽ đẩy cánh cửa điện dát vàng khảm bạc màu đỏ tía. Điện phụ sâu thẳm mà rộng rãi, khung cảnh chìm trong tĩnh lặng, những tia sáng lập lòe ẩn hiện trên nền gạch màu vàng kim.

Trong chiếc lò hương tráng men vẽ hình chín quả đào đặt trên bàn đang đốt loại long diên hương mà y thường dùng, từng làn khói thơm mỏng manh chầm chậm lan tỏa khắp nơi trong điện, lại càng làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của nơi đây. Y ngồi trên chiếc ghế lớn điêu khắc hình rồng cuộn, một làn khói mỏng phớt qua trên mặt, sự tức giận kia dường như ngưng tụ lại nơi ấn đường, tựa hồ một mảng mây mù, tụ mà không tan.

Tôi lặng lẽ bước lại gần, nhất thời không dám tùy tiện cất tiếng hỏi, cũng không tiện nói gì, chỉ bê chiếc lò hương trên bàn đến đặt xuống bệ cửa sổ, lại mở cánh cửa sổ hướng về phía khu rừng ở sau điện ra, lập tức có một làn gió xuân ấm áp từ từ thổi vào.

Giọng nói của y toát ra vẻ mỏi mệt sau cơn giận dữ, nhẹ nhàng vang lên: “Sao nàng lại tới đây?”

Tôi khẽ thưa: “Dạ. Thần thiếp tới rồi!”

Lúc này trời đã gần tối, ánh tà dương xuyên qua bức hình chạm rồng “Lục hợp đồng xuân” chiếu vào phòng, hắt xuống những mảng sáng lốm đốm màu đỏ dịu. Gió thổi qua khu rừng sau điện, những chiếc lá cây phát ra âm thanh xào xạc nhẹ nhàng, tựa như một cơn mưa nhỏ rả rích rơi dưới mái hiên.

Tôi nhón lấy một phiến lá bạc hà và một bông cúc hàng bạch hãy còn tươi trong chiếc đĩa bạc bỏ vào trong chén, đổ nước nóng vào, lại cho thêm mật ong và nước lạnh, đặt xuống trước mặt y, dịu dàng nói: “Hoàng thượng uống chút trà đi, uống xong sẽ có thể bình tĩnh trở lại.” Nói xong tôi cũng không nhắc tới việc gì khác, chỉ chấm đầu ngón tay vào một chút dầu bạc hà trong chiếc hộp mạ vàng, chậm rãi xoa bóp huyệt Thái dương cho y.

Y khẽ nhấp một ngụm trà, thần sắc hòa hoãn hơn ít nhiều, sau đó mới cất tiếng: “Sao nàng không hỏi tại sao trẫm tức giận?”

Tôi mỉm cười điềm đạm, “Hoàng thượng vừa rồi còn đang tức giận, đợi sau khi cơn giận tan bớt, nếu muốn nói thì tự khắc sẽ nói với thần thiếp thôi. Thần thiếp mà một mực truy hỏi, nhất định sẽ khiến Hoàng thượng càng thêm tức giận.”

Y lật tay lại khẽ xoa bàn tay tôi, lại chỉ tay vào bản tấu chương màu vàng trên bàn. “Nàng tự mình xem đi!” Giọng nói đầy nỗi căm hận của y còn chưa dừng lại: “Không ngờ Huyền Tế lại lớn gan như thế!”

Tôi vâng lời đưa tay cầm bản tấu chương lên, vừa mới liếc qua đã không kìm được cả kinh thất sắc.

Thì ra bản tấu chương này Nhữ Nam Vương không hề xin phong cho vợ con, mà yêu cầu truy phong cho người mẹ ruột Ngọc Ách phu nhân đã chết của mình thành Ngọc Quý thái phi, đồng thời được dời mộ vào trong lăng phi tử của tiên đế.

Những phi tần có sinh con đẻ cái sau khi tiên hoàng qua đời đều được tấn phong làm Thái phi, an hưởng vinh hoa phú quý, đồng thời cũng được ban phong hiệu để thể hiện sự thục đức hiền lương. Khi tiên đế còn tại thế, mẹ ruột của Nhữ Nam Vương là nhất phẩm phu nhân, tuy sớm đã qua đời nhưng được truy phong cũng là điều hợp với lẽ thường.

Chỉ là bên trong còn có duyên cớ khác.

Khi tiên đế còn tại vị, huynh trưởng của Ngọc Ách phu nhân là Bác Lăng Hầu mưu phản, Ngọc Ách phu nhân vì thế mà bị liên lụy rất nhiều, cuối cùng còn qua đời trong u uất vì không được sủng ái. Mãi khi bà ta sắp chết, tiên đế mới tới thăm nhưng Ngọc Ách phu nhân lại cất lời oán trách, thể hiện rõ sự oán hận với tiên đế và Thư Quý phi. Tiên đế trong cơn giận dữ liền không cho phép Ngọc Ách phu nhân được táng trong lăng phi tử, cũng không truy phong, chỉ được chôn theo nghi lễ của Quý tần ở cùng một chỗ với Chiêu Hiến Thái hậu, người đã hại chết mẹ ruột của tiên đế.

Vì không có sự truy phong của tiên đế, mà Ngọc Ách phu nhân lại là em gái của tội thần, do đó Huyền Lăng thân là người kế thừa ngai vàng tất nhiên không thể truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi.

Tôi gấp bản tấu chương lại, sắc mặt hơi biến đổi. “Việc này… Nếu Hoàng thượng thực sự truy phong Ngọc Ách phu nhân thành Ngọc Quý thái phi theo như yêu cầu của Nhữ Nam Vương, vậy mặt mũi tiên đế phải đặt ở chỗ nào? Hoàng thượng biết phải làm sao?”

Huyền Lăng đập mạnh tay xuống một góc bàn, nói: “Khốn kiếp! Hắn rõ ràng muốn đặt trẫm vào chỗ bất hiếu, hơn nữa ngay đến thể diện của phụ hoàng cũng không để ý tới!”

Tôi thấy y giận dữ như vậy liền vội lật bàn tay y lại kiểm tra, chiếc bàn này được đóng từ gỗ lim, rất cứng, nơi góc bàn lại điêu khắc những đường nét phức tạp cầu kỳ, lòng bàn tay Huyền Lăng lúc này đã rỉ đầy máu.

Tôi không khỏi thầm xót xa, vội nắm chặt bàn tay y, dịu dàng nói: “Hoàng thượng hãy bớt giận, chớ nên vì hắn mà nổi nóng, kẻo lại tự làm hại thân thể mình, thực không đáng.”

Huyền Lăng nói: “Thực không thể nhẫn nhịn hơn được nữa! Cho dù trẫm chịu làm một đứa con bất hiếu thì Thái hậu sao có thể chấp nhận được chuyện này?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Cái danh xưng ‘Ngọc Quý thái phi’ này cũng không ổn chút nào, Tứ phi Quý, Thục, Hiền, Đức xưa nay mỗi loại chỉ có một người, mà thân mẫu của Thanh Hà Vương là Thư Quý thái phi vẫn còn tại thế, nếu thật sự truy phong như vậy, ắt sẽ khiến Thanh Hà Vương rơi vào cảnh khó xử, như thế thì thực là làm ảnh hưởng đến tình huynh đệ nhiều quá.” Thấy Huyền Lăng lộ vẻ trầm tư, tôi nói tiếp: “Kỳ Sơn Vương Huyền Tuân là trưởng tử của tiên đế, lại do vị Thái phi có địa vị tôn quý nhất trong hậu cung hiện nay là Khâm Nhân Thái phi sinh ra, đến Khâm Nhân Thái phi còn chưa được phong là Quý thái phi hoặc Hiền, Đức thái phi cơ mà, chỉ e cũng sẽ khiến Kỳ Sơn Vương cảm thấy không phục.”

Những lời này của tôi có hơi thẳng thắn nhưng nếu làm theo yêu cầu của Nhữ Nam Vương, các vị Thân vương và Thái phi ắt sẽ cảm thấy không vui, như thế cả triều đình và hậu cung sẽ không còn yên ổn.

Mối quan hệ lợi hại bên trong Huyền Lăng sao có thể không hiểu, vì thế nên mới nổi trận lôi đình như vậy.

Huyền Lăng một mực không nói năng gì nhưng trên trán đã hằn rõ gân xanh, mãi lâu sau mới giận quá bật cười. “Nếu trẫm đồng ý với hắn, ắt sẽ làm mất lòng người ở tiền triều và hậu cung; còn nếu như không đồng ý, hắn nhất định sẽ ôm hận trong lòng, bao nhiêu công phu và sự bố trí trước đó coi như đều uổng phí.”

Sự phân tích của y có thể nói là vô cùng thấu triệt, tôi chỉ lặng im, hồi lâu sau mới nói: “Nếu hắn lập tức động binh, Hoàng thượng có được bao nhiêu phần thắng?”

Trong mắt Huyền Lăng lóe lên ánh tinh quang, nhưng ngay sau đó đã buồn bã nói: “Trong tay trẫm có mười lăm vạn quân, mười vạn phân bố ở khắp các quan ải, năm vạn tập trung tại phụ cận kinh sư.” Thoáng dừng lại một chút, y nói tiếp: “Lượng tinh binh Nhữ Nam Vương nắm trong tay không dưới năm mươi vạn, phân bố khắp toàn quốc.”

Tôi cả kinh, hỏi: “Vậy Hoàng thượng cần bao nhiêu thời gian mới có thể bố trí chu toàn mọi việc, đoạt lấy binh lực của hắn?”

Y đáp: “Nếu trong nửa năm tới người thân tín của trẫm biết được các động tĩnh trong Bộ binh cùng với họ tên quan chức của những kẻ thuộc phe Nhữ Nam Vương, rồi trẫm lại lệnh cho tướng lĩnh các nơi chia rẽ thu phục năm mươi vạn tinh binh của hắn, như vậy chỉ trong một năm, mọi việc sẽ được giải quyết”, rồi lại gượng cười, nói: “Có điều bây giờ hắn liên tục bức ép, chỉ sợ khi trẫm còn chưa kịp hiểu rõ về hắn thì hắn đã khởi binh tạo phản rồi.”

Thì ra y cũng phải kìm nén và có nhiều sự bất lực đến vậy. Tôi thân là nữ tử chốn hậu cung, cả ngày giam mình giữa bốn bức tường hoa lệ, kỳ thực chẳng hiểu mấy chuyện ở triều đường, lại càng không thể can thiệp. Còn về một chút chuyện triều chính mà tôi hay biết kia, nếu không vì có liên quan tới lợi ích của bản thân và gia tộc, tôi cũng không dám mạo hiểm đi nghe ngóng. Sự tiếp xúc giữa tôi và Huyền Lăng xưa nay chỉ diễn ra trong những giây phút thảnh thơi ở hậu cung và cũng tuyệt nhiên không có gì khác ngoài phong hoa tuyết nguyệt.

Bây giờ đột nhiên biết được điều này, trái tim tôi trào dâng nỗi niềm chua xót và thấu hiểu. Trong chốn cung đình, y có sự bất lực của y, tôi có sự bất lực của tôi. Bất kể là bậc đế vương hay kẻ khố rách áo ôm ngoài đường, có ai mà không sống trong sự bất lực của mình, xung quanh là đầy rẫy những kìm kẹp.

Tôi không kìm được dịu dàng khom người, lẳng lặng tựa đầu lên đầu gối y. Trên người y là chiếc áo bào đen thêu đầy hình rồng, những sợi vải màu vàng đó không hề mềm mại, cào nhẹ vào má tôi mang tới cảm giác ngứa ngáy. Tôi khẽ nói: “Vậy thì vì tính kế lâu dài, Hoàng thượng chỉ có thể nhẫn nại thôi!”

Thân thể y hơi chấn động, nếu không phải tôi đang tựa đầu lên gối y thì cơ hồ không thể nào phát giác chút chấn động ấy. Y ngẩng mặt, thở dài một tiếng. “Hoàn Hoàn, trẫm làm hoàng đế như vậy có phải là quá kém cỏi không?”

Trong lòng lập tức trào dâng nỗi niềm chua chát, tôi ngẩng đầu lên, kiên định nói: “Hán Cảnh Đế Lưu Khởi vì muốn bình định cái loạn bảy nước mà bất đắc dĩ phải giết chết Tiểu Thác; Quang Vũ Đế Lưu Tú vì muốn phục hưng nhà Hán mà ngay đến nỗi đau Canh Thủy Đế giết huynh trưởng của mình cũng phải nhẫn nhịn, thậm chí khi mới đăng cơ, để ổn định triều chính còn không thể sắc phong Âm Lệ Hoa mà mình yêu làm Hoàng hậu, chỉ có thể chọn con gái của nhà họ Quách. Nhưng cũng chính bọn họ đã bình định thiên hạ, mở ra một thời thịnh thế. Đại trượng phu có thể co có thể duỗi, Hoàng thượng nhịn nỗi đau nhất thời chỉ là để mưu việc dài lâu, chẳng phải do kém cỏi mà ấy gọi là co mình làm chính trị.”

Y đưa tay xoa nhẹ bờ vai tôi, thở dài, nói: “Hoàn Hoàn, những lời nàng nói luôn khiến trẫm cảm thấy thoải mái.”

Tôi lắc đầu, đáp: “Thần thiếp không hề có ý an ủi Hoàng thượng, chỉ nói theo sự thực.”

Trong giọng nói hờ hững của y toát lên vẻ dữ dằn, vang vọng giữa tòa cung điện âm u hiện giờ nghe ngập tràn sắc bén: “Không sai, trẫm quả thực phải nhịn.” Rồi y lại khẽ cười tự giễu: “Nhưng rốt cuộc trẫm nên nhịn thế nào đây?”

Tôi nắm chặt bàn tay y, cố kìm nén sự không cam tâm và căm phẫn trong lòng, ngẩng mặt lên, cố giữ thần sắc bình tĩnh, cất giọng nhẹ nhàng mà kiên định: “Xin Hoàng thượng hãy đồng ý với yêu cầu của Nhữ Nam Vương, truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi, đồng thời cho dời mộ vào trong lăng phi tử của tiên đế.”

Y khá ngạc nhiên, bàn tay không cẩn thận va phải ly trà bên cạnh. Chỉ nghe “xoảng” một tiếng, ly trà lập tức vỡ tan thành từng mảnh nhưng y lại coi như không nghe thấy, lật tay lại nắm chặt lấy cánh tay tôi. “Nàng cũng nghĩ phải như vậy sao?” Tôi vừa định nói, đã nghe có gã thái giám ở bên ngoài cất giọng hỏi dò: “Hoàng thượng…”

Tôi lập tức đứng dậy, lớn tiếng nói: “Không có gì, bản cung lỡ tay đánh rơi ly trà mà thôi, đợi lát nữa hãy vào dọn.” Ngoảnh lại thấy y đã lại gần, tôi vội vàng nói: “Hoàng thượng bớt giận. Xin Hoàng thượng đừng lại đây, lỡ bị mảnh sứ cứa bị thương thì phải làm thế nào.” Vừa nói tôi vừa nhanh nhẹn khom người gạt những mảnh vỡ chén đi.

Tôi quỳ trên mặt đất, mắt không chớp, nhìn chằm chằm vào y, nói rành rọt từng từ: “Xin Hoàng thượng hãy truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Hiền thái phi, tặng thêm phong hiệu, cho dời mộ vào lăng phi tử của tiên đế. Đồng thời tiến phong các vị Thái phi trong cung, ban tặng tôn hiệu và lễ hậu, đặc biệt cần phong mẫu thân của Kỳ Sơn Vương là Khâm Nhân Thái phi làm Thục thái phi, dưỡng mẫu của Bình Sơn Vương là Trang Hòa Thái phi làm Đức thái phi, cho đứng ngang hàng với Ngọc Ách phu nhân. Lại càng cần dâng tôn hiệu cho Thái hậu để tỏ lòng hiếu nghĩa của Hoàng thượng.”

Lời này vừa dứt, trên mặt Huyền Lăng lập tức lộ rõ nét vui mừng, bàn tay nắm cánh tay tôi càng chặt hơn, kéo tôi đứng dậy, vui vẻ nói: “Không sai! Hắn muốn truy phong cho mẫu thân của hắn, trẫm sẽ nhân dịp cầu chúc cho Thái hậu an khang mà tặng tôn hiệu cho tất cả các vị Thái phi, địa vị cũng phải ở trên mẫu thân của hắn, như vậy người ở tiền triều và hậu cung đều không thể dị nghị được nữa.”

Tôi cười tủm tỉm tiếp lời: “Đâu phải chỉ có vậy, làm như thế không những các quan ngự sử không thể nói gì, ngay đến các vị Thái phi và Vương gia cũng đều sẽ cảm kích ơn đức của Hoàng thượng, lại càng trung thành với Hoàng thượng hơn.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Chỉ là mẫu thân của Lục Vương gia là Thư Quý thái phi hiện đã xuất gia, cần phong tặng thế nào đây? Nếu bỏ riêng Thư Quý thái phi không phong tặng, chỉ sợ Lục Vương gia sẽ không vừa ý.”

Huyền Lăng không cho là đúng, tiện tay búng ống tay áo một cái, nói: “Lục đệ sẽ không để ý chuyện này đâu.”

Tôi mỉm cười khuyên nhủ: “Lục vương gia tuy không để ý nhưng có một số kẻ tiểu nhân sẽ vì vậy mà cho rằng Hoàng thượng xem nhẹ Lục Vương gia, thế thì thật không hay chút nào. Giờ đang là lúc huynh đệ đồng tâm, chớ nên để chuyện vô ý bị người ta coi là hữu ý, chi bằng Hoàng thượng hãy nghĩ cách để Lục Vương gia cũng được nở mày nở mặt.”

Tâm trạng Huyền Lăng đang tốt, bèn cười, nói: “Việc này thì có khó gì, Thư Quý thái phi đã xuất gia, tô hiệu không tiện gia phong nữa, trẫm sẽ tôn bà ấy làm Xung Tĩnh nguyên sư vậy.”

Tôi mỉm cười: “Vậy thì ổn rồi.”

Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng nói: “Bây giờ truy phong cho Ngọc Ách phu nhân chẳng qua là kế quyền nghi, vì bất đắc dĩ mà phải làm. Nếu sau này bình định được Nhữ Nam Vương, trẫm sẽ lập tức học theo cách tiên đế xử trí Chiêu Hiến Thái hậu, chỉ cho bà ta dùng hiệu Thái phi, linh vị không được để vào Thái miếu hưởng hương hỏa tế bái, quan tài không được đưa vào Hoàng lăng, hậu thế không được truy tặng tôn hiệu, bằng không khó mà tiêu trừ mối hận hôm nay!”

Nghe y dự tính như vậy, tôi chỉ im lặng. Nhữ Nam Vương một lòng mong mẫu thân vinh hiển, đâu hay rằng vinh nhục chẳng qua chỉ là nhất thời, lật tay một cái là có thể thay đổi, sự vinh hiển bây giờ rất có thể sẽ bị đổi thành nỗi nhục nhã vô tận ngày sau. Do đó tôi không tiếp lời, chỉ nói: “Có điều, gia phong Thái phi là việc của hậu cung, theo lý mà nói cần bẩm báo với Thái hậu, thông báo cho Hoàng hậu.”

Huyền Lăng nói: “Chuyện này là tất nhiên.”

Tôi ghé tai y, khẽ nói: “Hoàng thượng, chỉ cần chúng ta làm một cách tuần tự, nhất định có thể hiểu rõ bọn họ như lòng bàn tay. Ngoài ra về việc của huynh trưởng thần thiếp, thần thiếp có chút mưu kế thế này, xin Hoàng thượng nghe qua rồi định đoạt.”

Sau đó, tôi tỉ mỉ nói ra mưu tính của mình một lượt, Huyền Lăng nghe xong bèn cười, nói: “Vậy thì hay lắm. Nàng quả không thẹn là ‘giải ngữ hoa’ của trẫm, đến chủ ý như vậy mà cũng nghĩ ra được.”

Tôi mỉm cười, nói: “Hoàng thượng bận rộn việc thiên hạ, thần thiếp không hiểu gì về triều chính, chỉ có thể giúp được mấy chuyện vụn vặt này thôi.”

Y cười sảng khoái, nói: “Con đường ngàn dặm muốn đi hết cũng cần bước từng bước, những chuyện nhỏ mà nàng suy nghĩ cho trẫm chắc gì đã không phải là chuyện lớn?”

Sắc trời dần tối, ánh tà dương cuối cùng cũng bị thay thế bởi ánh trăng. Gió thổi rất nhẹ, mang theo mùi hương mát rượi của hoa ngọc lan, từ từ phả vào bên tóc mai tôi.

Tôi đứng dậy, thổi sáng mồi lửa trong tay, lần lượt đi thắp từng ngọn nến trong điện. Trong Nghi Nguyên điện sử dụng loại nến lớn bọc vàng, trên mỗi chiếc giá nến cắm chín ngọn nến, số lượng phải đến tới mấy trăm nhưng không có chút khói và mùi dầu nào, do đó không ảnh hưởng đến mùi thơm của hương liệu. Những ngọn nến dần sáng lên, soi rọi cả gian điện sáng rỡ như ban ngày.

Tôi đứng ngay cạnh chiếc giá nến cuối cùng, thổi tắt mồi lửa. Sau khi tâm tư xoay chuyển liên hồi, tôi rốt cuộc đã dằn lòng lại, cố gắng nín thở một cách khó khăn, cất giọng bình tĩnh và lạnh lùng như dòng nước suối dưới mặt băng: “Xin Hoàng thượng hãy ban thêm ân đức, khôi phục lại ngôi vị Hoa Phi cho Mộ Dung Phi.”

Huyền Lăng thoáng sững sờ, trong nháy mắt đã thu lại nét mừng rỡ trên mặt, bước tới cạnh tôi. “Nếu trẫm khôi phục ngôi vị cho nàng ta, há chẳng phải có lỗi với nàng? Hơn nữa, sao có thể khiến mọi người tâm phục?”

Trái tim tôi như đông cứng lại, cơ hồ không kìm được mà mặt biến sắc… Cứ đặt Mộ Dung Thế Lan ở một bên như vậy, tuy không sủng hạnh nhưng vẫn để ả được ăn ngon mặc đẹp, lẽ nào không có lỗi với tôi? Nếu cứ thế này, tôi thà để ả được khôi phục ngôi vị. Một nữ tử như ả trừ phi đang lúc đắc chí buông lỏng đề phòng, nếu không rất khó để có thể tìm ra sơ hở, huống chi chỉ khi nào ngôi vị của ả được khôi phục thì gia tộc Mộ Dung mới thực sự yên tâm.

Suy nghĩ như vậy nhưng trong lòng tôi rốt cuộc vẫn ngập tràn nỗi bi thương và đau xót, trong mắt đã thấp thoáng ánh lệ. Việc sắc phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi đối với Huyền Lăng đã là rất miễn cưỡng và khó xử rồi, bây giờ tôi lại còn đề nghị khôi phục ngôi vị cho Mộ Dung Thế Lan, há lại chẳng miễn cưỡng và khó xử hơn?

Nhẫn nại, nhất định phải nhẫn nại. Giống như sợi dây cung, cần phải kéo căng thì mới có thể bắn được nhanh, mạnh, chuẩn. Những lời an ủi Huyền Lăng vừa rồi kỳ thực cũng là để an ủi chính mình mà thôi.

Cố kìm nén sự nghẹn ngào và cơn bi phẫn đã trào lên đến tận cổ họng, tôi bình tĩnh nói: “Việc truy phong Ngọc Ách phu nhân làm Thái phi chỉ có thể làm yên lòng Nhữ Nam Vương, còn để làm yên lòng gia tộc Mộ Dung thì cần khôi phục ngôi vị cho Mộ Dung Phi. Dù Nhữ Nam Vương không có lòng xưng đế nhưng chưa chắc đã kìm được trước sự xúi bẩy của thuộc hạ, chỉ e những con người đó không ai không muốn làm khai quốc công thần. Hoàng thượng nếu chịu vỗ về Mộ Dung Phi, như thế ít nhiều cũng có thể tranh thủ tình cảm của gia tộc Mộ Dung, có thêm được một phần thắng.”

Y hơi nghiêng đầu qua một bên, nhìn tôi với vẻ không đành lòng. “Hoàn Hoàn, trẫm… làm vậy thì ấm ức cho nàng quá!”

Tôi chậm rãi quỳ xuống, nói: “Thần thiếp không sợ ấm ức. Vì Hoàng thượng, thần thiếp sẽ cố hết sức nhường nhịn Hoa Phi, không để xảy ra tranh chấp.” Nước mắt rốt cuộc vẫn tuôn rơi, là vì y, lại càng vì bản thân tôi.

Để vỗ về gia tộc Mộ Dung, sớm muộn gì y cũng sẽ khôi phục lại ngôi vị cho Mộ Dung Thế Lan, ít nhất cũng là Hoa Phi, mà nếu tình thế bức ép, chỉ e sẽ lại một lần nữa phong ả làm “phu nhân” cũng chưa biết chừng. So với như vậy, thà tôi đề nghị Huyền Lăng cho ả trở lại làm Hoa Phi ngay bây giờ, như thế, ít nhất Huyền Lăng cũng có thêm sự bất lực và uất ức khi phải hạ lệnh, đồng thời cũng cảm thấy xót xa và áy náy với tôi. Tâm trạng này của y càng lớn, địa vị của tôi sẽ lại càng vững chắc, sự sủng ái nhận được cũng sẽ nhiều hơn.

Tôi khẽ cười buồn bã, từ lúc nào mà tôi lại trở nên tự tư tự lợi, chỉ chăm bày mưu tính kế như thế? Sự thực này thật tàn khốc biết chừng nào.

Huyền Lăng chỉ im lặng, hồi lâu sau mới khẽ nói: “Được.”

Tiếng gió nghẹn ngào bên ngoài điện nghe đầy nỗi thê lương, giọng nói của Huyền Lăng lại rất âm trầm, dường như có treo một thứ gì đó nặng trịch. Ánh nến trong điện đung đưa qua lại khiến thần sắc y trở nên có chút mơ hồ. Y nói: “Trẫm bỗng nhớ tới chuyện về Hán Quang Vũ Đế mà nàng vừa kể, ông ta bất đắc dĩ phải lập Quách thị mà mình không yêu làm Hoàng hậu hòng ổn định cục diện triều đình, còn để nữ tử trong lòng là Âm Lệ Hoa đi hầu hạ Quách Hậu. Sự bất lực của trẫm ngày hôm nay thực giống với Quang Vũ Đế khi đó, vì chịu sự kìm kẹp của nhà họ Quách mà phải sủng hạnh một nữ nhân mình không hề yêu.”

Tôi khẽ lắc đầu. “Thần thiếp sao có thể so sánh với Âm Hoàng hậu được. Có điều thần thiếp xem sách sử, biết rằng về sau gia tộc của Quách Hoàng hậu mưu phản, Quang Vũ Đế phế bỏ Quách Hoàng hậu mà thay bằng Âm Lệ Hoa, ý nguyện coi như đã đạt thành.” Tôi chăm chú nhìn Huyền Lăng, nói tiếp: “Công tích của Hoàng thượng nhất định sẽ không thua gì Quang Vũ Đế.”

Y ôm chặt tôi, đột nhiên nói: “Hoàn Hoàn, nàng có biết tại sao sau khi nàng mất con, trẫm lại không mấy khi tới thăm nàng không?”

Nghe y đột nhiên hỏi như vậy, ký ức chua xót trong lòng tôi lập tức trào dâng, những lời vô tình nghe được ở sau Nghi Nguyên điện ngày đó rốt cuộc vẫn khiến tôi canh cánh trong lòng. Tôi ngoảnh đầu qua một bên, nói: “Chắc hẳn là vì thần thiếp tính tình ương bướng, sau khi mất con đã thương tâm quá độ mà mạo phạm tới Hoàng thượng.”

Y tì cằm lên trán tôi, giọng nói có chút xót xa mà gượng gạo: “Tuy tính nàng có hơi ương bướng, nhưng cũng không hoàn toàn là vì nguyên cớ này.” Giọng nói của y có chút chần chừ, nhưng đôi tay thì vẫn ôm chặt lấy thân thể tôi. “Nàng có biết tại sao Mộ Dung Phi lại không có con không?” Tôi bất giác cả kinh, không kìm được hơi rùng mình. Y lại nói tiếp, nhưng giọng nói như thể không phải giọng của y, có chút gì đó mờ mịt xa xăm và ngập tràn một nỗi đau cố kìm nén: “Hoan Nghi hương trong cung của nàng ta, trẫm chỉ ban cho duy nhất nàng ta… Bên trong đó có một vị xạ hương, ngửi phải quá nhiều sẽ khiến người ta không thể có con.”

Duyên cớ bên trong tôi có biết, nhưng y đột nhiên chính miệng nói với tôi như vậy, cảm xúc chủ yếu trong lòng tôi vẫn là ngạc nhiên.

Chân tướng đẫm máu này, tôi kỳ thực đã tự đoán ra được tám, chín phần mười, nhưng khi thực sự phải đối mặt với nó, đặc biệt là khi nghe y chính miệng nói ra với tôi, dù rằng người bị hại là kẻ mà tôi căm hận, trong lòng tôi vẫn có cảm giác không dám tưởng tượng, hết sức xốn xang.

Tôi cúi đầu, thương cảm không thôi. “Hoàng thượng, người nói với thần thiếp nhiều quá rồi!”

Y vẫn không chịu buông tay ra, chỉ nói: “Nàng nghe trẫm nói, nàng quỳ ở trong cung của nàng ta có nửa canh giờ mà đã sẩy thai, trong lòng trẫm thấy bất an, sợ rằng nguyên do là vì nàng đã ngửi phải Hoan Nghi hương. Mỗi lần nhìn thấy nàng nhớ con khóc lóc, oán hận Hoa Phi, sự bất an của trẫm lại càng nặng nề, cảm thấy nàng trách Hoa Phi cũng như là trách trẫm, trách trẫm đã hại chết đứa con của chúng ta.”

Tôi không sao kìm nén nổi, trong lòng như có muôn vàn bộ vuốt sắc đang cào cấu, giằng xé, khiến tôi đau thắt từng cơn. Nước mắt lã chã tuôn rơi, tôi chỉ biết ra sức nắm chặt lấy vạt áo y mà khóc nghẹn ngào, không nói nổi một lời.

Giọng nói của y nặng nề như mảnh rừng đọng đầy tuyết trắng: “Nàng có cảm thấy trẫm không phải là một người cha tốt không?”

Tôi lắc đầu buồn bã. “Không…” Hồi lâu sau mới khó nhọc hé miệng: “Người làm vua cần có sự quyết đoán của người làm vua…”

Y vỗ nhẹ lên bờ vai tôi, cất giọng đau thương: “Trẫm cũng có sự bất lực của trẫm. Hoa Phi không thể có con, bằng không một khi nàng ta sinh hạ hoàng tử, Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung nhất định sẽ đưa đứa bé đó lên ngôi đế, như vậy ngay đến chỗ dung thân, trẫm cũng chẳng còn. Nhưng như lời nàng nói, trẫm lại không thể không sủng hạnh nàng ta để xoa dịu lòng người. Trẫm đưa ra hạ sách như vậy, không ngờ lại làm liên lụy đến nàng.”

Tôi đột nhiên nhớ lại một chuyện, mở to hai mắt, kinh hãi nói: “Vậy năm xưa Hoa Phi sẩy thai…”

Y chậm rãi gật đầu. “Lần đó Đoan Phi đã phải gánh tiếng oan.”

Tôi rơi lệ nói: “Chuyện này rõ là cực kỳ cơ mật, sao Hoàng thượng lại nói với thần thiếp?”

Trong ánh mắt y thấp thoáng ánh lệ. “Trẫm là một vị vua nhưng đồng thời cũng là một người cha. Trẫm giết chết đứa con của mình, há có thể không đau đớn?” Y nghiêng đầu qua một bên. “Bao nhiêu đứa con của trẫm đều không giữ được, lẽ nào chính là vì sự báo ứng của ông trời?”

Những lời này khiến tôi nhớ đến cuộc đối thoại giữa Hoàng hậu và y trong hôm tôi mất con, sự đau đớn và sợ hãi trong lòng càng thêm sâu sắc. “Hoàng hậu nương nương… cũng biết việc này sao?”

Y thở dài một tiếng.“Phải, đó là thuốc do Nghi Tu đích thân chuẩn bị.” Tiếng thở dài đó như một tảng đá lớn nặng nề đè xuống trái tim tôi, y nói tiếp: “Trẫm thân là thiên tử, nhưng cũng có vô khối chuyện không thể làm, nàng có hiểu không?”

Tôi vẫn nghẹn ngào khóc lóc, nhưng khóc lóc oán hận thì có ích gì? Đứa con của tôi thật sự đã không còn trên đời này nữa. Hiện thực ghê sợ dần được hé lộ trước mắt tôi, mà đây chẳng qua chỉ là một góc u tối trong cuộc sống ở chốn hậu cung rộng lớn này. Cho dù Hoa Phi lòng dạ tàn độc nhưng ả cũng có chỗ đáng thương.

Tôi cố nín nhịn cơn chua xót sục sôi trong lòng, y là kẻ quân vương, thứ y muốn có nhất là thiên hạ. Đến Đường Thái Tông còn gây ra biến cố Huyền Vũ Môn, đến Đường Huyền Tông còn ép chết cô ruột Thái Bình Công chúa và ba đứa con ruột của mình cơ mà.

Tôi dằn lòng, lạnh lùng nói: “Không thể không giết.”

Lời này vừa nói, đầu gối tôi bất giác trở nên mềm nhũn. Tôi có thể nói gì đây, phản bác gì đây? Cái chết của đứa bé trong bụng Hoa Phi y biết, Hoàng hậu biết, chắc hẳn Thái hậu cũng có biết. Tôi có thể có dị nghị gì được? Huống chi đây là chuyện từ bao nhiêu lâu trước đây rồi.

Mà bàn tay tôi cũng đâu phải chưa từng dính máu.

Sau khi bước chân qua cánh cửa hậu cung, tôi sớm đã không còn là cô bé Chân Hoàn ngây thơ, ương bướng ngày xưa nữa rồi.

Tôi không phải là một nữ tử lương thiện, đơn thuần. Tôi đã ép Tần Phương nghi và Lệ Quý tần phát điên, còn chính miệng hạ lệnh thắt cổ chết Dư thị. Tôi cũng nào có trong sạch và vô tội gì. Giống như bao con người đang sống và sống một cách thoải mái trong cung, tôi cũng phải đạp lên thân xác của người bên cạnh mà sống.

Còn sự oán hận đối với Huyền Lăng sẽ chỉ xé tan tôi, bức bách tôi đến mức không còn đường nào để đi, cũng không có đường lùi.

Y nói: “Hoàn Hoàn, nếu trẫm không nói với nàng, cái chết của đứa bé rốt cuộc sẽ trở thành gút thắt giữa trẫm và nàng.”

Y cũng chỉ vô tình thôi, tôi có thể làm gì? Gút thắt về việc mất con đã được cởi bỏ phần nào sau những lời chân thành này, và tôi cũng chỉ có thể tha thứ cho y, tha thứ cho sự bất lực và bất đắc dĩ của y. Nước mắt lã chã rơi, tôi chậm rãi nói: “Nếu không vì Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung, Hoàng thượng cũng không cần làm như vậy; nếu không vì sự ngang ngược, tàn độc của Hoa Phi, đứa bé trong bụng thần thiếp cũng sẽ không bị như thế.” Thoáng dừng lại, tôi nói tiếp: “Nhưng sau này, Hoàng thượng nhất định phải trả lại công đạo cho thần thiếp.” Y nghiêm túc nói: “Trẫm hứa với nàng.”

Tôi cố gắng gật đầu thật mạnh, cả thể xác và linh hồn đều mỏi mệt, cuối cùng đưa tay tới ôm lấy y, rơm rớm lệ nói: “Tứ lang!”

Tiếng gọi lần này hoàn toàn thật lòng. Đã lâu lắm rồi, tôi không thật lòng gọi y như vậy, khuôn mặt y lộ rõ nét chấn động và vui mừng, cúi xuống hôn tôi. Nụ hôn ấy nóng bỏng mà quen thuộc, loáng thoáng như của ngày xưa, nhưng rõ ràng đang diễn ra trong ngày hôm nay, chính vào thời khắc này.

Y rất chân thành, chân thành một cách bất ngờ, khiến sự khúc mắc giữa tôi và y giảm bớt đi nhiều, làm tăng thêm sự thấu hiểu giữa hai chúng tôi.

Nơi đáy lòng tôi thầm thở dài một tiếng, tôi lặng lẽ nhắm mắt lại.

Dưới vầng trăng sáng, tôi cũng ôm chặt lấy y, dịu dàng đáp lại sự nhiệt tình có chút thô bạo của y. Sự thấu hiểu lúc này đủ để duy trì mối quan hệ giữa hai chúng tôi, giúp chúng tôi có thể cùng nhau tiến thoái vờ ở bên nhau trong những ngày tháng sau này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

79#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2016 13:22:39 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 9 (1)
Gió đổi chiều


Mùng Tám tháng Tư, đại cát. Huyền Lăng dâng sớ lên Thái miếu, cầu chúc Thái hậu phượng thể an khang, dâng lên Thái hậu tôn hiệu “Nhân Triết”, lại cộng thêm tôn hiệu được dâng lên trong ba dịp Hoàng đế kế vị, đại hôn và Thái hậu đại thọ năm mươi tuổi, toàn bộ tôn hiệu là “Chiêu Thành Khang Di Mẫn Kính Nhân Triết Thái hậu”, gọi tắt là “Chiêu Thành Thái hậu”.

Đồng thời lại truy phong cho mẫu thân của Nhữ Nam Vương là Ngọc Ách phu nhân làm Hiền thái phi, tặng cho tên thụy Tư Túc, hiệu là Tư Túc Hiền thái phi, vào dịp tháng Sáu sẽ được dời mộ vào lăng phi tử của tiên đế. Cùng dịp ấy, các vị Thái phi trong cung cũng được tiến phong để tỏ ý khen ngợi. Thân mẫu của Kỳ Sơn Vương là Khâm Nhân Thái phi được phong làm “Khâm Nhân Thục thái phi”, đứng đầu các vị Thái phi trong hậu cung; dưỡng mẫu của Bình Sơn Vương là Trang Hòa Thái phi được phong làm “Trang Hòa Đức Thái phi”. Thư Quý thái phi đã xuất gia tu hành thì được tôn làm Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ.

Nhữ Nam Vương có ý tôn mẫu thân của mình làm Quý thái phi, bởi tuy Tứ phi Quý, Thục, Hiền, Đức ngang hàng với nhau, nhưng xưa nay, Quý phi vẫn được coi là tôn quý nhất, và Quý thái phi tất nhiên cũng là người đứng đầu trong các Thái phi. Con nhờ mẹ mà vinh hiển, địa vị của Nhữ Nam Vương tất nhiên sẽ vì thế mà càng thêm tôn quý.

Nhữ Nam Vương đề nghị như vậy quá nửa là vì hồi nhỏ, thân mẫu của mình vì Thư Quý phi mà thất sủng, làm liên lụy đến mình không được tiên đế coi trọng, mãi chẳng được phong vương, trong lòng rất lấy làm căm hận. Bây giờ địa vị hiển hách đến chừng này, tất nhiên không muốn trong mắt người đời, xuất thân của mình không bằng con trai của Thư Quý phi là Huyền Thanh, lại càng muốn vượt hẳn lên trưởng tử của tiên đế là Huyền Tế. Huống chi Huyền Thanh sở trường về thi từ ca phú nhưng không có ý tham gia vào việc chính trị, Huyền Tế thì lại càng tầm thường, cả ngày say khướt, chính là loại người hắn xem thường nhất.

Hiện giờ, thân mẫu của hắn được truy phong làm Hiền thái phi, thứ nhất cùng là chính nhất phẩm như Quý, Thục, Đức thái phi, về mặt danh nghĩa cũng coi như tạm được; thứ hai có Khâm Nhân Thục thái phi ở trên áp chế, địa vị của Nhữ Nam Vương cũng không thể vượt qua Kỳ Sơn Vương; thứ ba tôn Thư Quý thái phi làm Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ còn có thể vỗ về Nhữ Nam Vương rằng Thư Quý thái phi hiện đã xuất gia rồi.

Chỉ là mấy phong hiệu mà thôi nhưng những sự kiêng kị bên trong lại vô cùng phức tạp, khiến người ta phải lắc đầu lè lưỡi.

Ba ngày sau, Mộ Dung Phi được khôi phục chức Hoa Phi. Gia tộc Mộ Dung vì thế mà yên phận hơn một chút.

Vốn ngỡ rằng hậu cung sẽ vì việc này mà nổi cơn phong ba, nhưng cũng chỉ có mấy người như Điềm Tần, Thận Tần và một vài cung nhân phàn nàn một chút. Còn những người khác, trên từ Hoàng hậu, dưới tới Lăng Dung, Tào Cầm Mặc, tất cả đều coi như không có việc gì, hết sức thản nhiên.

Hôm ấy, Hoàng hậu mời tôi đến Phượng Nghi cung ngắm hoa, vừa khéo gặp lúc thánh chỉ khôi phục ngôi vị cho Hoa Phi của Huyền Lăng truyền đến chỗ Hoàng hậu. Hoàng hậu lặng lẽ xem xong thánh chỉ, sau đó bèn lệnh cho thị nữ cất đi, hờ hững nói với tôi: “Rốt cuộc đã tới rồi!”

Tôi cố tình làm bộ không biết, nói: “Hoàng hậu nương nương không thấy bất ngờ sao?”

Hoàng hậu cười tủm tỉm, nói: “Chỉ là việc sớm muộn mà thôi!” Vừa nói nàng ta vừa chỉ một chậu hoa thược dược đang nở rực rỡ bên dưới cửa sổ. “Giống như hoa vậy, sớm muộn gì cũng sẽ nở.” Dứt lời nàng ta liền sai Tiễn Thu cầm một chiếc kéo bạc tới, mấy ngón tay cầm một bông hoa thược dược đỏ rực trước mặt lên, “xoẹt” một tiếng cắt đứt rồi, sau đó vứt trả cây kéo lại cho Tiễn Thu, nói: “Bông hoa này chướng mắt quá, không cần cũng được.”

Tồi thầm chấn động, tiện tay hái một bông mẫu đơn Diêu hoàng xuống, cẩn thận cài lên búi tóc vút cao của Hoàng hậu, mỉm cười, nói: “Bông hoa này đang nở rộ, cũng hợp với thân phận của Hoàng hậu nương nương, thật là đẹp quá!”

Hoàng hậu vừa ngó nghiêng một chút vừa mỉm cười, nói: “Đã sắp ba mươi tuổi rồi, còn gì nữa đâu mà đẹp.” Nàng ta dừng lại một chút, ra vẻ vô ý nói: “Hoa Phi ít tuổi hơn bản cung nhiều.”

Tôi nở nụ cười nhã nhặn. “Đẹp hay không đẹp không phải ở tuổi tác mà là ở khí chất, Hoàng hậu nương nương là mẫu nghi thiên hạ, khí chất cao quý, những nữ tử xinh đẹp ít tuổi sao có thể so sánh được. Cũng giống như mẫu đơn là vua trong các loài hoa, chậu thược dược kia dù có đẹp và kiều diễm đến mấy thì cũng không cách nào sánh bằng.”

Hoàng hậu soi gương, dán lên trán một bông hoa trân châu, ngoài miệng tuy không nói lời tán đồng nhưng sắc mặt lại lộ rõ ý tứ tán đồng, chậm rãi cất tiếng: “Quý tần càng ngày càng biết nói chuyện hơn rồi!”

Hoàng hậu sai thị nữ chọn trâm cài tóc và bới lại tóc giúp mình, những ngón tay nhẹ nhàng lướt qua một món đồ trang sức làm bằng mã não, dường như có vẻ vô tình nói: “Nghe nói huynh trưởng của Quý tần gần đây thanh danh không được tốt lắm, vì một nữ tử chốn thanh lâu mà làm cho gia đình không được yên ổn.”

Tôi hơi thẹn, quấn chiếc khăn một vòng quanh ngón tay, cắn răng nói: “Thần thiếp cũng nghe nói rồi, thực là chuyện xấu truyền xa ngàn dặm, một việc mất mặt như thế mà không ngờ ngay đến Hoàng hậu nương nương cũng đã nghe nói, thực là lỗi của thần thiếp.”

Hoàng hậu xoay người nửa vòng, ôn tồn nói: “Cũng không có gì, huynh trưởng ngươi dù sao hãy còn trẻ, đang lúc đắc chí, không biết giữ gìn thanh danh, trong lúc hứng chí làm việc gì cũng không biết suy nghĩ. Có điều tẩu tẩu ngươi đã mang thai ba tháng mà còn phải chịu cơn giận như vậy, thực là đáng thương.”

Tôi nhất thời vừa thẹn vừa giận, sắc mặt cũng thay đổi hẳn. “Chỉ hận một nỗi huynh trưởng của thần thiếp không biết kiềm chế, nữ tử thanh lâu tên gọi là Giai Nghi gì đó kia xuất thân quả thực thấp kém, vậy mà huynh ấy lại bất chấp sự phản đối của cha mẹ và việc tẩu tẩu đang có thai, nhất quyết chuộc thân cho cô ta về sắp xếp cho ở bên ngoài.” Tôi cau mày nói: “Nếu không vì cha mẹ và tẩu tẩu của thần thiếp ra sức phản đối, chỉ e huynh ấy đã mang cô ta về nhà làm thiếp rồi.”

Hoàng hậu lắc đầu, nói: “Thế thì tồi tệ quá, vì một nữ tử như vậy mà quên mất tình nghĩa phu thê kết tóc, ơn nghĩa dưỡng dục của cha mẹ, thực chẳng ra sao cả.”

Tôi cơ hồ muốn rơi nước mắt ngay trước mặt Hoàng hậu, cắn chặt răng, nói: “Huynh trưởng nhất thời bị nữ tử đó mê hoặc, không ngờ lại không bước chân về nhà nữa. Thần thiếp đã sai người về nói với cha mẹ, tuyệt đối không được để một nữ tử như vậy vào cửa kẻo làm nhục đến môn phong của nhà họ Chân.”

Hoàng hậu nói: “Tài đức vẹn toàn mới có thể coi là một nam tử tốt. Huynh trưởng của Quý tần tuy có tài chiến trận nhưng mặt đức hạnh đúng là có vấn đề.” Kế đó, nàng ta liền thở dài vẻ không vui. “Thực khiến đám người sau lưng Hoa Phi được dịp xem trò cười!”

Trở lại cung nghỉ ngơi một lát, tôi cảm thấy thân thể nhức mỏi vô cùng. Suốt những ngày qua phải cật lực suy nghĩ về việc truy phong Thái phi và cùng Huyền Lăng mưu tính những chi tiết bên trong, tôi tất nhiên hao tốn rất nhiều tâm sức. Khó khăn lắm mọi chuyện mới kết thúc, tất cả đều chu toàn, tôi rốt cuộc đã có thể thở phào mà nghỉ ngơi một chút. Nhưng những cơn bão táp ngày sau ắt sẽ càng thêm dữ dội, chẳng hề vì thế mà nhẹ nhàng đi nửa phần.

Mấy người Cận Tịch cũng biết thời gian qua tôi đã phải vất vả nhiều, bèn đốt một lò An tức hương có tác dụng an thần để tôi dễ ngủ hơn, đồng thời chỉ lưu lại một mình Lưu Chu ở bên hầu hạ.

Vừa mới mơ màng chìm vào giấc ngủ, tôi đã nghe Lưu Chu nôn nóng cất tiếng thúc giục bên tai: “Nương nương, cung Thái hậu sai người đến mời nương nương qua nói chuyện.”

Vừa nghe thấy hai chữ “Thái hậu”, tôi lập tức giật mình choàng tỉnh, hỏi: “Có chuyện gì sao?”

Lưu Chu thưa: “Vị công công tới chuyển lời không nói gì, chỉ mời nương nương mau qua đó.”

Tôi xưa nay vẫn luôn kính trọng Thái hậu, nghe vậy liền không dám chậm trễ chút nào, một mặt sai người chuẩn bị kiệu, một mặt gọi người tới giúp mình trang điểm thay quần áo, sau đó vội vã đi ngay.

Trong điện Thái hậu có mùi trầm hương bình lặng như nước, từng làn khói nhẹ vấn vít không tan, khiến người ta có cảm giác đang ở ngoài cõi tục. Ánh dương độ giữa trưa không sáng quá, bầu trời mang màu xanh lam tươi mát sau một trận mưa phùn, khiến người ta cảm thấy vô cùng thư thái, dễ chịu.

Trong điện rất tịch mịch, nhìn ra ngoài qua tấm rèm cửa sổ mỏng màu xanh lục, những bông hoa xuân đang nở rực rỡ cũng như thêm phần ngoan ngoãn, ngay đến ánh dương màu vàng kim cũng trở nên mông lung, như thể bị ngăn cách bởi một lớp sương mù thăm thẳm.

Thái hậu có khí sắc khá tốt, đang ngồi tựa vào chiếc sạp quý phi dài mạ bạc kê ngay sát cửa sổ, chậm rãi uống từng ngụm thuốc từ tay Tôn cô cô.

Tôi cung kính thỉnh an, Thái hậu bảo tôi đứng dậy và ban cho ngồi, nói: “Cũng khá lâu chưa nói chuyện với ngươi rồi, gần đây có làm được việc gì không?”

Tôi thưa: “Cũng không có gì, thần thiếp chẳng qua chỉ làm mấy chuyện vặt vãnh để giết thời gian thôi.”

Thái hậu chẳng buồn ngẩng lên, nói: “Vậy hãy nói thử xem là những việc vặt vãnh gì nào, ai gia muốn nghe cho đỡ buồn.” Thế là tôi bèn chọn một số việc thú vị để kể. Thái hậu nở nụ cười như có như không, dáng vẻ như đang lắng nghe, một tay đón lấy cốc nước Tôn cô cô đưa tới để súc miệng, cau mày nói: “Đắng quá!”

Lời còn chưa dứt, phía sau bức bình phong điêu khắc bằng gỗ ô đàn trong điện xuất hiện một tà váy màu xanh ngọc, bất ngờ lại là My Trang. My Trang liếc mắt nhìn tôi, cũng không nói nhiều, chỉ bưng một chiếc khay bằng sứ trắng trong tay, trên khay có đặt mấy quả sơn tra được tẩm ướp đỏ mọng. Nàng ta mỉm cười đi tới trước mặt Thái hậu, thưa: “Đây là sơn tra mới hái hôm nay, thần thiếp sai người làm ngọt một chút, Thái hậu vừa uống thuốc xong, ăn nó là hợp nhất rồi!”

Trên mặt Thái hậu thoáng lộ rõ nét tươi cười. “Coi như con nhóc ngươi có lòng hiếu thảo.” Vừa nói bà vừa nhón một quả lên ăn, gật đầu, nói: “Đúng là không tệ.”

My Trang cúi đầu cười khẽ, dáng vẻ nền nã nhún nhường. “Thái hậu thích là được, thần thiếp chỉ nghĩ thuốc vốn đắng, nếu ăn thêm thứ gì ngọt quá thì thành ra lại khó chịu, chi bằng dùng thứ vừa chua vừa ngọt là hợp nhất.”

Thái hậu gật đầu mỉm cười, hết sức tán đồng, sau đó mới quay sang nhìn tôi, cất giọng không nhanh không chậm hỏi: “Hoàn Quý tần, ngươi đã biết tội chưa?”

Căn phòng vốn ngợp đầy những lời nói hiền từ và chìm trong sự yên bình đột nhiên vang lên một câu nói như vậy, tôi nghe mà trái tim bất giác nhảy dựng lên, nhưng lại không biết đã phạm lỗi gì, hoang mang quỳ xuống, nói: “Thần thiếp thật tình không biết, xin Thái hậu chỉ dạy.”

Ánh mắt Thái hậu cực kỳ sắc bén, chiếu thẳng tới khiến tôi không dám ngẩng lên, thầm thấp thỏm. Thái hậu hơi nheo mặt, lạnh lùng buông ra một câu: “Ngươi lớn gan thật, thân là phi tần mà không ngờ lại dám can dự vào việc triều chính.”

My Trang đứng một bên, nghe Thái hậu nói chuyện với thần sắc như vậy thì không khỏi cả kinh, sắc mặt trở nên trắng bệch, đến chiếc khay sứ trong tay cũng không cầm chắc nổi, làm mấy quả sơn tra rơi xuống đất, lăn đi xa tít, bắn ra những đốm màu đỏ đầy trên mặt sàn.

Thái hậu đưa mắt liếc nàng ta, nói: “Ai gia đang hỏi nàng ta, không ngờ ngươi lại cuống lên trước.”

Tôi nhất thời bấn loạn, không biết phải trả lời thế nào, vội phủ phục xuống, khấu đầu thưa: “Thần thiếp không hiểu tại sao Thái hậu lại nói như vậy, thần thiếp quả thực không dám phạm vào tử tội này.”

Thái hậu ngồi thẳng người dậy, tuy không hề tỏ ra dữ dằn nhưng vẻ nghiêm túc nơi khóe mắt lại khiến người ta không rét mà run. Bà bình thản nói: “Ai gia cho phép ngươi tự nói, việc truy phong Thái phi ngươi có tham gia bao nhiêu phần?”

Tôi dập đầu một cái rồi mới thưa: “Lời của Thái hậu thật khiến thần thiếp sợ hãi tột cùng. Thần thiếp dù có trẻ người non dạ đến mấy thì cũng biết rằng phi tần chốn hậu cung không được can dự vào việc triều chính, đây là lời di huấn mà lão tổ tông để lại, thần thiếp tuyệt đối không dám làm trái. Hoàng thượng là bậc quân chủ thánh minh, việc truy phong Thái phi trong lòng sớm đã có tính toán, thần thiếp há có thể làm ảnh hưởng tới được. Điều thần thiếp có thể làm chỉ là khuyên Hoàng thượng đừng vì việc triều chính mà hao tâm tổn lực quá độ, nếu nói tới ‘tham gia’ thì cũng chỉ là góp ý với Hoàng thượng một chút về phong hiệu của mấy vị Thái phi, sau đó đưa lên cho Hoàng hậu và Thái hậu quyết định.” Tôi ngẩng đầu nhìn Thái hậu, nói: “Thần thiếp ngu muội, cho rằng truy phong Thái phi chỉ là việc của hậu cung, do đó mới dám mạo muội nói ra đôi lời. Nếu biết đó là việc triều chính, thần thiếp tuyệt đối không dám dính dáng đến chút nào cả.” Nói xong lại vội vàng cúi đầu xuống.

Thái hậu thoáng trầm ngâm, trong mắt lóe lên ánh tinh quang, dường như có thể biến tôi thành một người trong suốt không giấu giếm được chuyện gì, chậm rãi nói: “Dù ngươi không có ý tham gia vào việc triều chính nhưng ngươi dám nói trong việc này ngươi không có chút tư tâm nào không?”

Nói xong những lời vừa nãy, tâm trạng tôi đã bình tĩnh hơn nhiều, biết rằng biện bạch quá nhiều sẽ thành ra không hay, vì vậy bèn nói: “Thái hậu minh giám, việc truy phong Thái phi vốn không có bao nhiêu quan hệ lợi hại với thần thiếp.” Thoáng dừng lại, tôi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Thái hậu, nói: “Nhưng nói đến tư tâm, thần thiếp quả thực có một chút.”

Tôi thấy Thái hậu chỉ lắng nghe, không hề tỏ ý trách móc, bèn dần yên tâm hơn phần nào. “Thần thiếp ở sâu trong cung, tuy không để tâm tới những việc bên ngoài, nhưng thỉnh thoảng cũng nghe được một số lời bàn tán mà mọi người xung quanh nói. Hoàng thượng là vua một nước, thường xuyên lo lắng việc triều chính, quên ăn quên ngủ. Thần thiếp may mắn được Hoàng thượng sủng hạnh, có thể thường xuyên hầu hạ kề bên, chỉ mong Hoàng thượng việc gì cũng được như ý, luôn nở nụ cười.” Suy nghĩ mấy bận, rốt cuộc tôi vẫn cất tiếng: “Nhưng có lúc trời lại chẳng chiều lòng người.”

Thái hậu là mẹ ruột của Huyền Lăng, còn từng chấp chưởng triều chính. Có một số lời, có một số chuyện, quả thực không cần thiết phải giấu giếm bà ta. Thái hậu suy nghĩ một chút rồi nói: “Đâu phải trời không chiều lòng người, chỉ e có một số kẻ muốn làm trái ý trời mà thôi!”

Tôi quỳ dưới ánh mặt trời dìu dịu, nơi sống lưng thấp thoáng truyền đến cảm giác ngứa ngáy, kèm theo đó là sự thấp thỏm bất an. Tôi thấp giọng nói: “Thái hậu nói rất phải. Nhưng thần thiếp biết, Hoàng thượng là con của trời cao, ắt sẽ được trời cao phù hộ. Thần thiếp không dám, cũng không thể tham gia vào việc triều chính, chỉ có thể cố gắng lo cho Hoàng thượng về vấn đề ăn uống ngủ nghỉ mà thôi. Nếu nói có tư tâm thì đó cũng chỉ là một chút tư tâm đáng xấu hổ của thần thiếp, nhưng hôm nay Thái hậu đã hỏi tới, thần thiếp đành thành thực trả lời. Thần thiếp hy vọng Hoàng thượng có thể bình an muôn tuổi, còn mình thì được sủng hạnh suốt đời.”

Thái hậu nghe xong những lời giải thích của tôi, sắc mặt thoáng dãn ra, tiện tay khẽ vén mái tóc được buông xõa sau đầu, hòa nhã nói: “Chút tư tâm ấy các phi tần ở hậu cung ai mà không có? Thôi, ngươi đứng dậy đi!”

Tới lúc này, tôi mới giống như được đại xá, vội chỉnh sửa quần áo một chút rồi đứng dậy, cung kính cúi đầu bước qua một bên. Thái hậu vuốt nhẹ chiếc chăn bông mỏng đắp trên người, khẽ thở dài một tiếng, nói: “Tư tâm của ngươi kỳ thực người nào cũng có. Có Hoàng thượng thì mới có các ngươi, Hoàng thượng còn trị vì, các ngươi ở trong cung dù thất sủng hay đắc sủng thì ít nhiều gì cũng còn có hy vọng. Nếu Hoàng thượng không còn nữa, Hoàng hậu tất nhiên khỏi cần phải nói, sẽ trở thành Thái hậu tôn quý, cho dù là Tào Tiệp dư và Hân Quý tần thì ít nhiều gì cũng còn có một đứa con gái để mà nương tựa. Nhưng như ngươi và My Nhi bây giờ, dù có phong quang đến mấy thì sau này cũng chỉ có thể làm một Thái tần cô độc, ngay đến danh phận Thái phi cũng không thể trông mong được. Cái danh Thái tần tuy rằng không tệ nhưng đến khi già chẳng có ai nương tựa thì thật thê thảm biết bao, nói trắng ra thì chỉ là ngồi chờ chết mà thôi. Cho nên mọi niềm hy vọng của các ngươi đều nằm cả trên người Hoàng thượng.” Thái hậu nói xong, bản thân cũng có chút thương cảm, bèn ngoảnh đầu qua một bên, khẽ ho mấy tiếng.

My Trang ngoài miệng tuy đáp “vâng” nhưng cũng ngoảnh mặt đi, ngẩn ngơ nhìn ra ngoài cửa sổ, dường như có chút hụt hẫng. Thái hậu đưa mắt liếc tỷ ấy, nói: “My Nhi, tuy ngươi có lòng hiếu thảo với ai gia, nhưng thứ tâm tư này cũng nên dùng một chút với Hoàng thượng. Tuy không nói gì tới ân sủng, nhưng bây giờ ngươi còn thua cả con bé Điềm Tần kia. Tuổi còn trẻ mà cứ suốt ngày ăn mặc mộc mạc như vậy thực không hay chút nào, đến ai gia bây giờ còn chịu mặc mấy thứ đồ sặc sỡ, vậy mà ngươi lại không chịu. Cả ngày kề cận bên bà già ta đây, rốt cuộc cũng chẳng có gì thú vị… Ngươi dù sao cũng phải suy nghĩ cho bản thân một chút.”

Lối ăn mặc của My Trang quả thực không phù hợp với thân phận của tỷ ấy, quá mức mộc mạc, bên trên là một chiếc áo the mỏng có nền màu bạc, ống tay áo bó sát vào cổ tay, trên mặt vải chỉ thêu mấy hình dây tử đằng màu xanh biếc, bên dưới là một chiếc váy xanh màu ngọc không có chút hoa văn nào, dài đến mắt cá chân, cũng không hề đeo những thứ đồ trang sức như túi thơm hay ngọc bội. Bây giờ đang là mùa xuân, những nữ tử trong cung đều thích cài hoa tươi lên búi tóc, nhưng trên mái tóc của My Trang, đến một cây trâm ngọc xa hoa cũng chẳng có chứ đừng nói gì tới hoa tươi. Mái tóc đen tuyền của tỷ ấy được búi gọn lại sau đầu, chỉ được cố định bằng một cây trâm bạc có khảm một viên mã não đỏ sậm, coi như đồ trang sức. Lối ăn mặc như vậy quả thực là quá đơn giản, ngay đến Tôn cô cô khá có địa vị trong cung Thái hậu nhìn trông cũng rực rỡ hơn tỷ ấy. My Trang hơi cúi đầu. “Thái hậu nói vậy nghe cứ như là thần thiếp không muốn gần gũi Hoàng thượng, mà thứ nhất Thái hậu an khang chính là tâm nguyện của Hoàng thượng, thần thiếp đương nhiên càng cần hiếu kính Thái hậu rồi; thứ hai, mấy vị muội muội đã hầu hạ Hoàng thượng rất tốt, thiếu thần thiếp cũng không sao.” My Trang khẽ mỉm cười, nói tiếp: “Thần thiếp vốn không giỏi trang điểm, sao có thể vừa mắt Thái hậu được, chỉ mong hôm nào Thái hậu có thời gian rảnh hãy chỉ dạy cho thần thiếp một chút. Thần thiếp ở chỗ Thái hậu thu được rất nhiều lợi ích, có đuổi cũng không đuổi đi được đâu.”

Thái hậu cười, nói: “Ai gia vốn thấy nha đầu ngươi điềm đạm chín chắn, không ngờ bây giờ cũng biết ăn nói như vậy rồi. Có ngươi bầu bạn bên ai gia, lại có y thuật của Ôn thái y, thân thể ai gia sao có thể không khỏe mạnh được chứ!”

My Trang tươi cười, nói: “Đó đều là công lao của Ôn thái y, thần thiếp chẳng qua chỉ ở bên phụ giúp một chút mà thôi, thực chẳng có tác dụng gì mấy.”

Thái hậu nói: “Đợi lát nữa hãy ở lại dùng bữa tối với ai gia, sau đó thì về cũng được, cả ngày quanh quẩn ở đây cũng chẳng có gì hay ho.”

My Trang nói: “Ôn thái y đã nói rồi, đợi sau bữa tối sẽ tới bắt mạch cho Thái hậu lần nữa, nếu tất cả đều ổn thì lượng thuốc có thể giảm đi phần nào. Thần thiếp muốn ở lại đây nghe xem Ôn thái y nói thế nào, như thế cũng tiện nhắc nhở những tiểu cung nữ chuyên sắc thuốc kia, thuốc của Thái hậu quyết không thể có chút sơ suất nào.”

Thái hậu gật đầu tỏ ý hài lòng. “Ngươi lúc nào cũng chu đáo hơn người khác.” Nói rồi bà ta ngoảnh qua nhìn tôi, chậm rãi cất tiếng: “Nghe Hoàng thượng nói, việc sớm khôi phục lại ngôi vị cho Hoa Phi là chủ ý của ngươi?”

Tôi nghe thế thì thầm kinh hãi, không biết Thái hậu rốt cuộc có dụng ý gì, chỉ đành bấm bụng đáp: “Vâng.” Dứt lời, tôi lại không kìm được đưa mắt nhìn My Trang, thấy sắc mặt tỷ ấy hơi biến đổi, ánh mắt sắc bén đâm thẳng vào mặt tôi, bên trong là vẻ vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Tôi buồn bã cúi đầu, tỷ ấy rốt cuộc vẫn oán trách tôi.

Thái hậu cau mày, nghi hoặc hỏi: “Ngươi chịu sao?”

Tôi đáp với giọng khẩn thiết: “Thái hậu anh minh. Vừa rồi Thái hậu đã nói có một số người muốn làm trái ý trời, thần thiếp tuy ngu độn nhưng cũng biết Thái hậu muốn nhắc đến ai. Xin Thái hậu minh giám, trong thế cuộc bây giờ, lòng người ở tiền triều cần được vỗ về, nơi hậu cung cũng thế. Thần thiếp không thể vì ân oán cá nhân mà làm ảnh hưởng đến đại cục.” Tôi cúi xuống, nói tiếp: “Trong chuyện này dù sao cũng có người phải chịu ấm ức, thần thiếp tình nguyện làm người ấy.”

Thái hậu im lặng trong chốc lát, sau đó liền lộ rõ nét vui mừng, gọi tôi lại, kéo tay tôi nói: “Tốt lắm, ai gia thực không ngờ ngươi lại có bụng dạ rộng rãi như vậy. Chẳng trách Hoàng thượng cưng chiều ngươi như thế, còn cho phép ngươi vào ngự thư phòng bầu bạn.”

Tôi vội vàng quỳ xuống. “Thái hậu quá lời rồi, thần thiếp thực không dám nhận.”

Thái hậu lệnh cho tôi ngồi trước mặt bà ta, nói: “Ai gia nghe Hoàng hậu nói có ngươi bầu bạn với Hoàng thượng trong ngự thư phòng hết sức ổn thỏa, vốn còn không yên tâm. Ngự thư phòng há lại là nơi các hậu phi có thể tùy tiện ra vào, mà ngươi xưa nay lại luôn thông minh, lanh lợi. Nếu sự thông minh này không được dùng vào con đường chính đáng, hoặc là một mực xúi giục Hoàng thượng xử lý quốc sự theo sự yêu ghét cá nhân, trở thành một kẻ hồng nhan họa thủy thì ai gia quyết không dung tha cho ngươi.”

Tôi vội cúi đầu, cung kính nói: “Thần thiếp không dám!”

Thái hậu nói: “Ai gia chẳng qua cũng chỉ lo lắng vậy thôi. Hôm nay nói chuyện với ngươi, thấy ngươi quả có bụng dạ và kiến thức, đúng là nhãn quang của Hoàng thượng không tệ. Các cung nữ, thái giám trong ngự thư phòng dù sao cũng không thể hiểu được lòng Hoàng thượng như ngươi, ngươi hãy tận tâm mà hầu hạ Hoàng thượng… Chỉ có điều phải nhớ, không được tùy tiện bàn việc quốc sự, cũng không được tham gia vào việc triều chính. Nếu không, dù ai gia có thể tha cho ngươi, liệt tổ liệt tông cũng không tha cho ngươi được.”

Tôi hơi cắn môi, nhún nhường nói: “Thái hậu dạy dỗ rất phải, thần thiếp xin ghi nhớ trong lòng. Có điều, tạm chưa nói tới việc thần thiếp có bản lĩnh can dự vào việc triều chính, bên trên có Thái hậu, bên dưới có bá quan văn võ, Hoàng thượng lại anh minh quyết đoán, thần thiếp làm gì còn cơ hội mà can dự vào những việc không dành cho mình. Thần thiếp tuổi trẻ không hiểu chuyện, cũng chưa từng trải qua việc lớn gì, cử chỉ lời nói không tránh khỏi có chút sơ sót, mong Thái hậu và Hoàng hậu chỉ bảo.”

Thái hậu hơi ngước mắt lên, nói: “Ngươi tuy vào cung đã được ba năm, nhưng nói đến cùng cũng chỉ là một nha đầu mới mười tám tuổi, có được phong thái và bụng dạ như vậy quả là không tệ. Hoàng thượng có ngươi ở bên, ai gia thực sự rất yên tâm. Ngươi hãy cố gắng hầu hạ Hoàng thượng cho tốt, nếu sớm ngày sinh nở được thì không còn gì hay hơn nữa rồi.”

Tôi yên tâm hơn một chút, trầm giọng nói: “Tạ ơn Thái hậu!”

Thái hậu thoáng lộ vẻ mệt mỏi, lại tựa người vào chiếc gối mềm. Tôi thấy vậy liền hiểu ý, đi tới bên cạnh chiếc tủ ở góc điện, mở nắp hộp đường đặt giữa chiếc khay khắc hoa văn hình hai con rồng ra, xúc lấy nửa thìa đường trắng cho vào cốc nước của Thái hậu, nói: “Thái hậu dạy dỗ thần thiếp hồi lâu đã vất vả rồi, hãy uống một ngụm nước cho mát họng.”

Thái hậu mỉm cười uống nước, cất giọng hiền từ: “My Nhi tính tình vững vàng, chín chắn, ngươi thì thông minh, nhanh nhẹn. Sau khi Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, bên cạnh Hoàng thượng chẳng có ai đáng để tin cậy. Nếu các ngươi có thể dốc lòng dốc sức hầu hạ kề bên, không những Hoàng hậu có thể nhẹ nhõm hơn nhiều mà Hoàng thượng cũng không còn mối lo ở phía sau nữa.”

My Trang đứng sau lưng Thái hậu, vẫn luôn hờ hững nhìn tôi, nghe Thái hậu nói vậy mới khẽ cười, nói: “Thái hậu thực đã xem trọng thần thiếp quá rồi!”

Thái hậu nằm dưới ánh nắng dìu dịu đã gần nửa canh giờ, dần cảm thấy buồn ngủ, liền uể oải nói: “Đến giờ ai gia ngủ trưa rồi, các ngươi hãy kiếm nơi nào đó đi dạo một chút đi.”

Tôi và My Trang vội vàng đứng dậy cáo từ. Thái hậu nhắm mắt được một lát, chợt cất tiếng gọi tôi lại: “Việc truy phong Thái phi làm như vậy quả là rất ổn thỏa, mọi mặt đều chu toàn. Nếu đổi lại là ai gia đưa ra chủ ý, có quá nửa cũng sẽ như vậy. Hoàng thượng xưa nay tính tình luôn có chút bộp chộp, suy nghĩ mọi việc đều không chu đáo, cần có một người ở bên giúp sức. Nhưng nếu tất cả đều là chủ ý của một mình ngươi, vậy thì cái chủ ý đó không khỏi lớn quá rồi!”

Tôi đang tính xem sau khi ra ngoài nên giải thích thế nào với My Trang, nghe Thái hậu đột nhiên nói vậy, trái tim bất giác nhảy dựng lên, thấp thỏm không yên. Nụ cười cố gắng duy trì trên mặt bất giác trở nên hơi gượng gạo, từ hai gò má truyền tới cảm giác tê rần, tôi nói: “Thần thiếp đâu có hiểu được nhiều chuyện như vậy, chỉ thỉnh thoảng mới góp ý được đôi điều thôi!”

Thái hậu nở nụ cười cảm khái. “Cổ nhân có câu ‘nữ tử vô tài chính là đức’, nhưng ai gia cảm thấy không đúng lắm; nhưng nếu tài hoa quá, rốt cuộc cũng khó tránh khỏi bạc mệnh, thật vô cùng đáng tiếc. Có tài mà biết tiến thoái, gộp đủ cả phúc đức, vậy mới là hiếm có. Dù sao hậu cung cũng không phải nơi bình thường.” Giọng nói của Thái hậu mang đầy ý vị sâu xa: “Trong hậu cung này, tuy các ngươi đều chỉ là hạng nữ lưu, nhưng mỗi tiếng khóc, nụ cười đều có thể gây ra phong ba bão táp ở tiền triều, do vậy từng lời nói, cử chỉ nhất định phải thật cẩn thận.”

Tôi gật đầu, không nói gì, tỉ mỉ nghiền ngẫm ý tứ bên trong. Thái hậu lại nói: “Ngươi là người hiểu chuyện, ai gia rất thích. Nếu có thời gian rảnh hãy thường xuyên tới đây chép kinh Phật cho ai gia.”

Tôi khẽ đáp “vâng” một tiếng rồi cáo lui, vội vã bước ra khỏi Di Ninh cung của Thái hậu, tới lúc này mới cảm thấy cả thể xác và tinh thần đều mệt mỏi tột cùng, mồ hôi lấm tấm trên trán, một lúc sau mới phát hiện mà đưa tay lên lau.

Đi ra ngoài, tôi thấy Hoán Bích đang đợi sẵn, nhưng lại không thấy My Trang đâu, không khỏi thầm nôn nóng, bèn hỏi: “Có nhìn thấy My Trang tiểu chủ không?”

Hoán Bích đáp: “Dạ có thấy, tiểu chủ dẫn theo cung nữ đến nhà bếp chuẩn bị đồ điểm tâm cho Thái hậu rồi.”

Tôi biết mình nhất thời khó có thể gặp được tỷ ấy, bèn ngồi kiệu quay trở lại Đường Lê cung.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

80#
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2016 13:23:55 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 9 (2)
Gió đổi chiều


Đến bên bờ tây của hồ Thái Dịch, tôi vừa khéo gặp Tào Tiệp dư đang dẫn theo thị nữ bế Ôn Nghi Công chúa hái mấy cành liễu trêu đùa lũ cá chép vàng bên cầu, cất tiếng cười vang. Nhìn thấy kiệu của tôi đi ngang qua, nàng ta vội vàng đứng dậy thỉnh an. Tôi bảo nàng ta đứng dậy, đoạn ghé người ra ngoài kiệu, cười nói: “Tiệp dư đúng là có nhã hứng thật.”

Nàng ta cũng cười, trong ánh mắt nhìn về phía Ôn Nghi Công chúa tràn ngập vẻ yêu thương. “Rảnh rỗi không có việc gì làm, Ôn Nghi liền đòi ra ngoài chơi. Con nhóc nghịch ngợm này thực khiến thần thiếp đau đầu vô cùng.”

Tôi khẽ mỉm cười, nói: “Tiệp dư ngày ngày có thể ‘đau đầu’ như vậy là điều mà người khác mong còn chẳng được đấy!” Tôi chăm chú nhìn Ôn Nghi, cô bé cũng sắp ba tuổi rồi, trông rất ngây thơ, non nớt, mặt mũi như tranh vẽ, miệng cất tiếng ê ê a a không ngừng. Cô bé trước giờ chưa được gặp tôi mấy, có vẻ hơi sợ người lạ, nhưng cũng không la hét khóc lóc, chỉ mở to cặp mắt tròn xoe đen láy ra nhìn tôi vẻ tò mò, trông hết sức đáng yêu.

Cô bé vốn được Tào Tiệp dư bế trong lòng, nhìn thấy tôi cười tủm tỉm nhìn qua thì cũng biết rằng tôi thích nó, thế là chợt nhếch miệng, cất tiếng cười khoan khoái, còn dang rộng hai tay đòi tôi bế. Tôi cũng khá bất ngờ, lại còn đang ngồi trên kiệu nhưng nhìn thấy bộ dạng đáng yêu kia của cô bé thì bất giác cảm thấy yêu thích, bèn bước chân xuống kiệu.

Tào Tiệp dư thấy Ôn Nghi dang tay đòi tôi bế thì vội thấp giọng ngăn cản: “Không được vô lễ với nương nương, nghịch ngợm quá!”

Tôi cười, nói: “Trẻ con không sợ người lạ mới thú vị chứ, Tiệp dư sao phải trách cứ làm gì.” Dứt lời tôi bèn đưa tay tới ôm cô bé vào lòng, gạt nhẹ mấy cọng tóc đầm đìa mồ hôi trước trán cô bé một cách cưng nựng. Ôn Nghi tuy còn ít tuổi nhưng vẫn có thể phân biệt được người khác có thật lòng yêu thích mình hay không, do đó, nó tỏ ra hết sức thân mật, tựa đầu vào vai tôi, bờ má non nớt khẽ cọ vào cổ tôi, một tay ôm lấy tôi, tay còn lại thì nghịch ngợm cây kim mạ vàng cài trên cúc áo tôi.

Tào Tiệp dư đứng bên cạnh cười tủm tỉm, nói: “Ôn Nghi rất thích nương nương đấy!” Vừa nói vừa ghé tới sát Ôn Nghi. “Mau gọi Hoàn mẫu phi đi.”

Nhưng Ôn Nghi lại không chịu gọi, chỉ cúi đầu ra vẻ thẹn thùng, thân thể lắc qua lắc lại trên người tôi như một cây kẹo kéo. Tào Tiệp dư thấy cô bé ngượng nghịu liền ngoảnh lại gọi nhũ mẫu: “Mau bế Công chúa về đi, làm nhăn hết xiêm y của nương nương rồi kìa!” Đồng thời nàng ta mau lẹ ghé tai tôi, khẽ nói: “Tần thiếp ở đây đợi nương nương lâu rồi!”

Tôi hiểu ý, biết nàng ta có chuyện muốn tìm mình, bèn tỏ vẻ bình thản buông Ôn Nghi ra, một tay đưa lên gỡ mấy chiếc kim mạ vàng trên cúc áo xuống, đặt tay nhũ mẫu. “Chỉ là mấy thứ đồ không đáng tiền thôi, giữ lại cho Công chúa chơi đi.”

Nhũ mẫu nhất thời không dám nhận, đưa mắt liếc nhìn sắc mặt Tào Tiệp dư, thấy nàng ta mỉm cười thì mới vội vàng nhận lấy và cất lời cảm tạ.

Tôi nói: “Tiết trời đang đẹp, bản cung chuẩn bị tới Nghênh Xuân uyển đi dạo một chút, cáo từ!”

Sau khi tới Nghênh Xuân uyển, tôi chỉ giữ Cận Tịch lại cùng tản bộ. Lúc này sắc xuân đang thắm, hoa nghênh xuân vốn nở sớm nên đã tàn lụi gần hết, do đó có rất ít người tới đây ngắm nghía đi lại, chính là một nơi thanh tịnh có thể dùng để nói chuyện. Quả nhiên chẳng bao lâu sau, Tào Tiệp dư đã một mình đi tới.

Tôi hái hai bông nghênh xuân mân mê trong tay, hờ hững cất tiếng hỏi: “Tào tỷ tỷ có chuyện gì muốn gặp bản cung vậy?”

Nàng ta thấp giọng đáp: “Địa vị của Hoa Phi được khôi phục, hôm qua đã triệu tần thiếp tới Mật Tú cung.”

Tôi nghe thế thì chợt rúng động nhưng vẫn mỉm cười, dịu giọng nói: “Như thế quả là rất tốt. Hoa Phi nương nương xưa nay vẫn luôn qua lại với tỷ, bây giờ địa vị đã được khôi phục, tỷ cũng nên đi chúc mừng.”

Nàng ta mặt không đổi sắc, chỉ nói: “Tần thiếp sớm đã cho người đưa quà mừng tới rồi!” Nàng ta đưa mắt nhìn tôi, nói tiếp: “Có điều lần này Hoa Phi nương nương triệu tần thiếp tới là để hỏi trong quãng thời gian mình không ra khỏi cửa, nương nương đã có những hành động thế nào.”

Tôi thoáng ngẩn người rồi chậm rãi vuốt ve hai bông hoa trong tay, ung dung nói: “Tào tỷ tỷ là người thông minh, tất nhiên biết cách đối đáp cho hợp lý. Huống chi bất kể đối đáp thế nào thì đó cũng đều là tính toán riêng của Tào tỷ tỷ.” Tôi ngấm ngầm đổi giọng, nở nụ cười tươi với nàng ta. “Thực ra Hoa Phi nương nương có nói thế nào thì cũng là chủ nhân cũ của Tào tỷ tỷ, tuy nàng ta đối xử với tỷ tỷ và Công chúa có phần hơi bạc bẽo, nhưng tốt xấu gì cũng từng nâng đỡ tỷ tỷ, mà gia thế và địa vị lại đều hơn xa bản cung. Tào tỷ tỷ đi lại gần gũi với Hoa Phi cũng là lẽ thường tình, huống chi bây giờ địa vị của nàng ta đã được khôi phục, Hoàng thượng cũng không có lý do nào lại không sủng ái nàng ta.”

Tào Tiệp dư hơi cau mày, rất nhanh đã mím môi cười, nói: “Nương nương hà tất phải chơi trò đánh đố với tần thiếp. Tần thiếp tuy không thông minh nhưng cũng biết việc nàng ta khôi phục địa vị và đắc sủng chỉ là nhất thời, cũng giống như bông hoa quỳnh trong ngày hè vậy, dù gì cũng chỉ như cây nỏ mạnh đã hết đà thôi!” Dừng một chút, nàng ta nói tiếp: “Tần thiếp và Công chúa muốn được yên thân, tất nhiên sẽ không mạo hiểm.”

Tôi chăm chú nhìn nàng ta một lát, sau đó nói: “Tào tỷ tỷ tâm tư nhạy bén, phản ứng cực nhanh, người bình thường sao có thể sánh nổi. Có điều bản cung cũng không hy vọng tình cảm giữa Tào tỷ tỷ và Hoa Phi nương nương trở nên phai nhạt.”

Tào Tiệp dư mím môi nở nụ cười tươi rạng rỡ, dải tua bên dưới cây kẹp tóc vàng có đính con ve sầu ngọc bích khẽ đung đưa qua lại. “Tần thiếp đã quyết định giao phó bản thân và Công chúa cho nương nương, tất nhiên sẽ hoàn toàn vâng lệnh nương nương, sao còn ngả về phía nàng ta được. Có điều lời dặn của nương nương tần thiếp hiểu rõ, nhất định sẽ không làm nương nương thất vọng.”

Tôi khẽ cười, nói: “Tào tỷ tỷ biết tiến biết lui, bản cung tất nhiên hoàn toàn yên tâm. Hoa Phi nương nương đã thích thăm dò động tĩnh của bản cung, vậy bản cung chỉ đành dùng chiêu gậy ông đập lưng ông thôi.” Dừng một chút, tôi hỏi: “Lần này Hoa Phi nương nương phục hồi địa vị, lại được Hoàng thượng sủng hạnh hơn, bản thân nàng ta có suy nghĩ thế nào?”

Tào Tiệp dư thoáng lộ vẻ khinh miệt, khái quát bằng một câu ngắn gọn: “Sung sướng đắm mình trong niềm vui, nhưng cũng thường xuyên lo thất sủng lần nữa.” Nàng ta đưa mắt liếc qua. “Nhưng vì chuyện trước đó, lại thêm việc nghe nói tới biến cố của Tần Phương nghi và Lục Thuận nghi, do đó đã sinh lòng kiêng dè nương nương.”

Tôi không hề để bụng, trong giọng nói thoáng mang theo chút căm hận: “Nàng ta sớm đã coi ta là tử địch, chẳng phải mới bắt đầu từ bây giờ. Đương nhiên, bản cung cũng vậy.”

Tào Tiệp dư nói: “Nương nương tất nhiên có cách ứng phó với nàng ta, tần thiếp chỉ dốc chút sức mọn của mình mà thôi. Nhưng có việc này không thể không nói, nương nương và tần thiếp vốn không có mối quan hệ lợi hại trực tiếp với nhau, nói khó nghe một chút thì chẳng qua là hợp nhau vì lợi, ngày sau lợi hết ắt sẽ mỗi người mỗi ngả, thần thiếp hèn kém, tất nhiên không thể cự lại nương nương, do đó chỉ e khó mà yên tâm trợ giúp nương nương được.”

Tôi và nàng ta nhìn nhau cười khẽ, đều hiểu rõ tính toán trong lòng đối phương. “Tào tỷ tỷ quả nhiên sảng khoái, điều tỷ lo lắng cũng là việc bản cung băn khoăn. Bản cung đến bây giờ vẫn chưa có con cái, Ôn Nghi Công chúa xinh xắn, đáng yêu, bản cung có ý sau khi việc này thành rồi sẽ nhận nó làm nghĩa nữ, như vậy hai bên đều có chỗ mà nương tựa. Tào tỷ tỷ thấy thế nào?”

Tào Tiệp dư cười vui vẻ, hái một nhành nghênh xuân quấn quanh cổ tay làm thành vòng tay. “Như vậy cả hai chúng ta đều có thể yên tâm rồi!” Nàng ta ngoảnh đầu nhìn sắc vàng xanh ngợp khắp khu vườn, khẽ nói tiếp: “Nương nương tiền đồ vô lượng, có một mẫu phi như vậy chiếu cố, ấy là cái phúc của Ôn Nghi.”

Tôi nhìn chiếc kẹp tóc vàng có đính con ve sầu ngọc bích trên mái tóc nàng ta, cười nói: “Vật này trông rất quen mắt, hình như ta đã từng nhìn thấy nó trong kho của Hoàng thượng, là vật Hoàng thượng thưởng cho tỷ tỷ sao?”

Hai má Tào Tiệp dư ửng đỏ, đáp: “Dạ. Chỉ là một thứ đồ chơi vặt vãnh mà thôi!”

Tôi nâng áo đứng dậy, khi đi qua bên cạnh nàng ta liền khẽ nở nụ cười, đặt hai bông nghênh xuân trong tay vào lòng bàn tay nàng ta, nắm lấy mấy ngón tay thon nhỏ, nõn nà kia, khẽ nói: “Bàn tay Tào tỷ tỷ trông đẹp quá. Có điều dùng hoa nhài để nhuộm móng tay chẳng qua chỉ xinh xắn mà thôi, nếu khảm hoa nghênh xuân lên móng tay thì mới thực là sáng tạo, nhất định sẽ được Hoàng thượng yêu thích hơn.”

Nàng ta nở nụ cười rạng rỡ, nhún gối tiễn tôi rời đi. “Đa tạ nương nương chỉ dạy!”

Tôi và Cận Tịch trở lại cung, nàng ta đuổi những người khác đi, có vẻ khá âu lo nói: “Tào Tiệp dư không hề đáng lo, nương nương hoàn toàn có thể khống chế được. Có điều phía Thái hậu…”

Tôi ngồi trước bàn trang điểm, gỡ cặp bông tai minh châu phỉ thúy xuống. Rời khỏi Di Ninh cung của Thái hậu đã lâu mà đến giờ lòng tôi vẫn còn thầm kinh sợ, cảm thấy Thái hậu hành xử, nói năng đều rất già dặn, bản thân căn bản không thể so sánh, do đó sự cảm phục và kính sợ trong lòng lại càng tăng thêm một phần.

Tôi khẽ nói: “Ta không hề can dự vào việc triều chính, điều này Thái hậu cũng biết, nếu không hôm nay đâu chịu dễ dàng buông tha cho ta. Hôm nay Thái hậu làm như vậy không phải là có ý trách cứ, mà muốn nhắc nhở ta chớ nên dính dáng tới những việc ở tiền triều, coi như là để phòng ngừa trước.” Tôi thở dài cảm thán: “Thái hậu tuy đã lâu không hỏi tới việc triều chính, cũng không can thiệp vào hậu cung nhưng dụng ý quả là sâu sắc. Chắc hẳn lão nhân gia người sợ ta giẫm lên vết xe đổ của Hoa Phi, do đó mới cố ý nhắc nhở ta như vậy.”

Cận Tịch nói: “Thái hậu sống trong cung đã lâu, trải việc rất nhiều, nương nương nhất định chớ nên đắc tội với Thái hậu.”

Tôi gật đầu, đáp: “Điều này là đương nhiên!”

Cận Tịch suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Nương nương phải tranh thủ tới chỗ Thái hậu nhiều một chút. My Trang tiểu chủ xem ra rất được lòng Thái hậu đấy!”

Tôi nói: “Tỷ ấy không còn trông mong Hoàng thượng sẽ giáng tội cho Hoa Phi nữa, quá nửa là đã nảy tâm tư với Thái hậu. Như vậy cũng tốt, có Thái hậu làm chỗ dựa thì đáng tin cậy hơn so với Hoàng thượng nhiều.”

Từ đó, tôi tuy có một chút tâm tư nhưng vì kiêng dè Thái hậu, do đó căn bản không dám tùy tiện dính dáng tới việc triều chính nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách