Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: thaonguyen1501
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 19-4-2016 12:55:01 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 21 (1)
Hoa rơi


Chiến sự ở tây nam cuối cùng cũng kết thúc với thắng lợi của Đại Chu, thu lại lãnh thổ bị mất từ lâu. Đối với vương triều và đế vương mà nói, đó là một vinh quang rất lớn. Ngày ban sư hồi triều, Huyền Lăng phong thưởng hậu hĩnh cho tướng sĩ, cũng là lúc ca ca công thành danh toại. Vũ tướng chỉ nhờ một trận thắng mà nổi danh, ca ca được phong là Phụng Quốc tướng quân, lại được vinh dự tứ hôn, có thể tính là tuổi trẻ tài cao. Đương nhiên, đây cũng là lúc thanh thế của Nhữ Nam vương Huyền Tể và gia tộc Mộ Dung đạt đến đỉnh cao hiển hách.

Huyền Tể cùng lúc hưởng hai bổng lộc thân vương, được phép cưỡi ngựa trong Tử Áo thành. Cha của Hoa Phi là Mộ Dung Huỳnh được phong làm nhất đẳng Gia Nghị hầu, con trưởng Mộ Dung Thế Tùng được phong làm Tĩnh Bình bá, con thứ hai Mộ Dung Thế Bách được phong làm Tuy Bình bá. Mẹ ruột của Hoa Phi là Hoàng thị cũng được đặc biệt chiếu cố, được phong làm chính nhị phẩm Bình Nguyên phủ Phu nhân, theo lệ của mẹ tứ phi. Trong hậu cung, Hoa Phi được sắc phong làm tòng nhất phẩm Tích Hoa Phu nhân, hưởng mọi tôn vinh, như mặt trời giữa trưa. Nhà mẹ đẻ quân công hiển hách, tay nắm đại quyền phụ trợ quản lý lục cung, lại được Huyền Lăng sủng ái, mặt nào cũng viên mãn tròn đầy, nàng ta chỉ có một tiếc nuối duy nhất là hiện giờ vẫn chưa sinh được một mụn con nói dõi.

Từ khi sức khỏe bình phục, My Trang không thích bước chân ra khỏi cửa, đối với sủng ái của Huyền Lăng thì ra vẻ có cũng được mà không có cũng chẳng sao, không được triệu thì không chủ động đến gặp. Hiện giờ tình thế cấp bách, My Trang dẫu nhẫn nhịn chịu đựng cách mấy, cuối cùng vẫn không thể giữ được bình tĩnh.

Hôm đó, My Trang đột ngột ghé qua cung của tôi. Nội giám bên ngoài vừa bẩm báo thì tỷ đã đi vào, đến cung nữ cũng chẳng kịp đỡ. Tôi thấy sắc mặt tỷ tái nhợt, khác hẳn ngày thường, biết ngay là tỷ có chuyện cần bàn bèn lệnh cho mọi người lui xuống.

My Trang cắn chặt môi, ngực phập phồng, sắc mặt vì phẫn nộ và không cam tâm mà đỏ bừng.

Tôi rót một chung trà Bích loa xuân đặt trước mặt tỷ, dịu giọng hỏi: “Tỷ tỷ lại gặp chuyện uất ức gì thế?”

My Trang cầm lấy chung trà nhưng không uống, hương trà vấn vít khiến khuôn mặt tỷ có chút mơ hồ, hồi lâu sau tỷ mới hậm hực thốt lên: “Hoa Phi…”

Tôi đảo mắt nhìn tỷ vẻ nhắc nhở rồi dịu giọng: “Tỷ tỷ, là Tích Hoa Phu nhân…”

My Trang không kìm nén được nữa, chung trà trong tay run lên, nước trà văng tung tóe. My Trang nghiến chặt răng, phì một hơi mạnh, mắng: “Tích Hoa Phu nhân ư?! Chỉ hận ta không có cha anh tài giỏi đi chinh chiến sa trường, để cho con tiện nhân ấy chiếm hết phần hơn!”

Tôi ung dung đứng dậy, đùa giỡn với con anh vũ lông trắng muốt một màu đang đậu trên khung vàng, tủm tỉm cười, bảo: “Tỷ tỷ không cần quá tức giận như vậy đâu. Tích Hoa Phu nhân quyền thế ngang trời như thế, khiến cho muội nhớ tới chuyện Ngọc Ách Phu nhân thời tiên hoàng.”

My Trang không hiểu, cau mày trầm ngâm. “Ngọc Ách Phu nhân ư?”

Tôi thêm thức ăn và nước uống cho con anh vũ, sửa sửa đóa hoa hạt châu cài ở mép tóc, chậm rãi giải thích: “Ngọc Ách Phu nhân là mẹ ruột của Nhữ Nam vương, em gái út của Bác Lăng hầu. Năm Long Khánh thứ mười, Bác Lăng hầu mưu phản, Ngọc Ách Phu nhân bị liên lụy nặng nề, mất đi sự sủng ái, uất ức rồi chết.” Tôi mỉm cười bình thản. “Cũng vì lý do này mà Ngọc Ách phu nhân đến phong hiệu Thái Phi cũng không có, cho đến giờ vẫn chưa được đưa vào thái miếu nhận cúng bái.”

My Trang cười khổ. “Nhà Mộ Dung sao lại đi làm chuyện mưu phản cơ chứ?”

Tôi mỉm cười lạnh lẽo. “Cần gì phải mưu phản? Công cao chấn chủ là đủ rồi, huống hồ bọn họ không mưu phản không có nghĩa là Nhữ Nam vương chịu ngồi yên.”

My Trang lúc này mới lộ nét cười, bảo: “Tỷ cũng nghe được loáng thoáng, mấy năm gần đây Nhữ Nam vương bắt đầy trở nên hống hách, ngang ngược, từng mắng chửi văn quan ngay chốn triều đình, vương phủ lại hưởng thụ cực kỳ xa hoa. Trong triều, ngoài nội ai cũng chê trách, ngự sử đồng loạt dâng biểu phản đối, Hoàng thượng chỉ cười cho qua, càng lúc càng hậu đãi y.”

Tôi mỉm cười không đáp, lúc nhỏ đọc Tả truyện, đến đoạn Trịnh Bá diệt Đoạn nước Trịnh, Khương phu nhân thiên vị con út là Thúc Đoạn, muốn đoạt lấy ngôi vua của Trịnh Trang Công. Trang Công liên tục khoan dung, thần tử khuyên ngăn, y chỉ bảo: “Kẻ bất nghĩa sẽ tự diệt vong, ta chỉ cần chờ đợi mà thôi.” Đợi đến lúc Thúc Đoạn khiến người người căm phẫn, chuyện ác đầy người, y mới ra tay giết chết. Tuy người đời sau hết sức coi thường cách ứng xử bạc bẽo của Trang Công với người em ruột thịt, nhưng đối với bậc đế vương mà nói thì kế sách này không tệ chút nào.

Ngày trước Huyền Lăng vờ cười cợt hỏi ý tôi chuyện Nhữ Nam vương ngông cuồng không coi ai ra gì, tôi chỉ cầm quyển Tả truyện đọc lớn chuyện của Trang Công cho y nghe, Huyền Lăng tủm tỉm cười, khen: “Ý của khanh giống hệt của trẫm.”

Hiện giờ mọi ân sủng như lửa đổ thêm dầu thế kia, chỉ vì một câu: “Chờ nó tự diệt vong.”

Tôi mỉm cười, cúi đầu. “Vết loét phải thối rữa đến độ nhất định thì mới có thể dùng dao khoét. Cứ để mặc nó tha hồ hoành hành, thối rữa càng sâu, khi khoét ra sẽ càng sạch sẽ.” Thấy My Trang hơi trầm ngâm, tôi bèn mở lời khuyên tỷ: “Tỷ tỷ dạo gần đây hình như đối xử với Hoàng thượng hết sức lãnh đạm thì phải.”

My Trang cười nhàn nhạt. “Hỏi tỷ sao có thể dịu dàng hầu hạ, lấy lòng y nữa chứ? Hoàng thượng đối với tỷ chẳng qua chỉ là thích thì gọi, không thích thì đuổi mà thôi.”

Nụ cười của tôi tắt dần, tôi chỉ nói một câu: “Không có sự ân sủng của Hoàng thượng, sao tỷ tỷ lật đổ được Tích Hoa Phu nhân cơ chứ? Càng không có được sự sủng ái thì càng dễ bị người khác coi thường. Tỷ tỷ đã trải qua một lần rồi, chẳng lẽ còn phải đợi muội muội nhắc nhở hết lần này đến lần khác hay sao?”

Đôi mắt sáng của tỷ hơi nhướng lên, thoáng vẻ cười mà chẳng cười, tỷ hỏi: “Muội hy vọng tỷ được sủng ái lắm sao?”

Thời tiết vào độ cuối tháng Tư, bắt đầu hơi nóng, đến hương hoa cũng có phần quá ngọt ngào, một nhành hoa đồ mi trắng muốt lả lơi nằm xiên ngoài song cửa. Đồ mi nở là hoa sắp tàn hết, ngày xuân sắp trôi qua rồi. Trong phòng có phần yên tĩnh, chỉ nghe thấy sợi dây xích bằng vàng dưới chân anh vũ kêu leng keng. Nước trà xanh biếc trong chung của My Trang nhìn chẳng khác nào viên ngọc bích lưu ly thượng hạng, lấp lánh ánh xanh. Lòng tôi gợn sóng, hồi lâu sau mới đáp lại lời tỷ: “Chẳng lẽ muội lại muốn nhìn thấy cảnh tỷ bị đối xử lạnh nhạt hay sao?” Tôi dừng lại một thoáng. “Dạo gần đây, tỷ tỷ có vẻ xa lạ với muội, là vì muội mang thai khiến cho tỷ tỷ đau lòng ư?”

My Trang lắc đầu. “Tỷ không phải là người như thế, muội đừng nghĩ quẩn.” Tỷ ấy nói tiếp: “Tỷ đối với muội vẫn như trước kia mà thôi, lời muội khuyên, tỷ sẽ luôn ghi nhớ.”

Tôi tiễn My Trang ra đến tận nghi môn, ánh mặt trời ấm áp, cung tường đỏ thắm đổ bóng ngang dọc, bốn bề thược dược, đỗ quyên nở rộ như gấm thêu hoa, My Trang mặc chiếc áo gấm thêu lá đào màu đỏ son, đi giữa cảnh sắc hoa lệ, gió nhẹ từ bốn bề thổi tới, trong ánh xuân xế chiều, tôi chợt cảm thấy bóng lưng của tỷ ấy có vẻ tiêu điều, ủ ê, khiến lòng người buồn man mác.

Bao năm nay, vào độ tháng Năm, Hoàng thượng đều đến Thái Bình hành cung để tránh nắng, đến trước Trung thu mới hồi cung. Năm nay vì bệnh dịch trong dân gian vẫn chưa hết, sợ nó lại quấy nhiễu, hơn nữa, sau khi chiến sự kết thúc, còn có vô số chính sự cần lo liệu, thế là Hoàng thượng bèn lưu lại Tử Áo thành, thế cũng đỡ cho tôi và Đỗ Lương viện đang mang thai mà phải ngồi xe ngựa vất vả.

Cái chết của Thuần Nhi khiến tôi buồn bực, kém vui một thời gian dài, My Trang trừ phi được gọi thì rất ít khi ra ngoài, Lăng Dung bị khan tiếng lại càng không muốn gặp ai, rất ít khi ghé qua chỗ tôi. Chỉ còn mỗi Kính Phi vẫn thường sang ngồi chơi chuyện gẫu.

Huyền Lăng sợ tôi buồn bã ảnh hưởng đến sức khỏe và đứa bé trong bụng, bèn nghĩ ra trăm phương ngàn kế để tôi chịu mỉm cười, thưởng cho tôi rất nhiều đồ chơi mới lạ, lại lệnh cho phủ Nội vụ tìm một con anh vũ trắng để tôi giải sầu, cho phép anh trai tôi dẫn theo tẩu tẩu vừa mới cưới ba ngày sau vào cung gặp gỡ.

Thời gian ba ngày trôi qua thật nhanh.

Sáng sớm hôm đó, sau khi ra mắt Hoàng thượng, ca ca liền dẫn theo tẩu tẩu là Tiết Thiến Đào đến cung của tôi.

Ca ca và tẩu tẩu biết tôi vừa được tấn phong là Hoàn Quý tần nên vừa gặp đã lập tức cúi đầu, làm lễ thỉnh an: “Quý tần nương nương kim an!”

Mắt tôi nóng lên, tôi vội nghiêng mặt, dùng khăn tay lau khô rồi tươi cười đích thân đỡ bọn họ đứng dậy, bảo: “Khó khăn lắm mới đến đây được, cứ khách sáo thế này chẳng phải muốn làm cho muội đau lòng hay sao?”

Sau đó, tôi lệnh cho người khênh ghế tới ban ngồi, hỏi: “Cha và mẹ vẫn khỏe cả chứ?”

Ca ca đáp: “Cha mẹ vẫn khỏe, hôm nay vào cùng, còn đặc biệt dặn dò huynh thay hai người họ vấn an nương nương.”

Mắt tôi lại đỏ lên, tôi gật đầu. “Muội ở trong cung mọi chuyện đều tốt cả, cha mẹ khỏe mạnh thì muội yên tâm rồi. Ca ca quay về nhất định phải dặn dò cha mẹ giữ gìn sức khỏe, có như vậy muội mới an lòng.”

Tẩu tẩu lại bước lên thỉnh an tôi: “Tất cả đều nhờ vào hồng phúc của nương nương. Cha mẹ nghe nói nương nương đã mang thai, lại được tấn phong làm chủ tử, thực vô cùng vui sướng. Mẹ ở nhà ngày đêm vì nương nương mà cầu phúc, mong cho nương nương sinh được con trai.”

Tôi chăm chú quan sát vị tẩu tẩu này, vì mới thành hôn nên nàng ta mặc chiếc váy bằng vân đoạn màu đỏ hoa đào thêu trăm bướm xuyên hoa bằng chỉ kim tuyến. Người cũng như tên, trông hệt như một cành hoa đào sắc đỏ rực rỡ. Không có vẻ mỹ lệ khác thường nhưng bề ngoài tươi tắn, lúc vui, lúc giận đều rất có duyên.

Tôi thầm gật đầu hài lòng, tính tình của Lăng Dung kín đáo, vị tẩu tẩu này của tôi lại có phần sảng khoái, cởi mở, ánh mắt đúng mực nền nã, có phong thái của bậc khuê tú nhà quan, xem ra có thể quản lý mọi việc ở Chân phủ, chia sẻ nỗi vất vả với mẹ. Tôi hết sức vui lòng, bảo: “Phụ thân của tẩu tẩu, Tiết Tòng Giản đại nhân thanh danh rất tốt, muội tuy ở trong cung cũng từng nghe nói đến. Hoàng thượng thường bảo nếu ai ai làm quan cũng được như Tiết đại nhân thì triều đình chẳng còn gì đáng lo cả.”

Tẩu tẩu vội khiêm tốn thưa: “Hoàng thượng thương tình quan trong triều, phải cố mà học tập nhạc phụ đại nhân mới được.”

Ca ca chỉ mỉm cười cho qua chuyện, nhưng tẩu tẩu lại quay đầu, cười thật tươi với y, để lộ hàm răng trắng muốt như ngọc. Trước phong thái của tẩu tẩu, ca ca chợt đỏ mặt.

Trước khi ca ca đến nơi, tôi còn có đôi chút không yên, y chưa từng gặp qua tẩu tẩu lần nào, chỉ e vợ chồng không hòa hợp, tương lai không thể sống thuận hòa. Lúc ấy, tôi chọn nàng ta trong danh sách, một là vì phụ thân nàng ta có chút thanh danh, hai là lúc còn ở khuê trung đã từng nghe vài chuyện có liên quan đến tẩu tẩu, biết đây là người dễ tính, thoải mái. Nhưng chưa gặp mặt lần nào mà cứ chọn bừa thì cuối cùng cũng có chút tùy tiện. Giờ chính mắt nhìn thấy, xem ra là tôi đã quá lo xa rồi. Một nữ nhân thích cười, lại biết nói chuyện như tẩu tẩu, dẫu lúc đầu chẳng có tình ý gì, sống chung với nhau lâu dài thì cuối cùng cũng sẽ hòa hợp thôi.

Ca ca chỉ vào hộp đồ ăn trên trác, bảo: “Mẹ nói muội muội mang thai chỉ sợ không ăn uống gì được, mấy món này là ở nhà làm đem đến đây, đều là những món muội muội thích ăn thuở xưa.”

Tôi mỉm cười nhận lấy, lệnh cho Lưu Chu bưng xuống phòng bếp.

Đang lúc trò chuyện, Lăng Dung sai Cúc Thanh ghé sang, nói là muốn tặng ít lễ vật chúc mừng lễ thành hôn của huynh tẩu tôi, là tám tấm cung đoạn do Hoàng thượng ban thưởng: lục tố tuyết và đoạn vân phi, đến thẻ vàng ghi chữ ban thưởng vẫn còn chưa gỡ ra. Số cung đoạn này đều dệt bằng sợi vàng, sợi bạc, trên có thêu hoa, lấp lánh chói mắt. Lăng Dung hiện giờ thất sủng, chút lễ vật này hẳn là nàng ta đã dốc hết vốn riêng mới có được, tôi không khỏi cảm thấy cảm kích.

Cúc Thanh thưa: “Tiểu chủ vốn định đích thân ghé qua nhưng sức khỏe thực sự không tốt, đành bảo nô tỳ đi một mình. Tiểu chủ nói muốn nô tỳ thay mặt chúc Chân đại nhân và Chân đại nãi nãi trăm năm hòa hợp, sớm sinh quý tử, lại nhờ hai vị hỏi thăm sức khỏe của Chân lão đại nhân và lão phu nhân.”

Ca ca, tẩu tẩu đều biết người mang lễ vật thông thường đều là cung nữ có tiếng của phi tần, Cúc Thanh lại ăn nói khách sáo như vậy, bọn họ bèn đỡ Cúc Thanh, bảo: “Không dám nhận lễ của cô nương.”

Tôi có chút cảm thương, Lăng Dung tựa hồ vẫn còn chút vấn vương với ca ca, hiện giờ nói ra câu “trăm năm hòa hợp, sớm sinh quý tử”, hẳn là khó chịu lắm.

Ca ca hơi ngẩn ra, hỏi lại: “An Mỹ nhân không được khỏe sao?”

Cúc Thanh mỉm cười, thưa: “Tiểu chủ chưa khỏi hẳn bệnh phong hàn…” Cúc Thanh lúc trước từng hầu hạ trong cung của tôi, thấy tôi yên lặng chăm chú nhìn mình thì hiểu ra ngay, vội thưa: “Không có gì đáng ngại cả, phiền đại nhân đã quan tâm.”

Ca ca chỉ thưa: “Vậy mong tiểu chủ nhà người an tâm dưỡng bệnh.”

Tẩu tẩu thấy lễ vật trọng hậu, hơi lộ vẻ nghi hoặc, tôi vội giải thích: “Vị An Mỹ nhân này cùng tiến cung một lượt với muội, trước khi vào cung từng ở lại nhà chúng ta một thời gian ngắn, cho nên thân mật như huynh muội.”

Chẳng bao lâu sau, My Trang cũng sai người đưa lễ vật đến, đều là gấm đoạn, hết sức tinh xảo, đẹp đẽ.

Giữ ca ca và tẩu tẩu ở lại cùng dùng bữa trưa xong, tôi lại gặp riêng tẩu tẩu, tâm sự thân mật, cho tẩu tẩu biết những sở thích ăn uống và thói quen của ca ca, mong phu thê họ hạnh phúc ái ân. Tôi lại bảo: “Ca ca hiện giờ bận bịu việc công, mong tẩu tẩu có thể thông cảm, chăm sóc ca ca nhiều hơn.”

Nửa ngày trôi qua, tôi và tẩu tẩu đã trở nên hết sức thân thiết. Tôi đích thân mở hộp nữ trang, lấy ra đôi hoa tai dạ minh châu, hoa tai là kiểu mới trong cung, không có gì đặc biệt, chỉ có hai hạt dạ minh châu đáng giá ngàn vàng. Tôi bảo: “Tẩu tẩu vừa mới đến nhà của muội, đôi hoa tai minh châu này miễn cưỡng nhìn tạm được, nay tặng cho tẩu tẩu để thêm vào hộp trang sức vậy.” Tôi ra lệnh cho người bưng ra lễ vật toàn châu ngọc trù đoạn, bảo huynh tẩu cùng đem về.

Đêm xuống, thay đổi y phục, tôi gọi Lưu Chu và Hoán Bích vào, chia những món quà huynh tẩu đem đến hồi sáng cho bọn họ, số còn lại thì chia đều cho những người khác. Sau đó, tôi giữ lại một mình Hoán Bích, rút ra một chiếc nhẫn bằng dương chi bạch ngọc, bảo: “Những thứ khác ngươi và Lưu Chu đều có cả, đây là món quà cha bảo ca ca mang tới, đặc biệt cho ngươi. Cha nói sợ ngươi tương lai rời cung thì vốn riêng không được là bao.” Tôi đích thân đeo nhẫn vào ngón tay của nàng ta, mỉm cười. “Thực ra cha đã quá lo xa rồi. Cũng là do cha tiếc nuối không thể đưa bài vị của mẹ ngươi vào gia miếu, lại không thể công khai nhận ngươi làm con, ngươi cũng nên thông cảm cho cha một chút.”

Hai mắt Hoán Bích ửng đỏ, ầng ậng nước. “Trước giờ muội chưa hề trách cha.”

Tôi thở dài một hơi. “Về sau ta nhất định sẽ tính toán, lo liệu cho ngươi, hoàn thành tâm nguyện của ngươi.” Hoán Bích khẽ gật đầu biết ơn.

Tôi nhớ đến những chuyện xảy ra gần đây trong cung, lại nghĩ đến chuyện cung điện bỏ hoang sau cái chết của Thuần Nhi, trong lòng buồn bực, chẳng vui. Mở toang cửa sổ, màn đêm như nước, hoa lê bay lả tả tựa tuyết rơi dào dạt, khiến cả đình viện phủ một màu trắng muốt. Gió xuân nhẹ nhàng lướt qua mặt, cánh hoa chao chao rơi nhẹ.

Tôi khẽ thở dài, thì ra ngày hoa nở cũng là lúc hoa tàn. Hoa nở, hoa tàn, chẳng qua cũng là nhờ sự chiếu cố nhỏ nhoi vô tình của thần Xuân hay thần Đông mà thôi.

Ngày tháng cứ thế dần trôi, thời gian thấm thoát thoi đưa, đã đến tháng Năm năm Càn Nguyên thứ mười bốn. Mọi việc trong cung vẫn giữ vẻ ngoài sóng yên gió lặng như cũ. My Trang dần thu lại thái độ lãnh đạm với Huyền Lăng, bắt đầu giành được đôi chút sủng ái, nhưng cuối cùng, trước khí thế mạnh mẽ của Tích Hoa Phu nhân, thêm vào chuyện tôi và Đỗ Lương viện mang thai, chút sủng ái đó cũng chẳng đáng kể gì.

Tôi yên tâm dưỡng thai, Lăng Dung lặng lẽ dưỡng bệnh, My Trang từng chút, từng chút phục sủng, Kính Phi chỉ tập trung vào sự vụ lục cung mà mình cần lo liệu, dẫu cho Tích Hoa Phu nhân chiếm trọn vinh hoa, tìm mọi cách độc chiếm Hoàng thượng, chẳng ai dám gây hấn với nàng ta vào lúc này. Dưới sự thống trị tuyệt đối của Tích Hoa Phu nhân, hậu cung dè dặt duy trì vẻ ngoài yên ả.

Nhưng cuối cùng cũng có một chuyện bất ngờ xảy ra, gây nên sóng gió ngất trời, phá hủy vẻ yên ả giả tạo ngắn ngủi ấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 19-4-2016 12:57:00 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 21 (2)
Hoa rơi


Đỗ Lương viện là nữ nhân rất có tài nhõng nhẽo, vòi vĩnh, huống hồ hiện giờ lại có thai rồng làm chỗ dựa. Theo lệ thì tần phi mang thai có thể được thăng cấp một lần, sau khi sinh, dẫu là trai hay gái thì sẽ được tấn phong thêm lần nữa. Nhưng đang vào giữa tháng Năm, Huyền Lăng đột nhiên ban ý chỉ, tấn phong Đỗ thị làm Điềm Tần. Nhờ mang thai được tấn phong hai lần liên tục là chuyện chưa bao giờ xảy ra ở triều Càn Nguyên này, khó tránh khỏi mọi người bàn tán xôn xao. Họ ngầm đoán rằng Điềm Tần đã mang thai được bốn tháng, hẳn đã đoán ra đứa trẻ trong bụng là hoàng tử, còn Huyền Lăng, hiện giờ con nối dòng thưa thớt nên mới đặc biệt coi trọng như vậy.

Ân huệ lớn lao như thế đương nhiên là khiến Tích Hoa Phu nhân hết sức bất bình. Nhưng nàng ta không con không cái, không tiện mở miệng kiên quyết phản đối. Hơn nữa, Huyền Lăng lại rất chiều chuộng Đỗ Lương viện, nàng ta chỉ có thể thầm oán hận mà thôi.

Người trong hậu cung vốn đã đỏ mắt vì chuyện Điềm Tần mang thai, thấy tình thế như vậy thì càng ghen ghét, đến cẩn thận như Cẩn Phi cũng phải bình phẩm vài câu: “Thai mới bốn tháng làm sao biết được là con trai hay con gái cơ chứ? Lúc thần thiếp mang thai hoàng trưởng tử đến tháng thứ sáu, thái y phán đoán là con trai, Hoàng thượng cũng chỉ theo lệ lúc thần thiếp vừa có tin mừng, phong thưởng làm Quý tần, chứ không hề phá lệ gì cả.”

Hoàng hậu thò tay nhón lấy một quả anh đào, bỏ vào miệng, sau đó mới chậm rãi giải thích: “Điềm Tần ba lần bảy lượt than thở động thai khó chịu, Hoàng thượng làm vậy cũng chỉ để an ủi nàng ta mà thôi. Vì con nối dòng cho hoàng gia, bản cung không hề phản đối.”

Hoàng hậu đã nói như vậy thì người khác cũng không gièm pha gì thêm. Tích Hoa Phu nhân than phiền, Hoàng hậu cũng nhắm mắt làm lơ. Nhưng đến khi không nhịn được nữa, Hoàng hậu chỉ tươi cười nói: “Tích Hoa Phu nhân hiện giờ được Hoàng thượng sủng ái như vậy, cũng đến lúc sinh cho Hoàng thượng một tiểu hoàng tử rồi. Vì sao lại để cho hai muội muội mới đến đi trước một bước thế?” Tích Hoa Phu nhân lập tức biến sắc mặt, không nói thêm được gì.

Còn Điềm Tần sau khi được tấn phong thì càng đắc ý, hay giở trò nũng nịu.

Ban đêm, tôi hơi cảm thấy choáng váng, Huyền Lăng bèn lưu lại Oánh Tâm điện cùng tôi nghỉ ngơi. Y đang định thay áo đi ngủ, bên ngoài chợt có người đến thông báo, nói là nội giám trong cung của Điềm Tần có chuyện cần bẩm báo, giọng điệu của người báo tin rất sốt ruột, giữa đêm khuya càng the thé, khó nghe: “Điềm Tần tiểu chủ vừa định đi ngủ thì cảm thấy thai động không được yên, rất muốn gặp Hoàng thượng, xin Hoàng thượng ghé qua xem thử.”

Huyền Lăng đã khoác một tay vào chiếc áo ngủ, nghe vậy thì dừng lại, quay đầu nhìn tôi. Tôi đã nằm nghiêng trên giường, thấy có vẻ chần chừ bèn cười, bảo: “Hoàng thượng cứ đi đi, thần thiếp không sao đâu.”

Y ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu. “Nàng cũng không được khỏe mà, để thái y đến chăm sóc nàng ta được rồi!”

Tôi mỉm cười. “Điềm muội muội có thai sớm hơn thần thiếp, dạo gần đây hay cảm thấy thai động không yên, muội ấy có thai lần đầu, hẳn là rất sợ hãi, Hoàng thượng gần gũi muội ấy nhiều hơn một chút cũng đúng mà!”

Y có vẻ áy náy, cười, bảo: “Người chịu thông cảm như nàng thật khó kiếm.”

Tôi vuốt vuốt lọn tóc nơi thái dương, cụp mắt, thưa: “Đó là bổn phận của thần thiếp mà.”

Y dặn dò Cận Tịch: “Chăm sóc nương nương nhà ngươi cho thật tốt, nếu có gì không ổn thì phải lập tức bẩm báo cho trẫm biết.”

Cận Tịch tiễn Huyền Lăng ra ngoài, quay lại thấy tôi đã ngồi dậy, bèn hỏi: “Nương nương cảm thấy khó chịu à?”

Tôi đáp: “Không có gì, chỉ là hơi tức ngực một chút!”

Cận Tịch bưng một chén tổ yến hầm sữa tươi đến, khuyên tôi: “Nương nương đừng tức giận loại người như Điềm tiểu chủ làm gì, không đáng đâu.” Nàng ta đặt chén tổ yến vào tay tôi. “Đây là tổ yến mà Thái hậu nương nương ban thưởng lần trước, cho thêm sữa tươi, ăn vào sẽ ngủ ngon hơn, nương nương dùng đi ạ!”

Tôi múc một thìa tổ yến, mỉm cười, lắc đầu. “Hoàng thượng phá lệ tấn phong nàng ta, nàng ta đã bị mọi người ghen ghét lắm rồi. Đến giờ mà vẫn không biết trời cao đất rộng, thật không biết nên cười nàng ta ngu xuẩn hay ngây thơ nữa, đúng là bùn nhão không thể trát tường. Ta đương nhiên sẽ không tức giận vì một kẻ vô dụng như vậy.”

Cận Tịch mỉm cười, thưa: “Nương nương nói đúng lắm! Chỉ là nô tỳ cho rằng, từ khi Điềm tiểu chủ mang thai đến giờ, đây là lần thứ ba nàng ta mời Hoàng thượng thế này rồi, như thế thì quá đáng thật!”

Tôi chỉnh lại y phục, ngáp một cái. “Nàng ta hết lần này đến lần khác chỉ biết dùng mỗi chiêu này, dùng nhiều lần thì Hoàng thượng đương nhiên sẽ cảm thấy bực bội, không cần chúng ta phải nhúng tay đâu. Không nói đến nàng ta nữa, chúng ta ngủ thôi!”

Hôm sau, Huyền Lăng ghé thăm, tôi thấy y có vẻ mệt mỏi, không khỏi lo lắng hỏi: “Điềm muội muội bị động thai khó chịu lắm sao? Hoàng thượng hẳn là an ủi muội ấy đến khuya nên không ngủ được yên giấc chứ gì, đến quầng thâm mắt cũng thâm đen rồi kìa.”

Y cười khổ. “Có chuyện gì đáng kể đâu cơ chứ, lại giở trò giận dỗi, trách trẫm đến quá trễ, lại than thở buồn nôn, làm loạn khiến trẫm nhức đầu quá!”

Tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra nhưng chỉ lên tiếng khuyên nhủ: “Mang thai thì tính tình không khỏi có phần khó chịu, thần thiếp cũng hay giận dỗi đó thôi, Hoàng thượng chẳng phải lúc nào cũng chiều chuộng, thông cảm hay sao? Thế thái y không nói lý do vì sao Điềm muội muội cảm thấy không khỏe ư?”

Y chau mày. “Thái y nói thai động một chút cũng là bình thường thôi, chỉ là bữa tối nàng ta ăn nhiều quá nên mới bị buồn nôn.”

Cứ năm lần bảy lượt như vậy, Huyền Lăng tính tình có bao dung đến đâu thì cũng không tránh khỏi bực bội.

Hậu cung đông người, lắm miệng, Điềm Tần mấy lần lôi kéo Huyền Lăng ra khỏi cung của tôi, cung nhân, phi tần thấy nàng ta ngang ngược như vây, sau lưng càng gièm pha nàng ta nhiều hơn, đến Hoàng hậu cũng không thể không mở miệng trách móc: “Điềm Tần dẫu cảm thấy không được khỏe thì cũng nên biết điều một chút, dẫu không để ý đến chuyện Hoàn Quý tần cũng cần dưỡng thai nghỉ ngơi thì cũng phải quan tâm đến chuyện Hoàng thượng cần dậy sớm lâm triều, không thể nửa đêm mà còn phải chạy đi chạy lại như thế được.”

Hoàng hậu ngẫm nghĩ một lát bèn ra lệnh: “Tìm một người dạy dỗ đạo lý cho nàng ta vậy, Tích Hoa Phu nhân và Kính Phi phải phụ trợ quản lý sự vụ lục cung, đương nhiên không rảnh rỗi rồi. Cứ như vậy đi, Cẩn Phi, ngươi tính tính ôn hòa, ngươi tới, từ từ giải thích cho nàng ta hiểu.” Nàng ta lại dặn dò Cẩn Phi: “Nàng ta đang mang thai, không tiện nói nặng lời. Bản cung biết ngươi nói năng mềm mỏng, cứ từ từ giải thích cho nàng ta là được, cứ bảo là ý của bản cung.”

Cẩn Phi vốn không muốn tham gia, nhưng Hoàng hậu đã ra lệnh thì đương nhiên không thể từ chối, đành vâng lời. Sau đó, mọi người cáo từ ra về.

Huyền Lăng bực mình với Điềm Tần, không có chuyện gì thì đương nhiên chẳng muốn đặt chân đến cung của nàng ta. Đêm nay, y nghỉ lại ở cung của tôi. Ngủ đến nửa đêm thì chợt có người đến gõ cửa điện, ban đầu chỉ gõ khe khẽ mấy tiếng, rồi dần dần liên tục, gấp gáp.

Tôi giật mình tỉnh giấc, vội khoác áo ngồi dậy, hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Cận Tịch tiến vào, cau mày, hạ giọng thưa: “Là người trong cung của Điềm tiểu chủ đến bẩm báo, nói là tiểu chủ từ khi trời tối đã cảm thấy đau bụng, không sao chịu nổi nên vội vã chạy đến mời Hoàng thượng đến thăm xem sao.”

Bội Nhi theo sau lưng Cận Tịch, bĩu môi ra vẻ khinh thường: “Lại trò này nữa sao? Nàng ta chưa chán thì bọn ta cũng chán rồi. Lần nào cũng làm loạn lên, có để cho người khác ngủ hay không đây!”

Cận Tịch im lặng lườm cô nàng một cái, Bội Nhi lập tức ngậm miệng, không dám nói gì thêm.

Tôi vẫn còn lơ mơ chưa tỉnh hẳn, định đuổi người đó đi cho xong việc, nhưng chợt cảm thấy có gì không ổn. Trưa hôm nay Hoàng hậu vừa lệnh cho Cẩn Phi đến dạy dỗ nàng ta, dẫu Điềm Tần có ngu ngốc đến mức nào đi nữa thì cũng không thể “Biết sai cứ làm” ngay trong đêm nay, chẳng lẽ quả thực có gì đó không ổn hay sao? Tuy Huyền Lăng đã dặn dò tôi không cần để ý tới nàng ta, nhưng nếu tôi biết mà không báo, Điềm Tần quả thực xảy ra chuyện thì tôi không khỏi mang tội.

Thế là tôi bèn đánh thức Huyền Lăng, nhỏ nhẹ báo tin cho y biết. Y đang ngủ say, bị làm phiền như vậy thì hết sức bực bội. Y xoay người quay sang nội giám báo tin ở bên ngoài điện, giận dữ quát: “Tại sao lần nào trẫm ngủ rồi thì nàng ta cũng cảm thấy không khỏe như thế? Ra lệnh cho thái y để ý chăm sóc là được rồi!”

Tên nội giám ngoài cửa ngần ngừ vâng dạ nhưng rồi lại thưa: “Tiểu chủ quả thực cảm thấy rất khó chịu, bởi hôm nay Cẩn Phi nương nương có ghé qua nên vẫn cố gắng chịu đựng, không dám sai người đến bẩm báo ngay…”

Huyền Lăng nổi giận, thuận tay tóm lấy gối tựa bên cạnh, ném ra ngoài, quát: “Cút!” Tên nội giám sợ chết khiếp, vội vàng lui xuống.

Tôi thấy Huyền Lăng giận dữ như vậy cũng giật bắn mình, vội châm trà mời y dùng. Huyền Lăng vẫn chưa hết giận, bảo: “Nàng ta ít giở trò tà đạo đi thì đương nhiên sẽ đỡ đau bụng, buồn nôn hẳn.”

Tôi không dám khuyên nhủ thêm, bỏ thêm một nắm An tức hương vào lò hương, thưa: “Hoàng thượng ngủ đi, sáng mai còn có buổi chầu sớm.”

Tôi cũng nằm xuống bên cạnh y nhưng không hiểu vì sao trong lòng lại cảm thấy bất an. Đã lâu lắm rồi trời không mưa, không khí khô hanh, khó chịu, tôi trằn trọc, lăn lộn hồi lâu mới mơ hồ chìm vào giấc ngủ.

Đang lúc mơ màng, tôi lờ mờ nghe thấy có một tiếng kêu thét hết sức thê lương xuyên thủng màn đêm.

Tôi giật bắn mình, tưởng mình nghe nhầm, quay người ôm lấy Huyền Lăng. Y vẫn đang say ngủ, hơi thở trầm trầm.

Nhưng yên lặng chẳng được bao lâu, tiếng bước chân rối loạn hấp tấp đã vang lên bên ngoài điện, sau tiếng đập cửa thì không phải giọng the thé đặc thù của nội giám mà là tiếng gọi hoảng loạn của nữ nhân.

Lần này thì Huyền Lăng cũng phải giật mình tỉnh giấc.

Người đến là chủ vị của cung Điềm Tần, Lục Chiêu nghi. Người này đã thất sủng từ lâu, tôi chưa có dịp nào nói chuyện với nàng ta. Nàng ta chạy ào vào mang theo làn gió đêm lạnh lẽo, khuôn mặt tái nhợt vì sợ hãi, tin tức đem đến càng khiến cho người khác kinh hoàng, nàng ta nức nở, nghẹn ngào thưa: “Điềm Tần sảy thai rồi!”

Huyền Lăng sững người, không thể tin nổi, quay đầu lại nhìn tôi rồi lại nhìn Lục Chiêu nghi, ngẩn ra một lát rồi nói gần như gào lên: “Đang yên đang lành, vì sao lại bị sảy thai?! Chẳng phải đã lệnh cho thái y chăm sóc rồi sao?”

Tôi trong lòng chấn động rồi lại cảm thấy bất ngờ. Trong lúc chấn động bất ngờ ấy, tôi không khỏi cảm thấy sợ hãi, theo bản năng đưa tay vuốt ve bụng. Lục Chiêu nghi bị vẻ mặt của Huyền Lăng làm cho khiếp hãi, ngẩn ngơ không dám khóc nữa, thưa: “Thần thiếp cũng không biết, ban ngày Điềm Tần vẫn còn khỏe mạnh, đêm vừa xuống thì bắt đầu đau bụng… hiện giờ máu chảy không dứt, đã ngất xỉu rồi.” Nàng ta ngước mắt lén quan sát vẻ mặt đầy giận dữ và nóng ruột của Huyền Lăng, giọng dần nhỏ đi: “Chỗ Điềm Tần từng phái người đến bẩm báo Hoàng thượng…”

Huyền Lăng ngực hơi phập phồng, tôi không dám nói nhiều, vội vã hầu hạ y mặc quần áo, nhỏ nhẹ khuyên: “Giờ không phải là lúc tức giận, Hoàng thượng mau sang đó xem thử!”

Huyền Lăng không trả lời tôi, cũng chẳng nói tiếng nào, gọi khẽ một tiếng: “Bội Quân!” rồi đi thẳng ra ngoài, không thèm quay đầu lại, khiến cho đám nội giám, cung nữ hốt hoảng, vội vã chạy đuổi theo.

Tôi ngẩn ngơ đứng ở bậc cửa, nỗi đau đớn trĩu nặng từ từ lan tỏa khắp tâm can, chẳng hề cảm nhận được làn gió đêm lạnh lẽo đang thốc thẳng vào người. Cận Tịch lẳng lặng khoác áo choàng ấm cho tôi, khẽ khàng khuyên: “Đêm khuya gió lạnh, xin nương nương vào bên trong điện đi thôi!”

Tôi yên lặng đứng đó, giọng nói bi thương như màn đêm, chầm chậm bảo: “Ngươi xem xem, Hoàng thượng quan tâm đến Điềm Tần như thế…”

Giọng của Cận Tịch bình thản, ấm áp, nàng ta đóng cửa điện lại, nói chậm rãi: “Hoàng thượng quan tâm đến con nối dòng chứ không phải là Điềm Tần tiểu chủ. Nương nương nói như vậy đúng là quá coi trọng Điềm Tần tiểu chủ rồi!”

Tôi lập tức bừng tỉnh rồi bất giác buồn bã mỉm cười. “Xem ra ta hồ đồ rồi, thấy Hoàng thượng sốt ruột như vậy nên ta cũng nghĩ vớ nghĩ vẩn.”

Cận Tịch đỡ tôi đến bên giường, ngồi xuống rồi thưa: “Tình hình bên đó như thế, nương nương đang mang thai, không sang xem được đâu, sẽ bị ảnh hưởng đấy. Hay là để nô tỳ hầu hạ nương nương đi nghỉ nhé!”

Tôi cười khổ. “Sao mà ngủ được cơ chứ, trước sau làm nhộn làm nhạo cả đêm, giờ đã canh tư rồi, trời sắp sáng. E là bên đó đang long trời lở đất đây, Hoàng hậu và những người khác hẳn đã tới nơi cả rồi.” Tôi lại cảm thấy kỳ quái, bèn cảm thán: “Đang yên đang lành sao Điềm Tần lại sảy thai kia chứ? Nàng ta cũng xui xẻo thật, hết lần này đến lần nọ giở chiêu động thai, đúng lần Hoàng thượng không thèm để ý đến thì lại xảy ra chuyện.”

Cận Tịch thấy tôi không buồn ngủ chút nào, trầm tư hồi lâu rồi chậm rãi thưa: “Từ khi nương nương vào cung đến giờ, đây là lần đầu tiên người biết chuyện có tiểu chủ, nương nương sảy thai phải không? Nhưng bọn tôi thân là nô tỳ, thấy nhiều, nghe nhiều lắm rồi nên chẳng còn lấy làm lạ nữa.” Nàng ta thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, bèn nói chậm lại, giải thích cho tôi hiểu: “Hiện giờ là Điềm Tần tiểu chủ, trước đây Hiền Phi nương nương, Hoa Phi nương nương, Lý Tu dung, Phương Quý nhân đều từng sảy thai, hoàng tử của Hoàng hậu nương nương ra đời không sống được đến ba tuổi, tiểu hoàng tử của Thuần Nguyên Hoàng hậu vừa ra đời đã mất sớm, lúc Tào Tiệp dư sinh Ôn Nghi công chúa cũng trải qua trăm đắng nghìn cay, Hân Quý tần sinh Thục Hòa công chúa thì thuận lợi nhất, Cẩn Phi nương nương cũng thế, nhưng ai mà ngờ hoàng trưởng tử lại có tư chất tầm thường như vậy!” Nàng ta thở dài. “Bọn nô tài chứng kiến nhiều nên cũng quen rồi!”

Tôi nghe nàng ta thao thao kể, bất giác hãi hùng khiếp vía, cơ thể ớn lạnh từng cơn, kéo chăn quấn chặt lấy người. Cửa sổ đóng chặt nhưng vài tia gió lạnh vẫn lách được vào, khiến cho ánh nến bập bùng bất định. Tôi buột miệng hỏi: “Vì sao nhiều người không sinh con được vậy?”

Cận Tịch hơi thất thần, nhìn lên hình vẽ thếp vàng trên xà nhà, thưa: “Trong cung đông nữ nhân, âm khí nặng nề, đương nhiên là không thể dễ dàng sinh hạ một đứa con rồi!”

Tôi nghe câu trả lời có phần kỳ lạ của nàng ta, sao có thể không hiểu thấu? Tôi bèn ôm gối, ngồi ngẩn ra, hai chân bất giác co lại, trong tư thế bảo vệ cái thai trong bụng.

Nàng ta lẳng lặng bồi bạn bên cạnh tôi, tôi yên lặng ngồi đó, ngẩn ngơ hồi lâu rồi đột nhiên cất tiếng hỏi: “Cận Tịch, trước đây ngươi từng hầu hạ chủ tử nào?”

Nàng ta đáp: “Nô tỳ từng hầu hạ Khâm Nhân Thái phi.”

“Vậy trước đó nữa thì sao?”

“Nô tỳ không nhớ rõ nữa, dù gì cũng chỉ là hầu hạ chủ tử, khác nhau là ở cung này hay cung kia mà thôi.”

Tôi không nói thêm gì nữa, quay đầu nhìn chăn gấm, gối nhung xung quanh, thở một hơi dài buồn bã.

Cận Tịch khuyên: “Nương nương không nên đau lòng như vậy!”

Tôi tỏ vẻ bi thương như sương mù mênh mang buổi khuya, hạ giọng than thở: “Ngươi cho rằng ta đang tự thương thân mình hay sao? Điềm Tần lần này bị sảy thai, ta chỉ cảm thấy môi hở răng lạnh, thỏ chết cáo thương!”

Cứ như vậy thắp nến trò chuyện hồi lâu, chúng tôi chẳng ai để ý đến phía đông bắt đầu hửng sáng. Lúc này, tôi mới cảm thấy mệt, bèn nằm xuống, chìm vào giấc ngủ. Lúc tỉnh lại thì đã giữa trưa, tôi vừa bừng tỉnh đã thấy Huyền Lăng ngồi tựa bên đầu giường, toàn thân lộ vẻ mệt mỏi, ủ ê. Tôi bất giác giật mình, đau lòng đỡ lấy cánh tay của y, gọi: “Hoàng thượng!” Y vẫn không nghe thấy, tôi lại gọi thêm lần nữa: “Tứ lang…”

Y mỉm cười với tôi, nụ cười nặng nề, mệt mỏi, y hỏi: “Nàng tỉnh rồi sao?”

Tôi “vâng” một tiếng, đang định hỏi y tình trạng của Điềm Tần thì nghe thấy giọng nói bi thương, lành lạnh của y vang lên: “Đứa con trong bụng Điềm Tần không còn nữa.” Huyền Lăng úp mặt vào lòng bàn tay của tôi, mặt của y rất nóng, râu lún phún đâm vào tay tôi, giọng có chút mơ hồ: “Thái y nói cái thai năm tháng, chân tay đều đã thành hình cả rồi. Đứa bé…” Y im lặng, cơ thể run lên nhè nhẹ, khi y mở miệng nói tiếp, giọng đầy ắp nỗi đau xót như con thú bị thương, vào lúc này, y không phải là bậc đế vương đứng trên vạn người mà chỉ là người cha vừa mất đi con nhỏ: “Trẫm lại mất đi một đứa con nữa, vì sao con cái của trẫm đều không thể yên lành ra đời, lớn lên cơ chứ? Chẳng lẽ trời xanh trừng phạt trẫm như vậy còn chưa đủ sao?!”

Tôi nghĩ y quá đau đớn nên đã hồ đồ rồi, tôi vô cùng đau lòng, chua xót đến rơi lệ. Lặng lẽ rúc vào ngực y, nhẹ nhàng ôm lấy y. Áp sát vào mặt y, tôi dịu giọng khuyên nhủ: “Tứ lang cả đêm không ngủ, hay là nghỉ ngơi một lúc ở chỗ thần thiếp nhé!”

Y “ừ” một tiếng, mặc cho tôi đỡ y nằm xuống. Y nặng nề chìm vào giấc ngủ, trước khi nhắm mắt còn siết chặt lấy tay tôi, ánh mắt nóng bỏng, thiết tha. “Hoàn Hoàn, nàng nhất định phải sinh đứa bé này bình an, trẫm sẽ thương yêu nó hết mực. Hoàn Hoàn!”

Tôi dịu dàng ngắm gương mặt tiều tụy của y, gối đầu lên ngực y, hứa hẹn: “Vâng! Hoàn Hoàn nhất định sẽ sinh đứa bé này ra. Tứ lang, chàng ngủ ngon nhé, Hoàn Hoàn sẽ ở bên cạnh chàng.”

Y nắm lấy tay tôi, chìm vào giấc ngủ. Tôi nhìn y, cảm giác ấm áp và thương cảm trong lòng đan xen, vấn vít. Tôi chợt nhớ ra, từ đầu đến cuối y chẳng nhắc đến Điềm Tần lần nào, nữ nhân đó cũng vừa chịu nỗi đau mất con giống y.

Từ tận đáy lòng, tôi không khỏi cảm thán, Huyền Lăng, người cũng thật bạc bẽo!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 19-4-2016 17:01:27 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 22
Ngư ông


Hai ngày sau, tinh thần của Huyền Lăng tốt hơn một chút, y vẫn lên triều như thường lệ. Thần thái của y hết sức bình tĩnh, nhìn qua thì thấy chẳng còn chuyện gì nữa. Việc của triều đình nhiều như vậy, phức tạp, rườm rà, rắc rối, khó gỡ, không cho phép y quá phân tâm, đau lòng vì một đứa nhỏ vừa mới thành hình. Hơn nữa, dù gì y vẫn còn trẻ tuổi, mất đi đứa con này thì vẫn còn đứa con trong bụng của tôi. Hơn nữa, hậu cung có nhiều nữ nhân như vậy, dù gì thì cũng có người sẽ mang thai, sinh con nối dõi cho y.

Tôi vốn cho rằng mọi chuyện sẽ trôi qua như thế, Điềm Tần cũng đã tỉnh lại sau cơn hôn mê. Nhưng sau khi tỉnh dậy, nàng ta cứ khóc lóc mãi không thôi, nói là cái thai của mình bị người khác hãm hại nên mới bị sảy. Nàng ta cứ làm náo loạn như thế cho đến khi cung của nàng ta ầm ĩ vang trời, gà chó cũng chẳng yên.

Hoàng hậu cho rằng nàng ta quá đau lòng nên chỉ sai người đến an ủi mà thôi. Thế nhưng một buổi trưa nọ, Kính Phi ghé qua Oánh Tâm điện, hỏi thăm tình hình dưỡng thai của tôi rồi nhắc đến chuyện Điềm Tần sảy thai.

Nàng ta thấy bốn bề không có ai lạ bèn hạ thấp giọng, bảo: “Lần sảy thai này của Điềm Tần hết sức kỳ lạ.”

Kính Phi trước giờ không phải là người lắm mồm lắm miệng, nàng ta đã nói như vậy thì đương nhiên phải có mấy phần chắc chắn. Tôi vốn đã nghi ngờ, nghe nàng ta nói vậy, tim đập thình thịch, nhưng ngoài mặt vẫn vờ như chẳng có chuyện gì, mỉm cười, nói: “Sao lại như thế? Chẳng phải Điềm Tần vẫn luôn than thở bị động thai, khó chịu, mệt mỏi hay sao? Sảy thai cũng không thể tính là chuyện bất ngờ.”

Tay áo lụa mịn thêu chi chít hoa văn hình lá của Kính Phi vừa rộng vừa dài, khẽ đưa lên là có thể che kín nửa mặt, nàng ta cười nhạt một tiếng. “Nàng ta than thở động thai không khỏe, nhưng bọn ta có ai không biết tỏng, chẳng qua là tranh sủng, nhõng nhẽo với Hoàng thượng mà thôi. Tỷ để ý thấy nàng ta ở trong cung ăn được ngủ được, làm gì có vẻ khó chịu?” Kính Phi lần nữa hạ thấp giọng: “Nghe thái y chữa bệnh cho Điềm Tần kể lại, nàng ta trước giờ vẫn rất khỏe mạnh, cho đến hôm bị sảy thai. Kiểm tra thuốc uống thì không có vấn đề gì, chỉ là trong món bánh Như ý ăn dở, phát hiện có không ít phấn hoa giáp trúc đào.”

Tôi không hiểu, nghi ngờ hỏi lại: “Giáp trúc đào ư?”

Kính Phi gật đầu. “Thái y khám cả nửa ngày trời mới phát hiện ra là phấn hoa giáp trúc đào vốn có độc, hẳn là Điềm Tần đã ăn rất nhiều nên ngay đêm đó mới bị sảy thai.”

Kính Phi thở dài. “Trong cung có không ít nơi trồng giáp trúc đào, ai mà biết được phấn hoa của nó lại có độc cơ chứ? Còn lợi dụng nó để hại người, đúng là không sao tưởng tượng được!”

Tim tôi đập thình thịch, chần chừ một lát, tôi mới dám hỏi: “Thế… bánh Như ý là do Ngự thiện phòng làm sao?”

Kính Phi hơi khựng lại, lắc lắc đầu, đáp: “Là Cẩn Phi tặng.”

Tôi ngẩng đầu, nhìn thẳng vào đôi mắt không kém phần ngạc nhiên của nàng ta. Giọng của Kính Phi có chút khàn khàn, từ từ thuật lại những điều mà nàng ta biết được: “Khi Điềm Tần mang thai, những thứ do bên ngoài đưa vào theo lệ đều phải cho người nếm thử rồi mới dâng lên nàng ta. Nhưng món bánh Như ý này một là do Cẩn Phi cao hơn hẳn Điềm Tần, Hoàng hậu lại ra lệnh cho nàng ta đến dạy dỗ Điềm Tần, nàng ta vốn nổi tiếng là thành thực, cẩn thận, ai ngờ lại có âm mưu cơ chứ! Hơn nữa, nghe cung nữ hầu cận Điềm Tần hôm đó kể lại, Cẩn Phi ăn một miếng bánh Như ý trước, sau đó, Điềm Tần mới cầm lên ăn.” Kính Phi dừng lại một lát rồi nói tiếp: “Trong cung, những nơi có trồng giáp trúc đào vốn không nhiều nhưng có một khoảnh ở cách cung của Cẩn Phi không xa. Nếu nói không phải là do nàng ta gây ra thì e là chẳng ai tin.”

Tôi theo lời của nàng ta, ngẫm nghĩ lại tình cảnh lúc đó, xem ra quả thật không một ai dám nghi ngờ Cẩn Phi sẽ hãm hại Điềm Tần. Nhưng tôi vẫn còn chút ngờ vực: “Dẫu Cẩn Phi có bỏ phấn hoa giáp trúc đào vào bánh thì việc gì nàng ta lại phải tự mình ăn trước một miếng cơ chứ? Ai cũng biết chuyện Điềm Tần thích ăn bánh Như ý, dẫu nàng ta không ăn thì Điềm Tần cũng ăn thỏa thích, cố ý làm như vậy chẳng phải là quá giả tạo hay sao? Cẩn Phi nảy ra ý định hại người, có phải là vì hoàng trưởng tử không? Tình thương của người mẹ dành cho con chẳng lẽ lại đáng sợ như vậy?”

Kính Phi đáp: “Nguyên do là gì thì bọn ta cũng chỉ đoán mò thôi, Hoàng thượng nhất định sẽ tra xét đến cùng. Nhưng cũng không thể hoàn toàn trách Cẩn Phi được, chuyện Điềm Tần nhờ cái thai mà được tấn phong hai lần vốn đã bị người đời gièm pha, thế mà nàng ta không biết tự nhìn lại mình, nửa đêm nửa hôm còn lôi kéo Hoàng thượng ra khỏi cung của muội mấy lần liền. Muội muội phải biết là không chỉ mình chỗ của muội thôi đâu, đến cung của Cẩn Phi, Tào Tiệp dư, nàng ta cũng cho người đến mời Hoàng thượng. Muội rộng lượng không nói gì, nhưng khó bảo đảm những kẻ khác không coi nàng ta là cái gai trong mắt. Muội cũng biết đấy, Hoàng thượng rất hiếm khi đến chỗ Cẩn Phi, khó khăn lắm mới ghé qua một lần, thế mà bị nàng ta mời đi mất, liệu có thể không tức giận hay không? Thêm vào đó, hiện giờ Hoàng thượng dưới gối chỉ có một hoàng tử duy nhất là con của Cẩn Phi…” Kính Phi không nói thêm nữa, chỉ dùng ngón tay vuốt ve chiếc tua rua màu đỏ anh đào đính ở chuôi chiếc quạt tròn.

Những gì Kính Phi nói cũng hợp tình hợp lý, hơn nữa mọi người trong cung cũng nghĩ vậy. Tôi vốn còn hoài nghi nhưng chợt nhớ tới ngày hôm đó trong cung Hoàng hậu, Tùng Tử lao ra làm bị thương người khác, lúc đó cũng có dính líu đến Cẩn Phi, bất giác tôi cũng tin đến tám phần.

Tôi cúi đầu im lặng hồi lâu rồi bảo: “Điềm Tần cũng quá ngông nghênh rồi. Thỏ bị ép tới đường cùng còn biết cắn người, nói gì đến Cẩn Phi. Nàng ta chưa sinh con đã không coi ai ra gì, vạn nhất sinh được hoàng tử thì Cẩn Phi và hoàng trưởng tử còn có ngày nào sống yên được đây? Qua đó mới thấy xử sự nên ôn hòa một chút thì tốt hơn!”

Kính Phi cũng đồng ý với tôi: “Huống gì lần này, nàng ta được tấn phong làm Tần, theo như Lục Chiêu nghi kể lại thì là do Điềm Tần đích thân cầu xin Hoàng thượng đấy, nói là lần này mang thai con trai cho nên thai mới động nhiều như vậy.”

Tôi hơi giật mình. “Thực là thế ư? Vậy thì cũng quá…”

Đôi mắt hạnh của Kính Phi hơi nheo lại, hàng lông mi cong dài khẽ buông lơi, nói với giọng trầm thấp nhẹ nhõm: “Thực lòng mà nói, cái thai này của Điềm Tần, ngoại trừ các bậc bề trên, chẳng ai thực lòng mong nàng ta sinh con an toàn cả. Cẩn Phi làm cho nàng ta sảy thai, không biết có bao nhiêu người thầm vỗ tay ăn mừng đây, cũng đáng đời nàng ta đã xử sự quá ngông cuồng.”

Kính Phi rất hiếm khi nói ra những lời thẳng thắn thế này, nàng ta không có con, Điềm Tần cũng chẳng có xung đột lợi ích trực tiếp gì với nàng ta. Hôm nay, nàng ta nói như vậy, đại khái là bởi vì bình thường hết sức bất mãn với cách xử sự của Điềm Tần.

Nhưng nghe những lời này của nàng ta, tôi cảm thấy hết sức trái tai, tựa như trong mắt nàng ta, tôi cũng là một trong số những người hy vọng Điềm Tần sảy thai vậy. Nhưng thầm tự vấn lương tâm, lúc nghe thấy tin Điềm Tần sảy thai, tôi cũng cảm thấy có chút đắc ý. Tôi thậm chí chẳng thèm quan tâm đến sự sống chết của nàng ta, còn sinh lòng ghen tỵ khi thấy Huyền Lăng quan tâm đến nàng ta. Có thể là trong tiềm thức, tôi cũng chán ghét nàng ta chẳng khác gì Kính Phi, thậm chí còn ngấm ngầm đề phòng con của nàng ta ra đời sẽ tranh giành sự sủng ái với con của tôi.

Tôi buồn bã cười khổ, chẳng lẽ tôi đã biến thành lạnh lùng, ác độc đến thế rồi sao?

Hồi lâu sau, tôi mới hoàn hồn, hỏi: “Hoàng thượng đã biết chuyện này chưa?”

“Vừa mới biết hồi trưa thôi, Hoàng thượng vô cùng tức giận, đã lệnh cho Tích Hoa Phu nhân và tỷ đi điều tra. Tích Hoa Phu nhân hành động hết sức nhanh nhẹn, triệt để, hẳn là chưa đến ba ngày sẽ tra xét được kết quả thôi.” Kính Phi lại thở dài. “Bên trên mặt bánh Như ý có rắc một lớp đường áo, màu sắc gần như chẳng khác gì phấn hoa giáp trúc đào, cho nên bỏ thêm nhiều phấn hoa vào cũng không có ai phát hiện ra. Ý định xảo quyệt thế này thật khó mà tưởng tượng là do Cẩn Phi nghĩ ra. Bình thường nàng ta đến con kiến cũng không nỡ giẫm lên, có thể thấy quả thật là biết người, biết mặt mà chẳng biết lòng.”

Trong lúc đang nói chuyện, Tiểu Doãn Tử tiến vào, thấy Kính Phi cũng có ở đó bèn lau mồ hôi ứa ra trên trán, lễ phép thỉnh an rồi mới mở miệng thưa: “Cẩn Phi nương nương qua đời rồi!”

Tôi ngẩn ra, nhanh chóng đưa mắt nhìn sang Kính Phi, rồi cả hai chúng tôi gần như đồng thanh kêu lên: “Cái gì?”

Tiểu Doãn Tử thưa: “Vừa nhận được tin tức từ bên ngoài truyền tới, Tích Hoa Phu nhân phụng chỉ đến cung của Cẩn Phi để hỏi về chuyện Điềm Tần sảy thai, ai ngờ vừa bước vào nội điện đã phát hiện ra Cẩn Phi nương nương treo cổ lủng lẳng trên xà nhà, khi đưa xuống thì đã tắt hơi từ lâu rồi. Nghe nói là đáng sợ lắm, lưỡi cũng thè cả ra…”

Tiểu Doãn Tử miêu tả sinh động như thật, chưa kịp dứt lời thì Kính Phi đã mở miệng can ngăn: “Không được nói bậy bạ, chủ tử của ngươi đang mang thai đó, sao có thể nghe những chuyện như vậy?! Chỉ kể những điểm quan trọng là được.”

Tiểu Doãn Tử chậc lưỡi rồi tiếp tục kể: “Nghe cung nữ hầu cận Cẩn Phi kể lại, nửa canh giờ trước, Cẩn Phi nương nương đuổi hết bọn họ ra ngoài, chỉ có một mình ở trong nội điện. Hiện giờ Tích Hoa Phu nhân đã bẩm báo lại với Hoàng thượng, coi đó là sợ tội nên mới tự vẫn.”

Tôi cảm thấy lòng giá lạnh, thở dài một hơi rồi bảo: “Đáng thương cho hoàng trưởng tử, còn nhỏ như vậy mà đã mất mẹ rồi!”

Kính Phi nhìn những vụn nắng len qua cửa sổ soi bóng xuống mặt đất, bảo: “Đúng là đáng thương, cũng may tuy không còn mẹ ruột nhưng dù gì vẫn còn mẹ cả và các mẹ thứ khác, nếu không thì vẫn còn có Thái hậu chiếu cố mà.”

Tôi hơi gật đầu, vẫn còn ngờ vực: “Chỉ có điều tuy đầu mối nào cũng chỉ về phía nàng ta thì việc gì nàng ta phải vội vã tự vẫn cơ chứ! Nếu đi biện bạch hoặc năn nỉ với Hoàng thượng, chưa hẳn là không thể giữ được tính mạng.” Kính Phi hiểu được nỗi nghi ngờ của tôi. Chuyện này tuy hợp tình hợp lý nhưng cuối cùng cũng quá đột ngột.

Nàng ta bảo: “Dẫu cho Hoàng thượng chịu tha thứ cho nàng ta nhưng nhất định sẽ phải tước mọi địa vị, không thể tiếp tục nuôi dưỡng hoàng trưởng tử bên mình nữa.” Giọng của nàng ta hơi chùng xuống: “Một người mẹ như vậy thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến tương lai của con cái.”

Tim tôi khẽ run lên. “Ý tỷ muốn nói là, Cẩn Phi chết rồi thì có thể bảo toàn được tương lai cho hoàng trưởng tử ư?”

Kính Phi gật đầu, không khỏi than thở: “Thực ra từ lần trước, Tùng Tử làm người bị thương ở cung của Hoàng hậu, Cẩn Phi bị Hoàng thượng trách móc xong, quay trở về lúc nào cũng buồn bực chẳng vui. Nhà mẹ đẻ của Cẩn Phi sớm đã suy sụp rồi, chỉ còn lại chức nhị đẳng tử tước trống rỗng. Đúng là đáng thương thật! Cũng vì lý do này mà nàng ta không khỏi phải cố gắng nhiều hơn một chút, chỉ tiếc hoàng trưởng tử lại không tài giỏi gì, Cẩn Phi yêu thương con trai, thấy Hoàng thượng dạy dỗ nghiêm khắc, bèn ngầm chiều chuộng con nhiều hơn một chút, không ngờ lại xảy ra tranh chấp với Hoàng thượng, vì vậy mới bị thất sủng. Hiện giờ nàng ta rơi vào tình cảnh phải tự vẫn tạ tội, thật không biết phải nói thế nào mới phải.”

Tôi xoay xoay chiếc khăn lụa nơi tay, chầm chậm uống hớp trà, không nói tiếng nào, trong lòng vẫn còn hoài nghi. Kính Phi thấy tôi mãi im lặng bèn lên tiếng dặn dò: “Chuyện của Điềm Tần là bài học trước mắt, muội muội về sau vạn vạn lần phải để ý kĩ chuyện ăn uống mới được.”

Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu, dường như cuối cùng cũng lờ mờ hiểu ra gì đó, bèn hạ giọng hỏi: “Tỷ tỷ từng kể với muội rằng Tích Hoa Phu nhân cũng từng bị sảy thai, còn là thai con trai đã thành hình, có phải không?”

Kính Phi im lặng suy nghĩ hồi lâu rồi đáp: “Phải!”

“Là vì không giữ gìn cẩn thận hay sao?”

Kính Phi đưa mắt liếc nhanh qua gương mặt tôi, chẳng hiểu vì sao tôi lại đột nhiên hỏi đến chuyện xảy ra đã quá lâu như vậy. “Lúc đó tuy nàng ta vẫn còn là Quý tần nhưng cũng được Hoàng thượng ngàn vạn lần sủng ái, sao có thể không giữ gìn cẩn thận được chứ?” Giọng của nàng ta nhỏ như muỗi kêu: “Trong cung đồn đại rằng là do uống nhầm phải thuốc dưỡng thai mà Đoan Phi tặng.”

Lông mi của tôi chớp động, tai chợt lạnh ngắt, tôi buột miệng nói: “Muội không tin!” Hậu cung là nơi tranh giành, giết chóc, bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra, tôi dựa vào đâu mà không tin đây, chính bản thân tôi cũng không biết nữa. Chỉ là nghĩ đến những lần gặp gỡ gần đây với Đoan Phi, vẻ mặt yêu thương trẻ con của nàng ta, tôi không thể tin nàng ta có thể làm được chuyện đó.

Vẻ mặt của Kính Phi vẫn bình tĩnh như thường, bàn luận chuyện của người khác thì đương nhiên sẽ không cảm thấy xúc động gì rồi. Nàng ta không nhanh, không chậm đáp: “Đừng nói muội không tin, lúc đấy Hoàng thượng và Hoàng hậu cũng chẳng tin nổi, thế là chuyện cứ bỏ lửng như vậy. Chỉ là sau vụ đó, Đoan Phi ôm bệnh đến tận bây giờ, rất ít khi ra mặt.”

Chuyện này có rất nhiều điểm khả nghi, tôi chưa từng chứng kiến, lại không liên quan gì đến lợi ích trước mắt, đương nhiên không tiện suy đoán gì nhiều. Tôi chỉ cảm thấy chuyện xưa chuyện nay, có nhiều việc cứ lặp đi lặp lại, hôm qua là nàng ta, hôm nay sẽ đến phiên mình, ai ai cũng bị hại, ai ai cũng hại người, tựa như vòng tròn luẩn quẩn vĩnh cửu, đúng là đáng lo, đáng sợ!

Lễ tang của Cẩn Phi được tổ chức hết sức qua loa, khâm liệm sơ sài xong thì được đưa ngay đến Tử cung. Hoàng hậu vì thế mà cứ than thở mãi không nguôi. Hôm đó, đến thỉnh an, Huyền Lăng cũng có mặt.

Nhắc đến chuyện gia phong sau khi qua đời cho Cẩn Phi, Huyền Lăng chỉ bảo: “Thang thị sợ tội tự sát, không thể truy phong, chỉ có thể dùng Cẩn làm hiệu, hạ táng theo lễ Phi, coi như là trẫm không truy xét đến cùng nữa. Nàng ta vào cung chín năm trời, thế mà lại hồ đồ đến vậy, đúng là không thể nào chấp nhận được.”

Hoàng hậu dùng khăn tay chấm chấm khóe mắt, khẽ lên tiếng đính chính: “Hoàng thượng, Cẩn Phi vào cung đã được mười một năm rồi!”

Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, không thèm để ý tới, cũng chẳng muốn nhắc đến Cẩn Phi nữa, chỉ bảo: “Thang thị đã chết, hoàng trưởng tử không thể không có người chăm sóc.”

Hoàng hậu lập tức tiếp lời: “Thần thiếp là chủ nhân lục cung, con trẻ sinh ra trong hậu cung chẳng khác gì con ruột của thần thiếp. Thần thiếp sẽ dạy dỗ hoàng trưởng tử đàng hoàng, làm trọn trách nhiệm của một người mẹ.”

Huyền Lăng hết sức hài lòng, mỉm cười, bảo: “Hoàng hậu nói như vậy thì trẫm yên tâm rồi. Thái hậu tuổi đã cao, lại hay nhức mỏi, bệnh tật, hoàng trưởng tử giao cho Hoàng hậu dạy dỗ thì hết sức hợp lý.”

Thế là mọi người bèn chúc mừng Hoàng hậu nhận được một đứa con trai. Hoàng trưởng tử có người chăm sóc, Hoàng hậu lại có con nối dòng, có thể coi như là một kết quả tốt cho tất cả mọi người.

Sau khi Huyền Lăng rời đi, mọi người ngồi lại trò chuyện với Hoàng hậu.

Hoàng hậu ngân ngấn nước mắt, bảo: “Cẩn Phi vào cung mười một năm, bản cung chính mắt nhìn thấy nàng ta dùng thân phận Lương đễ tiến cung, dần được thăng làm Thuận nghi, Dung hoa, Quý tần, sau khi sinh con trai được phong là Chiêu nghi, rồi được tấn phong làm Phi. Dẫu hiện giờ nàng ta phạm phải lỗi lớn, nhưng cuối cùng cũng lưu lại được máu huyết của hoàng gia, coi như là lập công lớn. Hiện giờ nàng ta có kết cục quá thảm thương, dẫu Hoàng thượng không vui lòng nhưng chúng ta vốn là tỷ muội nơi hậu cung, cũng không thể quá lạnh lùng, huống hồ nàng ta nói cho cùng cũng là mẹ ruột của hoàng trưởng tử, hầu hạ Hoàng thượng nhiều năm, không có công thì cũng có sức. Bản cung sẽ cho người canh giữ thi thể nàng ta, hy vọng Cẩn Phi ở dưới đất biết sám hối, hồn thiêng được an lòng.”

Cung nữ Tiễn Thu đứng bên cất tiếng khuyên nhủ Hoàng hậu: “Nương nương xin đừng quá đau lòng. Vì chuyện của Cẩn Phi nương nương, người đã đau lòng mấy ngày rồi, hiện giờ hoàng trưởng tử có người chăm sóc, Cẩn Phi nương nương hẳn có thể an nghỉ được rồi. Nương nương cứ đau lòng như vậy thì chỉ khiến cho người sống càng khó xử mà thôi. Nói đi cũng phải nói lại, cuối cùng cũng là do Cẩn Phi nương nương tự mình làm sai.”

Hoàng hậu lau nước mắt, bảo: “Tuy nói như vậy nhưng bản cung và nàng ta cùng nhau hầu hạ Hoàng thượng nhiều năm, nàng ta ra đi đột ngột như vậy, thử hỏi làm sao mà bản cung thấy dễ chịu được cơ chứ? Ôi chao… Cẩn Phi đúng là quá hồ đồ rồi!”

Hoàng hậu đau lòng như vậy, mọi người không khỏi cùng rơi lệ rồi lên tiếng khuyên nhủ. Một hồi lâu sau, Hoàng hậu mới dần bớt bi thương, cười nói bình thường.

Cơ thể của tôi dần dần không còn nhẹ nhàng như trước nữa, dù gì cũng sắp mang thai được bốn tháng rồi. Người ngoài vẫn chưa phát hiện ra thân hình của tôi có điểm nào khác lạ, nhưng chính bản thân tôi lại cảm nhận rõ nhất, một sinh mệnh bé bỏng đang không ngừng hút lấy sinh lực, từ từ lớn lên trong bụng tôi.

Giờ trời đã vào đầu hạ, tôi nằm dựa vào cửa sổ sơn đỏ, dõi mắt ngắm khoảnh cỏ xanh ngút ngàn nơi vườn lựu nở đỏ rực, nhìn vạt nắng mênh mang vàng rực tựa hoa phượng đúng mùa nở rộ, đang xòe cánh khoe sắc giữa không trung. Thỉnh thoảng có vài tia nắng lọt qua kẽ hở giữa cành lá xanh um, rọi xuống lối đi lát đá cuội, tạo thành những chấm sáng rời rạc, loang lổ.

Mấy ngày liền có bao nhiêu sự tình phát sinh, việc nào, việc nấy đều có liên quan đến sinh mệnh bị mất đi. Thuần Nhi, con của Điềm Tần và Cẩn Phi. Những vụ tử vong dồn dập khiến tôi cảm thấy sợ hãi, đến mức lờ mờ ngửi thấy mùi máu tanh trong không khí đau thương đến nghẹt thở của giấy tiền vàng bạc bị đốt cháy.

Cái chết của bọn họ đều quá tự nhiên, tầm thường, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại cảm thấy bứt rứt, tựa như bóng đen tử thần nặng nề đang từ từ ép sát về phía tôi.

Buổi trưa tĩnh lặng, bên ngoài cửa chợt vang lên giọng trẻ con trong trẻo, hoan hỷ, reo vui tựa tiếng chim vỗ cánh bay vượt qua tường, phá vỡ bầu trời yên tĩnh.

Lập tức có nội giám mở cửa xem thử, không ngờ khách đến lại là Hoàng trưởng tử Dư Ly.

Tôi thấy cậu bé chỉ có mỗi mình, không có vú em hay thị vệ theo sau thì không khỏi giật mình, vội nắm lấy tay cậu bé dẫn vào trong, hỏi: “Hoàng tử, sao con lại đến đây?”

Cậu bé đứng đó cười hì hì, cắn cắn ngón tay. Chiếc mũ vàng trên đầu lệch sang một bên, mặt nhễ nhại mồ hôi, áo gấm màu xanh da trời dính đầy bụi bẩn. Nhìn qua thì thấy cậu bé này đúng là nghịch ngợm, hệt như một con khỉ lấm lem bùn đất.

Cậu bé nghiêng đầu quan sát tôi hồi lâu, không hành lễ với tôi, dường như cũng không nhận ra tôi là ai. Cũng khó trách, chẳng có mấy dịp tôi được gặp cậu bé, không mấy thân thiết với mẹ ruột Cẩn Phi của cậu. Trong ký ức của đứa bé, hoàn toàn không có sự tồn tại của một kẻ xa lạ như tôi.

Tiểu Doãn Tử đứng bên nhắc nhở cậu bé: “Đây là Hoàn Quý tần ở Đường Lê cung.”

Không biết có phải vì trong bụng tôi đang mang một sinh mệnh bé nhỏ hay không mà tôi cảm thấy rất yêu thương trẻ con, muốn được gần gũi chúng. Dẫu trước mắt tôi hiện giờ chỉ là một cậu bé lấm lem bùn đất, không được cha thương yêu, lại vừa mất đi mẹ ruột, lại bị đồn đại là tư chất tầm thường, tôi vẫn cảm thấy yêu mến cậu bé hết mực.

Tôi mỉm cười, cầm tay cậu bé. “Hoàng tử, ta là mẹ thứ của con, con có thể gọi ta là ‘mẫu phi’, hiểu không?”

Cậu bé lúc này mới vỡ lẽ, vụng về hành lễ với tôi: “Chào Hoàn mẫu phi!”

Tôi mỉm cười, đỡ cậu bé đứng dậy, Lưu Chu đã bưng một chiếc hộp bạc đến, bên trong để mấy món ăn tinh xảo. Tôi ra hiệu cho Dư Ly thích gì thì cứ tùy ý chọn lấy, cậu bé hết sức vui mừng, dùng tay bốc lấy một nắm nhưng vẫn liên tục quan sát tôi.

Cậu chợt quay sang nhìn vào chiếc hộp bạc, hỏi: “Vì sao mẫu phi lại dùng hộp bạc để thức ăn vây? Trong cung của mẫu hậu đều dùng mâm vàng, hộp vàng cả.”

Tôi hơi cảm thấy bất ngờ. Làm sao có thể trả lời cậu bé rằng tôi dùng các thứ đồ bạc là vì sợ người khác hạ độc vào thức ăn của mình cơ chứ? Những điều kiêng kỵ như vậy khó có thể giải thích rõ ràng cho một đứa bé còn nhỏ tuổi như vậy. Thế là tôi ôn hòa đáp: “Mẫu phi địa vị không được tôn quý như Hoàng hậu, đương nhiên là không thể dùng đồ bằng vàng được rồi.” Cậu bé nửa hiểu nửa không gật gật đầu, chẳng mấy để ý đến câu trả lời của tôi, ăn ngấu nghiến bánh hoa tùng cầm trong tay.

Tôi đợi Dư Ly ăn xong, bình tĩnh trở lại, mới hỏi: “Sao con lại chạy ra ngoài như thế, giờ không phải là lúc nghỉ trưa sao?”

Dư Ly nghịch nghịch mấy món ăn trên tay, đáp: “Mẫu hậu và vú em đều ngủ cả rồi, con mới lén chạy ra ngoài chơi.” Cậu đột nhiên bĩu môi, uất ức nói tiếp: “Con không đọc thuộc Luận ngữ, phụ hoàng không hài lòng, bọn họ không cho con đi bắt dế mà phải đi ngủ.” Cậu bé nói năng lộn xộn, nhưng qua đó tôi cũng hiểu được đại khái.

Tôi phá lên cười. “Cho nên con một mình lén ra ngoài đi bắt dế, phải không?”

Cậu bé gật mạnh đầu rồi chợt mở to mắt nhìn tôi. “Mẫu phi đừng nói cho mẫu hậu biết nhé!”

Tôi gật đầu, hứa với cậu bé: “Được!”

Cậu thất vọng đá đá mấy viên đá cuội dưới đất. “Luận ngữ khó học thuộc thật đấy, vì sao lại phải học thuộc Luận ngữ cơ chứ?” Cậu thè thè lưỡi, bộ dạng vô cùng khổ sở. “Khổng thượng nhân vì sao không đi bắt dế mà lại viết cái món Luận ngữ đó cơ chứ, ông ta không viết thì con đã không phải học thuộc lòng rồi!”

Cung nhân đứng quanh nghe cậu nói thế đều phá lên cười, cậu thấy người khác cười mình liền hổ thẹn, bộ dạng hết sức tức giận. Quay đầu nhìn thấy hoa lăng tiêu mọc trườn trên giá đỡ, cậu lại bị thu hút, chống nạnh dùng giọng non nớt mà ngang ngược lệnh cho Tiểu Liên Tử: “Ngươi, đi hái cho ta một nhành hoa lại đây!”

Tôi chỉ dịu dàng mỉm cười. “Mẫu phi hái cho con nhé, được không?” Tôi vừa thò tay hái xuống, cậu bé đã giật lấy ngay, lấy đóa hoa màu vàng quất ướm lên vạt áo của mình rồi vui vẻ phá lên cười, vừa mở miệng đã nhìn thấy mấy chiếc răng đen sì.

Tôi lệnh cho người bưng nước đến, lau sạch vết bẩn trên mặt cậu, phủi hết bụi bặm bám trên quần áo rồi cẩn thận chỉnh lại y phục và mũ mão. Cậu bé cười hì hì. “Mẹ cũng thường lau mặt cho con như vậy.”

Tôi ngẩn ra rồi lập tức định thần lại, mỉm cười miễn cưỡng. “Vậy sao?”

Cậu bé thành thực đáp: “Đúng thế. Nhưng mà mẫu hậu nói mẹ con bị bệnh rồi, đợi mẹ con khỏi bệnh thì con mới có thể gặp mẹ và ở chung với mẹ. Khi đó, con có thể tha hồ chạy ra ngoài bắt dế, mẹ sẽ không trách móc con đâu.” Nói đến đây, cậu cười tươi rói vẻ đắc ý.

Nỗi cảm thương lập tức vây chặt lấy tim tôi, tôi không dám cho đứa bé mới sáu, bảy tuổi này biết mẹ nó đang ở đâu. Tôi chỉ biết chăm sóc cậu bé cẩn thận hơn một chút.

Cậu bé nhìn tôi rồi chỉ vào ngực mình. “Con tên Dư Ly.”

Tôi gật đầu. “Ta biết rồi!”

Cậu kéo kéo vạt áo của tôi, nụ cười càng thân thiết. “Hoàn mẫu phi có thể gọi con là Ly Nhi.”

Tôi nhẹ nhàng choàng tay ôm lấy cậu bé, dịu giọng đáp: “Được, Ly Nhi!”

Thực ra, tư chất của cậu bé không hề tầm thường giống như lời đồn đại, chẳng qua nó chỉ là một đứa bé chưa kịp lớn, ham ăn, ham chơi. Có lẽ là do phụ hoàng của cậu kỳ vọng quá nhiều cho nên mới thất vọng đến vậy.

Cận Tịch đứng bên, lên tiếng nhắc nhở: “Nương nương, hay là sai người đưa hoàng tử quay về đi, chỉ e cung Hoàng hậu giờ đang náo loạn khi không tìm thấy hoàng tử đâu đó.”

Tôi ngẫm nghĩ thấy thế cũng đúng, quay đầu nhìn, thấy Dư Ly có chút chột dạ, bất giác trong lòng mềm đi, bảo: “Ta đưa con về cung nhé, được không?”

Cậu bé lập tức nở nụ cười, tôi cũng chỉ tủm tỉm.

Đến cung của Hoàng hậu, quả nhiên bên đó đang hốt hoảng tìm người. Vú em thấy tôi đưa cậu bé về thì an tâm thở phào một hơi, liên tục niệm A di đà Phật. Hoàng hậu nghe tiếng vén màn vội vã bước ra, hẳn là đang ngủ trưa thì bị đánh thức, đi tìm Dư Ly nên bên ngoài chiếc áo ngủ chỉ khoác một chiếc áo choàng, mái tóc lòa xòa chưa kịp búi. Dư Ly nhìn thấy nàng ta liền lập tức buông tay tôi ra, nhào thẳng vào lòng Hoàng hậu, nép sát vào váy của Hoàng hậu, quấn quýt không rời.

Hoàng hậu vui mừng hỏi: “Con của ta, con đi đâu vậy, khiến mẫu hậu đi tìm mãi!”

Tôi cảm thấy kỳ lạ, con nít vốn quen hơi mẹ, Hoàng hậu nuôi dưỡng Dư Ly mới được ba, bốn ngày, lúc trước còn có mẹ ruột, mẹ cả đương nhiên sẽ không quá thân cận với hoàng tử, vì sao tình cảm giữa hai người họ lại thân thiết như vậy? Tôi nghĩ một lát rồi thôi, hẳn là do Hoàng hậu tính tình hiền hòa.

Rồi Hoàng hậu hơi nghiêm mặt, hỏi: “Vì sao không chịu ngủ trưa, một mình chạy đi đâu thế?” Vừa hỏi, nàng ta vừa đưa mắt nhìn sang tôi.

Hình như Dư Ly giật mình, không biết trả lời thế nào, vội ngoan ngoãn đứng nghiêm, hai tay cung kính buông lỏng.

Tôi vội nói giúp cho cậu bé: “Hoàng tử nói hồi sáng xem qua Luận ngữ, quên mất vài chỗ, lại không tìm được sư phụ bèn chạy ra ngoài định tìm người để hỏi, ai ngờ lại gặp thần thiếp, khiến Hoàng hậu lo lắng như vậy, đúng là lỗi của thần thiếp.”

Hoàng hậu nghe Dư Ly chăm học như vậy thì tủm tỉm cười, vuốt ve mái tóc của Dư Ly, bảo: “Hoàn Quý tần học vấn uyên thâm, con hỏi được nàng ta là tốt quá rồi! Chỉ có điều chăm học thì rất tốt nhưng cũng phải nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe, nếu sức khỏe không tốt thì làm sao học hành được đây?”

Dư Ly lễ phép vâng dạ rồi cười thầm, liếc nhìn tôi.

Hoàng hậu thay y phục xong rồi lại bước ra ngoài, ngồi xuống, chầm chậm nhấp một ngụm trà rồi bảo tôi: “Cũng may khi nãy Ly Nhi đi về phía cung của nhà ngươi, đúng là khiến cho bản cung sợ phát khiếp. Hiện giờ trong cung xảy ra rất nhiều chuyện, nếu Ly Nhi có gì không ổn thì bản cung chẳng biết làm thế nào nữa.”

Tôi cười bồi, thưa: “Hoàng tử phúc đức thâm hậu, có thần Phật bảo hộ, đương nhiên chuyện gì cũng gặp thuận lợi rồi!”

Hoàng hậu gật đầu. “Ngươi nói cũng đúng, nhưng thân là cha mẹ thì có lúc nào dám lơi lỏng đâu cơ chứ! Con ruột của bản cung không thể lớn lên thành người, hiện giờ Hoàng thượng dưới gối chỉ có một mình Dư Ly là hoàng tử, bản cung sao có thể không chú tâm hơn cơ chứ!” Hoàng hậu thở dài, xoa xoa thái dương rồi nói tiếp: “Năm nay không như những năm trước, chẳng biết là đã xúc phạm đến quỷ thần gì, bệnh dịch vừa dứt, Thuần Tần lại đương không trượt chân chết đuối, cái thai của Điềm Tần không giữ được, Cẩn Phi tự tử chết. Hiện giờ đến Thái hậu phượng thể cũng bất an. Nghe Hoàng thượng nói bên ngoài cung hạn hán liên miên, hai tháng rồi không có một hạt mưa, chuyện này ảnh hưởng rất lớn đến việc cày cấy, trồng trọt của xã tắc.”

Nàng ta nói câu nào, tôi chăm chú lắng nghe câu nấy, thiên tai, nhân họa, hậu cung và tiền triều, nơi nào cũng rối loạn chẳng yên.

Tôi thoáng thất thần, ánh mặt trời sáng rỡ bên ngoài cửa sổ rọi xuống lớp ngói lưu ly hào hoa phía trên cung điện, ánh vàng kim rực rỡ tựa nước suối chảy dài. Thời tiết quang đãng là thế nhưng dẫu nóng nực cách mấy, không khí âm u do những cái chết liên tục đem lại chẳng hề giảm bớt chút nào.

Tôi thấy Hoàng hậu nhức đầu bèn vội dâng dầu xoa thiên trúc trong tay áo cho nàng ta. Hoàng hậu lệnh cho thị nữ xoa lên trán, vẻ mặt khá hơn một chút, bảo: “Hoàng thượng và bản cung đều định đến Thiên đàn cầu mưa, sau đó ghé qua Cam Lộ tự vài hôm, cầu phúc cho xã tắc và hậu cung.” Hoàng hậu đưa mắt nhìn tôi đầy ẩn ý. “Mọi chuyện trong hậu cung sẽ giao hết cho Tích Hoa Phu nhân xử lý, Kính Phi cũng sẽ ở bên giúp đỡ một phần.”

Tôi đương nhiên hiểu ý của Hoàng hậu, cúi đầu, thưa: “Thần thiếp sẽ ở lì trong cung dưỡng thai, không có chuyện gì thì sẽ không đi ra ngoài.”

Hoàng hậu khẽ gật đầu. “Như thế là tốt nhất! Tính tình của Tích Hoa Phu nhân ngươi cũng biết rồi đó, nhịn được thì cứ nhịn, đợi Hoàng thượng và bản cung quay về sẽ xử công bằng cho ngươi.” Nàng ta trầm lặng một thoáng rồi an ủi tôi: “Chỉ có điều ngươi đang mang thai, nàng ta cũng không dám làm quá đâu, ngươi cứ yên tâm. Hoàng thượng và bản cung cả đi cả về cũng chưa đến mười ngày, sẽ nhanh chóng hồi cung thôi!”

Tôi dịu dàng mỉm cười, giữ vẻ khiêm tốn đúng lễ. “Đa tạ Hoàng hậu quan tâm, thần thiếp nhất định sẽ giữ gìn sức khỏe!”

Hoàng hậu mỉm cười, quan sát bên má từng bị Tùng Tử cào phải để lại sẹo, bảo: “Vết thương trên mặt ngươi hình như đã đỡ hơn nhiều.”

Tôi đưa tay vuốt khẽ lên má, thưa: “An muội muội tặng cho thần thiếp loại thuốc Thư ngân giao, thần thiếp dùng đến giờ thì quả nhiên đã khá lên không ít.”

Hoàng hậu liếc mắt, mỉm cười, bảo: “Nếu là thuốc tốt thì cứ tiếp tục dùng đi. Vết thương phải lành hẳn mới được, đừng để lại sẹo, nếu không thì đáng tiếc lắm!” Hoàng hậu cảm thán tốt lên: “Nữ nhân trong cung như chúng ta, chẳng có gì quý giá hơn khuôn mặt đẹp cả.”

Tôi cung kính nói “vâng” theo rồi mới xin cáo lui.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 20-4-2016 14:40:11 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 23
Con nối dòng


Ngày mùng Bảy tháng Sáu, trời nóng nực, Huyền Lăng và Hoàng hậu rời cung cầu mưa, mọi người đi tiễn đến tận cửa cung, dõi theo đoàn người rồng rắn rời đi. Tích Hoa Phu nhân đột nhiên cất tiếng cười khẽ. “Lần cầu phúc này, trong hậu cung chỉ có một mình Hoàng hậu nương nương đi theo Hoàng thượng, e là không chỉ cầu cho trời xanh ban mưa mà còn phải cầu được một hoàng tử, như thế Hoàng hậu mới vừa lòng.”

Trước mặt bao người, Tích Hoa Phu nhân nói những lời cực kỳ bất kính như vậy, nhưng chẳng ai dám phản bác một câu. Dưới ánh mặt trời sáng rỡ, bầu không khí im ắng, không một tiếng động.

Nàng ta chợt quay đầu nhìn tôi, nhan sắc mỹ lệ dưới ánh nắng chói chang không có bất cứ khuyết điểm nào. Nàng ta quả nhiên rất đẹp, hơn nữa còn vô cùng kiêu hãnh. Nàng ta nửa cười nửa không nhìn sang tôi, tiếp tục đề tài khi nãy: “Hoàn Quý tần, ngươi thấy sao?”

Tôi khựng lại rồi nhanh chóng lên tiếng đáp trả hết sức đúng mực: “Nếu Hoàng hậu mang thai thì đúng là việc vui cho cả Đại Chu, phu nhân nhất định cũng sẽ vui mừng, có phải vậy không?”

Nàng ta tủm tỉm cười. “Đương nhiên, bản cung nghĩ Quý tần hẳn cũng sẽ vui mừng.”

Tôi bình tĩnh chăm chú nhìn nàng ta. “Hoàng hậu nương nương thân là mẫu nghi thiên hạ, trừ những kẻ bụng dạ xấu xa, còn chẳng ai lại không vui nếu việc đó xảy ra cả.”

Nàng ta đưa tay áo lên che ánh nắng chói chang, hai mắt hơi nheo lại, tựa hồ lẩm bẩm nói một mình: “Miệng lưỡi của ngươi càng ngày càng khéo đấy!” Nàng ta không nói thêm gì nữa, chỉ dùng ánh mắt sắc bén lẳng lặng nhìn lướt qua mặt tôi, khiến tôi như rát cả một bên má. Cuối cùng, ánh mắt nàng ta dừng lại ở vùng bụng đã hơi nhô lên của tôi, vẻ mặt phức tạp, khó dò.

Lần khiêu khích đầu tiên sau khi Huyền Lăng và Hoàng hậu rời cung đã kết thúc một cách im hơi lặng tiếng như thế.

Nhưng địch ý của Tích Hoa Phu nhân đối với tôi thì ai cũng biết.

Cứ tưởng hai bên sẽ tiếp tục ngang hàng tranh chấp mãi như thế, ai ngờ mưa bão lại ập tới quá nhanh.

Sáng sớm nọ, thức dậy, nhìn vào gương trang điểm, tôi chợt cảm thấy bụng dưới hơi nhộn nhạo, eo lưng nhức mỏi, khó chịu, nhìn vào gương, thấy sắc mặt tái nhợt khó coi, tôi bất giác giật mình kinh hãi.

Hoán Bích có chút hốt hoảng, vội chạy đến đỡ tôi ngồi xuống, hỏi: “Tiểu thư, người sao vậy?”

Tôi sợ nàng ta lo lắng, tuy trong lòng lo sợ nhưng vẫn mỉm cười miễn cưỡng, bảo: “Không có gì đâu, hẳn là mấy ngày liền phải đối phó với Tích Hoa Phu nhân, hao tổn tâm lực quá mức nên mới đến nông nỗi này.”

Hoán Bích vẫn còn trẻ tuổi, chưa hiểu chuyện, mặt mày tái nhợt, Cận Tịch vội chạy lại thưa: “Mấy ngày nay nương nương cứ than thở toàn thân đau nhức, mệt mỏi, hay là uống một ít nước nóng rồi nghỉ ngơi, nô tỳ sẽ lập tức đi mời Chương thái y đến đây.”

Tôi cố gắng gật gật đầu.

Cận Tịch vừa bước ra khỏi cửa, tay chấp sự nội giám hầu cận Tích Hoa Phu nhân đã đến truyền lệnh. Hắn hành lễ chu đáo nhưng mặt trơ ra như đá, không có chút biểu cảm: “Truyền lời của Tích Hoa Phu nhân, mời Hoàn Quý tần đến Mật Tú cung cùng nghe sự vụ.”

Tôi kinh ngạc đảo mắt, hỏi: “Cùng nghe sự vụ là sao?”

Hắn cười khỉnh. “Hiện giờ Tích Hoa Phu nhân thay mặt Hoàng hậu quản lý mọi sự vụ lớn nhỏ trong lục cung, có ra lệnh gì thì các vị nương nương, tiểu chủ đều phải đến nghe.”

Lưu Chu đứng một bên trừng mắt, quát: “Không thấy tiểu thư nhà chúng ta đang không được khỏe hay sao?! Mấy ngày trước Hoàng hậu nương nương còn chính miệng nói, tiểu thư nhà chúng ta đang mang thai, lễ thỉnh an mỗi ngày miễn được thì cứ miễn, hiện giờ sự vụ của Tích Hoa Phu nhân lại càng không cần thiết phải đi nghe!”

Lưu Chu chưa kịp dứt lời, một người đã lách mình đi vào, chính là nội giám đắc lực nhất bên cạnh Tích Hoa Phu nhân, Chu Ninh Hải. Hắn thỉnh an theo đúng lễ nghi, khi đứng dậy, lập tức mắng mỏ tay tiểu nội giám vừa tới: “Hồ đồ! Bảo ngươi đến mời Hoàn Quý tần mà sao lại chậm trễ như thế? Chỉ biết lãng phí thời gian thôi, còn không mau đến Thận hình ty lãnh ba mươi cái tát!”

Tôi lẽ nào không rõ, hắn tuy ngoài miệng mắng mỏ tay tiểu nội giám nhưng thực ra là đang chửi chó mắng mèo mà thôi. Lửa giận bừng bừng trỗi dậy, nghẹn lại trong lồng ngực, tôi thấy bực tức, khó chịu, bèn đưa mắt ra hiệu cho Lưu Chu.

Lưu Chu vừa định mở miệng, Chu Ninh Hải đã tươi cười nhìn sang tôi, cất giọng hết sức cung kính, thưa: “Phu nhân biết Quý tần nương nương tấm thân quý trọng, lại hay đau bệnh nên đặc biệt sai nô tài đến mời người, để tránh cho đám nô tài không biết chuyện xúc phạm đến người. Hơn nữa, người không chịu đi thì thật không tiện, nếu tính về địa vị thì người vẫn kém Hân Quý tần, nhưng e là các vị phi tử nương nương cũng không quý trọng bằng người nữa. Người không chịu đi, vậy thì Tích Hoa Phu nhân làm sao có thể chấn chỉnh lục cung đây? Tích Hoa Phu nhân đứng ra quản lý lục cung là vâng theo ý của Hoàng hậu nương nương, người không thể làm trái ý của Hoàng hậu nương nương được!”

Mồm miệng hắn tuy lươn lẹo nhưng lời nào cũng đúng lý. Tôi nhất thời cũng không phản đối được, đang chần chừ thì nghe hắn vội nói thêm: “Điềm Tần tiểu chủ và Đoan Phi nương nương sức khỏe sa sút như thế, đương nhiên là không đến được, còn các phi tần khác đều đã có mặt, đến An Mỹ nhân cũng đã đến, chỉ còn đợi mỗi mình nương nương người mà thôi.”

Tôi đương nhiên không thể tiếp tục thoái thác được nữa, biết rõ là khó tránh khỏi bị ả ta quở trách một phen nhưng lễ nghi không thể xem thường. Huống hồ Hoàng hậu trước khi đi đã dặn dò, bảo tôi mấy ngày này dù thế nào cũng phải cố nhẫn nhịn. Cố gắng đứng dậy, thay áo xong xuôi, tôi trang điểm lại để sắc mặt tươi tỉnh hơn, đương nhiên không thể lộ chút yếu ớt mệt mỏi nào trước mặt nàng ta, tôi sao lại chịu rơi vào thế kém cơ chứ?

Vội vã như vậy nhưng cuối cùng tôi vẫn đến trễ.

Mật Tú cung của Tích Hoa Phu nhân hết sức tráng lệ, hình thú chạm trổ trên mái toàn bằng vàng ròng, cột kèo khắc toàn đồ án cát tường hình chim loan xanh bay lượn, chim loan được chạm trổ sinh động như thật, lấp lánh, huy hoàng, khí thế chẳng kém gì phượng hoàng.

Tôi được Cận Tịch đỡ lấy, bước lên mười bậc thềm, theo lễ quỳ xuống, dập đầu trước mặt Tích Hoa Phu nhân.

Giữa điện có đặt một khối băng chạm trổ, mát rượi. Ở một bên chính điện, chiếc đỉnh lớn bách hợp bằng vàng đỏ đang thắp một loại hương gì đó không rõ tên, mùi hương ngọt ngào, mềm mại khiến người như say như mê, xương cốt mềm ra, thoải mái không sao kể xiết.

Tích Hoa Phu nhân ngồi ngay ngắn ở phía trên, hai chuỗi ngọc trai dài thượt buông rủ hai bên gương mặt, tay thỉnh thoảng phe phẩy chiếc quạt tròn ngũ sắc vẽ hình hoa thược dược bằng nhũ vàng, hai mắt trợn ngược mà như không, đôi mày vẽ tỉ mỉ theo hình núi xa đập thẳng vào mắt người nhìn. Việc tôi đến trễ khiến bầu không khí vốn có phần gượng gạo lại càng căng thẳng. Nghe tôi bẩm báo lý do đến trễ, nàng ta cũng chẳng hề làm khó gì tôi, bảo tôi về chỗ của mình, ngồi xuống. Nàng ta dễ dàng bỏ qua như vậy lại khiến tôi sinh lòng nghi ngờ, bất an.

Nói được vài câu, đến lúc đồ ngọt được dâng lên, mọi người đã thoải mái được đôi chút, Lăng Dung đột nhiên lên tiếng hỏi: “Cung của Phu nhân thơm quá, không biết người sử dụng loại hương liệu gì vậy?”

Tích Hoa Phu nhân đầu mày cuối mắt đều lộ vẻ đắc ý, bảo: “Lỗ mũi của An Mỹ nhân thính thật đấy! Đây là hương liệu do Hoàng thượng sai người tỉ mỉ điều chế cho bản cung, gọi là Hoan Nghi hương, trong hậu cung chỉ có mỗi mình bản cung sử dụng cho nên các ngươi không biết cũng phải thôi.”

Lời nói đó khiến mọi người ít nhiều cũng có chút ngượng ngập và ghen tỵ, nhưng nàng ta địa vị tôn quý như thế, đương nhiên chẳng thèm để ý.

Lăng Dung khẽ mỉm cười, cúi đầu, thưa: “Tần thiếp kiến thức nông cạn, không hiểu biết nhiều như Phu nhân.”

Chuyện phiếm đôi ba câu, phi tần lục cung im phăng phắc, lẳng lặng lắng nghe nàng ta kể lại sự vụ trong cung.

Thân thể tôi dần đã bớt bủn rủn, nàng ta cũng nhắc đến chuyện phải chỉnh lý lại lục cung: “Chuyện Điềm Tần sảy thai, Cẩn Phi đã sợ tội mà tự vẫn, bản cung cũng chẳng muốn nhắc lại chuyện cũ làm gì. Nhưng qua chuyện này có thể cho thấy, trong cung có quá nhiều kẻ mưu mô, xảo quyệt. Hơn nữa, mấy ngày gần đây, đám cung nữ, nội giám cãi vã, đánh lộn không ít, đứa nào cũng coi trời bằng vung. Đã đến lúc cần phải sửa trị lục cung rồi!”

Tuy Kính Phi cũng có quyền phụ trợ quản lý lục cung nhưng Tích Hoa Phu nhân một mình thao thao bất tuyệt, nàng ta chẳng có cơ hội nói xen vào một câu. Mọi người kính cẩn lắng nghe từ đầu đến cuối, Tích Hoa Phu nhân vuốt ve móng tay cong dài, bóng nhẵn của mình rồi lạnh lùng đổi giọng: “Mang thai thì có thể ỷ được sủng ái mà kiêu căng hay sao?” Nói xong, nàng ta liếc xéo sang tôi, giọng nói đột ngột cất cao, trở nên gay gắt, chua ngoa: “Hoàn Quý tần, ngươi có biết tội không?”

Tôi vốn không mấy để tâm đến những lời nói của nàng ta, thấy nàng ta đột nhiên quát hỏi gay gắt như thế thì không khỏi ngạc nhiên. Tôi bèn đứng dậy, cúi đầu, hỏi: “Phu nhân sao lại giận dữ như vậy, tần thiếp không biết mình sai ở chỗ nào. Xin Phu nhân cho tần thiếp được biết.”

Vẻ mặt nàng ta lập tức lộ vẻ cay nghiệt, cất giọng quát lớn: “Hôm nay mọi phi tử, cung tần đều tụ tập ở Mật Tú cung bàn việc, Hoàn Quý tần đến trễ mà chẳng có nguyên do, coi bản cung không ra gì, còn chưa chịu quỳ xuống!”

Nói như vậy chẳng qua là muốn ra oai phủ đầu tôi mà thôi, nhân tiện uy hiếp cả lục cung. Thực ra cũng chẳng cần phải làm như vậy, Hoàng hậu có mặt hay không thì mọi người đều biết trước mắt ai là người được sủng ái nhất, nàng ta có gia thế vững vàng, không cần việc vẽ rắn thêm chân, lại còn làm mất lòng người nữa.

Tôi chỉ mới mang thai mà thôi, trong thời gian ngắn không thể thường xuyên hầu hạ Huyền Lăng, nàng ta việc gì phải tranh giành chút hơn thua sớm tối nhỏ nhoi cơ chứ?

Thế nhưng tôi luôn nhớ rõ những lời dặn dò của Hoàng hậu và Huyền Lăng, không thể không nhịn nhục, đành từ từ quỳ xuống.

Cơn giận của nàng ta vẫn chưa hết, giọng càng lúc càng nghiêm khắc: “Bây giờ đã không coi ai ra gì rồi, nếu như sinh được hoàng tử nối dõi thì còn đến mức nào nữa đây? Chẳng lẽ cả hậu cung đều phải đổi thành họ Chân của ngươi hay sao!”

Tôi không phải là không thể ngậm miệng chịu nhục, nhưng cứ nhẫn nhịn mãi thì sẽ khiến nàng ta thêm kiêu ngạo, không coi ai ra gì, huống hồ còn có Thuần Nhi nữa, Thuần Nhi quả thật là chết không nhắm mắt mà. Nghĩ đến đây, tôi sao có thể nhượng bộ, lùi bước tiếp được?

Tôi hơi cúi đầu, giữ tư thế khiêm tốn, cất giọng thưa: “Phu nhân tuy đang tức giận nhưng tần thiếp không thể không biện giải cho mình. Lúc Cẩn Phi mang thai thì hẳn là Hoàng thượng và Hoàng hậu đều đặc biệt chiếu cố, đó không phải là vì Cẩn Phi mà là vì tông miếu xã tắc. Tần thiếp hôm nay cũng không phải là đến trễ không có lý do, mà dù cho hôm nay tần thiếp có hành động gì mạo phạm đến Phu nhân thì trên có Thái hậu và Hoàng thượng, Hoàng hậu lại là mẹ cả của con rồng, Phu nhân bảo rằng hậu cung phải theo họ Chân thực sự khiến cho tần thiếp vô cùng khiếp sợ.”

Dưới mái tóc mây bới cao, vẻ mặt trang điểm tỉ mỉ của nàng ta đông cứng lại, lông mày kẻ theo kiểu núi xa hơi nhướng lên, càng tôn lên đôi mắt phượng khí thế bức người, không giận mà vẫn có uy. Hơi thở của nàng ta chợt trở nên dồn dập, chiếc quạt tròn trong tay không ngừng gõ mạnh xuống tay vịn của ghế ngồi, khiến mọi người sợ hãi đưa mắt nhìn nhau rồi vội vã ngồi thẳng người.

Kính Phi vội vã lên tiếng xoa dịu: “Phu nhân nói cả nửa ngày hẳn cũng đã khát rồi, hay là uống một chung trà, nghỉ một lúc đã. Còn Hoàn Quý tần đang quỳ đó, cũng nên để cho nàng ta đứng dậy thưa chuyện thôi.”

My Trang cố tập trung ánh mắt về phía tôi nhưng vẫn không giấu được nỗi căm hận sâu sắc như mũi dao đối với Tích Hoa Phu nhân. Tích Hoa Phu nhân chẳng hề để ý gì đến tỷ ấy, chỉ nhìn tôi chằm chằm rồi cuối cùng dằn từng tiếng: “Nữ nhân phải lấy phụ đức làm đầu, Hoàn Quý tần mồm mép liến thoắng, thân là bậc dưới mà dám chống đối bề trên, bất kính với bản cung…” Đôi môi hơi mỏng đỏ rực, kiều diễm của nàng ta mím chặt lại, rồi nàng ta giận dữ quát: “Phạt ngươi quỳ bên ngoài Mật Tú cung đọc Nữ giới, coi như là dạy cho ngươi một bài học.”

Kính Phi vội xen vào: “Phu nhân, bên ngoài trời nắng chói chang, mặt đá hoa cương rất cứng, sao có thể để Quý tần quỳ ngoài đó được?”

Lăng Dung ở tít đằng sau cũng lên tiếng cầu xin: “Phu nhân bớt giận, xin hãy nể mặt Quý tần tỷ tỷ thân mang con rồng mà tha cho tỷ tỷ đi, nếu có gì sơ sảy thì đến khi Hoàng thượng và Hoàng hậu quay về sẽ trách móc Phu nhân đấy!” Cổ họng của Lăng Dung đã bị hỏng, lời tha thiết khẩn cầu này lại càng chân thành, đau xót, thế nhưng Tích Hoa Phu nhân lại đột nhiên nổi giận: “Quy củ trong cung không nghiêm thì đương nhiên phải chấn chỉnh lại, dẫu Hoàng thượng và Hoàng hậu có mặt ở đây thì cũng thế thôi, Cẩn Phi chính là ví dụ rõ ràng nhất, chẳng lẽ ngươi dám lấy Hoàng thượng và Hoàng hậu để uy hiếp bản cung hay sao?”

Lăng Dung sợ đến mức nước mắt đầy mặt, không dám mở miệng nói gì thêm, chỉ liên tục dập đầu thành tiếng.

Tích Hoa Phu nhân nhìn tôi chằm chằm, hỏi: “Ngươi tự mình ra ngoài hay đợi ta sai người đỡ ngươi ra?”

Bụng dưới của tôi chợt nhói đau, tôi cau mày, hiên ngang đáp: “Không dám làm phiền nương nương.”

Chu Ninh Hải tủm tỉm cười, cụp mắt xuống, quay sang tôi: “Xin mời Quý tần!”

Tôi đoan trang bước ra đến cửa Mật Tú cung, thẳng người quỳ xuống, hô: “Tần thiếp nhận phạt vì nương nương là tòng nhất phẩm phu nhân, địa vị chỉ dưới Hoàng hậu, nhận lệnh của Hoàng đế, Hoàng hậu chấp chưởng lục cung.” Tôi không thèm để ý đến cái nháy mắt ra hiệu của Kính Phi, cũng không nhìn đến những ánh mắt hoặc đồng tình hoặc vui sướng xung quanh, hơi ngẩng lên, tiếp: “Chứ không phải vì tần thiếp tâm phục khẩu phục trước lời trách phạt của nương nương, công đạo nằm trong lòng người, hình phạt chẳng làm gì được cả.”

Nàng ta giận quá hóa cười. “Giỏi lắm, bản cung sẽ cho ngươi biết, công đạo nằm trong tay Mộ Dung Thế Lan ta hay là nằm trong cái mà ngươi gọi là lòng người!” Nàng ta ném quyển sách xuống trước đầu gối của tôi. “Tự mình từ từ đọc đi! Đọc đến khi bản cung hài lòng thì thôi!”

My Trang không còn cố kỵ gì đến tị hiềm hay tôn nghiêm nữa, quỳ gối đi đến trước mặt Tích Hoa Phu nhân, thưa: “Hoàn Quý tần đang mang thai, thực tình không tiện…”

Tích Hoa Phu nhân nhướng cao mày, cắt ngang lời van vỉ của My Trang: “Bản cung thấy ngươi là kẻ vết thương vừa lành đã quên hẳn đau! Một khi ngươi đã muốn cầu xin cho nàng ta, vậy thì hãy quỳ ở một bên đi, cùng lắng nghe lời dạy dỗ!”

Tôi không muốn liên lụy đến My Trang chút nào, tỷ ấy vừa mới khỏe lại, sao có thể cùng quỳ với tôi thời gian dài dưới ánh mặt trời chói chang cơ chứ! Tôi bất giác đưa mắt nhìn sang My Trang, ra hiệu cho tỷ ấy đừng nói nữa rồi dịu giọng van xin Tích Hoa Phu nhân: “Thẩm Dung hoa không hề cầu xin gì cho tần thiếp, xin Phu nhân đừng giận lây sang tỷ tỷ.”

Khuôn mặt phấn son dày cộp của nàng ta chợt nở nụ cười đầy vẻ châm biếm. “Nếu như bản cung nhất định phải trút giận vào ả ta thì ngươi có thể làm được gì cơ chứ?!” Nàng ta lập tức thu lại nụ cười, quay sang lệnh cho My Trang: “Chẳng phải nói là tình như tỷ muội ruột thịt sao? Ngươi hãy cầm sách quỳ ngay trước mặt Hoàn Quý tần, để cho nàng ta đọc hết một lượt, học thêm được chút lễ nghi, quy tắc vậy!”

My Trang đã biết không có cách nào cầu xin được cho tôi, nếu tiếp tục van vỉ thì chỉ e sẽ gặp phải cảnh ngộ còn nhục nhã hơn. Tỷ bèn không nói thêm tiếng nào, nhặt quyển sách lên rồi hạ giọng, nói nhanh bên tai tôi: “Tỷ sẽ ở bên cạnh muội.”

Lòng tràn đầy cảm động và biết ơn, tôi gật đầu rồi khẽ ngẩng lên, không để cho những giọt lệ rưng rưng nơi khóe mắt rơi xuống.

Đã sắp đến lúc giữa trưa, ánh mặt trời chói chang, nóng bức, đột ngột bước ra từ Mật Tú cung mát mẻ, thoải mái, tôi chỉ cảm thấy hơi nóng ào ạt ập tới, xông vào mọi lỗ chân lông trên cơ thể.

Lúc này, tôi mới hiểu ra vì sao Tích Hoa Phu nhân không nổi giận ngay từ lúc đầu mà nhịn cho đến lúc này. Buổi sớm, khí trời mát mẻ, nàng ta cho rằng như thế thì lợi cho tôi quá.

Chiếc váy mỏng manh, mềm mại dán chặt vào đầu gối, hơi nóng hầm hập từ gạch lát truyền qua váy xông thẳng lên ngực tôi, tôi chỉ cảm thấy khoảng từ đầu gối xuống tận ngón chân vừa cứng đơ vừa nóng giãy, hết sức khó chịu.

Tích Hoa Phu nhân ngồi ngay ngắn trước cửa điện, quanh chỗ ngồi bày đầy đá lạnh, thế mà nàng ta vẫn cảm thấy nóng, bèn lệnh cho bốn ả thị nữ đứng sau lưng quạt mát, rồi lệnh cho nội giám đứng bên cạnh: “Dời ghế ngồi của các nương nương tiểu chủ ra phía trước hành lang, để cho bọn họ chống mắt nhìn cho kĩ, không tuân thủ cung quy, coi thường bản cung thì sẽ gánh hậu quả thế nào!”

Nữ nhân trong cung vốn hết sức trân trọng làn da, sao chịu để cho nắng trời gay gắt chiếu lên làn da trắng muốt, non mịn của mình cơ chứ, như thế chẳng khác gì lấy mạng của bọn họ cho xong. Huống hồ bọn họ quen ăn sung mặc sướng, sao có thể ngồi phơi nắng giữa trưa giống tôi cho được? Thế nhưng chẳng ai dám phản đối mệnh lệnh của Tích Hoa Phu nhân, sợ bị liên lụy mà phải quỳ chung với tôi. Chính vì thế mà mọi người, ai cũng tỏ vẻ sầu thảm, khổ sở không sao chịu nổi, tức giận mà không dám nói.

Tôi thầm cười khổ, Tích Hoa Phu nhân đúng là đã khổ công tính toán đâu vào đấy. Nàng ta được sủng ái như thế mà vẫn còn chê chưa đủ, buộc đám mỹ nhân yểu điệu, ẻo lả kia phải phơi nắng đến đen cả da, chỉ mình mình là giữ được làn da trắng như tuyết. Huyền Lăng quay về thì hẳn chỉ nhìn thấy nàng ta là mỹ nhân ngọc ngà thôi.

Bốn bề dần yên tĩnh trở lại, ánh mặt trời chói chang rọi xuống mặt sân lát đá hoa cương trước điện, gạch lát vốn đã đen nhánh, bóng lưỡng, có thể soi gương được, nhìn chẳng khác gì từng ô mực tàu ngưng đọng, nay lại lấp loáng trắng lóa dưới ánh mặt trời.

Biết chẳng còn cách nào thoát khỏi, tôi và My Trang quỳ gối đối mặt nhau giữa quầng sáng lóa mắt ấy. Tỷ đưa sách lên tận mặt tôi, giúp tôi đọc từng chữ. Ánh sáng phản chiếu quá mạnh, sách lại vừa cũ vừa nát, tôi phải cố gắng lắm mới có thể nhìn thấy chữ.

Kính Phi xót xa, đang định lên tiếng khuyên nhủ thì Tích Hoa Phu nhân quay lại, gườm gườm nhìn nàng ta. “Quỳ nửa canh giờ đọc Nữ giới chẳng chết người được đâu! Ngươi còn nhiều lời thì bản cung sẽ cho ngươi ra ngoài quỳ luôn thể!” Kính Phi chẳng biết làm sao, chỉ đành im lặng không dám thốt tiếng nào.

Đọc xong một lượt, Tích Hoa Phu nhân vẫn còn chưa chịu dừng, hậm hực dằn giọng: “Đọc lại!”

Tôi đành đọc lại từ đầu, lo lắng cho sức khỏe cảu My Trang và sự an nguy của đứa nhỏ trong bụng, mấy lần tôi định đọc lướt cho nhanh, nhưng Tích Hoa Phu nhân đời nào lại chịu, tôi vừa đọc hơi nhanh được hai, ba chữ, My Trang lập tức bị đánh mạnh vào người. Thước vốn là vật thầy giáo dùng để đánh những học trò hư, cửa cung của Tích Hoa Phu nhân lại trở thành dụng cụ tra tấn. Tiếng thước gõ vào người đánh “bộp” một cái vừa đanh vừa gọn, để lại một vết bầm đỏ thẫm. My Trang mím môi nhẫn nhịn, không nói tiếng nào cố gượng đau, mồ hôi chảy ròng ròng. Tôi biết, một khi mồ hôi đổ xuống thì vết thương sẽ càng xót.

Tích Hoa Phu nhân không dám ra tay đánh tôi nhưng chứng kiến cảnh My Trang chịu tội thay cho tôi như vậy, tôi vừa thấy tức giận vừa thấy chua xót, còn khó chịu hơn là chính mình chịu phạt. Tôi chỉ có thể mở to mắt nhìn tỷ ấy chịu đòn roi, có thể chậm rãi đọc từng chữ, chờ đợi thời gian trôi đi.

Không biết đã quỳ bao lâu, hai chân trở nên tê rần, không còn cảm giác, chỉ cảm thấy từng giọt mồ hôi ròng ròng chảy dọc hai bên mặt, tóc mai bết dính. Lưng và tay áo hết ướt rồi lại khô, để lại những vệt mồ hôi trắng xóa.

Tôi đọc đi đọc lại:

“Thần hèn ngu muội, bẩm sinh đần độn, ỷ vào chút phúc thừa từ tiên phụ, lại nhờ ân dạy dỗ của mẫu thân và sư phụ… Ơn thánh đều khắp, ban cho chức tước, vốn không phải là điều mà kẻ hèn này dám mong đợi. Con trai có thể tự lo lấy thân mình, ta không cần phải vì nó mà lo lắng. Chỉ thương cho các con gái sắp gả cho người mà vẫn chưa được dạy bảo gì, chưa biết đến đạo lý làm vợ, nễu lỡ phạm phải lỗi lầm nơi nhà người, sẽ làm nhục cho tông tộc.

Thứ nhất là nhún nhường. Người xưa, ba ngày sau khi sinh con gái thì đặt cho nằm ở dưới giường, lấy con thoi cho cầm tay, trai giới cúng tổ tiên. Nằm ở dưới giường là chỉ ý nhún nhường, ở bên dưới người khác… Thứ nhì là đạo vợ chồng. Đạo vợ chồng cứng mềm, uyển chuyển, hợp với âm dương, hòa thuận, kính trọng, hợp với đại nghĩa thuở thiên địa sơ khai, thông thấu đến thần linh, cũng là việc lớn của nhân luân…”

Là tiếng ve kêu hay tiếng Lăng Dung vẫn đang dập đầu đây? Đầu tôi choáng váng, ồn ào quá, tai ù ù chẳng còn nghe rõ gì cả.

“Thứ ba là kính thuận. Âm dương bất đồng, nam nữ khác biệt. Dương lấy cứng rắn làm đức, âm lấy mềm mại làm chủ, nam lấy mạnh mẽ làm quý, nữ lấy yếu đuối làm trọng…”

Hình như ánh mặt trời càng lúc càng chói chang, hàng chữ trước mắt lúc to lúc nhỏ, lắc lư không ngừng, tựa như đàn kiến lúc nhúc chuyển động.

“Thứ tư là đức hạnh. Nữ có bốn hạnh, một là phụ đức, hai là phụ ngôn, ba là phụ dung, bốn là phụ công…”

Bụng dưới nặng trĩu, lưỡi khô, miệng khát, cơ thể vừa mềm nhũn vừa đau nhức, cơ hồ bao sức lực đang bốc hơi theo mồ hôi đổ ra từ cơ thể.

My Trang lo lắng quan sát tôi, Kính Phi cất giọng sốt ruột nhắc nhở: “Đã được nửa canh giờ rồi!”

“Thứ năm là chính chuyên. Theo lễ, vợ mất, chồng có quyền tái thú, nhưng chồng mất, chưa hề nghe đến chuyện vợ được tái giá, do đó mới nói chồng chính là trời… Vợ nếu được lòng của chồng, có thể an tâm gửi gắm trọn đời, nếu không được lòng chồng, coi như cả kiếp uổng phí… Thứ sáu là thuận tòng…”

Đá vụn trong chén của Tích Hoa Phu nhân va vào nhau kêu lanh canh, tựa như tiếng chuông gió leng keng dưới mái nhà, khiến tôi hết sức thèm thuồng. Nàng ta ngậm một viên đá lạnh trong miệng, hờ hững bảo: “Không vội, đọc thêm một khắc nữa rồi nói sau.”

“Nếu lỡ xảy ra chuyện gì thì biết làm thế nào? Chỉ e Phu nhân cũng không gánh vác được đâu. Ôi chao, mặt của Hoàn muội muội đã tái nhợt rồi kìa! Phu nhân!”

Tích Hoa Phu nhân chẳng thèm để ý. “Ả ta làm bộ ẻo lả, đáng thương thế kia cho bản cung xem sao? Bản cung thấy ả ta vẫn còn khỏe mạnh chán!”

“Thứ bảy là hòa thuận với anh chị em nhà chồng. Vợ sở dĩ được lòng của chồng là nhờ được cha mẹ chồng thương yêu. Cha mẹ chồng thương yêu là nhờ được anh chị em chồng khen ngợi… Khiêm tốn là mấu chốt của đức hạnh, hiền hòa vâng theo là đức hạnh của người phụ nữ. Chỉ cần giữ được hai điều đó là có thể hòa hợp với họ hàng. Trong Kinh thi có viết: ‘Không người làm ác, không người chán ghét’ chính là chỉ ý này.”

Người ê ẩm, cơn đau co giật như bị rắn siết chặt dần lan tỏa khắp người, chẳng khác nào có thứ gì đó đang từ từ rời khỏi cơ thể. Mặt trời gay gắt nhưng vì sao tôi lại cảm thấy lạnh, ánh mặt trời chói chang, sáng rỡ nhưng lại lạnh buốt thấu xương tựa như ánh tuyết.

Tôi thật sự khao khát muốn dựa vào ai đó, là My Trang đang gọi tôi sao? “Hoàn Nhi! Hoàn Nhi! Muội làm sao vậy?!”

Xin lỗi, My Trang, không phải là muội không muốn trả lời tỷ, thực sự muội chẳng còn chút sức lực nào.

Vì sao lại có chéo áo của nam giới xuất hiện bên cạnh tôi? Ôi! Huyền Lăng, là chàng quay về ư?? Tứ lang! Tứ lang! Mau cứu thiếp! Không đúng, áo của người này có màu vàng sáng, kiểu cắt may cũng chẳng phải kiểu cắt may cho đế vương. Tôi cố hết sức ngẩng lên, áo bào mỏng bằng sa đỏ thẫm thêu hình giao long, thắt lưng bạch ngọc hình cá và rồng… Là… là thường phục của thân vương. Là y, Huyền Thanh! Tôi nhớ ra rồi, Thái hậu mấy hôm trước lâm bệnh, y bèn ở lại Lũ Nguyệt Khai Vân quán trên hồ Thái Dịch để tiện đến chăm sóc hằng ngày. Cũng bởi vì y vẫn chưa thành hôn, cần tránh né phi tần trong hậu cung nên mới chọn ở lại phía ngoài hồ. Từ đó muốn đến cung của Thái hậu thì nhất định phải đi qua Mật Tú cung của Tích Hoa Phu nhân.

Y xuất hiện đột ngột như vậy khiến đám phi tần hoảng hốt chạy ào vào ẩn mình trong nội điện.

Thanh Hà vương, ngươi đang tranh cãi với Tích Hoa Phu nhân ư? Đồ ngốc, có đông đảo nữ quyến ở đây, ngươi không biết là cần phải tránh mặt hay sao? Ngươi nhất định là phát điên rồi, tự tiện xông vào hậu cung. Tích Hoa Phu nhân có Nhữ Nam vương mạnh mẽ chống lưng, còn trong các huynh đệ, người mà Nhữ Nam vương chán ghét nhất chính là ngươi, ngươi việc gì phải hành động thế này?!

Ôi! Tôi chẳng thể quan tâm nhiều hơn nữa! Bụng tôi đau quá, là tay của ai đang cào xé gan ruột tôi, rút ra từng làn hơi nóng khỏi cơ thể tôi? Chẳng khác nào dòng nước nóng đang ồ ạt chảy ra ngoài.

Tầm nhìn của tôi như bị một làn sương trắng muốt che chắn, hàng mi dài biến thành lớp rèm mỏng mơ hồ. Huyền Thanh, vẻ mặt của ngươi vừa phẫn nộ vừa sốt ruột, ngươi đang tức giận ả ta lắm à? Ôi chao, trước giờ tính tình của ngươi vốn rất ôn hòa mà.

My Trang, Lăng Dung? Vì sao các người lại sợ hãi như vậy? My Trang, tỷ đang khóc kìa! Vì sao vậy! Muội chỉ mệt mỏi mà thôi, đau đớn một chút thôi, tỷ đừng sợ! Tứ lang, tứ lang sắp quay trở về rồi.

Tỷ nhìn kìa, tứ lang đã ôm lấy muội rồi, y phục của chàng áp sát vào mặt muội, chàng bế muội lên, là ngày hôm đó, hoa hạnh bay phấp phới đầy trời như mưa phùn, chàng ôm lấy muội, đi dọc theo vĩnh hạng dài dằng dặc. Cánh tay của chàng hết sức mạnh mẽ, đưa muội rời khỏi Mật Tú cung. Tích Hoa Phu nhân giận quá hóa cười, nhưng vì sao ả ta lại lộ vẻ khiếp sợ như thế? … Ôi! Là tứ lang đã trách mắng ả một trận… My Trang, tỷ vẫn còn khóc kìa, tỷ muốn đuổi theo muội sao? Muội mệt quá, muội muốn ngủ một lát.

Nhưng mà… nhưng mà… tứ lang, mặt chàng hôm nay sao lại giống hệt Huyền Thanh như vậy? Thiếp không cười nổi nữa… nhất định là do thiếp bị hoa mắt rồi.

“Quý tần!…” Vào giây phút cuối cùng trước khi mất đi tri giác, tứ lang, thiếp chỉ nghe thấy chàng gọi thiếp như vậy, giọng của chàng đầy thâm tình, đau xót. Có chất lỏng nóng bỏng rơi trên mặt của thiếp, đó là nước mắt của chàng hay sao? Đây là lần đầu tiên chàng rơi lệ vì thiếp. Có thể đây chỉ là ảo tưởng trong vô thức của thiếp mà thôi…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 21-4-2016 12:36:07 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 24 (1)
Tâm sen


Như rơi vào cơn ác mộng vô cùng vô tận, Diệu Âm nương tử xuất hiện trước mặt tôi, Lệ Quý Tần, Tào Tiệp Dư, Tích Hoa Phu nhân đều có mặt. Vùng vẫy, giãy giụa, xô đẩy, trằn trọc không sao thoát được. Mẹ… Con muốn về nhà. Mẹ ơi, con mệt quá, con không muốn tỉnh lại, sao lại đau đớn đến thế này?! Có chất lỏng đắng chát âm ấm rót vào miệng tôi, buộc tôi tỉnh lại khỏi giấc mộng mê man.

Dốc hết sức lực, tôi mới mở mắt ra được. Màn sa đỏ trập trùng, trên thêu toàn hoa văn cát tường nhiều con nhiều phúc, là tẩm điện trong cung của tôi. Tôi thả lỏng người, cuối cùng cũng về cung của mình rồi.

Liếc mắt nhìn qua bên, thấy ngay vạt áo màu vàng sáng lấp lánh như mặt trời, trái tim tôi chợt nhẹ nhõm, tôi chợt yếu hèn rơi lệ.

Y thấy tôi tỉnh dậy thì hết sức vui mừng, siết chặt tay tôi, tha thiết gọi: “Hoàn Hoàn, cuối cùng nàng cũng tỉnh lại rồi!”

Hoàng hậu đứng sau lưng y, cũng thở phào. “Trời xanh ban phúc! Tỉnh dậy là tốt! Ngươi đã ngất đi suốt ba ngày rồi!”

Hít thở một hơi, kéo theo cơn đau lạnh buốt giằng xé, tựa như có lưỡi dao nhỏ xíu, mỏng manh đang cắt sâu vào da thịt. Cơn đau dần dần gọi lại sự tỉnh táo. Tựa hồ đã trăm năm rồi không nói chuyện, tôi chỉ mở miệng thôi mà cũng hết sức khó khăn: “Tứ lang… chàng đã quay về…” Lời chưa dứt, nước mắt đã tuôn rơi, tựa như muốn giãi bày mọi uất ức và đau đớn từng phải chịu từ lúc ly biệt đến giờ.

Y hoảng sợ, luống cuống lau khô nước mắt cho tôi. “Hoàn Hoàn, đừng khóc mà! Trẫm có lỗi với nàng!” Ánh mắt của y tràn đầy đau đớn và bi thương. Chẳng hiểu sao ánh mắt này khiến tôi hết sức sợ hãi và kinh hoàng.

Trong chớp mắt, hàng trăm hàng ngàn ý nghĩ đáng sợ lướt qua trong đầu tôi. Tôi không có can đảm nhưng cuối cùng cũng vươn tay ra, cẩn thận đặt lên phần bụng dưới của mình, nơi đó là bảo bối mà tôi hết sức trân trọng, yêu thương.

Nhưng chỉ mới qua vài đêm thôi, phần bụng vốn hơi nhô lên đã trở nên phẳng lì như cũ.

Tôi khiếp hãi đảo mắt nhìn quanh, mặt ai cũng lộ vẻ bi thương. Tôi đã ngửi thấy mùi máu tanh lan tỏa trong không khí, dẫu cố gắng cách mấy cũng không xua đi được, đến mùi thảo dược nồng nặc cũng không sao át nổi.

Những ngón tay cứng đờ co quắp lại… Tôi không tin! Không tin! Đứa bé không còn nữa! Không còn trong cơ thể của tôi nữa!

Không biết lấy sức lực từ đâu, tôi suýt xoay mình ngồi bật dậy. Mọi người thấy thế đều hoảng hốt, tay chân luống cuống giữ chặt lấy tôi, chỉ sợ tôi làm chuyện điên rồ.

Nỗi đau rứt ruột trào dâng. Tôi gào lên, khóc lớn, hung hăng siết chặt vạt áo trước ngực y. Huyền Lăng chỉ biết trầm lặng ôm chặt lấy tôi. Mấy ngày không gặp, trong mắt y toàn là những sợi tơ máu, râu ria lún phún chưa cạo khiến y trông càng tiều tụy. Kính Phi đứng bên cạnh lau nước mắt, hết lòng khuyên lơn tôi: “Muội muội đừng đau lòng như thế nữa! Hoàng thượng cũng buồn khổ lắm rồi. Ngự giá mới vừa tới Thương Châu đã biết tin có chuyện lớn xảy ra, Hoàng thượng lập tức quay trở về ngay trong đêm.”

Ánh mắt Huyền Lăng thể hiện niềm tiếc thương vô hạn cùng nỗi đau đơn không sao diễn đạt thành lời. Trước giờ, y chưa từng nhìn tôi thế này, ôm tôi thế này. Nỗi bi ai và tuyệt vọng sâu nặng như thế, cơ hồ chẳng phải y vừa mất đi đứa con chưa mở mắt chào đời mà là mất đi tất cả những gì y trân trọng và yêu thương nhất. Hết lần này đến lần khác mất đi con nối dòng, dường như nỗi thương tâm của y lúc này còn trĩu nặng hơn tôi nhiều. Huyền Lăng ôm chặt lấy tôi, vẻ mặt bàng hoàng, rồi y nhìn Hoàng hậu chằm chằm, cất giọng ủ rũ và yếu đuối: “Là trời cao đang trừng phạt trẫm hay sao?!”

Hoàng hậu nghe y hỏi vậy thì giật bắn mình. Nhưng chỉ sau chốc lát, ánh mắt của nàng ta lập tức trở nên kiên định và mạnh mẽ. Hoàng hậu nhanh chóng lau khô nước mắt, vững vàng bước tới trước mặt Huyền Lăng, nửa quỳ xuống giường, ôm chặt lấy y, trịnh trọng nói từng tiếng: “Hoàng thượng là con trai của trời cao, trời cao nhất định sẽ không trừng phạt người và con nối dõi của người đâu. Huống hồ Hoàng thượng trước giờ không làm gì sai, sao lại nói đến hai chữ trừng phạt cơ chứ?” Nàng ta dừng lại một lát, vừa như an ủi vừa như khẳng định với Huyền Lăng: “Nếu như có trừng phạt thì đó hoàn toàn là tội lỗi của thần thiếp, chẳng liên quan gì đến Hoàng thượng cả.”

Lời nói này tôi nghe mà chẳng hiểu gì, nhưng lúc ấy không có thời gian ngẫm nghĩ, mà cũng chẳng muốn hiểu rõ làm gì. Huyền Lăng cơ hồ được an ủi rất nhiều, sắc mặt tươi tỉnh được một chút. Tôi khóc đến khàn cả tiếng, nghẹt cả hơi, mồ hôi bết đầy chân tóc, cơ thể run lên bần bật.

Hoàng hậu khuyên: “Hoàng thượng, giờ không phải là lúc để đau lòng như vậy. Hoàn Quý tần mất con không phải do thiên tai mà là do nhân họa.”

Hoàng hậu vừa nhắc nhở, tôi lập tức tỉnh người, tình cảnh ở trong Mật Tú cung như hiện rõ mồn một trước mắt. Tôi không nén được nỗi đau thương phẫn nộ, hậm hực thưa: “Hoàng thượng, thiên tai không chống lại nổi, nhưng chẳng lẽ cũng không thể ngăn cản được nhân họa hay sao?!”

Huyền Lăng sắc mặt sa sầm, đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi lạnh lùng hỏi: “Tiện nhân đang ở đâu?!”

Lý Tường vội vã bước lên thưa: “Tích Hoa Phu nhân đang quỳ bên ngoài cổng Đường Lê cung, gỡ trâm chịu tội [1].”

[1] Đây là lễ tiết tạ tội của hậu phi thời xưa mỗi khi phạm phải trọng tôi. Thông thường chỉ là tháo hết trang sức, buông xõa tóc, thay y phục đẹp đẽ, mặc y phục trắng, quỳ xuống xin tha tội. Nghiêm trọng hơn thì còn phải để chân trần, bởi vì nữ nhân thời cổ rất coi trọng đôi chân của mình, không thể tùy ý để lộ ra ngoài, do vậy đây có thể coi là loại hình trừng phạt bằng cách tự làm nhục mình, tương đương với “đội gai để chờ trừng phạt”.

Huyền Lăng đanh mặt lại, ra lệnh: “Gọi ả vào!”

Tôi vừa nhìn thấy ả ta thì không còn nước mắt để rơi nữa. Tôi lạnh lùng nhìn ả, hận đến mức nghiến răng nghiến lợi, ánh mắt rực lửa, sát ý bừng bừng trào dâng trong lòng. Nếu có cung tên trong tay, tôi nhất định phải bắn tên xuyên qua đầu ả thì mới hết giận! Nhưng rốt cuộc, tôi cũng chẳng thể làm thế, đành bíu chặt lấy mép chăn, không dám rời tay.

Tích Hoa Phu nhân mặt mày tiều tụy, loang lổ vết lệ, không còn giữ được nhan sắc mỹ miều như ngày trước nữa. Ả ta không dám nhìn tôi, vừa tiến vào đã quỳ xuống, nức nở không thôi. Huyền Lăng còn chưa mở miệng, ả ta đã khóc lóc, thưa: “Thần thiếp có tội. Nhưng hôm đó Hoàn Quý tần chọc giận thần thiếp, thần thiếp chỉ là có ý phạt nhẹ để làm gương, chứ không hề có ý muốn hại Hoàn Quý tần sảy thai. Thần thiếp cũng không ngờ chuyện lại đến mức này mà! Xin Hoàng thượng tha thứ cho tội vô tâm của thần thiếp!”

Huyền Lăng thở hắt ra một hơi lạnh, gân xanh trên trán nổi lên, quát: “Ngươi vô tâm ư… Hoàn Hoàn đã mang thai được bốn tháng, ngươi không biết hay sao?”

Tích Hoa Phu nhân chưa hề thấy Huyền Lăng giận dữ thế này, sợ đến mức chỉ biết cúi đầu rơi lệ, không dám đáp lời. Kính Phi cuối cùng cũng không kìm được, mở miệng xen vào: “Phu nhân có nói rằng Quý tần muội muội đã mang thai được bốn tháng, bào thai khỏe mạnh nên có quỳ cũng chẳng sao.”

Tích Hoa Phu nhân vô cùng khiếp hãi, lết gối hai bước rồi quỳ mọp xuống dưới chân Huyền Lăng, ôm chặt lấy đầu gối của y, nước mắt đầy mặt. “Thần thiếp thật không ngờ. Hôm đó thần thiếp giận quá mất khôn, lại nghĩ là chỉ quỳ nửa canh giờ thôi thì hẳn chẳng có gì đáng ngại…” Nàng ta đột nhiên nhỏm dậy, chỉ sang Chương Di đang đứng hầu một bên, cao giọng quát: “Ngươi làm thái y cái quái gì vậy?! Nàng ta đã mang thai được bốn tháng rồi, vì sao chỉ mới quỳ có nửa canh giờ mà lại có thể sảy thai?! Nhất định là các ngươi cho nàng ta ăn phải thứ gì đó rồi đổ thừa cho bản cung!”

Chương Di giật bắn mình, phất tay áo, thưa: “Quý tần đúng là có dấu hiệu động thai, thai không được ổn định thật, đó là do cơ thể người mẹ yếu ớt, nhưng cũng là chuyện bình thường. Chỗ không ổn duy nhất là Quý tần quá lao tâm nên mạch đập không ổn định. Vốn cũng chẳng có gì đáng ngại, chỉ cần nghỉ ngơi nhiều một chút là khỏe ngay thôi.”

Huyền Lăng quay sang Tích Hoa Phu nhân, quát lớn: “Câm miệng! Nàng ấy lo lắng quá độ chẳng phải là do bị ngươi chèn ép sao? Chỉ cần lòng dạ ngươi rộng rãi một chút thì làm gì nên nỗi!”

Tích Hoa Phu nhân dần nhỏ giọng: “Thần thiếp nghe nói năm xưa Hiền Phi quỳ hai canh giờ mới sảy thai, cho nên cứ cho rằng nửa canh giờ thì chẳng có gì đáng ngại.”

Đó là chuyện xảy ra từ lâu lắm rồi, Huyền Lăng chẳng có thì giờ mà nhớ lại, chỉ có Hoàng hậu là ngẩn người, rồi lập tức mím môi im lặng. Huyền Lăng chỉ bảo: “Hiền Phi lúc đó cư xử với Hoàng hậu hết sức bất kính, Hoàng hậu mới phạt ả ta quỳ nhận lỗi, huống gì Hoàng hậu vốn không biết Hiền Phi mang thai, chuyện xảy ra rồi mới vỡ lẽ. Còn ngươi thì biết rõ rành rành rằng Hoàn Quý tần thân mang thai rồng!” Y dừng lại một lát rồi giọng điệu thêm phần trầm trọng: “Tiện phụ làm sao dám so sánh mình với Hoàng hậu cơ chứ?!” Tích Hoa Phu nhân biết rõ mình lỡ lời, sợ hãi không dám nói thêm.

Huyền Lăng càng giận dữ, trừng mắt nhìn ả đầy chán ghét. “Trẫm thấy ngươi chẳng hề vô tâm, mà thực ra mười phần ác độc! Nếu Hoàn Quý tần thực sự có lỗi, vì sao ngươi không phạt nàng ấy từ sớm mà phải đợi đến lúc giữa trưa, mặt trời chói chang nhất! Đúng là lòng dạ ngươi độc địa như rắn rết, sao trẫm có thể để cho loại người như nhà ngươi ở bên cạnh trẫm cơ chứ?”

Tích Hoa Phu nhân kinh hãi, người nhũn ra, quỳ mọp dưới đất, mặt xám xịt, hồi lâu sau mới cất tiếng khóc lớn, khăng khăng bíu chặt lấy chéo áo của Huyền Lăng, không chịu buông tay, vừa khóc vừa van lơn: “Hoàng thượng! Thần thiếp thừa nhận mình không thích Hoàn Quý tần, từ khi nàng ta vào cung đến giờ, Hoàng thượng người không còn sủng ái thần thiếp như trước nữa. Hơn nữa, thần thiếp còn nghe nói ở trong triều, gia tộc họ Chân tự đặt mình ngang hàng với cha anh thần thiếp, có nhiều xung đột bất đồng, cha anh thần thiếp là người có công với xã tắc, sao có thể chịu nhục trước đám tiểu bối kia được? Đến thần thiếp còn không nhẫn nhịn được nữa là…” Ả ta càng nói càng phẫn uất, hai mắt chằm chằm dính sát vào người tôi.

Hoàng hậu vừa giận vừa than: “Ngươi thật hồ đồ! Ở triều đình có tranh chấp đến mức nào thì chúng ta thân ở hậu cung sao có thể can thiệp được? Huống hồ cha anh ngươi có khúc mắc với cha anh của Quý tần thì hai ngươi càng phải hòa thuận mới phải. Sao ngươi còn thêm dầu vào lửa, vì việc riêng mà làm khó Hoàn Quý tần cơ chứ? Thật uổng công Hoàng thượng tin tưởng ngươi, cho phép ngươi tạm quản lý sự vụ lục cung.”

Hoàng hậu nói một câu, mặt của Huyền Lăng lại thêm sa sầm. Khi Hoàng hậu nói xong, Huyền Lăng đã bừng bừng lửa giận.

Tích Hoa Phu nhân trước giờ quen thói ngang ngược, có bao giờ coi Hoàng hậu ra gì nên cũng chẳng thèm nhìn sang Hoàng hậu, chỉ khóc lóc kể lể với Huyền Lăng: “Thần thiếp đúng là không hài lòng với cách cư xử kiêu ngạo của Hoàn Quý tần, nhưng thần thiếp thực sự không hề muốn hãm hại con của Hoàn Quý tần mà!” Nàng ta khóc lóc như đứt gan đứt ruột. “Thần thiếp cũng từng mất đi một đứa con, sao có thể nhẫn tâm làm như vậy được cơ chứ?”

Nghe nàng ta nói như vậy, ánh mắt tràn đầy chán ghét, coi thường của Huyền Lăng chợt mềm lại, bao đau thương, hối hận, đồng tình, thương hại, đề phòng trộn lẫn, khó thể diễn tả bằng lời. Hồi lâu sau, y buồn bã than thở: “Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Ngươi đã từng trải qua nỗi đau mất con, vì sao lại có thể nhẫn tâm hãm hại Hoàn Quý tần cơ chứ…” Huyền Lăng xua xua tay, cất giọng bi thương: “Dẫu cho ngươi không có ý hại đứa con trong bụng Hoàn Quý tần nhưng đứa bé đó vẫn vì ngươi mà ra đi. Ngươi không thể trốn tránh được trách nhiệm đâu. Kẻ lòng dạ độc ác như nhà ngươi, trẫm tuyệt đối không thể dung túng thêm nữa!” Y gọi Hoàng hậu: “Ban hiểu dụ cho lục cung, phế chức Phu nhân của Mộ Dung thị, tước đoạt phong hiệu, miễn quyền phụ trợ quản lý lục cung, giáng làm Phi. Không có chiếu chỉ không được đến gặp trẫm.”

Hoàng hậu vâng theo, rồi chần chừ hỏi lại: “Vậy cần phải báo tin cho Thái hậu hay không?”

Huyền Lăng mệt mỏi xua tay. “Con của Điềm Tần bị mất, Thái hậu đã thương tâm lắm rồi, hiện giờ người đang mang bệnh, khó tránh cảnh bệnh nặng thêm, tạm thời giấu biệt đừng cho người biết.”

Hoàng hậu khẽ vâng theo, thưa: “Phía Thái hậu thần thiếp tự biết phải lo liệu thế nào, Hoàng thượng xin cứ an tâm.”

Tích Hoa Phu nhân như bị sét đánh, hai tay vẫn ôm chặt lấy chân của Huyền Lăng, đang muốn khóc lóc van xin thêm thì Huyền Lăng đã giơ chân đá tay của ả ta ra, cười lạnh: “Hoàn Quý tần có tội gì, phi tần lục cung có tội gì mà phải cùng Hoàn Quý tần phơi nắng dưới ánh mặt trời chói chang?! Ngươi cũng ra quỳ hai canh giờ ở sân trước cổng cung của nhà ngươi cho ta!” Nói xong, y quay người, không thèm nhìn ả ta nữa, cho đến khi ả bị người ta kéo ra ngoài.

Huyền Lăng ra lệnh: “Các ngươi lui hết đi, trẫm ở lại với Quý tần.”

Hoàng hậu gật gật đầu. “Vậy cũng phải!” Nàng ta lại khuyên tôi: “Ngươi lo mà điều dưỡng thân thể, sức khỏe của bản thân là quan trọng nhất, ngày tháng còn dài mà.” Nói xong, nàng ta dẫn mọi người rời đi, bên trong điện lập tức trở nên yên tĩnh.

Y dịu dàng ôm lấy tôi, khẽ than: “Lần này nếu không có lục đệ cứu nàng ra khỏi Mật Tú cung, lại sai người kịp thời báo tin cho trẫm thì sự tình không biết còn tệ hại đến mức nào nữa!”

Tôi nghe mà sững sờ, nhớ lại vòng tay vững chãi ôm tôi rời khỏi Mật Tú cung hôm đó, trái tim chợt đập nhanh, thật không ngờ đó quả thật là y. Thế nhưng tôi nhanh chóng định thần, chăm chăm nhìn Huyền Lăng, nước mắt không ngừng tuôn rơi, vừa căm phẫn vừa bi thương. “Đã tệ hại thế này rồi, còn có thể tệ hơn được nữa sao?”

Huyền Lăng dịu giọng an ủi: “Đừng đau buồn quá nữa, nàng vẫn còn trẻ, đợi đến khi sức khỏe hồi phục, chúng ta lại sinh thêm một đứa con nữa là được.”

Tôi im lặng không đáp, hồi lâu sau mới lên tiếng: “Xin hỏi Hoàng thượng, đứa con của thần thiếp phải chết oan ức như vậy sao?” Tôi dừng lại một lát, hận ý lạnh lẽo toát ra từ tận xương cốt. “Vì sao không giết chết tiện phụ kia để trả mối thù này?”

Ánh mắt của y chợt u ám, hồi lâu sau y mới thở dài. “Triều chính gian nan, trước mắt trẫm không thể không nể mặt Nhữ Nam vương và gia tộc Mộ Dung.”

Lòng tôi chợt lạnh, tựa như không sao tin được lời y vừa nói, nỗi thất vọng dâng lên tận cổ họng, tôi không kịp nghĩ kĩ đã buột miệng kêu lên: “Ả đã hại chết con ruột của Hoàng thượng!” Tôi ngồi yên như tượng đá, chỉ có nước mắt từng giọt, từng giọt lặng lẽ tuôn rơi như chuỗi hạt châu.

Nước mắt dần thấm đẫm y phục của y, y chỉ lẳng lặng ôm tôi, vẻ sững sờ, bi thương đong đầy, đôi mắt gần như biến thành hồ sâu không đáy, ngẩn ngơ nhìn tôi, hồi lâu sau, y bảo: “Trẫm không giữ được đứa con của chúng ta… Ta… ta có lỗi với nàng.”

Bầu bạn với y mấy năm qua, lần đầu tiên tôi thấy y dùng thái độ này để nói chuyện với tôi, thân là đấng cửu ngũ chí tôn, nhưng lại xưng “ta” với tôi, giọng nói vừa mệt mỏi vừa thương cảm. Y là người cao quý nhất trong thiên hạ, nhưng vào giờ phút này, y vừa yếu đuối vừa hoang mang bất lực, chẳng khác gì một người cha bình thường vừa mất đi đứa con. Ánh mắt thâm tình si mê, nỗi đau đớn bi thương khắc cốt ghi tâm ấy lập tức khiến tôi càng thêm thương cảm. Y không xưng là “trẫm”, có thể thấy y đau đớn đến nhường nào. Tôi không nỡ nói thêm gì nữa, rúc vào lòng y, òa lên khóc như đứt từng khúc ruột. Nước mắt cũng là nỗi đau đớn và niềm căm hận khôn cùng của tôi…

Huyền Lăng vuốt ve lưng tôi, bảo: “Ngày hôm đó, việc gì nàng phải vâng theo lời của ả cơ chứ, bảo nàng quỳ là nàng quỳ, bảo nàng nhận phạt là nàng nhận phạt?” Y dừng lại một lát, có chút trách móc Kính Phi: “Kính Phi lúc đó cũng có mặt, vì sao nàng lại không cầu xin nàng ta?”

“Hoàng thượng biết rõ tính cách của Mộ Dung Phi cơ mà, Kính Phi sao mà khuyên can nổi? Với sức của một mình thần thiếp thì làm sao mà kháng cự được nàng ta? Huống gì tình hình ngày hôm ấy, phản kháng chẳng bằng thuận theo, nếu không càng khiến nàng ta có cơ hội để hành hạ thần thiếp.” Tôi cất giọng đầy chua xót, bất lực. “Vậy thì, Hoàng thượng hỡi, vì sao người lại ban cho ả ta quyền lực to lớn như vậy, để ả ta quản lý hậu cung? Người biết rõ tâm địa của ả rất độc ác, My tỷ tỷ ngày xưa chính là bằng chứng rõ ràng nhất rồi!”

Huyền Lăng bị những câu hỏi của tôi làm mất hứng, hỏi lại: “Nàng đang oán trách trẫm sao?”

Tôi lắc đầu. “Thần thiếp nào dám!” Khóc nhiều quá cũng mệt rồi, toàn thân uể oải. Huyền Lăng không rơi một giọt lệ nhưng cũng hết sức mệt mỏi.

Bên trong tẩm điện, bầu không khí tĩnh lặng, chết chóc, y đột nhiên thề độc: “Trẫm xin thề, con của chúng ta sẽ không chết oan uổng như thế! Trẫm nhất định sẽ trả lại công lý cho nàng.”

Tôi nhìn thẳng vào y. “Vậy thì còn phải đợi đến khi nào? Xin Hoàng thượng cho thần thiếp biết chính xác đi!”

Y lẳng lặng không đáp, chỉ bảo: “Nhất định sẽ có ngày đó.”

Tôi âu sầu cúi đầu. “Nỗi đau mất con có lẽ sẽ phai nhạt theo thời gian nhưng Mộ Dung Phi ngày nào cũng xuất hiện trước mắt, thần thiếp sao có thể nuốt trôi nỗi hận này? Còn Hoàng thượng, chưa hẳn sẽ quên được tình nghĩa năm xưa!”

Y không biết trả lời thế nào, đành bảo: “Hoàn Hoàn, nàng chịu khó vì trẫm mà nhẫn nhịn thêm một thời gian nữa… Đừng làm khó trẫm.”

Ôm nỗi thất vọng không gì sánh được, tôi không nhìn y nữa, khẽ xoay người, nước mắt bất giác tuôn rơi. Gối nằm ẩm ướt nóng hầm hập, tôi kê đầu nằm nghỉ trên nước mắt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 21-4-2016 12:39:28 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 24 (2)
Tâm sen


Mùa hè năm Càn Nguyên thứ mười bốn, tôi hầu như lúc nào cũng chìm đắm trong nỗi đau thương đó, không cách nào dứt được. Hơi nóng hầm hậu ngoài trời cùng mùi vị chua xót của thuốc thang hằn sâu vào da thịt cùng ký ức của tôi, không thể tách rời.

Đường Lê cung của tôi tĩnh lặng như tờ, không còn sức sống như ngày trước nữa, bao nhiêu hoa văn tượng trưng cho nhiều con nhiều phúc đều bị tháo xuống, để tránh cho tôi khỏi thấy cảnh sinh tình. Cung nữ nội giám đi lại cũng rón rén, sợ kinh động đến nỗi đau nhớ con của tôi.

Hậu cung cũng hết sức bình an. Hoàng hậu một mình xử lý sự vụ phức tạp trong hậu cung. Thỉnh thoảng Kính Phi cũng hỗ trợ chút ít, nhưng cơ hội như thế không nhiều. Thái hậu đang phát bệnh, Kính Phi chủ trì mọi lễ cầu phúc ở Thông Minh điện, còn phải lo liệu nơi chôn cất của Cẩn Phi và Thuần Nhi, chưa kể đến những lần lễ bái thường lệ. Hoa Phi, không phải, hiện tại phải gọi là Mộ Dung Phi, trước đây địa vị của nàng ta từ đứng đầu cả tam phi nhảy lên thành tòng nhất phẩm Phu nhân, trong cả hậu cung rộng lớn chỉ phải cúi mình trước mỗi Hoàng hậu, hiện giờ nàng ta còn kém hơn cả Kính Phi, đứng cuối tam phi, thậm chí đến phong hiệu cũng chẳng còn. Chuyện này khiến nàng ta hết sức mất mặt, ẩn mình trong nội cung, rất hiếm khi ra gặp người khác, tị thế hệt như Đoan Phi.

Huyền Lăng tuy chẳng để ý đến nàng ta nữa nhưng vẫn chưa xử trí nàng ta, tiếp tục để nàng ta hưởng thụ cẩm y ngọc thực. Việc tôi sảy thai cứ thế trôi qua nhẹ nhàng như không có chuyện gì xảy ra.

Ngày nào tôi cũng chìm trong nỗi đau đớn, hối hận, ngày hôm đó ở Mật Tú cung, vì sao tôi không khúm núm, nịnh bợ, quỳ gối cầu xin Mộ Dung Phi cơ chứ? Chỉ cần giữ lại được đứa con trong bụng là đủ rồi. Tại sao tôi lại cứng đầu đến thế, không chịu nhận thua? Tôi còn hối hận vì mình đã quá được sủng ái. Nếu tôi chỉ là một cung tần hèn mọn, chẳng nổi bật thì việc gì nàng ta phải ghen tỵ với tôi, tìm cách đưa tôi vào chỗ chết? Cảm giác hối hận ấy càng khiến tôi thất vọng và chán ghét chính mình.

Ban đầu, Huyền Lăng mỗi ngày đều ghé qua thăm tôi. Nhưng tôi liên tục ủ ê, lấy nước mắt rửa mặt khiến y không nỡ chứng kiến. Cứ nhìn nhau mà đau lòng, khổ sở đứt gan đứt ruột cũng chẳng để làm gì. Cuối cùng, y thở dài một tiếng, phẩy tay áo bỏ đi.

Cận Tịch từng bao lần lên tiếng khuyên nhủ: “Nương nương khóc lóc đau lòng như vậy chẳng có ích lợi gì cho bản thân, nếu không, tương lai dẫu có hồi phục sức khỏe thì cũng cứ thấy gió là chảy nước mắt. Nghe lão cô cô trong cung kể lại, Thái hậu năm xưa cũng vì thế mà mang bệnh đấy!”

Tôi khó khăn lắm mới lên tiếng được: “Thái hậu phúc đức thâm hậu, ta sao có thể sánh với người?” Nói xong, tôi lại lặng lẽ khóc.

Cận Tịch giúp tôi lau khô nước mắt rồi dịu giọng nói rõ suy nghĩ của mình: “Nương nương cứ khóc lóc như vậy, Hoàng thượng đến thăm nhìn thấy thì chỉ khiến hai bên thêm đau lòng. Cứ tiếp tục như thế e là Hoàng thượng sẽ không muốn đặt chân vào Đường Lê cung nữa. Đối với nương nương mà nói, điều đó có lợi ích gì đâu?”

Tôi lẩm bẩm: “Ta mất đi đứa nhỏ này mới được một tháng, vẫn chưa qua trăm ngày, chẳng lẽ ta thân là mẹ mà có thể tô son, điểm phấn, ăn mặc lòe loẹt đi cầu xin sự ân sủng của Hoàng thượng hay sao?”

Cận Tịch nghe vậy bất giác sững sờ. “Nương nương còn trẻ như vậy, chỉ cần Hoàng thượng vẫn sủng ái người, không sợ không có cơ hội mang thai lần nữa. Nương nương đừng quá phiền muộn, ngày tháng vẫn còn dài mà. Nương nương đừng tự đày đọa mình như vậy nữa!”

Tay tôi đang giữ một chiếc yếm của trẻ sơ sinh, đó là món đồ mà tôi từng vui sướng thêu thùa cho đứa con của mình. Mặt vải màu vàng hoa hạnh, chỉ thêu màu hoa lựu đỏ thắm, hoa văn nhiều con nhiều phúc, từng đường kim mũi chỉ đều đong đầy niềm vui sướng khi lần đầu tiên làm mẹ và tình yêu vô bờ với đứa con trong bụng tôi… Hiện giờ chiếc yếm vẫn còn nhưng đứa con của tôi đã không thể bước chân vào thế gian này nữa.

Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn chiếc yếm được thêu thùa tỉ mỉ này, chỉ có hai giọt nước mắt trong suốt lặng lẽ rơi xuống, không một tiếng động. Lòng tranh cường háo thắng bất giác cũng lắng xuống tựa tro tàn.

Cứ mãi uất ức và buồn thương không dứt như thế, cơ thể tôi càng lúc càng suy nhược.

Sau khi tôi bị sảy thai, Chương Di lấy lý do tuổi già, sức yếu xin giao lại chức vị ở Thái y viện. Lần này đến lượt Ôn Thực Sơ đến bắt mạch, y thỉnh an xong xuôi thì im lặng một lát, sắc mặt có vẻ khác lạ.

Tôi vẫy tay ra hiệu cho cung nữ hầu hạ lui xuống, bình tĩnh hỏi: “Chẳng lẽ cơ thể của bản cung còn có chỗ nào tệ hại hơn bản cung nghĩ sao?”

Y cau mày suy nghĩ hồi lâu rồi mới dè dặt lên tiếng hỏi dò: “Nương nương có phải từng dùng xạ hương không?”

“Xạ hương?!” Tôi ngạc nhiên hỏi lại. “Chương thái y có nói trong lúc mang thai, bản cung không được dùng đến thứ này, bản cung sao lại có thể dùng nó cơ chứ? Kể cả đến lúc này, bản cung cũng chẳng có lòng dạ đâu mà sử dụng hương liệu.”

Y mím chặt môi, tựa hồ đang suy nghĩ xem nên nói thế nào mới phải: “Nhưng rõ ràng quý thể của nương nương có dấu hiệu từng sử dụng xạ hương, chỉ là phân lượng cực nhỏ, không dễ dàng phát hiện ra mà thôi!” Y chợt ngẩng lên, ánh mắt sáng quắc. “Nương nương?!”

Tim tôi chợt nhói lên từng cơn, ngẫm nghĩ hồi lâu, tôi lắc đầu, bảo: “Bản cung chưa từng dùng qua.” Nhưng nhắc đến hương liệu, tôi chợt nhớ ra một chuyện, mấy ngày vừa qua, tôi chỉ ngửi thấy mùi hương ở một chỗ mà thôi. Thế là tôi hạ giọng gọi Lưu Chu lại, ra lệnh: “Ngươi đến phủ Nội vụ, tìm cách xin một ít Hoan Nghi hương mà Mộ Dung Phi ngày thường hay sử dụng cho ta.”

Lưu Chu vừa đi, Ôn Thực Sơ lại hỏi: “Nương nương đã mất ngủ khá lâu rồi phải không?” Tôi im lặng gật đầu, y trầm lặng thở dài, bảo: “Quý tần nương nương bệnh lần này hoàn toàn là vì quá đau lòng, khí uất tích tụ trong ngũ tạng, khiến gan nóng thành yếu, xin cho vi thần nói thẳng, đây chính là tâm bệnh.”

Tôi thản nhiên không đáp. Ánh mắt của hắn hết sức dịu dàng, nhìn tôi vừa bi thương vừa lo lắng. “Uống quá nhiều thuốc cũng không tốt. Hay là uống trà tâm sen vậy!” Hắn giải thích tỉ mỉ: “Tâm sen vị đắng tính lạnh, có thể trị bệnh nóng ở tim, lại có tác dụng hạ sốt, chống cảm nắng, giúp đầu óc tỉnh táo, giảm bực dọc và nóng nảy, ngoài ra còn bổ tỳ ích thận, dưỡng tâm an thần, trị bệnh mắt sưng đỏ.”

Tôi vụt ngẩng đầu, mỉm cười chua chát. “Tâm sen, món đó đắng lắm!”

Hắn chăm chú ngắm tôi hồi lâu rồi bảo: “Đúng thế, hy vọng vị đắng của tâm sen có thể an ủi được nỗi cay đắng trong lòng nương nương.”

Tôi quay đầu nhìn sang chỗ khác, lòng chua xót khôn cùng.

Ôn Thực Sơ hạ giọng nỉ non: “Hỏi ngó sen, bao sợi vấn vương? Tâm sen vì ai đắng? Hoa liền cành âu yếm hỏi, chính là cặp trai gái thuở xưa. Nàng vẫn còn nhớ khúc hát này chứ?” Tôi gật đầu, hắn lại tiếp tục: “Lúc nhỏ Chân huynh dẫn nàng đi chơi thuyền ngoài hồ, nàng búi tóc trái đào, đứng ở mũi thuyền, tay ôm một bó sen, cất tiếng hát đúng khúc hát này.” Giọng nói của hắn càng lúc càng dịu dàng, trầm ấm, tựa như đang chìm đắm trong hồi ức tươi đẹp thuở xa xưa: “Lúc ấy ta liền nghĩ, khi nào lớn lên nhất định phải cưới nàng làm vợ. Nhưng nàng thân mang cánh chim phượng hoàng, một thái y nhỏ nhoi như ta sao có thể giữ nàng lại được?” Hắn đưa mắt nhìn tôi chằm chằm, tràn đầy yêu thương, quyến luyến. “Nhưng khi nhìn thấy bộ dạng bây giờ của nàng, ta thà rằng khi xưa mình có thể liều mạng giữ chặt lấy nàng, chứ không hề muốn chứng kiến nỗi khổ hiện thời của nàng.”

Tôi vốn im lặng lắng nghe hắn nói nhưng hắn càng nói càng quá đáng, quên đi mất thân phận của hắn và của tôi. Lửa giận chẳng hiểu sao lại trào dâng trong lòng, đột nhiên tôi vung tay lên, chiếc gối dựa bọc tơ đặt trước giường đã bị tôi hất rơi xuống đất.

Chiếc gối rơi xuống đất, không một tiếng động nhưng hắn cũng giật mình, tôi hào hển thở một hơi, rồi bảo: “Ôn thái y hôm nay nói quá nhiều rồi đấy. Giờ này phút này, ngươi lấy thân phận gì để nói những lời đại nghịch bất đạo này với bản cung? Ngươi là thái y, bản cung là phi tần của Hoàng thượng, vĩnh viễn chỉ là như thế mà thôi. Bản cung rất biết ơn mối tình của Ôn thái y, nhưng nếu Ôn thái y để cho bản cung nghe thêm những lời như vậy thì đừng trách bản cung không để ý đến tình nghĩa quen biết lâu năm!”

Nói một tràng dài, tôi nằm gục xuống giường, thở hổn hển. Ôn Thực Sơ vừa đau lòng vừa xấu hổ. Tôi ngẩng lên, nhưng lập tức ngậm miệng không nói thêm gì nữa. Bên cạnh rèm gấm, không biết từ lúc nào My Trang đã yêu kiều đứng đó, sắc mặt của tỷ ấy tái nhợt, chẳng khác gì chiếc vòng ngọc bạch đeo trên tay.

Tôi nhìn thấy tỷ ấy, bất giác vừa xấu hổ vừa sốt ruột, mắt hoa lên. Tình cảm của Ôn Thực Sơ đối với tôi, tôi chưa từng kể cho bất kỳ ai, huống hồ bây giờ tôi đã là cung phi của Hoàng đế, những lời thế này càng hết sức phải cẩn thận. My Trang vô tình nghe được, dẫu tôi và tỷ ấy vốn rất thân nhau nhưng cũng là chuyện hết sức xấu hổ, ngượng ngùng. Tôi bất giác buột miệng gọi: “My tỷ tỷ…”

My Trang khẽ ho khan một tiếng, che giấu vẻ bất ngờ, nhưng sắc mặt của tỷ ấy vẫn không được bình thường, hẳn là tỷ ấy cũng không muốn chứng kiến cảnh này. Tỷ ấy bảo: “Muội gắng nghỉ ngơi, dưỡng sức!” Nói xong, tỷ ấy bèn quay người bỏ đi.

Tôi biết My Trang làm vậy là muốn tránh hiềm nghi, quay đầu lại thấy Ôn Thực Sơ cúi đầu ảo não đứng ở một bên, càng thêm tức giận, khó khăn lắm mới giữ được vẻ bình tĩnh, tôi bảo hắn: “Nếu ngươi muốn hại chết bản cung thì những lời hồ đồ này có thể lặp đi lặp lại mỗi ngày, có rất nhiều người đang chờ bắt lỗi bản cung mà. Ôn đại nhân, ngươi và bản cung quen biết từ nhỏ, bản cung thật không hiểu ngươi đang muốn giúp bản cung hay là hại bản cung nữa?”

Hắn vừa đau lòng vừa hổ thẹn, vội vã cáo lui: “Nàng… Nương nương xin đừng giận, sức khỏe của người hiện giờ không chịu nổi đâu, vi thần sẽ không nói thêm gì nữa.”

Tôi vốn đang bệnh nặng, lại nổi cơn thịnh nộ, đầu óc như nhét đầy bông, chẳng bao lâu sau đã mê man chìm vào giấc ngủ.

Lúc tôi tỉnh lại thì sắc trời đã mờ tối, Lưu Chu cũng đã quay về. Cô nàng hầu hạ tôi dùng thuốc xong, bưng nước cho tôi súc miệng rồi thưa: “Khương công công nghe nói chúng ta cần nên mới đưa, còn bảo Hoàng thượng đã dặn dò loại hương này chỉ được đưa đến Mật Tú cung thôi, các cung khác không được phép sử dụng.” Nói xong, cô nàng bưng chiếc hộp nhỏ đựng Hoan Nghi hương cho tôi xem.

Tôi nghe mấy lời này, trong lòng đã đoán được đôi chút. Mở hộp ra, nhìn vào trong một lát rồi đóng ngay lại, tôi ra lệnh: “Đi mời An Mỹ nhân đến đây, nói là ta đã khỏe lên đôi chút, muốn mời nàng ta ghé qua trò chuyện.”

Lưu Chu nhanh chóng quay trở về nhưng chẳng thấy bóng dáng của Lăng Dung đâu. Lưu Chu thưa: “Cúc Thanh nói An Mỹ nhân đã đến cung của Hoàng hậu thỉnh an rồi, lát nữa sẽ tới.”

Tôi hơi lấy làm lạ, thuận miệng hỏi: “Nàng ta đã khỏe hơn rồi sao? Không ngờ cũng chịu ra ngoài đi lại.”

Màn đêm yên lặng buông xuống, tiếng ếch rộ lên trong đêm, càng nghe càng thấy chói tai, khó chịu. Lăng Dung ngồi đối diện tôi, dùng móng tay khều một chút hương liệu, ngửi qua một lượt rồi nhắm mắt, cố gắng phân biệt từng thành phần: “Có Thanh hoắc hương, Cam tùng hương, Mục tú hương, Tiên hương, Bạch đàn hương, Đinh tử hương, Kê cốt hương…” Nàng ta ngửi kĩ thêm lần nữa, không nói tiếp nhưng đôi mắt đẹp chợt mở to, vẻ mặt kinh hãi.

Tôi vội hỏi: “Sao rồi?”

Nàng ta chần chừ một chút rồi đáp nhanh: “Còn có một vị xạ hương nữa.”

Quả là thế, tôi lập tức bình tĩnh trở lại. Mộ Dung Phi được sủng ái nhiều năm nhưng không hề mang thai, đây mới là lý do thực sự. Xem ra Huyền Lăng đã sớm quyết tâm dẹp bỏ thế lực của gia tộc Mộ Dung và Nhữ Nam vương rồi. Y khổ tâm mưu tính thế này cũng chẳng dễ dàng gì.

Thế nhưng nỗi chua xót và oán hận giấu kín nơi đáy lòng càng lúc càng lan rộng, ban đầu chỉ là chút mây sầu sương mỏng, nhưng càng lúc càng dày đặc, bao trùm lấy tôi, khiến tôi không sao thoát ra được. Trái tim không ngừng run rẩy, vì sao tôi vừa đến cung của Mộ Dung phi đã cảm thấy thai động bất an, vì sao chỉ mới quỳ có nửa canh giờ đã sảy thai? Đương nhiên cơ thể tôi vốn không khỏe, nhưng hẳn là không tránh khỏi có tác dụng của Hoan Nghi hương do Huyền Lăng ban thưởng.

Huyền Lăng ơi Huyền Lăng, ngài muốn đề phòng ả ta, ai ngờ lại làm tổn thương đến đứa con của tôi!

Lăng Dung cẩn thận quan sát vẻ mặt của tôi rồi bảo: “Tỷ tỷ, loại hương này là lấy từ cung của Mộ Dung Phi phải không? Hôm đó ở cung của ả ta, muội đã cảm thấy không ổn, nhưng lúc đó chỉ hơi nghi ngờ, chứ không thể phân biệt rõ ràng từng thành phần. Huống hồ muội muội địa vị thấp kém, sao dám tùy tiện đề cập đến chứ? Xạ hương vốn rất quý hiếm, theo muội muội thấy, loại xạ hương này chính là lấy từ cây xạ, mà còn là loại Đương môn tử [2] nữa. Loại xạ này chỉ có ở Đại Tuyết Sơn ở Tây Bắc, vô cùng quý giá, dược lực cũng mạnh hơn loại xạ hương thông thường nhiều…”

[2] Xạ hương dùng làm thuốc, phần hạt ngưng đọng nơi lỗ của bao xạ là loại tốt nhất, thuật ngữ gọi là Đương môn tử.

Lăng Dung không nói gì nữa nhưng tôi nghe đến đó là hiểu ngay, nữ nhân không thể thường xuyên dùng xạ hương. Dùng thứ này lâu dài, không thể mang thai được, dẫu mang thai cũng rất hay sảy thai dễ thai chết lưu. Do vậy, tuy tôi ưa thích đốt hương nhưng lại vô cùng e dè xạ hượng, không dám chạm tới.

Tôi im lặng hồi lâu rồi mới bảo nàng ta: “Thái y nói trên người tỷ có dấu hiệu từng dùng qua xạ hương nhưng từ khi tỷ mang thai đến giờ không hề dùng loại hương liệu nào cả, cho nên tỷ mới lấy làm lạ.”

Lăng Dung ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Loại xạ hương này có tác dụng cực mạnh, không có lỗ hổng nào trên người mà nó không thể thẩm thấu vào được. Hôm đó tỷ tỷ ở cả nửa ngày trời trong Mật Tú cung, hẳn là vì lý do này mà có dấu hiệu từng dùng qua xạ hương.”

Tôi gật gật đầu, không bàn luận nữa. Sau vài câu chuyện phiếm, Lăng Dung hỏi: “Vết sẹo trên mặt tỷ tỷ sắp lành hẳn rồi, hộp Thư ngân giao hẳn là đã dùng hết rồi phải không?”

Tôi tủm tỉm cười. “Chỉ còn lại chút ít mà thôi. Xem ra Thư ngân giao của muội muội đúng là hiệu quả thật!”

Lăng Dung nở nụ cười ngọt ngào. “Dung nhan như hoa nở của tỷ tỷ sao có thể bị thương tổn dễ dàng như thế được? Muội muội chẳng qua góp chút sức nhỏ nhoi thôi!”

Tôi nghe thấy giọng nói của nàng ta đã khá hơn ngày trước nhiều, bất giác cũng mỉm cười: “Giọng của muội đã đỡ hơn rồi, Hoàng thượng có gọi muội đến hầu nữa không?”

Lăng Dung cụp mắt, đôi môi anh đào tuy cố hết sức cong lên thành nét cười nhưng vẻ mặt vẫn ảm đạm. “Tỷ tỷ trước giờ rất được Hoàng thượng thương yêu, hiện giờ mang bệnh, Hoàng thượng cũng chẳng hay ghé thăm. Muội muội tấm thân bồ liễu, Hoàng thượng sao còn nhớ đến chứ?”

Lời nói của nàng ta vốn không có ý gì nhưng tôi nghe mà chẳng khác nào mũi dao đâm thẳng vào tim. Tôi bệnh tật sầu bi, nhìn nhau rơi lệ, gặp mặt cũng chỉ thêm đau lòng mà thôi. Trong hậu cung, số người hớn hở đón chào Huyền Lăng đông đảo như thế, việc gì y phải liên tục ghé qua nơi ở đầy đau thương của tôi làm gì?

Lăng Dung thấy tôi biến hẳn sắc mặt thì bất giác hoảng sợ thưa: “Muội muội buột miệng nói bừa, tỷ tỷ ngàn vạn lần đừng để bụng!” Tôi đương nhiên không muốn nàng ta cảm thấy áy náy, bèn mỉm cười cho qua chuyện.

Nàng ta lại kể: “Hôm nay muội đến thỉnh an Hoàng hậu, nương nương cũng than thở không thôi, nói Hoàng thượng thực ra rất yêu thương tỷ tỷ. Chỉ là tỷ tỷ đột nhiên mất đi đứa con, Hoàng thượng sợ gặp nhau càng thêm đau lòng, cho nên mới không đến gặp tỷ tỷ thường xuyên nữa.”

Thấy tôi vẫn im lặng buồn bã, nàng ta bèn khuyên: “Tỷ tỷ nghĩ thoáng một chút đi! Chỉ cần quên đi chuyện không may này, mỉm cười vui vẻ đón tiếp Hoàng thượng, Hoàng thượng sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn.”

Thế nhưng sao tôi có thể quên đi nỗi đau mất con kia chứ? Trái tim tôi giờ đã nhuốm màu ảm đạm, bi thương rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 22-4-2016 11:02:35 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 25 (1)
Lăng ca


Sang tháng Bảy, trời càng lúc càng nóng nực, cơn mưa lành trông đợi bấy lâu cuối cùng cũng chịu lững thững kéo tới, sau lần cầu phúc của Hoàng đế và Hoàng hậu. Cơn mưa xối xả xua tan hơi nóng khó tả và đợt hạn hán kéo dài, ban xuống vô vàn phúc đức cho trăm họ, cũng làm giảm bớt mây sầu sương thảm vì chuyện liên tiếp mất đi hai đứa trẻ nơi hậu cung.

Thế là tiếng đàn sáo hát hò vốn im lặng đã lâu nay lại vang lên rộn rã nơi lầu vàng điện ngọc chốn cung đình. Hôm đó, cơn mưa to vừa tạnh, hơi nước mát lạnh trong không khí vẫn còn chưa tan hết, Huyền Lăng liền hiểu dụ cho mọi người trong hậu cung đến Cúc Hồ Vân Ảnh điện trên Trường Phương châu cạnh hồ Thái Dịch để tổ chức yến tiệc ăn mừng. Có lẽ trong cung quả thực cần buổi yến tiệc vui vẻ này để hóa giải bóng quỷ âm u của những đám tang trẻ con liên tiếp.

Cúc Hồ Vân Ảnh điện nằm giữa mười dặm hoa sen dùng trúc Bạch mộc đặc sản ở Tân La dựng lên Ỷ Hương thủy tạ, bốn mặt đón gió mát, rèm thủy tinh đong đưa theo gió, rèm trúc tương phi ở hờ buông thõng, nhìn ra nước xanh sen trắng, hết sức thanh nhã cao khiết. Bên ngoài điện chỉ có mỗi cây cầu chín nhịp nối thẳng vào bờ, chín nhịp cầu quanh co được xây bằng ngọc thạch trắng muốt, bốn bề chạm khắc tỉ mỉ, óng ánh, sáng rỡ, hết sức tao nhã. Tạnh mưa, không khí trong trẻo, nước gợn lăn tăn, trời nước một màu như hòa làm một, bên bờ nước, phương chỉ đinh lan xanh ngắt, um tùm. Hương rượu hòa vào làn gió, bầu không khí vô cùng vui vẻ, phấn khởi.

Các tần phi dự tiệc đều là những người có địa vị và được sủng ái, Mộ Dung Phi bị thất sủng đương nhiên không có mặt. Từ khi tôi và Điềm Tần sảy thai, để tránh nhìn cảnh thương tình, Huyền Lăng rất hiếm khi ghé qua chỗ chúng tôi, sủng ái tôi cũng kém hẳn thuở xưa. Trước tình trạnh sủng phi vắng bóng như hiện giờ, các tần phi ngồi đó chẳng ai không dùng mọi thủ đoạn để tranh tài đọ sắc nhằm lấy lòng Huyền Lăng. Còn tôi, dẫu trong lòng hiểu rõ vì sao y lại đối xử khoan hòa với Mộ Dung Phi, nhưng nói cho cùng cũng không phải là không có chút oán hận. Hơn nữa, ngoài chút oán hận này ra, ít nhiều cũng có vài phần sầu não và tự thương thân mình.

Khắp nơi đều áo gấm rạng rỡ, Hoàng hậu khí chất cao quý, trang trọng, Kính Phi dịu dàng, hòa nhã, Hân Quý tần mắt đen lúng liếng, luôn miệng nói cười, khiến người ta vừa nhìn đã cảm thấy gần gũi, My Trang lặng lẽ mà đằm thắm, mỉm cười thẹn thùng, khiến người nhìn không khỏi sinh lòng tơ tưởng, Tào Dung hoa mảnh mai lả lướt, Tần Phương nghi eo nhỏ mảnh khảnh, khiến người ta vừa nhìn đã mê đắm, Lưu Thận tần trang điểm theo lối Điệm ngạch trang, ấn đường hơi chau, tự nhiên nảy ý thương hương, Đỗ Điềm Tần theo lối Túy nhan trang, đôi má ửng hồng, bất giác sinh lòng tiếc ngọc. Các nữ nhân khác, hoặc dùng nhan sắc, hoặc nhờ thần thái, ai cũng có vẻ đẹp lay động lòng người.

Với tâm tình hiện giờ, tôi nhất thời không thể hòa nhập vào bầu không khí đua chen nhan sắc này. Cõi lòng tang thương, đến chọn y phục cũng chọn bộ váy bằng vải bông trơn màu trắng bạc, tóc vẫn búi tròn dẹp đơn giản, cài ngang một chiếc trâm bạc đính hạt châu, chọn chỗ ngồi nơi góc vắng, chìm khuất trong đám đông. Lúc Huyền Lăng nhìn thấy tôi, ánh mắt y thoáng lộ vẻ cảm thông kín đáo nhưng tôi vẫn kịp nhận ra. Nhớ đến đứa con chưa kịp đặt chân đến thế gian này, trong lòng chua xót, tôi bèn quay đầu len lén lau khô hàng lệ nóng.

Giữa buổi tiệc đầy oanh yến, hương son phấn ngạt ngào như vậy, Huyền Lăng cũng chỉ lộ vẻ ơ hờ chứ chẳng mấy động tâm. Hoàng hậu thấy y không hứng thú cho lắm, bèn lên tiếng đề nghị: “Theo lệ, tuy ba năm mới tuyển tú một lần nhưng dạo gần đây, trong cung liên tục xảy ra chuyện, nếu Hoàng thượng đồng ý, cũng không hẳn là không thay đổi được lệ cũ, hay là tìm chút mới mẻ, tuyển thêm một số tân nhân vào cung hầu hạ Hoàng thượng nhé!”

Huyền Lăng không mấy hứng thú với việc tuyển tú nhưng vẫn cảm động trước sự quan tâm của Hoàng hậu. “Trẫm biết Hoàng hậu rộng lượng, nhưng trước mắt, trẫm chẳng có lòng dạ nào.” Ánh mắt của y thoáng sa sầm, nhìn xa xăm. “Huống hồ tân nhân tuy tốt đấy nhưng giai nhân thì khó mà kiếm được.”

Hoàng hậu hiểu ý, nhanh chóng mỉm cười thưa: “Nội đình mới chuẩn bị xong một tiết mục mới, xin Hoàng thượng ghé mắt xem thử.”

Huyền Lăng mỉm cười khách sáo. “Hôm nay uống quá nhiều rượu rồi, hay để hôm khác vậy.”

Nhưng Hoàng hậu vẫn kiên trì. “Ca nữ luyện tập lâu như vậy cũng chỉ muốn trợ hứng cho Hoàng thượng mà thôi!” Hoàng hậu trước giờ vẫn rất nhu thuận, không hề trái ý Huyền Lăng, hiếm khi khăng khăng một mực như hôm nay. Huyền Lăng cũng khá tôn trọng Hoàng hậu, lúc này cũng không muốn làm trái ý của nàng ta, bèn đồng ý: “Được!”

Bên trong điện im phăng phắc, gió mát thỉnh thoảng lại lay động rèm trúc khép hờ, thoảng đưa lại mùi hương mát rượi của hoa sen và lá sen. Từ xa, vài ba tiếng ve khe khẽ vẳng lại, càng tôn lên sự tĩnh lặng bên trong điện. Một lát sau, chợt nghe tiếng hát uyển chuyển khẽ khàng lẫn trong tiếng gió từ mặt hồ trước điện, tiếng hát rất khẽ, nếu không dỏng tai lắng nghe thì rất dễ bỏ qua. Chăm chú nghe kĩ. Giọng ca này dịu dàng, uyển chuyển, tựa như hoàng oanh líu lo trên ngọn cây đẫm sương buổi sáng, mang ý vị hết sức đặc biệt, lay động tâm hồn người nghe.

Giọng ca càng lúc càng gần, là một chiếc thuyền con, trên thuyền có một nữ nhân thân hình yểu điệu đang chậm rãi khua mái cheo. Nữ nhân này dùng sa mỏng màu hồng che mặt, thân vận bộ y phục màu hồng nhạt, nổi bật trên nước xanh sen trắng, tựa như đóa hoa anh đào kiều diễm nhất mỗi độ xuân về, mỏng manh đến nỗi thổi một hơi cũng sẵn sàng tan biến, khiến người nhìn chợt sinh lòng thương xót, muốn dang tay bảo vệ. Nhưng nàng ta là ai vậy? Mọi người đưa mắt nhìn nhau, hết sức ngờ vực, lo lắng bất an.

Nữ nhân này vừa xuất hiện, tuy chỉ nghe giọng hát mà chưa nhìn thấy mặt nhưng trong lòng mọi người đều hiểu rõ, một nữ nhân có giọng hát động lòng người thế này, hơn xa Diệu Âm nương tử và An Mỹ nhân thuở trước, đúng là khó ai sánh bằng, chính là đối thủ đáng gờm tranh giành sủng ái của Hoàng thương. Thế nhưng giọng hát của nàng ta lại hết sức quyến rũ, những lời ghen ghét, oán giận chẳng thể nào thốt ra khỏi miệng.

Nàng ta càng lại gần, giọng hát càng trở nên rõ ràng, khúc nhạc nàng ta đang hát là một khúc hát cổ mà nữ nhân Giang Nam ai cũng biết, bài Liên diệp hà điền điền.

Giang Nam mùa hái sen, lá sen lớp lớp dày. Giữa có đôi cá chép, sóng biếc cùng đùa vui. Cá giỡn lá sen đông, cá giỡn lá sen nam. Gái nhà ai thấp thoáng nơi xa, ném sen tặng miệng cười bẽn lẽn. Giang Nam mùa hái sen, lá sen lớp lớp dày. Nước sóng sánh sắc xanh, hoa e ấp má hồng. Đi ngang may biết mấy, gặp gỡ ở chốn này. Mừng chàng tặng củ sen, trong củ ngàn tơ quấn. Vui chàng tặng hạt sen, tim sen ngọt như mật [1].”

[1] Nguyên tác: Giang nam khả thải liên, liên diệp hà điền điền. Trung hữu song lý ngư, tương hí bích ba gian. Như hí liên diệp đông, ngư hí liên diệp nam. Liên diệp thẩm xử thùy gia nữ, cách thủy tiếu phao nhất chi liên. Giang nam khả thải liên, liên diệp hà điền diền. Thủy phúc không thúy sắc, hoa khai lãnh hồng nhan. Lộ nhân nhất hà hạnh, tương phùng tại thử gian. Mông quân tặng liên ngẫu, ngẫu tâm thiên ti phồn. Mông quân tặng liên thực, kỳ tâm khổ như tiên.

Bài hát này thường được các thiếu nữ Giang Nam hát lúc đi hái sen, diễn tả lòng tương tư mến mộ với tình lang. Bài hát càng phổ thông, tôi càng kinh ngạc trước sự thông minh của nữ nhân này. Chọn bài hát càng đơn giản càng tôn lên tài năng của người hát. Cũng như một đầu bếp tài ba, nếu muốn thực sự bộc lộ tài nấu ăn của mình thì nhất định sẽ không chọn món ăn phức tạp mà chọn những món cực kỳ đơn giản như cải trắng, đậu phụ, như thế mới thể hiện được bản lĩnh của mình. Ở hậu cung, nữ nhân thạo ca hát không ít, nhưng chỉ mình nữ nhân này mới thực sự thu hút được tôi. Tôi không khỏi cảm thán: đây là một giai nhân tuyệt diệu đến mức nào!

Quả nhiên, khúc điệu phát ra từ miệng của nàng ta như oán như than, như khóc như thương, dư âm vấn vít, liên miên bất tuyệt. Cả hồ sen nở trắng như tuyết, gió mát lạnh tựa ngọc thạch, giọng hát của mỹ nhân trong trẻo như tiếng hạt châu va chạm, chậm rãi ngân nga, chẳng khác gì phù dung nhỏ lệ, lan thơm tủm tỉm, sương gió se sắt, sầu xuân vô hạn, khiến người ta chợt sinh bao mối tương tư, vấn vít nơi tim, vừa ấm áp lại vừa buồn man mác.

Bộ y phục màu hồng của nàng ta lay động theo làn gió, vạt áo phấp phới như muốn tung bay, mặt hồ mênh mông sóng gợn, phản chiếu thân hình mảnh mai của nàng ta, tựa như hoa sen hé nở, mềm mại như nhụy hoa, uyển chuyển như tiên nữ hơi đầm nước, rất có phong thái phiêu diêu gió thổi cũng ngã, thanh tao mỹ lệ khó mà diễn tả nổi.

Huyền Lăng từ xa ngắm nhìn nàng ta đến mê mẩn, miệng lẩm bẩm không thốt nên lời, rồi chợt đảo mắt chăm chú nhìn sang Hoàng hậu. Hoàng hậu dịu dàng nhìn y, dùng giọng cực khẽ đáp: “Giọng ca tuy còn có chỗ không bằng, nhưng có thể giống đến sáu, bảy phần.”

Huyền Lăng hơi lộ vẻ thất vọng nhưng rồi lại nhanh chóng quay mặt đi, chăm chú quan sát nàng ta, tựa hồ như tự nói với mình: “Như thế cũng không dễ gì mà tìm được. Trên thế gian này, nói cho cùng, chẳng ai có thể bằng được nàng.”

Ánh mắt Hoàng hậu chợt trở nên ảm đạm nhưng nụ cười vẫn đọng lại nơi khóe miệng, chỉ là không nói thêm gì nữa. Tôi ngồi cách bọn họ khá xa, nghe được dăm ba câu rời rạc, cũng chẳng thèm để tâm.

Đợi đến lúc thuyền tiến sát lại, liền có người bước xuống hỏi nàng ta là ai. Nữ nhân áo hồng không đáp, thuận tay hái một đóa sen trắng ở sát bên, ném về phía Huyền Lăng, miệng cứ hát đi hát lại câu: Gái nhà ai thấp thoáng nơi xa, ném sen tặng miệng cười bẽn lẽn. Tư thế nhu mì, yểu điệu, lời ca hết sức chân thành khiến tâm hồn người nghe như say như mê. Huyền Lăng sao có thể tiếp tục suy ngẫm nữa, bước nhanh lên hai bước, đón lấy đóa sen trắng. Đóa hoa sen vẫn còn vương vài giọt nước mát lạnh, lay động làm tay áo y ướt đẫm, nhưng y chẳng hề để ý.

Mọi người thấy vậy, bất giác mặt biến sắc, chỉ mỗi Hoàng hậu là còn giữ được nét cười dịu dàng nơi khóe môi, im lặng quan sát, không nói tiếng nào.

Huyền Lăng đón lấy đóa sen, tủm tỉm cười, không ngừng nghịch nghịch đóa hoa, ánh mắt chỉ dán chặt vào thân hình yểu điệu của thiếu nữ. Lúc này thuyền đã cập bến, tuy không nhìn thấy dung nhan nhưng tôi đã thấy rõ thân hình của nàng ta, không ngờ lại hết sức quen thuộc, trái tim đập loạn, nhưng ngay sau đó, tôi nhớ lại chuyện cổ họng của nàng ta bị tổn thương, chưa thể phục hồi như cũ, sao có thể xuất hiện ở chốn này chứ. Tôi vừa ngạc nhiên vừa nghi ngờ, quay đầu nhìn về phía My Trang, hai người bọn tôi đưa mắt nhìn nhau, tôi thấy tỷ ấy cũng kinh ngạc chẳng kém gì mình.

Nàng ta chìa bàn tay búp măng trắng muốt ra, Huyền Lăng kìm lòng không đậu, đích thân đỡ lấy. Khi hai bàn tay chạm nhau, một củ sen đã nằm gọn trong tay thiếu nữ. Thiếu nữ ấy khẽ mỉm cười thưa: “Đa tạ Hoàng thượng!”

Giọng nói của nàng ta như tiếng chim hót, vừa nhu mì vừa trong trẻo. Huyền Lăng mặt mày vui vẻ, bảo: “Mỹ nhân đã có lòng như vậy, vì sao không sớm đến đây với trẫm? Hôm nay vừa gặp, mỹ nhân đã ném tặng mộc qua, trẫm đương nhiên phải dùng ngọc quỳnh đáp lại rồi.”

Lời chưa dứt, Hoàng hậu đã mỉm cười đứng dậy. “Hoàng thượng có biết nàng ta là ai không?” Rồi quay sang nhìn thiếu nữ. “Để Hoàng thượng nhìn mặt thật của ngươi đi.”

Thiếu nữ ấy rụt rè hành lễ, tay ngọc khẽ vươn, mạng che mặt được vén ra, mày như lông chim trả, da như tuyết trắng ngần, eo nhỏ như được bó, răng đều tăm tắp như ngọc, mảnh mai, mềm mại như chim yến chao lượn trong gió. Tôi thoáng nghẹt thở, tim đập thình thịch, trong lòng trở nên lạnh giá, trong chớp mắt bao cảm xúc lẫn lộn hòa quyện… Không phải An Lăng Dung thì còn là ai nữa!

Huyền Lăng cũng hết sức bất ngờ. “Cổ họng của nàng chẳng phải đã bị hỏng rồi sao?”

Lăng Dung mỉm cười, giọng ngọt như suối chảy, hơi lộ vẻ thẹn thùng. “Hoàng hậu lệnh cho thái y hết lòng chữa chạy, đến giờ đã khỏi hẳn rồi!”

Huyền Lăng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, lên tiếng khen ngợi: “Chẳng những đã khỏi hẳn mà nghe còn hay hơn cả lúc trước.” Y hết sức vui lòng, quay sang khen Hoàng hậu: “Hoàng hậu khổ cực một phen rồi. Trẫm có một Hoàng hậu hiền đức thế này, đúng là phúc đức của trẫm.”

Đôi mắt đoan trang của Hoàng hậu trong chớp mắt lộ vẻ cảm động và thâm tình, suýt nữa nước mắt dâng trào, nhưng nàng ta nhanh chóng lấy lại nụ cười hiền hậu, không chút đắc ý. “Thần thiếp chỉ là thấy Hoàng thượng cả ngày sầu muộn, cho nên mới nghĩ ra kế sách tầm thường này, hy vọng Hoàng thượng được an ủi đôi chút. Hoàng thượng ưa thích An Mỹ nhân là tốt rồi, thần thiếp chỉ cần Hoàng thượng có thể ngày ngày vui vẻ, phúc thọ an khang.”

Những lời tình thâm ý trọng thế này khiến Huyền Lăng hết sức cảm động. Tôi cũng thấy xúc động lây. Từ trước đến nay, tôi không hề phát hiện ra Hoàng hậu có thể yêu thương Huyền Lăng sâu sắc đến mức này. Dẫu thâm tình như thế nhưng nàng ta vẫn có thể dâng một mỹ nhân khác vào lòng Huyền Lăng, chỉ cầu cho y vui vẻ. Yêu sâu sắc một người lẽ nào có thể khoan dung, rộng lượng đến thế hay sao?

Tôi chưa kịp suy nghĩ sâu hơn thì Huyền Lăng đã lên tiếng: “Chức mỹ nhân của Dung Nhi hình như được phong từ hồi năm ngoái thì phải.” Huyền Lăng cầm lấy tay của Lăng Dung, mỉm cười ngắm nghía dung nhan ửng hồng vì thẹn thùng của nàng ta, dịu giọng bảo: “Vậy thì hãy tấn phong làm tòng ngũ phẩm tiểu viện đi vậy.”

Ánh mắt của Lăng Dung lướt nhanh qua khuôn mặt tôi, mang ý xin lỗi rồi nàng ta nhanh chóng quay mặt đi, cung kính hành lễ. “Đa tạ Hoàng thượng coi trọng.”

Huyền Lăng vui vẻ cười lớn. “Dung Nhi trước giờ e thẹn, dịu dàng, hôm nay gặp lại, hệt như thuở nàng còn là tân nhân, chẳng hề thay đổi.”

Lăng Dung hơi cúi đầu, thẹn thùng tựa đóa hoa sen đong đưa trong gió nhẹ. Chỉ thấy mấy hạt trân châu đính ở đầu cành thoa song kết như ý bằng san hô đỏ khẽ rung rinh, càng thêm phần yếu ớt lay động lòng người. Chỉ nghe nàng ta thưa: “Thần thiếp đâu còn là tân nhân cơ chứ, chẳng qua là bình mới rượu cũ mà thôi, cũng may là Hoàng thượng không chê thần thiếp ngu độn.”

Huyền Lăng dùng tay mân mê chiếc cằm nhỏ nhắn, mịn màng của nàng ta, trìu mến bảo: “Có ái khanh ở đây, đúng là ứng với câu rượu không làm người say mà người tự mình say. Hôm nay một lần nữa trở về bên trẫm, rất nên hát một khúc để chúc mừng.”

Lăng Dung hơi nghiêng đầu, bộ dạng hết sức hồn nhiên, hiền thục, mỉm cười cất giọng hát: “Áo vàng chàng tiếc mà chi, tiếc chăng là thuở xuân thì chóng phai. Hoa xinh phải bẻ liền tay, chớ để lâu ngày lại bẻ cành khô.”

Khúc hát triền miên, ngân nga, Huyền Lăng vỗ tay ngơ ngẩn hồi lâu, lúc định thần lại thì nụ cười càng thêm tươi: “Hoa xinh phải bẻ liền tay, trẫm phải hái nàng giữ chặt trên tay mới được, không để nàng một mình cô đơn trên cành nữa.” Nói xong, y quay sang lệnh cho Lý Trường: “Đem Kim Lũ Y đến đây ban cho An Tiểu viện.” Lý Trường hơi ngẩn ra rồi khom người lĩnh mệnh rời đi.

Kim Lũ Y là do tiên hoàng Long Khánh đế đặc biệt chế riêng cho Thư Quý phi, cả thế gian chỉ có ba chiếc. Một chiếc lưu lại trong cung, một chiếc Thư Quý phi đem theo lúc rời cung, chiếc còn lại Thanh Hà vương đang giữ.

Thái độ trân trọng và sủng ái đặc biệt như vậy khiến hầu hết mọi người đều ngạc nhiên trố mắt, hết sức bất ngờ.

Hân Quý tần đột nhiên cười nhạt, quay đầy đi, giọng nói không khỏi có phần chua chát: “Gái Việt bên gương mới điểm trang. An muội muội đúng là một khúc Lăng ca giá vạn vàng [2]!”

[2] Bài Gởi Chu Khánh Dư của Trương Tịch, nguyên tác: “Việt nữ tân trang xuất kính tâm, tự tri minh diễm canh trầm ngâm. Tề hoàn vị túc thì nhân quý, nhất khúc lăng ca địch vạn kim”, dịch thơ Lãng Xẹt Tử.

Tôi chợt nhớ ra khúc ca này từng được An Lăng Dung hát vào năm ngoái, cũng nhờ nó, nàng ta đã trở thành sủng phi của Huyền Lăng. Lúc ấy nàng ta hồi hộp, thẹn thùng, kém xa giọng ca ngân nga đầy thong dong, bình tĩnh hôm nay. Cũng đến hôm nay, khúc Kim Lũ Y này đã giúp nàng ta đạt được không chỉ mỗi sủng ái và vinh quang.

Thuở xưa chật vật hèn mọn, An Lăng Dung cuối cùng cũng có ngày nở mày nở mặt rồi.

Tôi không phân biệt nổi tâm tình của mình lúc này là vui hay buồn, chỉ cảm thấy lòng mênh mang chìm đắm trong sương trắng bềnh bồng. Lén quay đầu đi, mím môi không nói, đứng ở Cúc Hồ Vân Ảnh điện dõi mắt nhìn ra xa, phía ngoài đầm sen chính là Lũ Nguyệt Khai Vân quán, nơi Thanh Hà vương ở tạm. Nghe nói bên ngoài quán trồng đầy cây hợp hoan, hoa nở như sương, rơi xuống chẳng khác gì màn mưa sặc sỡ.

Có lẽ trước tình cảnh đìu hiu vắng vẻ của tôi và My Trang, chuyện Lăng Dung đột ngột được sủng ái đối với nàng ta cũng như đối với chúng tôi đều là một tin mừng. Thế nhưng khóe môi của tôi lại phảng phất nét cười như có như không. Gió nhẹ lâng lâng, cả điện vang lên tiếng đàn sáo rộn ràng, cảnh ca vũ thái bình này sẽ khiến người ta tạm quên đi mọi sầu bi. Tôi nâng chén uống cạn, chỉ mong mãi chìm đắm trong cơn say. Tôi nghĩ mình không muốn tiếp tục suy nghĩ, không muốn nhớ lại bất cứ điều gì nữa.

Một tháng sau đó, lật giở lại những ghi chép trong Đồng sử, trong suốt thời gian này, Huyền Lăng triệu hạnh tôi một lần, Kính Phi hai lần, My Trang hai lần, Tào Tiệp dư một lần, Thận Tần và Hân Quý tần mỗi người một lần. Nhưng tình cảm của y đối với Hoàng hậu thì khá hơn nhiều, trừ ngày Mười lăm hằng tháng theo lệ thì có đến bảy, tám ngày khác dừng chân nghỉ ngơi trong cung của Hoàng hậu. Trừ mấy ngày lẻ ở riêng một mình, những đêm còn lại gần như đều dành hết cho Lăng Dung.

Triều đình quan lại chia theo xuất thân: nghèo khó và quyền thế. Hậu cung cũng hệt như vậy, cần dựa vào dòng dõi huyết thống để tăng thêm sức mạnh chống lưng cho bản thân. Xuất thân của Lăng Dung đương nhiên không hèn mọn như cung nữ nhưng quả thực không được vẻ vang cho lắm. Huyền Lăng sủng ái nàng ta như vậy, cả hậu cung gần như tràn ngập những lời bịa đặt nói xấu, tràn đầy ghen tỵ chua chát.

Thế nhưng tính tình dịu dàng, nhún nhường của Lăng Dung là thích hợp nhất để an ủi nỗi đau đớn khi liên tục mất đi con nối dòng của Huyền Lăng lúc này. Sự ôn nhu của nữ nhân chính là liều thuốc tốt nhất để làm lành vết thương của nam nhân.

Tôi lặng lẽ ngồi bên dưới giữa các phi tần, nghe Hoàng hậu nói những điều này. Có lẽ Hoàng hậu nói đúng. Nàng ta là Hoàng hậu của Huyền Lăng, lại ở bên cạnh y nhiều năm, đương nhiên là biết loại người thế nào mới có thể an ủi và hầu hạ y.

Hoàng hậu ngồi ngay ngắn phía trên, quay mặt về hướng nam. Bộ váy bằng đoạn hoa màu hồng thắm trên có hoa văn như ý nhũ vàng bạc cùng chiếc áo không bâu thêu hoa chi chít hết sức tinh xảo càng tôn thêm vẻ đoan trang của nàng ta. Đến nước lụa hồng thắm vốn vô cùng mỹ lệ cũng mất đi vẻ yêu kiều vốn có. Hoàng hậu mày mắt nghiêm nghị, giọng nói đầy nghiêm khắc: “Xuất thân của An Tiểu viện không cao quý, cũng khó trách các ngươi không phục. Nhưng hiện giờ Hoàng thượng yêu thích nàng ta, vậy thì cũng chẳng khác gì bản cung yêu thích nàng ta. Bình thường những trò ghen tuông tranh đoạt của các ngươi bản cung đều mắt nhắm mắt mở, coi như không hay biết. Nhưng trước mắt, nàng ta là người được lòng Hoàng thượng nhất, các ngươi gây sự với nàng ta, cũng chính là gây sự với bản cung và Hoàng thượng.” Đột nhiên nàng ta gằn giọng: “Đã hiểu rõ chưa?”

Mọi người dẫu còn oán hận nhưng cũng không dám để lộ trước mặt Hoàng hậu, chỉ đành miễn cưỡng nén giận, vâng vâng dạ dạ không dám cãi lời.

Hoàng hậu thấy mọi người như vậy, vẻ mặt cũng dãn ra đôi chút, chân thành khuyên nhỉ: “Bản cung cũng chẳng còn cách nào khác. Nếu như các ngươi ai cũng giỏi giang, được Hoàng thượng yêu thích thì bản cung việc gì phải phí tâm sức thế này.” Nàng ta cảm khái thở dài: “Hiện giờ Cẩn Phi, Thuần Tần đều đã qua đời, Mộ Dung Phi thất sủng, Hoàn Quý tần vẫn chưa hoàn toàn khôi phục sức khỏe. Phi tần thưa thớt, chẳng lẽ phải phá lệ tuyển tú sớm hay sao? Như thế chẳng những tốn công tốn của, mà còn một lúc thêm nhiều tân nhân, trong lòng các ngươi hẳn càng không vui. Hoàng thượng vốn ưa thích An Tiểu viện, lúc trước chẳng qua là cổ họng nàng ta bị thương nên mới lệnh cho nàng ta nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Tính tình nàng ta lại hiền lành, các ngươi cũng biết rồi đấy. Nàng ta ở bên cạnh Hoàng thượng, không thể nói là chuyện xấu được.”

Trong lúc Hoàng hậu khuyên nhủ mọi người, Lăng Dung chỉ an phận ngồi ở chỗ của mình, lẳng lặng cúi thấp đầu, hoàn toàn chẳng để ý gì đến lời nói của những kẻ xung quanh. Giữa chiếc ghế hồng mộc to rộng, chỉ thấy mỗi bóng lưng của nàng ta gầy gò, mảnh khảnh khiến người ta thương xót bên dưới bộ xiêm áo lộng lẫy cùng những viên trân châu lấp lánh cài đầy trên mái tóc dài đen nhánh.

Mọi người ai cũng có toan tính riêng, nghe Hoàng hậu nói như vậy thì đều nghẹn họng, không sao phản bác được. Ai cũng hiểu rõ, An thị không có gia thế hiển hách, đương nhiên dễ đối phó hơn đám tân nhân mỹ mạo như hoa. Hơn nữa, không chừng đến hôm nào đó, nàng ta lại mất giọng, ân sủng của thánh thượng lại rơi xuống đầu mình thì sao? Thế là mọi người hỉ hả cười vui, đồng loạt hứa hẹn sẽ không làm khó Lăng Dung.

Hoàng hậu thở phào nhẹ nhõm, đưa mắt nhìn sang tôi, ôn hòa bảo: “Chuyện của An Tiểu viện ngươi cũng đừng canh cánh trong lòng, Hoàng thượng dù gì cũng cần có người hầu hạ, An thị lại rất thân thiết với ngươi. Bản cung chẳng qua là thấy giọng hát của nàng ta có thể xoa dịu nỗi ưu sầu của Hoàng thượng mà thôi. Mọi chuyện bản cung làm đều là nghĩ cho Hoàng thượng.”

Tôi vội vã đứng dậy, tỏ vẻ kính sợ, cung kính thưa: “Nương nương quá lời rồi. Chỉ cần là vì Hoàng thượng, thần thiếp sao dám oán hận cơ chứ!”

Vẻ mặt của Hoàng hậu dịu đi đôi chút. “Ngươi vốn rất hiểu chuyện, Hoàng thượng trước giờ đều yêu thương ngươi, bản cung cũng yên tâm. Nhưng hiện giờ thấy ngươi vẫn còn luyến tiếc đứa con đã mất, sức khỏe lại không tốt, bên cạnh Hoàng thượng không thể thiếu người hầu hạ được. Ngươi hãy lo điều dưỡng thân thể cho khỏe hẳn rồi tiếp tục hầu hạ Hoàng thượng cũng không muộn.”

Sao tôi có thể không hiểu ẩn ý trong lời nói của Hoàng hậu cơ chứ, Lăng Dung thành công cũng nhờ một tay nàng ta sắp xếp, nàng ta đương nhiên phải giữ gìn cẩn thận, sao có thể để cho người khác đoạt đi ưu thế của Lăng Dung hiện giờ. Tôi bèn khom người tuân lệnh, thưa: “Hoàng hậu đã an bài như vậy thì đương nhiên là tốt nhất rồi!”

Lúc rời đi, Hoàng hậu bảo: “Chuyện của Mộ Dung thị đúng là khiến ngươi bị uất ức một phen. Thái hậu đã biết chuyện ngươi bị sảy thai, hết sức nuối tiếc thở than. Nghe nói hôm nay tinh thần Thái hậu đã tốt hơn một chút, ngươi hãy đi vấn an người đi!”

Tôi đang chăm chú lắng nghe Hoàng hậu đề cập đến chuyện của Lăng Dung, đột nhiên nàng ta lại nhắc đến chuyện mất con của tôi khiến lòng tôi chợt tràn đầy chua xót, nhớ lại bao nỗi thương tâm. Thế nhưng tôi không thể để lộ cảm xúc ra ngoài mặt, chỉ cố gắng cúi thấp đầu, che giấu vẻ bi thương, hạ giọng vâng dạ tuân theo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 22-4-2016 11:06:27 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 25 (2)
Lăng ca


Vừa đi đến đình viện bên ngoài Phượng Nghi cung, tôi đã cảm thấy hơi lạnh ào ạt ập vào mặt. Lúc này tôi mới nhớ ra hiện giờ trời đã vào thu, trăm hoa sang quý mọc đầy vườn đã rơi rụng hết cả. Những tán cây xanh ngắt dần bị lớp sương mù vàng ánh mỏng manh bao phủ, đến dòng suối trong xanh đầy cánh hoa rơi rụng cũng nhuốm một màu vàng nhạt tiêu điều. Chỉ mới mấy tháng trước thôi, cả vườn mẫu đơn, thược dược muôn hồng nghìn tía, cũng chính ở nơi này, trong một tình huống nguy hiểm đáng sợ, tôi đã biết được tin mình vừa có đứa con đầu tiên trong đời. Vài tháng ngắn ngủi trôi qua, cũng như hoa tàn rơi rụng, những người từng cùng nhau ngắm hoa tranh sắc thuở ấy chẳng biết đã tan tác còn lại mấy ai. Tôi chợt nghe có tiếng người ở sau lưng gọi với: “Quý tần nương nương xin dừng bước.” Quay đầu lại, tôi thấy đó là Tần Phương nghi, nàng ta đang bước từng bước nhỏ với bộ dạng điệu đà về phía tôi. Nghe nói dạo gần đây, để lấy lòng Huyền Lăng, nàng ta cố ý học cách đi đứng mà thục nữ thời Tiên Tần ưa thích nhất, nghe nói dáng đi này như liễu đong đưa trong gió, vô cùng yểu điệu. Chỉ tiếc Huyền Lăng đang dồn hết sủng ái vào Lăng Dung, nhìn thấy chỉ cười cho qua chuyện. Thực sự thì dáng người Tần Phương nghi có phần thô kệch, hoàn toàn không thích hợp với bước đi ẻo lả thế này, chẳng khác gì Đông Thi bắt chước Tây Thi nhăn mặt.

Tôi thầm nghĩ, có lẽ để Lăng Dung học dáng đi này thì thích hợp hơn và cũng bắt mắt hơn.

Thực tình, tôi chẳng mấy thân quen với Tần Phương nghi, có gặp cũng chỉ gật đầu chào hỏi. Hôm nay nàng ta cất tiếng gọi thân thiết như vậy khiến tôi có phần hơi bất ngờ.

Tôi bèn dừng chân, đợi nàng ta theo kịp, nàng ta thấy tôi thì chỉ hành lễ qua loa rồi chào: “Quý tần muội muội khỏe chứ?”

Tôi cũng chẳng muốn so đo chuyện lễ nghi với nàng ta, hỏi lại: “Tần tỷ tỷ có chuyện gì sao?”

Nàng ta chỉ cười cười rồi bảo: “Thấy muội muội đã khỏe lên được kha khá rồi đấy. Qua đó đủ biết An Tiểu viện và muội muội tỷ muội tình thâm, nàng ta vừa mới được sủng ái, sắc mặt của muội đã tươi tỉnh hẳn. Chẳng phải là thế sao, tỷ muội thì phải giúp đỡ, dìu dắt nhau chứ!”

Tôi cảm thấy buồn phiền, không muốn nói nhiều với nàng ta, bèn quay đầu đi, bảo: “Bản cung còn phải vấn an Thái hậu, nay đi trước một bước vậy!”

Nàng ta vẫn không chịu buông tha cho tôi. “Quý tần muội muội đúng là người sang lắm việc, không gặp được Hoàng thượng thì gặp Thái hậu cũng tốt. Đúng là hết sức hiếu thảo, tỷ tỷ ta đúng là không thể so bì nổi!”

Nàng ta mở miệng toàn là những lời mỉa mai châm chọc khiến tôi hết sức bực bội. Trước giờ tôi và nàng ta nước sông không phạm nước giếng, nay nàng ta lại lớn gan lớn mật như vậy, không để ý gì đến chuyện địa vị tôi hơn hẳn nàng ta, chẳng qua là vì thấy Huyền Lăng ơ hờ với tôi, tôi lại mất đi đứa con, chẳng khác gì như bị thất sủng. Quãng thời gian trước tôi chiếm trọn vinh quang, đời nào nàng ta không sinh lòng ghen tỵ, đương nhiên là phải lợi dụng cơ hội này để lên mặt với tôi.

Tôi cố nén giận, chỉ lẳng lặng bỏ đi. Những lời của nàng ta vừa khéo léo lại vừa cay nghiệt. Giọng điệu cao vút bén nhọn, tựa như mũi kim sắc nhọn cứ mãi xoáy sâu vào tim tôi, nhẹ nhàng nhưng vừa nhanh vừa tàn nhẫn. Nàng ta rảo bước tiến lên, kéo tay áo của tôi lại, bảo: “Ai cũng biết Quý tần muội muội và An Tiểu viện thân thiết với nhau, lần này muội muội lại vắt óc tìm cách, mời Hoàng hậu ra mặt sắp xếp cho nàng ta gần gũi Hoàng thượng, muội muội đúng là đa mưu túc trí thật.” Nàng ta dùng khăn tay che miệng, cười nói tiếp: “Nhưng cũng đúng thôi, muội muội giúp đỡ An Tiểu viện như vậy, nếu sau này nàng ta có một đứa con thì đó cũng là con của muội. Muội muội việc gì phải buồn bã vì không giữ được đứa con này cơ chứ!”

Tôi không sao nhẫn nhịn được nữa. Nàng ta nói gì tôi cũng nhịn được, nhưng chuyện đứa con là nỗi đau canh cánh trong lòng, tôi sao có thể cho phép nàng ta tùy ý khơi ra xúc phạm cơ chứ!

Tôi hẩy mạnh tay nàng ta ra, lạnh lùng bảo: “Tần Phương nghi thấy bản cung dù sao cũng phải gọi một tiếng ‘nương nương’ rồi tự xưng là ‘tần thiếp’ mới phải. Phương nghi ở trong cung lâu rồi, những quy củ thế này còn muốn bản cung dạy lại từng điều một hay sao? Hay là già quá hóa hồ đồ rồi?” Nàng ta nghe tôi bảo mình là “già” thì gần như biến hẳn sắc mặt. Tôi đời nào lại cho nàng ta cơ hội mở miệng đáp trả, liền đè tay nàng ta xuống, tủm tỉm cười mỉa mai. “Phương nghi vì sao lại phải khổ sở học cách đi đứng của thục nữ thời Tiên Tần, thời kỳ ấy đã xa xôi lắm rồi, sao mà bắt chước cho giống được? Chẳng bằng quay trở về cung ngẫm nghĩ, tự hỏi vì sao hiện giờ Hoàng thượng chẳng còn mấy để tâm đến mình nữa, hơn tháng trời không triệu hạnh được đến một lần. Chỉ có điều hiện giờ đang có tấm gương của An Tiểu viện kìa, nếu ngươi thành tâm thành ý xin nàng ta chỉ dạy, hẳn là Tiểu viện sẽ không hẹp hòi gì mà không hướng dẫn cho. Phương nghi ngươi coi như cũng được lợi không ít đó.”

Trước những lời chất vấn dồn dập của tôi, nàng ta đến đáp trả cũng không có sức, mặt hết đỏ lại trắng, vô cùng khó coi. Có lẽ cũng vì e sợ địa vị của tôi vốn cao hơn nàng ta, nàng ta rất hậm hực nhưng không thể nói gì hơn. Một hồi lâu sau, nàng ta đổi sắc mặt, có vẻ như thẹn quá hóa giận, đang định phản bác lại tôi thì sau lưng chợt có một giọng nói hết sức trong trẻo vang lên: “Tần tỷ tỷ hẳn là mê rồi à? Đến Quý tần nương nương mà cũng dám xúc phạm, nếu Hoàng hậu nương nương biết được thì nhất định sẽ trách phạt một phen đấy!” Tần Phương nghi có phần kiêng dè nàng ta, lại càng sợ hãi Hoàng hậu, nghe vậy chỉ đành hậm hực bỏ đi.

Lăng Dung nắm chặt lấy tay tôi, bảo: “Tỷ tỷ phải chịu uất ức vì muội rồi, cũng tại Lăng Dung đến trễ.”

Tôi khéo léo đẩy tay nàng ta ra, đáp: “Chẳng có gì uất ức cả, ta vốn không nên chấp nhặt với ả ta.” Lại cười nhạt, nói tiếp: “Trước đây toàn là ta giải vây cho ngươi, hiện giờ thì đến phiên ngươi giải vây cho ta.”

Mắt Lăng Dung hơi đỏ lên, buồn bã hỏi: “Tỷ tỷ có ý trách muội, muốn coi muội là người ngoài hay sao?”

Tôi đáp: “Không phải thế, ngươi đừng quá nhạy cảm như vậy!”

Lăng Dung rơi lệ, thưa: “Tỷ tỷ hẳn là trách muội không chịu cho tỷ biết trước. Việc xảy ra hết sức gấp gáp, Hoàng hậu nương nương lại dặn dò phải gây bất ngờ cho Hoàng thượng, tuyệt đối không được để lộ ra ngoài. Lăng Dung thân phận hèn mọn, sao dám trái lệnh. Huống chi muội cũng có chút toan tính riêng, nếu muội được Hoàng thượng yêu thích thì sẽ có thể giúp tỷ tỷ một tay, tỷ tỷ không cần phải chật vật như thế này nữa.”

Tôi thở dài. “Lăng Dung à, cổ họng của ngươi đã khỏi hẳn thì cũng nên cho ta biết một tiếng. Ngươi làm thế khiến cho ta lo lắng, mà cũng khiến cho ta hết sức bất ngờ.”

Lăng Dung mỉm cười buồn bã, tựa như chim non co ro giữa gió bão. “Tỷ tỷ không phải là không biết, có nhiều chuyện thực sự Lăng Dung không thể nào quyết định được. Huống chi Lăng Dung tấm thân bồ liễu, mọi thứ có được, thành cũng nhờ giọng hát, mà bại cũng vì giọng hát.”

Tôi không biết phải nói gì hay chất vấn gì nàng ta nữa, nàng ta thương cảm như vậy, tôi cũng không nỡ. Nàng ta thành nhờ giọng hát, bại vì giọng hát. Còn tôi thì sao? Thành bại chỉ là do con nối dòng và nỗi thương tâm của bản thân ư?

Tôi hiểu thấu được nàng ta, cho nên không đành lòng trách móc nữa. Người trong hậu cung, ai cũng có chỗ khó xử riêng.

Thế là tôi đành cố tỏ vẻ vui vẻ, an ủi nàng ta: “Tần Phương nghi chọc giận ta, ta lại khiến cho ngươi đau lòng. Hai người chúng ta khóc lóc ủ ê thế này thì ra thể thống gì chứ, chỉ khiến cho người ngoài nhìn vào cười chê thôi!” Lăng Dung nghe vậy mới chịu nín khóc.

Khi tôi đến cung Thái hậu thỉnh an, Thái hậu thương xót tôi, bèn lệnh cho người sắp xếp cho tôi ngồi xuống trước giường bà. Nhắc đến chuyện tôi bị sảy thai, Thái hậu cũng cảm thấy buồn bã, chỉ dặn dò tôi phải biết giữ gìn sức khỏe.

Thái hậu vừa vuốt ngực vừa ho khan. “Con bé Thế Lan ai gia thấy cũng không tệ, lanh lợi hoạt bát, dung mạo lại xinh đẹp, chỉ là tính tình hơi kiêu căng, cũng khó trách, ai xuất thân thế gia đều vậy cả. Nhưng giờ xem ra tâm địa của nó hết sức độc ác! Ai gia đã già rồi, chẳng còn sức lực nữa. Mọi chuyện đều nhắm mắt giao hết cho Hoàng hậu quản lý, có thêm chút kinh nghiệm cũng tốt. Nếu ta còn trẻ thì tuyệt đối không thể để cho một đứa như vậy tồn tại trong cung! Cũng là Hoàng hậu vô dụng, nên mới xảy ra nhiều việc rắc rối thế này.”

Tôi nghe Thái hậu có ý trách móc Hoàng hậu, chỉ đành cười vuốt đuôi, tìm cách hòa giải. “Sự vụ trong cung phức tạp đa đoan, nương nương khó mà chu toàn được hết. Xin Thái hậu đừng quở trách Hoàng hậu nương nương.”

Tinh thần của Thái hậu cũng không được tỉnh táo cho lắm, mái tóc đã bạc trắng phân nửa xõa dài trên gối, sắc mặt tái nhợt, bà vận chiếc áo ngủ trắng muốt khiến khuôn mặt thêm phần vàng vọt, trên cổ hiện rõ mấy đường gân xanh. Hồng nhan tàn tạ nhanh thật, Thái hậu năm xưa tuy không có được nhan sắc vô song như Thư Quý phi nhưng cũng có thể gọi là như hoa như ngọc. Nữ nhân đúng là không thể chống chọi lại tuổi già. Đã già rồi thì nhan sắc có đẹp đẽ cách mấy cũng lặn mất tăm không chút dấu vết. Nhưng ở chốn cung đình, có thể sống bình an, phú quý đến tuổi già là phúc đức khó có được nhất. Có bao nhiêu hồng nhan vẫn chưa đến tuổi già mà đã sớm hương tiêu ngọc vẫn rồi.

Thái hậu thấy tôi hơi ngẩn người, đâu ngờ nổi là tôi đang băn khoăn với những suy nghĩ như thế, cứ ngỡ là tôi đã mệt, bèn lệnh cho tôi quay về. Tôi thấy Thái hậu cũng lộ vẻ uể oải, bèn lên tiếng cao từ.

Vừa đi ra đến cửa thùy hoa, sờ thử thì tôi chợt phát hiện chiếc khăn thắt ở vòng tay bằng vàng không biết đã rơi đâu mất. Một chiếc khăn lụa vốn cũng chẳng có gì đáng giá, chỉ có điều nó là do Lưu Chu thêu tặng tôi nhân dịp sinh nhật, không thể so sánh với những chiếc khăn tầm thường khác. Ngẫm nghĩ lại kĩ càng, tôi nhớ mình có rút khăn tay ra dùng trước khi bước vào tẩm điện của Thái hậu, nhất định là nó rơi ở trước cửa tẩm điện của Thái hậu rồi. Thế là tôi không gọi Hoán Bích đi theo, định nhặt lại khăn tay rồi quay về ngay.

Thái hậu đang bệnh, ưa thích yên tĩnh, bên trong tẩm điện chỉ có một mình Tôn cô cô hầu hạ. Bên ngoài điện không có ai đứng hầu, tất cả đều lui ra ngoài cửa cung chờ lệnh.

Tôi cũng không muốn làm phiền đến ai, bèn men theo mép điện, rón rén bước vào trong. Lúc này mới chớm thu, gió mát khoan thai, bóng râm chao động, thời tiết rất dễ chịu. Bên ngoài cửa sổ lớn trong tẩm điện của Thái hậu trồng đầy những gốc quế cao hơn đầu người, cành lá xum xuê, mùi hương thơm ngát, vừa khéo che giấu được bóng dáng tôi.

Vừa mới tiến lại gần, tôi bất ngờ nghe thấy giọng nói già nua, ôn hòa của Tôn cô cô vang lên bên trong: “Nô tỳ đỡ Thái hậu ngồi dậy dùng thuốc nhé!” Sau đó là tiếng chén bát va khẽ vào nhau leng keng. Đợi Thái hậu uống thuốc xong, Tôn cô cô ngần ngừ khuyên: “Đêm qua Thái hậu ngủ không được yên giấc, nô tỳ nghe thấy người gọi tên của Nhiếp chính lão vương gia.”

Trong lòng giật thót, tôi vội vã che kín miệng, không để lộ tiếng động. Không biết là tim tôi ngừng mất một nhịp hay bên trong điện quả thực yên lặng một thoáng, chỉ nghe Thái hậu nghiêm nghị lên tiếng: “Loạn thần tặc tử, chết chưa hết tội! Ta đã không còn nhớ đến nữa. Ngươi cũng không được nhắc đến y.”

Tôn cô cô vâng dạ, Thái hậu lại thở dài một tiếng, tiếng thở dài sầu muộn triền miên. Tôn cô cô gọi: “Thái hậu?”

Thái hậu đáp: “Chẳng có gì. Ta chẳng qua là có chút tiếc nuối về chuyện đứa con của Chân thị mà thôi.”

Tôn cô cô thưa: “Hoàn nương nương đúng là khổ thật. Đột nhiên mất đi đứa con trong bụng, Hoàng thượng lại chẳng mấy quan tâm đến nàng ta, nô tỳ nhìn thấy mà cũng đau lòng thay.” Lại tiếp: “Nếu Thái hậu ưa thích Hoàn nương nương, hay là bảo nàng ta năng đến bầu bạn với người vậy.”

Tôi vốn định rời đi nhưng nghe câu chuyện có liên quan đến mình, bất giác dừng chân, dỏng tai nghe ngóng. Thái hậu than thở: “Ta cũng không muốn cứ mãi gọi nó đến đây…” Giọng của Thái hậu mỗi lúc một khẽ khàng: “Con bé A Nhu… Dạo gần đây ta cứ hay nằm mơ thấy nó… Tuy không giống hoàn toàn nhưng tính tình cũng có vài phần tương tự, ta nhìn nó lại cảm thấy buồn.” Giọng nói dần nhỏ lại, tựa như hai người đang thì thầm trò chuyện với nhau, cuối cùng không còn tiếng động gì nữa. Tôi không dám ở lại lâu hơn, cũng chẳng cần tìm chiếc khăn nữa, thấy bốn bề không có ai bèn vội vã lẩn ra bên ngoài.

Trở về cung, tôi bèn ngồi dựa bên song cửa, một mình chìm vào suy tưởng. Sắp đến Trung thu rồi, vầng trăng trong sáng như mâm bạch ngọc, rải ánh sáng mềm mại như nước xuống đình viện và giếng trời, khắp nơi sáng rỡ.

Suy nghĩ của tôi vẫn lẩn quẩn xung quanh chuyện xảy ra hồi sáng. Lăng Dung quả thật yếu ớt đáng thương, nhưng lời hứa hẹn giúp đỡ tôi chỉ là sáo rỗng mà thôi. Lúc này tôi cũng không muốn quá gần gũi với Huyền Lăng, nhưng My Trang thì sao, chưa hề nghe nói nàng ta mở miệng nói giúp một lời. Có lẽ nàng ta cũng có lý do riêng của mình, dù gì nàng ta cũng là kẻ mới chiếm lại được sủng ái, tự mình còn chưa đứng vững được, huống chi giúp đỡ ai.

Còn Thái hậu, tôi đã từng nghe qua một bí mật về bà. Nhiều năm trước, Nhiếp chính vương nắm quyền, trong nước có lời đồn rằng Thái hậu và Nhiếp chính vương tằng tịu với nhau. Cho đến khi Thái hậu tự tay giết chết Nhiếp chính vương, mạnh mẽ đoạt lại quyền binh, rồi thẳng tay tiêu diệt bè đảng của y, lời đồn chưa đánh đã tan, ai ai cũng khen ngợi Thái hậu là bậc nữ trung hào kiệt, thân là nữ nhi mà tài năng vượt xa đấng mày râu. Nhưng qua chuyện hôm nay, chỉ e là giữa Thái hậu và Nhiếp chính vương quả thực có không ít dây mơ rễ má.

Còn A Nhu, đó là một nữ nhân thế nào mà lại được Thái hậu thương yêu, nhớ mãi chẳng quên như vậy? A Nhu, theo tên mà nói thì có phần giống với tên của Thuần Nguyên Hoàng hậu đã quá cố. Không biết có phải là tên gọi riêng của Thái hậu dành cho nàng ta không, A Nhu, vừa thân mật vừa trìu mến. Thái hậu hiện đang lâm bệnh, khó tránh khỏi hoài niệm nhớ nhung người đã khuất.

“Nương nương, mặt trăng đã mọc rồi kìa, người nhìn xem, đẹp quá!” Thấy tôi đang đứng một mình bên cửa sổ, Bội Nhi vén rèm xanh ngọc vân hoa lên, dè dặt cất tiếng gọi tôi. A đầu này, hẳn là tưởng tôi lại nhung nhớ đứa con chưa ra đời, sợ tôi đau đớn quá độ nên cố ý tìm chuyện để nói, giúp tôi cao hứng đôi chút. Tấm lòng của bọn họ cũng thật đáng quý!

Ánh trăng đã xuyên qua khung cửa sổ điêu khắc hoa văn, rọi lên chiếc bàn con, tiếng đàn sáo từ Minh Sắt cư cũng hòa trong làn gió nhẹ dịu dang, xuyên qua tầng tầng lớp lớp cung tường cao lớn đồ sộ. Hiện giờ, các nhạc sư và ca giả tài giỏi nhất trong nước đang tụ tập ở Minh Sắt cư. Tôi đảo mắt nhìn quanh thì thấy Lưu Chu đứng gần bậc cửa đã nhanh tay đóng chặt cửa lại. Tôi thầm nhủ, trên đời này không có nhiều thứ có thể hoàn toàn cản trở được. Chút sức nhỏ nhoi sao đủ lực ngăn cản nổi tiếng ca điệu nhạc vô hình cơ chứ? Huống chi giọng ca của Lăng Dung sao có thể bị một cánh cửa mỏng manh che khuất?

Tiếng đàn sáo ca hát từ Minh Sắt cư tựa sợi tơ tằm bóng mảnh, vừa trơn tuột vừa bền bỉ, đang lặng lẽ vươn dài, dài mãi, rồi cứ tiếp tục mềm mại uyển chuyển xuyên qua vĩnh hạng, qua Thượng Lâm uyển, qua những hòn đảo trên hồ Thái Dịch, qua mọi đình đài lầu các nơi các phi tần cư ngụ, không có chỗ trống nào mà không xuyên qua, lại càng như đâm sâu vào lòng người. Tôi dõi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, giọng ca tuyệt vời thế này sẽ kéo theo bao nhiêu lời nguyền rủa, bao nhiêu giọt nước mắt, bao nhiêu nỗi ai oán, sẽ khiến cho bao nhiêu người trằn trọc thâu đêm?

Mở tờ Trừng tâm đường chỉ [3] ra, thấm đẫm bút mực, tôi muốn tập trung viết chữ một lát. Lòng tôi hiện giờ không yên, do đó càng khát khao mình có thể bình tĩnh lại, bình tĩnh như một vũng nước đọng.

[3] Loại giấy do Hậu chủ Lý Dục chế thành.

Thái hậu nói, viết chữ có thể tĩnh tâm. Hoàng hậu ngày ngày vung bút luyện chữ, chỉ là để khiến tâm thần an ổn.

Tôi muốn tập trung viết chữ, muốn tĩnh tâm một phen.

Vung bút lên viết, hóa ra là bài Trường môn oán của Từ Huệ [4].

[4] Từ Huệ, người ở Trường Thành, Hồ Châu, phi tử của Lý Thế Dân, bốn tuổi đã thông thạo Luận ngữ và thi từ, tám tuổi đã viết văn làm thơ, được xưng tụng là tài nữ. Thái Tông nghe tiếng bèn nạp vào cung làm tài nhân, sau được phong làm Sung dung. Sau khi Thái tông qua đời thì nàng tuyệt thực chết theo, được truy tặng là Hiền Phi.

Tình cũ Bách Lương đài, duyên mới Chiêu Dương điện. Giữ phận tránh xe rồng, buồn lòng thương quạt giấy. Một phen ca vũ thịnh, thi thư xưa chẳng cần. Ân vua thôi đã hết, nước trôi chẳng trở về [5].

[5] Nguyên tác: Cựu ái bách lương thai, tân sủng chiêu dương điện. Thủ phân từ phương liễn, hàm tình khấp đoàn phiến. Nhất triêu ca vũ vinh, túc tích thi thư tiện. Đồi ân thành dĩ hĩ, phúc thủy nan trọng tiến.

“Ân vua thôi đã hết, nước trôi chẳng trở về”, câu thơ này theo tôi thấy thì có đôi chút kiểu cách giả tạo. Chỉ có câu “Một phen ca vũ thịnh, thi thư xưa chẳng cần” là lay động được trái tim tôi. Trước đây không lâu, tôi cùng Huyền Lăng đứng trước cửa sổ phía tây này, khoác áo choàng cùng khêu ngọn nến sáng rực, bàn luận thi sử. Cách đây không lâu, y từng ở trong gian điện này sao chép những bài thơ về hoa mai cho tôi, còn tôi thì lặng lẽ ngồi cạnh, đích thân cắt may áo lót cho y. Cách đây không lâu, tôi đọc truyện Trịnh Bá diệt Đoạn nước Trịnh, thấu hiểu tâm sự sâu kín của y.

Cách đây đã bao lâu rồi? Đều là chuyện quá khứ hết cả. Ca vũ tiêu khiển, đương nhiên là chẳng vô vị như thi thư. Sách có hay cách mấy, đọc thuộc rồi thì cũng bỏ sang một bên mà thôi.

Duyên mới tình cũ, tôi không có bản lĩnh như Ban Tiệp dư, được Thái hậu rủ lòng thương, cho ở Trường Tín cung, cũng chẳng bằng Từ Huệ, có thể giữ được ân vua dài lâu. Còn nàng ta, cũng chưa đến mức như Phi Yến khí thế ép người. Viết ra bài Trường môn oán, chính là cảm thông với nỗi lòng tiếc thương quạt tròn của Ban Tiệp dư. Thường sợ tiết thu đến, gió mát lấn hơi nồng [6]. Hiện giờ chẳng phải chính là tiết thu mát lạnh, đến lúc cất quạt tròn rồi sao?

[6] Bài Oán ca hành của Ban Tiệp sư, nguyên tác: Thường khủng thu tiết chí, lương phong đoạt viêm nhiệt.

Cổ họng của Lăng Dung khỏi nhanh như vậy, lại đúng lúc như vậy, tôi không khỏi sinh lòng hoài nghi. Thế nhưng còn biết làm gì nữa đây? Năm tháng thanh xuân của nàng ta chẳng lẽ cũng phải lặng lẽ tiêu điều như tôi hay sao? Hoa thơm cô quạnh chốn cung đình, có tôi và My Trang đã là quá đủ rồi.

Dẫu cho tôi thấu hiểu được chỗ bất đắc dĩ mà Lăng Dung giải thích, cũng thông cảm được nỗi tịch mịch và sầu khổ của Huyền Lăng theo lời của Hoàng hậu, nhưng khi tiếng cười đùa vui vẻ của y và nàng ta xoáy sâu vào lỗ tai tôi, tôi không thể không nhớ đến chuyện mình vừa mất đi đứa con quý giá như mạng sống, còn mất đi cả sự an ủi và thương xót kịp lúc của phu quân.

Tôi không hề trách móc, cũng không căm hận. Nhưng với cõi lòng trống vắng của tôi lúc này, nỗi nhớ thương đứa con càng trỗi dậy, tôi không thể không oán y. Tôi tự giễu mình, hóa ra tôi cũng chỉ là một oán phụ cô đơn trong chốn thâm cung này.

Ngòi bút khẽ run rẩy, một giọt mực đen sẫm rơi thẳng xuống mặt giấy trắng muốt, tựa một giọt nước cực lớn. Lớp giấy mềm mại, mỏng manh bị mực đen thấm ướt rồi từ từ tan ra, trái tim tôi theo đó cũng rưng rưng lệ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 26-4-2016 14:02:32 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 1
Nghe tiếng đắng lòng


Gió lạnh tháng Chín làm nồng thêm hương quế, làm đỏ thêm phiến lá phong, cũng thổi cho nỗi ưu thương nồng đậm trong lòng tôi tan đi đôi chút, thân thể tôi cũng vì thế mà dần khỏe lại. Đôi lúc rảnh rỗi, tôi nghĩ mình cũng nên đi thăm Huyền Lăng. Mất đi đứa bé, chắc hẳn y cũng chẳng vui vẻ gì, huống chi người giờ đang đắc sủng kia dù sao cũng là tỷ muội của tôi.

Thế là tôi bèn sai Lưu Chu đi xem thử xem Huyền Lăng có đang ở Nghi Nguyên điện không. Lưu Chu quay về bẩm báo: “Lý công công nói Hoàng thượng đang xem tấu chương trong ngự thư phòng. Nô tì đã sai đầu bếp chuẩn bị xong đồ điểm tâm, nương nương mang đến cho Hoàng thượng như trước đây đi.”

Không biết tại sao, khi Lưu Chu chuẩn bị bẩm báo, trong lòng tôi bỗng dâng trào đôi chút căng thẳng, chỉ mong Lưu Chu nói Huyền Lăng không thể gặp tôi. Hình như là vì cảm giác sợ hãi khi phải trở về chốn cũ, thành ra tôi không muốn gặp y nữa. Bây giờ, nghe Lưu Chu nói như vậy, tôi bất giác thở phào một hơi, thầm nghĩ nếu cứ thế này mà đi, gặp mặt rồi lại có chút lúng túng, thậm chí còn có thể nhìn thấy hoặc ngửi thấy thứ gì đó thuộc về một nữ tử khác ở chỗ y. Nếu thực sự như vậy, thà chẳng gặp còn hơn.

Thế là tôi nói: “Chuẩn bị đồ điểm tâm rồi cũng tốt, bảo Tinh Thanh đưa tới cho My Trang tiểu chủ đi!”

Lưu Chu nôn nóng hỏi: “Nương nương không đi thăm Hoàng thượng nữa sao?”

Tôi hờ hững đáp: “Hoàng thượng đang bận rộn việc nước, ta sao dám làm phiền.”

Lưu Chu nói: “Nhưng trước đây… nương nương có thể thoải mái ra vào ngự thư phòng mà.”

Tôi xót xa cõi lòng, cất tiếng ngắt lời nàng ta: “Bây giờ còn giống như trước nữa sao?”

Lưu Chu ngây ra, sắc mặt cũng trở nên ảm đạm, không nói thêm gì nữa.

Ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy trời thu thật đẹp, tôi bèn dẫn Cận Tịch cùng đi tản bộ. Thượng Lâm uyển đang độ đầu thu, trên mặt hồ Thái Dịch luôn ngưng tụ một lớp sương mù mờ mịt, ngay gần đó là một cánh rừng phong đỏ rực như màu máu, chỉ còn sót lại vài nét màu xanh thấp thoáng. Muôn hoa trong Thượng Lâm uyển đều đang đua sắc, dường như để xua đi cảm giác lạnh lẽo, tiêu điều của ngày thu. Cả khu vườn ngập tràn các giống hoa cúc đang nở rộ, nào là Kim thược dược, Hoàng hạc linh, Ngọc linh lung, Nhất đoàn tuyết, Yên chi hương, Cẩm lệ chi, Tây Thi phấn, Ngọc lâu xuân, loại nào cũng quý báu vô cùng, vẻ rực rỡ lúc này như thể đong đầy nét đẹp của mùa xuân, thậm chí còn hơn hẳn sắc xuân.

Tôi khẽ mỉm cười, hoa cúc được trồng trong cung dù trân quý đến mấy, diễm lệ đến mấy nhưng chung quy cũng chẳng còn khí cốt lạnh lùng, cao ngạo của loài hoa cúc mà Đào Uyên Minh đã trồng. Trong khi đó, vẻ đẹp của hoa cúc đa phần là ở cái khí chất của nó, chứ chẳng phải sắc hoa. Nói tới cúc thì phải kể tới cúc trắng đầu tiên, tiếp đó là cúc vàng, những hạng màu mè như tím, đỏ kỳ thực đều chẳng còn lưu lại cốt cách gì.

Tôi cứ thế dạo bước men theo bờ hồ Thái Dịch, vì mải ngắm sắc thu tươi đẹp mà dần đi xa lúc nào không hay. Bốn phía xung quanh, cỏ cây bắt đầu thưa thớt, tịch mịch vô cùng, chỉ còn lại vài tiếng côn trùng rả rích, càng khiến người ta cảm nhận được khí thu nồng đượm. Chợt thấy phía xa có một tòa cung điện quạnh hiu, tách biệt hẳn với nơi ở của các sủng phi bên bờ hồ Thái Dịch, nhưng lại có tường đỏ mái vàng, ngợp đầy khí thế, hẳn không phải là nơi các phi tần bình thường có thể vào ở. Tôi cảm thấy tò mò, bèn hỏi Cận Tịch: “Đó là nơi nào vậy?”

Cận Tịch đáp: “Đó là Phi Hương điện, nơi ở của Đoan Phi nương nương.”

Tôi lẳng lặng gật đầu. Tôi và Đoan Phi tuy cũng có chút qua lại nhưng trước giờ, tôi chưa từng đến cung của nàng ta, thứ nhất là để tránh mối hiềm nghi, thứ hai là nàng ta cũng có vẻ không thích.

Khi tôi mang thai, nàng ta hết sức nhiệt tình, thậm chí còn không để ý tới việc mình đang bị bệnh mà cố gắng làm cho đứa con chưa ra đời của tôi hai đôi giày nhỏ. Tôi rất cảm kích tâm ý của nàng ta, nhưng Đoan Phi lại không thích tôi tới thăm. Trước khi tôi sảy thai, nàng ta lại bị bệnh, nghe nói không nhẹ, thế nhưng vẫn không quên nhắc tôi phải chú ý nghỉ ngơi cho tốt. Về sau, vì tôi gặp phải quá nhiều vấn đề khó khăn nên cũng không có thời gian để tâm đến nàng ta nữa.

Bây giờ đã đi ngang qua đây, nàng ta lại đang mang bệnh, tôi tất nhiên không thể cứ thế mà bỏ đi, bèn nói với Cận Tịch: “Ngươi tới gõ cửa đi!” Đang là giữa trưa, cửa cung đóng chặt, trên cánh cửa còn in những dấu vết loang lổ. Sau khi Cận Tịch gõ cửa hồi lâu, cánh cửa phát ra một tiếng “kẽo kẹt”, nặng nề mở ra. Cát Tường bước ra, nhìn thấy tôi, nàng ta cũng hơi kinh ngạc, nói: “Nô tỳ bái kiến nương nương!”

Tôi cảm thấy có chút hồ nghi, Cát Tường và Như Ý là hai cung nữ hầu cận bên cạnh Đoan Phi, xưa nay luôn một bước không rời, sao lần này lại là nàng ta ra mở cửa? Thế là tôi bèn hỏi: “Nương nương nhà ngươi đâu?”

Vành mắt Cát Tường đỏ hoe, rơm rớm nước mắt, nói: “Nương nương tới rồi thì tốt quá!”

Tôi thầm kinh hãi, vội vàng đi theo Cát Tường rảo bước vào trong. Tòa cung điện này rất rộng rãi, nhưng lại lạnh lẽo vô cùng, chẳng có bóng dáng cung nữ hay thái giám nào khác. Tôi không kìm được tò mò hỏi: “Người đâu cả rồi?”

Cát Tường lại không trả lời vào câu hỏi: “Mấy năm trước, nương nương nhà nô tỳ mắc bệnh, Hoàng hậu nương nương vì muốn nương nương có thể yên tâm dưỡng bệnh, liền bảo mấy vị tiểu chủ vốn cùng ở đây dọn ra ngoài, vì thế ở đây không còn ai nữa.”

Tôi chăm chú nhìn nàng ta. “Vậy các cung nhân chuyên việc hầu hạ thì sao, chẳng lẽ cũng dọn ra ngoài cả rồi?”

Cát Tường thoáng do dự. “Nương nương đuổi bọn họ đi rồi, ở đây chỉ còn Như Ý đang sắc thuốc ngoài điện nữa thôi.”

Tôi không tiện hỏi thêm, bèn cất bước đi thẳng vào trong điện, lập tức ngửi thấy mùi thuốc chát nồng còn chưa kịp tan hết. Trên bức tường ngoài điện, dây thường xuân chằng chịt, che khuất ánh mặt trời. Trong điện, màn chăng lớp lớp, càng thêm u ám, toát lên một vẻ tịch mịch tột cùng. Đoan Phi nằm trên giường, dường như đã ngủ rất say. Một cung nữ lớn tuổi đang ngồi sắc thuốc ở bên ngoài, chính là Như Ý. Như Ý nhìn thấy tôi thì vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, khẽ gọi một tiếng: “Nương nương!” rồi rơi lệ.

Tôi thấy Đoan Phi đang ngủ mê man, sắc mặt trắng bệch như giấy, bèn hỏi: “Nương nương nhà các ngươi trông yếu quá, thái y nói thế nào?” Như Ý nghẹn ngào nói: “Nương nương nói cứ uống mấy loại thuốc như trước là được rồi, trong cung có nhiều chuyện thị phi, không được đi mời thái y về, kẻo lại sinh rắc rối.”

Tôi thở dài một tiếng, nói: “Đoan Phi nương nương cẩn thận quá, mời thái y tới xem bệnh là việc nên làm mà!”, rồi lại tiếp: “Ta thấy cứ như thế này thì không ổn đâu. Như Ý cứ sắc thuốc tiếp, Cát Tường tới Thái y viện mời Ôn thái y tới đây, không chữa trị thì làm sao khỏi được. Đoan Phi nương nương đã đuổi hết người trong cung của mình, bên cạnh không có ai hầu hạ cũng không ổn. Cận Tịch, ngươi về cung của chúng ta, chọn vài người được việc đến đây.”

Cát Tường, Như Ý nghe tôi nói vậy thì đều mừng rỡ ra mặt. Tôi bảo bọn họ mau ra ngoài làm việc rồi một mình ở lại bầu bạn với Đoan Phi, nhân tiện đi hái mấy nhành hoa cúc cắm vào bình, trong điện lập tức có thêm mấy phần sức sống. Lát sau, Đoan Phi rên rỉ một tiếng rồi tỉnh dậy, thấy tôi đang ngồi bên giường bèn nói: “Muội đến rồi!”

Tôi kê một chiếc gối mềm xuống dưới gáy nàng ta. “Thần thiếp ngẫu nhiên đi qua nơi ở của nương nương, nghe nói thân thể nương nương không được khỏe lắm.”

Nàng ta cười gượng, nói: “Bệnh cũ thôi, cứ đến độ thu đông là lại phát tác, không việc gì đâu.”

Tôi nói: “Bệnh cũng phải chữa khi còn chưa nặng, nương nương nên chú ý đến sức khỏe của bản thân.”

Nàng ta hơi hé mắt. “Lâu ngày không gặp, muội cũng gầy đến thế này rồi. Thân thể đã khỏe hơn chút nào chưa?”

Nghe nàng ta nói vậy, thoạt tiên tôi rất ngạc nhiên, sau lại nghĩ tới việc nàng ta ở trong cung chẳng có người nào hầu hạ, rất nhanh đã hiểu ra, bèn nói: “Nương nương tai thính mắt tinh, không cần ra ngoài cửa mà cũng biết hết việc trong cung.”

Nàng ta mỉm cười, nói: “Thứ có thể biết chỉ là chuyện bề ngoài, còn những sự biến hóa trong lòng người thì ai mà biết nổi. Mấy trò vặt vãnh này có tính là gì.”

Nghe thấy hai chữ “lòng người”, tim tôi không khỏi máy động, bèn im lặng. Đoan Phi đang ốm nên nói chuyện có chút khó khăn, chậm rãi cất tiếng: “Đứa bé gần như là tính mạng của người mẹ, dù chưa chào đời nhưng cũng chẳng khác gì khúc ruột trong lòng. Muội đột nhiên mất con như vậy, đương nhiên lại càng thương tâm.”

Khi nói những lời này, dường như Đoan Phi rất thương cảm. Mà lời của nàng ta rõ ràng đã nhấn mạnh vào hai chữ “đột nhiên”.

Tôi đương nhiên hiểu ý của nàng ta nhưng việc “Hoan Nghi hương” có mối liên quan rất lớn, tôi sao có thể nói ra khỏi miệng được, đành nói: “Hồi nhỏ thần thiếp từng uống nhầm thuốc hỏng, e là đã làm ảnh hưởng đến thân thể.”

Đoan Phi khẽ gật đầu. “Thì ra là vậy!” Nàng ta cố gắng hít sâu một hơi. “Nhưng chỉ sợ muội lại càng thương tâm hơn vì lối xử trí của Hoàng thượng đối với Mộ Dung Thế Lan.”

Nghĩ tới việc này, thù cũ hận mới trong lòng lập tức trào dâng, tôi không khỏi vừa buồn thương, vừa giận dữ, ngoảnh đầu qua một bên, không nói gì. Đoan Phi lạnh lùng cười, nói: “Ta thấy nàng ta đang muốn học theo cách mà tiên Hoàng hậu đã trừng trị Hiền Phi đấy! Cái số nàng ta đúng là không phải chỉ tốt bình thường, ta vốn tưởng Hoàng thượng sẽ vì muội mà giết chết nàng ta, ít nhất cũng phải phế bỏ ngôi vị của nàng ta rồi đày vào lãnh cung mới phải.”

Lại một lần nữa nghe nói tới chuyện của Hiền Phi, tôi không kìm được, hỏi: “Trước đây, Hiền Phi cũng vì quỳ lâu nên mới sảy thai sao?”

Đoan Phi khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Khi tiên Hoàng hậu còn tại thế, Hiền Phi thường tỏ ra bất kính, có một hôm không biết vì cớ gì mà xúc phạm tiên Hoàng hậu, lúc đó tiên Hoàng hậu đang mang thai nên tính tình có chút nóng nảy, liền bắt Hiền Phi quỳ bên ngoài Vị Ương điện, ai ngờ sau khi quỳ được hai canh giờ thì Hiền Phi chảy máu. Tới lúc này mọi người mới biết Hiền Phi đã mang thai được gần hai tháng, chỉ đáng tiếc bản thân Hiền Phi cũng không rõ việc này cho nên mới quỳ. Tiên Hoàng hậu đức hạnh xuất chúng, trong hậu cung ít ai không phục, vì chuyện này mà trong lòng áy náy rất lâu.” Nàng ta thoáng dừng một chút rồi nói tiếp: “Việc này cũng khó trách tiên Hoàng hậu, bản thân Hiền Phi sơ suất, người ngoài làm sao mà biết được, cái thai hai tháng vốn chưa ổn định, há có thể chịu nổi hai canh giờ quỳ dưới đất?” Đoan Phi nhớ lại việc xưa, trong giọng nói mang đầy vẻ xuýt xoa, cảm thán.

Một thoáng sau đó, Đoan Phi đã bình tĩnh trở lại. “Có điều, theo ta thấy, Mộ Dung Thế Lan không ngốc đến mức để muội xảy ra chuyện khi mình đang chấp chưởng hậu cung. Với cái tính kiêu ngạo của nàng ta, chẳng qua muốn đè nén muội để lập uy mà thôi!” Nàng ta khẽ “hừ” một tiếng. “E là sau khi biết muội sẩy thai, nàng ta sợ hãi hơn bất cứ người nào, biết rằng lần này bản thân khéo quá hóa vụng.”

Tôi mang theo cơn giận ngập lòng, chậm rãi nói: “Khéo quá hóa vụng cũng được, cố ý làm vậy cũng được, mối thù mất con của thần thiếp tạm thời không thể báo được rồi!”

Trò chuyện một lát, thấy Cát Tường dẫn Ôn Thục Sơ đi vào, tôi bèn đưa mắt nhìn Đoan Phi, đứng dậy cáo từ. Đoan Phi vừa nói chuyện với tôi một lúc, sớm đã thấm mệt, chỉ khẽ gật đầu một cái rồi tiếp tục nhắm mắt dưỡng thần.

Chậm rãi bước ra ngoài Phi Hương điện, tôi tìm một chiếc ghế đá vuông ngồi xuống, hồi tưởng lại những lời Đoan Phi vừa nói. Tôi đột ngột mất con, trước giờ vẫn luôn cho rằng là vì tác dụng của Hoan Nghi hương nên mới quỳ có nửa canh giờ đã bị sẩy thai. Mà vật này dùng quá nhiều xạ hương để chế tạo, nhất định cũng gây hại cho thân thể của tôi. Nhưng tôi chỉ ở trong cung của Mộ Dung Thế Lan có ba, bốn canh giờ, sức thuốc có thể mạnh đến vậy sao?

Tỉ mỉ ngẫm lại, mấy ngày trước khi tới cung của nàng ta, tôi đã cảm thấy mình có chút không khỏe, việc này phải giải thích thế nào đây? Chẳng lẽ thực sự là vì tôi kiêng dè nàng ta quá nên tâm sức kiệt quệ? Trong lúc ăn uống, tôi đều dùng đồ bạc, đương nhiên không thể sảy ra sai sót gì về phương diện này, vậy cảm giác khó chịu kia của tôi rốt cuộc từ đâu mà ra?

Không lâu sau, Ôn Thục Sơ đã đi ra, tôi cũng không trò chuyện gì với hắn, hỏi thẳng vào việc chính: “Đoan Phi mắc bệnh nặng thế này là vì nguyên cớ gì?”

Hắn không trả lời, chỉ hỏi: “Nương nương có từng nghe nói tới vị thuốc hồng hoa chưa?”

Tôi không khỏi cả kinh, buột miệng nói: “Đó chẳng phải là thuốc dùng để phá thai sao?”

Hắn gật đầu, nói: “Phải! Hồng hoa có công dụng hoạt huyết, giải trừ tắc nghẽn, dùng để trị các chứng tắc kinh, thống kinh, sản dịch sau khi sinh không xuống được, sưng tấy đau nhức, ứ đau do chấn thương. Thai phụ nếu uống vào quả thực sẽ bị sẩy thai.” Hắn ngẩng lên, hai mắt lóe sáng, thoáng qua một tia thương xót. “Nhưng nếu người không có thai cũng không bị đau bệnh mà uống một lượng lớn thứ thuốc này thì sẽ bị tổn thương huyết mạch, thậm chí không thể sinh đẻ.”

Tôi nghe mà trong lòng chấn động, trên mặt tràn ngập vẻ kinh ngạc đến khó tin, hồi lâu sau mới khẽ hỏi: “Vậy ngài có thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh của Đoan Phi nương nương không?”

Hắn cúi đầu, nhìn mũi giày của mình, nói: “E là không, vi thần chỉ có thể đảm bảo giữ được mạng sống cho Đoan Phi nương nương mà thôi.” Thoáng dừng một chút, hắn nói tiếp: “Cho dù có bậc quốc thủ ở đây, e rằng Đoan Phi nương nương cũng không thể sinh đẻ được nữa.”

Chẳng trách nàng ta lại thích trẻ con như vậy! Ôn Thực Sơ được tôi nhờ cậy tất nhiên sẽ tận tâm tận lực cứu chữa cho Đoan Phi nương nương, mà hắn đã nói như vậy, đủ thấy thân thể Đoan Phi bị tổn hại nặng nề đến mức nào, hiển nhiên đã nằm ngoài phạm vi năng lực của hắn.

Tôi không thể biết rõ những nguyên nhân khiến thân thể Đoan Phi bị tổn hại đến vậy, vì cảm kích những lời nhắc nhở thân tình của nàng ta, tôi chỉ có thể gắng sức giúp được đến vậy mà thôi, vì vậy bèn nói: “Bản cung chỉ mong nàng ta có thể sống tiếp, không bị bệnh tật giày vò quá nhiều.”

Hắn khẽ gật đầu. “Vi thần sẽ dốc hết sức mình.”

Tôi nghĩ tới sự nghi hoặc của mình, bèn hỏi: “Năm xưa, bản cung vì muốn tránh phải thị tẩm nên đã uống thuốc ngài đưa, liệu có gây hại gì cho thân thể không?” Do dự một chút, tôi nói thẳng: “Chẳng hạn như, khiến thân thể yếu ớt, dễ bị sẩy thai.”

Hắn thoáng chút kinh hãi, sau ngẫm nghĩ hồi lâu bèn nói: “Khi đó, vi thần đã khống chế lượng thuốc hết sức cẩn thận, sau khi nương nương uống thuốc cũng không có chỗ nào lạ thường. Còn về việc sẩy thai, có lẽ là không thể. Có điều… thể chất mỗi người mỗi khác, thế nên cũng khó mà khẳng định.”

Lòng tôi lạnh lẽo, bất kể thế nào, đứa bé ấy cũng không còn nữa, dây dưa thêm nhiều chuyện quá khứ liệu có ích gì? Phụ hoàng của nó, chắc cũng quên nó từ lâu rồi.

Ôn Thực Sơ nhìn tôi chăm chú, khiến tôi bất giác cảm thấy mất tự nhiên, liền không nói nhiều với hắn nữa, đứng dậy, rời đi.

Cận Tịch vẫn chưa quay lại, trở về cung cũng buồn chán, chẳng có việc gì làm, tôi liền đi dạo, muốn nhân đó xua bớt những khổ não trong lòng. Tôi đi giữa một vùng đầy hoa và đá, lại rẽ qua ngọn giả sơn đến bên một khe suối nhỏ, nghe thấy tiếng chim chóc hót ca, suối chảy róc rách, sau khi lòng vòng mấy vòng liền giật mình phát hiện mình đã đến khu rừng phía sau Nghi Nguyên điện.

Huyền Lăng trước giờ vẫn thường phê duyệt tấu chương, suy xét việc nước trong ngự thư phòng ở Nghi Nguyên điện, nhưng ngày ngày phải đọc một đống tấu chương cao như núi với những lời lẽ khô khan khiến y đau đầu, mà y lại rất thích không khí trong lành, mộc mạc với tiếng chim hót véo von, bèn ra lệnh trồng một khu rừng sau Nghi Nguyên điện. Mười mấy năm trôi qua, cây cối đã rậm rạp, um tùm, khi có gió còn phát ra tiếng xào xạc như sóng vỗ bờ, chim muông ríu rít vang trời.

Tôi từng bầu bạn bên y khi y phê duyệt tấu chương, có lúc tâm trạng hai người đều tốt, y sẽ cùng tôi thả bộ giữa rừng, sánh vai bên tôi, dắt tay tôi, nói những lời rất đỗi ngọt ngào. Trong thời khắc đẹp đẽ ấy, các cung nữ và thái giám đều không bao giờ tới quấy rầy, giữa trời đất bao la dường như chỉ có y và tôi, chứ không phải là quân và thần, chồng và thiếp.

Đã bao lâu rồi tôi không đặt chân vào Nghi Nguyên điện? Y cũng gần như không đặt chân vào Đường Lê cung của tôi nữa. Lần gặp mặt cuối cùng giữa chúng tôi là khi nào nhỉ?

Hình như là một buổi hoàng hôn… Không, hình như là một dịp sáng sớm, khi đó, tinh thần tôi còn khá tốt, đang soi gương, phát hiện mình vì thương tâm mà đã tiều tụy và gầy guộc đi nhiều.

Y từ bên ngoài bước vào, ngồi xuống uống trà, lặng lẽ ngắm nhìn dung nhan trong gương của tôi, rồi lại đứng dậy, xoa nhẹ bờ má tôi, nói: “Vết sẹo trên má nàng đã không còn thấy nữa rồi. May mà không bị thương nặng lắm!” Tôi vốn đang thương tâm vì sự tiều tụy của mình, cũng nhớ đến nguyên nhân khiến mình tiều tụy, bất giác cảm thấy khó chịu. Y lại nói tiếp: “Nếu thực sự để lại sẹo thì biết làm sao đây, sẽ là tì vết trên viên ngọc bích mất.”

Tôi bỗng có chút buồn bực, ngẩng đầu qua, cười nói: “Hoàng thượng đúng là yêu quý dung nhan của thần thiếp.”

Huyền Lăng khẽ cười. “Sao trẫm có thể không yêu vẻ đẹp của Hoàn Hoàn được chứ?”

Tôi thầm cười lạnh, thì ra y để ý đến dung mạo của tôi đến vậy, bèn gạt tay y ra, sau đó đứng dậy, đi tới bên giường, nằm xuống, quay mặt vào tường, không để ý tới y nữa.

Y không dỗ dành tôi như thường ngày, hình như còn khá giận dữ, nói: “Quý tần, tính nàng cũng ương bướng quá rồi đấy! Trẫm niệm tình nàng vừa mới mất con nên không tính toán với nàng, nàng hãy cố nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho tốt đi.” Nói xong, y liền phất tay áo rời đi, không trở lại thêm lần nào nữa.

Sau việc đó, tôi hỏi Cận Tịch: “Có phải Hoàng thượng chỉ yêu dung mạo của ta không?”

Cận Tịch dè dặt trả lời: “Dung mạo của nương nương khiến người nhìn say đắm, chẳng ai có thể lờ đi như không thấy được.”

Hoán Bích đứng bên cạnh cười gượng, nói: “Thì ra nam nhân thực sự yêu thích dung mạo của nữ tử hơn tâm tính, qua đó đủ thấy nam nhân nào cũng đều yêu mỹ sắc.”

Tôi khẽ lắc đầu. “Thực ra cũng không hẳn vậy. Dung mạo ở bên ngoài, tâm tính ở bên trong, cho nên tất nhiên dung mạo dễ thấy hơn rất nhiều so với tâm tính. Không có dung mạo, e rằng sẽ có rất ít nam tử chịu đi tìm hiểu tâm tính của ngươi. Nhưng nếu tâm tính không tốt thì sao có thể vui vẻ ở bên người khác lâu dài được. Trong thiên hạ quả thực có rất nhiều nam nhân ham mê mỹ sắc nhưng cũng có hạng người như Gia Cát Khổng Minh sống hạnh phúc bên người vợ xấu xí họ Hoàng, không thể đánh đồng tất cả được.”

Hoán Bích nói: “Nhưng trên đời này có được bao nhiêu Gia Cát Khổng Minh đây?”

Lần này thì đến lượt tôi cười gượng, quả đúng thế, trên đời này, hạng nam tử chỉ nhìn người qua dung mạo vẫn chiếm đa số. Còn nữ tử, dùng sắc đẹp mà lấy lòng người khác, liệu có thể lâu dài? Tôi vẫn luôn cho rằng y quả có chút tình ý với tôi, cũng tán thưởng tôi, nhưng trong lần ngẫu nhiên tới thăm ấy, y lại chỉ để tâm xem dung mạo của tôi có còn được như xưa hay không.

Suy nghĩ như vậy, nơi đáy lòng tôi không khỏi có chút thê lương, huống chi bây giờ lại đang đứng giữa cảnh sắc ngày xưa, những niềm vui như hiện ra ngay trước mắt, thế là tôi không muốn ở lại thêm chút nào, xoay người định đi.

Nhưng đúng lúc ấy, tôi chợt nghe thấy có tiếng người nói chuyện, bèn vô thức nấp vào sau một gốc cây gần đó. Hai người đi tới từ phía trước không phải là Huyền Lăng và Lăng Dung đó sao? Lăng Dung tuy giữ khoảng cách một bước chân với y nhưng lại tươi cười ngọt ngào, hết sức thân mật. Tình cảnh này thật giống với tôi khi xưa, điều duy nhất khác biệt là người đứng bên cạnh Huyền Lăng khi đó là tôi chứ không phải Lăng Dung.

Lăng Dung lúc nào cũng có vẻ nhún nhường. Cũng chính bởi vẻ nhún nhường đó mà người ta mới càng sinh lòng yêu thương.

Lúc này, Lăng Dung mặc một chiếc áo dài gấm màu vàng nhạt thêu hoa văn hình hoa đào, phía dưới là chiếc quần lụa màu trắng bạc, trên đầu cài một cây trâm vàng có tua ngọc rất dài, trong sự thẹn thùng lại ẩn chứa nét tinh tế, e lệ, khiến người ta nhìn mà si mê. Nàng ta cất giọng dịu dàng: “Hoàng thượng đã rất lâu chưa đi thăm Chân tỷ tỷ rồi, đêm nay có định tới chỗ tỷ tỷ không?”

Trên mặt thoáng qua mấy tia ngập ngừng, Huyền Lăng cảm khái nói: “Không phải là trẫm không muốn đi thăm nàng ta. Nàng ta mất con, trẫm cũng rất thương tâm, nhưng tính cách nàng ta thực bướng bỉnh quá. Nữ tử tính tình bướng bỉnh như vậy dù sao cũng không phải việc hay.” Nói đoạn, y khẽ cười một tiếng: “Nếu nàng ta có được một nửa sự dịu dàng của nàng thì tốt rồi!”

Lời này lọt vào tai, tôi gần như ngây ra tại chỗ, đôi mắt như bị thứ gì đó đâm mạnh vào, cay đến mức khó chịu, cảnh vật trước mắt theo đó mà trở nên mơ hồ, đến nhánh cây thẳng tắp cũng trở nên cong queo. Không ngờ y lại chê tính tôi bướng bỉnh, không được dịu dàng như Lăng Dung. Đột nhiên nghe y nói ra sự bất mãn với tôi vốn đã chẳng phải việc dễ chịu gì, hơn nữa, những lời chỉ trích này còn được y nói ra ngay trước mặt sủng phi của y.

Lăng Dung thoáng suy nghĩ rồi thấp giọng nói: “Nếu tỷ tỷ có chỗ nào khiến Hoàng thượng bất mãn, xin Hoàng thượng hãy niệm tình tỷ ấy vừa mới mất con. Tỷ tỷ kỳ thực rất đau khổ.”

Huyền Lăng có chút bất mãn. “Nàng ta đau khổ, trẫm cũng đau khổ. Sao nàng ta không chịu suy nghĩ cho trẫm? Trẫm đã mất liền hai đứa con, trong cung lại có nhiều chuyện thị phi như vậy, đến nhìn thấy một nụ cười của nàng ta cũng khó. Trước đây, trẫm quả thực đã nuông chiều nàng ta quá.”

Tôi cười lặng lẽ, nỗi đau mất con của tôi không ngờ lại trở thành cái lỗi của y khi đã quá nuông chiều tôi.

Lăng Dung tỏ ra hoang mang, vội nói: “Thần thiếp không có ý đó.”

Huyền Lăng thổn thức: “Thực ra Hoàn Hoàn cười trông rất đẹp.” Thế nhưng khi nghe thấy Lăng Dung tự trách mình, y bèn an ủi: “Không liên quan gì tới nàng. Thực ra trẫm cũng hơi nhớ nàng ta, lúc nào có thời gian rảnh rỗi, trẫm nhất định sẽ đi thăm nàng ta.” Suy nghĩ một lát, y lại nói tiếp: “Nàng và Hoàn Hoàn tình như tỷ muội, tính cách của nàng ta, nàng hẳn cũng biết rõ. Bây giờ nàng ta đang thương tâm, trẫm thực sự rất khó xử, cũng không đành lòng đi gặp nàng ta.”

Lăng Dung khẽ thưa: “Dạ! Tỷ tỷ gia thế tốt, lại có tài học vấn, thần thiếp trước giờ rất ngưỡng mộ tỷ tỷ, cũng mong Hoàng thượng vẫn thích tỷ tỷ như trước đây. Nhưng thần thiếp lại nghĩ, tỷ tỷ bây giờ còn chưa suy nghĩ được thông tỏ, do đó vẫn luôn thương tâm, không thể hầu hạ Hoàng thượng cho tốt được. Sau này nếu tỷ tỷ nghĩ thông rồi, tất nhiên sẽ hồi tâm chuyển ý. Chi bằng tạm thời Hoàng thượng đừng đi thăm tỷ tỷ vội, kẻo khi trò chuyện lại xảy ra mâu thuẫn thì không hay. Đợi sau khi thần thiếp khuyên nhủ tỷ tỷ hiểu ra rồi Hoàng thượng hãy tới gặp mặt, như vậy há chẳng phải mọi người đều được vui sao?” Dứt lời, nàng ta lại dè dặt liếc nhìn thần sắc của Huyền Lăng, nói tiếp: “Đây chỉ là chút ngu kiến của thần thiếp, Hoàng thượng đừng chê thần thiếp nhiều lời.”

Huyền Lăng nói: “Nàng có lòng quan tâm đến trẫm và Hoàn Quý tần như vậy, trẫm sao có thể chê trách được!”

Lăng Dung hơi cau mày, trên mặt thấp thoáng nét sầu. “Hoàng thượng quá khen rồi, thần thiếp chỉ mong Hoàng thượng có thể mãi mãi vui vẻ. Kỳ thực thần thiếp vô tài vô đức, không thể phân ưu giải nạn cho Hoàng thượng như tỷ tỷ.”

Huyền Lăng nói: “Dung Nhi việc gì phải tự xem nhẹ mình như thế, nàng và Hoàn Quý tần tựa như hoa mùa xuân với trăng mùa thu, mỗi người một vẻ.”

Tới lúc này, Lăng Dung mới cười tươi rạng rỡ, cất giọng yêu kiều: “Vậy Hoàng thượng thích thần thiếp nhiều hơn một chút, hay là thích tỷ tỷ nhiều hơn một chút đây?”

Huyền Lăng thoáng do dự rồi cười, nói: “Trong thời khắc này, ta đương nhiên thích Dung Nhi nàng nhiều hơn một chút rồi.”

Cổ họng tôi nghẹn đắng, dường như không thể thở nổi. Những lời lẽ kia đã khiến nỗi thương tâm muốn rớt lệ của tôi biến thành một sự đau đớn và thất vọng tột cùng, muốn khóc mà không còn nước mắt. Dường như có một đôi tay đang bóp chặt trái tim tôi rồi không ngừng giày vò. Cơn gió lúc nóng lúc lạnh phả vào mặt tôi, mang tới cảm giác tê dại như có hàng trăm con côn trùng đang bò qua. Tôi cảm thấy muôn vàn sự tận tâm và tình ý trước đây đều không đáng! Không đáng một chút nào! Nhưng vẫn cứ ngẩn ngơ đứng đó, không thể cất bước trốn đi.

Huyền Lăng đang định nói tiếp, chợt ho liền mấy tiếng. Lăng Dung vội vàng bước tới xoa ngực y, cất giọng quan tâm: “Hoàng thượng bận rộn việc nước, vất vả quá, thần thiếp đã đích thân hái lá sơn trà về bảo người hầm với đường phèn, Hoàng thượng uống vào, đảm bảo sẽ khử được đờm, trị ho, hơn nữa còn không đắng chút nào.”

Huyền Lăng mỉm cười, nói: “Thật không ngờ nàng lại làm những việc này, nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu không vì nàng, trẫm sao có thể ho được.”

Lăng Dung thoáng ngạc nhiên rồi ấm ức nói: “Phải, là lỗi của thần thiếp, mong Hoàng thượng hãy nói cho thần thiếp biết thần thiếp sai ở chỗ nào.”

Huyền Lăng nở nụ cười xấu xa, khẽ véo tai nàng ta. “Tối qua trẫm chỉ muốn nàng đổi tư thế một chút, nhưng nàng lại thẹn thùng không chịu. Nếu không phải vì thế, sao trẫm lại bị nhiễm phong hàn được?”

Lăng Dung cả thẹn, mặt đỏ bừng như muốn nhỏ máu, vội vàng ngó nghiêng bốn phía xung quanh, thấy không có ai mới thấp giọng hờn giận nói: “Hoàng thượng chớ nói những lời không hợp lễ nghi.” Bộ dạng yêu kiều, e thẹn ấy thật động lòng người, Huyền Lăng cất tiếng cười vang, làm lũ chim trong rừng giật mình bay xớn xác, cũng làm trái tim tôi nghẹn lại, lúc này đây, trái tim tôi tê dại biết chừng nào…

Hồi lâu sau, Huyền Lăng và Lăng Dung đã đi xa. Một dải chiều tà đậu trên ngọn cây, đỏ rực như màu máu, xung quanh chỉ còn lại vẻ tịch mịch đến thê lương. Thỉnh thoảng lại có chú chim sẻ bay lên, rất nhanh đã biến thành một đốm đen nhỏ trên nền trời xa tít tắp.

Tôi lầm lũi bước đi, trong đôi mắt mơ màng đã chẳng còn nước mắt nhưng tận sâu thẳm đáy lòng, lại đau đớn tột cùng, còn ngập tràn một nỗi trống trải. Chân tay lạnh toát từng hồi, lúc này đây, kỳ thực tôi chẳng biết mình nên đi đâu. Nếu cứ thế này mà về cung thì chắc chắn đám người Cận Tịch sẽ rất lo lắng cho tôi. Nhưng nếu không về, chốn thâm cung to lớn như vậy, tôi biết nương thân ở chốn nào đây?

Đôi chân tôi dần trở nên mỏi nhừ, như thể đang bước trên một lớp bông rất dày và mềm xốp, hồi lâu sau mới đặt được chân lên nền đá xanh phẳng lì, rắn chắc trong vĩnh hạng. Cận Tịch lo lắng bước tới, nhìn thấy tôi mới thở phào một hơi, vội vàng khoác chiếc áo choàng gấm thêu lên vai tôi, nói: “Đều tại nô tỳ không tốt, đi đi về về mất quá nhiều thời gian, khiến nương nương phải đợi chờ vất vả!” Nhìn bộ dạng ngẩn ngơ như người mất hồn, lại chạm vào bàn tay lạnh ngắt đang run lẩy bẩy của tôi, nàng ta lại càng nôn nóng và sợ hãi. “Nương nương sao vậy? Vừa rồi người đã đi đâu? Làm nô tỳ lo lắng quá đi mất!”

Tôi đưa tay lau vệt nước mắt sớm đã khô, miễn cưỡng nói: “Không có gì, vừa rồi ta chỉ bị gió thổi vào mắt thôi!”

Cận Tịch sao dám chậm trễ, lo lắng nói: “E là nương nương đã bị gió lạnh ngấm vào người rồi, để nô tỳ đỡ nương nương về cung nghỉ ngơi.”

Trở lại cung, Hoán Bích và Lưu Chu thấy bộ dạng của tôi như vậy cũng sợ đến giật mình, nhưng không dám hỏi nhiều, mà tôi cũng không để ai đi mời thái y, đuổi tất cả bọn họ ra ngoài. Sắc trời dần tối, trong điện còn chưa thắp đèn, bầu không khí ngập trong sự u ám nặng nề. Trái tim tôi cũng chỉ có màu sắc ấy.

Tôi lên giường trùm chăn, những giọt lệ đã kìm nén hồi lâu, tới lúc này mới ào ạt tuôn trào, thấm vào chiếc chăn bông dày và mềm mại, tạo thành một mảng ẩm ướt và ấm nóng ngay trên mặt tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 26-4-2016 14:48:00 | Chỉ xem của tác giả
Tập 3-Chương 2
Tương tư đằng đẵng


Trong thời khắc trái tim nguội lạnh, ý chí lụi tàn, tôi rốt cuộc cũng không cầm cự được nữa, thân thể dần trở nên yếu đuối, thêm vào đó, bệnh cũ còn chưa khỏi hẳn, cuối cũng lại đổ bệnh lần nữa. Căn bệnh này cũng không quá nặng nhưng lại triền miên đeo bám, khiến tôi cả ngày phải nằm trên giường.

Ngoài những người gần gũi kề bên, căn bản không ai biết tôi đổ bệnh. Trong quãng thời gian ấy, Huyền Lăng không triệu tôi đến sủng hạnh lần nào, cũng không đặt chân vào Đường Lê cung một bước. Giữa chốn hậu cung ồn ã, tôi dần trở nên trầm lắng, chẳng được người nào hỏi han.

Thoạt tiên, có rất nhiều người trong cung mong thái độ thờ ơ, lạnh nhạt trước việc Lăng Dung được ân sủng. Trong suy nghĩ của bọn họ, Lăng Dung xuất thân thấp hèn, không có gia thế hiển hách, tính tình lại yếu đuối, dung mạo cũng chỉ tầm tầm, không đến mức diễm lệ mười phần, thứ duy nhất có thể dựa vào là giọng ca xuất chúng, so với Dư thị vì tiếng hát mà được sủng ái ngày trước, chẳng có quá nhiều điều khác biệt. Thế là bọn họ chắc mẩm rằng hứng thú của Huyền Lăng với nàng ta cùng lắm chỉ kéo dài hai tháng rồi sau đó sẽ nhạt dần. Nhưng sự thẹn thùng, yếu đuối cùng nét dịu dàng của một nữ tử thôn quê trên người Lăng Dung lại khiến Huyền Lăng ngày càng một mê đắm nàng ta. Mộ Dung Phi và tôi trầm xuống, nhất thời, Lăng Dung trở thành người duy nhất được sủng ái trong cung.

Đường Lê cung thực sự đã trở thành một nơi lạnh lẽo như “tiết thu tàn gió rét [1]”, ngoại trừ Ôn Thực Sơ, không còn thái y nào khác chịu tới chữa bệnh cho tôi, đám cung nữ, thái giám ngày xưa hết mực xu nịnh cũng thấy tôi là tránh vội. Khi xưa, Mật Tú cung của Mộ Dung Thế Lan và Đường Lê cung của tôi là hai chỗ náo nhiệt nhất trong chốn hậu cung, thế mà giờ đây đều trở nên lạnh lẽo, thực có đôi chút giống với một cặp bằng hữu cùng chung hoạn nạn.

[1] Trích Vũ lâm linh – Hàn thiền thê thiết, Liễu Vĩnh. Phiên âm Hán Việt: Lãnh lạc thanh thu tiết – ND.

Đường Lê cung ngày càng trở nên tịch mịch. Giữa chốn đình viện quạnh hiu, cánh cửa đỏ thẫm ngay lúc ban ngày cũng thường xuyên khép chặt, khung cảnh người đông như trẩy hội trước cửa cung bây giờ đã chuyển đến Minh Sắt cư của Lăng Dung. Trong cung của tôi lúc này chỉ có lũ chim sẻ là hay đến nhất. Còn trong số các phi tần, cũng chỉ còn Kính Phi và My Trang là vẫn thường xuyên qua lại. Các cung nhân dần quen với sự tịch mịch này, cả ngày không có việc gì liền đem gạo ra rắc ngoài sân, dụ đám chim sẻ kia xuống ăn, lấy đó làm vui. Dần dà lá gan của lũ chim sẻ kia lớn hơn, đã dám nhảy lên lòng bàn tay người ta mà mổ gạo ăn. Suốt ngày có tiếng chim sẻ kêu ríu rít, bầu không khí cũng không tịch mịch nữa.

Sau khi ngẫu nhiên nghe thấy cuộc trò chuyện giữa Lăng Dung và Huyền Lăng, trái tim tôi dần trở nên lạnh lẽo, chút nhung nhớ và chờ mong nơi đáy lòng cũng tan biến hoàn toàn. Gặp nhau chẳng bằng không gặp, vậy thì không gặp là tốt nhất. Lăng Dung đương nhiên rất bận, bận hầu hạ thánh giá, bận làm đồ ăn đêm, bận dùng tiếng ca của mình để điểm xuyết cho những buổi ca vũ thanh bình, vì thế sao có thời gian tới khuyên giải tôi như hôm đó nói với Huyền Lăng được. Chỉ thỉnh thoảng nàng ta mới sai Cúc Thanh đưa tới một ít đồ điểm tâm, tỏ ý bản thân vẫn còn nhớ tới người tỷ tỷ bị bệnh là tôi đây.

My Trang tới thăm tôi, thường chỉ lẳng lặng bầu bạn bên tôi suốt hồi lâu, nhìn tôi bằng ánh mắt kì lạ, thần sắc vô cùng phức tạp.

Cuối cùng cũng có một ngày, tôi không kìm được, hỏi: “Sao tỷ tỷ cứ nhìn muội như vậy?”

My Trang khẽ mỉm cười: “Tỷ chỉ đang nghĩ, nếu muội thực sự nguội lòng với Hoàng thượng thì sẽ có bộ dạng thế nào đây?”

Tôi hỏi ngược lại: “Lẽ nào tỷ tỷ cho rằng muội còn chưa nguội lòng với Hoàng thượng sao?”

Tỷ ấy hờ hững nói: “Muội nghĩ sao? Nếu muội đã nguội lòng với Hoàng thượng, tại sao lại còn mãi vùi mình trong cơn bệnh mà không thể tự thoát ra được?”

Tôi im lặng, lát sau mới nói: “Muội thực sự hi vọng không bao giờ gặp lại người nữa.”

My Trang khẽ mĩm cười, sau một thoáng trầm mặc liền lắc đầu nói: “Muội và ta không giống nhau. Tình cảm của ta với Hoàng thượng vốn rất hời hợt, vì thế người mới cấm túc ta, không hỏi han gì tới ta, có như thế ta mới hiểu rõ sự bạc bẽo của người, do vậy, dù về sau được sủng ái trở lại, người cũng chẳng quá quan trọng đối với ta, có cũng được mà không cũng thế, ta chẳng cần quá để tâm.” My Trang nhìn sâu đôi mắt tôi. “Muội và ta thực sự không giống nhau.”

Tôi thấp giọng hỏi tỷ ấy, cũng là hỏi chính mình: “Là vì tình ý của muội với Hoàng thượng nhiều hơn tỷ sao?”

“Nếu muội đã chẳng còn chút tình ý nào đối với Hoàng thượng, vậy thì sẽ giống như ta bây giờ, căn bản sẽ không cảm thấy thương tâm vì những lời người nói, những việc mà người làm.” Tỷ ấy hơi dừng lại một chút, khẽ nói: “Kỳ thực muội cũng biết, Hoàng thượng không phải không có chút tình ý nào với muội.”

Tôi khẽ cười một tiếng, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. “Chỉ là ngoại trừ việc nước, tâm tư của người gần như đã đặt cả lên người Lăng Dung rồi!” Tôi cúi đầu, nhìn những chiếc móng tay để tự nhiên không chút tô điểm của mình, dưới ánh sáng dìu dịu, trông nó nhợt nhạt đến độ gần như trong suốt. Bên ngoài của sổ, mưa rả rích rơi, ý thu càng nồng. Mưa lạnh rơi xuống những phiến lá ngô đồng khô vàng, phát ra những tiếng lộp bộp khe khẽ mà dồn dập. Tôi nói: “Nói thế nào đi nữa thì Lăng Dung cũng từng giao hảo với chúng ta, dù lời nói và việc làm của muội ấy bất nhất, nhưng chẳng lẽ muội lại phải đi tranh sủng với muội ấy? Huống chi Hoàng thượng lại thích muội ấy hơn.”

Đáy mắt My Trang gợn lên một nét cười hờ hững. “Khi được sủng ái, muội đã từng giúp đỡ Lăng Dung, nhưng khi Lăng Dung được sủng ái, muội ấy có giúp đỡ muội chút nào không? Nếu muội ấy giúp muội, muội việc gì phải đi tranh sủng. Nếu muội ấy không giúp muội, chẳng lẽ muội định lặng lẽ chết già trong chốn hậu cung này?” Tỷ ấy khẽ “hừ” một tiếng. “Huống chi Hoàng thượng hôm nay thích muội nhiều hơn, ngày mai lại thích muội ấy nhiều hơn, chưa bao giờ giữ nguyên lập trường. Thứ mà đám nữ nhân bọn ta tranh giành chẳng phải chính là chút tình cảm ít ỏi đó sao? Muội không tranh đồng nghĩa với việc tình cảm mà người dành cho muội sẽ ngày càng ít, rồi cuối cùng, người sẽ hoàn toàn quên mất sự tồn tại của muội ở nơi này.”

Tôi lặng lẽ nhìn những khóm hoa cúc bên ngoài cửa sổ bị nước mưa xối vào, trở nên mục rữa, tối đến gió mạnh, khắp sân hoa vàng chất đống, tiều tụy thảm thương [2], ấy không chỉ là Lý Dị An, cũng là Chân Hoàn tôi nữa. Huống chi, Dị An còn có Triệu Minh Thành [3] để mà nhớ nhung, còn tôi, nếu nhớ tới quãng thời gian tươi đẹp ngày ấy thì phải kèm theo sự thất vọng và thương tâm tới tột cùng.

[2] Trích Thanh thanh mạn – Tầm Tầm mịch mịch, Lý Thanh Chiếu (Dị An cư sĩ). Phiên âm Hán Việt: Mãn địa hoàng hoa đôi tích, tiều tụy tốn – ND.

[3] Chồng của Lý Thanh Chiếu – ND.

Có lẽ đúng như lời My Trang nói, quả thực tôi chưa hoàn toàn nguội lòng với Huyền Lăng. Nếu đã hoàn toàn nguội lòng thì sự thất vọng và thương tâm kia cũng không thể khiến tôi đau khổ đến thế.

My Trang nói: “Muội có lòng thương Hoàng thượng, có sự khát khao với tình cảm nên mới khó chịu, mới để tâm tới việc người thích ai như thế. Nếu muội không hề yêu Hoàng thượng thì sẽ không thương tâm, mà chỉ một lòng tranh đoạt tình cảm của người. Người không có tình cảm sẽ không lãng phí thời gian vào sự khó chịu vô bổ này đâu.”

Tôi khẽ cười ngơ ngẩn. “Tỷ tỷ, muội ngốc quá phải không? Lại đi mong mỏi có được tình yêu thuần túy trong chốn hậu cung này, hơn nữa còn ôm nỗi chờ mong với đấng quân vương chí cao vô thượng của chúng ta.”

My Trang thoáng trầm tư, đôi môi mím chặt tạo thành một đường cong rất đẹp, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: “Nếu ta cũng ngốc như muội thì sao?” Tỷ ấy ngoảnh đầu đi, nỗi buồn thương lan tỏa như làn nước, đoạn khẽ cười. “Có lẽ ta còn ngốc hơn muội nnữa. Trên thế gian này có một người còn ngốc hơn muội, đó chính là ta.” Tôi kinh ngạc nhìn My Trang, có lẽ My Trang của lúc này đã không còn là My Trang mà tôi đã từng biết. Có lẽ trong khoảnh khắc nào đó, tỷ ấy đã có những sự thay đổi nhất định, còn tôi lại không hề phát hiện.

Tôi bước tới, nắm lấy bàn tay My Trang, khẽ gọi: “Tỷ tỷ?”

My Trang nói: “Hoàn Nhi, muội có thể thương tâm, nhưng đừng thương tâm quá lâu, người thương tâm trong chốn hậu cung này đã quá nhiều rồi, muội đừng biến mình thành một người trong số đó.” Tỷ ấy đứng dậy, tà váy dài thướt tha quét trên mặt đất, tựa như đóa hoa còn đang hé nở, sau cùng, tỷ ấy ngoảnh đầu, nói: “Nếu muội cứ thương tâm như vậy thì muội mãi mãi chỉ có thể là một người thương tâm mà thôi!”

Cả ngày nằm lì trên giường, ngoài trời lại mưa dầm dề rả rích nên tôi cũng lười chẳng muốn đứng dậy, dù sao dạo này, trong cung cũng chẳng có mấy ai đoái hoài đến tôi. Hôm ấy, đang nằm buồn chán trên giường, tôi chợt nghe nói có Nhữ Nam Vương phi Hạ thị đến chơi.

Tôi thầm cảm thấy ngạc nhiên, vì giữa tôi và cô ta chẳng qua chỉ có duyên gặp mặt một lần, mà phu quân của cô ta lại là người đứng sau lưng Mộ Dung Phi. Hiện giờ tôi đã bị ghẻ lạnh như vậy, sao cô ta còn đến thăm một phi tần vừa thất sủng vừa ôm bệnh làm gì? Nhưng khi tôi đang định cho người đi thoái thác không gặp, Hạ thị đã tự mình bước vào.

Cô ta nở nụ cười hòa nhã rồi ngồi xuống ngay bên cạnh tôi, nói: “Hôm nay ta vốn vào cung để thỉnh an Thái hậu, lại vừa đi bái kiến Hoàng hậu, vô tình nghe nói thân thể nương nương không được khỏe, do đó mới đặc biệt tới đây thăm nương nương.”

Tôi vuốt qua mặt một cái, trong lúc bệnh tật, không thể trang điểm, khí sắc đương nhiên rất kém, bèn không ngồi dậy nữa, quay đầu qua nói: “Đã khiến Vương phi chê cười rồi, ta đang mang bệnh trong người, vốn không thể gặp khách, chẳng ngờ Vương phi đột nhiên tới đây, thật thất lễ!”

Cô ta cũng không nói gì, chỉ thoáng liếc nhìn chiếc bụng phẳng lì bên dưới lớp chăn nhung của tôi, ngoảnh đầu qua một bên, khẽ thở dài một tiếng. Động tác tinh tế này của cô ta khiến trái tim tôi bất giác nhói đau. Cô ta nói: “Mới chỉ ba, bốn tháng không gặp Quý Tần nương nương, vậy mà…”

Tôi gượng cười một tiếng: “Đa tạ Vương phi quan tâm.”

Trong lòng tôi kỳ thực khá kiêng dè cô ta, vì dù sao phu quân của cô ta cũng là người cùng phe với Mộ Dung Phi, thế nên chỉ nói với cô ta những lời khách sáo. Cô ta cũng không ngồi lâu, đoạn nói: “Xin nương nương hãy giữ gìn thân thể cho tốt.” Trước lúc đi còn chỉ tay lên bàn. “Hộp nhân sâm trăm năm này là một chút tâm ý của thiếp thân, mong nương nương nhận lấy mà bồi bổ thân thể.”

Tôi đưa mắt liếc qua, nói: “Đa tạ ý tốt của Vương phi!”

Hạ thị khẽ mỉm cười, quay đầu, nói: “Nếu trong lòng nương nương có điều kiêng kị, cứ vứt nó đi cũng không sao.”

Nghe cô ta nói vậy, tôi cũng đành đáp lại: “Sao có thể chứ? Vương phi cả nghĩ rồi!” Thế nhưng, đợi sau khi cô ta rời đi, tôi cũng chỉ có thể đem bỏ thứ đó vào một xó mà thôi.

Lại hai ngày nữa trôi qua, cơn mưa rả rích suốt nửa tháng trời rốt cuộc đã tạnh vào độ hoàng hôn. Sau cơn mưa, những giọt nước trong veo rớt từ trên cây xuống, bầu không khí ngập tràn một sự thuần khiết và ngọt ngào mà lâu lắm rồi mới lại xuất hiện.

Vầng trăng từ từ lên cao qua ngọn liễu đằng đông, cong cong như một chiếc lưỡi liềm màu bạc, tựa như hàng lông mày mảnh mai, đẹp đẽ của một nữ tử. Tâm trạng tôi đang tốt, liền cho người lấy cây đàn Trường tương tư tới, ngồi gảy giữa sân ngay dưới ánh trăng, thực cũng là một việc hết sức thanh nhã.

Từ khi đổ bệnh đến giờ, tôi rất ít khi nổi hứng như vậy, ý niệm này vừa dấy lên, mấy người Hoán Bích, Lưu Chu lý nào lại không hiểu tôi cơ chứ. Tôi ngồi cúi đầu gảy đàn, những ngón tay lướt đi vô tâm nhưng lại để lộ mối tâm sự mà bản thân bấy lâu nay ẩn giấu.

Hoa ngậm khói sắc trời sắp tận, trăng giăng tơ lòng ngẫm sầu mang. Đàn Triệu ngừng khúc Phượng Hoàng, muốn ôm đàn Thục uyên ương góp lời. Đàn ý hay không ai lưu giữ, gửi gió xuân đến xứ Yên Nhiên. Non Yên đâu chẳng tới miền, nhớ chàng thăm thẳm đường lên tới trời. Ánh mắt xưa lả lơi làn sóng, mà nay thành suối nóng lệ tuôn. Chẳng tin lòng thiếp đậm buồn! Chàng về mà ngắm đáy gương, hỡi chàng! [4]

[4] Trích bài Trường tương tư II của Lý Bạch, dịch thơ: Lại Quảng Nam. Phiên âm Hán Việt: Nhật sắc dục tẫn hoa hàm yên, nguyệt minh như tố sầu bất miên. Triệu sắt sơ đình phượng hoàng trụ, thục cầm dục tấu uyên ương huyền. Thử khúc hữu ý vô nhân truyện, nguyện tùy xuân phong ký yến nhiên. Ức quân điều điều cách thanh thiên, tích nhật hoành ba mục, kim vi lưu lệ tuyền. Bất tín thiếp tràng đoạn, quy lai khán thủ minh kính tiền – ND.

Lý Bạch nổi danh tiêu sái, phóng khoáng mà cũng có lúc tương tư da diết đến thế này ư? Nhưng thứ mà ông nhung nhớ liệu có giống tôi, cũng là một mảnh ký ức đắng chát xen lẫn mấy tia ngọt ngào? Những bông hoa hạnh ở Thượng Lâm uyển ngày đó, cuộc gặp gỡ mê ly độ nào, dù nơi đáy lòng có thương tâm tột độ, tôi cũng không thể nào quên. Dù sao hôm nhìn thấy y bước ra từ giữa khóm hoa hạnh ngập trời, đó cũng là lần đầu tiên lòng tôi biết xao động trước một đấng nam tử.

Ánh mắt xưa lả lơi làn sóng, mà nay thành suối nóng lệ tuôn, nước mắt có rơi hay không chính là điều đang làm tim tôi khó xử.

Cây đàn của Thư Quý phi có tên là Trường tương tư, tôi không kìm được thầm nghĩ, trong chốn cung đình thuở xưa, giữa độ đêm xuân sáng tỏ, hoa thắm trăng tròn, tiếng đàn của bà và tiếng tiêu Trường tương thủ của tiên đế chan hòa, ấy sẽ là một khung cảnh tươi đẹp đến nhường nào?

Nỗi tương tư ấy chắc cũng giống với nỗi tương tư của tôi bây giờ, vừa tan nát lại vừa không đành lòng nhớ lại. Chỉ đáng tiếc, trước giờ, trong cung chỉ có một vị Thư Quý phi, cũng chỉ có một vị tiên đế.

Lòng đang buồn bã, ngón tay tôi lướt nhẹ trên dây đàn nhưng cũng chỉ có thể gảy được nửa đầu của khúc nhạc, nửa cuối thì không sao có thể gảy tiếp.

Đang định ngưng tiếng đàn, đằng xa chợt thấp thoáng vọng lại tiếng sáo, thổi nốt nửa khúc còn lại của bài Trường tương tư.

Nhớ nhau đau đáu! Ngụ tại Trường An! Dế thu miệng giếng gáy ran, sương rơi bao lớp âm hàn chiếu tre. Đèn mờ, ruột thắt gan se, vén màn trăng ló e dè thầm than. Mỹ nhân! Hoa cách mấy ngàn tầng mây! Ngước lên trông trời tây biêng biếc, cúi xuống nhìn sóng nước mông lung. Hồn bay trời rộng hãi hùng, mộng hồn khó đến ngàn trùng quan san. Nhớ nhau đau đáu! Hiu hắt tim gan! [5]

[5] Trích bài Trường tương tư I của Lý Bạch, dịch thơ: Lại Quảng Nam. Phiên âm Hán Việt: Trường tương tư, tại Trường An. Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan, vi sương thê thê điệm sắc hàn. Cô đăng bất minh tư dục tuyệt, quyển duy vọng nguyệt không trường thán. Mỹ nhân như hoa cách vân đoan, thượng hữu thanh minh chi trường thiên, hạ hữu lục thủy chi ba lan. Thiên trường địa viễn hồn phi khổ, mộng hồn bất đáo quan sơn nan. Trường tương tư, tồi tâm can – ND.

Ở khoảng cách khá xa, tiếng sáo ấy vang lên nhẹ nhàng mà mờ mịt, như có như không, vô cùng động lòng người. Tôi hỏi người bên cạnh xem có nghe thấy tiếng sáo đó không, nhưng bọn họ đều tỏ ra ngơ ngẩn, nói không nghe thấy gì. Tôi cơ hồ đã hoài nghi rằng mình nghe nhầm, nhưng lúc đưa mắt ngó qua bên cạnh, lại thấy vẻ mặt say mê của Hoán Bích, không kìm được cả mừng hỏi: “Ngươi cũng nghe thấy đúng không?”

Hoán Bích quả nhiên đang lắng nghe rất chăm chú, lát sau mới phản ứng lại, khẽ “a” lên một tiếng, nói: “Hình như rất giống với khúc nhạc mà nương nương vừa đàn thì phải!”

Khúc nhạc Trường tương tư mà tôi đàn rốt cuộc đã sa đà vào sự thê lương nên chẳng còn mối tương tư khắc cốt ghi tâm kia nữa. Lúc này, nghe thấy người đó thổi sáo, tình cảm bên trong rõ ràng là hơn tôi gấp bội lần.

Tôi bất giác đứng dậy, đi ra cạnh cửa, lắng nghe một hồi. Tiếng sáo đó xa thẳm, trong veo, du dương réo rắt, xoay chuyển luân hồi, giữa màn đêm tĩnh lặng hệt như một nét ôn hòa của ngày xuân, khiến tâm trạng người ta thoải mái hơn nhiều.

Tôi quay về, ngồi xuống bên cạnh cây đàn, hai tay thuần thục lướt nhẹ, những âm sắc tròn đầy trong trẻo vang lên từ dưới ngón tay, trong khúc nhạc đã có thêm ba phần nhớ nhung da diết.

Tiếng sáo bên kia dường như đã gần lại đôi chút, tôi có thể nghe thấy rõ ràng hơn. Nương theo làn điệu của tiếng sáo, tôi thay đổi tiếng đàn của mình, cố gắng làm nên một bản nhạc đàn sáo hòa tấu, tâm tư cũng vì thế mà tập trung vào việc giữ sự hài hòa, tạm quên đi những nỗi niềm không vui tích lũy trong lòng bấy lâu. Tiếng đàn triền miên uyển chuyển, tiếng sáo trong trẻo du dương, kết hợp tạo nên một khúc nhạc tuyệt vời, nhất thời, ngay đến ánh trăng cũng như ngừng chuyển động. Hai làn âm thanh chan hòa dưới áng mây mờ, vang lên giữa làn gió thu đìu hiu, dịu nhẹ, khiến lòng người xao động rung rinh.

Khúc nhạc kết thúc, Cận Tịch cười, nói: “Lâu lắm rồi nô tỳ mới được nghe lại tiếng đàn tuyệt diệu của nương nương.”

Tôi hỏi: “Các ngươi vẫn không nghe thấy tiếng sáo sao?”

Cận Tịch hơi nghiêng đầu, nàng ta đáp: “Vừa rồi hình như có nghe thấy một chút, nhưng rất mơ hồ, không rõ ràng lắm.”

Tôi không nghĩ ngợi nhiều, nói: “Không biết trong cung có vị nương nương, tiểu chủ nào lại thổi sáo hay như vậy?” Sau đó nhẹ nhàng đứng dậy. Hoán Bích sớm đã cầm sẵn áo choàng trên tay, trong mắt đầy vẻ mong chờ. Tôi hiểu ý của nàng ta, hỏi: “Ngươi bị tiếng sáo đó làm cho rung động rồi phải không?”

Hoán Bích bất giác mỉm cười: “Nương nương có muốn ra ngoài đi dạo không?”

Phía bên ngoài, ánh trăng trải dài tới dãy hành lang quanh co, uyển chuyển. Cổ nhân đạp tuyết tầm mai, ngửi hương mà đi, còn tôi thì nghe tiếng mà đi tìm người thổi sáo, thứ có thể dựa vào cũng chỉ có một làn âm thanh trong trẻo, sâu thẳm kia. Tôi và Hoán Bích cùng cất bước dưới ánh trăng dìu dịu, càng đi càng xa.

Sâu trong dãy hành lang, một nam tử mặc đồ màu trắng, cầm một cây sáo tím trong tay, hơi ngẩng đầu ngắm trăng, khẽ thổi. Trông dáng vẻ y hết sức an nhàn, thư thái, tựa người vào hàng lan can hóng gió đêm, dường như đang đắm mình vào khúc nhạc.

Sau khi đã nhìn rõ người đó là ai, tôi bất giác sững người, biết chuyện bất ổn, liền liếc mắt nhìn qua phía Hoán Bích, thấy nàng ta cũng tỏ ra rất bất ngờ. Tôi vốn định dừng bước không đi tiếp nhưng nghĩ lại, trong lúc tôi gặp nạn, y cũng từng có ân nghĩa với tôi.

Chậm rãi bước về phía trước, tôi khẽ gật đầu, tỏ ý chào y. Hoán Bích nhìn thấy y cũng bước tới khom người hành lễ. Tôi thoáng có chút ngạc nhiên, không ngờ Hoán Bích lại chỉ hành lễ theo lối bình thường. Tôi còn chưa kịp nghĩ nhiều, Hoán Bích đã hiểu chuyện mà rảo bước rời đi.

Ánh mắt của Huyền Thanh dừng trên mặt tôi một thoáng rồi nhanh chóng rời đi, y chỉ khẽ nói: “Nàng gầy đi nhiều quá!”

Tôi khẽ mỉm cười. “Lúc này rèm cuốn gió tây, người đọ hoa vàng võ [6] cũng là lẽ thường tình.”

[6] Trích Túy hoa âm – Bạc vụ nồng vân sầu vĩnh trú của Lý Thanh Chiếu. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Phiên âm Hán Việt: Liêm quyển tây phong, nhân tỷ hoàng hoa sấu – ND.

Ánh mắt y thoáng qua chút tiếc thương nhẹ nhàng. Tôi của bây giờ thực sự không chịu nổi mà cũng không nhận nổi ánh mắt nào như thế nữa, vì thế, tôi bèn lùi lại hai bước, chỉnh sửa trang phục, nghiêm túc nói: “Ngày đó, Vương gia cao nghĩa giúp bản cung giữa lúc nguy nan, bản cung khắc cốt ghi tâm, vô cùng cảm kích!”

Y nghe tôi nói vậy thì bất giác ngẩn ra, trong mắt lóe lên vài tia sáng. “Quý tần nhất định phải vạch rõ ranh giới với Thanh như vậy hay sao? Đáng tiếc ngày đó vẫn không thể bảo vệ được đứa bé trong bụng Quý tần.”

Mọi người đều biết Thanh Hà Vương xông vào Mật Tú cung cứu tôi chẳng qua vì tôi là sủng phi của Huyền Lăng, cứu tôi cũng là để xu nịnh Huyền Lăng mà thôi. Do đó, vào dịp sinh nhật tôi, y mới chịu thêu hoa trên gấm [7], về sau lại tặng than giữa trời tuyết rơi [8]. Nói cho dễ nghe một chút thì cũng chỉ là vì đứa bé trong bụng tôi mà thôi. Nhưng chỉ có tôi biết rõ nhất, y xông vào Mật Tú cung không phải chỉ vì như vậy. Nhưng dù sao đi nữa, giữa chốn hoàng cung này cũng chỉ có một mình y chịu trượng nghĩa giúp tôi.

[7] Thành ngữ, ý nói sự vật vốn đã đẹp rồi, lại tô điểm cho càng đẹp hơn – ND.

[8] Thành ngữ, ý nói cứu giúp người ta trong cơn hoạn nạn – ND.

Tôi thản nhiên cười, nói: “Tuy bây giờ bản cung đã thất sủng nhưng quyết không phải hạng người vong ân bội nghĩa. Ngày sau nếu Vương gia có việc cần, bản cung cũng sẽ toàn lực trợ giúp.”

Y bật cười. “Nghe nàng tự xưng là ‘bản cung’ như vậy, quả thực kỳ quặc quá chừng!” Rất nhanh sau đó, y đã nghiêm túc nói: “Thanh trợ giúp Quý tần không phải là để trao đổi.”

Tôi khẽ gật đầu. “Có lẽ đối với ta mà nói, trao đổi sẽ an toàn hơn một chút.”

Y nói: “Chỉ mong Thanh có thể là ngoại lệ. Thanh cũng hy vọng Quý tần được bình yên, vì… Thanh coi Quý tần như người tri kỷ.” Y thoáng dừng lại. “Chốn này hoang vắng, sao Quý tần lại tới đây?”

Tới lúc này, tôi mới khẽ cười, chỉ tay vào chiếc sáo tím trong tay y. “Vương gia cho rằng người gảy đàn vừa rồi là ai?”

Y mỉm cười vẻ thấu hiểu. “Thanh đoán bậy người ấy có lẽ là Quý tần.”

Tôi cười, nói: “Vương gia có tin trên thế gian này có chuyện tâm ý tương thông không?” Tôi nói những lời này bằng giọng rất nhẹ nhàng nhưng bên trong lại ẩn chứa đầy sự sắc bén.

Bóng dáng cô độc của y đứng giữa ánh trăng lạnh lẽo mà thuần khiết, những đường nét tuấn tú lại càng làm tăng thêm sự dịu nhẹ, hiền hòa. Y không hề phát hiện ra dụng ý của tôi, nghiêm túc đáp: “Thanh tin!”

Thấy y nghiêm túc và thành khẩn như vậy, tôi bất giác có chút áy náy, hà cớ gì nhất định phải bắt y nói ra? Thế nhưng lời đã ra khỏi miệng, không thể không tiếp tục: “Cho nên Vương gia mới biết được việc ta bị nạn trong Mật Tú cung, mới có thể kịp thời tới cứu ta.”

Lời này có chút gay gắt nhưng y vẫn thản nhiên đáp: “Kỳ thực…”

Tôi ngoảnh đầu qua, khẽ nói: “Ta biết Vương gia làm vậy là vì muốn tốt cho ta, nhưng lén lút đi lại thường xuyên với thị nữ hầu cận của ta không phải là việc hay, nếu bị đồn ra ngoài, ắt chẳng ích lợi gì cho Vương gia.”

Trong mắt y thoáng qua một nét mừng vui. “Đa tạ Quý tần nhắc nhở!”

Tôi thầm cảm kích sự thấu hiểu của y, trái tim như vừa được một bàn tay rất mực dịu dàng nhẹ nhàng vuốt qua, nhưng ngoài miệng thì vẫn cất tiếng đùa: “Kỳ thực cũng không có gì, nếu lỡ bị người ngoài phát hiện, ta sẽ thuận nước dong thuyền đem tặng nàng ta cho Vương gia làm thiếp.”

Y khẽ ho một tiếng, chăm chú nhìn tôi. “Nếu Quý tần chỉ đùa thôi thì không sao nhưng nếu đó là những lời thật lòng, Thanh cũng chỉ đành không hiểu phong tình thôi.”

Tôi đưa tay áo lên che miệng, khẽ cười, suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Đêm nay tại sao Vương gia lại xuất hiện ở đây?”

Y đáp: “Hoàng huynh mở tiệc đêm, các thân vương quý tộc đều có mặt.”

Tôi bất giác bật cười: “Vương gia lại trốn khỏi bữa tiệc sao?”

Y cũng cười: “Đây là việc bình thường thôi mà!” Do dự một lát, y hỏi: “Hình như ta đã gặp vị An Tiểu viện ngồi cạnh Hoàng thượng hôm nay ở đâu rồi.”

Tôi khẽ đáp: “Chính là An Mỹ nhân trước đây.”

Bàn tay y vô thức bám lên hàng lan can loang lổ vết sơn màu đỏ. “Vậy sao? Tiếng ca của An Tiểu viện đã tiến bộ hơn nhiều, duy chỉ có điều tiếc nuối là nàng ta đã đánh mất phong thái của riêng mình.”

Tôi thản nhiên nói: “Thứ Hoàng thượng thích mới là quan trọng nhất, chẳng phải sao?”

Dường như y đang nghiền ngẫm từng lời của tôi, sau một thoáng, y bèn ngẩng đầu qua nhìn tôi, nhẹ nhàng nói: “Tiếng đàn vừa rồi đã tiết lộ tâm sự của nàng.”

Tôi cúi đầu, gió đêm thổi tới, khiến tà áo của tôi khẽ tung bay. Tôi quả thực gầy đi rất nhiều, ống tay áo vốn đã rộng nay càng thêm rộng, gió cứ thế lùa vào lạnh buốt. Tôi thấp giọng biện bạch: “Chẳng qua cũng chỉ là một khúc nhạc mà thôi!”

Y nói: “Nhạc tỏ lòng người, với nàng là vậy, với ta cũng vậy.”

Lòng bất giác nhói đau, tôi nhớ đến ý vị trong bài Trường tương tư, hai mắt chợt cay sè. Thế nhưng tôi không muốn rơi lệ trước mặt y thêm lần nữa, bởi tôi biết một khi mình rơi lệ, người thương tâm sẽ không chỉ có mình tôi. Thế là tôi bèn ngẩng lên, cố ngẩng đầu thật cao, đẩy hết nước mắt trôi ngược, nhờ thế mới miễn cưỡng duy trì được một nụ cười nhàn nhạt.

Y chăm chú nhìn tôi, trong mắt ánh lên những tia thương cảm, bàn tay bất giác từ từ đưa tới, dường như muốn khẽ ve vuốt mái tóc của tôi. Tôi sững người, nơi đáy lòng trào dâng một nỗi sợ hãi lớn lao, cảm thấy bốn phía xung quanh thật quá tĩnh lặng. Bên cạnh là một gốc hoa quế, thỉnh thoảng lại có làn gió thổi tới, tôi gần như có thể nghe thấy rõ ràng tiếng hoa quế nhè nhẹ chạm đất. Ánh trăng hôm nay không sáng lắm, thế nhưng những tia sáng dịu dàng ấy khi đậu xuống tóc mai của tôi lại làm ánh lên những tia đen nhánh mà lạnh lẽo, ngăn cản tình cảm dịu dàng của y đối với tôi. Tôi bất chợt cả kinh, cả đời cả kiếp này của tôi, từ thân thể đến mái tóc, làn da sớm đã theo thân phận của tôi mà thuộc về Huyền Lăng mất rồi. Nghĩ đến đây, sắc mặt tôi bất chợt đờ ra.

Y cũng hiểu thế, bàn tay dừng lại cách mái tóc tôi một tấc, thân thể cứng đờ.

Tôi nhanh chóng xoay người lại, không nhìn y thêm nữa nhưng bầu không khí vẫn trở nên hết sức gượng gạo. Tôi tùy ý tìm một chủ đề: “Đây là nơi nào vậy? Không ngờ lại hoang liêu đến thế.”

Y cách tôi hơi xa, giọng nói nghe có chút mơ hồ: “Đây là Phật đường của Chiêu Hiến Thái hậu khi xưa.” Thoáng dừng lại một chút y nói tiếp: “Ngày trước mẫu phi của ta đã bị phạt quỳ tại đây.”

Chiêu Hiến Thái hậu là mẹ cả của Tiên đế Long Khánh đế, mẹ ruột của Tiên đế là Chiêu Tuệ Thái hậu đã qua đời từ sớm, Tiên đế từ nhỏ đã được Chiêu Hiến Thái hậu nuôi dưỡng, tình cảm giữa hai bên vốn luôn tốt đẹp. Về sau, Thư Quý phi vào cung, hai mẹ con vì thế mà gần như trở mặt. Không lâu sau, Tiên đế điều tra ra cái chết của Chiêu Tuệ Thái hậu là do Chiêu Hiến Thái hậu sắp đặt, tất cả cũng chỉ muốn đoạt lấy Tiên đế nhằm giữ ngôi Thái hậu. Sau khi Chiêu Hiến Thái hậu qua đời, Tiên đế hạ lệnh chỉ cho bà dùng hiệu Thái hậu, linh vị không được đặt vào Thái miếu, quan tài không được đưa vào Hoàng Lăng, chỉ cho phép táng ở lăng phi tử, cũng không có tên thụy, hậu thế không được truy tặng tên hiệu. Nơi ở của Chiêu Hiến Thái hậu vì thế mà trở nên hoang vu, không cung nữ nào rảnh rang tới dọn dẹp.

Đêm dần về khuya, con quạ gáy xám đậu trên cây đột nhiên kêu lên một tiếng quái dị, phá tan sự tịch mịch vốn có. Cuối thu, sương nặng hạt, bất giác đã thấm ướt vạt váy và ống tay áo của tôi. Tôi xoay người rời đi, đồng thời cất tiếng: “Hoàng thượng mở tiệc, Vương gia không nên ra ngoài quá lâu, dù gì như thế cũng không hợp với lễ nghi.”

Y khẽ gật đầu, chậm rãi thổi một khúc nhạc thanh thoát để tiễn chân tôi. Nhạc điệu vốn vui vẻ nhưng lọt vào tai tôi lại có cảm giác tịch mịch vô cùng, tà váy của tôi lướt đi trên mặt đất kéo theo những hạt bụi vương đầy, dường như còn mang theo một số thứ gì khác nữa. Mặt tôi bỗng có cảm giác âm ấm, rất giống cái cảm giác ấm áp và ẩm ướt ngày hôm đó, khi tôi đang hôn mê, nước mắt của y rơi xuống gò má tôi, đến bây giờ, dường như cảm giác ấy vẫn còn ẩn hiện trong đầu. Mãi đến lúc đi tới chỗ rẽ đằng xa, tôi mới liếc nhìn y, thấy y vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, chỉ dùng tiếng sáo để tiễn chân tôi, nơi đáy mắt dường như còn thoang thoảng nét sầu, tôi chắc chắn rằng mình không thể nhìn nhầm được.

Đường trong vĩnh hạng dài mà lạnh lẽo, có sự ngăn cản của hai bức tường cao vút hai bên nhưng tôi vẫn có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng ca múa tưng bừng mà làn gió lạnh đưa tới từ tiền điện. Tôi và Hoán Bích chậm rãi bước đi, hai cái bóng rất dài dường như hòa làm một, in xuống con đường lát đá xanh trong vĩnh hạng, chẳng khác gì một người.

Tôi ngẫm nghĩ xem nên lựa lời thế nào mà mở miệng, cuối cùng vẫn đưa ra quyết định hỏi thẳng: “Muội và Lục Vương gia bắt đầu qua lại với nhau từ bao giờ?”

Hoán Bích cả kinh, nhất thời nghẹn lời, hoang mang định quỳ xuống. Tôi vội đỡ lấy Hoán Bích, nói: “Bây giờ là trưởng tỷ đang hỏi chuyện muội, muội bằng lòng nói thì nói, không bằng lòng thì thôi.”

Nàng ta cúi đầu, thưa: “Muội không cố ý giấu trưởng tỷ đâu.”

Tôi nói: “Có phải bắt đầu từ hôm sinh nhật ta không?” Thấy Hoán Bích im lặng, tôi lại nói: “Chẳng trách khi đó muội nhất định không chịu để ta tới hồ Thái Dịch bơi thuyền, chắc hẳn y đã nhắc nhở muội phải để ta có được một niềm vui bất ngờ rồi.” Tôi đưa mắt nhìn nàng ta, nói tiếp: “Vậy ngày đó, khi ta bị nhốt trong Mật Tú cung, chính muội đã đi cầu cứu Lục Vương gia đúng không?”

Hoán Bích khẽ gật đầu. “Cận Tịch cô cô phải ở trong Mật Tú cung với trưởng tỷ, tất nhiên không tìm được cơ hội thoát thân được rồi. Khi đó, Thái hậu đang bệnh nặng, trong cung không một ai có thể làm chủ cho trưởng tỷ, muội đành bạo gan đi tìm Vương gia!”

“Vậy sau đó, bọn muội còn qua lại với nhau mấy lần nữa?”

“Chỉ có hai lần, một lần là sau khi trưởng tỷ mang thai, còn lần nữa là hai ngày trước. Vương gia khi đó cũng không nói gì, chỉ dặn dò muội phải chăm sóc cho trưởng tỷ thật tốt.”

Tôi khẽ buông tiếng thở dài. “Y cũng coi như là có lòng rồi!”

Hoán Bích nói: “Sao hôm nay đột nhiên trưởng tỷ lại hỏi tới chuyện này? Có phải Vương gia nói gì với trưởng tỷ không?”

Tôi khẽ lắc đầu. “Không phải thế. Chỉ vì ban nãy, khi nhìn thấy Lục Vương gia, muội chỉ hành lễ theo lối bình thường, nếu không phải thường ngày từng lén gặp, khi đột nhiên nhìn thấy y, đáng lẽ muội phải hành đại lễ mới đúng.”

Hai má Hoán Bích đỏ bừng, nói: “Đúng là muội đã sơ suất.”

Tôi thấp giọng dặn dò: “Ta bây giờ đang ở trong tình huống tiến thoái lưỡng nan, nếu muội và Vương gia qua lại quá nhiều, ắt sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho Vương gia và chúng ta, chớ nên lén gặp y nữa.”

Hoán Bích thoáng trầm ngâm rồi thưa: “Vâng!”

Vĩnh hạng vô cùng tịch mịch, chú ý lắng tai còn có thể nghe thấy tiếng loạt soạt của tà váy quét trên mặt đất. Tiếng ca ở tiền điện được làn gió thổi tới, nghe trong trẻo mà mềm mại, đó là giọng ca của Lăng Dung. Tôi dừng chân lắng nghe một chút, khẽ cười ngơ ngẩn, cuối cùng dắt tay Hoán Bích quay về.

Giữa buổi đêm ở chốn hoàng cung vừa tịch mịch lại vừa náo nhiệt, là ai gảy đàn, thổi tan làn sương mù mờ mịt mông lung, là ai ca hát, làm nẩy lên bông tuyết giữa nơi rèm vàng màn ngọc?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách